Blog Trang 435

Những điều kiêng kỵ khi cho trẻ em ăn đường

Sau khi cân nhắc những điều lợi hại về mọi mặt, các nhà y học và dinh dưỡng học đã chỉ ra rằng, ngoài việc ăn uống bình thường hàng ngày ra, chúng ta không nên ăn nhiều đường, thậm chí có người còn đề xuất rằng ăn đường càng ít càng tốt, mà không ăn cũng được.

Có điều là những chất ngon lành của đường vẫn còn hấp dẫn con người ta nhiều lắm, nhất là được các em đặc biệt yêu thích, cho nên ở đây cần phải nêu ra một “ Nguyên tắc ” đối với việc ăn đường : Một là không nên ăn đường quá nhiều; hai là phải ăn cho thích hợp. Vậy khi nào ăn đường thì tốt, khi nào ăn đường thì không tốt ? Dưới đây xin giới thiệu một cách sơ lược

1/ Thời gian ăn đường tốt nhất.

Trước khi đi tắm : Tắm sẽ ra rất nhiều mồ hôi, tiêu hao thể lực, cần phải bổ sung nước và năng lượng , ăn đường sẽ đề phòng được những sự thiếu hụt này.

Trước khi vận động : Khi vận động cần phải tập trung tinh lực, so với các thực vật khác, đường có thể cung cấp kalo nhanh hơn.

Khi mệt mỏi và đói : So với các loại thực phẩm khác, đường có thể nhập vào máu nhanh hơn, nâng cao được đường huyết nhanh hơn.

Người bi bệnh đường ruột, khi bị nôn oẹ : công năng tiêu hoá của bệnh nhân không tốt, bị mất nước,dinh dưỡng không đủ, ăn một chút đường hoặc uống nước đường có pha một chút muối sẽ bằng uống thuốc bổ.

Khi chóng mặt buồn nôn, ăn một chút đường có thể nâng cao đường huyết, ổn định tinh thần, có lợi cho việc khôi phục bình thường.

Khi đi tàu, xe, thuyền, nếu điều kiện không tốt, ăn cơm vừa không tiện, vừa mất vệ sinh, ăn một chút đường vừa tiện lợi lại vừa giải quyết được vấn đề.

2/ Những lúc không nên ăn đường.

  • Trước khi ăn cơm : Sau khi ăn đường, khẩu vị sẽ bị giảm, ảnh hưởng đến lượng ăn bình thường, nếu kéo dài, người sẽ gầy đi, dinh dưỡng không đủ.
  • Trước khi ngủ : Đường sẽ lưu lại ở các kẽ răng, rất có lợi cho vi trùng sinh sôi nảy nở, tổn hại cho răng. Nếu ăn đường loại sôcôla v.v… thì còn tạo cho thần kinh hưng phấn, sẽ mất ngủ.
  • Sau khi ăn no : Lúc này mà lại ăn đường thì người sẽ trở nên béo, nếu đường nhiều sẽ kích thích insulin phân tiết, khiến cho tế bào insulin vì phân tiết quá nhiều mà bị suy nhược, dẫn đến bệnh đái tháo đường.
  • Khi nói chuyện : Vừa nói chuyện vừa ăn kẹo, thì kẹo dễ rơi vào khí quản, làm tắc nghẽn thực quản, đối với trẻ em cần phải chú ý.
  • Khi đang đau răng : Ăn đường sẽ càng đau hơn, bệnh sẽ nặng hơn.
  • Khi bị dị ứng da. Đường huyết cao là điều kiện để cầu khuẩn nhỏ sinh sôi nảy nở. Ăn đường có thể làm cho lớp da bị dị ứng thường xuyên nhiều lần, chữa không khỏi. Cho nên người nhiều mụn nhọt hoặc bị dị ứng da thì không

Cho nên, để bảo vệ sức khoẻ, cần phải nắm vững những thời cơ ăn đường có lợi thì mới đạt được mục đích hại ít lợi nhiều. Cho trẻ thơ ăn đường lại càng cần phải lưu ý đến khoa học.

3/ Đường tuy tốt, nhưng không nên ăn nhiều.

Đường là vật chất dinh dưỡng mà nhân loại rất cần, năng lượng mà các tổ chức khí quan của cơ thể cần thiết, đại bộ phận đều do đường cung cấp.

Trẻ em và một số người lớn rất thích ăn đường. Đường tuy tốt, nhưng không nên ăn nhiều, nếu ăn nhiều thì ngược lại, sẽ có hại cho sức khoẻ. Đó là vì :

  • Ăn nhiều đường sẽ dẫn đến chất dinh dưỡng không tốt. Bất cứ loại đường nào cũng đều thiếu chất prôtêin, chất mỡ, vitamin và chất khoáng. Ăn nhiều đường, người ta sẽ không cảm thấy đói nữa, không muốn ăn và sẽ ăn ít cơm. Tự nhiên, chất dinh dưỡng do ăn uống mà ra cũng sẽ ít đi. Nếu kéo dài, sẽ dẫn đến dinh dưỡng không đầy đủ.
  • Ăn nhiều đường sẽ dẫn đến hệ thống tiêu hoá có bệnh. Hiện nay có rất nhiều bậc cha mẹ trẻ cho rằng đường nho có chất dinh dưỡng, dễ tiêu hoá, thường dùng nó để thay đường trắng cho trẻ con ăn dài ngày, ngược lại sẽ chỉ dẫn đến làm cho công năng của dạ dày và ruột trở nên “ Lười biếng ”, khiến cho việc phân tiết của dung môi tiêu hoá bình thường bị giảm sút, công năng tiêu hoá bị thoái hoá, ảnh hưởng đến việc hấp thu tiêu hoá thức ăn, thậm chí còn dẫn đến mang bệnh cho hệ thống tiêu hoá.
  • Ăn nhiều đường dễ bị sún răng : Đường làm cho độ toan ở trong mồm tăng lên, tạo thành nhũ toan khuẩn, liên cầu khuẩn sinh trưởng phát dục mà có điều kiện sinh sôi nảy nở, răng bị chất toan ăn mòn, sẽ sinh ra sâu răng. Những trẻ em thường xuyên ăn đường, tỉ lệ sún răng lên tới trên 95%.
  • Ăn nhiều đường dễ phát sinh gãy xương. Bởi vì đường chuyển hoá cần phải có vitamin B4, ăn nhiều đường quá khiến cho vitamin B4 trong cơ thể giảm đi, do đó mà hạ thấp năng lực của hoạt động cơ bắp thần kinh. Ngoài ra ăn nhiều đường còn làm cho sản vật có chất toan trong cơ thể tăng lên, mà chất kiềm và chất canxi thì lại giảm đi, sẽ tạo thành chất xương bị nhão, dễ xảy ra gãy xương.
  • Ăn nhiều đường sẽ làm cho mắt cận thị phát triển, dẫn đến cận thị trục của mắt. Các chuyên gia kêu gọi : Các trẻ em và học sinh tuyệt đối không nên ăn nhiều đường.
  • Ăn nhiều đường dài ngày dễ sinh béo phì. Bởi vì những phần đường dư thừa sẽ chuuyển hoá thành mỡ tích tụ lại ở dưới da, sinh ra béo phì. Và do béo phì mà dẫn đến các bệnh tật khác.
  • Ăn quá nhiều đường sẽ làm cho tính khí con người trở nên nóng nảy, hấp tấp.

Theo tài liệu của sở nghiên cứu quan hệ gia đình ở Mỹ cho biết : Ăn nhiều đường dẫn đến nồng độ đường huyết tăng cao, khiến cho trẻ em trở nên nóng nảy hấp tấp, có thể mắc bệnh đa động. Người lớn tính tình nóng nảy hấp tấp dễ xảy ra tai nạn.

4/ Trẻ em không nên ăn quá lượng đường.

Đường là loại thực phẩm toan tính không có canxi. Ăn đường nhiều quá, cơ thể cần khôi phục chất kiềm thiếu, tức là phải tiêu hao chất canxi ở trong cơ thể người ta. Ngày tháng kéo dài, sẽ ảnh hưởng đến việc phát triển xương cốt của trẻ em.

5/ Trẻ em không nên ăn nhiều kẹo sôcôla.

Kẹo sôcôla là một loại thực phẩm đường mà nguyên liệu chủ yếu là cacao chế ra, mùi vị thơm ngon, ngọt, chất dinh dưỡng phong phú, nếu được ăn vài ba cái, đúng là làm cho người ta vui tươi thanh thản, nhớ mãi không quên. Song, nếu coi là thức ăn để tẩm bổ, thường xuyên ăn quá nhiều, thì ngược lại, hại nhiều lợi ít. Vậy vì nguyên do gì ?

Thực ra, nhu cầu mà cơ thể con người ta cần ba nguồn năng lượng lớn trong việc ăn uống như các chất prôtêin, chất mỡ, và chất đường là có một tỉ lệ nhất định. Ví dụ như mỗi ngày tính tổng cộng các loại thực phẩm như gạo, mì, cá, thịt, rau xanh v.v…thì chất prôtêin chiếm 10 -15%, chất mỡ chiếm 30 – 35%, chất đường chiếm 50 – 60%. Cho dù chất dinh dưỡng của kẹo sôcôla có phong phú đến đâu thì so với tỉ lệ dinh dưỡng mà con ngươì cần thiết như trên thì còn kém rất xa. Trong rất nhiều loại sôcôla tinh chế, tỉ lệ mỡ chiếm gần 40 – 50%, tỉ lệ đường cũng không ít, mà tỉ lệ prôtêin chỉ có trên dưới 5%. Ngoài ra, trong sôcôla còn có chất kiềm cacao, chất kiềm caphêin v.v… mà trong thực phẩm bình thường rất ít có. Nếu thường xuyên ăn sôcôla thì sẽ có rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết :

  • Thành phần mỡ quá nhiều, trẻ em ăn nhiều đường sẽ trở nên béo phì, trong cơ thể tích luỹ một số lượng mỡ rất lớn, tăng thêm gánh nặng cho buồng tim, thể chất sẽ dần dần suy nhược; người lớn ăn nhiều đường sẽ bi mắc các bệnh như xơ cứng động mạch, cao huyết áp, bệnh van tim, bệnh sỏi mật v.v…
  • Thành phần đường quá cao, thông qua sự chuyển hoá mới ở trong cơ thể, rất nhiều thành phần đường sẽ chuyển biến thành mỡ dự trữ, cũng sẽ làm cho người ta béo phì.
  • Thành phần prôtêin rất ít, mà prôtêin lại là “ vật kiến trúc ” của tế bào các cơ quan trong cơ thể con người, trẻ em thiếu chất prôtêin, sẽ bị ảnh hưởng đến sự phát triển; người lớn thì sẽ bị mềm nhũn cơ bắp, không còn sức lực và rất nhanh chóng bị mệt mỏi.
  • Sôcôla có năng lượng rất cao, tổng nhiệt lượng của 100 gam sôcôla có thể đạt đến 530 – 550 nghìn kalo. Một người làm việc nhẹ bình thường, mỗi ngày cần khoảng 3000 kilô kalo, 100 gam sôcôla chiếm tỉ lệ lớn trong đó. Cho nên sau khi ăn nhiều sôcôla sẽ có cảm giác đầy bụng, ảnh hưởng đến khẩu vị của ba bữa ăn, thế là sẽ ăn ít thức ăn đi, các chất prôtêin, muối vô cơ, vitamin v.v…mà cơ thể rất cần thì lại thiếu một cách nghiêm trọng, rất có hại cho sức khoẻ.

-Các chất kiềm cacao, kiềm cà phê ở trong sôcôla có tác dụng làm tim đập mạnh hơn và đại não hưng phấn hơn, trẻ em sau khi ăn nhiều sôcôla sẽ quấy khóc, nghịch ngợm và không chịu ngủ; người lớn ăn xong cũng dễ hưng phấn thần kinh và mất ngủ.

– Sôcôla rất ngọt và ngấy, sau khi ăn nhiều sẽ không có lợi cho việc vệ sinh răng miệng, sẽ trở nên hôi mồm và sâu răng, và còn xuất hiện hiện tượng ợ chua, rất khó chịu.

Từ đó ta thấy, bất kỳ là trẻ con hay người lớn cũng đều không nên ăn nhiều sôcôla.

6/ Không nên lạm dụng đường nho.

Có một số người lấy đường nho làm chất bổ dinh dưỡng, thường xuyên ăn hoặc cho trẻ ăn. Khi bản thân hoặc con cái ốm đau, bất kể là bệnh gì, cũng tìm mọi cách mua cho được đường nho cho người ốm hoặc cho trẻ con ăn để tẩm bổ, cách làm như vậy liệu có hay không ?

Đường nho là một loại đơn đường, có thể trực tiếp hấp thu ở trong đường ruột, nhưng giá cả tương đối đắt, không ngọt bằng đường trắng. Đường trắng thuộc loại song đường, khi qua đường ruột cần phải có tác dụng của chất men, sau khi phân giải thành đơn đường rồi mới hấp thu được. Đường trắng thì rẻ hơn và ngọt hơn đường nho. Hai loại đường này, ngoài việc có một số vi lượng muối vô cơ và có thể cung cấp nhiệt lượng ra, không có bất kỳ loại chất bổ nào khác, cho nên nó chẳng phải là thực phẩm dinh dưỡng bổ béo gì đâu.

Vậy thì những người nào có thể dùng đường nho ? Những người có bệnh sút cân nghiêm trọng, đau bụng đi ngoài nghiêm trọng, những người sau khi mổ ruột thừa thì có thể ăn đường nho. Bởi vì những người này công năng tiêu hoá và chất men song đường ở trong đường ruột kém, ăn đường nho thì có lợi cho việc phục hồi sức khoẻ.

Lạm dụng đường nho thì có hại gì ? Nói chung những người sức khoẻ bình thường,hoặc ốm đau nhưng không phải những căn bệnh như đã nêu trên thì không nên ăn đường nho, bởi vì tiềm lực công năng tiêu hoá của cơ thể con người rất lớn, ăn đường trắng sẽ không tăng thêm gánh nặng cho đường ruột, và với trẻ con cũng không tăng thêm gánh nặng cho đường ruột. Cơ năng của cơ thể sinh vật phổ biến là tồn tại một qui luật dùng tốt bỏ xấu, tức là càng dùng thì công năng sinh lý càng mạnh, không dùng thì sẽ thoái hoá. Nếu cứ ăn đường nho lâu ngày tất sẽ làm cho các loại công năng phân tiết của men tiêu hoá bị hạ thấp. Công năng tiêu hoá đường ruột bị hạ thấp thì dễ mắc bệnh, thậm chí còn dẫn đến nhiều loại suy dinh dưỡng, ảnh hưởng đến sự trưởng thành và sức khoẻ bình thường.

Táo bón ở người cao tuổi – nguyên nhân và cách chữa

Nguyên nhân

Nguyên nhân nội tiết: giảm chức năng giáp trạng.

Nguyên nhân chuyển hóa: hạ Calci máu (do thuốc lợi tiểu hay nhuận tràng).

Nguyên nhân thần kinh: tổn thương sọ não, màng não.

Do bệnh nhân nằm lâu không đi lại.

Triệu chứng

Hay gặp ở người lớn tuổi, có khi hai ngày mới đi đại tiện 1 lần, hay lâu hơn nữa.

Phân cứng như hòn bi nhỏ.hoặc phân dê, rặn nhiều mới đi được, cảm giác trực tràng bị ứ đọng. Đôi lúc thấy chướng bụng, nhiều hơi.

Có thể gây tổn thương ung thư, tắc ruột, hay cục phân.

Điều trị

Táo bón do mất trương lực đại tràng; do bệnh nhân ăn không có chất xơ, không dùng thuốc kháng sinh Cholinergic. Phải chú ý uống nhiều nước.

Dùng Sorbitol tăng cường thẩm thấu, cho uống dầu Paraffine làm mềm phân, các thuốc kích thích vận động đại tràng: Prostigmine.

Uống thuốc nhuận tràng.

Táo bón có viêm đại tràng co thắt:

Không nên dùng các loại thuốc nhuận tràng nên cho dùng kích thích các thuốc chống co thắt cơ như Phlorglucimol, cho các loại như Chlordiazépoxide, cho chế độ ăn có chất xơ, cám gạo, trái cây.

Khi bệnh nhân đi đại tiện, để tư thế ngồi, người nghiêng ra phía trước.

Chế độ lâu dài: chế độ uống nhiều nước, uống mỗi ngày 1,50 lít, ăn khoai, ăn nhiều loại có chất xơ như trái cây sống, rau, ngũ cốc. Tránh các thức ăn có nhiều nước chấm hay mỡ.

Chú ý đến các biện pháp dinh dưỡng, tiết chế.

Không nên dùng quá nhiều thuốc nhuận tràng. Tránh ăn những trái cây nóng: ổi, dứa, át, tỏi, mít, dưa hấu, xoài.

Cơ chế lây truyền bệnh sốt xuất huyết

Virut lưu hành giữa bệnh nhân với người lành qua muỗi đốt: điều này đã rõ đối với cả virut dengue và virut Chikugunya.

Vấn đề virut lưu hành giữa động vật có vú (khỉ) với người qua muỗi đã được xác định với virut Chikugunya, nhưng với virut dengue thì đang nghi ngờ vai trò A.albopictus.

Từ nhiều năm, giả thuyết dengue là một bệnh từ xúc vật (khỉ) truyền sang người đang được nghiên cứu. Năm 1950, Smith ở Malaixia và Hammon ở Philipin thấy có kháng thể virut dengue ở máu những khỉ hoang dại, nhưng đa số súc vật này thu thập từ vùng thành thị hoặc ven đô. Theo Albert Rudniclk (1983), trong 585 khỉ hoang dại thu thập từ các vùng rừng núi: 68% có kháng thể Flavivirut với hiệu giá> 1:20,8% có kháng thể dengue đơn thuần, và 1% có kháng thể Zika, phản ứng trung hoà chỉ ra đa số trường hợp nhiễm Flavivirut chính là dengue. Nghiên cứu 2.000 huyết thanh người (trong đó có 600 người thổ dân ở miền rừng núi) thấy kháng thể Plavivirut có nhiều ở dân miền rừng núi và nông thôn so với dân thị trấn. Nghiên cứu 8.000 huyết thanh súc vật có xương sống chỉ thấy kháng thể dengue ở khỉ. Những nhận xét trên cho phép tác giả sơ bộ kết luận: tất cả các loại khỉ Monkey ở rừng núi đều có kháng thể dengue và hình như trong các súc vật xương sống, khỉ có tham gia vào vòng lưu hành dengue. Dù sao việc xác định chu kỳ lưu hành dengue ở rừng núi giữa khỉ với khỉ và giữa khỉ với người đang được tiếp tục nghiên cứu.

Điều kiện lưu hành của virut ở địa phương: virut dengue lưu hành trong ổ dịch khi có đủ ba điều kiện: có sẵn muỗi truyền bệnh, có nguồn bệnh, có người cảm thụ với bệnh, bị muỗi đốt.

Ở vùng có nhiệt độ nóng cả năm, thích hợp với muỗi Aedes và virut dengue phát triển suốt năm, thì sốt xuất huyết dengue tại những vùng này có điều kiện lưu hành quanh năm: thí dụ như các tỉnh thuộc Khu 7, Khu 9, và ven biển Khu 5. Ngược lại ở những vùng có mùa đông rõ rệt, khi nhiệt độ xuống dưới 18oC không thích hợp cho bọ gậy Aedes và virut dengue phát triển, thì sự lây truyền bệnh bị gián đoạn về mùa đông: thí dụ như các tỉnh biên giới phía Bắc.

Riêng ở đồng bằng sông Hồng, trong mùa rét, có nhiều vùng sự lây truyền cũng bị gián đoạn, nhưng do tính chất phân bố địa lý của dengue theo kiểu ổ dịch nhỏ, cho nên ngay tại các tỉnh thuộc châu thổ sông Hồng về mùa rét vẫn còn tồn tại những ổ, những điểm có đủ điều kiện (nhiệt độ, muỗi…) để bệnh dengue tiếp tục lưu hành trong mùa lạnh. Do đó ngay tại một số vùng miền Bắc, mặc dù có những ngày nhiệt độ xuống dưới 16oC nhưng hàng năm vẫn bị dịch đe dọa từ nội địa (từ những ổ dịch nhỏ lưu hành quanh năm), chưa nói đến sự lan truyền do giao lưu thường xuyên với các tỉnh phía Nam.

Điều kiện phát sinh dịch trong một vùng lưu hành bao gồm:

  • Khi mật độ muỗi Aedes aegypti tăng cao.-như sau mùa lũ lụt, trong điều kiện ăn ở chật chội, vệ sinh hoàn cảnh thấp kém, trong và sau chiến tranh, vv… Mật độ muỗi được đánh giá bằng những chỉ số sau: chỉ số muỗi/nhà, chỉ số nhà có muỗi, chỉ số ổ nước có bọ gậy, số ổ nước có bọ gậy trong 100 nhà (chỉ số Breteau). Những chỉ số trên có giá trị tiên đoán dịch. Theo hướng dẫn kỹ thuật phòng chống Sốt xuất huyết của TCYTTQ (1980) chỉ cần chỉ số muỗi/nhà > 1, chỉ số nhà có muỗi trên 50% (nhà kế cận) là có thể phát dịch. Chỉ số dụng cụ có bọ gậy A. aegypti trên 40% và chỉ số Breteau trên 200 cũng là những con số báo động.

Trong thực tế một số vụ dịch Sốt xuất huyết ở Việt Nam, chỉ số muỗi/nhà ở nhiều điểm rất cao đạt 4,2-7,3 và 13 (vụ dịch Sốt xuất huyết 1969 và 1975 tại miền Bắc), chỉ số nhà có muỗi cũng rất cao 82% và 85% (vụ dịch Sốt xuất huyết 1969 ở miền Bắc và vụ dịch Sốt xuất huyết 1975 ở miền Nam), chỉ số ô nước có bọ gậy tới 40%-52% (dịch Sốt xuất huyết 1975), và có điểm ổ nước có bọ gậy trong 100 nhà vượt con số 200.

  • Khi địa phương có số người bị bệnh tăng cũng là một điều kiện thuận lợi để dịch Sốt xuất huyết phát sinh: Lứa tuổi bị bệnh của tập thể đơn vị hoặc trong dân địa phương mới tiếp xúc với một typ virut dengue là một yếu tố thuận lợi; có nhiều người từ một địa phương lưu hành bệnh dengue mức độ nhẹ mới tiếp xúc với 1-2 typ Virus dengue nay đột nhập vào một vùng lưu hành Sốt xuất huyết nặng có mặt đầy đủ 4 typ virut dengue cũng là một yếu tố thuận lợi.
  • Khi có một typ virut dengue đột nhập vào một địa phương nhưng khác với những typ đang lưu hành tại địa phương, đó cũng là một yếu tố thuận lợi để phát sinh dịch.
  • Khi có biến động lớn về xã hội và sinh thái, nhà cửa, hệ thống cấp và thoát nước bị phá huỷ trong chiến tranh, buộc phải ở chật chội, tối, ẩm thấp, chứa nước trong những thùng, những phuy, đàn gia súc bị huỷ diệt vì dịch bệnh buộc mỗi Aedes tập trung vào đốt người vv…

Cơ chế lan truyền dịch Sốt xuất huyết:

Virus dengue lan truyền từ nhà nọ sang nhà kia, tỉnh này sang tỉnh khác, chủ yếu do sự giao lưu của người bệnh nhiễm virut, thứ yếu do muỗi nhiễm virut di chuyển theo ôtô, xe lửa, thuyền bè, mảng.

Máy bay, tàu thủy là những phương tiện nhập cảng bệnh từ nước này sang nước khá khi vận chuyển người bệnh nhiễm virut (nhất là trong thời kỳ ủ bệnh); tuy nhiên đây không phải là yếu tố duy nhất quyết định sự nhập cảng dịch dengue vào một nước; dịch dengue chỉ có thể đột nhập và phát triển vào một nước, khi tại nước này có sẵn những điều kiện tiềm năng như sẵn có muỗi Aedes nhất là A.aegypti.. sẵn có khí hậu thuận lợi cho muỗi Aedes và virut dengue phát triển (nhiệt độ > 16°c, khoảng 22o-26°C).

Xem tiếp:

  1. Chẩn đoán, điều trị sốt dengue và sốt xuất huyết dengue
  2. Sốt xuất huyết thể không điển hình và điển hình
  3. Phân loại thể bệnh sốt xuất huyết
  4. Sốt xuất huyết thể sốc ( Dengue độ 3 và 4 )
  5. Sốt xuất huyết thể xuất huyết phủ tạng (độ 2b)
  6. Sốt xuất huyết thể não
  7. Sốt xuất huyết thể suy gan cấp
  8. Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố (hct)
  9. Những biến chứng của Sốt xuất huyết xuất
  10. Tiên lượng bệnh sốt xuất huyết
  11. Chẩn đoán bệnh sốt xuất huyết
  12. Nguyên tắc điều trị sốt xuất huyết
  13. Điều trị sốt xuất huyết độ 1 -2 (không có sốc)
  14. Điều trị sốt xuất huyết độ 1-2 bằng thuốc nam y học cổ truyền
  15. Triệu chứng hô hấp trong bệnh sốt xuất huyết
  16. Những biến đổi thể dịch của bệnh sốt xuất huyết
  17. Biện pháp phòng dịch sốt xuất huyết
  18. Đường lây truyền bệnh sốt xuất huyết dengue
  19. Cơ chế lây truyền bệnh sốt xuất huyết
  20. Triệu chứng dengue xuất huyết thể điển hình (độ II)
  21. Triệu chứng thần kinh trong sốt xuất huyết
  22. Hội chứng tim mạch trong sốt xuất huyết
  23. Triệu chứng tiêu hoá trong sốt xuất huyết

Bệnh não ở trẻ nhỏ

Định nghĩa

Là các tình trạng mạn tính, hậu quả của một tổn thương não trong thời kỳ còn ở trong tử cung, vào lúc sinh hay trong những năm đầu sau khi ra đời.

Tàn tật về vận động do não: bệnh nhân bị các thể không có suy giảm trí tuệ nặng mà chủ yếu bị rối loạn về vận động.

Căn nguyên

Các nguyên nhân chính là xuất huyết và thiếu oxy não, xảy ra ở bào thai hay trẻ sơ sinh.

NGUYÊN NHÂN TRƯỚC LÚC SINH

  • Di truyền:xem dị tật bẩm sinh của hệ thống thần kinh.
  • Mắc phải lúc ở trong tử cung:rối loạn tuần hoàn nhau thai (mẹ bị choáng, chèn ép dây rôn, nhiễm độc CO, phá thai không thành).. Nhồi huyết nhau thai (trong ngộ độc thai nghén). Tử cung bị chiếu xạ do điều trị bằng tia xạ.
  • Mẹ bị nhiễm khuẩn:rubeon, cúm, sởi, quai bị, zona, toxoplasma.
  • Không phù hợp nhóm máu Rh: là nguyên nhân quan trọng gây hội chứng có múa vờn và triệu chứng ngoại tháp (xem vàng da thể hạt nhân).
  • Nguyên nhân khác:người mẹ bị thiếu dinh dưỡng, bị tiểu đường.

NGUYÊN NHÂN CHU SINH

  • Đẻ non: có thể là hậu quả của các nguyên nhân kể trên. Ngoài ra, nếu không được chăm sóc đúng, trẻ đẻ non dễ bị bệnh hơn.
  • Thiếu oxy:bệnh não dô thiếu oxy có thể do lạm dụng thuốc giảm đau trong lúc trở dạ, do bong nhau sớm, do các vòng nhau cuốn cổ, do nhau tiền đạo, do đẻ ngôi mông. Có thể bị thiếu oxy nếu trẻ phải hồi sinh hoặc không khóc ngay.
  • Chảy máu não-màng não sơ sinh: thường là hậu quả của thiếu oxy hay do sang chấn sản khoa.

NGUYÊN NHÂN SAU KHI SINH: ít quan trọng hơn các nguyên nhân kể trên.

  • Di chứng của viêm não cấp:viêm não do virus, chủng đậu, sởi, ho gà v.v…
  • Chấn thương sọ não lúc còn rất nhỏ.
  • Vỡ phình mạch bẩm sinh và xuất huyết màng não.

Triệu chứng

RỐI LOẠN VẬN ĐỘNG

  • Liệt nửa người do não ở trẻ nhỏ: liệt nửa người, liệt cứng một số nhóm cơ. Tay khép vào thân, khuỷu gấp, cẳng tay sấp. Đùi hơi gấp, có xu hướng xoay vào trong, đầu gối duỗi, bàn chân rơi và ngón chân cái thường xuyên duỗi. Mặt không bị. Thường phát hiện bị liệt nửa thân khi trẻ được 7-8 tháng. Các chi bị liệt phát triển chậm. Nói chung, phát triển trí tuệ bình thường. Đôi khi có cơn động kinh.
  • Liệt hai chi do não hoặc liệt cứng nửa thăn ở trẻ nhỏ hoặc bệnh của Littìe:do sang chấn khi đẻ khó (thiếu oxy, xuất huyết) hay do đẻ non. Trẻ có dáng đi cứng nhắc, thân nghiêng ra trước, chi dưới gấp, khép và xoay vào trong, bàn chân rơi và xoay vào trong. Mỗi bước đi, hai đầu gối như bắt chéo vào nhau (dáng đi cắt kéo) và thân xoay. Khám thấy có tăng phản xạ gân, rung giật bàn chân, có dấu hiệu Babinski ở hai bên. Phát triển trí tuệ thường bình thường. Có thể có rối loạn dinh dưỡng và biến dạng các khớp ở chi trên. Nhờ chăm sóc tăng cường trẻ đẻ non, tần suất bệnh này đã giảm.
  • Liệt một chi, ba chi và bôn chi: các rối loạn này được gặp ở trẻ đẻ đủ tháng nhưng bị ngạt. Thường kèm theo có chậm phát triển trí tuệ.
  • Múavờn: có các cử động chậm, không tuỳ ý, không thành nhịp, đôi khi có các rối loạn vận động khác kèm theo, xem múa vòn kép và vàng da thể hạt nhân.
  • Mất điều hoà vận động:hội chứng mất điều hoà có thể đi cùng với các rôi loạn vận động và thường do tiểu não bị tổn thương.
  • Không có trương lực hoặc bị giảm trương lực cơ:hội chứng Foerster (vô trương lực-không đứng được ở trẻ sơ sinh hay liệt hai chi ở trẻ nhỏ do não và tiểu não) là thể liệt giảm trương lực ở trẻ còn bú. Bệnh bẩm sinh hoăc do sang chấn sản khoa gây tổn thương thân não (hiếm gặp).
  • Rối loạn nói:có thể do tổn thương vận động phát âm hay do mất sử dụng ngôn ngữ.

RỐI LOẠN THÍNH GIÁC: ngoài câm- điếc hoàn toàn còn có thể gặp điếc một phần hay điếc có chọn lọc do tổn thương vỏ não thuỳ đỉnh. Có thể gây chậm biết nói.

RỐI LOẠN THỊ GIÁC: hay gặp trong các bệnh não ở trẻ nhỏ. Có thể gây mù hoàn toàn.

RỐI LOẠN TÂM THẦN: chậm phát triển trí tuệ nhiều hay ít (không có trong trường hợp chỉ tổn thương vận động đơn thuần). Nếu có chậm phát triển trí tuệ, thường có rối loạn về tiếp xúc như cáu giận, cảm xúc hay thay đổi, đôi khi xa lánh mọi người hoặc trầm cảm.

Điều trị

  • Rối loạn vận động: liệu pháp vận động, cử động thụ động, bán chủ động rồi chủ động. Ngoài ra cho tập đi.
  • Có thể phẫu thuật chỉnh hình một số dị dạng.

GHI CHÚ: cần phải nghĩ đến tổn thương não Ỏ”trẻ đẻ non dưới 32 tháng nếu trẻ có rối loạn thần kinh (rối loạn trương lực cơ, cử động bất thường, rối loạn về thức tỉnh), có huyết áp không ổn định và có rôl loạn hô hấp. Người ta phân biệt:

  • Chảy máu trong não thất: có máu trong dịch não tuỷ.
  • Nhuyễn trắng quanh não thất: chất trắng quanh não thất bị thiếu máu do giảm tạm thời lưu lượng máu não. Chẩn đoán bằng chụp siêu âm qua thóp trán và chụp cộng hưởng từ.

Hội chứng Sjögren – Larsson

là bệnh di truyền lặn theo nhiễm sắc thể thân; có liệt hai chi như trong bệnh của Little và bị vảy cá bẩm sinh; đôi khi có thoái hoá hoàng điểm võng mạc và chậm phát triển trí tuệ.

Đông y chữa ỉa chảy (đi ngoài nhiều lần)

ỉa chảy là một triệu chứng do nhiều nguyên nhân gây bệnh ra được mô tả trong phạm vi chứng tiết tả của y học cổ truyền.

ỉa chảy được chia làm 2 loại: Cấp tính và mạn tính. ỉa chảy cấp tính thường do lạnh (hàn thấp) và do nhiễm trùng (thấp nhiệt) do ăn uống (thực tích), ỉa chảy mạn tính thường là rối loạn tiêu hóa do kém hấp thụ, loạn khuẩn do viêm đại tràng mãn tính (do a míp, loét, lao ruột, thần kinh quá mẫn). Y học cổ truyền cho là công năng của tỳ vị bị giảm sút không vận hóa được thủy cốc, do can tỳ bất hòa v.v…

  1. ĐIỀU TRỊ THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN

Ỉa chảy cấp tính

  • Do hàn thấp, thường găp ỉa chảy do nhiễm lạnh, lên men hơi.

Triệu chứng: đau đầu, đau mình, bụng đau, sôi bụng, ỉa chảy hơi sợ lạnh, sợ gió, rêu lưỡi trắng dầy, tiểu tiện ít, mạch nhu hoãn, phù hoãn.

Phương pháp chữa: giải biểu tán hàn (ôn tán táo thấp, ôn trung táo thấp), phương hướng hóa trọc (phương hương có tinh dầu thơm).

Bài thuốc:

Bài 1.

Sa nhân                                   8 gam

Rau má sao vàng                    10 gam

Hoắc hương                            8 gam

Hương phụ                              8 gam

Biển đậu                                  12 gam

Hạt mã để                               8 gam

Gừng                                       2 gam

Sắc uống ngày 1 thang.

Bạch biển đậu chữa ỉa chảy
Bạch biển đậu chữa ỉa chảy

Bài 2.

Hoắc hương 12 gam

Sa nhân  8       gam

Nam mộc hương 8 gam

Nam hậu phác 10 gam

Trần bì    8 gam

Hương phụ      8 gam

Hạt vải    8 gam

Tán bột làm viên hay sắc uống mỗi ngày 10 gam.

Bài 3. Hoắc hương chính khí tán gia giảm

Hoắc hương 40 gam Đại táo 4 quả
Hậu phác 12 gam Đại phúc bì 10 gam
Tô diệp 10 gam Bạch truật 10 gam
Trần bì 6 gam Phục linh 8 gam
Cát cánh 10 gam Bán hạ chế 6 gam

Gừng                           4  gam                  Cam thảo                      6 gam

Bạch chỉ                   10 gam.

Tán bột ngày uống 16-20 gam dùng thuốc sắc liều lương thích hợp ngày 1 thang.

Châm cứu: châm tả các huyệt Thiên khu, Trung quản, Hợp cốc, Túc tam lý.

  • Do thấp nhiệt (ỉa chảy nhiễm trùng)

Triệu chứng: nôn mửa, ỉa chảy nhiều lần, phân vàng có hạt, mùi thối, hậu môn nóng rát, đau bụng, mạch sác.

Phương pháp chữa: thanh nhiệt lợi thấp, hóa thấp phương hương hóa trọc.

Bài thuốc:

Bài 1. Bột đỗ ván trắng.

Bạch biển đậu           20   gam                  0 mai                            12 gam

Sa nhân                     12   gam                  sắn dây                        12 gam

Thảo quả                   12   gam                  Cam thảo                       6 gam

Tán bột làm viên ngày uống 20 gam với nước chè đặc.

Bài 2. Bài cầm ỉa chảy.

Sắn dây                      12  gam                  Cam thảo dây                12 gam

Ngân hoa                    12  gam                  Hậu phác                        12 gam

Mã đề                       10   gam                  Hoàng liên                   10 gam

Rau má sao               12   gam.

Sắc uống mỗi ngày 1 thang.

Bài 3. Cát căn cầm liên thang.

Cát căn                       12  gam                  Kim ngân hoa                16 gam

Hoàng liên                    8  gam                  Cam thảo                         6 gam

Hoàng cầm                 12  gam                  Mộc thông                     12 gam

Nhân trần                 20   gam                  Hoắc hương                  6 gam

Hoàng liên chữa ỉa chảy
Hoàng liên chữa ỉa chảy

Châm cứu: châm tả các huyệt trên (như hàn thấp) thêm các huyệt Nội đình, Âm lăng tuyền.

  • Do ăn uống (thực tích)

Do ăn nhiều thịt mỡ sữa V. V…

Triệu chứng: bụng đau nhiều phân thối, chướng bụng, ợ hơi, đại tiện xong đỡ đầy, mạch huyền sác hay trầm huyền.

Phương pháp chữa: tiêu thực đạo trệ (tiêu hóa đồ ăn)

Bài thuốc:

Bài 1.

Vỏ rụt                           12 gam                 Can khương                    6 gam

Thần khúc                       8 gam                 Lá ổi                                8 gam

Thảo quả                         8 gam                 Hoắc hương                    8 gam

Tán bột làm viên ngày uống 8 – 10 gam.

Bài 2. Chỉ thực đạo trệ hoàn.

Chỉ thực                          8 gam                 Hoàng liên                  8 gam

Bạch truật                     12 gam                 Trạch tả                           8 gam

Phục linh                         6 gam                 Đại hoàng                       8 gam

Tán bột làm viên ngày uống 20 gam.

Bài 3. Bảo hòa hoàn.

Sơn tra           12 gam

Thần khúc     8 gam

Bán hạ            12 gam

Phục linh        12 gam

Trần bì           4 gam

Liên kiều        4 gam

Hạt củ mài      4 gam

Sắc uống mỗi ngày 1 thang hoặc tán bột uống mỗi ngày 20 gam.

Châm cứu: châm tả các huyệt Thiên khu, Trung quản, Túc tam lý, Tam âm giao, Thái bạch v.v…

Ỉa chảy mạn tính

  • Tỳ vi hư

Gặp ở các trường hợp rối loạn tiêu hóa do kém hấp thụ, loạn vi khuẩn, viêm đại tràng mãn.

Triệu chứng: phân nát, sống phân, ăn ít, người mệt, sắc mặt càng nhợt, cơ thể phù dinh dưỡng, chất lưỡi nhạt mạch nhu hoãn.

Phương pháp chữa: bổ tỳ vị (kiện tỳ trợ vận).

Bài thuốc:

Bài 1.

Bố chính sâm                13 gam                 Ý dĩ sao                        12 gam

Sa nhân                           8 gam                 Gừng khô                        6 gam

Trần bì 8 gam Vỏ rụt 6 gam
Củ mài 12 gam
Ngày uống thang.
Bài 2. Tứ quân tử thang gia giảm
Bạch truật 12 gam Hoài sơn sao 12 gam
Đẳng sâm 12 gam Trần bì 8 gam
Cam thảo 6 gam Sa nhân 6 gam
Bài 3. Sâm linh bạch truật tán
Đẳng sâm 12 gam Ý dĩ sao 12 gam
Biển đậu 12 gam Trần bì 6 gam
Bạch truật 12 gam Liên nhục 12 gam
Cam thảo 6 gam Cát cánh 6 gam

Tán bột mỗi ngày uống 20 gam hoặc sắc uống ngày 1 thang.

Châm cứu: cứu các huyệt Trung quản, Thiên khu, Đại hoành, Tỳ du, Vị du, Túc tam lý v.v…

  • Thận dương hư hay mênh môn hỏa suy

Gặp ở người già ỉa chảy mạn, những người dương hư v.v…

Triệu chứng: hay đi ỉa chảy vào buổi sớm, sôi bụng, đau bụng ở hạ vị, sống phân, bụng chướng lạnh ăn kém, chậm tiêu, tay chân lạnh, mạch trầm tế, nhược.

Thể này còn gọi là tỳ thận dương hư.

Phương pháp chữa: ôn bổ tỳf thận dương, ôn bổ mệnh môn tỳ dương.

Bài thuốc:

Bài 1.

Vỏ ổi dộp                   12 gam                   Phá cố chỉ                      12 gam

Vỏ quả lựu                  12 gam                   Thỏ ty tử                        20 gam

Nụ sim                        20 gam                   Quế                                  6 gam

Hoắc hương                12 gam                   Gừng khô                        8 gam

Trần bì                        20 gam

Tán nhỏ mỗi ngày uống 20 gam.

Bài 2. Tứ thần hoàn (thang)

Phá cổ chỉ                   10 gam                   Ngũ vị tử                         6 gam

Nhục đậu khấu 8 gam                               Ngô thù                           8 gam

Tán nhỏ ngày uống 20 gam. Hoặc sắc uống ngày 1 thang.

Vị thuốc Nhục đậu khấu
Vị thuốc Nhục đậu khấu

Bài 3. Phụ tử lý trung thang phối hợp với tứ thần hoàn.

Phụ tử chế             8 gam                          Phá cố chỉ      12gam

Đẳng sâm                     12 gam                 Ngô thù                         4 gam

Bạch truật                    12 gam                 Nhục đậu khấu              6 gam

Can khương                   6 gam                 Trích cam thảo               6 gam

Châm cứu: cứu các huyệt Quan nguyên, Khí hải, Quy lai, Thận du, Mệnh môn, Tỳ du, Túc tam lý.

  • Can tỳ bất hoà

Gặp ở những người ỉa chảy do tinh thần.

Triệu chứng: mỗi khi giận dữ, suy nghĩ, bị kích động, sẽ bị ỉa chảy hoặc ỉa chảy nhiều hơn, đầy bụng, đau bụng, sôi bụng, ngực sườn đầy tức, ợ hơi, ăn kém, mạch huyền.

Phương pháp chữa: điều hòa can tỳ.

Bài thuốc:

Bài 1

Cát căn                         12 gam                 Rau má                          12 gam

Cúc hoa                          8 gam                 Đẳng sâm                      12 gam

Sa tiền tử                        8 gam                 Cam thảo dây 12 gam

Sắc uống ngày 1 thang.

Bài 2. Thống tả yếu phương.

Phòng phong                  8 gam                 Sài hồ                            12 gam

Bạch thược                    8 gam                 Trần bì                            6 gam

Bạch truật                      8 gam                 Chỉ xác                           6 gam

Nếu ỉa chảy kéo dài thêm ô mai 8 gam, mộc qua 12 gam,đầy bụng thêm mộc hương 6 gam, hương phụ 6 gam.

Châm cứu: Châm các huyệt Thái xung, Chương môn, Kì môn, Can du, Tỳ du, Túc tam lý, Nội quan.

Theo kết qua nghiên cứu của Tiểu ban lâm sàng thuộc Chương trình nghiên cứu 6401 – 6405 theo dõi 158 bệnh nhân.

Loại tốt 68 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 99,27%

Loại vừa 49 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 28,76%

Loại kém 30 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 21,73%

Theo báo cáo của Viện y học cổ truyền trung ương theo dõi 41 bệnh nhân ỉa chảy mạn: có 26 bệnh nhân kết quả tốt. Cùng các tác giả trên qua báo cáo đôi với bệnh ỉa chảy mạn tính đã điều trị 562 bệnh nhân, có kết quả loại tôt 87,18%.

  1. ĐIỀU TRỊ THEO Y HỌC HIỆN ĐẠI

    1. Điều trị nguyên nhân: tùy nguyên nhân.
    2. Điều trị triệu chứng

Nước búp sim, búp ổi, kaolin, tanin.

Orezol bù lại nước, điện giải.

Trợ lực vitamin B1, B2.

Xem thêm:

Sử dụng thuốc chữa bệnh tiêu chảy đúng cách

Ỉa lỏng – nguyên nhân, điều trị

Ỉa chảy kéo dài có hội chứng hấp thu kém

Điều trị ỉa chảy cấp nhiễm khuẩn

TIẾT TẢ (ỉa chảy)

“Tiết tả” trong sách “Nội kinh” gọi chung là tiết, có những tên “Nhu tiết”, “Xan tiết”, “Động tiết”, “Chủ tiết”. Các sách đời Hán, Đường phần nhiều gọi “Hạ lợi”, đời Đường, Tống về sau thì gọi chung là “tiết tả”.

Về chứng “Tiết tả”, thì sách thuốc các thời đại có phát triển thêm nhiều, vì thế mà có nhiều tên gọi và sự chia loại khác nhau, nhưng quy nạp lại thì có thể chia làm 3 loại dưới đây:

Đặt tên theo sự phát bệnh của tạng phủ: như “Vị tiết”, “Tỳ tiết”, “Đại trường tiết”, “Tiểu trường tiết”.

Đặt tên theo chứng trạng: như đi tả còn nguyên thức ăn không tiêu hóa gọi là “Xan tiết”, vừa lỏng vừa đặc mà hôi thối gọi là “Đường tiết”, trong lạnh như cứt cò gọi là “Vụ tiết”, đi ra nhiều nước gọi là “Nhu tiết”, tả đã lâu ngày không cầm giữ được gọi là “Hoạt tiết”.

Đặt tên theo nguyên nhân bệnh như “Thử tiết”, “Thực tiết”, “Tửu tiết”, “Đàm tiết”, “Khí tiết”… hiện nay trong lâm sàng thì căn cứ vào hàn nhiệt hư thực và bệnh mới phát hay đã lâu mà chia làm hai loại lớn là “Bạo tiết” và “Cửu tiết”.

  1. NGUYÊN NHÂN

Nguyên nhân bệnh tiết tả, đại khái có thể chia làm mấy điểm dưới đây:

  • Cảm phải ngoại tà

Ngoại tà xâm nhiễm vào trường vị, làm cho sự truyền tống mất bình thường mà sinh ra tiết tả, như thiên “Cử thống luận” sách “Tố vấn” nói: “Hàn khí xâm phạm ở Tiểu trường làm cho Tiểu trường mất chức năng, cho nên sinh ra ỉa chảy, đau bụng”. Sách “Minh Y tạp trước” của Vương Luân nói: “Khoảng mùa hạ, mùa thu thấp nhiệt thịnh hành. Thốt nhiên đi ra ngoài như dội”. Do đó có thể biết cảm hàn tà và thấp nhiệt của thời ỉệnh, đều có thể gây nên bệnh tiết tả.

  • Do ăn uống không cẩn thận

Ăn uống không cẩn thận mà phát sinh ra tiết tả là thường thấy nhiều hơn cả. Trong đó có khi vì ăn no quá không vận hóa kịp mà sinh ra, có khi vì ăn đồ sống lạnh hoặc uống nước lạnh nhiều quá mà sinh ra, cũng có khi vì ham ăn cá gỏi mà ăn nhầm phải thức án không sạch mà sinh ra, sách “Đan khê tâm pháp” nói: “Đì tả do lương thực là vì ăn uống nhiều quá thương tổn đến tỳ khí, rồi thành ra tiết tả”. La Thiên ích nói: “Hoặc vì ăn uống quá nhiều hại đến trường vị cũng làm cho đồ ăn không tiêu hoá, tục gọi là thủy cốc lợi, như thế là đã nói rõ vì ăn uống không cẩn thận cũng có thể sinh ra tiết tả.

  • Tỳ vị hư yếu

Tỳ vị là trọng khí làm nát nhừ thủy cốc, vận hóa chất tinh vi. Nếu đã bị hư hàn thì không làm nát nhừ được thủy cốc, không vận hành được chất tinh vi thủy dịch và cặn bã lẫn lộn mà đi xuống do đó mà sinh ra tiết tả.

Thiên “Tạng khí pháp thời luận” sách “Tố vấn” nói: “Tỳ bị bệnh, tỳ hư thì bụng đầy, trong ruột sôi đi tả ra nguyên chất ăn” (Xan tiết), ăn vào không tiêu hoá, sách “Kim quỹ yếu lược” nói: “Tỳ chủ việc vận hành tân dịch cho vị, nếu tỳ khí suy yếu, thì không phân bố được mà tân dịch, cặn bã đều dồn xuống mật khiếu”, sách “Kim quỹ” cho là khí của tỳ suy thì đi tả như cứt cò. Đó đều nói rõ tỳ và vị hư hàn là nguyên nhân trọng yếu gây ra tiết tả.

  • Can mộc khắc tỳ

Tình chí không điều hoà, can khí đi nghịch ra, khắc hại tỳ vị thì thường sinh ra đau bụng ỉa chảy, sách Y học chuẩn thắng của Trường Tam Tích nói: ” Giận dữ hại can, tà của mộc khắc thổ, đều sinh ra ỉa chảy”. Trương Cảnh Nhạc nói: “Phàm gặp vì giận dữ mà sinh ra tiết tả, là tất nhiên vì trong khi giận dữ lại kiêm cả thương thực, làm thương tổn đến tỳ vị như thế đều nói rõ can mộc khắc tỳ thổ có thể sinh ra tiết tả”.

  • Thận dương suy kém

Mệnh môn hỏa suy không làm ấm được tỳ vị, nên không làm nát nhừ được thủy cốc, do đó mà sinh ra tiết tả, nguyên nhân gây ra bệnh tiết tả, tuy có chia làm mấy phương diện kể trên, nhưng khi trong lâm sàng thường thấy lẫn lộn với nhau. Mùa hè ăn uống không dè dặt, lại cảm phải tà khí của thời tiết, thường sinh ra chứng nhiệt tả dữ dội, do đó vì ngoại tà kết hợp với sự ăn uống không dè dặt mà thành bệnh. Nhưng trong đó có chủ yếu, có thứ yếu mà bệnh có biến hóa cũng nên phân biệt hàn nhiệt hư thực, và cân nhắc nặng nhẹ hoãn cấp.

Nói chung thì chứng bạc tả (đi tả dữ dội) thì phần nhiều bị cảm ngoại tà, và ăn uống không dè dặt chứng cứu tả (bệnh đi tả đã lâu) phần nhiều thuộc về tỳ và vị hư yếu ra.

  1. BIỆN CHỨNG

Bạo tả

  • Tiết tả vì phong hàn

Thì nóng rất nhức đầu, đau mình, đau bụng, sôi ruột, ỉa chảy, rêu lưỡi trắng, mạch phù.

  • Tiết tả vì thấp nhiệt

Phần nhiều phát vào khoảng mùa hạ, mùa thu, bụng đau thì ỉa chảy, giang môn nóng, màu phân vàng nâu, tiểu tiện ngắn, mà đỏ, tâm phiền miệng khát, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác, khi mới phát phần nhiều kiêm có chứng ở biểu.

  • Tiết vi hàn thấp

Bụng đau lâm râm đi ra chất lỏng loãng, mình nặng nề mỏi mệt, ăn ít, ngực đầy tức, không phát nước, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch thường nhu hoãn.

  • Tiết tả thương thực

Bụng đau ỉa chảy, ỉa rồi bớt đau, thối như trứng ung, thường kiêm có ngực bụng bí đầy, ợ khan ra mùi chất ăn, ruột sôi, đánh rắm, không muốn ăn, rêu lưỡi thường nhiều cáu nhớt, mạch hoạt sác.

Cửu tả

  • Tỳ vị hư hàn

Sắc mặt vàng úa, không muốn ăn uống, tinh thần mỏi mệt, tay chân mát lạnh, ỉa ra nguyên chất ăn, rêu lưỡi trắng nhợt, mạch nhu nhược, nặng thì thấy chứng khí hư hãm xuống, giang môn lùi ra thụt vào.

  • Thận dương suy kém

Thường thì vào lúc quá nửa đêm gần sáng thì bụng sôi và đau, hoặc đau dưới rốn, sau khi ỉa thì phân thường sột sệt, bụng cảm thấy lạnh, mạch phần nhiều trầm tế, chứng này kéo năm này qua năm khác khó khỏi ngay. Người xưa gọi là “Thận tiết” hoặc “Ngũ canh tả”.

  • Can mộc lấn tỳ

Phần nhiều phát sinh ở người tình chí uất ức, dễ sinh giận dữ lúc bình thường, hiện tượng ngực sườn tức buồn, ợ hơi, ăn ít, hễ hơi tức giận thì đau bụng đi ỉa chảy ngay, lâu ngày không khỏi thường sinh ra khí kém, tinh thần mệt mỏi, mạch thường huyền.

  1. CÁCH CHỮA

Trương Tam Tích nói: “mới ỉa chảy thì nên chữa tiêu (ngọn) ỉa chảy đã lâu thì không thể chữa tiêu được, vả lại ỉa chảy đã lâu mà không có hoả, phần nhiều vì tỳ và thận hư hàn, như thế đã định ra được nguyên tắc chữa chứng ỉa chảy. Cách chữa chứng ỉa chảy nói chung chia làm 9 loại, nhưng nến xét về thực tế bệnh tình mà sử dụng cho linh hoạt thích đáng.

  • Phân lợi

Thích dùng vào chứng ỉa chảy mạnh mà tiểu tiện không lợi, Trương Cảnh Nhạc nói: “Bệnh ỉa chảy phần nhiều là tiểu tiện không lợi. Nếu thủy cốc phân biệt được thì ỉa chảy mà không lợi tiểu tiện là chữa không đúng cách”. Muốn phân lợi được thì dùng bài Tứ linh tán (1) làm chủ yếu.

  • Sơ thông phát tán

Cảm ngoại tà mà sinh ra ỉa chảy đều nên lựa dùng phép này, như phong hàn phạm vào trường vị, thì nên dùng bài Kinh phong bại độc tán (2) nếu hiệp thấp thì dùng bài Hoắc hương chính khí tán (3) gia giảm làm chủ yếu.

  • Tiêu đạo

Thích dụng vào chứng ỉa chảy vì thương thực, tiêu là làm tan tích, đạo là làm thông trệ, nhẹ thì dùng bài Bảo hoà hoàn (5) để làm tiêu tích trệ trong dạ dày, nặng thì dùng bài Chỉ thực đạo trệ hoàn (6) để hạ chất ủng trệ ở trong ruột.

  • Kiện tỳ ôn trung

Thích dụng vào chứng ỉa chảy vì tỳ vị hư hàn, tỳ hư yếu thì chú trọng về kiện tỳ dùng bài Sâm linh bạch truật tán (7), tỳ dương kém thì kiêm cả ôn trung dùng bài Phụ tử lỷ trung thang (8).

  • ích khí thăng thang

Thích dụng vào chứng tỳ hư khí bị hãm phần thanh dương đưa lên trên, muốn thăng dương bổ trung thì dùng bài Điều trung ích khí thang (9), muốn thăng dương thắng thấp thì dùng bài Thăng dương trừ thấp thang (10).

  • ức chế can mộc phù trợ trung tiện

Thích dụng vào chứng thận dương suy kém, thận là tạng thuộc thủy, chân dương ngụ ở trong đó, một khi thận hỏa suy thì cửa thân không kín đáo, cho nên ỉa chảy lâu không khỏi, dùng cách ôn thận có thể giúp cho phần dương chỉ tả, dùng bài Tứ thần hoàn (14).

  1. TÓM TẮT

ỉa chảy là chỉ về chứng trạng đi ra ngoài nhiều lần mà lỏng, nguyên nhân sinh ra bệnh là do thấp nhiều và tỳ yếu, sách “Nội kinh” nói: “Thấp nhiều sinh ra 5 chứng tiết tả”. Tỳ hư thì trướng đầy, trong ruột sôi, ỉa chảy ra thức ăn không tiêu hóa để tiện cho việc nắm vững khi lâm chứng. Tuỳ sự phát bệnh mới hay đã lâu, hoãn hay cấp chia ra 2 loại “bạc tả” và “cứu tả”. “Bạc tả” là gần với chứng thực, chứng nhiệt, “cứu tả” thì thiên về chứng hư, chứng hàn, chứng bạc tả dây dưa lâu ngày cũng thành chứng “cứu tả”.

Về cách chữa: Chứng “Bạc tả” vì ngoại tà sinh ra thì nên sơ thông phát tán, vì hàn thấp ngăn trở thì nên phân lợi tiểu tiện, vì thấp nhiệt thì nên táo thấp thanh nhiệt, vì chất ăn đình trệ lại thì nên tiêu đạo. Chứng “cứu tả” vì can mộc lấn vào tỳ thì nên ức chế can và điều hoà tỳ, vì tỳ thổ suy yếu thì kiện tỳ ôn trung hoặc ích khí thăng thanh, vì thận dương hư thì nên ôn trung, cố sáp.

  1. PHỤ PHƯƠNG

  1. Tứ linh tán: Bạch truật, trạch tả, xích linh, trư linh.
  2. Kinh phong bại độc tán: Xem số 1 phụ phương mục Cảm mạo.
  3. Hoắc hương chính khí tán: Xem số 7 phụ phương mục cảm mạo.
  4. Cát căn cầm liên thang: Cát căn, hoàng cầm, hoàng liên, cam thảo.
  5. Bảo hoà hoàn: Xem số 10 phụ phương mục Kiện vong.
  6. Chỉ thực đạo trệ hoàn: Chỉ thực, bạch truật, phục linh, hoàng cầm, hoàng liên, đại hoàng, trạch tả, thần khúc.
  7. Sâm linh bạch truật tán: Xem số 21 phụ phương mục Hư lao.
  8. Phụ tử lý trung thang: Xem số 8 phụ phương mục Thiên vị.
  9. Điều trung ích khí thang: Hoàng kỳ, nhân sâm, cam thảo, trần bì, thăng ma, sài hồ, trích thảo, thần khúc, trạch tả, trần bì, mạch nha.
  10. Thống tả yếu phương: Phòng phong, bạch truật, trần bì, bạch thược.
  11. Tứ thần hoàn: Nhục đậu khấu, bổ cốt chỉ, ngũ vị tử, ngô thù.
  12. Kha lê lặc tán: Kha lê lặc.
  13. Xích thạch chi vũ dư lương hoàn: Xích thạch chi, vũ dư lương.

Đỏ da toàn thân hay bệnh Viêm da tróc vảy toàn thân

Đỏ da toàn thân hay Viêm da tróc vảy toàn thân là tình trạng toàn thể hay gần như toàn thể da bị đỏ tróc vảy (trên 90%), kèm theo ngứa và rụng lông, thường gặp ở người già.

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG

Mặc dù có nhiều nguyên nhân gây ra bệnh này nhưng đặc điểm lâm sàng gần giống nhau trong hầu hết các người bệnh. Bệnh có thể bắt đầu với những mảng đỏ, sưng phù, lan rộng nhanh chóng cho đến khi toàn bộ da bị tổn thương. Thường khởi đầu kèm theo triệu chứng nhiễm độc toàn thân, da trở nên đỏ, phù, có thể tiết dịch, sự tróc vảy thường rõ ràng sau vài ngày. Dạng đỏ da tróc vảy có thể là khô hoặc ướt, vảy có khi mịn và nhỏ, có khi là mảng lớn; vảy lớn thường gặp ở lòng bàn tay, bàn chân, ở da đầu thường có vảy dày. Kết mạc mắt thường bị viêm đỏ, ngứa, ớn lạnh hoặc có từng cơn lạnh run, dễ gây khó chịu cho người bệnh.

Tiên lượng của Đỏ da toàn thân thường là nặng, nhiều cơn bùng phát xuất hiện sau một tháng hoặc dài hơn. Bệnh thường kéo dài nhiều tháng, nhiều năm, da có khuynh hướng sẫm màu ở người già.

NGUYÊN NHÂN

Nguyên nhân của Đỏ da toàn thân rất phức tạp và thông thường khó xác định nguyên nhân trong khoảng 10%.

Đỏ da toàn thân thứ phát sau bệnh da

Bệnh Vảy nến

Đây là loại đỏ da thường gặp nhất, đỏ da phát ra sau khi dùng Steroid và ngừng sử dụng hoặc bệnh lan rộng, vảy nến mủ cũng có thể đưa Đến đỏ da toàn thân.

Bệnh Chàm

Thường hay gặp ở người già trước đó đã có bệnh Chàm thể tạng hoặc loại Chàm khác.

vảy phân đỏ nang lông

Đây là rối loạn ở da không rõ nguyên nhân, bắt đầu từ tuổi lớn, có những sẩn đỏ nang lông, mảng đỏ ở da, dày sừng lòng bàn tay.

Pemphigus lá

Đỏ da tróc vảy mạnh, dưới lớp vảy, da rỉ nước có mùi hôi.

Một sôí bệnh da khác hiếm gặp cũng có thể gây đỏ da như

Ghẻ Na Uy, Nấm da diện rộng, Lichen phẳng, Hồng ban đa dạng, Mày đay toàn thân, Nhiễm liên cầu khuẩn.

Đỏ da toàn thân do trúng độc thuốc

Như Arsenic, muối vàng, Sulfonamide, Isoniasid, lode, Phenolbarbital… Đỏ da do Arsenic thường xuất hiện sau đợt điều trị dài ngày. Triệu chứng gồm có ngứa, phù mí mắt, đỏ da toàn thân ướt, phù toàn thân.

Đỏ da toàn thân do trúng độc thuốc
Đỏ da toàn thân do trúng độc thuốc

Đỏ da toàn thân trong bệnh ác tính

Lymphome

Trong số Lymphome, bệnh Hodgkin thường gây đỏ da tróc vảy nhiều nhất, gồm đỏ da tróc vảy, ngứa nhiều, hạch to, lách to.

Mycosis fungoides

Đỏ da toàn thân, ngứa và da dày cộm, thâm nhiễm.

Hội chứng Sézary trong bệnh võng mô ác tính

Đỏ da toàn thân tróc vảy, xảy ra ở người lớn, thử máu có tế bào Lympho T bất thường với nhân lớn xoắn (tế bào Sézary).

Bệnh bạch cầu

Kể cả bệnh bạch cầu thể Lympho cấp hay mạn, lách to và hạch to là dấu hiệu sớm thường gặp. Chẩn đoán đỏ da do bệnh bạch cầu phải dựa vào huyết đồ, hạch đồ và sinh thiết da.

Đỏ da toàn thân ở trẻ em

Đỏ da tróc vảy Leiner

Xảy ra chủ yếu ở trẻ còn bú từ 6 đến 20 tuần, bệnh thường bắt đầu bằng một viêm da ở vùng bẹn, mông hoặc á sừng ở da đầu. Đám thương tổn đầu tiên ngày càng lan rộng, cùng với thương tổn ở các vùng khác liên kết vào nhau tạo thành đỏ da tróc vảy toàn thân. Trẻ có thể tiêu chảy, gầy đét và chết.

Viêm da tróc vảy ở trẻ sơ sinh hay còn gọi bệnh Ritter

Thật ra đây là dạng nặng toàn thân, có bóng nước do Tụ cầu vàng. Bệnh có sốt, tiển triển nhanh với những bóng nước vỡ nhanh tróc thành từng mảng lớn. Nhìn chung, biểu hiện lâm sàng gần giống Hoại tử trên thượng bì do trúng độc thuốc.

Bệnh tiến triển sau vài ngày thì chết, trừ một số trường hợp có thể kéo dài và khỏi.

BIẾN CHỨNG

Đỏ da toàn thân có thể kèm theo sự thay đổi về chuyển hóa và sinh lý. Biện chứng thường gặp ở người già là suy tim, phù da, giảm lượng protein máu, mất nước, hạ nhiệt và nhiễm khuẩn da.

ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc

Cần tìm nguyên nhân để điều trị thích hợp.

Giữ ấm cơ thể, tránh gió lùa.

Thận trọng khi dùng thuốc tại chỗ và toàn thân.

Điều trị toàn thân

Bổ sung nhiều đạm, điện giải.

Dùng vitamin c liều cao.

Uống thuốc kháng hitamine tổng hợp: Cetirizin, Levocetirizin, Loratadin, Fexofenadin, Hydroxyzine, Prometazin…

Nếu có nhiễm khuẩn, dùng kháng sinh thích hợp.

Cho corticoid trong trường hợp nặng.

Điều trị tại chỗ

Tắm thuốc tím pha loãng màu hồng.

Bôi Eosin, Milian chỗ da bị lở.

Da khô dày bong vảy: Bôi mỡ salicylic 5-10%.

Da khô: Bôi kem làm mềm da.

 

Cù mạch

Tên khoa học:

Dianthus caryophyllusLinn. Họ khoa học: Caryphyllaceae.

Tên tiếng Trung: 瞿 麥

Tên thường gọi:

Cẩm chướng thơm, Cẩm nhung, Cồ mạch (Cồ là lớn, mạch là lúa. Vị này giống như hạt lúa mạch mà lớn hơn nên gọi là Cù mạch). Ngoài ra Cù mạch còn được gọi là Cự câu mạch (Bản Kinh), Đại lan (Biệt Lục), Cự mạch, Tư nuy (Quảng Nhã), Đại cức (Nhĩ Nhã), Thạch trúc (Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Lạc dương nam thiên trúc thảo (Bản Thảo Cương Mục), Địa miến, Lung tu, Đại cúc tử, Đại lan tử, Tứ thời mỹ, Đổ lão thảo tử, Thánh lung thảo tử, Nam thiên trúc thảo tử (Hòa Hán Dược Khảo).

Mô tả:

Thân mọc bò trên mặt đất rồi mọc đứng, màu xanh lam. Hoa đơn độc hay tụ họp thành những xim 2 ngã, có một tổng bao gồm 4 lá bắc. Đài hợp thành ống dài, có 5 răng. Nhị to. Bầu 1 ô, 2 vòi. Quả nang hình trụ có 4 mảnh vỏ. Hạt giẹp. Ra hoa vào mùa xuân, mùa hạ.

Cù mạch
Cù mạch

Bộ phận dùng làm thuốc là toàn cây hay thân cành mang lá và hoa, thu hái khi cây chớm ra hoa, thường vào sau tiết lập thu, phơi âm can cho khô, có thể dùng sống hoặc sao qua, tán bột để dùng.

Khí vị:

Vị đắng, cay, hàn, không độc, có ít âm ở trong dương, Đan bì làm sứ, ghét Phiêu tiêu.

Chủ dụng:

Dùng làm quân thì lợi tiểu tiện, làm tá thì có tác dụng khơi thông nhọt sưng, khỏi màng mắt, trục thai chết, thông huyết bế, hút gai từ trong thịt ra. Sách bản thảo nói: nuôi khí của Thận, ngăn hoắc loạn, dài râu tóc, cũng là tác dụng trị thấp nhiệt đó thôi.

Cấm kỵ:

Phàm khí của Thận hư mà không có đại nhiệt, thủy thũng cổ trướng thuộc Tỳ hư, thai tiền sản hậu, người thuộc hư, tiểu tiện không thông lợi, thảy đều cấm dùng. Lại nói tiêu trường hư thì cấm dùng.

Cách chế:

Không lấy cây và lá, chỉ lấy hột cả vỏ tẩm Trúc lịch 1 giờ, phơi khô dùng.

Nhận xét:

Cù mạch cây lên thẳng, cao hơn 1 thước, lá nhọn sắc xanh, gốc màu tím đen, tháng 5 âm lịch nở hoa tím đỏ giống như Ánh hồng sơn, tháng 7 thì kết bông như bông lúa mạch cho nên gọi là Cù mạch, nhiều nơi có trồng.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

Bài Bát chính tán (Hòa tễ cục phương)

Hoạt thạch 16-40g, Mộc thông 4-8g, Bán hạ 4-8g, Hậu phác 12-20g, Xa tiền tử 12-20g, Biển súc 12g, Cù mạch 12g, Cam thảo 4-12g, Sơn chi tử 8-12g, Đại hoàng 8-12g. Cùng tán nhỏ, mỗi lần uống 8-12g với nước sắc Đăng tâm, ngày 2 lần. Cũng có thể chuyển thành thuốc thang.

Có tác dụng thanh nhiệt tả hỏa, lợi tiểu thông lâm.

Trị thấp nhiệt hạ chủ ở Bàng quang, tiếu gắt, tiếu nhỏ giọt, tiểu buốt, nước tiếu đỏ, niệu đạo viêm nóng đau, lười đỏ, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch hoat sác.

Có thể dùng chữa các bệnh viêm cầu Thận cấp, viêm Thận, bể Thận cấp, có hội chứng thấp nhiệt, để thanh nhiệt, lợi tiểu, tiêu phù. Nếu tiêu lỏng bỏ Đại hoàng. Bài này chỉ định chính là chứng lâm thực nhiệt, nếu chứng lâm đã lâu ngày, cơ thể hư yếu cần chú ý phù chính mà gia giảm cho phù hợp.

“Phổ tế phương”

Bài Thạch vi tán

Xa tiền tử 12g, Thạch vi 8g, Du bạch bì 8g, Mộc thông 6g, Xích phục linh 12g, Hoạt thạch 12g, Cù mạch 2g, Đông quỳ tử 8g, Cam thảo 4g. sắc, chia uống vài lần trong ngày.

Có tác dụng thanh nhiệt, lợi niệu, bài thạch, thông lâm.

Trị bụng dưới đau âm ỉ, đau trong đường niệu, tiểu ra sỏi.

“Thiên gia diệu phương”

Bài Tư thận hoạt huyết thang

Xa tiền thảo 12g, Trúc diệp 10g, Hoàng bá 10g, Đào nhân 10g, Tri mẫu 10g, Hồng hoa lòg, Ngưu tất 12g, Cù mạch 12g, Tạo giác thích 10g, Ô dược 10g, Cam thảo tiêu 5g, Xích thược 12g, Vương bất lưu hành 10g, Nhục quế 2g.

Sắc, chia uống 3 lần trong ngày.

Chữa phì đại Tiền liệt tuyến

Gia giảm: Người khí hư thêm Hoàng kỳ, Đảng sâm. Người nhiêt thinh, mạch sác thêm Song hoa, Công anh, Bại tương thảo. Người vị khí sung lên gây nấc ợ thêm Toàn phúc hoa, Đinh hương, Thị đế. Người ngực đầy, ho hen thêm Tử uyển, Tô tử. Người đái ra máu thêm Bạch mao căn, Đại tiểu kế. Người đại tiện bí thêm Đại hoàng, Huyền minh phấn.

Theo kinh nghiệm của tôi, với bệnh phì đại Tiền liệt tuyến tốt nhất là dùng bài Bát vị thận khí hoàn gia giảm mà chữa, dù bệnh nặng mấy, dù tuổi cao đều khỏi cả.

Bệnh xơ cứng não lan tỏa

Tên khác: loạn dưỡng chất trắng của não tiến triển.

Một nhóm các bệnh thoái hoá não có đặc điểm là về mặt mô học, não bị mất myelin lan toả, tiếp sau là phản ứng mô thần kinh đệm. Những bệnh này biểu hiện bởi những hội chứng lâm sàng khác nhau và bởi tăng tế bào và protein trong dịch rìão tuỷ. Hiện nay chưa có biện pháp nào để điều trị những bệnh này.

LOẠN DƯỠNG CHẤT TRANG NÃO- SUỸ THƯỢNG THẬN: mất myelin ở hệ thống thần kinh và suy vỏ tuyến thượng thận, nguồn gốc di truyền. Bệnh biểu hiện ở trẻ em trai (gen bị biến dị nằm trên nhiễm sắc thể X) bởi thiếu hụt enzym lignoceroylCoA ligase, dẫn tới hậu quả tích tụ nhiều acid béo, phân tử có chuỗi rất dài (22C và 26C). Có thể chẩn đoán trước sinh bằng kỹ thuật chọc màng ối hoặc sinh thiết lá nuôi. Trong hụyết thanh của những phụ nữ dị hợp tử có chứa hàm lượng cao các acid béo chuỗi dài. Người ta đã thấy trong tế bào gan không có các peroxysom, là phần tử trong tế bào, có chức năng oxy hoá các acid béo chuỗi rất dài.

  • Thể bệnh ở trẻ em (xơ hoá não trung tâm thuỳ Schilder hoặc viêm não quanh trục lan toả) có trẻ 3-5 tuổi mối biểu hiện chậm phát triển tâm thần, đôi khi cả sa sút trí tuệ, bệnh nhi bị bán manh cùng bên, có thể dẫn tới mù do vỏ não, mất lời nói (mất ngôn ngữ), liệt nửa người, và những dấu hiệu suy vỏ tuyến thượng thận.
  • Ở thể người lớn (bệnh thần kinh tủy sống-suy thượng thận), biểu hiện bằng liệt nhẹ hai chi dưới, liệt cứng tiến triển dần, suy tuyến vỏ thượng thận và đôi khi nhược năng tuyến sinh dục. Nét đặc biệt là trong nước tiểu của bệnh nhân hàm lượng acid béo bão hoà 22C và 26C tăng cao. Soi dưới kính hiển vi điện tử cho thấy mô thần kinh sinh thiết có những thể vùi hình lá nằm trong bào tương của các tế bào Schwann.

XƠ CỨNG VỎ NÃO LAN TỎA (hội chứng Alpers): khỏi phát từ tuổi còn nhỏ, và tiến triển nhanh.

BỆNH PELIZAEUS-MERZBACHER (xơ cứng trung tâm thuỳ có tính gia đình): là thể trẻ em xuất hiện sớm của bệnh loạn dưỡng chất trắng của não có tính gia đình tiến triển, với tổn thương mất myelin tiến triển ở chất trắng của não. Bệnh khởi phát chỉ một vài tháng sau khi sinh, bởi run đầu, rung giật nhãn cầu, những động tác múa vờn và liệt cứng các cơ của chi và thân người.

BỆNH KRABBE (loạn dưỡng chất trắng tế bào dạng cầu) khởi phát ở trẻ em khoảng 6 tháng tuổi, bỏi hai chi dưới bị cứng tăng dần, tăng vận động, có những cơn co giật tăng trương lực cơ và rối loạn thị giác (hai đồng tử không đều nhau, lác, teo dây thần kinh thị giác). Đôi khi có hội chứng tiểu não kết hợp. Chất trắng của não bị phá huỷ, xuất hiện đồng thời các tế bào hình cầu kích thước lớn nhiều nhân.

BỆNH LEIGH (bệnh não chất trắng hoại tử bán cấp tính): bệnh di truyền, khỏi phát ở trẻ em hoặc vị thành niên bồi hội chứng thất điều, co giật cơ, suy giảm trí tuệ vừa phải, và diễn biến tới nguy kịch.

LOẠN DƯỠNG CHẤT TRANG DỊ SẮC; (Về chi tiết, xem từ này).

Chữa táo bón theo Y học cổ truyền (Chứng đại tiện bí)

Chứng táo bón, thường thấy ở trong quá trình của các tật bệnh khác, thiên này chỉ thảo luận về chứng táo bón đơn thuần:

Về nguyên nhân của chứng táo bón, thiên “Chí chân yếu đại luận” sách “Tố vấn” nói: “Đại tiện khó đi…Bệnh do ở thận”. Các nhà làm thuốc sau này, trong thực tiễn lâm sàng lại có nhận thức thêm như Trương Khiết Cổ nói: “Bí ở tạng phủ, không nên chữa một cách chung chung được, mà có hư, thực, phong, khí, lãnh, nhiệt có người tuổi già tân dịch khô xác, phụ nữ sau khi đẻ mất nhiều huyết và những trường hợp phát hãn, lợi tiểu tiện nhiều, hoặc sau khi ốm khỏi mà khí huyết chưa khôi phục, tất cả những điểm trên đều có thể sinh ra táo bón”. Như thế nói rõ sự phát sinh chứng táo bón là có nhiều tính chất và loại hình khác nhau, nay tham khảo phương pháp phân loại về bệnh này của người xưa, kết hợp với thực tiễn lâm sàng, thiên này quy nạp làm 4 loại: Táo nhiệt, Khí trệ, Hư bí và Lãnh bí để luận trị.

điều trị chứng táo bón không hề đơn giản
điều trị chứng táo bón không hề đơn giản
  1. NGUYÊN NHÂN

  • Táo nhiệt

Phần nhiều do uống rượu hoặc ăn những thức cay nóng béo bổ nhiều , trường vị bị khô nóng, tân dịch không phân bổ được, cho nên phân rắn kết lại mà thành đại tiện táo sáp, thiên Ngũ tạng phong hàn tích tụ sách “Kim quỹ yếu lược” nói: “Mạch phu dương phù mà sáp, phù là vị khí lãnh, sáp thì tiểu tiên đi luôn, phù sáp kết hợp thì đại tiện rắn, gọi là chứng Tỳ ước.

  • Khí trệ

Sách “Kim quỹ yếu lược” nói: “Khí trệ ở trong nên vật không lưu thông được như vậy là do lo nghĩ uất kết, khí trệ không thông, tân dịch không hành, công năng chuyển vận của đại tràng mất bình thường mà sình ra chứng táo bón.

  • Hư khí

Phần nhiều thấy ở người già, hoặc người hư yếu, hoặc phụ nữ sau khi đẻ mất huyết, hoặc người sau khi ốm khỏi khí huyết chưa khôi phục, âm huyết thiếu, thì trong đường ruột khô ráo, khí hư không chuyển vận bài tiết được, do đó mà sinh ra táo bón.

  • Lãnh bí

Vưu Tại Kinh nói: “Lãnh bí là do tà khí hàn xâm phạm vào tràng vị làm cho âm ngưng kết, dương khí không lưu hành được, tân dịch không thông. Câu này đã nói được là do trọc âm ngưng kết, dương khí bị ế tắc, ảnh hưởng đến sự lưu thông của tân dịch sinh ra chứng táo bón kết.

  1. BIỆN CHỨNG

Chứng trạng chung của táo bón là đi đồng khó khăn, 3, 5 ngày hoặc 6-7 ngày mới đi đồng một lần, có một số người bệnh, thì ngoài chứng táo bón kết ra không xuất hiện kiêm chứng gì cả. Nhưng với những người táo bón kết lâu ngày thường thường vì phân táo kết, mà sinh ra trĩ và khô nứt giang môn, hoặc có chứng trạng trong bệnh trướng đầy, đầu choáng, miệng khô, ợ hơi, ăn kém, những kiêm chứng ấy thường thường là do nguyên nhân sinh bệnh không giống nhau, mới có biểu hiện khác nhau, như “Nhiệt bí” thì có thể thấy miệng hôi, nước tiểu đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch phần nhiều hoạt thực; “Khí bí” thì ợ hơi luôn luôn, ngực sườn đầy tức; “Hư bí” thì kèm có những chứng đầu choáng cổ khô, mình gầy môi nhợt hoặc đi đại tiện rồi thấy mệt, khí đoản, mồ hôi ra, lưỡi nứt ở dưới và chất lưỡi đỏ nhợt, mạch tế sáp, hoặc hư nguyên vô lực; còn như “lãnh bí” thì nói chung là phần nhiều thấy ở người tuổi già, ít khi có kiêm chứng hoặc hơi đau bụng, ấn vào thấy dễ chịu, được chườm nóng thì bớt bệnh, mạch phần nhiều trầm trì.

  1. CÁCH CHỮA

Cách chữa chứng táo bón không phải đơn chỉ thuần dùng cách thông và hạ mà phải tuỳ theo nguyên nhân không giống nhau để lựa dùng các phương pháp khác nhau, cũng như Lý Đông Viên đã nói: “Chữa bệnh phải xét tận gốc, không nên chuyên dùng những vị khiên ngưu, Ba đậu để hạ” Nếu do táo nhiệt kết ở trong, nên dùng thuốc mát để nhuận xuống, thuốc đắng để tiết ra Ma tử nhân hoàn (1), Canh y hoàn (2), Thanh lân hoàn (3), tuỳ chứng mà lựa dùng, do khí trệ nên thuận khí hành trệ như gia giảm Lục ma thang (4), âm huyết kém, nên dưỡng âm dùng Ngũ nhân hoàn (5), khí hư yếu, trọc âm ngưng kết, muốn cần thuốc ôn để thông, thì dùng Bán lưu hoàn (7), cần thuốc ôn để nhuận, thì dùng Thung dung nhuận trường hoàn (8).

  1. TÓM TẮT

Chứng táo bón là do đường ruột ít tân dịch sự bài tiết kém đi mà bệnh ra, tuy có chia ra táo nhiệt, khí trệ, hư bí, và lãnh bí khác nhau, nhưng đại khái có thể quy nạp làm 2 phương diện là hư và thực. Trong đó rêu lưỡi và mạch tương cũng là then chốt trọng yếu của việc biện chứng, như rêu lưỡi ngày càng dầy phần nhiều là nhiệt, kết, rêu lưỡi trắng trơn là “lãnh bí”, chất lưỡi đỏ là tân dịch khô huyết kém, lưỡi bệu là thuộc trung khí hư yếu. Còn về mạch thì hoạt thực là thực nhiệt, tế sáp là huyết hư, vi nhược thì phần nhiều là khí hư.

Phương pháp chữa chứng táo bón, nhiệt kết thì nên dùng thuốc mát để nhuận, đắng để tiết ra, hàn ngưng thì nên dùng ôn thông, để khai kết, khí trệ nên sơ khí và đạo trệ, tân dịch và huyết kém thì nên dùng nhuận táo thông tràng, lại còn có phép chữa ngoài, như là trừ đởm thấp và mật tiền đạo, đều có thể phối hợp mà dùng.

Xem thêm:

Đông y chữa Táo bón kéo dài

PHỤ PHƯƠNG

  1. Ma tử nhân hoàn: Ma nhân, hạnh nhân, thược dược, đại hoàng, xuyên phác, chỉ thực.
  2. Canh y hoàn: Lô hội, chu sa.
  3. Thanh lân hoàn: Đại hoàng.
  4. Lục ma thang: Trầm hương, mộc hương, tân lang, ô dược, chỉ thực, đại hoàng.
  5. Ngũ nhân hoàng: Đào nhân, hạnh nhân, trùng tử nhân, bách tử nhân, úc lý nhân.
  6. Hoàng kỳ thang: Hoàng kỳ, trần bì, ma nhân.
  7. Bán lưu hoàn: Bán hạ, lưu hoàng.
  8. Thung dung nhuận tràng hoàn: thung dung, trầm hương, dùng nước ma nhân quây hồ làm viên.

Chăm sóc trẻ sơ sinh: Tắm, Cắt móng và Tóc

Thật không may cho các bậc phụ huynh mới, trẻ sơ sinh không kèm theo sách hướng dẫn. Vì vậy, khi đối mặt với những nhiệm vụ mới trong việc làm cha mẹ, như tắm và cắt móng, một số bậc phụ huynh cảm thấy lo lắng hoặc bối rối.

Nếu bạn không chắc chắn về những điều cơ bản trong việc chăm sóc bé, đây là hướng dẫn hữu ích để giúp bạn thực hiện việc vệ sinh dễ dàng như tình yêu dành cho bé.

Cho đến khi cuống rốn của bé rụng, thường là sau tuần đầu tiên, bạn không nên cho bé tắm. Thay vào đó, hãy cho bé tắm bằng bọt biển. Những bé trai đã được cắt bao quy đầu không nên tắm cho đến khi dương vật đã hoàn toàn lành lại. Dưới đây là cách thực hiện:

Chọn một căn phòng ấm áp với bề mặt phẳng, chẳng hạn như phòng tắm, bề mặt bếp, bàn thay đồ hoặc giường. Bọc bề mặt bằng một chiếc khăn dày. Đảm bảo nhiệt độ phòng ít nhất là 75°F (24°C).

Chuẩn bị tất cả các sản phẩm tắm cho bé mà bạn sẽ cần:

  • Bọt tắm cho bé hoặc khăn rửa sạch (rửa hai lần)
  • Khăn tắm hoặc chăn sạch (chăn có mũ là tốt)
  • Tã sạch
  • Quần áo sạch
  • Vaseline và băng gạc (nếu bạn có bé trai đã cắt bao quy đầu)
  • Nước ấm (không nóng)

    Đồ dùng tắm cho trẻ sơ sinh tại nhà
    Đồ dùng tắm cho trẻ sơ sinh tại nhà

Các bước tắm bé:

  1. Đầu tiên, cởi bỏ quần áo của bé và đỡ đầu bé bằng một tay. Giữ tã lại vì bạn sẽ rửa khu vực đó cuối cùng. Bọc bé bằng một chiếc khăn, chỉ để lộ các vùng bạn đang rửa.
  2. Sử dụng bọt tắm hoặc khăn rửa để làm sạch từng khu vực một. Bắt đầu từ sau tai, sau đó di chuyển đến cổ, khuỷu tay, đầu gối, và giữa các ngón tay và ngón chân của bé. Chú ý đến các nếp gấp dưới cánh tay, sau tai và quanh cổ.
  3. Rửa tóc vào cuối thời gian tắm để bé không bị lạnh. Trong khi trẻ sơ sinh không có nhiều tóc, bạn có thể rửa những sợi tóc nhỏ đó. Để tránh nước rơi vào mắt, nghiêng đầu bé một chút. Không cần dùng dầu gội; chỉ sử dụng nước.
  4. Bây giờ là lúc để bỏ tã và rửa bụng, mông và bộ phận sinh dục của bé.
  5. Rửa các bé gái từ trước ra sau. Nếu có một ít dịch tiết âm đạo, đừng lo lắng—và đừng cố gắng lau sạch hoàn toàn. Nếu bé trai chưa cắt bao quy đầu, hãy để nguyên bao quy đầu. Nếu đã cắt, đừng rửa đầu dương vật cho đến khi nó lành lại.
  6. Nhẹ nhàng lau khô bé; chà xát da có thể gây kích ứng.

Thời gian tắm đã hết, và bé yêu của bạn đã sẵn sàng với một chiếc tã sạch và quần áo mới!

Tránh sử dụng sản phẩm của người lớn khi tắm cho bé.

Tắm bằng bồn

Khi cuống rốn của bé đã rụng, bạn có thể bắt đầu cho bé tắm. Bé không cần tắm mỗi ngày hai đến ba lần một tuần là đủ.

Việc tắm cho bé trong bồn tắm, bồn rửa hoặc bồn tắm là tùy thuộc vào bạn. Tuy nhiên, vì trẻ sơ sinh rất trơn khi ướt, một số phụ huynh thấy thoải mái hơn khi cho bé tắm trong không gian nhỏ hơn, chẳng hạn như bồn tắm cho trẻ sơ sinh hoặc bồn rửa.

Điều quan trọng nhất cần nhớ về việc tắm là không bao giờ để bé không có người trông. Trẻ sơ sinh có thể trượt xuống và nhanh chóng bị ngập trong chỉ vài inch nước. Việc sử dụng ghế tắm cho trẻ sơ sinh không đảm bảo rằng bé sẽ an toàn trong bồn tắm. Nhiều ghế có thể dễ dàng lật ngược. Nếu bạn cần rời khỏi phòng, hãy bọc bé trong một chiếc khăn và mang bé theo.

Không phải tất cả trẻ sơ sinh đều thích sự chuyển đổi sang tắm bồn, vì vậy nếu bé khó chịu, hãy quay lại tắm bọt biển trong một tuần, sau đó thử lại. Tắm cho bé là một quá trình một điều chỉnh cho cả bé và cha mẹ.

Chuẩn bị:

  • Tìm một bồn tắm cho trẻ sơ sinh làm bằng nhựa dày, có kích thước phù hợp cho bé. Một miếng đệm cho trẻ nhỏ là lý tưởng. Nó sẽ giúp giữ đầu bé khỏi nước. Một mặt sau không trơn trên bồn sẽ giữ nó không bị di chuyển trong suốt thời gian tắm. Tránh các bồn tắm bơm hơi hoặc bồn tắm cho trẻ sơ sinh có các cạnh thô hoặc đệm xốp, vì bé có thể vô tình nuốt phải một mảnh bị vỡ.
  • Đừng thử sử dụng ghế tắm hoặc vòng tắm. Những thứ này dành cho trẻ lớn có thể ngồi vững, không phải cho trẻ sơ sinh.
  • Để khăn rửa, xà phòng và dầu gội—mọi thứ bạn cần cho việc tắm—ở gần. Như vậy, bạn không phải rời khỏi phòng khi bé đã vào bồn. Ngoài ra, hãy chuẩn bị một chiếc tã và quần áo ở nơi bạn có thể dễ dàng với tới sau khi tắm.

    quần áo của Bé sơ sinh
    quần áo của Bé sơ sinh

Dưới đây là một số mẹo để tắm cho bé:

  1. Đổ đầy bồn tắm với 2 đến 3 inch nước. Nước tắm nên ấm nhưng không nóng. Để đảm bảo nước ở nhiệt độ đúng, hãy kiểm tra nó bằng khuỷu tay của bạn.
  2. Rửa mặt bé nhẹ nhàng bằng một chiếc khăn ướt. Sử dụng một miếng bông hoặc khăn ướt (không dùng xà phòng) để làm sạch mắt và mặt bé. Lau từ trong ra ngoài mỗi bên mắt. Đảm bảo bạn làm sạch mọi dịch tiết khô trên mũi và mắt.
  3. Xà phòng khăn rửa (sử dụng xà phòng hoặc nước tắm cho bé không gây cay mắt) và làm sạch cơ thể bé từ trên xuống dưới và từ trước ra sau. Đảm bảo bạn làm sạch mọi nếp gấp nhỏ. Rửa khu vực tã cuối cùng.
  4. Đổ đầy một cốc nước để làm ướt tóc bé. Cho một ít dầu gội trẻ em lên đầu bé. Xoa nhẹ theo chuyển động tròn. Giữ đầu bé nghiêng ra sau để dầu gội không chảy vào mắt.
  5. Đổ cốc thêm nước sạch để xả sạch tóc và cơ thể bé.
  6. Khi nâng bé ra khỏi bồn, hãy đỡ mông bằng một tay và đầu cùng cổ bằng tay còn lại. Đảm bảo bạn giữ chặt để bé không trượt đi.
  7. Bạn không cần sử dụng kem dưỡng ẩm, nhưng bạn có thể thoa một ít sau khi tắm nếu da bé đặc biệt khô. Nếu da bé vẫn rất khô, có thể bạn đang tắm cho bé quá thường xuyên.
  8. Sau khi tắm, hãy bọc bé trong khăn và nhẹ nhàng lau khô.

Nhiệt độ tắm cho bé

Khi bạn đổ đầy bồn tắm để tắm cho bé, hãy đảm bảo máy nước nóng của bạn được cài đặt ở khoảng 100°F (38°C). Đảm bảo rằng nhiệt độ nước dưới 120°F (49°C) để bạn không vô tình làm bỏng bé. Bé có thể dễ dàng bị lạnh khi ra khỏi bồn tắm, vì vậy hãy giữ nhiệt độ phòng ấm áp.

Đồ chơi tắm cho bé

Vì chúng ở trong và ra khỏi nước, đồ chơi tắm có thể dễ dàng bị nấm mốc. Nấm phát triển ở những nơi tối, ẩm và ấm. Vì vậy, trong khi bạn có thể thấy nấm trên bề mặt bên ngoài của đồ chơi tắm cho bé, thường thì nó phát triển tốt nhất bên trong những đồ chơi rỗng nơi nước có thể vào.

Bạn có thể lau sạch một ít nấm bên ngoài đồ chơi, nhưng nếu đồ chơi tắm của bé có mùi hôi hoặc có nhiều nấm hơn một chút, tốt nhất là nên vứt bỏ đồ chơi đó. Hầu hết các loại nấm không gây nguy hiểm đáng kể cho sức khỏe của bé, nhưng tốt nhất là nên tránh hoàn toàn.

Nếu bạn có một đứa bé mới sinh và đã có những đồ chơi tắm cũ lưu trữ trong một thời gian, có thể tốt để thay thế chúng phòng trường hợp chúng đã bị nấm mốc kể từ lần cuối bạn sử dụng.

Giữ cho đồ chơi càng khô càng tốt sẽ giúp chúng không bị nấm mốc. Sau khi tắm xong, hãy làm khô bất kỳ đồ chơi nào trong bồn và chắc chắn vệ sinh chúng thường xuyên bằng nước ấm và xà phòng. Mua đồ chơi đặc hoặc không có lỗ để ngăn nước vào bên trong, nơi có nguy cơ cao hơn cho sự phát triển của nấm mốc.

Trẻ sơ sinh dưới 6 tháng thường không cần đồ chơi tắm. Khi chúng lớn hơn một chút và có thể dễ dàng giữ đầu lên, các đồ chơi nổi, sách chống thấm nước và các vật chứa có thể giúp bé vui vẻ hơn trong suốt thời gian tắm.

Tình trạng da đầu (Cradle Cap)

Thật bình thường khi trẻ sơ sinh phát triển các mảng da đỏ và bong tróc trên da đầu, một tình trạng được gọi là cradle cap. Đây không phải là mối lo ngại lớn và rất dễ điều trị. Dưới đây là cách:

  1. Trước khi tắm, hãy xoa một ít vaseline hoặc dầu trẻ em lên da đầu của bé để làm lỏng da khô.
  2. Nhẹ nhàng xoa dầu vào da đầu bé bằng một bàn chải mềm hoặc khăn rửa để giải phóng các mảnh bong tróc.
  3. Gội đầu cho bé bằng dầu gội trẻ em nhẹ nhàng.

Tình trạng cradle cap sẽ tự cải thiện. Nếu nó vẫn tồn tại hoặc lan ra mặt, cổ, hoặc các phần khác của cơ thể bé, hãy gặp bác sĩ. Bạn có thể cần một loại dầu gội kê đơn mạnh hơn cho tóc bé và một loại kem cortisone cho cơ thể bé.

Cách cắt móng tay cho bé

Vì móng tay của bé mọc rất nhanh và bé có thể dễ dàng làm trầy xước chính mình, hãy cắt hoặc dũa móng tay của bé khoảng hai lần một tuần. Móng chân của bé không mọc nhanh như vậy, vì vậy bạn có thể cắt chúng một hoặc hai lần một tháng. Chỉ cần chú ý đến các cạnh sắc nhọn mà bạn có thể cần cắt.

Dù bạn chọn kéo, kẹp móng tay cho trẻ em hay dũa móng, tùy thuộc vào bạn. Xem xét kích thước nhỏ của móng tay bé, hãy quyết định cái nào bạn thấy thoải mái nhất khi sử dụng. Không bao giờ cắn móng tay của bé—bạn có thể gây nhiễm trùng.

Kẹp móng tay cho bé

Dưới đây là một số mẹo để việc cắt móng tay của bé trở nên dễ dàng hơn:

  1. Sử dụng kẹp móng tay dành cho trẻ em, không phải cho người lớn.
  2. Cắt móng tay sau khi tắm, khi móng tay mềm hơn. Đôi khi, việc cắt móng tay của bé khi bé đang ngủ và thư giãn sẽ dễ hơn. Nếu bạn sử dụng kéo hoặc kẹp, hãy ấn nhẹ da dưới móng tay xuống để bạn có thể dễ dàng tiếp cận hơn. Có thể có ích nếu để bạn đời giữ tay bé ổn định trong vài lần đầu tiên để bạn có thể tập trung vào việc cắt.
  3. Cắt móng tay theo đường cong tự nhiên của móng. Cắt móng chân theo chiều ngang.
  4. Nếu bạn vô tình làm đứt da của bé bằng kéo, hãy ấn nhẹ bằng một miếng tissue hoặc băng gạc. Sử dụng một ít thuốc mỡ kháng khuẩn lên vết cắt. Đừng băng bó lại vì bé có thể bị hóc.

Dũa móng tay cho bé

Việc dũa móng tay của bé thường có ít nguy cơ làm tổn thương da hơn. Sử dụng một tấm dũa móng tay để làm ngắn móng tay của bé hoặc để làm mịn bất kỳ cạnh sắc nhọn nào sau khi đã cắt chúng.

Viêm cầu thận cấp tính nên ăn gì

Triệu chứng:

Bệnh nhân đột nhiên thấy mắt và mặt sưng phù lên, sau đó phù đến tay chân. Bệnh nhân cần phải được chữa trị kịp thời. Sau đây chúng tôi giới thiệu các món ăn dân gian có tác dụng tốt cho bệnh nhân viêm cầu thận cấp tính.

Món 1: BÁNH THỊT CHIM SẺ

Nguyên liệu:

  • 5 con chim sẻ – 200gr thịt heo nạc.
  • một lượng bột đậu thích hợp.

Cách chế biến:

Làm thịt chim sẻ rồi bằm chung với thịt heo cùng các thứ gia vị cần thiết đế làm nhân bánh, dồn vào các miếng bột làm thành bánh rồi đem hấp khoảng 20 phút.

Cách ăn: Ăn bất cứ lúc nào, tùy khả năng.

Món 2: THỊT BÒ

Nguyên liệu:

  • Thịt đùi bò 250gr – Hoài sơn dược 10gr
  • câu kỷ 20gr – nhãn nhục 6gr.

    Vị thuốc Hoài sơn
    Vị thuốc Hoài sơn

Cách chế biến:

Trụng thịt bò vào nước sôi rồi vớt ra xắt miếng. Chiên các miếng thịt bò này bằng dầu đậu phọng, đố vào thịt khoảng 10gr rượu vang. Hoài sơn, cẩu kỷ và nhãn nhục bỏ vào một cái tô cho thêm các gia vị như gừng, hành, muối… đem chưng với thịt bò khoảng 2 tiếng đồng hồ cho thịt bò mềm hẳn thì lấy ra.

Cách ăn: Ăn chung với cơm.

Công hiệu: ích khí bổ thận.

Nguyên liệu:

  • Thịt bồ câu 240gr – rau cần 500gr – mã thầy 90gr
  • ớt 15gr – Trần bì lổgr – vỏ tôm sú 60gr
  • chi ma nấu chín 6gr
  • 2 trứng gà và một ít tinh bột.

Món 3:

Nguyên liệu:

– Bột trạch tả 10gr – gạo 50gr.

Trạch tả
Trạch tả

Cách chế biến:

Nấu gạo trong 500ml nước cho đến khi hạt gạo vừa nở ra thì cho trạch tả vào, để lửa nhỏ cho đến khi cháo đặc lại.

Cách ăn: Ăn lúc nóng lúc sáng và tối. Công hiệu: Lợi tiểu, tiêu phù.

Nasonex

Nasonex - Thuốc nước xịt mũi trị viêm mũi dị ứng
Nasonex – Thuốc nước xịt mũi trị viêm mũi dị ứng

NASONEX

Dung dịch xịt mũi 50 mg/lần xịt: bình xịt 40 liều, 120 liều – Bảng B.

THÀNH PHẦN

cho 1 lần xịt
Mometasone furoate monohydrate, tính theo mometasone furoate 50 mg

MÔ TẢ

Thuốc nước để xịt mũi Nasonex là một bình xịt có bơm phân liều bằng tay, chứa một hỗn dịch của mometasone furoate. Mỗi lần ấn bơm phân liều cung cấp khoảng 100 mg hỗn dịch mometasone furoate, chứa một lượng mometasone furoate monohydrate tương đương với 50 mg mometasone furoate.

Tá dược: cellulose, glycerol, citric acid monohydrate, natri citrate dihydrate, polysorbate 80, benzalkonium chloride, phenylethyl alcohol và nước tinh chế.

Chất bảo quản: benzalkonium chloride 0,2 mg/g và phenylethyl alcohol 2,5 mg/g.

DƯỢC LỰC

Mometasone furoate là một corticosteroid dùng ngoài với tính chất chống viêm tại chỗ ở các liều không có các tác dụng toàn thân.

DƯỢC LÝ LÂM SÀNG

Mometasone furoate dùng dạng xịt mũi có sinh khả dụng toàn thân không đáng kể (<= 0,1%) và nói chung không phát hiện được trong huyết tương, mặc dù sử dụng một ph  p định lượng nhạy với giới hạn xác định thấp 50 pg/ml ; do đó, không có dữ liệu dược động học tương ứng cho dạng dùng này. Hỗn dịch mometasone furoate hấp thụ rất kém bởi đường tiêu hóa và một lượng nhỏ có thể được nuốt và hấp thụ trải qua một quá trình chuyển hóa bước đầu rộng rãi trước khi thải trừ theo nước tiểu và mật.

Trong các nghiên cứu dùng các kháng nguyên đường mũi, Nasonex cho thấy có tác dụng kháng viêm ở cả các đáp ứng dị ứng pha sớm và muộn. Nó đã được chứng tỏ bởi sự giảm (so với placebo) của histamin và các bạch cầu ưa eosin, bạch cầu trung tính và các protein kết dính tế bào biểu mô.

CHỈ ĐỊNH

Nasonex được chỉ định cho người lớn và trẻ em trên 12 tuổi để điều trị các triệu chứng viêm mũi theo mùa và viêm mũi dị ứng quanh năm.

Ở các bệnh nhân có tiền sử các triệu chứng trung bình đến nặng của viêm mũi dị ứng theo mùa, điều trị dự phòng bằng Nasonex được khuyên dùng 2 đến 4 tuần trước thời gian dự kiến bắt đầu của mùa phấn hoa.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Mẫn cảm với bất cứ thành phần nào của thuốc.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Nasonex không được dùng khi có các nhiễm trùng khu trú không được điều trị ở niêm mạc mũi. Vì tác dụng ức chế sự lành vết thương của các corticosteroid, các bệnh nhân vừa qua phẫu thuật mũi hay chấn thương mũi không được dùng corticosteroid đường mũi cho tới khi lành.

Sau 12 tháng điều trị với Nasonex, không có bằng chứng về sự teo niêm mạc mũi ; cũng như vậy, mometasone furoate có khuynh hướng làm phục hồi niêm mạc mũi gần với kiểu hình mô học bình thường. Cũng như với bất kỳ điều trị dài hạn nào, các bệnh nhân dùng Nasonex trong vài tháng hoặc dài hơn phải được kiểm tra định kỳ về các thay đổi có thể có ở niêm mạc mũi. Nếu xuất hiện nhiễm nấm khu trú ở mũi hoặc họng, ngưng dùng Nasonex hoặc có thể yêu cầu điều trị thích hợp. Kích ứng mũi họng dai dẵng có thể là một chỉ định để ngưng dùng Nasonex.

Thận trọng khi dùng Nasonex cho bệnh nhân bị nhiễm trùng lao đường hô hấp không hoạt động hoặc hoạt động, hoặc các nhiễm trùng virus toàn thân, vi khuẩn, nấm chưa được điều trị hoặc herpes simplex ở mắt.

Không có bằng chứng suy trục tuyến dưới đồi-tuyến yên-thượng thận (HPA) sau khi điều trị kéo dài với Nasonex. Tuy nhiên các bệnh nhân chuyển từ sử dụng dài hạn các corticosteroid đường toàn thân sang dùng Nasonex cần được theo dõi cẩn thận. Ngưng dùng corticosteroid đường toàn thân ở các bệnh nhân này có thể dẫn đến suy thượng thận trong một số tháng cho tới khi chức năng của trục HPA hồi phục. Nếu các bệnh nhân này có dấu hiệu và triệu chứng của suy thượng thận, phải dùng lại corticosteroid đường toàn thân, đồng thời các phương pháp điều trị và đánh giá phải được tiến hành.

Trong khi chuyển từ dùng corticosteroid đường toàn thân sang dùng Nasonex, vài bệnh nhân có thể bị các triệu chứng của việc ngưng dùng các corticosteroid tác dụng toàn thân (ví dụ đau khớp và/hoặc cơ, mệt mỏi và bắt đầu suy nhược), tuy nhiên các triệu chứng mũi sẽ thuyên giảm và vẫn có tiếp tục việc trị liệu với Nasonex. Sự chuyển thuốc như vậy cũng có thể làm bộc lộ các tình trạng dị ứng tồn tại từ trước như viêm kết mạc dị ứng và eczema, đã bị ức chế trước đó bởi trị liệu với corticosteroid đường toàn thân.

Các bệnh nhân dùng corticosteroid mà đã bị ức chế miễn dịch phải được cảnh báo về nguy cơ của việc tiếp xúc với các nhiễm trùng (ví dụ thủy đậu, sởi) và tầm quan trọng của việc xin ý kiến của thầy thuốc nếu có các tiếp xúc như vậy.

Sau khi dùng các corticosteroid phun mù vào mũi, các trường hợp cá biệt thủng vách ngăn mũi hoặc tăng áp suất nội nhãn đã được báo cáo là rất hiếm.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Không có các nghiên cứu được kiểm soát tốt hoặc đầy đủ trên phụ nữ có thai. Sau khi xịt mũi liều khuyến cáo lâm sàng tối đa cho bệnh nhân, nồng độ mometasone trong huyết tương là không đo được, như vậy sự tiếp xúc của thai nhi với thuốc được xem là không đáng kể và khả năng độc tính trên sự sinh sản là rất thấp.

Cũng như các chế phẩm corticosteroid dùng cho mũi khác, Nasonex chỉ nên dùng cho phụ nữ có thai, cho con bú hoặc phụ nữ ở tuổi sinh sản khi lợi ích có thể có lớn hơn nguy cơ tiềm tàng cho người mẹ, thai nhi và trẻ nhỏ. Trẻ em có mẹ dùng corticosteroid trong khi mang thai phải được theo dõi kỹ về chứng suy thượng thận.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Thuốc nước để xịt mũi Nasonex đã được dùng đồng thời với loratadine mà không có tác động rõ ràng nào về nồng độ của loratadine hoặc các chất chuyển hóa chính của nó trong huyết tương. Nồng độ mometasone furoate trong huyết tương là không phát hiện được. Điều trị phối hợp được dung nạp tốt.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Các phản ứng bất lợi tại chỗ liên quan đến điều trị được báo cáo trong các nghiên cứu lâm sàng bao gồm chảy máu cam (bao gồm chảy máu, niêm mạc nhuốm màu máu và vết máu lốm đốm (8%), viêm họng (4%), rát mũi (2%) và kích ứng mũi (2%), chúng là các đặc trưng được thấy khi dùng thuốc xịt mũi corticosteroid. Chảy máu cam nói chung được tự kiểm soát và nhẹ về mức độ, và xảy ra ở tỷ lệ cao hơn so với placebo (5%) nhưng ở tỷ lệ tương đương hoặc thấp hơn so với các corticosteroid dùng điều trị mũi được nghiên cứu (tới 15%). Tỷ lệ bị các tác dụng khác là tương đương với placebo.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Sau lần đầu mồi bơm Thuốc nước để xịt mũi Nasonex (thường ấn 6 đến 7 lần cho tới khi thấy thuốc xịt ra là đồng đều), mỗi lần ấn cung cấp khoảng 100 mg hỗn dịch mometasone furoate, chứa một lượng mometasone furoate monohydrate tương đương với 50 mg mometasone furoate. Nếu không dùng bơm xịt trong 14 ngày hoặc hơn, phải mồi lại bơm trước khi dùng lần tiếp theo.

Lắc kỹ lọ trước mỗi lần dùng.

Người lớn (bao gồm cả bệnh nhân già) và trẻ em từ 12 tuổi trở lên: Liều khuyến cáo thông thường để phòng bệnh và điều trị là 2 lần xịt (50 mg mỗi lần xịt) vào mỗi bên mũi (tổng liều 200 mg). Chỉ khi các triệu chứng được kiểm soát, liều giảm xuống 1 lần xịt cho mỗi bên mũi (tổng liều 100 mg). Nên giảm liều sau khi đã kiểm soát được các triệu chứng.

Thời gian bắt đầu tác dụng đáng kể về lâm sàng xảy ra 12 giờ sau liều đầu tiên.

QUÁ LIỀU

Vì sinh khả dụng hệ thống không đáng kể (<= 0,1%) của Nasonex, khi dùng quá liều không cần bất kỳ điều trị nào ngoại trừ việc theo dõi, sau đó bắt đầu dùng liều được kê thích hợp.

BẢO QUẢN

Bảo quản nơi mát, dưới 25oC.

Các tình trạng bạn có thể gặp phải cùng với bệnh rung nhĩ

Khi bạn bị rung nhĩ (AFib), có khả năng bạn cũng có một tình trạng sức khỏe khác. Tùy thuộc vào tình trạng đó, việc điều trị có thể cải thiện tình trạng Rung nhĩ của bạn. Đó là lý do tại sao việc làm việc chặt chẽ với bác sĩ của bạn là rất quan trọng.

Dưới đây là một số vấn đề liên quan đến Rung nhĩ mà bạn cần lưu ý.

Huyết áp cao (Tăng huyết áp)

Theo thời gian, huyết áp cao không được kiểm soát có thể làm tăng khả năng bạn bị rung nhĩ. Hơn nữa, bệnh tim do huyết áp cao, được gọi là bệnh tim tăng huyết áp, là tình trạng sức khỏe cơ bản phổ biến nhất ở những người mắc Rung nhĩ.

Huyết áp cao thường không gây ra triệu chứng. Bạn sẽ cần biết chỉ số huyết áp của mình và nếu chúng quá cao. Nếu có, bác sĩ của bạn sẽ nói chuyện với bạn về các thay đổi lối sống (như dinh dưỡng, giảm sodium và tập thể dục thường xuyên) và có thể cũng sẽ kê đơn thuốc.

Bệnh mạch vành

Bác sĩ của bạn có thể gọi đây là bệnh động mạch vành. Điều này có nghĩa là có sự tích tụ mảng bám trong các động mạch mang máu giàu oxy đến cơ tim của bạn. Nếu bệnh mạch vành gây ra suy tim hoặc nhồi máu cơ tim, điều này có thể làm tăng khả năng bạn bị Rung nhĩ. Tuy nhiên, nếu điều trị giữ bệnh tim ở mức ổn định, khả năng bạn bị rung nhĩ do điều này sẽ thấp hơn nhiều.

Thông thường, bệnh mạch vành không có triệu chứng. Nếu có, chúng thường xuất hiện khi bạn tập thể dục. Một số triệu chứng là:

  • Đau, áp lực, hoặc khó chịu ở giữa ngực
  • Đau hoặc tê ở cánh tay, lưng, cổ, hàm hoặc bụng
  • Khó thở
    Nếu bạn có bất kỳ triệu chứng nào như vậy, hãy tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức.

Suy tim

Đây là tình trạng tim không bơm máu như nó nên làm. Thường gặp là có cả suy tim và Rung nhĩ. Việc có một trong hai tình trạng này có thể làm bạn dễ bị mắc phải tình trạng còn lại. Mức độ nặng của suy tim càng cao, khả năng bạn bị rung nhĩ càng lớn.

Ban đầu, bạn có thể không có triệu chứng của suy tim. Nếu tình trạng trở nên nghiêm trọng hơn, bạn có thể:

  • Cảm thấy mệt mỏi, yếu, choáng váng hoặc chóng mặt
  • Gặp khó khăn trong việc thở
  • Nhịp tim nhanh ngay cả khi bạn đang nghỉ ngơi
  • Nhận thấy chân, mắt cá chân và chân bị sưng

Bệnh van tim

Đây là khi một hoặc nhiều van trong bốn van của tim bạn không hoạt động hiệu quả. Các van này mở và đóng theo trình tự khi tim bạn đầy máu và sau đó bơm máu để đảm bảo máu chảy vào và ra khỏi tim và đến phần còn lại của cơ thể. Bệnh van tim có thể đóng vai trò trong việc khiến một người mắc Rung nhĩ.

Nếu bạn bị bệnh van tim, có thể bạn sẽ không nhận thấy triệu chứng ngay lập tức. Nhưng một số dấu hiệu có thể bao gồm:

  • Đau ngực
  • Nhịp tim nhanh hoặc nhịp tim bị bỏ lỡ
  • Khó thở
  • Cảm thấy mệt mỏi hoặc yếu
  • Ngất xỉu hoặc cảm giác choáng váng
  • Sưng ở mắt cá chân, bàn chân hoặc bụng

Bệnh cơ tim phì đại

Đây là khi cơ tim của bạn dày lên, làm cho bốn buồng bên trong nhỏ lại. Điều này có thể làm khó khăn cho tim của bạn trong việc bơm máu. Nếu không được kiểm soát bằng điều trị, nó có thể làm tăng khả năng bạn bị Rung nhĩ và các vấn đề tim mạch khác.

Bạn có thể không có triệu chứng của bệnh cơ tim phì đại. Nhưng nếu có, các dấu hiệu cảnh báo có thể bao gồm:

  • Khó thở, đặc biệt khi bạn tập thể dục hoặc nằm xuống
  • Đau ngực có thể nặng hơn khi bạn hoạt động
  • Ngất xỉu hoặc cảm giác như bạn sắp ngất
  • Nhịp tim nhanh hoặc nhịp tim bị bỏ lỡ
  • Chân, mắt cá chân hoặc chân bị sưng

Bệnh tim bẩm sinh

Đây là một vấn đề với cấu trúc của tim mà bạn đã sinh ra. Nếu bạn bị bệnh tim bẩm sinh, khả năng bạn mắc Rung nhĩ có vẻ cao hơn, đặc biệt khi bạn trên 60 tuổi.

Có thể không có triệu chứng của một vấn đề tim bẩm sinh, nhưng các dấu hiệu có thể bao gồm:

  • Nhịp tim không đều
  • Da, môi và móng tay có màu xanh
  • Khó thở
  • Các bộ phận cơ thể bị sưng

Béo phì

Béo phì được định nghĩa là chỉ số khối cơ thể (BMI) từ 30 trở lên. (BMI liên quan đến các rủi ro sức khỏe dựa trên trọng lượng của bạn so với chiều cao của bạn.) Điều này có thể làm tăng khả năng bạn bị rung nhĩ so với những người có trọng lượng khỏe mạnh. Giảm cân – có thể chỉ 10% trọng lượng cơ thể của bạn – có thể giúp giảm tần suất hoặc mức độ nghiêm trọng của triệu chứng Rung nhĩ.

Ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn (OSA)

Đây là khi các cơ trong cổ họng của bạn liên tục thư giãn và chặn đường thở của bạn khi bạn ngủ, khiến hơi thở của bạn ngừng và bắt đầu. Có thể OSA có thể gây ra Rung nhĩ, nhưng cần có thêm nghiên cứu.

Một số triệu chứng của ngưng thở khi ngủ tắc nghẽn là:

  • Ngáy to
  • Giấc ngủ không yên
  • Thức dậy trong tình trạng nghẹt thở hoặc thở hổn hển
  • Cảm thấy buồn ngủ vào ban ngày

Thuyên tắc tĩnh mạch

Bác sĩ của bạn có thể sử dụng thuật ngữ này khi nói về cục máu đông trong một tĩnh mạch sâu (gọi là DVT) hoặc thuyên tắc phổi, tức là khi cục máu đông di chuyển đến phổi của bạn và chặn một động mạch ở đó. Điều này có thể gây chết người.

Thuyên tắc tĩnh mạch có thể trở thành một tình trạng mãn tính cho một số người. Nó liên quan đến khả năng cao hơn trong việc mắc Rung nhĩ, đặc biệt là trong 6 tháng đầu sau khi bạn bị cục máu đông.

DVT thường ảnh hưởng đến chân hoặc vùng chậu, và đôi khi là cánh tay. Khoảng một nửa số người không có triệu chứng. Nhưng bạn có thể có các dấu hiệu như:

  • Đau, sưng hoặc nhạy cảm
  • Da đỏ

Một số triệu chứng của thuyên tắc phổi là:

  • Khó thở
  • Nhịp tim nhanh hoặc không đều
  • Đau hoặc khó chịu ở ngực, thường trở nên nặng hơn khi bạn hít sâu hoặc ho
  • Ho ra máu
  • Cảm giác choáng váng hoặc ngất

Cường giáp

Điều này có nghĩa là tuyến giáp của bạn sản xuất quá nhiều hormone điều khiển cách cơ thể bạn sử dụng năng lượng. Điều này có thể làm tăng khả năng bạn bị Rung nhĩ. Một số chuyên gia khuyến nghị mọi người bị rung nhĩ nên thực hiện xét nghiệm máu để kiểm tra cường giáp.

Một số người không có triệu chứng của cường giáp, nhưng các dấu hiệu có thể bao gồm:

  • Cảm thấy lo âu hoặc dễ bị kích thích
  • Khó ngủ
  • Yếu, đặc biệt ở tay và đùi
  • Rung rẩy
  • Thường xuyên ra mồ hôi
  • Nhịp tim nhanh hoặc không ổn định

Tiểu đường

Điều này liên quan đến khả năng cao hơn trong việc mắc Rung nhĩ, đặc biệt nếu bạn không kiểm soát lượng đường trong máu của mình trong thời gian dài. Tiểu đường không được kiểm soát liên quan đến các triệu chứng Rung nhĩ nghiêm trọng hơn và nhiều lần phải nhập viện.

Một số triệu chứng của tiểu đường là:

  • Đi tiểu nhiều, đặc biệt vào ban đêm
  • Khát nước hoặc đói khát cực độ
  • Giảm cân mà không cần cố gắng
  • Nhìn mờ
  • Tê hoặc ngứa ở tay hoặc chân

Bệnh thận mãn tính

Điều này có nghĩa là thận của bạn không lọc máu tốt như trước đây, và nếu không được điều trị, chúng có thể cuối cùng ngừng hoạt động. Bệnh thận mãn tính làm tăng nguy cơ mắc Rung nhĩ của bạn.

Nếu bệnh trở nên nghiêm trọng hơn, nó có thể gây ra các triệu chứng như:

  • Chân, mắt cá chân hoặc chân bị sưng
  • Cảm thấy mệt mỏi
  • Gãy xương

Bệnh phổi

Nếu bạn có bệnh phổi kéo dài, đặc biệt là bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD), điều này có thể làm tăng khả năng bạn bị rung nhĩ.

Một số triệu chứng của COPD là:

  • Khó thở
  • Ho có đờm
  • Khó thở (tiếng rít khi bạn thở)
  • Cảm giác chặt chẽ trong ngực

Hội chứng nút xoang bệnh lý

Bác sĩ của bạn có thể gọi đây là “rối loạn chức năng nút xoang.” Đây là một vấn đề với hệ thống điện của tim bạn có thể gây ra chóng mặt, đau ngực và ngất xỉu. Nó có thể làm tăng khả năng bạn bị Rung nhĩ.

Nếu hội chứng nút xoang bệnh lý gây ra triệu chứng, bạn có thể gặp phải các triệu chứng như:

  • Cảm thấy chóng mặt hoặc choáng váng
  • Ngất xỉu hoặc cảm giác như bạn sắp ngất
  • Khó thở tăng lên trong khi tập thể dục
  • Đau ngực, đặc biệt là trong khi tập thể dục hoặc trong thời gian căng thẳng
  • Nhịp tim nhanh, mạnh hoặc bị bỏ lỡ

Lo âu và trầm cảm

Bạn có thể có khả năng mắc một trong hai tình trạng sức khỏe tâm thần này cùng với bệnh rung nhĩ. Cần có thêm nghiên cứu để tìm hiểu xem Rung nhĩ có thể làm tăng khả năng bạn mắc lo âu hoặc trầm cảm hay không, hoặc liệu có phải ngược lại. Bởi vì một trong hai tình trạng sức khỏe tâm thần này có thể làm nghiêm trọng thêm triệu chứng Rung nhĩ của bạn, điều quan trọng là phải tìm kiếm sự giúp đỡ từ bác sĩ và người thân nếu bạn cảm thấy lo âu hoặc buồn bã trong một thời gian dài.

Phác đồ cấp cứu gãy xương

Định nghĩa

Là quá trình phá hủy xương do chấn thương hoặc do bệnh lý

Phân loại gãy xương theo cơ chế tổn thương

  • Chấn thương trực tiếp gãy do va đập, do đè nén, do lực xuyên thủng
  • Chấn thương gián tiếp

_ Gãy do lực kéo căng

_ Gãy gấp góc

_ Gãy xoay

_ Gãy do lực nén

_ Gãy do lực nén và vẹo một bên

  • Gãy xương hở: vết thương rách da, chảy máu, lòi xương…
  • Phân loại gãy hở theo Gustilo:

Độ1: Rách da dưới 1cm,thường đầu gãy chọc từ trong ra, vết thương tương đối sạch.

Độ 2: Rách da rộng từ 1-10cm.

Độ 3: Rách da rộng trên 10cm. được chia 3 loại:

+  3A : tổn thương da và phần mềm rộng, xương còn được che phủ.

+  3B : như trên nhưng có lộ xương, phải tạo hình che phủ xương

+  3C : như trên, và có tổn thương mạch máu, thần kinh

Chẩn đoán lâm sàng

  1. Dấu hiệu đau
  2. Mất cơ năng
  3. Biến dạng
  4. Một số tư thế gợi ý thương tổn, VD: tay lành đỡ tay đau
  5. Di động bất thường, tiếng lạo xạo
  6. Tổn thương mạch máu, thần kinh

Chẩn đoán CLS

  1. X Quang
  1. Chụp cộng hưởng từ (MRI): khi nghi ngờ tổn thương tủy do gãy cột sống, các loại gãy gần ổ khớp mà XQ khó quan sát

Điều trị gãy xương : 03 giai đoạn

Xử trí cấp cứu:

_ Cố định chi gãy: nẹp tạm như: nẹp tre, nẹp nhôm, nẹp Cramer, ….

_ Giảm đau: Perfalgan 100ml /1gr (paracetamol) TTM C giọt/phút. Nhóm giảm  đau  kháng  viêm  non-steroid:  Diclofenac  75mg,  Mobic  15mg

….TB 1-3 ống/ngày. Thuốc giảm đau khác như Paracetamol  300mg + lidocain 20mg (Centranol), Nefopam (Accupan) 1-3 ống TB/ngày.

_ Truyền dịch: cho ngay dung dịch sinh lí : NaCl 9% , Lactate Ringer… Tốc độ dịch truyền tùy thuộc vào từng bệnh nhân. VD: gãy kín xương đùi mất máu # 1 -2,5lit. Gãy xương chày mất # 0,5 -1,5 lít. Gãy khung chậu #1,5 – mất hết máu.

_ Điều trị chỉnh hình: thuộc chuyên khoa (CTCH)

+ Phương pháp kín: nắn bó bột, băng kéo liên tục…

+ Phương pháp hở: mổ

_ Phục hồi chức năng sau gãy xương: thuộc chuyên khoa (CTCH)

Tài liệu tham khảo

Nguyễn Thụ, “Cấp cứu gãy xương”, Cẩm nang cấp cứu, NXB Y học, 2003, trang 476-479.

Ngũ tâm phiền nhiệt – hai lòng bàn tay, bàn chân nóng ấm

Khái niệm

Ngũ tâm phiền nhiệt là chỉ hai lòng bàn tay, bàn chân phát nhiệt và tự cảm thấy vùng ngực phiền nhiệt trong khi thân nhiệt thăng cao. Cũng có trường hợp có chứng trạng hư phiền phát nhiệt mà thân nhiệt không thăng cao.

Nghịch điều luận-sách Tố vấn có câu “Âm khí ít mà dương khí thịnh cho nên nhiệt mà phiền đầy” và “Âm hư sinh nội nhiệt”, xếp phiền với nhiệt là một chứng trạng đồng thời xuất hiện quy nạp vào thể âm hư.

Nếu Thận hư thấp nhiệt dồn xuống, hai lòng bàn chân nóng kiêm cả chứng bụng chân cũng phát nhiệt và đau không thuộc phạm vi thảo luận ở mục này.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Ngũ tâm phiền nhiệt do âm hư: Có chứng trạng ngũ tâm phiền nhiệt, về chiều thì nhiệt tăng, tay muốn cầm vật lạnh, khi nằm thì tay chân thích để ngoài chăn, mồ hôi trộm, di tinh, gò má đỏ, lưng gối mỏi, miệng ráo họng khô, chất lưỡi đỏ lựng, sáng bóng hoặc ít rêu, mạch Trầm Tẽ Sác.
  • Ngũ tâm phiền nhiệt do huyết hư:về buổi chiều tự cảm thấy lòng bàn tay, bàn chân nóng, hễ mệt nhọc tí chút là bệnh tăng, tinh thần, thân thể mỏi mệt, kém ăn biếng nói, hồi hộp đầu mắt choáng váng, chất lưỡi nhạt, mạch Tế Nhược hoặc Tế Sác.
  • Ngũ tâm phiền nhiệt do tà ẩn náu ở âm phận: Lòng bàn tay chân nóng, tâm phiền, kém ngủ có khi sốt nhẹ tối nhiệt, sáng mát, nhiệt lui vẫn khó chịu, hoặc ăn được mà vẫn gầy còm, chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Huyền Tế hơi Sác.
  • Ngũ tâm phiền nhiệt do hoả uất: Ngũ tâm phiền nhiệt, ngực khó chịu, tình chí không thoải mái, nóng nảy hay giận, đầu trựớng miệng đắng, tiểu tiện đỏ, phụ nữ thì hành kinh khó khăn, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch Trầm Sác.

Phân tích

  • Chứng Ngũ tâm phiền nhiệt do âm hư: 5 tạng âm hư đều có thể xuất hiện Ngũ tâm phiền nhiệt, nhất là hay gặp âm hư ở 3 tạng Phế Tỳ Thận. Trong đó chứng Phế âm hư thường do bị “Phế lao” lâu ngày chữa không khỏi, Phế âm hao thương gây nên có triệu chứng: triều nhiệt xương nóng âm ỉ, mồ hôi trộm, khái thấu đoản hơi. Nặng hơn thì khạc ra huyết, lưỡi đỏ, mạch Tế Sác. Điều trị theo phép tư âm dưỡng huyết, thanh nhiệt trừ nóng âm ỉ dùng phương

Tần giao miết giáp tán. Can Thận âm hư thì do mệt nhọc quá độ hoặc Can bệnh lâu ngày không khỏi hao huyết thương âm. Can âm đã hư, hỏa của Can Đởm thiên vượng có các chứng trạng: lòng bàn tay chân nóng. Tâm hung phiền nhiệt, miệng khát không muốn uống, ít ngủ, thân thể mỏi mệt, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Huyền Tế Sác. Điều trị theo phép tư âm dưỡng huyết thanh nhiệt dùng phương Thanh cốt tán gia vị. Thận âm hư có thể do âm hư ở các tạng khác liên lụy đến, tức như nói “Cuối cùng phải đến Thận”. Hoặc là do phòng sự không điều độ, buông thả quá mức, Thận tinh khuy tổn thì Thận âm cũng hư có các chứng trạng: ngũ tâm phiền nhiệt tai ù, di tinh, mồ hôi trộm. Lưng là phủ của Thận, Thận hư cho nên lưng gối mềm yếu, mạch Trầm Tế Sác, điều trị nên tư dưỡng Thận tinh thanh nhiệt trừ nung nấu dùng phương Tả quy hoàn gia Địa cốt bì, Bạch vi… Trên lâm sàng âm hư của 3 tạng Phế Can Thận thường đồng thời xuất hiện ảnh hưởng lẫn nhau, biện pháp chung là phải dưỡng âm thanh nhiệt, trừ phiền dùng Thanh cốt tán, tuỳ chứng mà gia giảm .

  • Chứng ngũ tâm phiền nhiệt do huyết hư: Thường hình thành cả Can Tỳ đều hư, Tỳ là gốc của hậu thiên, phân tán tinh khí của ngũ cốc, hoá sinh ra khí huyết. Can là một tạng chứa huyết. Khi Can và Tỳ bị tổn thương, sự sinh huyết và chứa huyết mất chức năng dẫn đến huyết hư, bên ngoài thì không làm tươi tốt bì mao cho nên sắc mặt và da dẻ xanh nhợt. Can hoả thiên thịnh thì ngũ tâm phiền nhiệt không dâng lên để nuôi đầu, mắt làm cho đầu choáng, mặt đỏ bừng. Tâm huyết không đầy đủ cho nên hồi hộp chất lưỡi nhợt, mạch Tế Nhược. Can là “Cái gốc của bĩ cực”, Can hư không chịu nổi mệt nhọc cho nên hễ có chút mệt nhọc là sinh ra sốt nhẹ. Điều trị nên điều Can, lý Tỳ dùng phương Bổ Can thang gia Địa cốt bì…
  • Chứng Ngũ tâm phiền nhiệt do tà khí ẩn náu ở âm phận: Phần nhiều do ngoại cảm, bỏ lỡ cơ hội điều trị hoặc chữa nhầm, dư tà lưu lại ẩn náu ở Doanh âm gây nên. Yếu điểm chẩn đoán phân biệt ở chỗ đêm nóng, sáng mát, nhiệt lui không ra mồ hôi, ăn được mà thể trạng vẫn gầy còm . Ban đêm thì Doanh khí chống với tà khí đạt ra ngoài dương phận nên phát nhiệt. Sáng sớm bệnh tà lại trở về âm phận chứ không rải ra ngoài cho nên nhiệt lui mà không mồ hôi. Dư tà lưu luyến lâu ngày Doanh âm tổn thương không làm đầy chắc cơ bắp cho nên thể trạng gầy còm. Sách Ôn bệnh điều biện nói: “Ban đêm đi vào âm phận mà nhiệt, ban ngày đi vào dương phận mà mát, như vậy có thể biết tà khí vào sâu âm phận, nhiệt lui mà không mồ hôi. Tà không ra biểu mà vẫn quay về âm phận lại càng biết rõ”. Điều trị theo phép tư âm thấu tà dùng phương Thanh cao Miết giáp thang.
  • Chứng Ngũ tâm phiền nhiệt do hỏa uất: Phần nhiều do cơ chuyển không lợi, dương uất không đạt được hoặc ngoại tà chưa giải, dùng quá nhiều thuốc hàn lương, tà khí giá lạnh mai phục hoặc ăn quá nhiều đồ lạnh lấn át Vị dương không được điều tiết. Có chứng trạng vùng Tâm hung và lòng bàn chân tay nóng, tứ chi cũng nóng tiểu tiện đỏ, phiền táo dễ nóng giận, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch Huyền Sác. Điều trị theo phép thanh Can tán hoá giải uất, dùng phương Hoả uất thang gia giảm. Nếu Vị dương bị thức lạnh chèn ép, dương khí không phân tán được, uất lại sinh nhiệt, có các chứng ngũ tâm phiền nhiệt, chân tay rã rời, phiền muộn không mồ hôi, điều trị theo phép thăng dương tán hoả dùng phương Thăng dương tán hoả thang.

Ngũ tâm phiền nhiệt do hỏa uất thuộc Thực chứng khác hẳn với loại Nội thương phát nhiệt do âm hư huyết hư. Trên lâm sàng cần nắm vững chứng trạng của Can uất hỏa nhiệt có chứng ngũ tâm phiền nhiệt kiêm cả tứ chi phát nhiệt, đầu trướng miệng đắng, tiểu tiện đỏ là có thể chẩn đoán phân biệt được.

Lòng bàn tay, bàn chân và vùng Tâm hung người ta thuộc lý, thuộc âm. Âm hư thì nhịêt từ trong sinh ra cho nên biểu hiện ngũ tâm phiền nhiệt. Nội nhiệt uất át không tiết ra ngoài được cho nên cảm thấy Tâm phiền. Trên lâm sàng tuy chứng lòng bàn tay bàn chân đồng thời phát nhiệt khá nhiều nhưng cũng không ít trường hợp lòng bàn tay nóng mà lòng bàn chân thì không nóng lắm hoặc lòng bàn chân nóng nhiều mà lòng bàn tay lại cảm thấy không nóng lắm. Phép điều trị cơ bản chủ yếu là lấy tư âm thanh nhiệt trừ phiền, không được mới thấy phiền nhiệt mà đã vội dùng các thuốc đắng lạnh, dùng bừa các thuốc thanh tiết.

Trích dẫn y văn

Chứng hư lao lý cấp hồi hộp đổ máu mũi, đau bụng, chân tay đau mỏi, tứ chi phiền nhiệt, họng khô miệng ráo, Tiểu Kiến trung thang chủ chữa bệnh ấy (Huyết tý hư lao bệnh mạch tính trị đệ lục – Kim quỹ yếu lược).

Bàn về chứng Tâm phiền nhiệt là do Thủ Thiếu âm kinh hữu dư gây nên. Nếu bất túc cũng có thể làm cho người ta hư phiền (Thánh tế tổng lục – quyển 43).

Nhiễm Giardia – Chẩn đoán và điều trị

Nhiễm Giardia là tình trạng, nhiễm ký sinh trùng đơn bào phổ biến nhất ở đường ruột, có thể dẫn đến các triệu chứng tiêu hóa nặng nề, ảnh hưởng cuộc sống. Nguyên nhân là kí sinh trùng đơn bào trùng roi Giardia lamblia và nó chiếm tới 7% các trường hợp ỉa chảy cấp và tới 45% các trường hợp ỉa chảy mạn tính.

Bệnh sinh

Người ta ăn phải nang Giardia lamblia do nguồn nước hoặc thức ăn bị nhiễm bẩn. Sự thoát nang xảy ra ở đoạn trên ruột non của vật chủ. Các thể tự dưỡng gắn với bề mặt tế bào của nhung mao lân cận nhờ một đĩa nằm trên mặt bụng. Sau đó kí sinh trùng tạo lại nang trong ruột, và thể tự dưỡng cùng với nang được thải ra trong phân. Sự phá hủy niêm mạc, tắc nghẽn cơ giới, giải liên hợp muối mật, và các yếu tố vật chủ đóng vai trò nhất định trong việc gây ra các triệu chứng tiêu hóa. Một đáp ứng kháng thể đặc hiệu sinh ra để loại trừ kí sinh trùng này ra khỏi cơ thể; vì vậy những bệnh nhân suy giảm miễn dịch (như bệnh nhân AIDS) có nguy cơ cao bị mắc và trở nên kém chống đỗ lại Giardia.

Biểu hiện lâm sàng

ủ bệnh sau khi ăn phải nang là 1 đến 2 tuần. Khởi phát triệu chứng bắt đầu bằng ỉa chảy phân rất nhiều nước, đau quặn bụng, bụng chướng, và đầy hơi (bảng 44.5). Phân thường là không có máu hoặc bạch cầu. ít gặp hơn có thể thấy chán ăn, khó chịu, sút cân, buồn nôn, nôn và sốt. Nếu không điều trị, một số trường hợp khỏi trong khoảng 1 đến 2 tuần. Khoảng 50% các bệnh nhân diễn biến thành nhiễm giardia mạn tính với đau đầu, khó chịu, sút cân, chướng bụng, và ỉa chảy kéo dài, chúng có thể xuất hiện từng đợt. Có thể thấy kém hấp thu gây ra ỉa phân mỡ và ảnh hưởng đến các nồng độ protein, vitamin A, vitamin B12, và D-xylose. Thiếu hụt disaccharid hay gặp nhất là lactase. Những bệnh nhân xơ nang tụy dường như là một quần thể có nguy cơ cao hơn đối với nhiễm giardia do việc có quá nhiều chất nhầy đã bảo vệ kí sinh trùng thoát khỏi hệ miễn dịch của vật chủ. Nhiễm giardia mạn tính cũng có thể gây chậm lớn ở trẻ em. Hiếm khi thấy được các biểu hiện ngoài đại’tràng của nhiễm giardia, bao gồm viêm khớp, mày đay, và bệnh đường mật.

Bảng 44.5. Các biểu hiện lâm sàng của nhiễm giardia cấp tính

Biểu hiện Tỷ lệ (%)
lả chảy 95
Khó chịu 85
Đau bụng 75
Chướng bụng 70
Sút cân 65
Buồn nôn 60
Đầy hơi 35
Nôn 25
Sốt 13

Chẩn đoán

Bước chẩn đoán đầu tiên đối với một bệnh nhân ỉa chảy là n,ên kiểm tra phân tìm kí sinh trùng (tìm cả thể tự dưỡng và nang). Lí tưởng là mẫu phân tươi, để dưới 2 giờ cho đến lúc xét nghiệm. Thường kiểm tra ba mẫu trong vòng 1 đến 2 tuần để bắt được kí sinh trùng boíig ra từng lúc. Kết quả xét nghiệm dương tính gặp ở 50% đến 60% các trường hợp. Xét nghiệm chẩn đoán miễn dịch hứa hẹn nhất có lẽ là ELISA và xét nghiệm kháng thể huỳnh quang gián tiếp (IFAT) để tìm kháng nguyên giardia. Những xét nghiệm này đều nhạy và đặc hiệu và trội hơn nhiều so với các xét nghiệm phát hiện kháng thể hiện đang sẵn có hơn. Nếu bằng các phương pháp trên mà việc chẩn đoán nhiễm giardia vẫn còn nghi ngờ nhưng không khẳng định được thì có thể tiến hành làm Enterotest hoặc sinh thiết ruột non

Xử trí

Khoảng 90% đến 95% bệnh nhân nhiễm gardia chữa khỏi được bằng liệu trình 7 đến 10 ngày quinacrin hydrochloric! (100 mg, ba lần mỗi ngày) hoặc metronidazol (250 mg, ba lần mỗi ngày). Nếu triệu chứng vẫn kéo dài sau khi đã thử dùng cả hai thuốc này thì có thể dùng đồng thời cả hai thuốc này thêm 2 tuần. Furazolidin (100 mg, bốn lần mỗi ngày) và mebendazol (200 mg ba lần mỗi ngày) đã được dùng như các thuốc thay thế.

Phòng bệnh

Phòng ngừa lây truyền từ người sang người tốt nhất bằng rửa tay sạch và các tiêu chuẩn vệ sinh. Sự bùng phát nhiễm giardia gắn liền với bể bơi, dòng nước suối từ núi bị nhiễm bẩn, nguồn cấp nước đô thị, động vật bị nhiễm, cửa hàng ăn, nhà an dưỡng, và trung tâm chăm sóc ban ngày. Bơi trong nước ngọt rõ ràng có nhiều nguy cơ hơn trong nước biển hoặc bể bơi. Người ta biết rằng lọc và clorin hóa nguồn cấp nước là có hiệu quả trong việc loại trừ giardia. Nếu nước bể bơi bị nhiễm bẩn phân, hệ thống clorin hóa có thể bị át đi. Lời khuyên cho những người đi xa ra nước ngoài nên nhấn mạnh vào việc tránh dùng thức ăn có nguy cơ nhiễm bẩn và tránh bơi trong nước nhiễm bẩn. Những người thực hiện tình dục miệng-hậu môn cũng có nguy cơ cao mắc nhiễm giardia.

Các vấn đề gia đình và cộng đồng

Các nguồn cấp nước bị nhiễm bẩn là nguồn lây của phần lớn các vụ bùng phát nhiễm giardia. Các phương pháp xác định nang trong nguồn cấp nước hiện nay là không nhạy và có thể bỏ sót nang ở nồng độ dưới 4000/L hoặc ít hơn. cần có các phương pháp nhạy hơn. Các nguồn cấp nước không nhiễm bẩn và hệ thống clorin hóa và lọc thích đáng là quan trọng để phòng ngừa bệnh này. Nang giardia đã có một chút đề kháng với các kĩ thuật clorin hóa. Nên điều tra các bệnh nhân đã phát hiện bị nhiễm giardia để xác định nguồn lây có thể, bao gồm sàng lọc những thành viên trong gia đình, những người quen gần, và các nguồn nước và thức ăn có nguy cơ nhiễm bẩn. Tiền sử đi xa hoặc giải trí tại nguồn nước gần đây cũng giúp ích trong việc xác định nguồn lây.

Xem thêm

Tên khác: nhiễm lamblia.

Căn nguyên

Là bệnh do nhiễm động vật nguyên sinh có roi là Giardia lamblia sống và sinh sản trong ruột. Khả năng gây bệnh là yếu và ký sinh trùng cần sinh sản thành số lượng lớn mới gây ra triệu chứng lâm sàng. Nhiễm giardia do uống nước, đôi khi do ăn phải rau quả sống bị nhiễm bào nang ký sinh trùng có trong phân người ốm hoặc người lành mang mầm bệnh.

Bệnh lây truyền từ người sang người đã được thấy ở các cộng đồng có hoàn cảnh vệ sinh kém và đôi khi ở những nam giới đồng tính luyến ái.

Nhiều người mang mầm bệnh mà không có triệu chứng nào. Một số khác lại có rối loạn tiêu hoá bán cấp hay mạn tính. Bệnh nặng ở người bị suy giảm miễn dịch.

Dịch tễ học

Bệnh phổ biến trên toàn thế giới, nhất là ở những nơi có điều kiện vệ sinh kém. Tỷ lệ mắc là từ dưới 1% tới trên 50%. Số người mắc hàng năm ở châu Phi, châu Á và Mỹ Latinh là khoảng 200 triệu người.

Triệu chứng

Thể cấp tính: sau thời gian ủ bệnh dài 1-3 tuần, đột ngột hay từ từ xuất hiện buồn nôn, nôn, đau bụng và ỉa chảy, phân có mùi khẳm, nhiều mỡ giống như phân spru (ỉa chảy nhiệt đới). ít khi thấy hội chứng lỵ có phân nhầy lẫn máu.

Thể mạn tính: ở trẻ nhỏ có thể gặp thiếu máu, hội chứng kém hấp thu, chậm phát triển, nhất là ở các nước nghèo.

Xét nghiệm cận lâm sàng

Tìm bào nang hay ký sinh trùng trong chất chứa ở tá tràng hay dùng test ruột (xem enterotest). Trong phân chủ yếu có các bào nang. Tuy nhiên, nếu tìm thấy cũng chưa khẳng định được căn nguyên có thể do một mầm bệnh khác kết hợp. Làm sinh thiết niêm mạc tá tràng qua đường miệng có thể khẳng định chẩn đoán.

Điều trị

Metronidazol 250 mg ba lần một ngày trong 5 ngày. Có thể dùng paromomycin cho phụ nữ có thai. Rất khó dập các vụ dịch lớn do tỷ lệ người mang mầm bệnh cao và do các bào nang sống dai khi ra khỏi cơ thể người.

Đỉnh Trán Lồi – Nguyên nhân, chẩn đoán, điều trị

Đỉnh trán lồi đề cập đến một trán nổi bật một cách bất thường, với một đường gò lông mày nặng hơn trong một số trường hợp.

Nếu con bạn có tình trạng này, đó có thể là dấu hiệu cho thấy bé có một hội chứng hiếm gặp. Các hội chứng liên quan đến đỉnh trán lồi có thể ảnh hưởng đến xương, hormone và chiều cao của bé.

Nguyên Nhân Của Đỉnh Trán Lồi

Các tình trạng gây ra đỉnh trán lồi thường hiếm gặp. Chúng có thể là rối loạn hormone, hội chứng di truyền hoặc các nguyên nhân khác.

Một nguyên nhân phổ biến của đỉnh trán lồi là bệnh to đầu (acromegaly), là một rối loạn hormone xảy ra khi tuyến yên tiết ra quá nhiều hormone tăng trưởng. Sự dư thừa này dẫn đến việc các xương của mặt, hộp sọ, hàm, tay và chân bị phóng đại.

Một số điều kiện di truyền hiếm gặp có thể gây ra đỉnh trán lồi; những điều này bao gồm:

  • Hội chứng u tế bào đáy (hội chứng Gorlin): Tình trạng này được đặc trưng bởi các bất thường về xương, u nang trong hàm và các khối u ác tính, một loại ung thư.
  • Hội chứng Crouzon: Tình trạng này gây ra sự hợp nhất sớm của một số xương trong hộp sọ.
  • Dysostosis cleidocranial (hoặc CCD): Tình trạng này ảnh hưởng đến răng, xương đòn, cột sống, hộp sọ và chân. Nó khiến xương trở nên dễ gãy, và trong một số trường hợp, xương đòn có thể không tồn tại.
  • Hội chứng Hurler: Tình trạng này dẫn đến các bất thường về xương, bệnh tim, vấn đề hô hấp và nhiều hơn nữa.
  • Hội chứng Pfeiffer: Tình trạng này gây ra sự hợp nhất sớm của một số xương trong hộp sọ và dẫn đến ngón tay cái và ngón chân lớn không bình thường và tách biệt.
  • Hội chứng Rubinstein-Taybi: Tình trạng này gây ra sự chậm phát triển, ngón tay cái và ngón chân lớn bất thường, khuyết tật trí tuệ và vấn đề cho ăn.
  • Hội chứng Russell-Silver (lùn Russell-Silver): Tình trạng này gây ra sự phát triển hạn chế của bé cả trước và sau khi sinh. Một em bé mắc hội chứng này thường có đầu lớn, trán lồi và mặt hình tam giác.

Một nguyên nhân tiềm năng khác của đỉnh trán lồi là giang mai bẩm sinh. Nếu bạn đang mang thai và mắc giang mai, bạn có thể truyền nhiễm cho em bé của mình, điều này có thể dẫn đến một số vấn đề sức khỏe.

Việc sử dụng trimethadione, một loại thuốc chống co giật, trong khi bạn đang mang thai cũng có thể dẫn đến đỉnh trán lồi.

Một tình trạng có thể dẫn đến đỉnh trán lồi sau khi sinh là bệnh còi xương (rickets). Bệnh còi xương thường xảy ra ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ và do thiếu vitamin D gây ra. Ngoài đỉnh trán lồi, bệnh còi xương có thể dẫn đến sự phát triển chậm và xương sọ mềm.

Chẩn Đoán Đỉnh Trán Lồi

Nếu bạn thấy rằng trán của con bạn lớn hơn bình thường, bạn có thể muốn đặt lịch hẹn với bác sĩ để xem liệu nó có liên quan đến một tình trạng khác hay không.

Chẩn đoán đỉnh trán lồi được thực hiện dựa trên việc kiểm tra thể chất và xem xét lịch sử y tế của cả bạn và bạn đời. Bác sĩ có thể hỏi về thời điểm bạn nhận thấy sự bất thường ở trán và liệu có bất kỳ triệu chứng nào khác xuất hiện hay không.

Để xác nhận chẩn đoán của một tình trạng cụ thể, bác sĩ có thể yêu cầu một số xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Các xét nghiệm hình ảnh như X-quang và MRI (hình ảnh cộng hưởng từ) có thể được thực hiện để phát hiện các dị dạng và sự phát triển bất thường trên hộp sọ. Các xét nghiệm máu có thể được sử dụng để kiểm tra các tình trạng di truyền và mức hormone.

Điều Trị Đỉnh Trán Lồi

Hiện không có cách nào để điều trị đỉnh trán lồi một cách độc lập. Tuy nhiên, hội chứng có thể liên quan đến đỉnh trán lồi có thể được quản lý. Bác sĩ của bạn có thể đề xuất nhiều cách khác nhau để làm điều đó.

Phẫu thuật thẩm mỹ có thể được sử dụng để quản lý đỉnh trán lồi. Một nghiên cứu nhỏ xem xét phẫu thuật giảm kích thước trán cho thấy có một số tác dụng phụ, nhưng những tác dụng phụ này đã biến mất trong vòng một năm. Tuy nhiên, hiện tại không có hướng dẫn cụ thể cho việc điều trị phẫu thuật đỉnh trán lồi.

Ngăn Ngừa Đỉnh Trán Lồi

Hiện không có cách chắc chắn nào để ngăn ngừa đỉnh trán lồi, nhưng bạn có thể thực hiện một số biện pháp phòng ngừa trước khi bé được sinh ra.

Một biện pháp phòng ngừa là tư vấn di truyền. Trong quá trình tư vấn di truyền, một chuyên gia y tế sẽ giúp bạn đánh giá rủi ro của việc con bạn sinh ra với một số tình trạng hiếm gặp.

Bạn có thể tiếp tục với xét nghiệm di truyền. Một loại xét nghiệm di truyền là xét nghiệm người mang gen. Một mẫu máu hoặc lấy mẫu niêm mạc má bên má sẽ được sử dụng để kiểm tra xem bạn hoặc bạn đời có phải là người mang gen cho các tình trạng di truyền cụ thể hay không.

Nếu bạn được xác định là người mang gen cho một bệnh di truyền, bác sĩ của bạn sẽ thảo luận về cách bạn nên tiến hành. Bác sĩ cũng có thể đề nghị một số loại thuốc hỗ trợ sinh sản.

Một hình thức xét nghiệm di truyền khác là xét nghiệm trước sinh. Xét nghiệm trước sinh được thực hiện bằng cách sử dụng dịch ối và có thể kiểm tra những đứa trẻ chưa sinh về các tình trạng di truyền.

Một biện pháp phòng ngừa khác bạn có thể thực hiện là được xét nghiệm giang mai trong khi bạn mang thai. Nếu bạn xét nghiệm dương tính với giang mai, bạn có thể được điều trị bằng kháng sinh để chữa khỏi nhiễm trùng. Càng sớm bạn nhận được điều trị, càng ít khả năng bạn sẽ truyền bệnh cho em bé.

Nếu bạn đang sử dụng thuốc chống co giật, hãy đảm bảo rằng đó không phải là trimethadione. Nếu có, hãy hỏi bác sĩ về việc chuyển sang một loại thuốc khác trong thời gian mang thai.

Bồ công anh

bồ công anh
bồ công anh

Bồ công anh ( 蒲公英 )

Tên khoa học

Taraxacum offcinal Wig (Taraxacum dens-leonis Desf.). Họ khoa học: Bồ công anh thuộc họ Cúc (Compositae).

+ Tên thuốc: Bồ công anh (Xuất xứ: Bản thảo đồ kinh).

+ Tên khác: Phù công anh (凫公英), Bồ công thảo (蒲公草), Giảng nhục thảo (耩褥草), Bộc công giáp (仆公荚), Bộc công anh (仆公罂), Địa đinh (地丁), Kim trâm thảo (金簪草), Bột bột đinh thái (孛孛丁菜), Hoàng hoa địa đinh (黄花地丁), Bồ công đinh (蒲公丁) v.v…

+ Tên Trung văn: 蒲公英 PUGONGYIN

+ Tên Anh Văn: MongolianDandelionHerb

+ Tên La tinh: 1.Taraxacum mongolicum Hand.- Mazz.2.Taraxeamum jsinicum Kitag.3.Taraxacum ohwianum Kitam.4.Taraxacum heterolepis Nakai et H..Koidz.5.Taraxacum asiatisc Dadlst.[T. leucan-thum (Ledeb.) Ledeb.]6.Taraxacum erpyhropodium kitag.

Bồ công anh Taraxacum mongolicum Hand

Nguồn gốc

Đây là toàn bộ cây bồ công anh khô, bồ công anh đất phèn hoặc một số thực vật cùng loại, thuộc loài cây họ cúc. Sản xuất ở mọi nơi.

Phân biệt tính chất, đặc điểm

Bồ công anh toàn bộ là những bó cục nhăn chun và bị cong. Rễ có hình chóp, phần lớn đều bị cong, bề mặt mầu be nâu, nhăn nhúm; phần đầu của rễ có lớp lông tơ màu be nâu hoặc màu trắng vàng, có chỗ đã bị rụng. Búp hoa màu be vàng hoặc màu trắng vàng nhạt. Có búp có thể nhận ra những quả lép hình bầu dục dài, có lông búp mầu trắng. Mùi rất nhẹ, vị hơi đắng. Loại nào thân khô, lá nhiều, màu lục xám, bộ rễ hoàn chỉnh, hoa vàng, không lẫn tạp chất, đó là loại tốt.

Tính vị và công hiệu:

Theo các nghiên cứu hiện đại, bồ công anh có tác dụng lợi mật, bảo vệ gan, tiêu viêm, chống ung thư, lợi tiểu.

Bảo quản

Để nơi khô ráo.

Dược liệu

Dược liệu Bồ công anh

Rễ khô, hơi hình nón, cong ngoằn ngòeo, dài 4 ~ 10cm, mặt ngòai sắc nâu, nhăn teo, phần đầu rễ có những lông nhung màu nâu hoặc máu trắng vàng hoặc đã rơi rụng. Lá mảnh nhỏ dài nhăn teo thành đám hoặc thành cuộn cong. Mặt ngòai sắc nâu xanh hoặc sắc xanh tro, mặt sau lá gân chính rõ. Có lúc có hoa tự hình đầu không hoàn chỉnh. Mùi nhẹ, vị hơi đắng.

Dùng lá nhiều, sắc xanh tro, rễ hoàn chỉnh là tốt. Đại bộ phận toàn quốc (Trung quốc) đều có sản xuất.

Bồ công anh
Bồ công anh

Phân bố môi trường sống

Sinh trưởng ở bãi cỏ sườn núi, vệ đường, giữa bãi cát bờ sông và đồng hoang. Đại bộ phận các vùng toàn quốc (Trung Quốc) đều có phân bố. Đại bộ phận các vùng toàn quốc đều có sản xuất

Thu hái

Xuân, hè trước lúc hoa nở hoặc lúc mới nở hoa móc lấy luôn rễ, bỏ sạch đất, phơi khô.

Bào chế

Bỏ sạch tạp chất, rửa sạch đất, cắt đọan, phơi khô.

Tính vị

– Trung dược đại từ điển: Đắng, ngọt, lạnh.- Trung dược học: Đắng, ngọt, lạnh.

– Đường bản thảo: Vị ngọt, bình, không độc.

– Lý Cảo: Hơi đắng, lạnh.

– Bản thảo thuật: Ngọt, bình hơi lạnh.

– Thường dùng trung thảo dược thủ sách – Bộ đội Quảng Châu: Vị ngọt, lạnh.

Qui kinh

– Trung dược đại từ điển: Vào kinh Can, Vị.

– Trung dược học: Vào kinh Can, Vị.

– Lý Cảo: Kinh Túc thiếu âm.

– Bản thảo diễn nghĩa bổ dị: Vào kinh Dương minh, Thái âm.

Công dụng và chủ trị

Thanh nhiệt giải độc, lợi niệu tán kết.

Trị viêm tuyến vú cấp tính, viêm tuyến limphô, tràng nhạc, đinh độc nhọt sưng, viêm kết mạc cấp tínn, phát sốt cảm, viêm Amidan cấp tính, viêm phế quản cấp, viêm bao tử,viêm gan, viêm túi mật, nhiễm trùng đường tiểu.

– Đường bản thảo: Chủ đàn bà vú ung nhọt sưng.

– Bản thảo đồ kinh: Đắp nhọt, lại trị ác thích và hồ niệu thích.

– Bản thảo diễn nghĩa bổ dị: Hóa nhiệt độc, tiêu ác sưng kết hạch, giải độc thức ăn, hóa trệ khí.

– Điền Nam bản thảo: Đắp các chứng nhọt sưng độc, chốc ghẻ nhọt lở; trừ phong, tiêu các chứng nhọt độc, tán kết hạch tràng nhạc; ngừng tiểu ra máu, trị ngũ lâm lung bế, lợi bàng quang.

– Cương mục: Đen râu tóc, mạnh gân xương.

– Y lâm tỏan yếu: Bổ Tỳ Vị, tả hỏa, thông nước sữa, trị ế cách.

– Cương mục thập di: Trị tất cả các vết thương rắn trùng độc.

– Tùy tức cư ẩm thực phổ: Thanh Phế, lợi thấu hóa đàm, tán kết tiêu ung, dưỡng âm lương huyết, thư cân chắc răng, thông sữa ích tinh.

– Lĩnh nam thái dược lục: Nướng giòn tồn tính, rượu tồng uống, điều trị Vị quản thống.

– Sơn Đông Trung dược: Là thuốc giải độc, tiêu viêm, thanh nhiệt. Trị hoàng đản, mắt đỏ, tiểu tiện không lợi, đại tiện bí kết.

– Thường dùng trung thảo dược thủ sách – Bộ đội Quảng Châu: Thanh nhiệt giải độc, lương huyết lợi niệu, thúc sữa. Trị đinh nhọt, da lở lóet, bệnh mắt sưng đau, tiêu hóa không tốt, tiện bí, vết thương cắn của trùng rắn, nhiễm trùng đường tiểu.

– Thượng Hải thường dùng Trung thảo dược: Thanh nhiệt giải độc, lợi niệu hõan tả. Trị cảm mạo phát sốt, viêm Amidan, viêm họng cấp tính, viêm phế quản cấp, lưu hỏa, viêm tuyến limp ha, mắt đỏ phong hỏa, viêm bao tử, viêm gan, viêm tủy xương.

Liều dùng và cách dùng

Sắc uống 9 ~ 15g. Dùng ngòai thứ tươi lượng thích hợp, giã đắp hoặc sắc nước nóng xông rửa chổ đau.

Kiêng kỵ

– Trung dược học: Liều dùng quá lớn có thể gây tiêu chảy nhẹ.

– Trung Hoa bản thảo: Người dương ngoại hàn, Tỳ vị hư nhược kỵ dùng.

  •  Những cấm kỵ khi dùng thuốc

Người viêm dạ dày mạn tính, người bị viêm loét, bị viêm ruột, viêm gan, đau bụng ỉa chảy kinh niên và kinh nguyệt ít, bị thông kinh sau khi hành kinh, kiêng dùng một vị thuốc đơn lẻ và uống kéo dài.

Nghiên cứu hiện đại

  1. Thành phần hóa học:

Toàn thảo Bồ công anh hàm chứa Taraxasterol, Choline, Inulin và Pectin v.v…

Trong rễ Bồ công anh dùng thuốc thực vật đồng thuộc hàm chứa Taraxol. Taraxerol, ψ-taraxasterol, taraxasterol, βAmyrin, Stig-masterol, β-Sitosterol, sinkaline, organic acid, fructose, sucrose, glucose, glycoside cùng nhựa cây, rubber v.v…

Trong lá hàm chứa Lutein, Violaxanthin, Plastoquinone , vitamin C_50~70 milligram/100g và vitaminD_5~9 milligram/100g.

Trong hoa hàm chứa Arnidiol, Xanthin và flavoxanthin。

Trong phấn hoa hàm chứa β-sitosterol, 5α-Stigmast-7-en-3β-ol, folic acid (FA) và vitamin C。

Trong đài hoa sắc xanh hàm chứa phylloquinone。

Trong thân hoa hàm chứa β-sitosterol và β-amyrin。

Bổn phẩm lại hàm chứa Coumestrol, lactoflavin 1.43 microgramme/ gram và renieratene7.7~8.8 milligram% (Trung dược đại từ điển).

  1. Tác dụng dược lý:

Thuốc ngâm và thuốc sắc bổn phẩm đối với khuẩn cầu chùm sắc vàng kim, khuẩn liên cầu tan máu, khuẩn cầu catarrh có tác dụng ức chế khá mạnh, đối với khuẩn song cầu, trực khuẩn lỵ flexneri, trực khuẩn mủ xanh và leptospira v.v…cũng có tác dụng ức chế nhất định, và giữ TMP (trimethoprim) có tác dụng tăng hiệu quả. Còn có tác dụng lợi mật bảo hộ gan, chống nội độc tố và lợi niệu, hiệu quả lợi mật của nó so với thuốc sắc Nhân trần rõ rệt hơn. Chất chiết nước của bộ phận trên mặt đất Bồ công anh có tác dụng làm tăng họat tính đại thực bào, có tác dụng chống u bướu (tumor). Thí nghiệm ngài cơ thể hiển thị bổn phẩm có khả năng kích thích công năng miễn dịch của cơ thể (Trung dược học)

Bài thuốc cổ kim tham khảo

+ Phương thuốc 1:Trị vú ung nhọt: Bồ công anh (rửa sạch cắt nhỏ), Nhẫn đông đằng cùng sắc nước thang đặc, cho vào chút ít rượu giúp vậy, uống xong, muốn ngủ, là công hiệu của nó vậy.

(Bản thảo diễn nghĩa bổ dị)

+ Phương thuốc 2:

Trị viêm tuyến vú cấp tính: Bồ công anh 2 lượng, Hương phụ 1 lượng. Mỗi ngày 1 thang, sắc uống 2 lần.

(Nội Mông Cổ – Trung thảo dược tân y liệu pháp tư liệu tinh tuyển).

+ Phương thuốc 3:

Trị sản hậu không tự cho con bú, sữa chứa tích, kết thành ung nhọt: Bồ công anh giã nát đắp lên, ngày 3, 4 lần thì yên vậy.

(Mai sư tập nghiệm phương).

+ Phương thuốc 4:

Trị cam sang đinh nhọt độc: Bồ công anh giã nước đắp vậy, riêng giã thêm nước, hòa rượu sắc uống, lấy mồ hôi.

(Cương mục).

+ Phương thuốc 5:

Trị nhọt độc (ác sang) nhiều năm và sưng độc rắn cắn: Bồ công anh giã nát dán.

(Cứu cấp phương).

+ Phương thuốc 6:

Trị viêm gan: Rễ khô Bồ công anh 6 chỉ, Nhân trần hao 4 chỉ, Sài hồ, Sơn chi tử, Uất kim, Phục linh đều 3 chỉ. Sắc uống.

(Nam Kinh địa khu thường dùng Trung thảo dược).

+ Phương thuốc 7:

Viêm túi mật: Bồ công anh 1 lượng. Sắc uống.

(Nam Kinh địa khu thường dùng Trung thảo dược).

+ Phương thuốc 8:

Trị viêm bao tử mạn tính, lóet dạ dày: Rễ khô Bồ công anh, Địa du căn lượng bằng nhau, nghiền bột, mỗi lần uống 2 chỉ, 1 ngày 3 lần, nước gừng tống uống.

(Nam Kinh địa khu thường dùng Trung thảo dược).

+ Phương thuốc 9:

– Chủ trị: Viêm túi mật cấp tính hoặc viêm túi mật mạn tính phát tác cấp tính.

– Thành phần: Bồ công anh 30g, Nhân trần 30g, Uất kim 9g.

– Cách dùng: Sắc nước uống.

+ Phương thuốc 10:

– Chủ trị: Chứng mắt lồi do công năng tuyến giáp trạng phát triển quá mức bình thường.

– Thành phần: Bồ công anh 60g.

– Cach dùng: Sắc nước thành 2 chén, uông ấm 1 chén, riêng 1 chén thừa lúc còn nóng xông rửa chổ bệnh.

+ Phương thuốc 11:

– Chủ trị: Họng đau

– Thành phần: Bồ công anh 30g (thứ tươi 60g)

– Cách dùng: Sắc nước uống. Đồng thời dùng nước muối nhạt, mỗi ngày 3 ~ 4 lần.

+ Phương thuốc 12:

– Chủ trị: Tị sang (gần cạnh trước lỗ mũi da sưng đỏ, lóet, kết vảy, nóng ngứa, phát tác nhiều lần).

– Thành phần: Bồ công anh 20g, Dã cúc hoa 15g, Kim ngân hoa 10g.

– Cách dùng: Sắc nước uống, mỗi ngày 1 thang.

+ Phương thuốc 13:

Dùng Bồ công anh cùng dùng với Sơn tra, Tang kí sinh, Hoàng kì, Ngũ vị tử, điều trị 37 ca mỡ máu cao, trong đó 35 ca đều thu hiệu quả tốt.

(Tân Trung y, 1988, 2 : 28)

+ Phương thuốc 14:

Dùng riêng Bồ công anh phối ngũ với Ô mai, Đại hoàng, Ngũ vị tử v.v…sắc nước uống, điều trị 44 ca viêm gan B, 36 ca HBsAg chuyển âm tính, hiệu quả tốt.

+ Phương thuốc 15:

Dùng Bồ công anh với Đại hoàng, Phục linh, Sa nhân sắc nước uống, điều trị 42 ca viêm bao tử bề mặt, hiệu quả rõ 36 ca, hữu hiệu 5 ca.

Các bài thuốc bổ dưỡng thường dùng:

Bồ liên tán (thuốc bột liên kiều, bồ công anh)

Bồ công anh 30g – Nhũ hương 8g

Liên kiều 12g – Giấm vừa phải

Nghiền thuốc thành bột mịn, trộn giấm vào đánh nhuyễn, sao nóng lên, bôi vào chỗ đau. Cứ từ 2 – 3 giờ thay thuốc lần. 3 ngày là 1 liệu trình.

Dùng cho người bị sưng tuyến vú thời kỳ đầu.

Phấn thích tiêu (thuốc tiêu mụn trứng cá)

Bồ công anh 15g – Sơn tra 12g

Kim ngân hoa 15g – Chỉ xác sao 10g

Hổ trượng 12g

Đại hoàng tẩm rượu 10g

Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần sớm, tối.

Dùng cho mụn trứng cá.

Hồi nãi phương (bài thuốc uống ra sữa)

Kiến khúc 60g – Bồ công anh 60g

Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần sớm, tối.

Dùng cho phụ nữ bị mất sữa. Vừa uống, vừa lấy bã thuốc, bọc trong vải sạch, nhân nóng sát lên vú. Thường chỉ uống thang là hiệu nghiệm.

Trá tai tán (thuốc tán chữa quai bị)

Bồ công anh 30g, giã nát, bôi lên chỗ đau.

Dùng cho ngườd mắc bệnh quai bị.

Bồ công anh tẩy tễ (thuốc rửa âm đạo)

Bồ công anh 20g – Xuyên tiêu 12g

Hoàng bả 15g – Tổ bọ ngựa dâu 9g

Sà sàng tử 12g – Tử kinh bì 10g

Sắc 2 nước, lấy nước thuốc rửa chỗ đau.

Dùng cho phụ nữ bị viêm loét âm đạo, viêm âm đạo do bị nấm, loét dạ con, khí hư ra có mùi tanh uế v.v…

Khổ hàn giáng môi thang (thuốc chữa viêm gan)

Nhân trần 30g – Hoàng cầm 10g

Bản lam căn 15g – Xa tiền tử 10g

Bồ công anh 20g – Tử thảo 10g

Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần sớm, tối.

Dùng cho người viêm gan cấp tính da vàng, và viêm gan da không vàng do bị thấp nhiệt thiên trọng gây ra.

Công anh hắc đậu phương, (thuốc hói bồ công anh đậu đen)

Bồ công anh 150g – Đậu đen 500g

Cho nước vào sắc kỹ cho tới khi đậu đen chín, lọc bỏ bã, cho đường phèn vừa phải vào, cô lại cho khô. Uống ngày 2 lần, mỗi lần 50g.

Dùng cho người bị hói.

Thanh phế ẩm (thuốc thanh phổi)

Ngân hoa 15g – Chi tử 9g

Hạt ý dĩ 30g – Liên kiều 15g

Hạnh nhân 9g – Toàn qua lâu 12g

Đậu xị nhạt 9g – Bồ công anh 30g

Chỉ thực 12g – Lư căn tươi 9g

Hạt bí đao 30g – Bột nguyên minh 5g

Trừ bột nguyên minh ra, cho cả 11 vị thuốc trên vào sắc, lấy nước uống với bột nguyên minh, ngày 1 thang.

Dùng cho người bị viêm phổi sinh ra đàm nhiệt nội kết, bị ho, sốt nóng.

Tâm khang âm (Thuốc trợ tim)

Sa sâm 18g – Bán hạ 12g

Cam thảo 9g – Qua lâu 18g

Ngũ vị tử 9g – Bồ công anh 30g

Sinh địa 12g – Giới bạch 9g

Ngân hoa 15g – Mạch đông 12g

Giới bạch 9g – Thạch cao sống 15g

Địa đinh 9g

Sắc 2 nước, trộn lần uống, chia 2 lần. Ngày 1 thang. Dùng cho người cảm cúm có tính chất bệnh độc, tiếp theo lại sinh bệnh viêm cơ tim, triều nhiệt, tim đập thảng thốt, khí đoản v.v…

Vị dương linh tán (Thuốc loét dạ dày)

Bồ công anh 30g – Nhục quế 5g

Hoàng bá 10g – Cam thảo 6g

Chung nhĩ thạch 30g

Nghiền chung thành bột. Uống ngày 3 lần, mỗi lần 10g. Dùng cho người bị viêm loét đường tiêu hoá.

Bồ công anh thang (Thang bồ công anh)

Bồ công anh 15g – Biểu súc 30g

Lưu ký nô 18g – Địa đinh 15g

Cù mạch 30g – Đại hoàng 6g

Thạch vi 15g – Rễ cỏ tranh 30g

Xa tiền thảo 15g – Sơn tra 30g

Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần sớm, tối.

Dùng cho người viêm thận, viêm cầu thận cấp sinh ra đái nhiều, đái bị đau, sốt cao, đau lưng, đái són, và có cảm giác rất nóng, nước tiểu màu vàng, đỏ, bụng dưới sa mà trướng lên, ỉa táo v.v…