Khái niệm
Đầu thống trong các y thư cổ đại có các tên là “Chân đầu thống”, “Não thống”. Như Linh khu – thiên Quyết bệnh viết: “Chân đầu thống là đau đầu nặng, lan tỏa cả não, chân tay lạnh tới đốt xương, chết không chữa được”. Sách Trung tàng kinh nói: “Bệnh Não thống mạch Hoãn mà Đại thì chết”. Có thể thấy đây là nói hai chứng “Chân đầu thống” và “Não thống” là chỉ một chứng hậu nghiêm trọng của đầu thống.
Lại còn có các tên “Thủ phong”, “Não phong”, “Đầu phong” đều có ngụ cả chứng trạng đầu thống, như Tố vấn
- Phong luận có viết: “Chứng trạng của đầu phong, đầu và mặt nhiều mồ hôi, sợ gió thường là trước khi bị gió một ngày bị đau kịch liệt, đau đến nỗi không ăn uống được”. Đời sau phần nhiều đem hai chứng “Đầu phong” và “Não phong” coi như một loại đầu thống. Kỳ hiệu lương phương
- Đầu thống lại viết: “Nhiễm tà khí mà người ta đau đầu đó là bởi tà khí, nhưng có chia ra bệnh mới bệnh cũ, tà đã rút hoặc tà còn lưu đọng khác nhau… bệnh sâu nặng mà ở vị trí xa là chứng Đầu phong, loại đau này lúc phát lúc ngưng bất thường, sau khi khỏi nếu bị xúc động thường tái phát”. đầu thống có thể xuất hiện trong nhiều loại tật bệnh cấp tính và mạn tính đó là chứng trạng rất thường gặp trong lâm sàng, ở mục này chỉ giới thiệu Đầu thống được coi là chủ chứng.
Phân tích
Chứng hậu thường gặp
- Đầu thống do ngoại cảm phong hàn: Có triệu chứng khi đau đầu lan tỏa tới gáy và lưng hoặc có cảm giác căng tức, gặp gió lạnh thì đau tăng, ưa đội mũ, sợ lạnh phát sốt, khớp xương đau mỏi, không khát nước, rêu lưỡi vàng mỏng mạch Phù Khẩn.
- Đầu thống do ngoại cảm phong nhiệt: Có chứng đầu trướng mà đau, gặp nóng thì bệnh tăng, phát nhiệt Ố phong, mặt mắt đỏ hồng, họng sưng đau, miệng khô mà khát, đầu lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch Phù Sác.
- đầu thống do ngoại cảm phong thấp: Có chứng đầu nặng như bị bọc, hôn trầm, đau nhức, gặp trời mưa thì đau tăng, vùng ngực khó chịu, bụng đầy kém ăn, chân tay nặng nề nhức mỏi có khi tiểu tiện ít, đại tiện nhão, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Nhu hoặc Hoạt.
- đầu thống do Can dương thượng cang: Có chứng đầu choáng váng mà đau nghiêng về hai bên đầu hoặc lan toa Trên đỉnh đầu, phiền táo, dễ cáu giận, cáu giận thì bệnh tăng, tai ù mất ngủ, đôi khi đau sườn, miệng khô mặt đỏ, lưỡi hồng ít rêu hoặc rêu lưỡi vàng mỏng, mạch Huyền hoặc Tế Sác.
- Đầu thống do trung khí hư yếu: Có chứng đầu não chống chếnh mà đau, mệt mỏi thì đau tăng, mình nằm co, vô lực, ăn uống kém, đoản hơi, đại tiện nhão, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Hư vô lực.
- Đầu thống do huyết hư âm khuy: Có chứng đau đầu âm ỉ, đầu choáng hồi hộp ít ngủ, mắt hoa và khô rít, sắc mặt nhợt, môi lưỡi nhợt, mạch Tế mà Nhược.
- Đầu thống do ứ huyết ngăn trở đường lạc: Có chứng nơi đau cố định lâu ngày không khỏi, đau như dùi đâm hoặc đã từng bị chấn thương vùng đầu, chất lưỡi sắc tía, mạch Tế sắc hoặc Trầm sắc.
- Đầu thống do đờm trọc che lấp ở trên : Có chứng đầu âm u và đau choáng váng, ngực bụng bĩ đầy, nôn ọe ra đờm dãi, kém ăn, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Huyền Hoạt.
Phân tích
– Chứng Đầu thống do ngoại cảm phong hàn với chứng Đầu thống do ngoại cảm phong nhiệt và Đầu thống do ngoại cảm phong thấp: cả ba đều thuộc đầu thống do ngoại cảm. Trong các loại ngoại tà thì phong tà là thường gặp nhất. Lan thất hí tàng – Đầu thống môn có viết: “Phong tà phía trên thường bị trước”, “ở nơi cao nhất của cơ thể chỉ có phong là đi tới”. Vì vậy ngoại cảm đầu thống thường do phong tà gây bệnh nhưng phong tà thường kiêm hàn, kiêm nhiệt, kiêm thấp cho nên chứng bệnh cũng có chỗ khác nhau.
+ Chứng Đầu thống do ngoại cảm phong hàn: Là do tà khí phong hàn gây nên cho nên thường phát bệnh sau khi bị gió thổi nhiễm lạnh. Thái dương chủ biểu, đường kinh mạch men theo đỉnh đầu đi xuống gáy và lưng; phong hàn ở ngoài xâm phạm theo đường kinh mạch mà phạm ở phần trên lấn át khí thanh dương làm cho đau đầu và đau lan tỏa tới gáy và lưng. Hàn chủ về co rút cho nên đau có cảm giác căng tức “Do hàn mà đau thì căng gấp mà sợ lạnh run rẩy” (Chứng trị vâng bổ – Đầu thống). Hàn là âm tà, gặp ấm thì đỡ cho nên ưa đội mũ đội khăn tránh phong hàn và giữ ấm. Phong hàn ở biểu vì chưa hóa nhiệt nên không khát, mạch Phù là bệnh ở biểu, mạch Khẩn là có hàn tà. Rêu lưỡi trắng mỏng cũng là hiện tượng thuộc phong hàn ở biểu. Yếu điểm biện chứng là cơ thể lạnh, vùng đầu căng tức mà đau, gặp ấm thì dễ chịu, gặp phong hàn thì bệnh tăng. Điều trị nên sơ phong tán hàn dùng phương Xuyên khung trà điều tán.
+ Chứng Đầu thống do phong nhiệt: Có thể do phong hàn không khỏi bị uất mà hóa nhiệt, hoặc là phong kiêm nhiệt tà trúng vào dương lạc. Nhiệt là dương tà ưa thăng, ưa tán cho nên đầu đau mà phát trướng gặp nóng quá mức thì thường đau như muốn vỡ. Nhiệt hun đốt ở trên thì mặt mắt đỏ hồng. Phong nhiệt phạm vệ thì phát nhiệt ố phong mạch Phù Sác. Đầu lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng đều là hiện tượng thuộc phong nhiệt và lấy những chứng đầu trướng đau, gặp nhiệt đau tăng, đau như muốn vỡ làm đặc điểm. Điều trị nên sơ phong thanh nhiệt dùng phương Phòng phong tán. Nếu trướng đau kịch liệt, miệng mũi phá lở, chứng thuộc nội nhiệt đã hun đốt thì nên thanh nhiệt tả hỏa dùng phương Hoàng liên thượng thanh hoàn.
+ Chứng đầu thống do phong thấp: Là do phong tà kiêm thấp tà xâm phạm ở trên, thanh khiếu bị thấp tà che lấp cho nên đầu nặng như bọc u ám và đau. “Đau vì thấp thì nặng đầu, thời tiết âm u bệnh tăng” (Chứng trị vâng bổ – Đầu thống). Thời tiết âm u bị mưa hoặc ẩm ướt nhiều thì đầu đau kịch liệt. Tính thấp dính nhớt ngăn trở ở vùng ngực thì khí trệ mà ngực khó chịu; quấy rối ở Trung tiêu thì bụng đầy mà kém ăn. Tỳ chủ tứ chi thấp làm khốn Tỳ dương nên chân tay nặng nề. Thấp tà ấp ủ ở trong làm mất chức năng phân biệt thanh trọc nên tiểu tiện ít, đại tiện nhão, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Nhu Hoạt đều là hiện tượng thấp thịnh. Đặc điểm là: đầu nặng như bọc, u ám và đau, trời âm u gặp mưa thì đau tăng. Điều trị nên khu phong thắng thấp dùng phương Khương hoạt thắng thấp thang.
Đầu thống do ngoại cảm kéo dài lâu ngày không khỏi hoặc vốn có đờm nhiệt lại hóng gió hoặc hóng gió đón mát, người xưa cho là ngoại tà qua Phong phủ vào não có thể biến thành “Đầu phong thống”. Triệu chứng lúc đau lúc ngưng bị xúc động là phát ngay, thường phát bệnh trước khi bị nhiễm phong một ngày, khi nhiễm phong thì đau lại dịu đi, gặp cáu giận mệt nhọc cũng có thể phát sinh đầu thống. Khi phát bệnh thì đầu thống kịch liệt, lan tỏa tới đuôi mắt, không mở được mắt, không ngẩng được đầu, da đầu tê dại. Điều trị nên sơ phong giảm đau, bên trong dùng Tiêu phong tán hòa với nước chè mà uống. Bên ngoài thì dùng Thấu đính tán mà thổi vào mũi.
– Chứng Đầu thống do Can dương thượng cang:
Thuộc loại đầu thống nội thương do tình chí không thư thái bị cáu giận hại Can. Can hỏa quấy rối ở trên hoặc Can âm bất túc. Can dương quá găng, thanh dương bị quấy rối gây nên đầu trướng và đau, gặp sự cáu giận thì tăng. Can là kinh Túc Quyết âm, đường mạch đi qua sườn tới đỉnh đầu, Túc Quyết âm với Túc Thiếu dương Đởm kinh cùng biểu lý, kinh mạch của Đởm kinh qua hai bên cạnh đầu và mình cho nên Can dương đầu thống đau lan tỏa tới đỉnh đầu hoặc hai bên sườn, hoặc có chứng đau sườn ù tai, chứng Can dương hỏa vượng nếu hao thương âm dịch thì miệng khô mặt đỏ; nhiệt quấy rối tâm thần thì phiền táo dễ cáu giận khó đi vào giấc ngũ, lưỡi đỏ ít rêu; mạch Tế Sác là hiện tượng dương Can bị âm thương, có đặc điểm là đau đầu choáng váng, giận thì phát bệnh hoặc nặng thêm, thường kiêm các chứng tai ù đau sườn. Điều trị theo phép bình Can tiềm dương, dùng phương Thiên ma câu đằng ẩm. Nếu đau đầu mắt đỏ, miệng khô và đắng, táo bón tiểu tiện đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Huyền Sác là thuộc Can vượng hỏa thịnh. Điều trị nên thanh tả Can hỏa, dùng phương Long đởm tả Can thang. Chứng Can dương đầu thống lâu ngày không khỏi đau tuy không nặng lắm nhưng dằng dai không dứt, lại xuất hiện các chứng lưng đùi đau mỏi, mất ngủ mồ hôi trộm, lưỡi đỏ mạch Tế là bệnh Can liên lụy đến Thận, thủy khuy hỏa vượng. Điều trị nên tư dưỡng Can Thận âm, điều trị bằng phương Kỷ cúc địa hoàng hoàn.
– Chứng Đầu thống do trung khí hư nhược với chứng Đầu thống do huyết hự âm khuy : Cả hai đều là Hư chứng. Một chứng là ốm lâu hoặc quá mệt nhọc hao khí khiến cho trung khí bất túc, khí hư thì thanh dương không thăng, trọc âm không giáng, vì thanh khiếu không lợi cho nên đau dằng dai, mình mỏi mệt, vô lực, đoản hơi biếng nói mệt nhọc thì bệnh nặng thêm. Trung khí hư không làm dồi dào ở phần trên cho nên đầu óc chống chếnh mà đau. Trung khí bất túc mất công năng vận hóa nên kém ăn mà đại tiện nhão. Điều trị theo phép bổ trung ích khí, dùng phương Thuận khí hòa trung thang. Chứng thứ hai là do mất huyết quá nhiều hoặc sau khi đẻ chăm sóc không tốt dẫn đến âm huyết bất túc; huyết hư không làm tốt phần trên làm đau đầu âm ỉ, có lúc choáng, sắc mặt trắng nhợt; Huyết không nuôi Tâm thì Tâm hồi hộp mất ngủ. Huyết hư thì mắt hoa mà khô. Điều trị chủ yếu phải dưỡng huyết dùng phương Bổ Can dưỡng vinh thang. Nhưng trên lâm sàng thường thấy xuất hiện cả khí hư lẫn huyết hư nên phép trị cần bổ cả khí huyết, cho uống Bát trân thang hoặc Quy Tỳ thang.
– Chứng Đầu thống do ứ huyết ngăn trở đường lạc với chứng Đầu thống do đờm trọc che lấp ở trên: Cả hai đều thuộc Thực chứng. Đau đầu do ứ huyết phần nhiều do đau lâu ngày tà phạm vào đường lạc, huyết ứ trệ không thông, hoặc là do ngoại thương như thiên Quyết bệnh – Sách Linh khu có viết: “Đau đầu đến nỗi không thể đặt tay phía trước đầu, có trường hợp do bị đánh, bị đập, có huyết xâu đọng ở bên trong”. Huyết xấu ứ kết ở mạch Lạc không thông thì đau. Đặc điểm lâm sàng là đầu đau như kim châm, nơi đau cố định, lưỡi có nốt ứ huyết. Điều trị nên hoạt huyết hóa ứ thông lạc dùng phương Huyết phủ trục ứ thang. Chứng đau đầu do đờm trọc là do vốn ăn uống không điều độ. Tỳ Vị vận hóa không đều, đờm trọc từ trong sinh ra. Đờm trọc là âm tà che lấp thanh khiếu ở trên thì u ám nặng nề mà đau, ngăn trở ở ngực bụng thì ngực đầy tức mửa ra nước dãi, như mục Đầu thống – sách Chứng trị vâng bổ viết: “Do đờm mà đau thì nặng nề, choáng váng buồn nôn”. Điều trị chủ yếu phải hóa đờm dùng phương Bán hạ bạch truật thiên ma thang.
Chứng Đau đầu có ngoại cảm, nội thương khác nhau. Đau đầu do ngoại cảm phần nhiều là bệnh mới phát, bệnh trình khá ngắn thường có kiêm biểu chứng, xu thế đau khá dữ dội và không lúc nào ngớt, có những trường hợp do phong hàn, phong nhiệt, phong thấp khác nhau. Đau đầu do nội thương phần nhiều do ốm lâu, không kiêm biểu chứng, bệnh trình khá dài, xu thế bệnh từ từ mà lúc đau lúc ngưng cần phải phân biệt Hư, Thực theo chứng mà điều trị.
- Đầu là nơi hội của các kinh dương, kinh mạch của ba kinh dương đều đi qua đầu mặt, mạch của Quyết âm kinh cũng lên tới đỉnh đầu. Người xưa thường căn cứ vào bộ vị đau đầu để phán đoán bộ vị của tật bệnh. Như Thái dương đầu thống phần nhiều đau đầu ở phía sau óc lan tỏa tới gáy và lưng. Dương minh đầu thống phần nhiều đau ở trước trán lan tỏa tới quầng mắt. Thiếu dương đầu thống phần nhiều đau hai bên cạnh đầu lan tỏa tới vùng tai. Quyết âm đầu thống thì thấy đau ở đỉnh đầu lan tỏa tới mục hệ. Lại còn thuyết cả 6 kinh đều có chứng đau đầu, nhưng về loại hình không ngoài những chứng nói ở trên kết hợp với kiêm chứng rêu lưỡi và mạch có thể phân biệt rõ ràng.
Trích dẫn y văn
Người ta bị bệnh đau đầu có khi vài năm không khỏi… nên có những trường hợp bị nhiễm quá lạnh, bên trong phạm vào xương tủy, tủy làm chủ não, vì não nghịch cho nên đau đầu, đau cả răng bệnh danh là Quyết nghịch (Tố vấn – Kỳ bệnh luận).
- Nôn khan mửa ra bọt dãi mà đau đầu, Ngô Thù du thang chủ chữa bệnh ấy (Thương hàn luận – Quyết âm thiên).
- Phàm chứng đau khí huyết đều hư, các tà khí phong hàn, thử, thấp làm tổn thương dương kinh ẩn náu không lui gọi là Quyết đầu thống (Tế sinh phương – Đầu thống môn).
- Thái âm đầu thống tất phải có đờm, thân thể nặng nề và đau bụng đó là chứng Đờm tích, mạch thấy Trầm Hoãn điều trị chủ yếu dùng Xương truật, Bán hạ, Nam tinh. Thiếu âm đầu thống do Tam âm, Tam dương kinh không lưu thông dẫn đến chân lạnh khí nghịch gọi là Hàn quyết, mạch thấy Trầm Tế, điều trị bằng Ma hoàng, Phụ tử, Tế tân. Đầu gáy đau thuộc Quyết âm thì hoặc mửa ra đờm dãi và quyết lạnh mạch Phù Hoãn cho uống Ngô thù du thang (Lan thất bí tàng – Đầu thống môn).
Đầu là hình tượng của trời đất, không nhiễm vẩn đục, bây giờ lại có chứng đau ở đỉnh cao giống như khách tà che lấp thanh dương khí huyết… Nghĩ như nửa người phía trên thuộc dương mà nguyên thủ lại là dương ở trong dương, đại để là dương khí bị hư trước thanh tà phạm vào phần trên, khí huyết bị tê bị ứ nên đau dằng dai không dứt, theo phép phải tuyên thông thanh dương chứ không được phát tán ở biểu (Lâm chứng chỉ nan y án – Đầu thống).