BÀ CHÚA XỨ, MẪU THẦN ĐA VĂN HÓA Khi nói về các vị thần ở Nam Bộ, chúng ta đều có cảm giác bối rối, nản lòng vì không chỉ do sự đa dạng mà còn ở tính phức hợp của nó. Tính phức hợp này thể hiện sự chồng chéo, đan xen, đơn giản từ việc xác định các danh thần, đến sự chồng chéo mang tính địa phương và tộc thuộc của các vị thần đó. Bà Chúa Xứ chính là biểu hiện tiêu biểu cho tính phức hợp như vậy.
- Đến Nam Bộ, nhất là vùng Tây Nam Bộ, đâu đâu chúng ta cũng bắt gặp những ngôi miếu thờ Bà. Theo thống kê từ năm 2002, ở Tiền Giang có 233 miếu của cộng đồng thờ các vị thần, trong đó có 180 miếu thờ Bà; ở Bến Tre, có 72 miếu của cộng đồng thờ Bà, trong đó riêng huyện Ba Tri có 24 miếu, Mỏ Cày có 13 miếu; ở Bình Dương có 47 miếu thờ. Đấy là chưa kể các trang thờ Bà trong phần lớn các gia đình. Ngoài ra, trong các khuôn viên đình, chùa, đền, Bà cũng được thờ hay phối thờ cùng với các vị nam thần hay nữ thần khác, như Bà Ngũ Hành, Bà Thủy Long, Thiên Hậu, Bà Đen, thậm chí cả thần thổ địa nữa. Hai nơi thờ Bà Chúa Xứ vượt ra ngoài phạm vi thôn ấp, gia đình, được coi là trung tâm thờ Bà Chúa Xứ của toàn Nam Bộ, hàng năm thu hút hàng chục vạn người đến hành hương, đó là Miếu Bà Núi Sam (An Giang) và Miếu Bà Gò Tháp (Đồng Tháp). Điều này nói lên tính phổ biến và vai trò của Bà Chúa Xứ trong đời sống tâm linh của người dân Nam Bộ như thế nào.
Với danh thần giản dị nhất và cũng là phổ cập nhất: Bà Chúa Xứ, với ý nghĩa Bà là chủ xứ sở, chủ đất đai, Bà mẹ (Thánh Mẫu), người tạo dựng, che chở cho mọi sinh linh, một quan niệm vừa mang tính vũ trụ luận, vừa mang tính nhân sinh, mà ta sẽ còn bắt gặp ở nhiều vùng đất, nhiều dân tộc ở nước ta cũng như các nước láng giềng. Ngoài danh thần mang tính dân dã kể trên, Bà còn được tôn danh với các tên khác như: Ngũ Man Nương, Chúa Xứ Nương Nương, Chúa Xứ Thánh Mẫu, Chúa Xứ Núi Sam. Đặc biệt, khác với Thiên Y A Na Bà Chúa Ngọc ở miền Trung và Nam Trung Bộ hay Bà Đen ở Linh Sơn (núi Bà Đen ở Tây Ninh), Bà Chúa Xứ chưa một lần được tước phong của triều đình, mà đây chỉ là sự thờ phụng và tôn danh của dân gian. Có lẽ, việc thờ nữ thần, thờ Bà đã là cái gì đó trái ngược với tư tưởng Nho giáo, và lạ thay, hiện tượng thờ Bà Chúa Xứ ở Nam Bộ lại chưa một lần gắn với vương triều Nguyễn, đặc biệt là Nguyễn Ánh, mà sự gắn kết này lại diễn ra với các vị thần khác, như Cá Ông, Rái Cá, Tứ Vị Thánh Nương và cả Bà Đen nữa. - Hiện tại, có nhiều truyền thuyết lưu truyền về gốc tích của Bà, mà những truyền thuyết này chủ yếu liên quan đến cốt tượng Bà ở Núi Sam (Châu Đốc, An Giang).
Truyền thuyết thứ nhất kể rằng trên núi Sam, ngày xưa có một bệ tượng hình vuông bằng đá sa thạch. Vào những năm đầu thế kỷ XIX, khi giặc Xiêm thường sang đây quấy nhiễu, khi chúng lên núi Sam, gặp tượng Bà, chúng cạy tượng khiêng xuống núi, nhưng chỉ khiêng được một đoạn đường thì tượng bỗng nặng trịch, không di chuyển được, chúng bèn vứt tượng giữa rừng. Sau đó, một hôm dân làng lên núi thấy tượng Bà, bèn hè nhau khiêng tượng về lập miếu thờ. Kỳ lạ thay, cũng như trước kia, tượng nặng trĩu không thể di chuyển, mặc dù trai tráng lực lưỡng trong làng đều góp sức. Lúc đó, một phụ nữ bỗng thượng đồng, tự xưng là Bà Chúa Xứ và phán rằng, muốn khiêng tượng Bà phải có 40 cô gái đồng trinh tắm rửa sạch sẽ thì mới có thể đem tượng bà xuống núi. Dân làng làm theo lời chỉ dẫn của Bà đồng, 40 cô gái đồng trinh khiêng tượng Bà xuống đến chân núi Sam thì tượng bà lại trở nên nặng trịch, không di chuyển tiếp được nữa. Dân làng hiểu rằng, Bà muốn an ngự nơi này, bèn lập đền thờ.
Truyền thuyết thứ hai kể rằng vào khoảng cách đây gần 200 năm, có một cô gái trong làng Vĩnh Tế thượng đồng, tự xưng là bà Chúa Xứ về núi Sam cứu dân độ thế, hiện nay cốt tượng Bà đang ở trên núi, dân làng phải đem về thờ phụng. Dân làng huy động 40 chàng trai lực lưỡng lên khiêng tượng, nhưng không thể nào khiêng nổi. Lúc đó, cô gái lại thượng đồng, cho dân làng biết chỉ cần 9 cô gái đồng trinh là khiêng được. Y lời, 9 cô gái đã khiêng được cốt tượng từ trên đỉnh núi Sam xuống đến chân núi thì dây khiêng tượng bị đứt, bức tượng trở nên nặng trịch, không suy suyển. Dân làng hiểu ý Bà muốn ngự ở đây, nên lập miếu thờ Bà.
Truyền thuyết thứ ba kể rằng, thời Thoại Ngọc Hầu làm trấn thủ Châu Đốc, đeo ấn bảo hộ của Cao Miên, vợ ông ở nhà thường cầu nguyện trời Phật cho ông bình an trở về, nếu được như lời sẽ lập chùa thờ Phật để báo ân đức. Dẹp xong giặc, Thoại Ngọc Hầu trở về, nghe vợ kể lại, ông cảm động về lòng thành của vợ, ông đã cho lính sang Tây Trấn Thành chở cốt Phật về lập chùa để thờ, đặt tên là chùa Tây An. Chùa xây xong, ông lo ngại kẻ xấu đồn ông lập chùa thờ Phật của giặc, về tâu kinh đô sẽ bị trị tội. Bởi thế ông đưa pho tượng ra ngoài chùa, lập miếu thờ để tránh phiền phức.
Truyền thuyết thứ tư kể về một thiếu phụ ở Cao Miên đi tìm chồng, đến chân núi, mệt mỏi, ngồi nghỉ đã hóa đá ở chân núi này. Sau đó, một lần linh hồn của người phụ nữ này nhập vào cốt đồng, nói về quá khứ, tương lai, thường xuyên giúp người hiền, kẻ tốt, trừng phạt kẻ xấu. Dân làng bèn lập miếu thờ, gọi là Bà Chúa Xứ. Trong truyền thuyết này, chúng ta thấy có hai điều khác biệt với các truyền thuyết nêu trên, đó là cô gái người Cao Miên là tiền thân.
Bà Chúa Xứ và sự xuất hiện người đàn bà đi tìm chồng hóa đá, một mô típ quen thuộc “đá vọng phu.”
Dù là truyền thuyết thế nào, nhưng linh tượng Bà ở Núi Sam trở nên rất linh thiêng, câu đối sau đây đã khẳng định niềm tin đó:
“Cầu tất ứng, thí tất linh, mộng trung chỉ thị
Xiêm khá kính, Thanh khá mộ, ý ngoài nan lường.”
Dịch nghĩa: “Xin thì được, ban cho thì linh thiêng, báo trong giấc mộng
Người Xiêm sợ hãi, người Hoa kính mộ, ý tứ khôn lường.”
Truy nguyên xa hơn nữa về sự tích Núi Sam và sự hiện diện của cốt tượng đá trên đỉnh núi. Truyện truyền rằng, xa xưa, Núi Sam là hòn núi nổi trên mặt biển, có nhiều con Sam đến trú ngụ nên người ta gọi là Núi Sam (?). Một lần, Hoàng tử Ấn Độ cùng đoàn tùy tùng và tăng lữ Bà-la-môn đi truyền đạo, đến phương Nam, vùng đất của nữ chúa Liu Yi (Liễu Diệp), hoàng tử dùng thuyền đến đây, sau đó kết duyên cùng nữ chúa và lập nên vương quốc Phù Nam. Họ thấy hòn Núi Sam nhô trên mặt biển mênh mông, bèn đem bức tượng thần Shiva của đạo Bà-la-môn đặt trên đỉnh núi này.
Như vậy, với những truyền thuyết mang đầy tính huyền thoại nêu trên đã gần như lý giải nguồn gốc và sự biến đổi của di tích Núi Sam và cốt tượng Bà Chúa Xứ. Năm 1941, khi khai quật di chỉ khảo cổ Óc Eo, nhà khảo cổ học người Pháp Malleret đã đến Núi Sam để nghiên cứu pho tượng này, ông đã nhận ra đây là tượng Shivalinga, một vị thần trong Bà-la-môn giáo đã du nhập vào Đông Dương từ những thế kỷ đầu Công Nguyên. Tượng này được dự đoán có niên đại vào thế kỷ VI. Như mọi người đều rõ, đây là tượng nam thần, tuy nhiên, khi người Việt đến đây, với tâm thức tôn thờ nữ thần từ quê cha đất tổ, nên tạo dáng lại bức tượng này thành nữ thần. Người dân địa phương còn nhớ, ông Phạm Văn Tiên, người trong ban quý tế miếu, đã đề xuất việc mời thợ từ Chợ Lớn (Sài Gòn) về tô lại tượng cho có dáng vẻ nữ thần, nhất là hàng năm người ta dâng cúng Bà mũ áo choàng ra ngoài cốt tượng như ngày nay ta thấy Bà ngự trên chính điện. Hai bên tượng Bà còn có tượng Linga bằng đá, phủ vải đỏ, gọi là tượng Cậu, còn bên phải là tượng Cô. Hai hình tượng Cô – Cậu luôn ở bên cạnh Bà Chúa Xứ. Người ta hiện còn thấy bệ tượng trên đỉnh núi, cũng bằng đá sa thạch, một loại đá không có ở Núi Sam, chiều ngang 1,60 m, bề dày 0,3 m. Nếu đặt tượng Bà lên trên thì vừa khít, chứng tỏ vốn đây là bệ của bức tượng đã tương truyền. Như vậy, trải qua khoảng hai ngàn năm nay, bức tượng Shiva của đạo Bà-la-môn đã được đổi tên tuổi, giới tính, diện mạo và chủ nhân. Đây là hiện tượng không chỉ xảy ra với Bà Chúa Xứ mà còn từng xảy ra khi người Việt vào miền Trung Trung Bộ, với tâm thức tôn thờ nữ thần sẵn có ở miền Bắc, đã làm thay đổi tính chất, hình dạng cốt tượng thờ Pô Inư Nưgar ở Tháp Bà Nha Trang của người Chăm thành Thiên Y A Na Thánh Mẫu của người Việt.
3. Vậy Bà Chúa Xứ là Ai? Đó là câu hỏi mà các nhà nghiên cứu tìm cách giải đáp. Về phương diện di tích và cốt tượng, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra Núi Sam vốn là di tích tôn giáo thờ thần Shiva của Bà-la-môn giáo có từ thời văn hóa Óc Eo của quốc gia Phù Nam cổ đại, niên đại khoảng từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ VII. Cùng với thời gian, bức tượng đã bị bỏ lại, có thể do ai đó phá hoại (có truyền thuyết nói tượng bị giặc Xiêm phá, định mang đi), khiến phần tượng nằm trong rừng còn phần bệ tượng vẫn còn nguyên như các truyền thuyết đã mô tả. Khi người Việt từ miền Trung vào khai phá vùng đất này khoảng thế kỷ XVI-XVII, họ đã chuyển tượng từ trên núi xuống và lập miếu thờ.
Xét về danh xưng, tính chất và sự xác tín mà người Việt gán cho Bà Chúa Xứ, ta thấy ở đây ít nhất có bốn lớp văn hóa, mà cốt lõi của nó chính là nữ thần Pô Inư Nưgar của người Chăm.
Như vậy, trong quá trình Nam tiến, người Việt đã hoàn thành quá trình Việt hóa tín ngưỡng thờ Pô Inư Nưgar – Bà mẹ Xứ sở của người Chăm, thành Thánh Mẫu Thiên Ya Na của người Việt, quá trình này diễn ra từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVII-XVIII.
Với những hiểu biết hiện nay, người Việt có mặt ở Nam Bộ vào khoảng thế kỷ XVI. Họ vào đây chủ yếu là những người Việt đã từng định cư ở trung và nam Trung Bộ. Đó là những người là quân phu đi theo các thủ lĩnh, những địa chủ vào khai thác đất Nam Bộ để sinh cơ lập nghiệp, thậm chí trong số họ còn có những tội đồ bị đày vào vùng ác sơn lam chướng khí. Khi vào đây, người Việt từ trung và nam Trung Bộ đã mang trong mình những truyền thống văn hóa ở nơi mà mình đã từng định cư nhiều đời, trong đó có việc thờ phụng Thánh Mẫu Thiên Ya Na, một sản phẩm hỗn dung văn hóa Việt – Chăm, với tư cách là vị thần cai quản xứ sở, vị thần bảo hộ độ trì cho những người làm ruộng, làm nghề biển, nghề buôn bán.
Vào vùng đất mới Nam Bộ với truyền thống thờ phụng Bà Mẹ Xứ Sở Thiên Ya Na, người Việt lại một lần nữa tiếp cận với các truyền thống tín ngưỡng của những người vốn sinh sống từ xa xưa, mà di tích của họ còn để lại trên mặt đất và dưới lòng đất. Người Khơme đã đến vùng đất này trước chúng ta vài ba thế kỷ và sau đó là người Hoa di cư đến vào thời cuối Minh, tức người Minh Hương ở vùng cực nam, nay thuộc địa phận Kiên Giang và Cà Mau. Đặc biệt, các bộ phận dân cư này đều có nét đồng văn, trong đó truyền thống thờ nữ thần là nét nổi trội. Trong bối cảnh như vậy, những tiếp xúc văn hóa và tín ngưỡng diễn ra, tạo nên một điện thần Nam Bộ đa văn hóa, trong đó Bà Chúa Xứ là vị thần tiêu biểu nhất. (Ngô Đức Thịnh – Đạo Mẫu, Sđd. Tr 238-239)
Nhìn vào các lớp văn hóa tạo nên biểu tượng tâm linh Bà Chúa Xứ, chúng ta đều thấy thấp thoáng hình bóng Bà Mẹ Xứ Sở – Pô Inư Nưgar của người Chăm, Thánh Mẫu Thiên Ya Na của người Việt, Nữ thần Neang Khmau (Bà Đen), tục thờ Nék Tà của người Khơme và xa xưa hơn, nhưng cũng hiển hiện hơn là tất cả các biểu tượng trên đều được quy tụ trong linh tượng Shivalinga và sakti của Shiva là nữ thần Uma của Bàlamôn giáo, mà truyền thuyết bức tượng Bà Chúa Xứ An Giang đã mách bảo chúng ta những điều như vậy, cho dù bề ngoài bức tượng đó cũng đã được cải trang dưới hình dáng Thánh Mẫu của người Việt.
Hiện tượng hỗn dung tôn giáo tín ngưỡng của Nam Bộ một lần nữa lại được minh chứng bằng hình tượng tâm linh phụng thờ Bà Chúa Xứ. Tuy nhiên, đây chưa phải là duy nhất và tất cả. Tính hỗn dung này còn được thể hiện ở nhiều di tích tín ngưỡng khác, chẳng hạn như miếu thờ Ông Tà nằm rải rác trong các thôn ấp Việt, trong đó tiêu biểu là ngôi miếu Ông Tà ở ngay trước miếu thờ Bà Chúa Xứ ở An Giang hay ở Miếu thờ Bà Đen trên núi Linh Sơn ở Tây Ninh.
Không rõ khi viếng thăm di tích đền Bà Chúa Xứ ở Châu Đốc (An Giang) và đền Linh Sơn Thánh Mẫu – Bà Đen (Tây Ninh) các du khách có để ý tới một ngôi miếu (am) rất nhỏ ở phía mặt tiền của chính điện nơi thờ Bà Chúa Xứ và Bà Đen. Ngôi miếu này rất nhỏ và ở vị trí rất khiêm tốn, do vậy có thể nhiều người rất dễ bỏ qua.
Các ngôi miếu này đều xây bằng gạch, dựng trên một trụ đỡ bằng bê tông hay đá. Miếu có diện tích mặt bằng rất nhỏ khoảng 1m x 1m, chiều cao của miếu (am) chưa đầy 1m. Vật thờ chính của các miếu (am) này là một cột đá hình trụ cao khoảng 50 cm, đầu trụ đá tròn nhẵn, phủ lên trên bằng một vuông vải đỏ hay chiếc mũ đỏ. Hai bên trụ đá, tùy từng nơi có sự khác biệt, ở đền Bà Chúa Xứ, hai bên trụ đá là hai bức tượng nhỏ, gọi là tượng cậu, có người gọi tên là Cậu Tài, Cậu Quý; còn ở đền Linh Sơn Thánh Mẫu Bà Đen thì có nơi là tượng hai con ngựa của hai Cậu, có nơi chỉ là hai bát hương thờ Cậu. Ngoài hai vật thờ chính đó còn lại là các thứ đồ mã, bát hương, đồ dâng cúng (hoa quả, bánh trái…).
Tại đền Linh Sơn – Bà Đen, ngay ở bệ thờ người ta ghi “Chủ Thần” bằng vôi trắng. Còn khi hỏi người địa phương phục vụ lễ bái…
Trong đền thì người ta bảo đó là nơi thờ Cậu (đền Bà Chúa Xứ) hay đó là nơi thờ ông Tà (ở Bà Đen). Như vậy, Tà Thần có nghĩa là ông Tà, chứ không như cách hiểu của người miền Bắc, tà thần đối lập với chính thần, tức là các vị thần được nhà nước phong kiến phong thần. Còn tà thần, tức là các vị thần “bất hảo” (dâm thần, thần ăn xin, ăn trộm…), không được nhà nước phong thần.
Khi chúng tôi hỏi những người đi hành hương ở các ngôi đền trên rằng ai và khi nào người ta đến cầu cúng ở ngôi miếu nhỏ này, thì thường nhận được những câu trả lời chung chung như cầu sinh con, trừ tà, dịch bệnh, cầu may mắn, phù trì chúng sinh… Cũng có khi đi lễ Bà Đen hay Bà Chúa Xứ thì tiện đặt lễ cúng ở các miếu nhỏ này.
Ngôi miếu “tà thần” kể trên thật nhỏ bé và đơn giản, tuy nhiên, dưới con mắt của các nhà nghiên cứu thì nó không hề nhỏ bé và đơn giản chút nào. Theo chúng tôi, hiện tượng thờ “tà thần” này ít nhất cũng tích hợp nhiều hiện tượng thuộc nhiều lớp văn hóa khác nhau.
- Có lẽ lớp cổ nhất và cũng là quan trọng nhất của việc thờ ông Tà là trụ đá thiêng. Là nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa thì ai cũng dễ dàng nhận ra trụ đá đó là chiếc linga nguyên thủy. Nói đó là linga nguyên thủy vì linga thuộc nhiều dạng khác nhau, từ cổ sơ đến các dạng tiến triển sau này, mà các Shivalinga được thờ ở các tháp Chăm hiện nay là một dạng hoàn chỉnh và phát triển nhất. Các linga này thường được điêu khắc từ một trụ đá, đầu hơi khum tròn, nay được người thờ cúng trùm thêm một mảnh vải hay chiếc mũ đỏ. Linga thường không đi kèm theo Yoni, mà cắm xuống sàn miếu, coi như đất là Yoni rồi.
Có lẽ không có gì phải băn khoăn khi xác định tính chất của vật linh này là chiếc linga, một biểu tượng của Siva giáo, có nguồn gốc từ văn hóa cổ đại Ấn Độ, truyền vào các nước Đông Nam Á từ khá sớm, ít nhất cũng từ đầu Công Nguyên. Các nền văn hóa khảo cổ đã được phát hiện ở vùng đất này, như văn hóa Óc Eo, Cát Tiên… đều bị Ấn Độ hóa về văn hóa và Siva hóa về tôn giáo. Hiện nay ở vùng Núi Sam (An Giang), nơi thờ Bà Chúa Xứ và núi Bà Đen (Tây Ninh), nơi thờ Bà Đen – Linh Sơn Thánh Mẫu, đều tìm thấy các hiện vật là di tích của linga nguyên thủy, thậm chí có nhiều người còn coi các tượng thờ Bà Đen và Bà Chúa Xứ là biến dạng của việc thờ Shiva hay là vợ của Shiva với cái tên là Uma hay Kaly. Tuy nhiên, dù trực tiếp thờ Shiva, vị thần sáng tạo và hủy diệt trong Bà-la-môn giáo hay vợ của Shiva, nữ thần Uma, Kaly thì cũng đều liên quan tới vật linh này.
Trong tâm thức dân gian cũng như các huyền thoại liên quan tới việc thờ cúng Bà Chúa Xứ đều ghi đậm sự tích tìm thấy và di chuyển các linh tượng này. Tất nhiên, nguyên ủy của tượng không phải như ngày nay, mà nó đã qua bao lần đắp đổi, bản địa hóa, từ chiếc linga đá nguyên thủy mà nay ở hai nơi vẫn còn di tích ở miếu thờ Ông Tà (và có thể còn dưới lòng đất mà ta chưa tìm thấy), thành những bức tượng nữ thần mang hình dáng người thật, mà người sáng tạo ra nó không phải ai khác là người Việt đến vùng đất này từ sau thế kỷ XVI.
Có điều trớ trêu là cái lớp nguyên thủy, căn cội nhất của các di tích Bà Chúa Xứ và Bà Đen thì nay lại được bồi phủ, tô vẽ, biến dạng đi để phù hợp với nhu cầu tâm linh của người Việt và chiếm vị trí trung tâm của thần điện, thì cái gọi là căn cội, nguyên thủy nhất của di tích thì nay bị đẩy ra bên rìa di tích và mang tính phối thờ. Như vậy, đâu chỉ có con người chịu sự chi phối của thời gian, mà thần linh cũng cùng chịu số phận “biển dâu” vậy!
- Cũng liên quan tới linh tượng bằng đá trong ngôi miếu “ông Tà” này, có thể có hai mối quan hệ, “vừa cũ” lại “vừa mới”. Cũ vì chúng đều bắt nguồn từ tục thờ đá nguyên thủy, việc người Ấn Độ cổ đại tạo ra linh tượng Shiva bằng chiếc linga nguyên thủy cũng đều bắt nguồn từ tục thờ đá thiêng của lớp văn hóa tiền Aryan. Còn người Khmer thờ vị thần Neakta, vị thần bảo trợ cho nông nghiệp và sức khỏe của con người thì đều lấy hòn đá làm linh tượng. Tín ngưỡng này của người Khmer đã được người Việt đến sau tiếp nhận và làm biến đổi tên từ Neakta (Khmer) thành ông Tà (Việt). Gọi đó là mối bỏi vì, cũng có thể người Khmer “dùng” chiếc linga nguyên thủy trong Ấn Độ giáo làm linh tượng Neakta của mình.
Đây có thể là hiện tượng văn hóa vừa mang tính đồng quy vừa mang tính giao lưu.
Tôi không rõ là người Khmer có đến cầu cúng ở các miếu Ông Tà, miếu Bà Chúa Xứ và Bà Đen hay không. Tuy nhiên, theo các thông tin mà tôi biết được, thì ở các phum sóc của người Khmer đều có miếu Neakta và các làng của người Việt ở Nam Bộ thì đều có miếu thờ Ông Tà hay Tà thần. Dù sao chăng nữa thì thờ Neakta cũng là một tín ngưỡng cổ xưa của người Khmer, cùng lấy đá làm vật linh và sau này lại có phần bản địa hóa với thờ Shiva, mà linh tượng là linga nguyên thủy.
- Không thể phủ nhận lớp văn hóa Chăm và có thể cả văn hóa Khmer đã bị Việt hóa trong việc thờ cúng ở các miếu Ông Tà kể trên. Trước nhất, trong quan niệm dân gian, người Việt khó phân biệt đâu là Bà Thiên Y A Na (gốc là bà Pô Inư Nưgar của người Chăm), mà khi theo người Việt di cư vào Nam, thường được gọi là Bà Chúa Ngọc hay Bà Chúa Xứ. Ngay Bà Đen – Linh Sơn Thánh Mẫu, một biến dạng của vị nữ thần Khmer, thì cũng được người dân quan niệm là chị em với bà Pô Inư Nưgar. Xét về bản chất, chúng tôi dự đoán rằng Bà Chúa Xứ, Bà Pô Inư Nưgar, Bà Đen đều có phần nào đó pha trộn giữa yếu tố thờ nữ thần bản địa, mà đây lại là nét đặc trưng của cư dân nông nghiệp ở Đông Nam Á, với thờ nữ thần Ấn Độ giáo, đây chính là Uma hay Kali, vợ của Shiva, mà linh tượng để thờ cũng chính là các linga nguyên thủy.
Trong quan niệm tín ngưỡng của người Chăm, Pô Inư Nưgar là Bà Mẹ xứ sở vĩ đại, bà luôn được thờ chung với một số người con của mình ở nhiều nơi suốt dọc từ Quảng Nam tới Bình Thuận. Tuy nhiên, khi người Việt Việt hóa Pô Inư Nưgar thành Thiên Y A Na Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Xứ, thì Bà lại luôn được thờ với hai người con trai, gọi là Cậu Tài, Cậu Quý. Sự tích về bà Thiên Y A Na lấy Hoàng tử Trung Hoa đẻ ra hai cậu con trai kể trên, thì đã được văn bia của Phan Thanh Giản dựng ở Tháp Bà Nha Trang nói rõ. Do vậy việc thờ cặp ba: Thiên Y A Na (Chúa Ngọc, Chúa Xứ…) với hai nam thần đồng nhi là Cậu Tài và Cậu Quý là sản phẩm giao lưu văn hóa Chăm-Việt. Do vậy, lớp văn hóa Chăm trong linh tượng thờ ở các ngôi miếu mà chúng ta đang xem xét lại không phải là Chăm nguyên gốc, mà lớp văn hóa Chăm đã bị Việt hóa.
- Việt hóa các vị thần bản địa (Khmer, Chăm) khi những người Việt đầu tiên từ Trung Bộ và Bắc Bộ tiến vào khai thác đồng bằng Nam Bộ là một quy luật chung mà nhiều người đã từng nhắc tới. Tuy nhiên, quá trình Việt hóa này cũng có nhiều lớp, diễn ra ở nhiều thời kỳ khác nhau, trong đó ít nhất chúng ta cũng nhận thấy hai lớp Việt hóa chính.
Trước nhất, như trên đã đề cập tới, người Việt và người Chăm, Khmer cùng có nét đồng văn là tôn thờ nữ thần, nên khi họ “gặp gỡ” nhau, cùng sống chung trên một mảnh đất, tất yếu dẫn đến sự pha trộn, giao lưu ảnh hưởng. Hiện tượng thờ Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Ngọc, Bà Thiên Y A Na và hàng loạt các vị thần linh khác chính là kết quả của quá trình giao lưu ảnh hưởng đó. Đây chính là lớp Việt hóa đầu tiên, mà chủ nhân của nó là những người Việt “nam tiến” đầu tiên, khoảng thế kỷ XVI.
Về bản chất, việc thờ phụng Bà Thiên Y A Na, Bà Chúa Xứ, Bà Đen không thuộc hệ thống thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ, tuy nhiên, ít nhất từ giữa thế kỷ XX trở lại đây, cùng với lớp di dân của người Việt, nhất là sau 1954, nhiều nơi ở Nam Bộ, ngoài việc hình thành các đền phủ thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ thì còn có việc các nơi đang thờ Mẫu như ở núi Bà Đen, Núi Sam… cũng ít nhiều chịu sự tác động của quá trình Tam Phủ, Tứ Phủ hóa. Ngôi miếu mà chúng ta đang quan tâm đến ở trên với tên gọi miếu Cậu (Cậu Tài, Cậu Quý, Cậu “Linga”…), nơi người Việt đến cầu con, cầu tài lộc, giống như ban thờ “Cô”, “Cậu” ở các ngôi đền thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ ở miền Bắc.
Như vậy, trong ngôi miếu thờ Ông Tà ở Núi Sam, nơi thờ Bà Chúa Xứ ở An Giang và miếu Bà Đen, nơi thờ Linh Sơn Thánh Mẫu – Bà Đen (Tây Ninh), ta thấy hiện tượng tích hợp nhiều lớp văn hóa – tín ngưỡng khác nhau: lớp văn hóa Phù Nam, lớp văn hóa cổ truyền Khmer, lớp văn hóa Chăm và lớp văn hóa Việt. Tính đa lớp văn hóa này vừa thể hiện tính hỗn dung tín ngưỡng – văn hóa, một trong những đặc tính tiêu biểu của văn hóa – tín ngưỡng Nam Bộ.
Vậy, để có thể nhận thức các hiện tượng tín ngưỡng nói riêng, cũng như các hiện tượng văn hóa dân gian nói chung, chúng ta cần sử dụng các phương pháp bóc tách các lớp văn hóa, mà mỗi lớp như vậy đều hình thành và biến đổi trong bối cảnh xã hội riêng.