Khái niệm
Rêu lưỡi trắng nhớt là chỉ bề mặt lưỡi có một lớp rêu trắng đục và nhớt đơn thuần, chất rêu dầy đặc khó cạo bỏ đi.
Chứng rêu lưỡi trắng nhớt chưa thấy đề cập trong sách Thương hàn luận. Xét ở thiên Dương minh có mục “Dương minh bệnh dưới sườn rắn đầy không đại tiện mà nôn, trên lưỡi có rêu trắng có thể uống Tiểu Sài hồ thang” có ý chỉ vê loại rêu lưỡi trắng trơn này.
Các nhà Ôn bệnh học bắt đầu coi trọng và nghiên cứu về rêu lưỡi trắng nhớt. Sách Hình sắc ngoại chẩn giản ma viết: “Các loại phục tà và thời tà đều phát ra từ lý tức là phần nhiều có kiêm thấp cho nến lúc bắt đầu rêu lưỡi có mầu trắng ngay, vừa dầy chứ không mỏng, nhớt chứ không trơn, hoặc là xốp như trát phấn” . Nói lên rêu lưỡi trắng nhớt cũng thường gặp trong loại phục tà.
Rêu lưỡi trắng nhớt với Rêu lưỡi trắng nát tuy tính chất của rêu đều khá dầy nhưng cả hai loại khác nhau, những hạt kết của rêu lưỡi nát thì to và thô, cạo rất dễ sạch còn những hạt kết của rêu lưỡi nhớt thì nhỏ chi chít trên bề mặt lưỡi rất khó cạo bỏ, đấy.là những cơ sở để chẩn đoán phân biệt.
Ở người bình thường sau khi ăn sữa hoặc ăn đậu tương thường xuất hiện rêu lưỡi trắng nhớt, đó là loại rêu nhuộm rêu giả không phải là bệnh thái.
Phân tích
Chứng hậu thường gặp
Rêu lưỡi trắng nhớt do ngoại cảm hàn thấp: Có chứng rêu lưỡi trắng nhớt và mỏi, sợ lạnh phát sốt, đau đầu, đầu trướng như bị bọc, thân mình đau nhức nặng nề không mồ hôi, mạch Phù Khẩn.
Rêu lưỡi trắng nhớt do thấp ngăn trở Mạc nguyên: Có chứng rêu lưỡi trắng dầy nhớt và khô hoặc dầy như trát phấn, chất lưỡi đỏ, phát nhiệt ố hàn, đau mình vã mồ hôi, chân tay nặng nề, nôn nghẹn trướng đầy, mạch Hoãn.
Rêu lưỡi trắng nhớt do hàn ẩm ứ đọng ở trong: Có chứng rêu lưỡi trắng nhớt và trơn ánh nước, chất lưỡi xanh tía sắc mặt trắng bệch hoặc tối sạm, choáng váng, tinh thần mỏi mệt chân tay lạnh, buồn nôn, mửa dãi trong, bụng trướng đầy được ấm thì dễ chịu, miệng khát hoặc khát mà không muốn uống, tiểu tiện ít mạch Trầm Trì.
Phân tích
Chứng Rêu lưỡi trắng nhớt do ngoại cảm hàn thấp: Nguyên nhân do khi đương ra mồ hôi lại bị nhiễm lạnh hoặc sau khi tắm lại hóng gió hoặc lội nước dầm mưa hoặc đi đêm sáng sớm gặp sương, cảm nhiễm phải tà khí hàn thâp vệ dương bị lấn át, tiết lạnh thì sắc trắng, thấp thì sinh ra rêu nhớt, vì hàn thấp ở phần biểu cho nên rêu lưỡi trắng mỏng và nhớt, chất lưỡi không biến hóa, ố hàn phát nhiệt đầu nặng và đau không mồ hôi, mạch Phù Khẩn đều là hiện tượng phong hàn bị bó ở ngoài. Mục Lục kinh thiệt thai sách Thông tục thương hàn luận nói: “Nhưng phải là trắng nổi và trơn mỏng, cái rêu ấy cạo bỏ đi lại mọc tiếp đấy mới là phần biểu của Thái dương kinh bị nhiễm hàn tà”. Mấy tiếng nói ở đây “Trắng nổi và trơn mỏng” đúng ra là rêu lưỡi trắng mỏng nhớt thuộc về Thái dương biểu chứng chủ về hàn thấp xâm phạm điều trị nên ôn tán hàn thấp cho uống Khương hoạt thắng thấp thang.
Chứng Rêu lưỡi trắng nhớt do thấp tà ngăn trở Mạc nguyên : Nguyên nhân do cảm nhiễm bệnh độc thấp nhiệt gây nên cũng có khi do thấp trọc ấp ủ ở trong lại cảm nhiễm ngoại tà mà phát bệnh như Tiết Sinh Bạch có nói: “Thái âm nội thương thấp tà và ẩm tà ứ đọng dồn dập ẩn náu trong ngoài tác động vào nhau cho nên thành bệnh thấp nhiệt”. Thấp nhiệt từ biểu vào lý ấp ủ, ẩn náu vùng Mạc nguyên, dương khí bị uất, thâp trọc trào lên trên cho nên rêu lưỡi trắng nhớt. Đặc điểm là rêu lưỡi trắng nhớt mà khô dầy hoặc trắng như trát phấn kiêm chứng ố hàn phát sốt, đau mình vã mồ hôi nôn mửa bụng đầy đó là đặc trưng tà khí ở bán biểu bán lý, điều trị nên hóa thấp thanh nhiệt quét bỏ uế trọc dùng các phương Đạt nguyên ẩm hoặc Lôi thị thấu đạt mạc nguyên pháp (Thời bệnh luận).
Chứng Rêu lưỡi trắng nhớt do hàn ẩm ứ đọng ở trong: Phần nhiều do Tỳ dương không mạnh, thủy ẩm ứ đọng ở trong gây nên, xuất hiện rêu lưỡi trắng mà dầy nhớt, trơn ánh nước giống như bã đậu tương dầy đặc, chất lưỡi tía xanh, khi biện chứng có thể xuất hiện những đặc trưng ẩm tà ẩn phục ở trong như bụng trướng đầy kém ăn, tứ chi quyết nghịch, nôn mửa ra nước trong hoặc đờm dãi, mạch Trầm trì… sách Thiệt giám biện chính nói: “Rêu lưỡi trắng dầy như trát phấn nếu là thấp thì trơn nhớt cạo đi hơi sạch, còn có loại như trát phân lại đẫm nước, đó là lý hàn thấp trệ phải dùng Thảo quả cho ấm Tỳ dương, địa khí bốc lên trên thì cái thiên khí là rêu trắng mới trừ được” Điều trị nên ôn dương tỉnh Tỳ hành thủy cho uống Ôn tỳ thang.
Chứng Rêu lưỡi trắng nhớt nhiều y gia cho rằng chủ về thấp, về đàm về hàn. Sách Biện thiệt chỉ nam viết: “Trắng trơn mà nhớt là thấp trọc kết hợp với đàm. Trơn nhớt mà dầy là thấp đàm kết hợp với hàn” Nhưng bộ vị tà lưu đọng khác nhau chủ chứng cũng khác nhau. Ngoại cảm hàn thâp là bệnh tà ở biểu rêu lưỡi tất phải trắng mỏng trơn nhớt kiêm cả chứng có hàn thấp bó ở biểu. Thấp tà ngăn trở Mạc nguyên là tà khí ở bán biểu bán lý, rêu lưỡi phải trắng dầy nhớt mà khô hoặc như trát bột, chất lưỡi hơi đỏ kiêm cả chứng thấp tà thúc bách là chứng dương khí không vươn lên được. Hàn ứ đọng ở trong, tà khí ẩn náu ở tạng phủ thì rêu lưỡi trắng dầy nhớt và trơn ánh nước, chất lưỡi tía xanh kiêm các chứng đình ẩm. Ba chứng bệnh nói trên căn cứ vào rêu lưỡi và kiêm chứng của nó rất dễ chẩn đoán phân biệt.
Trích dẫn y văn
- Như tình trạng bệnh kết hung, ăn uống bình thường có lúc ỉa chẩy, thông mạch Phù, quan mạch Tiểu Tế Trầm Khẩn gọi là chứng Tạng kết thì rêu trên mặt lưỡi sẽ trắng và trơn rất khó chữa (Thương hàn luận – Biện Thái dương bệnh mạch chứng tính trị – Hạ).
- Lưỡi dầy nhớt như trát phấn đó là mầu phấn ở trên rêu-lưỡi, các lý luận xưa đều nói là rêu lưỡi trắng, thực ra chất lưỡi bột với mầu trắng một cái là hàn một cái là nhiệt khác nhau như nước với lửa, các loại ôn bệnh, nhiệt bệnh, ôn dịch… ngoại cảm phải tà khí bất chính tích chứa ở trong có cái xu thế ẩn náu do hàn hay ẩn náu do nhiệt, tà nhiệt tràn lan Tam tiêu đầy đủ thường xuất hiện loại rêu lưỡi này. Điều trị nên dùng thuốc thanh lương tiết nhiệt, nếu bột trắng ở lưỡi mà khô ráo nên cho uống ngay Đại hoàng Hoàng liên Tả Tâm thang, thậm chí dùng cả Tiêu, Hoàng để cho hạ, dứt khoát không được khư khư theo thuốc cũ coi là rêu lưỡi trắng dẫn đến sai làm quá đáng (Biện thiệt chỉ nam – biện thiệt chi nhan sắc).