Blog Trang 436

Sa van hai lá (hội chứng Barlow) và điều trị

Tên khác: hội chứng Barlow, phồng van hai lá, tật sa van mũ ni.

Định nghĩa

Bệnh tim do các lá van hai lá (van mũ ni) bị đẩy phồng lên vào trong buồng tâm nhĩ trái ở thì tâm thu, và đôi khi vì cả các dây chằng van tim (sợi gân nhỏ nối các lá van với những cơ nhú ở thành của tâm thất) bị giãn dài ra.

Căn nguyên

  • Bẩm sinh: bệnh di truyền nhiễm sắc thể thân kiểu trội, đôi khi liên kết với hội chứng Marfan, hoặc với tật thông liên nhĩ, hoặc với tật tăng độ lỏng lẻo ở các dây chằng, hoặc tật vòm miệng hình vòm nhọn.
  • Tổn thương tim do bệnh thấp, bệnh
  • Cơ tim bị tổn thương: viêm cơ tim, thiếu máu cơ tim cục bộ.
  • Di chứng của phẫu thuật mở van hai lá (rạch van hai lá).

Giải phẫu bệnh: một trong hai lá của van mũ ni (van hai lá, van nhĩ- thất trái) bị thoái hoá nhày (thâm nhiễm bởi chất mucopolysaccharid), với các dây chằng van tim (sợi gân nhỏ nôi lá van tim với các cơ nhú ở thành tâm thất) giãn dài ra. Những thể dẫn tới hở van hai lá nặng có đặc điểm là các lá van có diện tích không bằng nhau, lá van sau rộng hơn lá van trước. Mô nâng đỡ của van bị rối loạn về cấu trúc. Vòng xơ của lỗ van rộng ra, và có thể bị vôi hoá (calci hoá). Đã thấy có trường hợp dây chằng van tim hai lá bị đứt, nhât là ở người già.

Sinh lý bệnh

Tật sa van hai lá không gây ra hậu quả huyết động trong đa số trường hợp. Khi nghe tim, thấy một tiếng clic giữa thì tâm thu là dấu hiệu đặc biệt của bệnh sa van này, và là do các thành phần của van chịu áp lực vào thời điểm các lá van bị sa tới mức tối đa. Hở van hai lá (hội chứng van hai lá nhẽo hoặc mềm) có thể nặng. Tần suất các rối loạn nhịp tim trong dị tật van này chưa được rõ.

Triệu chứng

TRIỆU CHỨNG CƠ NĂNG: bệnh hay xuất hiện ở phụ nữ từ 30 đến 40 tuổi. Thường không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng, hoặc được phát hiện ngẫu nhiên nhờ những triệu chứng sau đây: đau ngực, khó thở khi gắng sức, đánh trống ngực (hồi hộp), có các cơn nhịp nhanh kịch phát, cơn thỉu, cơn ngất, đau vùng trước tim độc lập với khi gắng sức.

TRIỆU CHỨNG THỰC THỂ: nghe tim thấy tiếng clic tông máu giữa thì tâm thu, đặc biệt, xuất hiện ở đỉnh tim. Tiếng clic này là do các lá van bị đẩy phồng lên nhưng máu không phụt ngược. Tiếng clic thay đổi và có xu hướng chuyển về đầu thì tâm thu sau khi cho bệnh nhân hít hơi nitrit amyl hoặc để bệnh nhân ở tư thế đứng, và chuyển về cuối thì tâm thu nếu bệnh nhân ở tư thế ngồi hoặc ngồi xổm. Tiếng clic mạnh lên trong khi thực hiện thử nghiệm Valsalva. Tiếng này còn hay tiếp sau bởi một tiếng thổi cuối thì tâm thu thay đổi theo tư thế của bệnh nhân và có xu hướng trở thành tiếng thổi toàn tâm thu khi bệnh nhân ở tư thế đứng. Tiếng thổi này là biểu hiện của máu phụt ngược từ tâm thất trái lên tâm nhĩ trái. Lồng ngực đôi khi thấy biến dạng (lồng ngực hình phễu, vẹo cột sống hoặc ưỡn cột sống lưng).

Xét nghiệm bổ sung

  • X QUANG: nếu chưa hở van hai lá thì bóng mờ của tim vẫn bình thường. Thường hay thấy dị tật xương của lồng ngực.
  • ĐIỆN TÂM ĐỔ: nếu chưa hở van hai lá thì điện tâm đồ vẫn bình thường. Thường hay thấy trên đường ghi những dấu hiệu ngoại tâm thu nhĩ hoặc thất, các cơn nhịp nhanh trên thất, nhịp nhanh thất có thể xuất hiện tuy hiếm hơn. Thử nghiệm (test) gắng sức thường làm khởi phát loạn nhịp.
  • SIÊU ÂM TIM: cho thấy lá sau của van hai lá hoặc toàn bộ van hai lá bị đẩy về hướng tâm nhĩ trái ở cuối thì tâm thu. Siêu âm Doppler cho phép nhận ra những thể có biến chứng hở van hai lá. Sa van hai lá rất hay có khả năng được chẩn đoán bằng siêu âm tim.

Tiên lượng

Nói chung là tốt, nhưng những biến chứng nặng cũng có thể xảy ra:

  • Hở van hai lá: có thể phát triển chậm chạp trong vài năm hoặc diễn biến cấp tính vì dây chằng van tim bị đứt.
  • Loạn nhịp thất nặng và đột tử: hãn hữu.
  • Thiếu máu não cục bộ tạm thời: được cho là do nghẽn mạch máu não, với vật nghẽn mạch đến từ van hai lá hoặc do những rối loạn chức năng tiểu cầu kết hợp, tuy giả định này chưa có bằng chứng chắc chắn.
  • Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn trong trường hợp có hở van hai lá kết hợp.

Chẩn đoán

  • Bệnh nhân đánh trống ngực (hồi hộp), đau vùng trước tim.
  • Tiếng clic nghe thấy ở giữa thì tâm thu, thay đổi.
  • Siêu âm tim thấy các đặc điểm sa van.

Chẩn đoán phân biệt

Chẩn đoán phân biệt sa ven hai lá với những nguyên nhân khác gây đau thắt ngực ở những bệnh nhân trên 40 tuổi.

Có thể cần phải chụp nhấp nháy cơ tim khi gắng sức vổi thallium đánh dấu, hoặc chụp động mạch vành mới chẩn đoán xác định được tật sa van hai lá.

Điều trị

Trong đa số trường hợp, chỉ cần giải thích cho bệnh nhân bản chất lành tính của bệnh, và làm cho họ an tâm.

Thuốc chẹn beta có khả năng cải thiện được những thể có biến chứng rối loạn nhịp tim và đau vùng trước tim.

Nếu có biến chứng hở van tim nặng thì có thể chỉ định tạo hình van hai lá.

Phòng ngừa viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn trong trường hợp hở van hai lá được khẳng định dựa vào siêu âm Doppler (xem: viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn).

 

Sưng lợi – Biểu hiện bệnh gì, phải làm sao

Biểu hiện Sưng lợi

Khi kiểm tra miệng của mình chớ nên quên quan sát cả lợi nếu như lợi sưng đến nỗi cứ như lồi ra khỏi răng, cho thấy lợi đang bị nhiễm khuẩn hoặc virus. Sau một thời gian dùng thuốc kháng sinh, có thể viêm nhiễm bởi một thứ nấm, khiến lợi bị sưng phù. Còn chứng bệnh ung thư máu cũng khiến lợi sưng to. Ngoài ra khi răng giả trồng không tốt, hoặc các phụ kiện khác khiến lợi bị kích thích, gây sưng và đau. Viêm lợi cũng khiến lợi bị chảy máu, ê. Nước súc miệng hoặc kem đánh răng cũng gây kích thích cho lợi, khiến lợi bị viêm, đại loại như da bôi nhầm chất gì đó gây viêm chẳng hạn. Có khi một bộ phận của lợi bị làm mủ, cũng khiến phần lợi đó bị sưng. Loại thuốc như Dilantin, Barbiturates cũng thường khiến lợi bị phì đại. Giả sử gần đây bạn gặp phải tai nạn hoặc quá tích cực nhịn ăn để giảm cân (dù thời gian ngắn hay dài), lợi cũng có thể do thiếu dinh dưỡng mà sưng phù.

Sưng lợi
Sưng lợi

Định hướng biện pháp xử lý

Triệu chứng : SƯNG LỢI

Khả năng mắc bệnh Biện pháp xử lý
1. Bị viêm nhiễm. • Trừ những chứng viêm do nấm của kháng sinh gây nên, ngoài ra các trường hợp khác đều có thể điều trị bằng thuốc kháng sinh.
2. Răng giả không thích hợp. • Chỉnh lại răng giả.
3. Dị ứng với kem đánh răng hoặc nước súc miệng. • Thay sản phẩm khác.
4. Thuốc gây dị ứng (như Dilantin, Barbiturates) • Dùng thuốc khác thay thế.
5. Suy dinh dưỡng. • Điều chỉnh chế độ ăn uống.
6. Ung thư máu • Hoá liệu.

Xem chi tiết bệnh

Chẩn đoán và điều trị suy dinh dưỡng nặng ở trẻ em

Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và suy dinh dưỡng

Dị ứng thuốc – biểu hiện, điều trị

 

Triệu chứng, nguyên nhân và điều trị chứng mất ngôn ngữ

Chứng mất ngôn ngữ là khi một người gặp khó khăn với ngôn ngữ hoặc lời nói của họ. Thông thường, điều này do tổn thương ở bên trái của não (ví dụ, sau một cơn đột quỵ).

Triệu chứng của chứng mất ngôn ngữ

Người mắc chứng mất ngôn ngữ thường gặp khó khăn với 4 cách chính mà mọi người hiểu và sử dụng ngôn ngữ:

  • Đọc
  • Nghe
  • Nói
  • Gõ hoặc viết

Các vấn đề về nói có lẽ là điều dễ nhận thấy nhất, và người mắc chứng này có thể mắc lỗi với các từ họ sử dụng.

Điều này có thể bao gồm việc đôi khi sử dụng âm sai trong một từ, chọn từ không chính xác, hoặc ghép từ lại với nhau không đúng.

Mặc dù chứng mất ngôn ngữ ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp của một người, nhưng nó không ảnh hưởng đến trí thông minh của họ.

Chứng mất ngôn ngữ có thể xảy ra một mình hoặc đi kèm với các rối loạn khác, chẳng hạn như khó khăn về thị giác, vấn đề di chuyển, yếu tay chân và các vấn đề về trí nhớ hoặc kỹ năng tư duy.

Chứng mất ngôn ngữ
Chứng mất ngôn ngữ

Các loại chứng mất ngôn ngữ

Chứng mất ngôn ngữ thường được phân loại là “biểu hiện” hoặc “tiếp nhận”, tùy thuộc vào việc có khó khăn với việc hiểu hay biểu đạt ngôn ngữ, hoặc cả hai.

Tuy nhiên, hầu hết những người mắc chứng này đều gặp phải một số khó khăn trong việc nói, và sẽ có một sự pha trộn các vấn đề với viết, đọc và có thể là nghe.

Các triệu chứng có thể dao động rộng rãi từ việc bị nhầm lẫn một vài từ đến gặp khó khăn với tất cả các hình thức giao tiếp.

Một số người không nhận ra rằng lời nói của họ không có nghĩa và cảm thấy thất vọng khi người khác không hiểu họ.

Nguyên nhân của chứng mất ngôn ngữ

Chứng mất ngôn ngữ do tổn thương các phần của não chịu trách nhiệm cho việc hiểu và sản xuất ngôn ngữ.

Những nguyên nhân phổ biến bao gồm:

  • Đột quỵ – nguyên nhân phổ biến nhất của chứng mất ngôn ngữ
  • Chấn thương đầu nặng
  • U não
  • Các tình trạng thần kinh tiến triển – các tình trạng gây tổn thương cho não và hệ thần kinh theo thời gian, chẳng hạn như chứng sa sút trí tuệ

Chứng mất ngôn ngữ có thể ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến nhất ở những người trên 65 tuổi. Điều này là do đột quỵ và các tình trạng thần kinh tiến triển thường ảnh hưởng đến người lớn tuổi.

Chẩn đoán chứng mất ngôn ngữ

Chứng mất ngôn ngữ thường được chẩn đoán sau các xét nghiệm do chuyên gia thực hiện – hoặc là nhà ngôn ngữ trị liệu hoặc bác sĩ. Họ cũng có thể giúp sắp xếp điều trị nếu cần thiết.

Các xét nghiệm này thường bao gồm các bài tập đơn giản, chẳng hạn như yêu cầu một người đặt tên cho các vật trong phòng, lặp lại từ và câu, và đọc và viết.

Mục đích của các bài kiểm tra này là để hiểu khả năng của một người trong việc:

  • Hiểu lời nói và ngữ pháp cơ bản
  • Biểu đạt từ, cụm từ và câu
  • Giao tiếp xã hội – ví dụ, duy trì một cuộc trò chuyện hoặc hiểu một trò đùa
  • Đọc và viết chữ cái, từ và câu

Các kỹ thuật hình ảnh như CT scan hoặc MRI có thể được sử dụng để đánh giá tổn thương não.

Điều trị chứng mất ngôn ngữ

Liệu pháp ngôn ngữ và lời nói là loại hình điều trị chính cho những người mắc chứng mất ngôn ngữ.

Mục tiêu của liệu pháp là giúp khôi phục một số khả năng giao tiếp của bạn, cũng như giúp bạn phát triển các cách giao tiếp thay thế, nếu cần thiết.

Bạn có thể nhận liệu pháp ngôn ngữ và lời nói một cách cá nhân hoặc trong nhóm, tùy thuộc vào nhu cầu và dịch vụ được cung cấp.

Ngày càng có nhiều ứng dụng dựa trên máy tính có sẵn để hỗ trợ những người mắc chứng mất ngôn ngữ.

Tuy nhiên, điều quan trọng là bắt đầu sử dụng chúng dưới sự hướng dẫn của một nhà ngôn ngữ trị liệu.

Mức độ thành công của việc điều trị khác nhau giữa các cá nhân. Hầu hết những người mắc chứng này đều đạt được một mức độ hồi phục nào đó, và một số người hồi phục hoàn toàn.

Nếu chứng mất ngôn ngữ được gây ra bởi một sự kiện nhất thời, chẳng hạn như đột quỵ, hầu hết bệnh nhân đều hồi phục ở một mức độ nào đó với liệu pháp. Không có bằng chứng cho thấy khả năng hồi phục dừng lại vào một thời điểm cụ thể sau cơn đột quỵ.

Nhưng khả năng hồi phục thấp hơn đối với những người mắc chứng mất ngôn ngữ do tình trạng thần kinh tiến triển.

Một số người vẫn có thể đáp ứng với liệu pháp, nhưng hiện tại không có cách nào tốt để đảo ngược tổn thương đang diễn ra đối với não.

Khi chứng mất ngôn ngữ do một tình trạng tiến triển gây ra, việc điều trị tập trung vào việc tận dụng tối đa những gì người bệnh vẫn có thể làm và phát triển các cách giao tiếp khác để chuẩn bị cho thời điểm khi việc nói sẽ trở nên khó khăn hơn.

Biến chứng của chứng mất ngôn ngữ

Những thách thức khi sống với chứng mất ngôn ngữ có thể ảnh hưởng đến cảm xúc và cách một người tương tác với người khác.

Trong một số trường hợp, nó có thể dẫn đến:

  • Sự cô lập
  • Lo âu
  • Trầm cảm

Nếu người đó không thể làm điều này một mình, họ có thể cần ai đó giao tiếp thay mặt họ.

Selsun Gold

Dầu gội Selsun Gold
Selsun Gold

SELSUN GOLD

ABBOTT

Dầu gội 1%: chai 30 ml, 120 ml.

THÀNH PHẦN

cho 100 ml
Selenium sulfide 1 g

DƯỢC LỰC

Selenium sulfide có tác dụng kìm chế sự tăng sừng của biểu bì và biểu mô tuyến bã, giảm sự sản xuất vảy biểu bì.

CHỈ ĐỊNH

Thuốc gội trị gàu, ngứa da đầu.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Không được sử dụng cho bệnh nhân dị ứng với những thành phần của thuốc.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Thuốc chỉ để dùng ngoài. Không được dùng trên da bị trầy xước hoặc các vùng bị viêm. Tránh dây vào mắt. Nếu bị dây vào mắt, phải rửa kỹ mắt bằng nước.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

  • Xoa đều khoảng 1-2 muỗng cà phê dầu gội lên vùng da đầu có tóc đã được làm ướt.
  • Để yên thuốc trên da khoảng 2-3 phút.
  • Rửa sạch vùng da đầu.
  • Xoa lại một lần nữa và rửa lại thật kỹ.
  • Sau khi gội, rửa tay sạch.

Để có kết quả tốt nhất, nên dùng thường xuyên, ít nhất 2 lần một tuần hoặc theo hướng dẫn của bác sĩ. Có thể dùng cho thuốc nhuộm màu hoặc tóc uốn, nếu dùng theo đúng chỉ dẫn.

BẢO QUẢN

Bảo quản dưới 86oF (30oC).

Thuốc Ascorbic acid – oral, Cecon, Vitamin C là gì?

TÊN THUỐC GỐC

Ascorbic Acid – Đường uống (as-KORE-bik AS-id)

TÊN THƯƠNG MẠI

Cecon, Vitamin C

Công dụng thuốc | Cách sử dụng | Tác dụng phụ | Biện pháp phòng ngừa | Tương tác thuốc | Quá liều | Lưu ý | Liều bỏ lỡ | Bảo quản

CÔNG DỤNG:

Axít ascorbic (vitamin C) được sử dụng để ngăn ngừa hoặc điều trị nồng độ vitamin C thấp ở những người không nhận đủ vitamin này từ chế độ ăn uống của họ. Hầu hết mọi người ăn một chế độ ăn bình thường không cần bổ sung axít ascorbic. Nồng độ vitamin C thấp có thể dẫn đến một tình trạng gọi là bệnh scorbut. Bệnh scorbut có thể gây ra các triệu chứng như phát ban, yếu cơ, đau khớp, mệt mỏi, hoặc mất răng. Vitamin C đóng vai trò quan trọng trong cơ thể. Nó cần thiết để duy trì sức khỏe của da, sụn, răng, xương và mạch máu. Nó cũng được sử dụng để bảo vệ các tế bào trong cơ thể khỏi bị tổn thương. Nó được biết đến như một chất chống oxy hóa.

KHÁC:

Phần này chứa các công dụng của thuốc này không được liệt kê trong nhãn hiệu chuyên nghiệp đã được phê duyệt cho thuốc nhưng có thể được bác sĩ của bạn kê đơn. Sử dụng thuốc này cho một tình trạng được liệt kê trong phần này chỉ nếu nó đã được bác sĩ của bạn kê đơn. Vitamin này cũng có thể được sử dụng với các vitamin khác cho một tình trạng mắt nhất định (thoái hóa điểm vàng).

CÁCH SỬ DỤNG:

Uống vitamin này bằng miệng với hoặc không với thức ăn, thường là 1 đến 2 lần mỗi ngày. Tuân theo tất cả các hướng dẫn trên bao bì sản phẩm hoặc sử dụng theo chỉ dẫn của bác sĩ. Nếu bạn đang dùng viên nang phóng thích kéo dài, hãy nuốt nguyên viên. Không nghiền hoặc nhai viên nang hoặc viên nén phóng thích kéo dài. Làm như vậy có thể giải phóng toàn bộ thuốc ngay lập tức, làm tăng nguy cơ tác dụng phụ. Ngoài ra, không chia viên nén phóng thích kéo dài trừ khi nó có đường vạch và bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn yêu cầu bạn làm như vậy. Nuốt viên nén nguyên hoặc đã chia mà không nghiền hoặc nhai. Uống sản phẩm này với một cốc nước đầy (8 ounces/240 milliliters) trừ khi bác sĩ chỉ định khác. Nếu bạn đang sử dụng viên nén hoặc viên nhai, hãy nhai kỹ và sau đó nuốt. Nếu bạn đang sử dụng viên ngậm, đặt viên ngậm trong miệng và để nó tan từ từ. Nếu bạn đang sử dụng dạng bột, hãy trộn kỹ trong lượng chất lỏng phù hợp và khuấy đều. Uống tất cả lượng chất lỏng ngay lập tức. Không chuẩn bị một lượng dự trữ cho việc sử dụng trong tương lai. Nếu bạn đang sử dụng dạng lỏng của vitamin này, hãy đo liều lượng cẩn thận bằng cách sử dụng dụng cụ/thiết bị đo chuyên dụng. Không sử dụng thìa gia đình vì bạn có thể không nhận được liều chính xác. Liều lượng phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe của bạn và phản ứng với điều trị. Sử dụng vitamin này thường xuyên để nhận được lợi ích tối đa từ nó. Để giúp bạn nhớ, hãy uống vào cùng một thời điểm mỗi ngày. Nếu bạn nghĩ rằng bạn có một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, hãy tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức.

TÁC DỤNG PHỤ:

Tiêu chảy, buồn nôn, nôn, chuột rút/đau bụng hoặc ợ nóng có thể xảy ra. Nếu bất kỳ tác dụng nào trong số này kéo dài hoặc nặng hơn, hãy thông báo ngay cho bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn. Nếu bác sĩ đã chỉ định cho bạn sử dụng vitamin này, hãy nhớ rằng họ đã đánh giá rằng lợi ích đối với bạn lớn hơn nguy cơ tác dụng phụ. Nhiều người sử dụng vitamin này không gặp phải tác dụng phụ nghiêm trọng.

Hãy thông báo ngay cho bác sĩ nếu bất kỳ tác dụng phụ hiếm gặp nhưng rất nghiêm trọng nào xảy ra: tiểu đau, nước tiểu có màu hồng/đỏ. Phản ứng dị ứng rất nghiêm trọng với thuốc này là hiếm. Tuy nhiên, hãy tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào của phản ứng dị ứng nghiêm trọng, bao gồm: phát ban, ngứa/sưng (đặc biệt là trên mặt/lưỡi/họng), chóng mặt nghiêm trọng, khó thở. Đây không phải là danh sách đầy đủ các tác dụng phụ có thể xảy ra. Nếu bạn nhận thấy các tác dụng khác không được liệt kê ở trên, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn.

BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA:

Trước khi dùng axít ascorbic, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết nếu bạn có bất kỳ dị ứng nào. Sản phẩm này có thể chứa các thành phần không hoạt động (như đậu phộng/đậu nành), có thể gây ra phản ứng dị ứng hoặc các vấn đề khác. Hãy nói chuyện với dược sĩ của bạn để biết thêm chi tiết.

Trước khi sử dụng vitamin này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết lịch sử bệnh của bạn, đặc biệt là: bệnh thận (như sỏi thận), một loại thiếu hụt enzyme nhất định (thiếu G6PD). Trong thời kỳ mang thai, vitamin này đã được chứng minh là an toàn khi sử dụng với liều lượng khuyến nghị. Các liều cao hơn nên được sử dụng trong thời kỳ mang thai chỉ khi thực sự cần thiết. Thảo luận về các rủi ro và lợi ích với bác sĩ của bạn. Vitamin này có thể đi vào sữa mẹ và được coi là an toàn trong thời kỳ cho con bú khi được sử dụng với liều lượng khuyến nghị. Tham khảo ý kiến bác sĩ của bạn để biết thêm thông tin.

TƯƠNG TÁC THUỐC:

Các tác dụng của một số loại thuốc có thể thay đổi nếu bạn sử dụng các loại thuốc hoặc sản phẩm thảo dược khác cùng một lúc. Điều này có thể làm tăng nguy cơ gặp phải các tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc có thể khiến các thuốc của bạn không hoạt động đúng cách. Những tương tác thuốc này có thể xảy ra, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn thường có thể ngăn ngừa hoặc quản lý các tương tác bằng cách thay đổi cách bạn sử dụng thuốc hoặc theo dõi chặt chẽ. Để giúp bác sĩ và dược sĩ cung cấp cho bạn sự chăm sóc tốt nhất, hãy chắc chắn thông báo cho họ về tất cả các sản phẩm bạn sử dụng (bao gồm thuốc kê đơn, thuốc không kê đơn và sản phẩm thảo dược) trước khi bắt đầu điều trị với sản phẩm này. Trong khi sử dụng sản phẩm này, không bắt đầu, ngừng hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào khác mà bạn đang sử dụng mà không có sự chấp thuận của bác sĩ. Vitamin này có thể can thiệp vào một số xét nghiệm trong phòng thí nghiệm (bao gồm một số xét nghiệm glucose trong nước tiểu), có thể gây ra kết quả xét nghiệm sai. Hãy chắc chắn rằng nhân viên phòng thí nghiệm và tất cả bác sĩ của bạn biết bạn đang sử dụng thuốc này. Hãy giữ một danh sách tất cả các sản phẩm bạn sử dụng. Chia sẻ danh sách đó với bác sĩ và dược sĩ của bạn để giảm nguy cơ gặp phải các vấn đề nghiêm trọng liên quan đến thuốc.

QUÁ LIỀU:

Nếu nghi ngờ quá liều, hãy liên hệ với trung tâm kiểm soát chất độc hoặc phòng cấp cứu ngay lập tức.

GHI CHÚ:

Hãy giữ tất cả các cuộc hẹn y tế và xét nghiệm thường xuyên. Sản phẩm này không thay thế cho một chế độ ăn uống hợp lý. Tốt nhất là nhận vitamin từ thực phẩm lành mạnh. Axít ascorbic thường có trong trái cây họ cam quýt (như cam), cà chua, bắp cải brussels, súp lơ và bông cải xanh, cùng nhiều loại khác. Tham khảo ý kiến bác sĩ, dược sĩ hoặc chuyên gia dinh dưỡng để biết thêm chi tiết.

LIỀU QUÊN:

Nếu bạn quên một liều, hãy uống ngay khi bạn nhớ ra. Nếu gần đến thời gian của liều tiếp theo, hãy bỏ qua liều đã quên và tiếp tục theo lịch liều thông thường của bạn. Không gấp đôi liều để bù lại.

BẢO QUẢN:

Các thương hiệu khác nhau của vitamin này có nhu cầu bảo quản khác nhau. Kiểm tra bao bì sản phẩm để biết hướng dẫn về cách bảo quản thương hiệu của bạn, hoặc hỏi dược sĩ của bạn. Giữ tất cả các loại thuốc xa tầm tay trẻ em và thú nuôi. Không vứt thuốc xuống toilet hoặc đổ vào cống trừ khi được hướng dẫn làm như vậy. Vứt bỏ sản phẩm này một cách đúng đắn khi nó đã hết hạn hoặc không còn cần thiết nữa. Tham khảo ý kiến dược sĩ hoặc công ty xử lý chất thải địa phương để biết thêm chi tiết về cách vứt bỏ sản phẩm của bạn một cách an toàn.

Uốn ván (Giốc cung phản trương) – Chẩn đoán bệnh Đông y

Khái niệm

Giốc cung phản trương là chỉ chứng trạng lưng gáy co cứng, uốn cong, phía sau cơ thể ưỡn ra như giương cung. Linh khu Kinh mạch: “Bệnh ở kinh mạch nếu hàn thì gân co cứng và ưỡn ra”. Linh khu – Nhiệt bệnh: “Nhiệt mà kính thì chết… lưng ưỡn co giật, răng cắn chặt” đều là mô tả Giốc cung phản trương. Chư bệnh nguyên hậu luận của Sào Nguyên Phương đời Tùy đầu tiên đề ra một trang về Giốc cung phản trương xếp vào “Giốc cung phản trương hậu” có viết: “Phong tà phạm vào người khiến cho vùng lưng ưỡn cong không thể cúi ngửa giống như giương cung là do tà xâm phạm vào các kinh dương”.

Giốc cung phản trương có thể gặp trong các tật bệnh ở trong nhiều loại Nhiệt bệnh cấp tính, cấp mạn kinh phong, Phá thương phong…

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Giốc cung phản trương do hàn thấp ngăn trở đường lạc: Có chứng trạng uốn ván, cấm khẩu không nói được, chân tay co giật, phát nhiệt ố hàn, đau đầu đau mình, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Phù Khẩn.
  • Giốc cung phản trương do Dương minh nhiệt hun đốt: Có chứng uốn ván, cấm khẩu nghiến răng, chân tay co cứng, mặt mắt đỏ, sốt cao không ố hàn lại ố nhiệt, nhiều mồ hôi, không khát nước thậm chí nói sảng, trướng bụng, táo bón, lưỡi đỏ, rêu vàng khô, mạch Huyền Sác có lực .
  • Giốc cung phản trương do nhiệt quấy rối doanh huyết: Có chứng uốn ván, cấm khẩu co giật, mình nóng nặng về đêm, miệng khô nhưng không khát lắm, Tâm phiền mất ngủ, thậm chí hôn mê nói sảng hoặc có ban chẩn bộc lộ, chất lưỡi đỏ tía, mạch Tế Sác .
  • Giốc cung phản trương do hư phong nội động: chứng uốn ván, chân tay co giật, đầu choáng mắt hoa, hồi hộp đoản hơi, tinh thần mệt mỏi yếu sức, tự ra mồ hôi, mồ hôi trộm, sắc mặt không tươi, chất lưỡi nhạt, mạch Huyền Tế.
  • Giốc cung phản trương do tổn thương kim loại phong độc: Có chứng uốn ván , ố hàn phát nhiệt, đau đầu, vùng mặt và cơ bắp co giật, bộc lộ vẻ nhăn nhó khổ sở, hàm răng cắn chặt, lưỡi cứng cấm khẩu, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch Huyền Sác .

Phân tích

  • Chứng Giốc cung phản trương do hàn thấp ngăn trở đường lạc: Chứng này do ngoại cảm tà khí hàn thấp nghẽn trệ kinh lạc, tính thấp ngưng trệ, hàn chủ co rút cho nên xuất hiện các chứng: uốn ván cấm khẩu không nói được, gân mạch co cứng. Chính như Chí chân yếu đại luận – Tố Vấn có nói: “Các chứng Kính gáy cứng đều thuộc về thâp”. Linh khu – Kinh mạch cũng nói: “Kinh mạch gây bệnh, hàn thời ưỡn cong, gân căng cứng”. Vì tà khí hàn thấp ở biểu cho nên xuất hiện các biểu chứng như phát nhiệt ố hàn, đau đầu đau mình, rêu lưỡi trắng, mạch Phù.., chứng này nếu thuộc vào biểu thực thì không mồ hôi, mạch Phù Khẩn, đời xưa gọi là “Cương kính”. Điều trị nên theo phép giải cơ phát hãn dùng phương Cát căn thang gia giảm. Nếu là biểu hư thì mạch Trầm Tế, đời xưa gọi là “Nhu kính”. Điều trị theo phép hòa doanh dưỡng Tâm dùng phương Qua lâu quế chi thang gia giảm.
  • Chứng Giốc cung phản trương do Dương minh nhiệt hun đốt với chứng Giốc cung phản trương do nhiệt quấy rối doanh huyết: Giốc cung phản trương do Dương minh nhiệt hun đốt là ngoại tà vào lý hóa nhiệt, tà nhiệt hun đốt Dương minh khí phận, nhiệt quá thịnh làm hao tân dịch gân mạch không được nuôi dưỡng gây nên. Cho nên khi bị uốn ván thường đồng thời xuất hiện các triệu chứng cấm khẩu nghiến răng, chân tay co cứng, mặt đỏ, mắt đỏ, phát nhiệt không ố hàn lại ố nhiệt, ra nhiều mồ hôi, khát nước, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch Sác có lực là biểu hiện Dương minh nhiệt thịnh. Điều trị nên theo phép thanh nhiệt cứu tân, dùng phương Bạch hổ gia Nhân sâm thang gia giảm. Nếu kiêm chứng phủ thực, bụng đầy, đại tiện kết điều trị theo phép tiết nhiệt tồn âm dùng phương Tầng dịch Thừa khí thang gia giảm. Giốc cung phản trương do nhiệt quấy rối doanh huyết là ngoại cảm tà khí ôn nhiệt truyền vào trong doanh huyết, nhiệt ở trong quá thịnh dẫn động Can phong gây nên, cho nên khi bị uốn ván, cấm khẩu, co giật, thì đồng thời xuất hiện chứng hậu của doanh phần và huyết phần như: mình nóng nặng về đêm, Tâm phiền mất ngủ, có lúc nói sảng, thậm chí hôn mê nói linh tinh, nổi ban chẩn, chất lưỡi đỏ tía, mạch Huyền Tế Sác… điều trị theo phép thanh nhiệt lương huyết, bình Can dẹp phong, dùng phương Tê giác địa hoàng thang hợp với Linh dương câu đằng thang gia giảm. Nếu bệnh dằng dai lâu ngày, âm dịch hao tổn, gân mạch mất sự nuôi dưỡng, dư nhiệt chưa sạch sẽ xuất hiện chứng âm hư nội nhiệt như sốt nhẹ, mồ hôi trộm, gò má đỏ, gầy còm, ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khô lưỡi ráo, lưỡi đỏ sáng bóng ít rêu, mạch Tế Sác vô lực. Điều trị theo phép dục âm, dẹp phong, dùng phương Đại định phong châu gia giảm. Giốc cung phản trương do Dương minh nhiệt hun đốt với Giốc cung phản trương do nhiệt quấy rối doanh huyết ngoài triệu chứng uốn ván, điểm phân biệt giữa hai chứng là: Loại trên có các kiêm chứng Dương minh nhiệt thịnh như sốt cao, khát nhiều, vã mồ hôi, mạch Sác có lực. Loại sau thì có kiêm chứng nhiệt quấy rối doanh huyết như mình nóng nặng về đêm, hôn mê nói sảng, da dẻ nổi ban chẩn…
  • Chứng Giốc cung phản trương do hư phong nội động: Chứng này do ốm lâu chính khí hư hoặc qua hãn, hạ mất huyết tạo nên khí huyết đều tổn thương, gân mạch mất nuôi dưỡng mà gây nên co rút. VI vậy đồng thời với các chứng uốn ván và tứ chi co giật còn có các chứng khí huyết bất túc nghiêm trọng như, đầu choáng mắt hoa, hồi hộp đoản hơi, tinh thần mỏi mệt yếu sức, tự ra mồ hôi, mồ hôi trộm, sắc mặt không tươi, chất lưỡi trắng nhợt, mạch Tế… chính như Kính thấp yết bệnh mạch chứng trị – Kim quỹ yếu lược tâm điển có nói: “Cũng có trường hợp vong huyết khí kiệt tổn thương âm dương biến thành chứng Kính”. Chứng này không có biểu chứng và cũng không có chựng đại nhiệt, có thể với ba loại Giốc cung phản trương như: Hàn thấp ngăn trở kinh lạc, Dương minh nhiệt hun đốt và Nhiệt quấy rối doanh huyết để mà phân biệt. Loại Giốc cung phản trương do hư phong nội động điều trị nên đại bổ khí huyết chọn dùng phương Bát trân thang.
  • Chứng Giốc cung phản trương do phong độc kim loại: Chứng này do bị kim loại gươm giáo nói chung làm da thịt tổn hại ở bên ngoài, vết thương không sạch, tà khí phong độc xâm phạm vào kinh lạc gây nên còn gọi là “Phá thương phong”. Chứng này tuy có những biểu hiện giống với các chứng nói ở trên như: uốn ván, hàm răng cắn chặt, lưỡi cứng, cấm khẩu nhưng bắt buộc phải có bệnh sử về ngoại thương và có những chứng trạng đặc biệt như cơ thịt ở vùng mặt biểu lộ sự co dúm dó, lệch lạc khổ sở, khó coi. Điều trị nên khư phong dẹp Kính dùng phương Ngọc chân tán gia giảm.

Tóm lại, Giốc cung phản trương có thể gặp ở nhiều loại bệnh, lâm sàng cần phải phân biệt biểu lý hư thực. Giốc cung phản trương do hàn thấp ngăn trở đường lạc là Biểu chứng, còn các chứng Giốc cung phản trương khác đều thuộc Lý chứng. Lý chứng nên tiến thêm một bước phân biệt cho rõ hư thực. Giốc cung phản trương do Dương minh nhiệt hun đốt, Giốc cung phản trương do nhiệt quấy rối doanh huyết và Giốc cung phản trương do kim loại phong độc đều là Thực chứng. Giốc cung phản trương do hư phong nội động là Hư chứng. Động phong với tân dịch tổn thương là hai vấn đề trọng yếu trong cơ chế bệnh Giốc cung phản trương; vì thế trong biện chứng luận trị cần phải nắm vững nguyên tắc điều trị khư phong và dưỡng âm sinh tân.

Trích dẫn y văn

  • Đốc mạch gây bệnh, cột sống cứng và uốn cong (Tơ Vấn – Cốt không luận).
  • Đối với các loại âm hư huyết thiếu không nuôi dưỡng được gân mạch đến nỗi co cứng ngã lăn đều thuộc chứng này như chứng Trúng phong cũng có chứng này, chủ yếu là do tuổi cao sức yếu phần âm bị bại. Sản phụ cũng có chứng này, chắc chắn là bị mất huyết quá nhiều, Xung Nhâm bị kiệt. Người mắc bệnh mụn nhọt cũng có mắc chứng này là vì huyết theo mủ bài tiết ra, doanh khí bị cạn.

Trẻ em mắc chứng này hoặc là do phong nhiệt thương âm dẫn đến cấp kinh hoặc là do hãn nhiều tả nhiều bị vong âm biến thành mạn kinh. Những loại như thế tất cả đều là chứng âm hư (Cảnh Nhạc toàn thư – Kính chứng).

Chứng Thấp nhiệt bị 3 – 4 ngày thì cấm khẩu, chân tay co giật nặng hơn thì uốn ván, đó là thấp nhiệt xâm phạm vào đường kinh lạc và mạch toại, nên dùng Tiên địa long, Tần giao, Uy linh tiên, Hoạt thạch, Thương nhĩ tử, Ty qua đằng, Hải phong đằng, Tửu sao Hoàng liên… (Thấp nhiệt bệnh thiên).

Những Sai Lầm Khi Kiểm Tra Đường Huyết Cần Tránh

1. Bạn không rửa tay trước

Nếu có dấu vết đường trên ngón tay khi bạn kiểm tra, kết quả của bạn có thể không chính xác. Luôn rửa tay bằng xà phòng và nước ấm trước. Nhiệt độ nhẹ sẽ giúp máu lưu thông, giúp bạn lấy đủ giọt máu. Hãy chắc chắn rằng bạn đã lau khô hoàn toàn; độ ẩm có thể làm loãng mẫu của bạn hoặc cản trở phản ứng hóa học thực hiện bài kiểm tra.

2. Bạn không lấy đủ máu

Nếu vết chích của bạn không đủ sâu, mẫu máu có thể không đầy đủ để lấp đầy buồng trên que thử. Điều này có thể làm sai lệch kết quả của bạn. Tuy nhiên, đừng thêm máu vào mẫu của bạn. Hãy cố gắng lấy một giọt tốt ngay từ lần đầu.

3. Bạn chia sẻ que chích và máy đo

Không ai nên sử dụng máy đo glucose của bạn ngoại trừ bạn. Một nguyên tắc cơ bản: Chọn những que chích tự rút lại sau một lần sử dụng và vứt chúng vào thùng rác sắc nhọn ngay sau khi bạn sử dụng. Máy đo đường huyết của bạn có thể cũng không nên được chia sẻ. Nếu bạn phải làm như vậy, hãy làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất về việc làm sạch và khử trùng trước và sau.

4. Bạn ấn quá mạnh

Nếu tay bạn sạch sẽ và khô ráo, bạn có thể sử dụng giọt máu đầu tiên từ vết chích. Nếu vì lý do nào đó bạn không thể rửa tay, chỉ cần lau sạch giọt máu đầu tiên và sử dụng giọt thứ hai. Nhưng đừng đặt quá nhiều áp lực lên vị trí chích hoặc ấn mạnh – điều đó có thể làm sai lệch kết quả đọc của bạn.

5. Bạn sử dụng đầu ngón tay

Đầu ngón tay – và các đốt, nơi có dấu vân tay của bạn – rất nhạy cảm. Một vết chích ở cạnh ngón tay ít đau hơn và cũng hiệu quả. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị bạn nên sử dụng ngón tay thứ ba và thứ tư (ngón giữa và ngón nhẫn) để có kết quả kiểm tra tốt nhất. Lòng bàn tay cũng có thể là một vị trí lý tưởng.

6. Bạn bỏ qua các kết quả không chính xác

Đừng coi nhẹ các chỉ số của máy đo không chính xác. Hãy mang máy đo của bạn đến cuộc hẹn bác sĩ tiếp theo hoặc khi bạn cần làm xét nghiệm. Khi máu của bạn được rút, hãy thực hiện một vết chích riêng cho máy đo của bạn cùng lúc. Khi kết quả trở về, so sánh chúng. Bạn sẽ muốn các con số của bạn khớp với báo cáo của phòng xét nghiệm trong vòng 15%.

7. Bạn sử dụng que thử cũ

Hộp que thử glucose của bạn, hoặc chính các que thử, thường sẽ có ngày “sử dụng trước”. Ngày này thường rơi vào khoảng 3 đến 6 tháng sau khi bạn mua chúng. Đây là lý do: Enzyme có trong que thử phản ứng với lượng đường trong máu của bạn sẽ bắt đầu phân hủy theo thời gian. Điều này sẽ làm hỏng kết quả của bạn. Độ ẩm hoặc nhiệt độ cực đoan sẽ làm tăng tốc quá trình, vì vậy việc bảo quản đúng cách cũng rất quan trọng.

8. Bạn không kiểm tra đủ thường xuyên

Bạn nên kiểm tra lượng đường trong máu bao nhiêu lần? Ít nhất là theo như kế hoạch điều trị của bạn. Những thay đổi trong thói quen, bị ốm hoặc dùng thuốc mới có thể có nghĩa là bạn cần kiểm tra thường xuyên hơn. Trong một nghiên cứu về thói quen theo dõi glucose của người mắc bệnh đái tháo đường loại 2, khoảng một nửa trong số họ kiểm tra ít hơn một hoặc hai lần một tuần, hoặc không kiểm tra chút nào. Người ta có xu hướng kiểm tra nhiều hơn khi họ có một mục tiêu để phấn đấu, vì vậy việc có mục tiêu giúp ích.

9. Bạn không điều chỉnh cho độ cao

Một số máy đo glucose không hoạt động tốt ở độ cao trên 10.000 feet. Người ta đã báo cáo rằng các chỉ số của họ đọc cao hơn hoặc thấp hơn so với thực tế. Nếu bạn đang đi đến khu vực độ cao, hãy kiểm tra với bác sĩ trước khi bạn lên núi. Bạn có thể mang theo một máy đo dự phòng hoặc điều chỉnh mục tiêu của bạn trong khi ở đó.

10. Bạn không đủ nước

Nếu cơ thể bạn không có đủ nước, lượng đường trong máu của bạn sẽ bị cô đặc. Điều này có thể làm sai lệch kết quả đọc của bạn. Hãy giữ cơ thể đủ nước: Hãy chắc chắn rằng bạn đã uống đủ nước, đặc biệt nếu bạn đã ở ngoài nắng, tập thể dục quá sức, hoặc uống cà phê.

11. Bạn mua máy đo sai

Hãy xem xét kỹ máy đo của bạn trước khi mang về nhà. Đánh giá các yếu tố sau:

  • Những gì bảo hiểm của bạn chi trả
  • Chi phí mà bạn phải trả
  • Độ dễ sử dụng
  • Các tính năng bổ sung (như nút lớn, màn hình sáng, âm thanh, hoặc tự động theo dõi kết quả của bạn)
  • Mức độ hỗ trợ công nghệ mà nhà sản xuất cung cấp

12. Bạn nhập sai mã cho máy đo

Máy đo của bạn có thể yêu cầu bạn nhập mã kết nối tín hiệu điện của que thử với kết quả đường huyết của bạn. Bạn không cần phải làm điều này thường xuyên, nhưng nhiều người gặp khó khăn với bước này. Nếu bạn cảm thấy việc nhập mã có thể khiến bạn không kiểm tra đúng cách, hãy cân nhắc việc mua một máy đo mới không cần mã.

13. Bạn không ghi lại kết quả

Một số thiết bị sẽ theo dõi kết quả cho bạn. Nếu thiết bị của bạn không có chức năng này, rất dễ dàng tìm thấy một mẫu ghi lại kết quả có thể in hoặc một mẫu bạn có thể mang theo bên mình. Khi bạn hoàn thành việc kiểm tra đường huyết, hãy ghi lại kết quả và lưu ý những yếu tố có thể đã ảnh hưởng đến các chỉ số của bạn. Công cụ này sẽ giúp nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn biết cách kế hoạch điều trị của bạn đang hoạt động.

Chẩn đoán và điều trị Đái Tháo Đường

NGUYÊN NHÂN VÀ TỶ LỆ MẮC

Đái tháo đường (DM) bao gồm một nhóm các rối loạn chuyển hóa mà có biểu hiện chung của tăng đường huyết. Đái tháo đường hiện nay được phân loại dựa trên cơ chế bệnh sinh làm tăng đường huyết. Đái tháo đường type 1 được đặc trưng bởi tình trạng thiếu insulin và xu hướng sẽ chuyển hóa theo ketosis, trong khi Đái tháo đường type 2 là nhóm các rối loạn không đồng nhất đặc trưng bởi mức độ kháng insulin, giảm tiết insulin, và sản xuất glucose ở gan quá mức. Các thể đặc biệt khác bao gồm Đái tháo đường do khiếm khuyết di truyền [ Đái tháo đường khởi phát ở người trẻ (MODY) và rối loạn đơn gen hiếm gặp khác], bệnh về tuyến tụy ngoại tiết (viêm tụy mãn, xơ nang, bệnh thừa sắt), bệnh nội tiết (bệnh to đầu chi, hội chứng Cushing , u tụy glucagon, u tủy thượng thận , cường giáp), thuốc (acid nicotinic, glucocorticoid, thiazide, thuốc ức chế protease), và mang thai (Đái tháo đường thai kỳ). Biểu hiện lâm sàng của các loại đơn gen này và Đái tháo đường thứ phát
thường giống Đái tháo đường type 2; mức độ nghiêm trọng của nó phụ thuộc vào mức độ rối loạn chức năng tế bào beta và kháng insulin. Đái tháo đường type 1 thường do phá hủy tự miễn dịch của tế bào beta tuyến tụy; nó còn được gọi là bệnh tiểu đường khởi phát ở tuổi vị thành niên bởi vì tỷ lệ mắc cao ở trẻ em và thanh thiếu niên. Tỷ lệ mắc Đái tháo đường đang tăng lên nhanh chóng; riêng Đái tháo đường type 2 đang tăng song song với bệnh béo phì.

CHẨN ĐOÁN

Tiêu chuẩn để chẩn đoán Đái tháo đường bao gồm một trong các tiêu chuẩn sau:

  • Đường huyết lúc đói ≥7.0 mmol/L (≥126 m/dL)
  • Các triệu chứng của bệnh tiểu đường cộng với xét nghiệm đường huyết ngẫu nhiên ≥11.1 mmol/L (≥200 mg/dL)
  • Đường huyết sau 2h ≥11.1 mmol/L (≥200 mg/dL) trong nghiệm pháp dung nạp glucose 75g bằng đường uống HbA1c > 6,5%
  • Các tiêu chuẩn phải được khẳng định bằng xét nghiệm lại vào một ngày khác, trừ khi hiện tại rõ ràng là tăng đường huyết.
  • Hai loại rối loạn trung gian cũng đã được xác định:
  • Giảm dung nạp glucose lúc đói (IFG) khi đường huyết lúc đói từ 5,6-6,9 mmol/L (100-125 mg/dL)
  • Rối loạn dung nạp glucose (IGT) khi đường huyết từ 7,8-11,1 mmol/L (140-199 mg/dL) sau 2 giờ uống 75g glucose

Những trường hợp IFG hoặc IGT không có Đái tháo đường nhưng có nguy cơ đáng kể bị Đái tháo đường type 2 và bệnh tim mạch trong tương lai.

Sàng lọc làm đường huyết lúc đói được khuyến khích mỗi 3 năm cho những người trên 45 tuổi, cũng như cho những người trẻ bị thừa cân (chỉ số khối cơ thể ≥25 kg/m2) và có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ khác. (Bảng 184-1).

Hội chứng chuyển hóa (còn được gọi là hội chứng kháng insulin hoặc hội chứng X) là thuật ngữ dùng để mô tả sự phối hợp hay gặp của các rối loạn chuyển hóa bao gồm kháng insulin (có hoặc không có bệnh tiểu đường), tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, béo phì kiểu nam hoặc nội tạng, và rối loạn chức năng nội mô và có liên quan với bệnh tim mạch tiến triển.

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG

Các triệu chứng thường gặp của Đái tháo đường bao gồm tiểu nhiều, uống nhiều, sụt cân, mệt mỏi, suy nhược, mờ mắt, thường bị các nhiễm trùng bề mặt, và vết thương lâu lành. Đái tháo đường type 2 giai đoạn sớm, các triệu chứng có thể khó phát hiện hơn và bao gồm mệt mỏi, vết thương lâu lành, và dị cảm. Thiếu các triệu chứng là lý do chính chẩn đoán muộn Đái tháo đường type 2. Hỏi tiền sử bệnh tỉ mỉ, đầy đủ với sự chú ý đặc biệt về cân nặng, tập thể dục, hút thuốc lá, uống rượu, tiền sử gia đình bị Đái tháo đường, và các yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim mạch. Với một bệnh nhân bị Đái tháo đường, đánh giá sự chăm sóc trong bệnh tiểu đường trước, nồng độ HbA1c, chỉ số đường huyết tự theo dõi, số lần bị hạ đường huyết, và những hiểu biết của bệnh nhân về Đái tháo đường. Đặc biệt chú ý trong khám kiểm tra võng mạc, huyết áp tư thế đứng, kiểm tra bàn chân (bao gồm cả cảm giác rung và test sợi đơn), các mạch ngoại vi, và vị trí tiêm insulin. Biến chứng cấp tính của Đái tháo đường bao gồm nhiễm toan ceton Đái tháo đường (DKA) ( Đái tháo đường type 1) và tình trạng tăng thẩm thấu do tăng đường huyết (Đái tháo đường type 2).

BẢNG 184-1 TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN TIỀN Đái tháo đường VÀ Đái tháo đường Ở NHỮNG BỆNH NHÂN KHÔNG CÓ TRIỆU CHỨNGa

Các yếu tố nguy cơ

  • Trong gia đình có người bị Đái tháo đường
  • Hoạt động thể lực kém
  • Chủng tộc/sắc tộc (VD, African American, Latino, Native American, Asian American, Pacific Islander)
  • Được xác định bị IFG, IGT, hoặc HbA1C từ 5.7–6.4% trước đó
  • Tiền sử bị Đái tháo đường thai kì (GDM) hoặc sinh con >4 kg (>9 lb)
  • Tăng huyết áp (HA ≥140/90 mmHg)
  • Chỉ số HDL cholesterol ≤0.90 mmol/L (35 mg/dL) và/hoặc chỉ số triglyceride ≥2.82 mmol/L (250 mg/dL)
  • Hội chứng buồng trứng đa nang hoặc bệnh gai đen
  • Tiền sử bệnh mạch máu

aXem xét làm test đối với tất cả người lớn 45 tuổi và <45 tuổi mà BMI ≥25 kg/ m2 và có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ của bệnh Đái tháo đường.

Viết tắt: BMI, chỉ số khối cơ thể ; GDM, Đái tháo đường thai kỳ ; HDL, Lipoprotein tỷ trọng cao; IFG, Giảm dung nạp glucose lúc đói ; IGT, Rối loạn dung nạp glucose.

Nguồn: Adapted from American Diabetes Association, 2011.

Các biến chứng mãn tính của Đái tháo đường bao gồm:

  • Mắt: Bệnh võng mạc Đái tháo đường tăng sinh hoặc không tăng sinh, phù hoàng điểm, tân mạch mống mắt, tăng nhãn áp, đục thủy tinh thể
  • Thận: protein niệu, bệnh thận giai đoạn cuối (ESRD), nhiễm toan ống thận type 4
  • Thần kinh: bệnh đa dây thần kinh ngoại biên đối xứng, bệnh đa rễ thần kinh, bệnh một dây thần kinh, bệnh thần kinh tự miễn
  • Tiêu hóa: liệt dạ dày, tiêu chảy, táo bón
  • Tiết niệu-sinh dục: bệnh về bàng quang, rối loạn chức năng cương dương, rối loạn chức năng sinh dục ở nữ, candida âm đạo
  • Tim mạch: bệnh động mạch vành, suy tim sung huyết, bệnh mạch máu ngoại vi, đột quỵ
  • Chân: biến dạng bàn chân ( ngón chân hình búa, ngón chân móng vuốt, bàn chân Charcot), loét, cắt cụt
  • Da liễu: Nhiễm trùng (viêm nang lông, nhọt, viêm mô tế bào), hoại tử , lâu lành, loét, hoại thư
  • Nha khoa: Bệnh nha chu

ĐIỀU TRỊ Đái Tháo Đường

Điều trị tối ưu Đái tháo đường đòi hỏi phải kiểm soát đường huyết chặt chẽ. Bệnh nhân tiểu đường nên được chăm sóc toàn diện và theo dõi các biến chứng cụ thể của Đái tháo đường và thay đổi các yếu tố nguy cơ của các bệnh liên quan tiểu đường. Bệnh nhân bị Đái tháo đường type 1 hoặc type 2 nên được giáo dục về dinh dưỡng, tập thể dục, các chăm sóc trong suốt giai đoạn bệnh, và thuốc hạ đường huyết. Nhìn chung, mục tiêu HbA1c nên < 7,0%, mặc dù tùy theo mỗi người (tuổi tác, khả năng thực hiện phác đồ điều trị phức tạp, và kèm theo bệnh khác) cũng nên được đưa vào báo cáo. Điều trị chuyên sâu làm giảm các biến chứng lâu dài nhưng được kết hợp với kiểm soát hạ đường huyết vì nó thường xuyên xảy ra và nghiêm trọng hơn. Mục tiêu đường huyết trước bữa ăn nên từ 3,9-7,2 mmol/L (70-130 mg/dL) và mức sau ăn nên <10,0 mmol/L (<180 mg/dL) 1- 2 giờ sau bữa ăn.

Nói chung, các bệnh nhân bị Đái tháo đường type 1 cần 0,5-1,0U/kg insulin mỗi ngày chia thành nhiều liều. Kết hợp các chế phẩm insulin có thời gian bắt đầu tác dụng và thời gian kéo dài tác dụng khác nên được sử dụng (Bảng 184-2). Phác đồ ưu tiên bao gồm tiêm glargine khi đi ngủ với lispro trước bữa ăn, glulisine, hoặc insulin tác dụng nhanh aspart hoặc truyền insulin liên tục dưới da. Pramlintide, một thước tương tự amylin có thể tiêm, có thể được sử dụng như liệu pháp bổ sung để kiểm soát đường huyết sau ăn.

Những bệnh nhân Đái tháo đường type 2 có thể được theo dõi bởi chế độ ăn uống và tự tập thể dục hoặc kết hợp với uống thuốc hạ đường huyết, insulin, hoặc kết hợp thuốc uống và insulin. Phân loại các thuốc hạ đường huyết đường uống và liều lượng được liệt kê trong Bảng 184-3. Ngoài ra, exenatide và liraglutide là thuốc tiêm giống với glucagon-like peptide 1 (GLP-1, một incretin) mà có thể được dùng kết hợp với metformin hoặc sulfonylureas. Phương pháp điều trị ban đầu nên dùng metformin vì hiệu quả của nó (giảm HbA1c 1-2%), và có ít tác dụng phụ, chi phí thấp (Hình.184-1). Metformin có ưu điểm là làm giảm cân vừa phải, làm giảm nồng độ insulin, cải thiện rối loạn lipid máu, làm giảm nguy cơ ung thư, và không gây hạ đường
huyết khi dùng đơn trị liệu, mặc dù có chống chỉ định trong suy thận, suy tim sung huyết, nhiễm toan, bệnh gan, hoặc thiếu oxy máu nặng, và cần ngừng điều trị ở những bệnh nhân nặng hoặc dùng vật liệu cản quang. Metformin có thể được dùng sau khi thêm một thuốc uống thứ hai (kích thích insulin, ức chế DPP-IV, thiazolidinedione,hoặc chất ức chế α-glucosidase). Sự kết hợp của hai loại thuốc uống có thể tăng hiệu quả điều trị, dùng insulin trước khi đi ngủ hoặc một thuốc uống thứ ba nếu không kiểm soát được đường huyết. Khi sản xuất insulin nội sinh giảm, tiêm nhiều liều insulin tác dụng dài và ngắn có thể được yêu cầu, như trong Đái tháo đường type 1. Mỗi bệnh nhân phải dùng insulin tác dụng kéo dài >1U/kg mỗi ngày nên được cân nhắc điều trị phối hợp với một thuốc insulin nhạy cảm như metformin hoặc một thiazolidinedione. Đái tháo đường type 2 phải dùng insulin cũng có tác dụng kiểm soát đường huyết khi dùng đồng
thời pramlintide.

BẢNG 184-2 CÁC ĐẶC TÍNH CỦA THUỐC INSULIN

ĐẶC TÍNH CỦA THUỐC INSULIN

aGlargine and detemir có đỉnh tác dụng thấp nhất.
b2 thời điểm: 2 đỉnh—1 là sau 2–3 h, đỉnh thứ 2 sau đỉnh thứ nhất vài giờ.
Nguồn: Adapted from JS Skyler: Therapy for Diabetes Mellitus and
Related Disorders, American Diabetes Association, Alexandria, VA, 2004.

Tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của các biến chứng liên quan đến Đái tháo đường có thể giảm đáng kể bởi quá trình giám sát kịp thời và phù hợp (Bảng 184-4). Xét nghiệm phân tích nước tiểu thông thường có thể được thực hiện như là một test sàng lọc ban đầu để phát hiện bệnh thận do Đái tháo đường. Nếu protein niệu (+), nên làm xét nghiệm protein niệu 24h. Nếu protein niệu (-), xét nghiệm microalbumin niệu nên được thực hiện (nếu xuất hiện 30-300 mg / mg creatinin ở hai trong ba lần xét nghiệm trong thời gian từ 3 đến 6 tháng). Ghi ECG lúc nghỉ ngơi nên
được thực hiện ở người lớn, và làm các test về tim cho bệnh nhân có nguy cơ cao. Mục tiêu điều trị ngăn ngừa các biến chứng của Đái tháo đường bao gồm kiểm soát protein niệu với thuốc ức chế ACE hoặc điều trị thuốc chẹn receptor angiotensin, kiểm soát huyết áp (<130/80 mmHg nếu không có protein niệu, <125/75 nếu có protein niệu), và kiểm soát rối loạn lipid máu [LDL <2,6 mmol/L (<100mg/dL), HDL>1,1 mmol/L (> 40 mg/ dL) ở nam và >1,38 mmol/L (50mg/dL) ở nữ, triglycerides <1,7 mmol/L (<150mg/dL)]. Ngoài ra, bất kỳ bệnh nhân nào mắc bệnh Đái tháo đường > 40 năm nên uống statin, bất kể chỉ số cholesterol LDL, và ở những người mắc bệnh tim mạch, mục tiêu LDL nên <1,8 mmol / L (70 mg / dL).

BẢNG 184-3 CÁC THUỐC HẠ GLUCOSE MÁU ĐƯỜNG UỐNG THUỐC HẠ GLUCOSE MÁU ĐƯỜNG

KIỂM SOÁT BỆNH NHÂN NỘI TRÚ

Kiểm soát đường huyết ở người ĐTĐ type 2

HÌNH 184-1 Kiểm soát đường huyết ở người Đái tháo đường type 2. Các thuốc có thể được phối hợp với metformin gồm thuốc tiết insulin, thiazolidinediones, ức chế α-glucosidase, ức chế DPP-IV, và đồng vận thụ thể GLP-1.

Mục tiêu điều trị bệnh nhân tiểu đường nội trú là kiểm soát đường huyết gần về bình thường, tránh hạ đường huyết, và chuyển sang dùng phác đồ điều trị ngoại trú. Bệnh nhân Đái tháo đường type 1 mà phải gây mê và phẫu thuật thường, hoặc bị bệnh nghiêm trọng, nên dùng insulin liên tục, hoặc bằng cách truyền tĩnh mạch insulin hoặc giảm liều tiêm dưới da của insulin tác dụng
kéo dài. Chỉ dùng Insulin tác dụng ngắn là không đủ để ngăn chặn khởi phát nhiễm toan ceton do đái tháo đường. Thuốc hạ glucose máu đường uống nên ngừng ở bệnh nhân Đái tháo đường type 2 tại thời điểm nhập viện. Hoặc truyền thường xuyên insulin (0,05-0,15 U/kg mỗi giờ) hoặc giảm liều (bằng 30- 50%) insulin tác dụng dài và insulin tác dụng ngắn (duy trì liều, hoặc giảm từ 30-50%), với truyền dung dịch dextrose 5%, nên được dùng khi những bệnh nhân Đái tháo đường không thể ăn hoặc uống. Nên tiêm dưới da insulin tác dụng ngắn và dài trong bữa ăn cho bệnh nhân Đái tháo đường type 2. Mục tiêu đường huyết cho bệnh nhân nhập viện phải là đường huyết trước bữa ăn <7,8 mmol/L (<140 mg/dL) và <10 mmol/L (<180 mg/dL) sau bữa ăn. Đối với bệnh nhân nặng, đường huyết từ 7,8-10,0 mmol/L (140-180 mg/dL) được khuyến khích. Những người bị Đái tháo đường phải chụp phóng xạ với thuốc phóng xạ nên uống nhiều nước trước và sau khi dùng thuốc,và theo dõi creatinine huyết thanh sau thủ thuật.

BẢNG 184-4 HƯỚNG DẪN CHĂM SÓC Y TẾ CHO BN BỊ Đái tháo đường

Tự theo dõi đường huyết tại nhà (tần suất phụ thuộc vào từng bệnh nhân)
Xét nghiệm HbA1c ( 2-4 lần/năm)
Giáo dục bệnh nhân bị Đái tháo đường (hàng năm)
Giáo dục thay đổi chế độ ăn và nhận thức (hàng năm)
Kiểm tra mắt (hàng năm)
Kiểm tra bàn chân (1–2 lầ/năm bởi bác sĩ và tự kiểm tra hàng ngày)
Sàng lọc bệnh thận do Đái tháo đường (hàng năm, xem hình. 344-11 )
Đo huyết áp (hàng quý)
XN lipid máu và Creatinin huyết thanh (tính mức lọc cầu thận) (hàng năm)
Tiêm vaccin ngừa cúm/phế cầu
Cân nhắc điều trị kháng tiểu cầu (xem text)

Thận ứ nước (ứ nước tiểu ở thận)

Tên khác: ứ nước tiểu ở thận.

Định nghĩa

Giãn hệ thống bể thận- đài thận; bị ở một bên nếu trở ngại trong đường dẫn nước tiểu ở phía trên chỗ niệu quản đô vào bàng quang, bị cả hai bên nếu trở ngại ở phiá dưới chỗ đó.

Thận ứ mủ là thận ứ nước bị nhiễm khuẩn.

Căn nguyên

THỂ CHỨC NĂNG

  • Thận ứ nước bẩm sinh do bất thường ở chỗ bể thận đổ vào niệu quản hay hội chứng đài thận-bể thận: dị tật bẩm sinh có biểu hiện lâm sàng ở người lớn hay ở người có tuổi cao và rất có thể đi kèm với những rối loạn cơ trơn ở chỗ bể thận-đài thận
  • Thận ứ nưổc tạm thời do cơ trơn bị giãn có thể xảy ra trong khi mang thai và khi bị nhiễm khuẩn đường niệu cấp tính.

TẮC Cơ học (bệnh thận có tắc nghẽn):

  • Tắc ở đài thận: sỏi, hoại tử nhú thận.
  • Tắc ở chỗ nối đài-bể thận: sỏi.
  • Xơ hoá chỗ bể thận nối với niệu quản.
  • Tắc niệu quản: tắc niệu quản do sỏi là nguyên nhân thường gặp gây ứ nước thận. Xơ hoá niệu quản có thể do khối tân sinh, viêm, do phẫu thuật hay do chấn thương. Có thể do một động mạch bất thường. Xơ hoá sau phúc mạc (xem bệnh này). Các khối u trong ổ bụng hay vùng chậu có thể gây chèn ép niệu quản từ bên ngoài.

Trong trường hợp sa thận, niệu quản bị gấp khúc khi bệnh nhân đứng lên và có thể gây ra ứ nước thận cách hồi, có giãn tiểu khung, đau thắt lưng, hạ huyết áp, thiểu niệu và nôn (hội chứng Dietl).

  • Tắc niệu quản-bàng quang: xơ, phì đại, trào ngược, khối ung thư bàng quang lan rộng.
  • Tắc ở cổ bàng quang và niệu đạo: ung thư bàng quang, sỏi, ung thư hay u xơ tuyến tiền liệt, chít hẹp sau viêm hay sau chấn thương, dị tật bẩm sinh, co cứng và rôl loạn thần kinh bàng quang.

Giải phẫu bệnh: trước hết là thận và hệ thống đài thận – bể thận bị sưng và to lên. Nếu tắc kéo dài thì phần tủy thận bị teo do nhu mô thận bị chèn ép, các chức năng của ống thận và sau đó là của cầu thận bị giảm.

Triệu chứng

Ứ nước cấp ở thận thường có đau kiểu cơn đau quặn thận.

MỘT THẬN BỊ Ứ NƯỚC HOÀN TOÀN HAY KHÔNG HOÀN TOÀN: có thể không có triệu chứng hoặc có đau thắt lưng và nắn vùng thận thấy thận to.

HAI THẬN BỊ Ứ NƯỚC KHÔNG HOÀN TOÀN: đái nhiều, đái về đêm, đôi khi có cao huyết áp, tổn thương ở ống thận và kẽ thận, nhiễm acid do Ống thận, có sỏi.

HAI THẬN BỊ Ứ NƯỚC HOÀN TOÀN: thiểu niệu – vô niệu hay vô niệu, có thể tử vong nếu không tháo tắc nhanh. Khi tiểu tiện lại thì có thể đi tiểu rất nhiều, nước tiểu nhược trương nhưng có nhiều NaCl.

Xét nghiệm lâm sàng

Xét nghiệm nước tiểu có thể thấy có máu, có nhiều tinh thể cho thấy có thể có sỏi, có mảnh mô từ chỗ nhú hoại tử bong ra.

Xét nghiệm bổ sung

Chụp siêu âm đôi khi khẳng định chẩn đoán, cho thấy đài thận và bể thận bị giãn và cho phép đánh giá tình trạng nhu mô thận. Chụp đường niệu qua tĩnh mạch cho thấy bể thận, các đài thận và phần phễu bị giãn. Chụp bàng quang-niệu quản-bể thận ngược dòng trong trường hợp các kỹ thuật trên thất bại.

Chẩn đoán

Dựa vào có các cơn đau quặn thận, sờ thấy khối thận ở vùng thận và chụp siêu âm cắt lớp thấy có hình ảnh điển hình.

Chẩn đoán phân biệt với các nguyên nhân gây thận to: ung thư thận, thận đa nang, u buồng trứng.

Biến chứng

Nhiễm khuẩn đường niệu, đôi khi rất nặng và đột ngột, ứ mủ thận. Sỏi thận, nhu mô thận bị phá huỷ và có suy thận.

Tiên lượng: phụ thuộc vào căn nguyên và tình trạng chức năng thận. Tiên lượng tốt nếu giải quyết tắc trước khi nhu mô thận bị teo, nhất là khi một thận bị ứ nước còn thận kia vẫn nguyên vẹn.

Điều trị

Giải quyết tắc để thông đường nước tiểu. Giải quyết sỏi thận bằng mổ nội soi hay tán sỏi. Tạo hình bể thận trong trường hợp bị dị tật bẩm sinh chỗ nối bể thận- niệu quản. Có thể mổ nội soi để điều trị xơ hoá bể thận-niệu quản và xơ hoá niệu đạo (mở thông bể thận bằng nội soi, mở thông niêụ quản bằng nội soi), cắt bỏ thận nếu thận đã bị mất chức năng.

Cây xấu hổ – Hình ảnh, chữa mất ngủ, đau xương khớp

Tên khác: Cây xấu hổ, cỏ thẹn, cây mắc cỡ, hàm tu thảo, nhả nả nhẻn (Tày). Tên khoa học: Mimosa pudica L.

Họ Trinh nữ (Mimosaceae).

MÔ TẢ

Cây nhỏ thấp, mọc sum sê.

Cây xấu hổ (Trinh nữ, Cây mắc cỡ)
Cây xấu hổ (Trinh nữ, Cây mắc cỡ)

Thân uốn éo, có gai nhỏ và lông cứng. Lá kép chân vịt, mọc so le, mang 4 nhánh lá chét mọc đối, xếp lông chim, các lá chét ở giữa nhánh to hơn. Khi đụng vào thân, toàn bộ lá mang nhánh cụp lại, các lá chét xếp úp vào nhau.

Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành đầu tròn gồm rất nhiều hoa nhỏ Trinh nữ màu tím hồng; đài hình đấu, tràng có cánh dính nhau, nhị rất mảnh, bầu có 4 noãn.

Quả có nhiều lông cứng.

Mùa hoa quả: tháng 6 – 8.

PHÂN BỐ, NƠI MỌC

Trên thế giới, trinh nữ phân bố ở khu vực nhiệt đới châu Á, châu Mỹ, châu Phi. ở châu Á, có ở các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, miền Nam Trung Quốc, Papua New Ghinea.

ở Việt Nam, trinh nữ mọc hoang rải rác khắp nơi, từ đồng bằng đến miền núi thấp. Thường gặp trên đất ẩm ở bờ bụi, bãi sông, ven đường đi, nương rẫy, ruộng hoang.

BỘ PHẬN DÙNG, THU HÁI, CHẾ BIẾN

Cả cây trinh nữ gồm cành lá thu hái vào mùa hạ, thu và rễ đào quanh năm, rửa sạch, phơi hoặc sấy khô.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Cả cây trinh nữ chứa alcaloid mimosin, các flavonoid, acid hữu cơ.

Lá và quả có hàm lượng selen cao.

Hạt chứa chất nhầy và dầu béo.

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Dạng cao cả cây trinh nữ có tác dụng kéo dài thời gian ngủ của các loại thuốc ngủ.

Cao rễ lại có tác dụng giảm đau rõ rệt.

CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Cả cây trinh nữ được dùng trong y học cổ truyền với tên thuốc là hàm tu thảo.

Dược liệu vị ngọt, hơi se, tính hàn, có tác dụng an thần, làm dịu chữa suy nhược thần kinh, mất ngủ, sốt, cao huyết áp, viêm phế quản.

Liều dùng hàng ngày: 15 – 20g dưới dạng thuốc sắc.

Dùng ngoài, lá cây trinh nữ rửa sạch, giã đắp chữa viêm da mủ.

Rễ trinh nữ là thuốc đặc trị bệnh tê thấp, đau lưng, nhức mỏi gân xương, với liều dùng 10 – 20g, sắc hoặc ngâm rượu uống.

BÀI THUỐC

  • Chữa suy nhược thần kinh, mất ngủ: cả cây trinh nữ (15g), lạc tiên, mạch môn, thảo quyết minh hoặc nụ áo hoa tím, chua me đất (mỗi thứ 10 – 20g). Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.
  • Chữa thấp khớp có sốt, đau nhiều: Rễ trinh nữ (10g), lá và thân cây cối xay (3g), rau muống biển (3g), lá lạc tiên (3g), rễ cỏ xước (3g), lá vòi voi (3g), lá lốt (3g), thái nhỏ, phơi khô, hãm uống làm một lần trong ngày.

Thuốc đã được điều trị cho nhiều người bệnh và có so sánh với việc điều trị bằng thuốc chống viêm, giảm đau và kháng sinh thấy có kết quả rất tốt.

  • Chữa tê thấp, đau lưng, nhức mỏi gân xương: Rễ trinh nữ (20g), rễ bưởi bung (20g), rễ cúc tần (20g), rễ đinh lăng (10g), rễ cam thảo dây (10g).

Tất cả thái nhỏ, sao qua, sắc uống làm hai lần trong ngày.

Có thể ngâm rượu uống.

Hoặc rễ trinh nữ (10g), thân cây ớt làn lá to (10g), thân cây bọt ếch (10g), rễ khúc khắc (10g), rễ bạch đồng nữ (8g), thỏ ty tử (8g). Tất cả nấu với hai lần nước, rồi cô lại thành cao lỏng.

Uống làm hai lần trong ngày. Nếu dược liệu có nhiều, có thể nấu thành cao đặc, rồi pha rượu dùng dần.

Những lầm tưởng và sự thật về bệnh nấm da

Khi nghe thuật ngữ “nấm da,” bạn có tưởng tượng ra một đám giun nhỏ trườn trên da mình không? Nếu có, bạn có thể đã bị lừa bởi một trong nhiều quan niệm sai lầm về căn bệnh da liễu phổ biến này. Thực tế, bệnh nấm da ít đáng sợ hơn nhiều so với cái tên của nó.

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ làm rõ một số lầm tưởng vẫn đang lan truyền về bệnh nấm da.

Lầm tưởng 1: Nấm da do giun gây ra

Lầm tưởng này có lẽ là phổ biến nhất, bắt nguồn từ tên gọi của bệnh. Mặc dù có tên liên quan đến “giun,” nhưng bệnh nấm da (còn gọi là tinea) không phải do giun gây ra. Nguyên nhân thực sự là một nhóm nấm gọi là dermatophytes, có khả năng gây nhiễm trùng da. Bệnh nấm da có tên như vậy do các đốm đỏ thường tạo thành một vòng tròn đặc trưng trên da.

Lầm tưởng 2: Nấm da chỉ ảnh hưởng đến da

Mặc dù bệnh nấm da thường xuất hiện trên da, bao gồm cả da đầu, nhưng nó cũng có thể xuất hiện trên móng tay hoặc móng chân. Nấm da trên móng không tạo ra hình dạng vòng tròn. Thay vào đó, nó làm móng tay dày lên, trở nên vàng và dễ gãy.

Lầm tưởng 3: Ai bị nấm da cũng phát triển các vòng đỏ trên da

Một số người bị nhiễm nấm sẽ phát triển các vòng đỏ có vảy, nhưng không phải ai cũng vậy. Nếu bạn bị nhiễm nấm da, bạn có thể thấy các mảng đỏ lồi lên trên da, nhưng chúng không nhất thiết phải có hình dạng vòng tròn. Trên da đầu, nấm da có thể trông giống như một mụn đỏ có vảy hơn là một vòng tròn.

Lầm tưởng 4: Chỉ trẻ em mới bị nấm da

Trẻ em dễ bị một số loại nấm da hơn, nhưng bạn có thể bị nhiễm nấm ở mọi lứa tuổi.

Lầm tưởng 5: Nấm da không lây

Thực tế thì ngược lại. Nấm da lây lan rất dễ dàng từ người này sang người khác, đặc biệt là ở các khu vực công cộng như phòng thay đồ và hồ bơi khu phố. Nấm da lây lan mạnh đến nỗi bạn không cần phải chạm vào người khác để bị nhiễm. Nấm có thể tồn tại ở những nơi như sàn phòng thay đồ, cũng như trên mũ, lược và bàn chải tóc.

Nếu bạn dùng chung bàn chải hoặc lược nhiễm nấm, bạn có thể bị nấm da đầu. Tính lây lan cao của bệnh là lý do các bác sĩ khuyên bạn tránh xa những người bị nhiễm, cũng như các vật dụng cá nhân của họ.

Lầm tưởng 6: Bạn sẽ thấy triệu chứng ngay sau khi bị nhiễm nấm

Nấm da có thời gian ủ bệnh khá lâu. Phát ban đỏ có thể mất vài ngày để xuất hiện trên da bạn. Nếu bạn bị nấm da đầu, có thể mất đến hai tuần sau khi bị nhiễm mới thấy dấu hiệu.

Lầm tưởng 7: Bạn không thể bị nhiễm nấm từ thú cưng

Con người và thú cưng có thể chia sẻ nhiều bệnh, bao gồm cả nấm da. Không chỉ bạn có thể bị nhiễm nấm từ chó, mèo, thỏ, hay chim của mình, mà bạn cũng có thể lây nấm cho thú cưng. Đó là lý do tại sao quan trọng cần đưa thú cưng đến bác sĩ thú y nếu nghi ngờ chúng bị nấm. Hãy giữ thú cưng bị nhiễm cách xa gia đình bạn và các thú cưng khác, và rửa tay bằng xà phòng và nước ấm mỗi khi chạm vào chúng cho đến khi hết nhiễm.

Lầm tưởng 8: Da đầu bong tróc có thể là gàu chứ không phải nấm da

Không hẳn. Đôi khi nấm da đầu không tạo ra vòng tròn đặc trưng. Thay vào đó, da trở nên có vảy và bong tróc, giống như gàu.

Lầm tưởng 9: Chỉ người bị nhiễm nấm cần được điều trị

Vì nấm da lây lan rất nhanh, những người khác trong gia đình cũng có thể cần được điều trị, ngay cả khi họ không có triệu chứng. Nếu có khả năng họ đã tiếp xúc với nấm da đầu, họ có thể cần sử dụng một loại dầu gội đặc biệt hoặc thậm chí uống thuốc và được kiểm tra để xác định xem có bị nhiễm hay không.

Lầm tưởng 10: Nấm da được điều trị bằng kháng sinh

Kháng sinh chỉ tiêu diệt vi khuẩn. Chúng không có tác dụng với nấm da, vốn do nấm gây ra. Nấm da được điều trị bằng các loại thuốc chống nấm, có thể bôi ngoài da hoặc uống. Nấm da đầu được điều trị bằng dầu gội đặc biệt và thuốc chống nấm uống. Bạn có thể phải tiếp tục dùng thuốc được kê trong vài tuần để loại bỏ hoàn toàn nhiễm trùng.

Lầm tưởng 11: Một khi đã bị nấm da, bạn sẽ không bị lại

Thực ra, rất dễ bị nhiễm lại, đặc biệt là nấm móng

Ba tiêu

ba tiêu
ba tiêu

BA TIÊU

Tên khác:

Ba thư, Bản tiêu, Đởm bình tiêu, Nha tiêu, Vô nhĩ văn tuyết (Hòa hán dược khảo), Cam tiêu (Biệt lục), Thiên thư (Sử ký chú), Thiệt danh hương tiêu (Cương mục thập di), Thủy tiêu ( Gia hựu bản thảo đồ kinh), Ưu đàm hoa (Phạn ngữ), Chuối tiêu (Việt Nam).

Tên khoa học:

Musa Basloo Sieb. Et Zucc.

Họ khoa học:

Musaceae.

Mô tả:

Cây thảo, cao 5-6m, sống lâu năm. Thân cây tròn, mềm, thẳng, có bẹ lá. Cuống hình tròn có khuyết rãnh. Lá to, dài. Trái nằm trên buồng, có từ 6-8 nải, mỗi nải khoảng 12 trái. Trái nhỏ, dái, mùi thơm. Khi chín, vỏ vẫn mầu xanh nhưng khi chín mùi thì mầu vàng.

Thành phần hóa học:

+Trong 100g phần ăn được, có bột đường (27,7g), chất đạm (1,1g), nước (74,1g), sinh tố C (9mg), B1 (0,03mg), B2 (0,04mg), Caroten (359 Unit), Calcium (11mg), Magnéium (42mg), Kalium (279mg), Sắt (0,56mong), 8,6% Fructos, 4,7% Glucos, 13,7% Sacaros. Trong chuối có nhiều Pectin, là 1 Glucid không có giá trị về mặt năng lượng nhưng là chất gíup cho sự tiêu hóa hấp thu tốt, chống nhiễm trùng

đường ruột. Chuối cung cấp nhiều năng lượng nhất (trên dưới 100 Calori/100g nạc chuối chín tươi) vì chuối chứa nhiều bột đường nhất (Trái cây và sức khỏe).

Tính vị:

Vị ngọt, tính rất lạnh, không độc.

Tác dụng, chủ trị:

+Thanh Vị hỏa, giải nhiệt độc. Trị phù thũng, ho (TQDHĐT.Điển).

+Chuối chín làm tăng hồng cầu, huyết cầu tố, giúp giảm được tình trạng nhiễm Acid cho chế độ ăn nhiều thịt, mỡ hoặc quá nhiều ngũ cốc. Chuối chín tươi được coi là thuốc đối với người bị bệnh đường ruột kể cả tiêu chảy, lỵ; là thuốc lợi tiểu cho ngày.2 bị thũng, tăng hấp thụ cho trẻ bị suy dinh dưỡng (Trái cây và sức khỏe).

Đơn thuốc kinh nghiệm:

+Trị trẻ nhỏ gầy ốm, suy dinh dưỡng, cam tích, cam còm: Chuối ngự (dùng loại thật chín) 12g, Thịt cóc (Cóc lột da, rửa sạch máu, mủ, bỏ hết tạng phủ, chỉ lấy thịt

– nhất là ở 2 đùi, sấy khô, tán bột) 10g, Trứng gà (luộc chín, chỉ lấy tròng đỏ) 2g, ba thứ trộn chung, gĩa nhuyễn, làm thành viên 6g, sấy khô. Ngày uống 6-12g. (Phòng và chữa bệnh bằng món ăn hàng ngày).

+Thuốc bổ dùng cho người mới bệnh nặng dậy, sút cân, k m ăn, mất ngủ, thiếu máu: Chuối tiêu bóc vỏ 15 quả, Lòng đỏ trứng gà luộc 15 cái, Gạo nếp 1kg, Men rượu 10 miếng. Gạo nếp nấu được cơm, để nguội; Chuối tiêu và lòng đỏ trứng gà nghiền nhỏ; Men rượu tán bột. Các thứ trộn đều, cho vào hũ sành ủ thành rượu, sau 20 ngày là có thể dùng được, mỗi ngày ăn nửa ch n vào lúc đói (Phòng và chữa bệnh bằng món ăn hàng ngày).

+Trị hắc lào: lúc mới phát hiện, lấy quả chuối tiêu xanh, thái thành từng lát mỏng, xát liên tục lên chỗ ngứa (Kinh nghiệm dân gian Việt Nam).

+Trị bạch đới: Ba tiêu căn (tươi) 250g, thịt heo 120g. Hầm cho nhừ, lấy nước uống (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị bị phỏng: Lá chuối tiêu, sấy khô, tán nhuyễn, trộn với trứng gà, đắp (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị ho, lao phổi: Hoa chuối (tươi) 60g, Phổi heo 250g, thêm nước, hầm cho nhừ, ăn cả nước lẫn cái (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị ngực đau thắt (tâm giảo thống): Hoa chuối tiêu tươi 250g, Tim heo 1 cái. Thêm nước, hầm cho thật nhừ, ăn (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị tai giữa viêm: dùng nõn chuối tiêu, 1 khúc, ép lấy nước côt, nhỏ vào tai. Ngày 2-3 lần (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị chứng tiêu khát, họng khô, miệng khát khớp xương phiền nóng: Rễ chuối tiêu tươi 1000g, ngày,2 nát, p lấy nước. Mỗi lần uống 20-30ml, ngày uống 2-3 lần (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị huyết áp cao, não xung huyết: Vỏ cây chuối hoặc quả chuối 30-60g, sắc uống (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị bàng quang viêm, tiểu gắt: Rễ cây chuối 30g, Hạn liên thảo 30g. Sắc, chia làm 3 lần uống (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị thai động không yên: Rễ cây chuối tươi 60g, thịt heo nạc 120g, thêm nước, hầm thật nhừ, ăn (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

+Trị băng lậu: Ba tiêu căn 250g, Thịt heo nạc 100g. Nấu nhừ, ăn cả nước lẫn cái (Trung quốc dân gian bách thảo lương phương).

Tham khảo:

+” Cây chuối tiêu cho nhựa gọi là Ba Tiêu Trấp. Khi lấy nhựa chuối, dùng ống tre vót nhọn đầu, cắm vào thân cây chuối, nhựa chuối sẽ từ từ chảy ra, lấy chai hứng lấy, để dành dùng dần. Nhựa chuối có vị hơi ngọt, tánh lạnh, không độc. Có tác dụng trị chứng đầu phong, cuồng nhiệt, phiền khát, uống vào hễ nôn ra được là khỏi. Nước trấp chuối trị phỏng lửa rất hay. Nhựa chuối bôi có tác dụng làm đen râu, tóc và bớt rụng. Hoa chuối gọi là Ba Tiêu Hoa, vị ngọt, tính lạnh, không độc, nấu hoặc luộc ăn cũng tốt. Trị chứng tê, tim đau: đốt tồn tính, uống với nước muối. Rễ cây gọi là Ba Tiêu Căn, vị hơi ngọt, tính rất lạnh, không độc. Trị các chứng cuồng nhiệt lúc trời nóng, người bệnh mê man hoặc phiền nhiệt, phát cuồng, các chứng ung nhọt. Bị ung nhọt, đơn độc, sưng đau, đào củ chuối thối đắp vào mụn nhọt đang sưng nóng đau rất hay. Lá chuối gọi là Ba Tiêu Diệp, nghiền nát, trộn với nước Gừng, bôi, trị các chứng sưng độc mới phát (Bảm thảo cương mục)”.

+” Ăn vài trái chuối chín và uống nửa lít sữa đậu nành hoặc sữa bò coi như 1 bữa ăn đầy đủ dưỡng chất – Chuối gìa, chuối chín chưa hoàn toàn chứa nhiều tinh bột không tiêu hóa được, khó qua khỏi dạ dầy, có thể gây xót ruột non, gây đau bụng và táo bón. Vậy phải ăn chuối chín mùi, vừa dễ tiêu hóa vừa bổ dưỡng” (Trái cây và sức khỏe).

+” Có kinh nghiệm cho rằng chuối gìa có tính lạnh, khó tiêu, nếu người dạ dầy và ruột có vấn đề thì không nên ăn. Người bình thường phổi yếu, nhiều đờm, nhât là có bệnh suyễn, bệnh sốt r t chưa khỏi hẳn, đều không nên ăn chuối gìa. Có người cho rằng dùng chuối gìa nấu với rượu có tác dụng bổ dưỡng rất tốt. Tuy chuối gìa có tính lạnh và đầy nhưng khi nấu với rượu gạo thì rượu có thể trừ được tính lạnh và đầy của chuối – Người bị bón kinh niên, huyết áp cao, động mạch xơ cứng, nên ăn chuối thường xuyên để điều hòa ruột và dạ dầy, làm mát rạng phủ. Nếu ăn chuối gìa, nên ăn sau bữa cơm. Đừng ăn nhiều, mỗi bữa chỉ ăn 1 quả là đủ. Chuối có công dụng dự phòng hiện tượng xơ hóa động mạch dẫn đến chứng chân tay tê dại” (Chữa bệnh bằng thức ăn kết hợp với Trung y Trung dược).

+” Theo Giáo sư Khamian (Ấn Độ) thì những người bệnh bị loét dạ dầy được điều trị bằng chuối xanh đã cho kết quả khả quan. Chuối xanh được phơi khô ở nhiệt độ thấp kích thích sự tăng trưởng của lớp màng nhầy bên trong dạ dầy bằng cách tạo thêm những tế bào sản xuất chất nhầy. không những nó làm cho màng nhầy dầy lên đúng mức mà còn làm cho lớp màng dầy lên đến mức có thể hàn gắn nhanh chóng bất cứ chỗ loét nào hiện có. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại chuối đều cho kết quả như vậy. Những chuối chín và chuối được phơi ở nhiệt độ cao không thực sự kích thích sự tăng trưởng của lớp màng nhầy. Mức độ hiệu quả của chuối cũng thay đổi tùy theo từng loại chuối. Vì thế, số lượng hoạt chất có trong loại chuối phải tùy thuộc vào giai đoạn quả chuối được hái, tùy thuộc nơi trồng và loại chuối được trồng. Các nhà nghiên cứu tạm đưa ra ý kiến: Một khẩu phần ăn có chuối xanh chắc chắn giúp tránh được dạ dầy bị loét” (Thông tin khoa học kỹ thuật 424/1988).

Chẩn đoán và điều trị bệnh thoái hóa khớp

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

Để chẩn đoán xác định thoái hóa khớp, trước tiên cần khai thác kỹ tiền sử của người bệnh và các triệu chứng sau:

  • Đau và hạn chế vận động khớp bị thoái hóa.
  • Có dấu hiệu “phá gỉ khớp” khi mới ngủ dậy hoặc khi bắt đầu vận động.
  • Có tiếng lạo xạo trong khớp khi vận động.
  • Có hạt Heberden và hạt Bouchard trường hợp thoái hóa khớp ngón tay.

X quang:

+ Hẹp khe khớp.

+ Đặc xương dưới sụn.

+ Gai xương.

X quang thoái hóa khớp gối
X quang thoái hóa khớp gối
  • Ngoài ra, có thể chụp cắt lớp vi tính hoặc cộng hưởng từ hạt nhân để đánh giá chính xác vị trí và tình trạng thoái hóa.

Chẩn đoán phân biệt

  • Viêm khớp dạng thấp: có đủ các triệu chứng theo tiêu chuẩn chẩn đoán viêm khớp dạng thấp theo Hội thấp khớp Mỹ (ARA) năm 1987.
  • Viêm cột sống dính khớp: thường gặp ở người trẻ tuổi, hoặc mắc bệnh từ khi còn trẻ, kéo dài tới khi cao tuổi, tốc độ máu lắng tăng cao.
  • Lao cột sống: X.quang cột sống có hình ảnh đốt sống bị phá hủy nham nhở, tìm thấy BK hoặc tổ chức tế bào đặc hiệu cho lao (lympho, bán liên, khổng lồ, bã đậu) khi sinh thiết vùng tổn thương cạnh cột sống.

PHÂN LOẠI

Thoái hóa khớp nguyên phát

  • Xuất hiện tự nhiên, không tìm thấy nguyên nhân nào khác ngoài tuổi tác.
  • Tình trạng thoái hóa xuất hiện ở nhiều vị trí, tiến triển chậm, tăng dần theo tuổi, mức độ không nặng.

Thoái hóa khớp thứ phát

  • Phần lớn do nguyên nhân cơ giới.
  • Khu trú ở một vài vị trí nhất định, nặng và tiến triển nhanh.
  • Thoái hóa khớp thứ phát ở người cao tuổi thường do các nguyên nhân sau:

+ Chấn thương.

+ Bệnh xương sụn: hoại tử xương vô khuẩn hoặc hủy hoại sụn do viêm (viêm khớp dạng thấp, viêm khớp nhiễm khuẩn, bệnh Paget).

+ Các tổn thương cấu trúc dây chằng — bao khớp: quá giãn dây chằng, xơ cứng bao khớp.

+ Bệnh khớp vi tinh thể: goutte mạn tính, calci hóa sụn khớp.

+ Bệnh khớp do thần kinh: giang mai thần kinh, các bệnh thần kinh khác.

+ Bệnh nội tiết: bệnh Cushing, đái tháo đường, cường giáp trạng, cường cận giáp trạng…

+ Do thuốc: sử dụng corticoid kéo dài.

ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc cơ bản trong phòng và điều trị thoái hóa khớp là:

Làm chậm quá trình hủy hoại khớp, đặc biệt là ngăn sự thoái hóa của sụn khớp.

Giảm đau.

Duy trì khả năng vận động, hạn chế đến mức thấp nhất sự tàn phế.

Nội khoa

  • Thuốc điều trị triệu chứng tác dụng nhanh:

+ Các thuốc giảm đau thuộc nhóm non-steroid (NSAIDs): các thuốc giảm đau chống viêm non—steroid ức chế chọn lọc men COX-2 (celecoxib, valdecoxib) ít gây tác dụng không mong muốn hơn nhóm cổ điển (diclofenac, fenoprofen, ibuprofen, indomethacin, pirocicam…), dung nạp tốt đối với người cao tuổi.

+ Các thuốc giảm đau bôi ngoài da tại khớp đau như: voltarel emugel, profenid gel, geldene… có tác dụng giảm đau đáng kể và ít gây tác dụng không mong muốn hơn đường toàn thân.

+ Thuốc giảm đau chống viêm steroid không dùng đường toàn thân, chỉ sử dụng tiêm nội khớp nếu đau và sưng nhiều, đặc biệt là trong các trường hợp có viêm màng hoạt dịch kèm theo. Khi tiêm nội khớp, cần đảm bảo vô khuẩn tuyệt đối, tránh để xảy ra các nhiễm khuẩn thứ phát như: viêm khớp mủ, nhiễm khuẩn huyết… Không lạm dụng thuốc.

Tuy nhiên, việc sử dụng các thuốc giảm đau chống viêm kéo dài hoặc không đúng cách sẽ gây ra nhiều tác dụng không mong muốn đối với người bệnh, đặc biệt hay gặp là gây viêm loét dạ dày – tá tràng thứ phát.

  • Thuốc điều trị triệu chứng tác dụng chậm: thuốc không đạt hiệu quả tức thì mà thường phát huy tác dụng sau một thời gian dài điều trị (1 – 2 tháng). Tác dụng: kích thích tế bào sụn, tăng tổng hợp proteoglycan, từ đó làm tăng mucopolysaccharid, ức chế các men tiêu sụn, làm tăng chất nhầy của khớp… Thuốc dung nạp tốt, ít tác dụng không mong muốn. Các thuốc điều trị triệu chứng tác dụng chậm bao gồm:

+ Acid hyaluronic dưới dạng hyaluronate natri (biệt dược: Hyalgan, Synvisc). Thuốc hoạt động bởi ba cơ chế: bao phủ và bôi trơn bể mặt sụn khớp, ngăn cản sự mất proteoglycan, tạo ra được một độ nhớt bổ sung cho khớp. Đường dùng: tiêm nội khớp.

+ Glucosamin (Bosamin, Viatril—s, Golsamin): kích thích tế bào sụn tăng sinh tổng hợp proteoglycan, collagen; tăng sản xuất chất nhầy dịch khớp; kích thích sinh sản mô liên kết của xương, giảm quá trình mất calci của xương; ức chế một số men phá hủy sụn khớp và các enzym kích hoạt phản ứng viêm như: collagenase, phospholinase A2; giảm các gốc tự do superoxide phá hủy các tế bào sinh sụn.

+ Chondroitin: ức chế các enzym có vai trò phá hủy sụn khớp, kích thích hoạt động của các enzym xúc tác phản ứng tổng hợp acid hyaluronic.

+ Piascledine: làm giảm tổng hợp các cytokinase, prostanoid, men tiêu protein, giảm nhẹ tác động hủy hoại của interleukin-1 beta (ILr-lb) lên sụn khớp.

Ngoại khoa

  • Nội soi khớp: ngày càng được ứng dụng rộng rãi, nhất là khớp gối. Nội soi khớp có tác dụng cắt các mảnh sụn, bao khớp bị rách do thoái hóa, bơm rửa làm kéo dài thời gian không đau của khớp, có thể cấy ghép các tế bào sụn nuôi để phục hồi bề mặt khớp.
  • Điều trị ngoại khoa dự phòng: sửa chữa các dị dạng khớp, lệch trục để phòng thoái hóa khớp thứ phát như: gọt giũa xương chày trong lệch trục khớp gối, sửa chữa lại các thiểu sản khớp háng bẩm sinh… Tuy nhiên, phương pháp này ít áp dụng đối với người cao tuổi.
  • Thay khớp giả: chỉ định trong các trường hợp đau nhiều, chức năng vận động của khớp hạn chế nhiều và tổn thương cấu trúc khớp nặng trên X.quang, không đáp ứng với phương thức điều trị nội khoa. Thường chỉ định với khớp háng và khớp gối.

Các phương pháp điều trị khác

  • Tránh cho khớp bị quá tải bởi trọng lượng và vận động:

+ Duy trì cân nặng hợp lý, giảm trọng lượng ở người béo phì.

+ Giữ cơ thể ở tư thế hợp lý, cân đối, tránh các tư thế: đứng lâu; ngồi vẹo, lệch, không cân đối.

+ Thay đổi tư thế thường xuyên, tránh đứng lâu, ngồi lâu một tư thế sẽ gây ứ trệ tuần hoàn, dinh dưỡng kém gây cứng khớp.

+ Tập luyện thường xuyên và vừa sức giúp cơ bắp khoẻ mạnh, giảm áp lực tải trọng lên khớp khi vận động; lưu thông tuần hoàn dễ dàng, các tổ chức được dinh dưỡng tốt hơn, trong đó có sụn khớp (sụn khớp được nuôi dưỡng bằng cơ chế thẩm thấu). Không nên tập vận động quá mạnh hoặc quá lâu như: chơi tennis, chạy, đi bộ hàng giờ… làm cho khớp tổn thương nhiều hơn, khớp đau, sưng và khó vận động hơn. Với người cao tuổi, tốt nhất nên tập thể dục nhẹ nhàng, dưỡng sinh, bơi lội, đạp xe, đi bộ nhẹ nhàng trong khoảng thời gian 20 – 30 phút/ngày.

  • Có chế độ sinh hoạt điều độ, thoải mái, tránh các stress, kết hợp hài hòa giữa lao động và nghỉ ngơi.
  • Có chế độ dinh dưỡng hợp lý.
  • Vật lý trị liệu (siêu âm, chiếu tia hồng ngoại, chườm nóng, liệu pháp suối khoáng, đắp bùn, luyện tập chỉnh sửa tư thế…) có tác dụng chữa các tư thế xấu, duy trì dinh dưỡng cho các cơ cạnh khớp, điều trị các trường hợp đau gân và cơ, kết hợp giảm đau.

ĐIỀU DƯỠNG VÀ DỰ PHÒNG BỆNH THOÁI HOÁ KHỚP

Để điều dưỡng và dự phòng tốt bệnh thoái hoá khớp ở người cao tuổi, thầy thuốc cần hướng dẫn người bệnh thực hiện các chế độ luyện tập và dinh dưỡng như sau:

  • Luyện tập thể dục thể thao hợp lý. Người cao tuổi bị thoái hóa khớp nên tập thể dục nhẹ nhàng như: thể dục buổi sáng, đi bộ 20 — 30 phút/ngày, bơi… Không tập các môn thể thao nặng với thời gian dài như: đi bộ hàng giờ, chạy, ..
  • Hạn chế mang vác nặng, tránh gây tổn thương khớp.
  • Hướng dẫn người cao tuổi thực hiện chế độ ăn hợp lý giúp duy trì cân nặng, giảm cân (đối với người thừa cân, béo phì).
  • Thực hiện công tác tư vấn thường xuyên để người cao tuổi kiểm tra sức khoẻ định kỳ nhằm phát hiện và điều trị sớm các biểu hiện của thoái hóa khớp, hạn chế tốc độ tiến triển của bệnh.

Loét dạ dày tá tràng ở trẻ em

Loét dạ dày tá tràng là tình trạng tổn thương sâu gây mất niêm mạc có giới hạn cả phần cơ và dưới niêm mạc của niêm mạc dạ dày.

PHÂN LOẠI

  • Loét tiên phát: Loét dạ dày tá tràng do những thay đổi chức năng của dạ dày (tăng tiết HCl và pepsin), thường 1-2 ổ loét lớn nằm ở bờ cong nhỏ, hang vị, hành tá tràng.
  • Loét thứ phát: gây nên bởi các bệnh lý bên ngoài dạ dày tá tràng (bệnh Crohn, uống chất ãn mòn, viêm dạ dày trong bệnh viêm mao mạch dị ứng, viêm dạ dày tự miễn, viêm dạ dày tăng bạch cầu acid…). Hoặc do thuốc (NSAID, steroid, thuốc chữa ung thư. Hoặc do stress (là những bệnh lý nội ngoại khoa rất nặng – ở các khoa hồi sức).

NGUYÊN NHÂN

  • Chủ yếu nhất là nhiễm HP
  • Các thuốc

Triệu chứng lâm sàng

  • Đau bụng

+ Là triệu chứng phổ biến nhất và không điển hình như người lớn. Đau liên quan đến bữa ăn (loét dạ dày đau tăng ngay sau ăn, loét tá tràng đau tăng sau ăn vài giờ).

Loét dạ dày tá tràng ở trẻ em
Loét dạ dày tá tràng ở trẻ em
  • Nóng rát thượng vị, tức, đầy vùng thượng vị.
  • Nôn tái diễn có thể liên quan đến bữa ăn.
  • Xuất huyêt tiêu hóa: nôn máu, đi ngoài phân đen (máu).
  • Thiếu máu
  • Thiếu máu nhược sắc kín đáo (loét câm).
  • Có thể xuất huyết tiêu hóa đột ngột gây thiếu máu nặng, sốc
  • Thiếu máu nhược sắc có thể diễn biến từ từ đến nặng, trẻ có thể vào viện vì thiếu máu nặng chưa rõ nguyên nhân.

– Với những trường hợp loét thứ phát: các triệu chứng lâm sàng của bệnh chính nổi bật và có thể che lấp triệu chứng của loét dạ dày tá tràng.

  • Triệu chứng cận lâm sàng

Nội soi dạ dày tá tràng phân loại theo

Loét đang chảy máu Loét không chảy máu Loét không chảy máu
Ia: Thành tia Ib: Rỉ máu IIa: Thấy rõ mạch máu IIb: Thấy cục máu đông IIC:Thấy vết đỏ, bẩm tím III: Nền ổ loét sạch.

Lâm sàng chia 2 loại:

+ Chảy máu mới: Gồm Forrest Ia, Ib, IIa, IIb.

+ Không có chảy máu mới: IIc, III.

  • Chẩn đoán nhiễm HP: Xem phần viêm dạ dày có nhiễm
  • Xét nghiệm máu: để đánh giá mức độ thiếu máu, bệnh lý kèm theo (trường hợp loét thứ phát).
  • Các xét nghiệm sâu hơn: để đánh giá tình trạng tăng tiết của dạ dày

+ Pepsinogen A (PGA), C (PGC).

+ Gastrin: 34 (G34), 17 (G17).

CHẨN ĐOÁN

  • Chẩn đoán xác định
    • Lâm sàng
    • Nội soi: Có tính quyết định chẩn đoán.
  • Chẩn đoán phân biệt loét tiên phát và thứ phát
Chẩn đoán phân biệt Loét tiên phát Loét thứ phát
Tuổi Trẻ lớn Mọi lứa tuổi, hay ở trẻ nhỏ
Tiền sử đau bụng Không rõ rệt
Tiền sử dùng thuốc Không
Bệnh nặng kèm theo Không
Lâm sàng Đau    bụng    kéo          dài, XHTH tái diễn Xuất huyết tiêu hóa cấp
Nội soi Loét 1-2 ổ, loét lớn Loét trợt nhiều ổ
HP (+) rất cao Âm tính
  • Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh và hội chứng
    • Hội chứng Zollinger Ellison (U tăng tiết Gastrin).

+ Nôn, tiêu chảy phân mỡ, suy kiệt.

+ Nội soi: nhiều ổ loét ở thực quản, dạ dày, tá tràng.

+ Gastrin, acid HCl dịch vị tăng rất cao.

+ Siêu âm bụng có thể thấy u.

+ MRI mật tụy có thể thấy u- Bệnh Crohn.

+ Đau bụng kéo dài, tiêu chảy từng đợt, giảm cân.

+ Phân có thể có máu, nhày.

+ Giảm protid, albumin máu.

+ Nội soi đại tràng làm sinh thiết có thể giúp chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt.

– Chảy máu đường mật.

+ Tình trạng nhiễm khuẩn.

+ Tình trạng tắc mật.

+ Siêu âm mật tụy có thể tìm được nguyên nhân.

+ MRI mật tụy có thể tìm được nguyên nhân.

+ Chụp mật tụy ngược dòng có thể tìm được nguyên nhân.

ĐIỀU TRỊ

Loét cấp tính thứ phát

Điều trị bệnh chính đi kèm: bỏng, nhiễm khuẩn, sốc,…

Đặt sonde dạ dày, hút dịch

PPI 1-2 mg/kg/ngày, bơm máy, truyền tĩnh mạch

Cầm máu bằng nội soi nếu có xuất huyết tiêu hóa gây thiếu máu nặng

Truyền máu nếu có chỉ định

Loét tiên phát.

  • PPI 1-2 mg/kg/ngày, thường dùng đường uống
  • Phác đồ kháng sinh diệt HP (phần Viêm dạ dày HP+).
  • Cầm máu bằng nội soi nếu có chỉ định
  • Truyền máu nếu có chỉ định

Điều trị duy trì

Với loét tiên phát, HP +, sau khi điều trị làm sạch HP bệnh nhân cần được điều trị duy trì bằng thuốc ức chế bài tiết anti H2, thường dùng Ranitidine 5-7mg/kg/ngày. Thời gian điều trị 6 tháng.

Điều trị hỗ trợ

  • Chế độ ăn dễ tiêu, kiêng chua cay, chất kích thích.
  • Bổ sung sắt, acid folic nếu có thiếu máu.

Điều trị ngoại khoa

  • Chỉ định khi:

+ Chảy máu tiêu hóa không cầm được khi điều trị nội khoa thất bại: truyền ≥70ml máu/kg.

+ Biến chứng: hẹp, thủng ống tiêu hóa.

+ Có nguyên nhân điều trị ngoại khoa: U tụy, u gastrin dạ dày,…

Huyệt Thái Khê

Thái Khê

Tên Huyệt Thái Khê:

Huyệt là nơi tập trung kinh khí mạnh nhất (thái) của kinh Thận, lại nằm ở chỗ lõm giống hình cái suối (khê), vì vậy gọi là Thái Khê (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Lữ Tế, Nội Côn Lôn.

Xuất Xứ:

Thiên ‘Bản Du’ (Linh khu.2).

Đặc Tính Huyệt Thái Khê:

Huyệt Du, huyệt Nguyên, thuộc hành Thổ.

Một trong 14 yếu huyệt của ‘Châm Cứu Chân Tuỷ’ để nâng cao chính khí.

Là 1 trong số các mạch quyết định sự sống chết: khi mạch Thái Khê (Th.3) còn đập, dù các mạch khác đã mất, vẫn còn hy vọng cứu sống.

Vị Trí Huyệt Thái Khê:

Tại trung điểm giữa đường nối bờ sau mắt cá trong và mép trong gân gót, khe giữa gân gót chân ở phía sau.

Giải Phẫu:

Dưới da là khe giữa gân gót chân ở sau, gân cơ gấp dài ngón chân cái, gân cơ gấp chung các ngón chân và gân cơ cẳng chân sau, ở trước mặt trong-sau đầu dưới xương chầy.

Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh chầy sau.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh L5.

Tác Dụng Huyệt Thái Khê:

Tư Thận Âm, tráng Dương, thanh nhiệt, kiện gân cốt.

Chủ Trị Huyệt Thái Khê:

Trị răng đau, họng đau, chi dưới liệt, kinh nguyệt rối loạn, Bàng quang viêm, Thận viêm, tiểu dầm, di tinh.

Phối Huyệt:

1. Phối Côn Lôn (Bàng quang.60) trị đầu gối đau, chân đau lâu ngày (Trữu Hậu Ca).

2. Phối Thiếu Trạch (Tiểu trường.1) trị họng khô, miệng nóng (Thiên Kim Phương).

3. Phối Chi Câu (Tam tiêu.6) + Nhiên Cốc (Th.2) trị Tâm đau như dùi đâm (Thiên Kim Phương).

4. Phối Trung Chử (Tam tiêu.3) trị họng sưng (Tư Sinh Kinh).

5. Phối Thiếu Trạch (Tiểu trường.1) trị họng khô (Tư Sinh Kinh).

6. Phối Chiếu Hải (Th.6) + Trung Chử (Tam tiêu.3) trị sốt rét kinh niên (Tư Sinh Kinh).

7. Phối Bạch Hoàn Du (Bàng quang.30) + Quan Nguyên (Nh.4) trị tiểu vàng (Tư Sinh Kinh).

8. Phối Bạch Hoàn Du (Bàng quang.30) + Ủy Trung (Bàng quang.60) trị lưng đau do Thận hư (Châm Cứu Đại Thành).

9. Phối Liệt Khuyết (Phế 7) + Tam Lý (Vị 36) trị ho ra máu (Châm Cứu Đại Thành).

10. Phối Hãm Cốc (Vị 43) + Thiếu Thương (Phế 11) trị thích ợ (Châm Cứu Đại Thành).

11. Phối Thính Hội (Đ.2) + Túc Tam Lý (Vị 36) trị tai ù do hư (Châm Cứu Đại Thành).

12. Phối Bạch Hoàn Du (Bàng quang.30) + Thận Du (Bàng quang.23) + Ủy Trung (Bàng quang.60) trị thận hư, lưng đau (Châm Cứu Đại Thành).

13. Phối Côn Lôn (Bàng quang.60) + Thân Mạch (Bàng quang.62) trị chân sưng khó đi (Ngọc Long Kinh).

14. Phối Đàn Trung (Nh.17) + Phế Du (Bàng quang.13) + Xích Trạch (Phế 5) trị ho nhiệt (Thần Cứu Kinh Luân).

15. Phối Ẩn Bạch (Tỳ 1) + Đại Lăng (Tâm bào.7) + Thần Môn (Tm.7) trị nôn ra máu, chảy máu cam, tiêu ra máu (Nho Môn Sự Thân).

16. Phối Bạch Hoàn Du (Bàng quang.30) + Chiếu Hải (Th.6) + Quan Nguyên (Nh.4)+ Tam Âm Giao (Tỳ 6) trị di tinh, bạch trọc, tiểu gắt (Châm Cứu Đại Toàn).

17. Phối Ế Phong (Tam tiêu.17) + Thận Du (Bàng quang.23) + Thính Hội (Đ.2) trị tai ù do hư (Châm Cứu Toàn Thư).

18. Phối Giáp Xa (Vị 6) + Hạ Quan (Vị 7) trị răng đau do Thận hư (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).

19. Phối An Miên + Thái Xung (C.3) trị tai ù, chóng mặt do tiền đình (Châm Cứu Học Thượng Hải).

Cách châm Cứu Huyệt Thái Khê:

Châm thẳng 0, 5 – 1 thốn hoặc có thể thấu tới Côn Lôn (Bàng quang.60).

Khi trị bệnh ở gót chân thì hướng mũi kim xuống.

Cứu 3 – 5 tráng – Ôn cứu 5 – 10 phút.

Tham Khảo:

Thiên ‘Chung Thỉ ‘ ghi: “ Tam mạch (tam Âm – tam Dương) động ở khoảng trong của ngón chân cái (h.Thái Khê (Th.3), khi châm huyệt này phải xem xét hư hay thực. Vì nếu hư mà Tả đó gọi là ‘trùng hư’, bị trùng hư thì bệnh càng nặng hơn. Phàm khi châm huyệt này, nên dùng ngón tay án vào, nếu thấy mạch động mà Thực – Sác, phải châm Tả, nếu thấy mạch Hư – Trì thì phải bổ. Nếu làm ngược như trên thì bệnh càng nặng” (Linh khu.9, 74).

Thiên ‘Quyết Bệnh’ ghi: “Chứng Quyết tâm thống làm cho người bệnh đau như dùng cây chùy đâm vào Tâm, Tâm bị đau nhiều, gọi là ‘Tỳ Tâm Thống’, thủ huyệt Nhiên Cốc (Th.2) và Đại (Thái) Khê” (Linh khu.24, 13).

Thiên ‘Ngũ Loạn’ ghi: “(Tà) Khí ở tại Phế, thủ huyệt Vinh của Phế (Ngư Tế – P.10) và Du của Thận [Thái Khê – Th.3]” (Linh khu.34, 17).

Thiên ‘Thích Yêu Thống’ ghi: “Mạch kinh túc Thiếu Âm bệnh, gây đau vùng lưng, cột sống và lên đến cổ: châm 2 nốt tại phía trong xương ống chân thuộc kinh Thiếu âm (Thái Khê (Th.3) – Đừng cho ra máu vào mùa xuân, nếu ra máu nhiều, bệnh sẽ khó hồi phục. . (Tố vấn.41, 4).

HÀNG RÀO MÁU – NÃO

Cấu trúc và chức năng

Các tế bào của hệ thần kinh trung ương được nằm trong một môi trường đặc biệt khác với các cơ quan khác, nó được che trở bởi hàng loạt các ngăn cách về mặt cấu trúc giải phẫu và có chức năng điêu hoà sự đi vào tổ chức não của các thể dịch, các chất điện giải, các chất có
phân tử lượng nhỏ và protein. Do đó, các tế bàọ hệ thần kinh trung ương được tắm mình trong một loại thể dịch gọi là dịch não tuỷ. Thành phần của dịch não tuỷ khác biệt rõ rệt so với các dịch ngoại mạch khác. Trên quan điểm miễn dịch, sự khác biệt quan trọng nhất là nồng độ protein thấp hơn rất nhiều so với các nồng độ protein trong huyết tương và đặc biệt là các globulin miễn dịch.

Năm 1976, Rapoport có là một thí nghiệm sau: tiêm xanh Evans vào động mạch chuột (xanh Evans là một loại thuốc nhuộm có tác dụng bám vào các phân tử protein của huyết tương, làm cho các protein này bị đánh dấu rồi hoà lẫn vào trong vòng tuần hoàn). Sau một thời gian ông ta thấy các tổ chức khác nhau trong cơ thể chuột bị nhuộm màu của xanh Evans. Do vậy, ông ta đi đến kết luận rằng có một hàng rào ngăn cách hệ thần kinh trung ương với vòng tuần hoàn, nó có chức năng điều hoà sự xâm nhập của các chất từ máu đi vào não. Hàng rào này gọi là hàng rào máu – não.

Hàng rào máu não không nên hiểu là một hàng rào đơn thuần về mặt cấu trúc giải phẫu mà thực tế nó rất phức tạp; bao gồm hàng loạt các biên giới điều hoà cho phép các chất đi vào não với các tốc độ khác nhau, thông qua quá trình khuếch tán, quá trình vận chuyển tích cực và tốc độ đi qua hàng rào máu não được điều hoà nhờ vào hoạt động của các tế bào thần kinh đệm. Riêng về thành phần protein trong dịch não tuỷ có nguồn gốc từmáu đi ra nhờ quá trình khuếch tán giữa các tế bào là chủ yếu. Các protein chịu sự kiểm soát của bề mặt: biểu mô của mao mạch não và lớp tế bào lót của màng nhện. Đó là các bề mặt mà huyết tương được thâm lọc qua để tạo nên dịch ngoại mạch trong não.

Trong não, dịch ngoại bào bao gồm ba thành phần: máu, dịch gian bào và dịch não tuỷ. Dịch gian bào và dịch não tuỷ được gọi chung là dịch ngoại mạch. Protein được khuếch tán từ huyết tương mà ra với nồng độ là 200 – 400mg/l bằng 0,4% so với nồng độ protein trong huyết tương, tức là bằng 1/250 của huyết tương (Keremuns, 1966).

Hàng rào máu

Dịch não tuỷ

Dịch não tuỷ bao xung quanh não và tuỷ sống, chứa đầy trong các não thất. Dịch não tuỷ có nguồn gốc từ huyết tương mà ra, trong đó 70% được sinh ra từ các đám rối mạch mạc ở các não thất, 18% là từ các mao mạch ở não và màng não, 12% là sản phẩm của quá trình chuyển hoá nước của các tế bào não. Dịch não tuỷ từ các não thất ra khoảng dưới nhện qua các lỗ não thất IV, rồi được hấp thụ trở lại máu qua các hạt màng nhện dọc theo xoang tĩnh mạch dọc trên.

Theo Davson (1967) và Bradbury (năm 1979) thì tổng số thể tích dịch não tuỷ ở người lớn có trung bình là 140ml. Dịch não tuỷ được sinh ra với tốc độ là 0,25ml/phút. Điều đó có nghĩa là toàn bộ dịch não tuỷ được thay đổi 3 – 4 lần/ngày. Dịch não tuỷ được sinh ra từ các đám rối
mạch mạc, trước tiên nó được thấm lọc qua thành của mao mạch mạch mạc, trên các thành này có các lỗ hổng có thể thấy được trên kính hiển vi điện tử. Protein bị ngăn cản không cho ra dịch não tuỷ bằng bề mặt của các tế bào có dạng hình khối, tạo nên biểu mô của mạch mạc, chúng ngăn cản sự đi qua của protein, vì vậy, mà nồng độ protein thấp ở dịch não tuỷ. Chỉ khoảng 1/200 phân tử protein qua được hàng rào này. Protein qua được thành phần của các mao mạch của đám rôi mạch mạc một cách dễ dàng như chúng bị giữ lại ở các nút liên kết nếu không ra được tới dịch não tuỷ.

Khoảng gian bào

Khoảng gian bào là những khe kẽ giữa các tế bào não, rộng khoảng 2mm. Tổng số thể tích này chiêm từ 5% đến 20% thể tích của não (Kuffler và Nicholis 1977). Các khe kẽ này được gọi là khoảng gian bào chứa dịch gian bào. Dịch não tuỷ và dịch gian bào thông thương với nhau có thể coi nhự một thành phần đơn giản là thể dịch ngoại mạch của não. Dịch aian bào được sinh ra chủ yếu từ các mao mạch của nhu mô não, các tế bào nội mô ở đây được liên kết nên protein khuếch tán ra dịch gian bào rất ít. Ngoài ra, các chất từ máu đi ra còn bị ngăn cản do các rễ của tế bào hình sao bám trên bề mặt ngoài của mao mạch nhu mô não (che phủ tới 70% bề mặt của mao mạch não). Biểu mô của đám rối mạch mạc và lớp nội mô của mao mạch não lậ hai hàng rào ngăn cản sự đi ra khoang dưới nhện của phân tử protein, hàng rào thứ ba là lớp tế bào mạng nhện ở lớp ngoài cùng. Ba bề mặt này đánh dấu phạm vi chức năng của khoang thể dịch ngoại bào.

Protein trong não tuỷ

Protein trong dịch não tuỷ có thể được phân tính bằng phương pháp điện di. Tuy có nồng độ thấp hơn rất nhiều so với nồng độ protein trong máu, nhưng kết quả điện di cũng cũng tương tự như trong huyết thanh.

Theo kết quả công bố của Lowenthal năm 1965 thì một nửa protein trong dịch não tuỷ là albumin, thành phần albumin hội tụ về phía anod; theo sau là a1, a2 và ß – globumin và một lượng nhỏ nằm ở vùng y. Ngoài ra còn một thành phần nữa chạy lên phía trước albumin, đó là 1 protein tương tự như tiền albumin. Hiện nay người ta chưa biết vai trò của nó trong dịch não tuỷ.

Globumin miễn dịch chạy trên một dải nhỏ ở vùng y. Thành phần IgG và IgA nằm ở vị trí tương tự như nó trong huyết thanh. Nhiều globulin miễn dịch quan trọng đã được tìm thấy trong dịch não tuỷ, ß2 – micro – globulin và thành phần bổ thể chủ yếu là C3 và C4.

Globumin miễn dịch

Protein đi vào dịch não tuỷ bằng con đường khuếch tán từ máu ra. Tốc độ mà nó khuếch tán qua hàng rào máu – não tỷ lệ thuận với nồng độ protein trong huyết tương và tỷ lệ nghịch với kích thước phân tử của nó. Do đó mà anbumin là protein chủ yếu của huyết thanh cũng như có nồng độ cao nhất trong dịch não tuỷ. Albumin có trọng lượng phân tử là 6.700, nên khuếch tán dễ hơn so với IgG có trọng lượng phân tử là 190. Điều này được biểu hiện bằng tỷ số dịch não tuỷ/huyết thanh có nghĩa là abumin dịch não tuỷ/albumin huyết thanh = 1/200 còn đối với IgG là 1/250 – 1/500; thành phần IgM có trọng lượng phân tử là lớn nhất (900.000) và khó khuếch tán qua khoảng gian bào nên chỉ thấy dấu vết ở trong dịch não tuỷ.

Nồng độ có ý nghĩa của IgG trong dịch não tuỷ là 20mg – 60mg/l và nó tăng nhẹ theo tuổi; IgA là 0 – 4g/l; còn lại IgM, IgO, IgE chỉ thấy vết mà không định lượng được. Như vậy, não bình thường chứa rất ít kháng thể, chỉ có IgG và IgA có thể đo được trong dịch não tuỷ.

Bổ thể trong dịch não tuỷ

Thành phần bổ thể chủ yếu trong dịch não tuỷ là các phần tử protein có trọng lượng phân tử từ 79.000 đến 400.000. Thành phần bổ thể C3 có khoảng 4,5 – 14mg/l và C4 có khoảng 0,9 – 4mg/l ở trong dịch não tuỷ (Muller Eberhord, Yam và cs – 1980), còn lại các thành phần bổ thể khác có rất ít trong dịch não tuỷ.

Đại thực bào và tế bào thần kinh đệm nhỏ: người ta không thấy có sự có mặt của đại thực bào trong não và tuỷ sống. Chính tế bào thần kinh đệm nhỏ giữ vai trò đó. Theo Rio Hortẹga mô tả thì tế bào thần kinh đệm nhỏ hình thon dài, nhân bắt màụ sẫm khi đựợc nhuộm bằng phương pháp cacbonat bạc. Có nhiều ý kiến giải thích về nguồn gốc của các tế bào này. Một số người cho rằng chúng là từ ngoại bì thần kinh, một số khác cho rằng chúng di trú vào não từ tổ chức trong bì.

Năm 1979, Oemichen và cs cho rằng các tế bào thần kinh đệm nhỏ là thuộc một dòng của đại thực bào của hệ thống lưới nội mô. Mặt khác khi tế bào thần kinh đệm nhỏ phát triển trong môi trường nuôi cấy, người ta thấy chúng có tính chất thực bào và có thụ thể bê mặt đối với thành phần sắt của phân tử IgG.

Như vậy, hàng rào máu – não có vai trò rất quan trọng đối với hệ thần kinh trung ương, làm nhiệm vụ bảo vệ tổ chức thần kinh trung ương. Bình thường, trong tổ chức não không có các tê bào có thẩm quyền miễn dịch, không cộ kích thích kháng nguyên nên không có sự tổng hợp kháng thể. Nồng độ globulin trong não rất thấp và nó có nguồn gốc từ máu mà ra dịch não tuỷ. Nhưng dưới tác dụng của tác nhân gây bệnh, hàng rào máu não bị phá vỡ, các tê bào có chức năng miễn dịch tràn ngập vào tổ chức thần kinh trung ương, một quá trình không bình thường tồng hợp nên kháng thể được thực hiện ngay tại tổ chức thần kinh trung ương đồng thời miễn dịch tế bào cũng được thực hiện. Hệ thống thần kinh trung ương lúc này sinh ra một đáp ứng miễn dịch. Kết quả của đáp ứng miễn dịch của hệ thống thần kinh trung ương có thể là nguyên nhân gây nên sự phá huỷ tổ chức não tuỷ và bệnh lý miễn dịch thần kinh hình thành.

Phương thức vận chuyển vật chất qua hàng rào máu – não

Hàng rào máu – não thực chất là rào chắn sinh học giữa máu và dịch não tuỷ, giữa dịch não tuỷ và mô não.

Tuần hoàn mao mạch là nơi thực hiện hữu hiệu nhất, mục tiêu cuối cùng là đem chất dinh dưỡng đến cho mô và lấy đi các chất thải của tế bào. Các thành mỏng của mao mạch là nơi trực tiếp trao đổi các chất giữa máu và dịch não tuỷ.

Thành mao mạch rất mỏng, chỉ khoảng 0,5pm, gồm một lớp tế bào nội mô, phía ngoài bọc bởi màng nền. Đường kính mao mạch từ 4 – 9μm vừa đủ cho một hồng cầu ép mình kéo dài đi qua.

Lỗ mao mạch: từ lâu người ta vẫn giả định là thành mao mạch có những cái lỗ để các chất qua lại giữa lòng mạch và bên ngoài. Nghiên cứu gần đây cho thấy đó là hai loại lối đi gọi là khe và kênh. Loại lỗ thứ nhất là khe liên bào, đó là một khe hẹp giữa hai tế bào nội mô tiếp giáp nhau, khe hẹp chỉ chừng 6 – 7nm, đường kính khe nhỏ hơn đường kính phân tử albumin. Loại kênh, thực chát như sau: ở tế bào nội mô có những bọc bào tương, bọc hình thành do thấm huyết tương và dịch ngoại bào, nó di chuyển từ từ trong tế bào nội mô và người ta cho rằng nó vận chuyển vật chất qua thành mao mạch và những bọc này hoà vào nhau tạo thành kênh xuyên qua thành mao mạch đề dịch và các phân tử to đi qua. ở não, khe giữa hai tế bào nội mô rất hẹp nên chỉ để lọt những phân tử rất nhỏ đi qua. Đây là đặc điểm riêng của hàng rào máu – não. Phương thức vận chuyển vật chất qua hàng rào máu não là hình thức khuếch tán. Đó là hiện tượng nước, các phân tử chất tan có vận động nhiệt làm cho di chuyển ngẫu nhiên theo hướng này rồi lại đổi hướng khác (cả hai chiều ra và vào qua thành mao mạch).

Các chất tan trong trong mỡ có thể khuếch tán trực tiếp qua màng tế bào không cần qua lỗ: oxy, carbon dioxid, nước và các chất hoà tan trong lipid có tốc độ khuếch tán rất cao. Nhiều chất rất cần cho cơ thể và tan trong nước nhưng không qua được màng lipid của tế bào nội mô đỏ là các ion Na+, K+, H+, glucose… có tốc độ khuếch tán rất chậm và hàng rào máu não hầu như không thấm protein và các chất hữu cơ có phân tử lượng cao. Như vậy hàng rào máu – não có tính thấm chọn lọc cao với một số chất, từ đó đảm nhiệm hai chức năng chính là bảo vệ mô thần kinh không bị các chất độc, chất lạ xâm nhập và điều hoà duy trì tính hằng định của môi trường cho tê bào não hoạt động. Các chất đi từ máu vào dịch não tuỷ rồi vào mô não có hệ sô thâm < 1, các sản phẩm chuyển hoá đi từ mô não đến dịch não tuỷ rồi vào máu có hệ số thấm > 1. Để đánh giá chức năng bảo vệ người ta đưa ra hệ số thấm. Hệ số thấm là tỷ số giữa nồng độ chất ở trong mô/nồng đọ chất đó ở trong máu.

Cách làm cơm thố thịt gà thơm ngon

Cũng là cơm, nhưng món cơm thố không nấu trực tiếp như cách nấu thông thường trong gia đình, dù là nấu với nước lạnh hay nước sôi. Cơm thốđược hâp chín trong những cái thố bé xíu xinh xinh, vừa cho một người ăn. Cơm hấp với nước luộc gà nên có hương thơm, vị béo, nhất là hạt gạo khô ráo, bóng và ngọt vô cùng.

Cơm thố

Nguyên liệu

1 lon gạo thơm

100g mỡ nước

1/2 con gà, một bộ lòng gà

5 tai nấm hương

1 muỗng xúp đầu mè

1 củ hành tây

Vài tép hành lá

Nước tương, gia vị, ngò rí

Cách làm

Thịt, gan, mề gà xắt miếng nhỏ, ướp gia vị. Xương gà nấu lấy 1 lít nước dùng.

Nấm ngâm nước xắt sợi, củ hành xắt mỏng.

Đặt chảo lên bếp, cho mỡ vào phi tỏi thơm. Trút thịt và lòng gà vào xào chín. Cho nấm hương, củ hành tây, hành lá cắt khúc vào trộn đều với dầu mè, nước tương. Nêm gia vị vừa ăn.

Lòng mề gà
Lòng mề gà

Gạo vo sạch, để ráo nước. Cho gạo vào các thố nhỏ khoảng 1/3 thố. Cho nước dùng vào ngập mặt gạo 2cm. Xếp thố vào xửng hấp chín.

Trình bày

Khi cơm chín, trải thịt gà phủ kín cơm, hấp thêm 15 phút nữa cho nóng. Dọn cơm trong thố, rải ngò lên mặt cơm. Dọn chung với nước tương, ớt xắt khoanh.

Cơm thố thịt gà
Cơm thố thịt gà

Nizoral cream

Thuốc trị nấm Nizoral cream
Nizoral cream

NIZORAL cream

Kem bôi ngoài da 2 %: ống 5 g, 10 g và 20 g.

THÀNH PHẦN

cho 100 g
Kétoconazole 2 g

 

TÍNH CHẤT

Nizoral cream có hoạt tính kháng nấm mạnh đối với các vi nấm ngoài da như chủng Trichophyton, Epidermophyton floccosum và chủng Microsporum và đối với các nấm men. Đặc biệt Nizoral có tác dụng nổi bật trên chủng nấm Pityrosporum.

Nizoral cream thường tác dụng rất nhanh trên triệu chứng ngứa, là triệu chứng thường thấy ở các nhiễm nấm ngoài da và nấm men cũng như trong những bệnh da có liên quan đến sự hiện diện của chuýng nấm Pityrosporum. Triệu chứng ngứa giảm trước khi thấy các dấu hiệu lành bệnh đầu tiên.

Nizoral cream có tác dụng kháng viêm và giảm ngứa có thể so sánh với hydrocortisone 1%. Nizoral cream không gây kích ứng nguyên phát hoặc dị ứng hay nhạy cảm ánh sáng khi bôi ngoài da.

Sau khi thoa tại chỗ Nizoral cream không tạo ra được một nồng độ có thể phát hiện ở máu.

CHỈ ĐỊNH

Điều trị các nhiễm vi nấm ngoài da như: nhiễm nấm ở thân (lác, hắc lào) ; nhiễm nấm ở bẹn ; nhiễm nấm ở bàn tay, bàn chân do Trichophyton rubrum, Trichophyton mentaprophytes, Microsporum canis và Epidermophyton floccosum. Điều trị nhiễm vi nấm Candida ở da và lang ben.

Nizoral cream còn được chỉ định trong điều trị viêm da tiết bã – một bệnh  da liên quan đến sự hiện diện của vi nấm Pityrosporum ovale.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Không dùng Nizoral cream ở những người được biết là quá mẫn với bất kỳ thành phần nào của thuốc.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Không dùng Nizoral cream ở mắt.

Vì Nizoral cream thoa tại chỗ không hấp thu vào máu nên có thể dùng Nizoral cream ở phụ nữ có thai hoặc cho con bú. Nizoral cream không gây phát sinh ung thư, hay đột biến.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Trong một ít trường hợp khi điều trị bằng Nizoral cream thấy có cảm giác nóng rát hoặc kích ứng da.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Thoa thuốc ngày 1 lần tại các vùng bị nhiễm nấm ở các bệnh nhân nhiễm nấm ở thân, nhiễm nấm ở bẹn, nhiễm nấm ở bàn tay, bàn chân, nhiễm vi nấm Candida ở da và lang ben.

Thoa thuốc ngày 1 hoặc 2 lần ở các bệnh nhân viêm da tiết bã, tùy vào độ nặng của tổn thương. Trị liệu nên được tiếp tục đủ thời gian, ít nhất là một vài ngày sau khi tất cả các triệu chứng biến mất. Nên xem lại chẩn đoán nếu như không thấy cải thiện về lâm sàng sau bốn tuần điều trị.

Các biện pháp vệ sinh chung nên được giám sát để kiểm tra các nguồn gây nhiễm hay tái nhiễm. Thời gian điều trị thông thường:

  • Lang ben: 2-3 tuần
  • Nhiễm nấm men: 2-3 tuần
  • Nhiễm nấm ở bẹn: 2-4 tuần
  • Nhiễm nấm ở thân: 3-4 tuần
  • Nhiễm nấm ở bàn chân: 4-6 tuần
  • Viêm da tiết bã: 2-4 tuần

BẢO QUẢN

Bảo quản ở nhiệt độ 15-30oC.