Blog Trang 437

Bệnh Chagas – bệnh do trypanosoma Nam Mỹ, bệnh Chagas-Mazza

Tên khác: bệnh do trypanosoma Nam Mỹ, bệnh Chagas-Mazza

Căn nguyên

Tác nhân gây bệnh là một nguyên sinh động vật, trùng roi ký sinh trong máu, có tên khoa học là Trypanosoma cruzi, trùng roi này được truyền sang người thông qua túc chủ trung gian là bọ rệp thuộc loài Triatoma. Trypanosoma lây truyền sang người là do bị bọ rệp đốt, hoặc do các chất tiết của bọ rệp bị nhiễm mầm bệnh dây bẩn vào các vết xước trên kết mạc, niêm mạc, hoặc da người. Cũng có thể có những thê bẩm sinh và thể mắc phải do truyền máu. ở người, có thê tìm thấy các thể trypanosoma không roi nằm ở trong các tế bào thuộc hệ thống lưới nội mô.

Dịch tễ học

Theo ước lượng có khoảng 7 triệu người bị nhiễm Trypanosoma cruzi ở những vùng có dịch địa phương lưu hành thuộc Nam Mỹ và Mêhicô.

Triệu chứng

TIỀN TRIỆU: sau một thời kỳ ủ bệnh khoảng 1 tuần, ở điểm bị bọ rệp đốt, thấy xuất hiện một nốt ban đỏ (gọi là “chagom” hoặc nốt sưng bệnh Chagas); điểm này thường nằm ở nơi tiếp giáp giữa da và niêm mạc ở môi, hoặc mí mắt; nếu ở mí mắt thì thấy mí mắt một bên bị phù nề, không đau, đi kèm với viêm kết mạc (gọi là dấu hiệu Romaná).

PHA XÂM NHẬP VÀO MÁU: bệnh nhân sốt 38-39°C, nổi mày đay trong thời gian khoảng 4 tuần. Từ đó bệnh trypanosoma có thể tiến triển hoặc thành thể cấp tính, hoặc thành thể mạn tính, với khu trú ở những vị trí khác nhau.

THỂ CẤP TÍNH: chủ yếu thấy ở trẻ em, bệnh biểu hiện bởi sốt, cô chướng (báng nước), gan lách to, và đôi khi sưng hạch bạch huyết toàn thân. Bệnh nhi có thể bị tử vong bởi viêm màng não-não hoặc bởi viêm cơ tim cấp tính.

THỂ MẠN TÍNH (sau một thời kỳ bệnh tiềm tàng có thể dài hoặc ngắn): biểu hiện bởi các dấu hiệu:

Phù niêm: với bướu cổ và suy tuyến giáp.

Thần kinh: với liệt, co giật, run hữu ý (khi làm một động tác nào đó thì bị run).

Viêm cơ tim: với loạn nhịp tim, hệ thống dẫn truyền tự động bị ảnh hưởng đưa tới bloc nhánh phải của bó His hoặc bloc nhĩ thất. Suy tim.

Về chi tiết, xem: viêm cơ tim trong bệnh Chagas.

“Bệnh Engasco” với to thực quản, to đại tràng, do các đám rôì thần kinh thực vật chi phối hệ cơ ở thành của những cơ quan rỗng bị trypanosoma tác động.

Xét nghiệm cận lâm sàng

Phát hiện trypanosoma trong máu bệnh nhân: bằng xét nghiệm trực tiếp phiến đồ máu đã cho citrat để chống đông và ly tâm trong thời gian dài; bằng tiêm truyền máu của bệnh nhân cho chuột lang, hoặc cấy máu. Tuy nhiên, kết quả chỉ dương tính trong 50% trường hợp và chỉ dương tính ở trong pha cấp tính.

Chẩn đoán bằng túc chủ khác loài theo phương pháp Brumpt: cho nhộng của bọ rệp chưa bị nhiễm tiếp xúc với da của bệnh nhân và sau đó phát hiện trypanosoma trong chất thải của bọ rệp. Đây là phương pháp duy nhất để phát hiện trypanosoma ở những thể mạn tính.

Chẩn đoán huyết thanh: phản ứng cố định bổ thể hoặc phản ứng Machado-Guerreiro dương tính trong 50% trường hợp ở giai đoạn cấp tính. Ngoài ra, người ta còn làm những xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang gián tiếp và kỹ thuật ELISA.

Trong trường hợp bị viêm cơ tim, có thể có immunoglobulin nội mô mạch máu (immunoglobulin endothéliovasculaire – EVI).

Chẩn đoán

Dựa vào:

Nốt săng ban đỏ ở điểm bọ rệp đốt. Phù mí mắt và viêm kết mạc một bên

Sốt cách quãng với dấu hiệu bệnh tác động cấp tính hoặc mạn tính tới tim hoặc hệ thống thần kinh trung ương.

Phát hiện thấy trypanosoma trong máu, và phản ứng huyết thanh dương tính.

Điều trị

Những thuốc hiện có không hiệu quả lắm.

Người ta sử dụng nifurtimox uống, với liều 6 mg/kg cân nặng cơ thể, 4 liều chia đều trong vòng 2 tuần. Sau đó liều hàng ngày cứ hai tuần một lần tăng lên 2 mg/kg cân nặng cơ thể cho tới khi đạt liều tối đa hàng ngày là 15 mg/kg cân nặng cơ thể. Đối với trẻ em thì liều nifurtimox là 12,5-15 mg/kg cân nặng cơ thể mỗi ngày. với những thể cấp tính, phải tiếp tục liều điều trị như trên trong 90 ngày và với thể mạn tính thì trong 120 ngày.

Thuốc có thể dùng thay thế: benznidazol.

Phòng bệnh

Diệt vectơ truyền mầm bệnh (bọ rệp), thông tin công cộng trên toàn thế giới về cách lan truyền của bệnh, ở những vùng có dịch địa phương, phải điều tra phát hiện những trường hợp nhiễm bệnh ở người cho máu. Trước khi truyền máu, cho thêm dung dịch gentian nồng độ 1/4000 vào sẽ ngăn ngừa được lây nhiễm.

Uy linh tiên

Tên khoa học:

Clematis chinensis Osbeck Họ khoa học: Họ Mao Lương (Ranunculaceae)

Tên thường gọi: Uy linh tiên, mộc thông, dây ruột gà

Tên tiếng Trung: 威灵仙

Ở Việt Nam có hai cây thường dùng thay Uy linh tiên Trung Quốc là cây Kiến cò hay Bạch hạc (RhiraCancommunic Nees, họ ACan thaceae). Ở liên khu IV có loại Uy linh tiên dây leo Thunbergia (cùng họ), lá hình quả tim, hoa trắng, rễ từng chùm như dây Uy linh tiên Trung Quốc.

Người xưa bị bại liệt không khỏi, bỗng dưng gặp vị thuốc này uống vài ngày thì đi được, thấy hay quá mà đặt tên.

Mô tả:

Vị thuốc Uy linh tiên
Vị thuốc Uy linh tiên

Cây uy linh tiên là một cây thuốc quý, cây nhỡ mọc trườn, nửa hoá gỗ. Lá có cuống dài bằng phiến; phiến thường là 3, nhẵn hay có lông thưa, hình trái xoan nhọn mũi, có gốc cụt, tròn hay nhọn, khi khô màu đen đen. Cụm hoa ở nách lá, có lá bắc chia 1-3 lá chét, khá phát triển. Quả bế hình bầu dục – lăng kính, có lông mềm, tận cùng là một vòi nhuỵ có lông dài hơn 4 lần bầu Hoa tháng 6-8, quả tháng 9-10.

Nơi sống và thu hái:

Còn phân bố nhiều ở Trung Quốc. Cây mọc phổ biến ở miền Bắc Việt Nam trong các savan cây bụi. Có thể thu hoạch rễ quanh năm, rửa sạch, thái mỏng phơi khô. Thân dây thu hái quanh năm, thái mỏng, phơi khô, khi dùng sao vàng.

Liều lượng và chú ý lúc dùng:

Liều trung bình: 5 – 10g, có thể dùng tới 30g (trường hợp hóc xương cá hoặc lúc cần).

Thuốc uống nhiều hại khí, đối với bệnh nhân suy nhược khí huyết hư dùng thận trọng.

Khí vị:

Vị đắng, khí ấm, không độc, là dương dược, vào Túc thái dương kinh, là vị dẫn đường các loại phong dược, tính thăng mà táo, hay chạy mà không giữ lại.

Chủ dụng:

Tiêu đờm dãi chứa lâu ngày ở trong ngực, trừ chứng đau bụng tích báng có khí kết rất hay, trong Bàng quang có mủ, đờm nước dưới vùng Tim, ngực, chứng cước khí xung Tâm, suyễn khó thở, lưng gối nặng nề, phong tê, thấp tê đều chữa được cả, giải tán các thứ phong ngoài da ngứa đau như bạch điến, phong ghẻ độc, mày đay, lở móng tay chân.. .Làm hết lạnh, đau ở eo lưng, ở rốn, ở gối và bàn chân, chủ trị các thứ thấp, có thể thông hành 12 kinh, là thuốc chủ yếu chữa các thứ phong, thấp lạnh đau.

Cấm dùng: uống nhiều thì tiết hết chân khí, người hư nhược thì cấm dùng.

Cách chế:

Rửa Rượu mà dùng, kỵ nước chè và bột mỳ.

Nhận xét:

Uy linh tiên bên trong thì xua hết dòm thấp tích trệ, lạnh, chữa tê thấp đau trong xương, trong thớ thịt, chạy khắp kinh lạc mà rất nhanh. “Uy” là chỉ sự mãnh liệt, “linh” là chỉ sự kiến hiệu, “tiên” là chỉ sự kiến hiệu hay như thần. Người khỏe thì uống không ngại gì, người yếu thì phải uống kèm các vị thuốc bổ, nếu không thì khí huyết hao tán hết.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Hướng dẫn sử dụng các bài thuốc”

Bài Sơ kinh hoạt huyết thang

Xuyên khung, Đương quy, Sinh đia, Bạch linh, Bạch truật, Đào nhân đều 6g, Bạch Thược 8g, Ngưu tất, Trần bì đều 5g, Long đởm, Khương hoạt, Phòng kỷ, Phòng phong, Uy linh tiên, Sinh khương đều 5g, Bạch chỉ 3-5g, Cam thảo 4g.

Chữa người bệnh nóng, đau cơ, đau khớp, đau gân, đau thần kinh, đau chân tay, thường ở vùng trên nhiều hơn, có ứ huyết, có khi bị cước khí, phù thũng, bán thân bất toại, tăng huyết áp, phụ nữ sau sinh đẻ bị máu đông trong mạch bị rám da, người uống rượu nhiều, người tình dục quá độ cũng tổn thất về huyết, đều coi như bị phong tà. Bài này có tác dụng hoạt huyết, khu phong, trừ phong hại Can huyết gây ra các chứng trên.

“Thiên gia diệu phương”

Bài Tiêu viêm thông mạch hợp tể

Đương quy 30g, Xích thược 12g, Uy linh tiên 12g, Ngân hoa đằng 30g, Thanh phong đằng 18g, Xuyên khung 12g, Phòng kỷ 10g, Cam thảo 12g, Huyền sâm 20g. sắc, chia uống vài lần trong ngày. Nếu âm hư, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác gia thêm Sinh địa,Thạch hộc.(Chỗ loét bôi bột Cam thảo trộn dầu Vừng). Trị viêm tắc tĩnh mạch.

“Thiên gia diệu phương”

Bài Tuyên lạc thông tý thang

Đương quy 15g,Thục địa 15g, Toàn yết 3g, Ngô công 2 con, Thương nhĩ tử 10g, Phòng phong 10g, Thổ miết trùng 10g, Ô xà 20g, Sơn giáp châu 10g, Hải đông bì 15g, Dâm dương hoắc 20g, Sơn long 30g, Kê huyết đằng 25g, Khương lang 5 con, Hải đông bì 15g, Uy linh tiên 15g. Có tác dụng hoạt lạc, chỉ thống, trừ phong hàn thấp tà ứ trệ kinh lạc.

Trị viêm đa khớp dạng thấp.

Gia giảm: Nếu hàn tý thêm Phụ tử. Nếu thấp nhiệt bỏ Dâm dương hoắc, Thục địa, thêm Thương truật, Hoàng bá. Có sưng nề bỏ Thục địa, thêm Bạch giới tử, Mộc miết tử.

Các bệnh da do bệnh đái tháo đường

Da là cơ quan lớn nhất của cơ thể, chiếm 16% trọng lượng cơ thể. Da được cấu tạo từ biểu bì, hạ bì và mô dưới da nằm ở dưới. Biểu bì cấu tạo chủ yếu từ biểu mô sừng hóa, tạo ra lớp vảy, thành các lớp khác nhau. Da được tô chức bởi các lớp tế bào riêng biệt, khác nhau về các đặc điểm hình thái và hóa sinh. Biểu bì là hàng rào bảo vệ ngăn cách giữa cơ thể với môi trường xung quanh. Chân bì ( hay hạ bì) cấu tạo từ mô liên kết nâng đỡ biểu bì và là lớp nối biểu bì với mô dưới da. Chân bì làm cho da có tính đàn hồi. Lớp này có chức năng bảo vệ da, tham gia vào quá trình ” hàn gắn” các vết thương, vốn rất dễ xảy ra trong quá trình hoạt động của cơ thể.

Da nguyên vẹn là điều kiện để hoàn thành chức năng bảo vệ, chống lại sự xâm nhập của các tác nhân gây bệnh; chống lại sự đào thải quá mức các chất chuyển hóa; da cũng là hàng rào bảo vệ chống lại các tác nhân lý, hóa của môi trường sống. Như vậy, để thực hiện chức năng da phải còn nguyên vẹn, giữ được các đặc tính cơ học và tính đàn hồi. Ví dụ tính đàn hồi để chống đỡ các tác động cơ học của các yếu tố môi trường. Điều kiện để giúp duy trì các chức năng này là nhờ quá trình luôn đổi mới toàn bộ biểu bì. Mỗi chu kỳ như vậy thường là từ 15 đến 30 ngày. Giữa các lớp của da tồn tại các cầu nối. Các tế bào bài tiết các chất để duy trì độ mềm mại, co dãn của da; các chất này cũng còn có vai trò bảo vệ cho da chống lại các vi khuẩn xâm nhập, chống lại các tác nhân lý, hóa của môi trường. Bất kỳ quá trình nào tác động làm thay đổi những tính chất này đều dẫn đến sự tổn hại hàng rào da, ảnh hưởng đến các hoạt động sống của cơ thể, thậm chí có thể gây tử vong.

Vào khoảng 30% người bệnh đái tháo đường có tổn thương da ở những hình thái và giai đoạn khác nhau. Nguyên nhân các tổn thương da phần lớn là do nhiễm nấm và lỏ loét do nhiễm khuẩn. Người ta thường mô tả với 2 tổn thương:

  1. Bệnh da đái tháo đường
  2. Phồng rộp da đái tháo đường

Đái tháo đường làm thay đổi một số tính chất của da; làm suy giảm chức năng tự bảo vệ của da. Người ta thấy các biến chứng da liên quan đến đái tháo đường, bao gồm giảm khả năng lành vết thương, nhiễm trùng da và bệnh da đái tháo đường. Điều cần lưu ý là một số trong các biến chứng này có liên quan trực tiếp với tình trạng đái tháo đường, trong khi những biến chứng khác xuất hiện với tỷ lệ cao ở người bệnh đái tháo đường nhưng lại không phải là đặc trưng của bệnh.

Thoái hoá hoại tử mỡ đái tháo đường

Thoái hóa hoại tử mỡ trong đái tháo đường (necrobiosis lipoidica diabeticorum, NLD) lần đầu tiên được Oppenheim mô tả năm 1929 và được Urbach đặt tên năm 1932- vì thế còn có tên gọi là bệnh Oppenhim- Urbach. Tổn thương này có liên quan chặt chẽ với đái tháo đường; 60% người bệnh có mắc NLD gặp ở người bệnh đái tháo đường lâm sàng; phần còn lại có thể thấy ở người có rối loạn dung nạp glucose hoặc ít nhất là trong tiền sử gia đình có khiếm khuyết về chuyển hóa liên quan đến glucose. Một số nghiên cứu gần đây đưa ra một tỷ lệ thấp hơn, chỉ có 0,3-1% người bệnh đái tháo đường mắc NLD. Trường hợp điển hình mắc bệnh NLD là những người ở lứa tuổi trung niên; với người bệnh đái tháo đường typ 1 tuổi trung bình lúc chẩn đoán là giữa 20 và 30 tuổi, người bệnh đái tháo đường typ 2, bệnh thường thường gặp ở cuối những năm 40 tuổi. Tỷ lệ nam/nữ là là 1:4.

Cơ chế bệnh sinh không có sự thống nhất, người ta chưa thấy có cơ sở di truyền rõ ràng nào, môi liên quan của bệnh với tình trạng quản lý glucose máu cũng chưa chặt chẽ. Có ý kiến cho rằng bệnh mạch máu nhỏ là điều kiện để bệnh phát triển, nhưng cũng có ý kiến phản bác. Các yếu tố bệnh sinh khác cũng được bàn đến, bao gồm sự lão hóa sớm các nguyên bào sợi của da, các quá trình gây tổn thương qua trung gian miễn dịch, những thay đổi ở màng đáy và các yếu tố gây tôn thương khác, cũng được bàn đến.

  • Tổn thương giải phẫu bệnh:

Về đại thể tổn thương là những mảng hình oval không đều, trung tâm của tổn thương thường bị teo, màu vàng và bị lõm xuống, trên bề mặt thường nổi các giãn mạch nhỏ, đặc biệt là ở giai đoạn muộn. Điểm đặc biệt là bờ của tổn thương gồ cao, màu đỏ. Tổn thương đa số là ở chi dưới, 85% trường hợp, vị trí hay gặp là các vùng da trước xương chày; thường gặp ở cả 2 chân. Các vị trí có thể gặp khác là ở bàn tay, cánh tay, cẳng tay, thân, mặt và da đầu. Theo các chuyên gia, nếu NLD xuất hiện ở những vùng khác ngoài chân, thường ít liên quan với bệnh đái tháo đường.

Tổn thương có thể khác nhau về kích thước. Thường chúng bắt đầu như các sẩn không có vảy, màu hồng, lan rộng chậm, dính với nhau tạo thành các mảng lớn hơn- đôi khi đường kính tổn thương có thể lớn đến vài centimét. Tổn thương loét của NLD xảy ra ở 30%, thường thứ phát sau chấn thương.

  • Dấu hiệu mô học phân biệt của bệnh là thoái hóa vô định hình dày sợi collagen ở khắp chân bì (hoại tử), kèm theo là sự thiếu vắng của mô đàn hồi (elastic). Các ổ thoái hóa collagen không có tế bào và được bao quanh bởi các mô bào (tế bào bọt), nguyên bào sợi và các tế bào dạng lympho. Thường có thể thấy viêm mạch u hạt tắc nghẽn. Biểu bì có cấu trúc bình thường ở các giai đoạn sớm; có thể bị teo ở các giai đoạn muộn. Đây cũng là lý do để người ta đề nghị một tên gọi khác của tổn thương da dạng này “Thoái hóa collagen kiểu hoại tử mỡ do đái tháo đường”.

Trong hầu hết các trường hợp tổn thương thường không gây ra các triệu chứng lâm sàng. Điều làm người bệnh quan tâm chính là do thẩm mỹ. Đôi khi, vết loét có thể gây đau. Chẩn đoán xác định trong hầu hết các trường hợp là dựa vào lâm sàng; nếu không chắc chắn, phải làm sinh thiết.

Bệnh có thể khỏi tự nhiên trong khoảng 10-20% sau diễn biến tự nhiên từ 6 đến 12 năm. Người ta có thể chỉ định điều trị phụ trợ bao gồm bảo vệ tránh chấn thương và liệu pháp steroid tại chỗ được băng kín trong ít tuần (lưu ý, steroid tại chỗ bị chống chỉ định khi có teo da rõ rệt). Aspirin, dypiridamol, clofazemin, pentoxiphyllin và nicotinamid đã được chỉ định điều trị. Tuy vậy người ta chưa đạt được sự thống nhất vì hiệu quả của chúng không ổn định. Các phương pháp trị liệu khác đều chưa được công nhận.

Khi có tổn thương loét cần có thái độ điều trị tích cực hơn, bao gồm dự phòng và điều trị nhiễm trùng thứ phát. Khi điều trị nội khoa thất bại, người ta buộc phải tính đến can thiệp phẫu thuật, bao gồm cắt bỏ triệt để và ghép da. Song trong những trường hợp này kết quả không được hoàn hảo, các tổn thương thứ phát thường xuất hiện quanh miếng ghép.

u hạt vòng

u hạt vòng (Granuloma Annulare, GA) được Fox mô tả đầu tiên năm 1895. Đó là các ban da mạn tính xuất hiện ở dạng khu trú hoặc rải rác. Tổn thương này cũng xuất hiện ở những người không mắc đái tháo đường. Hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng giữa tổn thương dạng rải rác và đái tháo đường có mối liên quan, đặc biệt ở những người bệnh cao tuổi; tuy nhiên, vẫn có một số ý kiến không khẳng định mối liên quan này, vì có tác giả thấy rằng, tổn thương hình như thường gặp hơn ở trẻ em và người lớn trẻ tuổi; ở lứa tuổi này nữ bị nhiều hơn nam.

Cơ chế bệnh sinh của tổn thương này chưa được biết rõ. Tuy nhiên, có nhiều bằng chứng chỉ ra mối liên quan đến các cơ chế miễn dịch học, nhiều khả năng là dạng tổn thương tăng nhạy cảm typ chậm.

  • Về đại thể: Tổn thương xuất hiện điển hình là các nhú và mảng da màu hồng hoặc tím, xếp thành hàng như chuỗi hoặc nửa vòng tròn ngọc trai; trung tâm tổn thương thường không bị tác động, do vậy, tạo ra hình thái tổn thương vòng có bờ nhô cao. Vị trí thường gặp nhất là mu bàn tay, cánh-cẳng tay (60%) bàn chân, chân (20%). Ở 85% người bệnh chỉ có tổn thương dạng vòng. Tổn thương của GA có thể xảy ra ở khắp cơ thể nhưng thường gặp hơn ở vùng da tiếp xúc với ánh nắng mặt trồi. Người ta cũng đã gặp tổn thương GA và NLD đồng thời xuất hiện.
  • Về mặt mô học, có thể thấy thoái hóa ổ collagen ở chân bì trên và giữa, với hình ảnh các mô bào xếp hàng xung quanh các bó collagen và nhiều mucin. Đặc điểm mô học của GA có một số điểm giống với NLD. Tuy nhiên, ở tổn thương GA, thoái hóa collagen ít hơn hơn và khu trú ở các lớp trên của chân bì, có nhiều mucin nhiều hơn. Ngoài ra, trong tổn thương GA biểu bì hầu như bình thường, thay đổi mạch máu không chiếm ưu thế như trong NLD.
  • Về điều trị: Tổn thương dạng khu trú thường là tự khỏi, không cần điều trị trong hầu hết các trường hợp. Người ta cũng có thể sử dụng corticosteroid tại chỗ hoặc giữa các tổn thương. Điều trị bằng nitơ lỏng, các thuốc chống sốt rét, quang trị liệu cũng đã được áp dụng. Bệnh thường hay tái phát cùng một vị trí tổn thương.

Bệnh da đái tháo đường

Bệnh da đái tháo đường là những tổn thương có đặc điểm là những vòng tròn hoặc oval, có màu hơi đỏ hoặc nâu sẫm, lõm nhẹ ở giữa. Tổn thương có thể xuất hiện ở mọi nơi, nhưng thường thấy ở cẳng chân. Điều kiện thuận tiện là bệnh thường xuất hiện ở những vùng sau khi bị chấn thương. Di chứng để lại có thể là những sẹo hoặc vết đen trên cẳng chân.

Bệnh này lần đầu tiên được Kramer mô tả vào năm 1930 và được Melin mô tả đặc điểm sâu vào 1964. Bệnh là tổn thương da thường gặp nhất trong bệnh đái tháo đường. Tuy nhiên tổn thương không phải là đặc trưng của bệnh đái tháo đường, tổn thương này cũng có thể được tìm thấy ở những bệnh khác. Tổn thương thường ở trên cẳng chân, người ta thường gặp là các vì vị trí thông thường của chúng hoặc các dát sắc tố trước xương chày.

Bệnh da đái tháo đường thường được tìm thấy ở những người bệnh đái tháo đường trưởng thành. Nam bị mắc với tỷ lệ mắc mới cao hơn.

Nguyên nhân của bệnh da đái tháo đường hiện còn chưa rõ nhưng có lẽ có liên quan nhiều đến các tổn thương vi mạch. Trong thực tế điều kiện thuận tiện để bệnh da đái tháo đường xuất hiện là ở những người đái tháo đường đã có biến chứng tổn thương võng mạc, bệnh lý thần kinh và bệnh lý thận. Dựa vào thực tế này, một số nhà nghiên cứu cho rằng những tổn thương da đái tháo đường có nguyên nhân là các biến chứng, đặc biệt là bệnh mạch máu nhỏ và bệnh thần kinh đái tháo đường. Nhưng kết luận này cũng không đạt được sự thông nhất; đa số cho rằng sinh lý bệnh chính xác của tổn thương này còn chưa rõ ràng.

Tỷ lệ mắc mới của bệnh da đái tháo đường liên quan với thời gian mắc bệnh, người ta thường gặp bệnh da đái tháo đường ở những người có thời gian phát hiện bệnh đái tháo đường từ 10 đến 20 năm.

Chấn thương tại chỗ được cho là liên quan đến cơ chế bệnh sinh của các tổn thương này vì sự xuất hiện của tổn thương trên các vùng nhô lên của xương; tuy nhiên, vấn đề này còn đang được tranh luận.

Các tổn thương này thường là hình tròn hoặc oval; màu sắc sớm là các mảng có màu từ hồng, muộn dần sẽ có màu nâu. Dần dần chúng tự lành hoặc tiến triển thành các tổn thương teo riêng rẽ kèm theo tăng sắc tố màu nâu(có thể có hoặc không có vảy mỏng). Trường hợp điển hình, cùng lúc người ta có thể nhìn thấy các tổn thương cũ hơn đang thoái triển trong khi các tổn thương mới đang hình thành. Đặc trưng là các tổn thương xuất hiện hai bên ở mặt trước và bên của phần dưới của chân, nhưng cũng có thể xuất hiện trên cẳng tay, trước đùi và bàn chân. Như đã nêu trên, các tổn thương có xu hướng xuất hiện trên các vùng nhô lên của xương; mặc dù vậy loét ít khi xảy ra.

Những thay đổi mô học trong bệnh đa đái tháo đường là không đặc hiệu và không có giá trị chẩn đoán. Biểu bì trở lên mỏng và bị teo đi. Lớp trên của chân bì có thâm nhiễm nhẹ xung quanh mạch bởi các tế bào dạng lymphho và mô bào, số lượng các mao mạch tăng và tăng sinnh nguyên bào sợi. Những thay đổi của collagen ít rõ rệt hơn nhiều so với NLD, không có thoái hóa collagen.

Ở các tổn thương cũ, màng đáy mao mạch bị dày lên cùng với hiện tượng xơ hóa collagen, xuất huyết và lắng đọng hemosinderin rải rác.

Tuy vậy, hầu hết các chuyên gia đều cho rằng, bệnh lý mạch máu nhỏ phản ánh tình trạng bệnh đái tháo đường hơn là các nguyên nhân do tổn thương da.

Các tổn thương da đái tháo đường thường không có triệu chứng và trong hầu hết các trường hợp không cần điều trị. Tuy nhiên, trong khi bệnh da đái tháo đường có thể thoái triển tự nhiên, các tổn thương mới lại tiếp tục phát triển. Để phòng chống người ta quan tâm nhiều đến việc làm giảm thiểu các yếu tố thuận lợi như chấn thương chẳng hạn.

Phỏng nước đái tháo đường

Bệnh được Kramer mô tả vào những năm 1930, nhưng không được thừa nhận như một thể bệnh riêng biệt; năm 1963 Rocca và Pereyra đã đưa ra khuyến cáo về tình trạng bệnh này. Bệnh được Cantwell và Martz đặt tên vào năm 1967.

Phỏng nước đái tháo đường là tình trạng các tổn thương phỏng nước dưới da phát triển nhanh chóng. Vị trí hay gặp thường là ở các chi của người bệnh đái tháo đường. Đặc điểm nơi các phỏng nước phát triển thường trước đó không có chấn thương. Lứa tuổi hay gặp không đặc hiệu( từ 17 đến 84). Giới nam nhiều hơn nữ, tỷ lệ khoảng 2:1. Người ta cũng thấy tổn thương hay gặp ở người có thời gian phát hiện bệnh đái tháo đường lâu ngày và thường thấy ở người bệnh đã có nhiều biến chứng.

Như với hầu hết các tổng thương da liên quan đến đái tháo đường, cơ chế bệnh sinh của tổn thương này chưa được biết rõ. Một số yếu tố đã được đề xuất trong sinh bệnh học, bao gồm chấn thương, viêm mạch qua trung gian miễn dịch và bệnh mạch máu nhỏ đái tháo đường.

Các tổn thương thường là nhiều phỏng, ở hai bên, có kích thước khác nhau theo vị trí của chúng( thường từ 0,5 đến 17 centimet). Các nốt phỏng chứa thanh dịch, không có quầng đỏ bao quanh. Thường có 2 loại tổn thương

  • Phỏng nội bì là các nốt phỏng chứa đầy dịch trong, vô khuẩn. Tồn tại khoảng từ 2 đến 5 tuần. Các tổn thương có xu hướng xuất hiện ở đầu các ngón chân, gan bàn chân và bàn tay. Một khi tổn thương thường không đau, khi bị vỡ, chúng phát triển thành các vảy cứng và cuối cùng rụng đi, không để lại sẹo.
  • Phỏng hạ bì, thường các nốt phỏng chứa cả máu. Khi hết tổn thương thường để lại sẹo và teo tổ chức dưới da.

Chẩn đoán tổn thương mô bệnh học có thể khó khăn. Nghiên cứu mô học cho thấy các tổn thương không đồng nhất. Từ thực tế này cần phải loại trừ với các nguyên nhân gây tổn thương phỏng nước khác như pemphigut…

Can thiệp điều trị chỉ cần thiết trong những trường hợp tổn thương là các phỏng nước lớn cần cắt bỏ và dẫn lưu, hoặc các phỏng đã có nhiễm trùng thứ phát.

Hạn chế vận động khớp

Hạn chế vận động khớp (Limited Joint Mobility, LJM) được Rosenbloom và Frias mô tả lần đầu tiên vào năm 1975. Tình trạng bệnh này bao gồm 2 triệu chứng và dấu hiệu chính: (a) hạn chế vận động duỗi của các khớp nhỏ của bàn tay, nhưng không có không đau; và (b) dày và cứng vùng da trên vùng tổ thương. Tình trạng bệnh này còn được dùng để chi một phần của hội chứng giống xơ cứng bì (scleroderma-like syndrome, SLK).

LJM và SLK thường là những biến chứng sớm nhất được phát hiện của đái tháo đường ở lứa tuổi trẻ. Những báo cáo đầu tiên chỉ gặp ở người bệnh đái tháo đương typ 1; tuy nhiên, ngày nay người ta biết rằng nó cũng xuất hiện ở người bệnh đái tháo đường typ 2. Trong các nghiên cứu lớn, LJM được tìm thấy ở 10-50% người bệnh đái tháo đường typ 1. Trong hầu hết các trường hợp người bệnh có các biến chứng vi mạch đái tháo đường, bao gồm bệnh võng mạc và bệnh thận.

Cơ chế bệnh sinh của tình trạng bệnh này còn chưa được biết. Một số nghiên cứu đã tìm thấy mối tương quan với thời gian mắc bệnh đái tháo đường, trong khi những nghiên cứu khác khẳng định rằng tỷ lệ mắc mới của tình trạng bệnh này liên quan với tuổi. Hầu hết các nghiên cứu không tìm thấy mối liên quan với kiểm soát glucose máu; tuy nhiên, có những báo cáo cho thấy sự cải thiện liên quan với kiểm soát chặt đường máu. Người ta đã đề xuất rằng tổn thương này là do những thay đổi về gắn kết, bắt chéo và luân chuyển collagen. Các yếu tố bệnh sinh khác cũng đã được đề xuất, bao gồm những thay đổi về các sợi elastic và tổng hợp fibronectin.

Thường thì tình trạng bệnh này liên quan đến các khớp bàn, cổ ngón và ngón gần, hay gặp là ngón 5, tổn thương thường ở hai bên và đổi xứng.

Trong phần lớn các trường hợp da nằm phía trên khớp trở lên dày và vô cảm trông giống như sáp. Tổn thương được mô tả như tổn thương

giống xơ cứng bì, nhưng phân biệt với xơ cứng bì ở chỗ không có Raynaud, loét và tổn thương nội tạng. Thậm chí ngay cả chính các khớp- mặc dù được đặt tên gọi của tổn thương, không bị liên quan trực tiếp.

  • về mặt mô học, có dày chân bì rõ rệt. Tổn thương chủ yếu là bất thường ở collagen quanh khớp. Các bó collagen lớn bị mất tổ chức, bị phân tách bởi các khoảng sáng và các lắng đọng nhỏ của glucosaminglycan. Hiện tượng tăng bắt chéo collagen cũng được tìm thấy nhờ kính hiển vi điện tử.
  • Về lăm sàng, bệnh thường không đau và có thể không được chẩn đoán. Ban đầu là sự hạn chế vận động tích cực, sau đó thậm chí là thụ động. Sự mất khả năng áp sát 2 lòng bàn tay với các ngón tay xoè như hình quạt (dấu hiệu “cầu nguyện”) là dấu hiệu thường được tìm để chẩn đoán LJM.
  • Điều trị nhiều khi không thật cần thiết. Ngoài ra như đã đề cập ở trên, có những nhận xét trái ngược nhau về ích lợi của kiểm soát chặt lượng glucose máu liên quan tới sự tiến triển của tổn thương này.

Xơ cứng bì – đái tháo đường

Dạng kinh điển của xơ cứng bì lần đầu tiên được Bushke mô tả đầy đủ vào 1900. Trước đó có những báo cáo về bệnh này nhưng đều là không đầy đủ. Tổn thương này được mô tả như đám cứng da, lan rộng một cách đặc trưng từ phía sau và bên cổ sang các vùng xung quanh. Các tổn thương thường xuất hiện vài tuần, sau một đợt nhiễm trùng, thường là liên cầu. Thường có ít nhất 3 dạng của tổn thương này: (a) týp kinh điển sau nhiễm trùng; (b) týp không sốt, người ta không tìm được bằng chứng của bệnh có sốt trước đó; những thay đổi trên da loại này ổn định hoặc tiến triển chậm; (c) một dưới nhóm nhỏ liên quan với đái tháo đường, được gọi là xơ cứng bì- đái tháo đường. Báo cáo đầy đủ đầu tiên về sự kết hợp giữa xơ cứng bì và đái tháo đường được Cohn và cs công bố vào năm 1970.

Xơ cứng bì -đái tháo đường khác với xơ cứng bì kinh điển ở một số đặc điểm. So với dạng kinh điển, bệnh này phát triển thầm lặng và ít khi có nhiễm trùng trước đó. Bệnh liên quan đến dày da không lõm ở sau cổ, phần trên của lưng và vai, nhưng có xu hướng lan ra thân và thậm chí tay và chân, dẫn đến hạn chế vận động rất nhiều. Không được nhầm lẫn bệnh này với hạn chế vận động khớp được mô tả ở trên. Bệnh khớp- đái tháo đường xảy ra ở trẻ em cũng như ở người lớn mắc đái tháo đường typ 1 và đái tháo đường typ 2, xơ cứng bì đái tháo đường chủ yếu gặp ở những người bệnh mắc đái tháo đường lâu năm.

  • về lâm sàng: Người bệnh điển hình là nam giới tuổi trung niên. Tổn thương gặp ở nam gấp 4 lần nhiều hơn ở nữ. Căn nguyên của bệnh chưa được biết; ở hầu hết các trường hợp đái tháo đường đã được phát hiện lâu năm. Da vùng tổn thương cứng và bóng, bị mất các nếp da bề mặt. Các vùng cứng da điển hình có màu đỏ. Tổn thương thường không đau, nhưng người bệnh thường có cảm giác không thoải mái ở cổ và đau lưng.
  • Tổn thương i thể, lớp chân bị nở rộng và dày lên; xuất hiện các bó collagen, dường như thay thế lớp mỡ dưới da. Điều này khác với sự phân bô 2 đỉnh của các sợi collagen trong xơ cứng bì kinh điển. Người ta còn thấy các bó collagen bị phân tách bởi sự tích tụ các lắng đọng nhỏ acid hyaluronic giữa các sợi collagen đã bị dày lên.
  • Về điều trị, chưa có điều trị đặc hiệu. Ngược với xơ cứng bì khác, bệnh xơ cứng bì – đái tháo đường thường dai dẳng hơn; đã có những người bệnh được theo dõi đến 20 năm.

Gai đen

Gai đen (Acanthosis nigricans, AN) được mô tả là những mảng da tối màu ở các nếp gấp như cổ và nách. Trong những nghiên cứu sớm của Curth và cs tổn thương này thường là các ung thư ác tính nội tạng. Sau đó, Kahn lại chứng minh đây là dấu hiệu của tình trạng đề kháng insulin. Ngày nay, AN được được coi là dấu ấn của các rối loạn chuyển hóa hoặc nội tiết bẩm sinh. Những tổn thương này thường kết hợp với đề kháng insulin, một yếu tố nguy cơ của đái tháo đường typ 2. Cũng như đái tháo đường typ2, không có tổn thương nổi trội theo giới.

Ngày nay hầu hết các nhà nghiên cứu chấp nhận rằng AN kết hợp với các tình trạng đề kháng insulin( thường là biểu hiện tăng insulin). Các yếu tố tăng trưởng đã được đề xuất là có liên quan đến cơ chế bệnh sinh bao gồm yếu tố giống insulin-1 (IGF-1), yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGF) và yếu tố tăng trưởng chuyển dạng-a (TGF-a).

Tổn thương thường có xu hướng xuất hiện ở những nếp gấp của cơ thể. Vùng thường gặp nhất là sau gáy như một dải giống vòng cổ, ở nách. Các vùng khác có thể gặp là mặt trong của đùi, vùng dưới nách và ở các nếp gấp mỡ quanh eo ở những người béo phì.

  • Tổn thương mô bệnh học, bao gồm dày biểu bì, tăng sừng và tăng nhú ở chân bì. Thú vị là tăng sắc tố không phải là kết quả của thay đổi về hàm lượng melanin của da mà là sự dày lên của lớp biểu mô chứa keratin. Đây là đặc điểm để phân biệt với các rối loạn sắc tố khác do tăng sản xuất của các Melanocyt.
  • Biểu hiện lâm sàng chỉ là những mảng da tối màu ở các vị trí các vùng gấp, không gây đau đớn, vì thế thường ít được chú ý. Điểu hay được người bệnh quan tâm đi khám bệnh lại là do thẩm mỹ chứ không phải do bệnh tật

Bệnh da xuyên thủng mắc phải (Acquired Perforating Dermatosis, APD)

Bệnh da xuyên thủng mắc phải đặc trưng bởi sự mất chất từ chân bì qua biểu mô. Bốn bệnh da kinh điển đã được mô tả: (a) Bệnh Kyrle là rối loạn xuyên da được Kyrle mô tả đầu tiên vào năm 1916; (b) bệnh collagen xuyên thủng phản ứng; (c) viêm nang lông xuyên thủng; và (d) tổn thương ngoằn nghèo xuyên thủng tiêu mô đàn hồi (elastosis períorans serpiginosa).

Trong thời gian 2 thập kỷ qua một tổn thương xuyên thủng qua lớp hạ bì khác đã xuất hiện, tạm dịch là bệnh da xuyên thủng mắc phải (acquired períorating dermatosis, APD). Rối loạn này thường kết hợp với suy thận mạn tính ở người mắc bệnh đái tháo đường. Tỷ lệ hiện mắc của APD ở những người bệnh lọc máu của các nước phương Tây là 4,5-11%. Người ta cũng thấy có sự tương quan chặt chẽ của APD với thời gian mắc bệnh đái tháo đường.

Nguyên nhân của APD vẫn là một ẩn số. Một số yếu tố bệnh sinh đã được nghiên cứu, bao gồm bệnh mạch máu đái tháo đường, chấn thương do các nguyên nhân vật lý( chà xát, gãi…), phản ứng dị vật với một số thành phần của chân bì và khiếm khuyết biểu bì tiên phát.

Ban APD đặc trưng xuất hiện chủ yếu ở thân và mặt duỗi của các chi. Các tổn thương thường là những sẩn hoặc cục nhỏ có đường kính trên 1,0 cetimet, hình vòm, với miệng lõm, đóng vảy.

  • Về mô học, các tổn thương đặc thù là những đường hầm xuyên da ngang qua biểu mô tăng sinh gai. Có thể thấy các sợi collagen và elastin xuyên vượt qua biểu mô đến lớp vảy viêm ở trên.
  • Điều trị, các tổn thương APD có thể tự khỏi tự nhiên. Thuốc điều trị bao gồm steroid bôi hoặc trong da, retinoid tại chỗ bôi hoặc tia cực tím B trị liệu. Điều trị bằng thuốc giảm đau có thể được chỉ định khi cần.

Các nhiễm trùng da và loét bàn chân

Các nhiễm trùng da xuất hiện với tỷ lệ mắc mới cao hơn ở người bệnh đái tháo đường kiểm soát kém. Một thực tế là từ khi các chế độ kiểm soát đái tháo đường được cải thiện với các tiêu chuẩn gần như sinh lý, việc sử dụng các kháng sinh mới trong điều trị, nguy cơ nhiễm trùng

liên quan đến đái tháo đường đã giảm đi đáng kể. Nhưng cho đến nay, nhiễm trùng và các biến chứng bàn chân như các biến chứng thứ phát của đái tháo đường vẫn còn là nguyên nhân hàng đầu gây đau ốm và tử vong ở người bệnh đái tháo đường.

Cơ chế bệnh sinh của nhiễm trùng đái tháo đường thường là đa yếu tố. Các yếu tố dẫn dắt bao gồm tăng glucose máu, đặc biệt là đối với các nhiễm trùng candida; rối loạn vi tuần hoàn; giảm tiết mồ hôi; mất cảm giác thứ phát do bệnh thần kinh ngoại vi (mất cảm giác bảo vệ, LOPS); và giảm khả năng ức chế miễn dịch qua trung gian tế bào.

Về giới, nữ giới dễ bị các nhiễm trùng hơn nam giới.

Nhiễm trùng thường gặp nhất ở những người bệnh có đái tháo đường kiểm soát kém là candida. Trong nhiều trường hợp nó có thể là chỉ điếm đầu tiên của đái tháo đường không được chẩn đoán. Nhiễm trùng thường phát triển ở những người bệnh cao tuổi, có thời gian dài mắc bệnh đái tháo đường hoặc người đái tháo đường nhưng kiểm soát kém. Các cơ quan bị tác động là lưỡi, khoé miệng, quang móng chi, bộ phận sinh dục ngoài (đặc biệt là viêm âm hộ-âm đạo ở nữ và viêm quy đầu ở nam), các nếp gấp da khác. Các bệnh nấm da cũng có xu hướng ngày càng hay gặp. Những tổn thương này có thể là yếu tố khởi đầu cho quá trình dẫn đến các nhiễm khuẩn thứ phát ở những vùng mà sự toàn vẹn của da bị tổn hại. Thường thì các vi khuẩn gây bệnh được tìm thấy trong các nhiễm trùng không đe dọa chi là tụ cầu vàng và liên cầu tan máu p. Hình ảnh lâm sàng có thể gặp là chốc, viêm quầng, viêm mô dưới da, mụn mủ cũng như viêm nang nông, nhọt và nhọt độc.

Điều trị lực chọn cho các nhiễm trùng ở người bệnh đái tháo đường là thuốc hoặc kháng sinh kháng nấm thích hợp, dùng tại chỗ, toàn thân, hoặc tiêm truyền cũng như kiểm soát chặt đường máu. cắt lọc bằng phẫu thuật các mô chết cần được cân nhắc khi có chỉ định. Tuy nhiên, cần chú ý hơn với những khía cạnh đặc biệt trong xử lý các vết loét và nhiễm trùng bàn chân. Chúng bao gồm hạn chế chịu lực cho chân bị tổn thương và đánh giá tuần hoàn của vùng tổn thương. Ngoài ra, quan trọng là phải nhớ rằng chính các nhiễm trùng có thể thay đổi kiểm soát đường máu.

Trật khớp hông bẩm sinh (Sai khớp háng bẩm sinh)

Xảy ra từ thời kỳ thai nhi còn ở trong tử cung của người mẹ, do những lực cơ học tác động làm cho chỏm xương đùi trượt ra khỏi ổ cối xương chậu. Ở trẻ sơ sinh bình thường, khớp hông (khớp háng) thường vững chãi và không bị trật khớp, ngay cả khi làm các thủ thuật mạnh. Trong trường hợp trật khớp hông bẩm sinh, có thể thấy những mức độ sau: trật khớp thật sự và không nắn lại được, trật khớp hông có thể nắn được, hoặc khớp hông dễ bị trật khớp. Trật khớp hông bẩm sinh có thể chỉ ở một bên làm cho một chi bị ngắn hơn, hoặc trật khớp cả hai bên. Trong tuần thứ nhất sau khi sinh, trật khớp hông bẩm sinh chủ yếu được phát hiện nhờ khám lâm sàng, làm thử nghiệm Ortolani: khép rồi dạng đùi của trẻ khi đùi đang ở tư thế gấp vào bụng, sẽ thấy chỏm xương đùi nhô lên. Nếu chỏm xương đùi nhô lên chuyển từ phía trong ra phía ngoài thì dễ bị trật khớp hông, còn nếu chỏm nhô lên chuyển từ phía ngoài vào phía trong thì đó là dấu hiệu khớp bị trật. Nếu thấy các động tác của khớp không thoả đáng thì phải làm siêu âm và hội chẩn với một chuyên gia. Trong những thể trật khớp hông một bên ở trẻ còn bú, khi kéo bên chi bị trật khớp mạnh hơn so với bên lành, thì có thể làm cho bên chi trật khớp hông dài thêm ra (dấu hiệu Dupuytren). Ngoài ra chi bị trật khớp còn hơi bị xoay vào trong nhiều hơn so với bên lành (dấu hiệu Gourdon). Điều trị: Nếu chẩn đoán được ngay từ lúc sơ sinh thì làm chỉnh hình. Nếu chẩn đoán trong khoảng từ 12 đến 18 tháng tuổi thì có thể hoặc điều trị chỉnh hình, hoặc chờ 4 năm sau thì phẫu thuật. Tư thế dạng không đúng lúc hoặc mang tính dự phòng có thể gây ra viêm xương-sụn. Ở người lớn hoặc trẻ em đã lớn, điều trị bằng phẫu thuật.

Những bệnh khớp do hóa chất

Những nguyên tố hoá học sau đây có thể gây tổn thương cho xương:

  • Berili (berylium): nguyên tố này kích thích tạo cốt bào. Trong những trường hợp nhiễm độc mạn tính bởi berili, người ta thấy phát sinh các khối u thuộc typ ung thư xương (sarcom xương).
  • Bismuth: trẻ em còn bú mà bà me đã sử dụng bismuth trong lúc có thai có thể bị những tổn thương xương giống với tổn thương do nhiễm độc chì.
  • Cadmi(cadmium): có thể gây ra hội chứng Milkman (xem hội chứng này).
  • Fluor,gây ra giảm sản mô răng, làm biến đổi chất men răng, gây đặc mô xương nhưng lại dễ bị gãy, những dây chằng bị calci hoá (vôi hoá).
  • Sắt: bệnh Kashin-Beck gặp ở những vùng mà nguồn nước quá giàu muối sắt. Ở trẻ em, muối sắt (quá nhiều) có thể gây ra những rối loạn tăng trưởng và những tổn thương của đầu xương cũng như ở các khớp. Những yếu tố khác còn chưa được biết rõ hình như cũng là nguyên nhân của bệnh này ở trong một số vùng Đông Á.
  • Chì: tích tụ ở phần dưới xương đùi và khi chụp X quang có thể thấy hình ảnh những đường thẳng mờ (những vết cản quang hình đường thẳng).

Chuẩn Bị Tốt Trước Khi Mang Thai: Danh Sách Việc Cần Làm

Bạn có thể chưa mang thai, nhưng có rất nhiều điều bạn có thể làm ngay bây giờ để chuẩn bị sức khỏe tốt nhất cho một em bé đang phát triển. Hãy coi đây là danh sách việc cần làm trước khi thụ thai.

1. Hẹn gặp bác sĩ.

Đúng là bạn sẽ gặp họ nhiều sau khi thụ thai, nhưng cũng là ý tưởng tốt khi đặt lịch hẹn trước, ngay cả khi bạn đã mang thai trước đây. Nếu bạn có bất kỳ vấn đề sức khỏe nào có thể ảnh hưởng đến khả năng thụ thai hoặc làm cho việc mang thai trở nên rủi ro hơn, thì điều quan trọng là bạn phải kiểm soát chúng ngay bây giờ.

Bác sĩ của bạn sẽ bắt đầu kiểm tra trước khi mang thai bằng cách lấy lịch sử y tế đầy đủ từ cả bạn và đối tác của bạn. Họ cũng có thể muốn thực hiện một số xét nghiệm — chẳng hạn như xét nghiệm máu và xét nghiệm Pap smear — để đảm bảo rằng không ai trong hai bạn mắc bất kỳ tình trạng y tế nào có thể ảnh hưởng đến thai kỳ hoặc khả năng thụ thai. Bác sĩ có thể kiểm tra các bệnh như:

  • Miễn dịch với bệnh rubella, hoặc sởi Đức
  • Miễn dịch với bệnh thủy đậu
  • HIV
  • Miễn dịch với viêm gan B
  • Herpes
  • Các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác (chẳng hạn như chlamydia, giang mai và lậu)
  • Vấn đề về tuyến giáp (với xét nghiệm TSH)
  • Các bệnh khác như toxoplasmosis và parvovirus B19 (còn gọi là bệnh thứ năm)

Cuối cùng, tùy thuộc vào sắc tộc của bạn, bác sĩ có thể đề nghị xét nghiệm di truyền cho:

  • Bệnh hồng cầu hình liềm
  • Bệnh thalassemia (một dạng thiếu máu di truyền)

Nếu đã đến lúc cập nhật vắc xin, điều quan trọng là phải tiêm trước khi bạn mang thai. Một số loại vắc xin cụ thể, chẳng hạn như vắc xin MMR (sởi-quai bị-rubella), varicella (virus gây bệnh thủy đậu) hoặc vắc xin viêm gan A có thể làm tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh. Các chuyên gia khuyên bạn nên chờ ít nhất 28 ngày sau khi tiêm một số vắc xin này trước khi cố gắng thụ thai.

Chuẩn Bị Tốt Nhất Trước Khi Mang Thai
Chuẩn Bị Tốt Nhất Trước Khi Mang Thai

Hãy nói chuyện với bác sĩ về các loại vắc xin bạn cần ngay bây giờ và những loại bạn sẽ cần sau này. Các bác sĩ tiêm một số mũi vắc xin trong thai kỳ, chẳng hạn như vắc xin Tdap phòng bệnh ho gà, để em bé của bạn cũng được hưởng lợi từ việc bảo vệ.

Nếu các bệnh như xơ nang hoặc bệnh hồng cầu hình liềm có trong gia đình bạn hoặc đối tác của bạn, bạn cũng có thể muốn gặp chuyên gia tư vấn di truyền hoặc thực hiện các xét nghiệm sàng lọc trước khi thụ thai.

2. Kiểm tra nướu của bạn.

Có một mối liên hệ giữa sức khỏe răng miệng tốt và một thai kỳ khỏe mạnh. Bệnh về nướu có liên quan đến sinh non và cân nặng khi sinh thấp. Vì vậy, bây giờ là lúc đến gặp nha sĩ để giải quyết bất kỳ vấn đề nào.

3. Bỏ thuốc lá và rượu.

Bạn có thể đã biết rằng thuốc lá và rượu trong thai kỳ là không bao giờ được phép. Chúng có hại cho sự phát triển của em bé và có thể gây ra các vấn đề về sức khỏe cho bé khi lớn lên.

Nhưng ngay bây giờ, việc hút thuốc và uống rượu cũng có thể khiến bạn khó thụ thai hơn và tăng nguy cơ sẩy thai. Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn về các chương trình có thể giúp bạn từ bỏ những thói quen này.

4. Giảm caffeine.

Uống nhiều hơn hai tách cà phê hoặc năm lon nước ngọt mỗi ngày (khoảng 250 miligam caffeine) có thể khiến bạn khó thụ thai hơn và tăng khả năng bạn sẽ bị sẩy thai.

Chuyển sang uống decaf (cà phê đã được loại bỏ caffeine) ngay bây giờ có thêm một lợi thế khác: bạn sẽ không phải chịu đựng cảm giác thèm caffeine trong những tuần đầu tiên của thai kỳ.

5. Ăn uống thông minh.

Không có thời điểm nào tốt hơn để loại bỏ đồ ăn vặt và tất cả các calo rỗng của nó. Hãy đảm bảo rằng bạn ăn nhiều trái cây, rau, ngũ cốc nguyên hạt và protein nạc mỗi ngày.

Một chế độ ăn uống lành mạnh trước khi bạn thụ thai có thể giúp bạn ít có khả năng bị tiểu đường thai kỳ, một loại bệnh ảnh hưởng đến phụ nữ mang thai.

6. Uống axit folic.

Axit folic, được tìm thấy tự nhiên trong rau lá xanh và nhân tạo trong các sản phẩm bột mì và gạo tăng cường, đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ dị tật bẩm sinh nhất định.

Các chuyên gia khuyến nghị rằng ngoài một chế độ ăn uống tốt, bạn nên uống một viên vitamin tổng hợp có chứa axit folic hàng ngày trong 3 tháng trước khi mang thai và tiếp tục trong suốt thai kỳ. Nếu bạn đã từng có thai và thai nhi có dị tật bẩm sinh liên quan đến não và tủy sống, bác sĩ của bạn có thể đề nghị liều cao hơn là 4 mg axit folic mỗi ngày.

7. Giảm cân thừa.

Thừa cân có thể làm tăng nguy cơ mắc các vấn đề như tiểu đường thai kỳ và cao huyết áp trong thai kỳ — một tình trạng được gọi là tiền sản giật.

Thông thường, việc giảm cân trong thai kỳ không phải là ý kiến hay, vì vậy nếu bạn muốn giảm cân, hãy bắt đầu ngay bây giờ.

8. Suy nghĩ về các loại thuốc bạn đang dùng.

Điều quan trọng là bạn phải cho bác sĩ biết về tất cả các loại thuốc bạn đang dùng — thuốc kê đơn, thuốc không kê đơn, thậm chí là vitamin và thảo dược. Một số trong số chúng có thể ảnh hưởng đến em bé của bạn.

9. Cẩn thận với hải sản.

Chắc hẳn bạn đã nghe rằng tránh xa các loại cá có hàm lượng thủy ngân cao khi mang thai là điều khôn ngoan. Nhưng có thể mất tới một năm để cơ thể bạn loại bỏ nguyên tố này khỏi máu.

Việc ăn cá hai lần một tuần là ổn, nhưng hãy tránh các loại cá có nhiều thủy ngân, chẳng hạn như cá kiếm, cá đầu vàng, cá thu vua và cá mập.

10. Đi tập gym.

Không chỉ giúp bạn đạt được cân nặng khỏe mạnh, việc tập thể dục còn giúp bạn chuẩn bị tốt cho quá trình chuyển dạ và sinh nở. Khi đã mang thai, hãy tìm các lớp học trước sinh đặc biệt an toàn cho các bà mẹ tương lai.

11. Nghĩ về những thay đổi mà việc có con sẽ mang lại.

Có con sẽ ảnh hưởng đến mọi thứ trong cuộc sống của bạn — công việc, tài chính và mối quan hệ của bạn với vợ/chồng hoặc đối tác của mình, trong số những điều khác. Chín tháng có thể là một khoảng thời gian khá ngắn để tìm hiểu tất cả các vấn đề đó, vì vậy bác sĩ của bạn có thể đưa ra một số lời khuyên giúp bạn sẵn sàng. Bác sĩ của bạn cũng có thể đề nghị các lớp học trước khi thụ thai tại bệnh viện địa phương nếu có sẵn.

Nguyên nhân hàng đầu gây ra các vấn đề về mắt

Mỏi mắt

Những ai đọc sách trong nhiều giờ, làm việc trên máy tính hoặc lái xe đường dài đều biết về triệu chứng này. Mỏi mắt xảy ra khi bạn sử dụng mắt quá mức. Chúng sẽ cảm thấy mệt mỏi và cần được nghỉ ngơi, giống như bất kỳ bộ phận nào khác của cơ thể.

Nếu mắt bạn cảm thấy mỏi, hãy để chúng nghỉ ngơi một thời gian. Nếu sau vài ngày mắt vẫn mệt mỏi, hãy đến bác sĩ để kiểm tra xem có vấn đề gì khác hay không.

Đỏ mắt

Mắt bạn trông đỏ và mệt mỏi. Vì sao? Bề mặt của chúng được bao phủ bởi các mạch máu, những mạch máu này sẽ giãn ra khi chúng bị kích ứng hoặc nhiễm trùng, khiến mắt trông đỏ.

Mỏi mắt
Mỏi mắt

Mỏi mắt có thể là nguyên nhân, nhưng việc thức khuya, thiếu ngủ hoặc dị ứng cũng có thể gây ra đỏ mắt. Nếu bị chấn thương, hãy đi kiểm tra bác sĩ ngay.

Đỏ mắt cũng có thể là triệu chứng của một tình trạng mắt khác, như viêm kết mạc (mắt đỏ) hoặc tổn thương do ánh nắng mặt trời nếu bạn không đeo kính trong nhiều năm. Nếu thuốc nhỏ mắt không kê đơn và nghỉ ngơi không cải thiện tình trạng này, hãy gặp bác sĩ.

Quáng gà

Bạn có khó nhìn vào ban đêm, đặc biệt khi lái xe? Bạn có gặp khó khăn khi di chuyển trong những nơi tối tăm như rạp chiếu phim?

Đây có thể là dấu hiệu của bệnh quáng gà. Nó không phải là một vấn đề tự thân, mà là một triệu chứng của các vấn đề khác. Cận thị, đục thủy tinh thể, giác mạc hình nón và thiếu vitamin A đều có thể gây ra quáng gà và các bác sĩ có thể khắc phục được.

Một số người sinh ra đã mắc bệnh này hoặc nó có thể phát triển do các bệnh thoái hóa liên quan đến võng mạc, và thường không thể điều trị. Nếu bạn mắc phải, hãy cẩn thận hơn khi ở trong những khu vực thiếu ánh sáng.

Mắt lười

Mắt lười, hay còn gọi là nhược thị, xảy ra khi một mắt không phát triển đúng cách. Thị lực ở mắt đó yếu hơn và nó thường di chuyển “lười biếng” trong khi mắt kia vẫn cố định. Bệnh này xuất hiện ở trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và người lớn, và hiếm khi ảnh hưởng đến cả hai mắt. Việc điều trị cần được thực hiện ngay cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.

Các vấn đề về thị lực suốt đời có thể được ngăn ngừa nếu mắt lười được phát hiện và điều trị sớm trong thời thơ ấu. Phương pháp điều trị bao gồm sử dụng kính mắt hoặc kính áp tròng điều chỉnh, đeo miếng che mắt hoặc các chiến lược khác để kích thích trẻ sử dụng mắt lười.

Mắt lé (Lé mắt) và rung giật nhãn cầu

Nếu mắt bạn không thẳng hàng với nhau khi nhìn vào một vật nào đó, bạn có thể bị mắt lé. Bạn cũng có thể nghe gọi là lé mắt hoặc mắt lác.

Tình trạng này không tự biến mất. Đôi khi bạn có thể tham gia liệu pháp thị giác với bác sĩ để giúp tăng cường cơ mắt yếu. Thông thường, bạn có thể cần đến một bác sĩ nhãn khoa, hoặc bác sĩ phẫu thuật mắt, để chỉnh sửa bằng phẫu thuật.

Với rung giật nhãn cầu, mắt sẽ di chuyển hoặc “giật” liên tục.

Có nhiều phương pháp điều trị, bao gồm liệu pháp thị giác để làm mạnh cơ mắt. Phẫu thuật cũng là một lựa chọn. Bác sĩ sẽ kiểm tra mắt bạn để xem phương pháp nào phù hợp nhất.

Mù màu

Khi bạn không thể nhìn thấy một số màu nhất định hoặc không phân biệt được chúng (thường là màu đỏ và xanh lá cây), bạn có thể bị mù màu. Tình trạng này xảy ra khi các tế bào nhận diện màu trong mắt bạn (bác sĩ sẽ gọi là tế bào nón) không hoạt động hoặc không có.

Khi bị mù màu nghiêm trọng, bạn chỉ có thể nhìn thấy các sắc xám, nhưng điều này rất hiếm. Hầu hết những người mắc bệnh này đều bẩm sinh, nhưng nó cũng có thể phát triển sau này do thuốc hoặc bệnh lý. Bác sĩ của bạn có thể xác định nguyên nhân gây ra.

Nam giới có nhiều khả năng bị mù màu bẩm sinh hơn phụ nữ.

Bác sĩ nhãn khoa có thể chẩn đoán bệnh này qua một bài kiểm tra đơn giản. Không có phương pháp điều trị nếu bạn sinh ra đã mắc phải, nhưng kính áp tròng và kính mắt đặc biệt có thể giúp một số người phân biệt màu sắc.

Viêm màng bồ đào

Đây là tên gọi của một nhóm bệnh gây viêm màng bồ đào. Màng bồ đào là lớp giữa của mắt chứa phần lớn các mạch máu.

Những bệnh này có thể phá hủy mô mắt và thậm chí gây mất mắt. Người ở mọi lứa tuổi đều có thể mắc phải. Các triệu chứng có thể biến mất nhanh chóng hoặc kéo dài trong thời gian dài.

Người mắc bệnh liên quan đến hệ miễn dịch như AIDS, viêm khớp dạng thấp hoặc viêm loét đại tràng có thể có nguy cơ cao mắc viêm màng bồ đào. Các triệu chứng có thể bao gồm:

  • Thị lực mờ
  • Đau mắt
  • Đỏ mắt
  • Nhạy cảm với ánh sáng

Hãy gặp bác sĩ nếu bạn có những triệu chứng này và chúng không biến mất sau vài ngày. Có nhiều loại điều trị khác nhau cho viêm màng bồ đào, tùy thuộc vào loại bệnh bạn mắc phải.

Lão thị

Lão thị xảy ra khi bạn mất khả năng nhìn rõ các vật gần và chữ nhỏ, mặc dù thị lực từ xa vẫn tốt.

Sau tuổi 40 hoặc hơn, bạn có thể phải giữ sách hoặc các tài liệu đọc khác xa khỏi mắt hơn để dễ nhìn hơn. Giống như tay bạn quá ngắn vậy.

Kính đọc sách, kính áp tròng và các thủ thuật khác có thể được sử dụng để phục hồi khả năng đọc tốt.

Ruồi bay

Ruồi bay là những đốm nhỏ hoặc vệt di chuyển ngang qua tầm nhìn của bạn. Hầu hết mọi người nhận thấy chúng trong những căn phòng sáng hoặc ngoài trời vào những ngày nắng.

Ruồi bay thường là hiện tượng bình thường, nhưng đôi khi chúng có thể là dấu hiệu của một vấn đề mắt nghiêm trọng hơn, như bong võng mạc. Đó là khi võng mạc phía sau mắt tách ra khỏi lớp bên dưới. Khi điều này xảy ra, bạn có thể thấy ánh sáng nhấp nháy cùng với ruồi bay hoặc bóng tối xuất hiện ở rìa tầm nhìn của bạn.

Nếu bạn nhận thấy sự thay đổi đột ngột về loại hoặc số lượng ruồi bay, hoặc có bóng tối mới trong tầm nhìn ngoại vi, hãy đến gặp bác sĩ mắt ngay lập tức.

Khô mắt

Khô mắt xảy ra khi mắt bạn không tạo đủ nước mắt chất lượng. Bạn có thể cảm thấy như có thứ gì đó trong mắt hoặc như mắt đang cháy rát. Hiếm khi, trong những trường hợp nặng, tình trạng khô nghiêm trọng có thể gây mất thị lực. Một số phương pháp điều trị bao gồm:

  • Sử dụng máy tạo độ ẩm trong nhà
  • Thuốc nhỏ mắt đặc biệt giống như nước mắt thật
  • Đặt nút chặn vào ống dẫn nước mắt để giảm thoát nước mắt
  • Phương pháp Lipiflow, sử dụng nhiệt và áp lực để điều trị khô mắt
  • Kem bôi mí mắt chứa testosterone
  • Bổ sung dinh dưỡng với dầu cá và omega-3

Nếu vấn đề khô mắt của bạn trở thành mãn tính, bạn có thể mắc bệnh khô mắt. Bác sĩ có thể kê đơn thuốc nhỏ mắt có chứa cyclosporine (Cequa, Restasis), lifitegrast (Xiidra) hoặc thuốc xịt mũi Tyrvaya để kích thích sản xuất nước mắt.

Chảy Nước Mắt Quá Nhiều

Điều này không liên quan gì đến cảm xúc của bạn. Bạn có thể nhạy cảm với ánh sáng, gió, hoặc thay đổi nhiệt độ. Hãy cố gắng bảo vệ mắt bằng cách che chắn hoặc đeo kính râm (chọn kính có gọng che xung quanh — chúng sẽ chặn gió nhiều hơn so với các loại kính khác).

Chảy nước mắt quá mức cũng có thể là dấu hiệu của một vấn đề nghiêm trọng hơn, như nhiễm trùng mắt hoặc tắc ống lệ. Bác sĩ nhãn khoa có thể điều trị hoặc khắc phục cả hai tình trạng này.

Đục Thủy Tinh Thể

Đục thủy tinh thể là những vùng mờ phát triển trong thấu kính của mắt.

Một thấu kính khỏe mạnh giống như một chiếc máy ảnh, trong suốt và cho ánh sáng đi qua đến võng mạc — phần sau của mắt nơi hình ảnh được xử lý. Khi bạn bị đục thủy tinh thể, ánh sáng khó đi qua, dẫn đến việc bạn không thể nhìn rõ và có thể nhận thấy ánh sáng chói hoặc quầng sáng xung quanh đèn vào ban đêm.

Đục thủy tinh thể thường phát triển chậm và không gây ra các triệu chứng như đau, đỏ mắt hoặc chảy nước mắt. Một số đục thủy tinh thể nhỏ không ảnh hưởng đến thị lực. Tuy nhiên, nếu chúng tiến triển và ảnh hưởng đến tầm nhìn, phẫu thuật gần như luôn thành công trong việc phục hồi thị lực.

Tăng Nhãn Áp (Glôcôm)

Mắt của bạn giống như một chiếc lốp xe: một mức áp suất bên trong nhất định là bình thường và an toàn. Tuy nhiên, nếu áp suất quá cao, nó có thể gây hại cho dây thần kinh thị giác. Tăng nhãn áp là tên gọi của một nhóm bệnh gây ra tình trạng này.

Một dạng phổ biến là tăng nhãn áp góc mở nguyên phát. Hầu hết những người mắc dạng này không có triệu chứng ban đầu hoặc cảm giác đau đớn, vì vậy việc kiểm tra mắt định kỳ rất quan trọng.

Tăng nhãn áp cũng có thể do các nguyên nhân sau:

  • Chấn thương mắt
  • Tắc nghẽn mạch máu
  • Các rối loạn viêm nhiễm của mắt

Điều trị bao gồm thuốc nhỏ mắt kê đơn hoặc phẫu thuật.

Các Rối Loạn Võng Mạc

Võng mạc là một lớp mỏng nằm ở phía sau mắt, chứa các tế bào thu nhận hình ảnh và truyền tải chúng đến não. Các rối loạn võng mạc có thể gây hại cho các tế bào võng mạc và cản trở quá trình này. Có nhiều loại rối loạn khác nhau:

  • Thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (AMD): Liên quan đến sự thoái hóa của một phần nhỏ võng mạc gọi là điểm vàng.
  • Bệnh võng mạc do tiểu đường: Tổn thương mạch máu trong võng mạc do bệnh tiểu đường gây ra.
  • Bong võng mạc: Khi võng mạc tách ra khỏi lớp bên dưới.

Việc chẩn đoán sớm và điều trị các tình trạng này là rất quan trọng.

Viêm Kết Mạc (Đau Mắt Đỏ)

Trong tình trạng này, mô lót phía sau mí mắt và bao phủ lòng trắng của mắt bị viêm. Điều này có thể gây đỏ mắt, ngứa, nóng rát, chảy nước mắt, dịch tiết hoặc cảm giác như có vật lạ trong mắt.

Nguyên nhân có thể do nhiễm trùng, tiếp xúc với hóa chất và chất kích thích, hoặc dị ứng. Hãy rửa tay thường xuyên để giảm nguy cơ mắc bệnh.

Các Bệnh Về Giác Mạc

Giác mạc là “cửa sổ” trong suốt, hình vòm nằm ở phía trước mắt. Nó giúp tập trung ánh sáng đi vào. Bệnh tật, nhiễm trùng, chấn thương và tiếp xúc với chất độc có thể gây hại cho giác mạc. Các triệu chứng bao gồm:

  • Đỏ mắt
  • Chảy nước mắt
  • Đau
  • Giảm thị lực hoặc hiện tượng quầng sáng

Các phương pháp điều trị chính bao gồm:

  • Kính mắt hoặc kính áp tròng mới
  • Thuốc nhỏ mắt
  • Phẫu thuật

Vấn Đề Về Mí Mắt

Mí mắt của bạn bảo vệ mắt, giúp trải đều nước mắt trên bề mặt mắt và hạn chế lượng ánh sáng đi vào. Đau, ngứa, chảy nước mắt và nhạy cảm với ánh sáng là các triệu chứng phổ biến của các vấn đề về mí mắt. Bạn cũng có thể gặp các cơn co thắt mí mắt hoặc viêm các cạnh ngoài gần lông mi.

Điều trị có thể bao gồm vệ sinh đúng cách, dùng thuốc hoặc phẫu thuật.

Thay Đổi Thị Lực

Khi bạn già đi, có thể bạn nhận thấy rằng tầm nhìn không còn rõ như trước. Đây là điều bình thường. Bạn có thể cần đeo kính mắt hoặc kính áp tròng. Bạn cũng có thể chọn phẫu thuật (LASIK) để cải thiện thị lực. Nếu bạn đã đeo kính, có thể bạn sẽ cần một đơn kính mạnh hơn.

Ngoài ra, khi bạn lớn tuổi, các bệnh mắt nghiêm trọng hơn như thoái hóa điểm vàng, tăng nhãn áp và đục thủy tinh thể có thể gây ra các vấn đề về thị lực. Các triệu chứng khác nhau rất nhiều giữa các rối loạn này, vì vậy hãy duy trì kiểm tra mắt thường xuyên.

Một số thay đổi về thị lực có thể nguy hiểm và cần được chăm sóc y tế ngay lập tức. Bất cứ khi nào bạn mất thị lực đột ngột hoặc mọi thứ trở nên mờ nhạt — dù chỉ là tạm thời — hãy gặp bác sĩ ngay. Nếu không thể, hãy đến phòng cấp cứu hoặc gọi 911.

Vấn Đề Với Kính Áp Tròng

Kính áp tròng hoạt động tốt cho nhiều người, nhưng bạn cần chăm sóc chúng cẩn thận. Hãy rửa tay trước khi chạm vào kính và tuân theo các hướng dẫn chăm sóc đi kèm với đơn kính của bạn. Đồng thời tuân thủ các quy tắc sau:

  • Đừng bao giờ làm ướt kính áp tròng bằng nước miếng. Điều này có thể tăng nguy cơ nhiễm trùng.
  • Hãy chắc chắn rằng kính vừa với mắt của bạn để tránh gây trầy xước mắt.
  • Sử dụng thuốc nhỏ mắt an toàn cho kính áp tròng.
  • Không bao giờ sử dụng dung dịch muối tự chế.

Ngay cả khi bạn tuân thủ mọi hướng dẫn mà vẫn gặp vấn đề với kính áp tròng, hãy đến gặp bác sĩ nhãn khoa. Bạn có thể bị dị ứng, khô mắt hoặc có thể kính không phù hợp với bạn. Một khi đã xác định được vấn đề, bạn có thể quyết định giải pháp tốt nhất cho mình.

Cà dại hoa tím-Cà dại hoa trắng

Cà dại hoa tím

Thường dùng trị sưng amydal, viêm hầu họng, lâm ba kết hạch, đau dạ dày, đau răng, đòn ngã tổn thương. Còn dùng trị hen suyễn, ho, bệnh xuất tiết, sinh đẻ khó, sốt, bệnh giun, đau bụng, đái khó. Dịch lá lẫn với dịch gừng được dùng nóng làm ngưng nôn mửa. Lá và quả dùng chữa ghẻ ngứa.

Cà dại hoa tím
Cà dại hoa tím

Cà dại hoa tím – Solanum indicum L. (S. violaceum Ortega), thuộc họ cà – Solanaceae.

Mô tả: Cây nhỏ mọc đứng, cao 0,6-1m; thân và cành có lông tơ và lông hình sao và đều có gai uốn cong màu nâu nhạt. Lá mọc so le, chia thuỳ nông, mặt trên xanh sẫm, mặt dưới có lông như len màu trắng; hai mặt lá có gai rải rác ở gân. Hoa mọc thành chùm ở nách lá; tràng hoa lớn màu lam hay tím. Quả mọng, nhỏ, hình cầu đường kính 1cm, màu vàng hay hơi đỏ, nhẵn. Hạt vàng, dẹt hình dĩa. đau.Ra hoa vào mùa hạ, đầu mùa thu .

Bộ phận dùng: Rễ và toàn cây – Radix et Herba Solani Indici.

Nơi sống và thu hái: Cây ưa sáng, mọc dại ở các bãi hoang, ở bờ đường quanh làng, ở các vườn phổ biến khắp nước ta. Có thể thu hái rễ và lá quanh năm.

Thành phần hóa học: Rễ và lá chứa alcaloid solanin, solanidin.

Tính vị, tác dụng: Vị hơi đắng, tính mát, có ít độc; có tác dụng tán ứ tiêu thũng, tiêu viêm giảm

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng trị sưng amydal, viêm hầu họng, lâm ba kết hạch, đau dạ dày, đau răng, đòn ngã tổn thương. Còn dùng trị hen suyễn, ho, bệnh xuất tiết, sinh đẻ khó, sốt, bệnh giun, đau bụng, đái khó. Dịch lá lẫn với dịch gừng được dùng nóng làm ngưng nôn mửa. Lá và quả dùng chữa ghẻ ngứa.

Đơn thuốc:

  1. Tẩy, chống nôn, dùng rễ Cà dại hoa tím 6-12g, sắc uống.
  2. Đau răng; dùng 6-12g sắc đặc, ngậm.

Cà dại hoa trắng

Cà dại hoa trắng – Solanum torvum Swartz, thuộc họ Cà – Solanaceae.

Mô tả: Cây nhỏ, mọc đứng, cao 2-3m, mang cành có gai. Lá mọc so le, có cuống hình trứng rộng, thường có thuỳ nông (ít khi nguyên), dài 18-25cm và rộng tới 18cm; cuống lá có gai, dài 3-10cm; phiến lá có lông mềm hình sao, gân giữa có gai. Cụm hoa xim ở kẽ lá. Hoa có cuống mang đài hoa 5 thuỳ có tuyến, có gai dài 3-5mm; tràng 5 thuỳ trắng, hình bánh xe; 5 nhị dài 5-6mm. Quả mọng hình cầu, khi chín màu vàng đường kính 10-15mm. Mùa hoa quả tháng 4 đến tháng 7.

Bộ phận dùng: Rễ – Radix Solani Torvi. Lá, hoa và quả cũng được dùng.

Nơi sống và thu hái: Loài liên nhiệt đới, mọc hoang ở vùng núi. Thu hái rễ quanh năm. Rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô trong râm.

Tính vị, tác dụng: Vị cay, hơi mát, có ít độc; có tác dụng hoạt huyết, tán ứ, tiêu thũng, giảm đau, trừ ho.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường được dùng trị:

  1. Đau cả vùng thắt lưng, đòn ngã tổn thương;
  2. Đau dạ dày, đau răng;
  3. Bế kinh;
  4. Ho mãn tính.

Dùng 10-15g rễ, dạng thuốc sắc. Dùng ngoài trị đinh nhọt và viêm mủ da: giã lá tươi và đắp vào chỗ đau. Người bị bệnh tăng nhãn áp không dùng.

Đơn thuốc:

  1. Chứng khó đái: Nước hãm lá tươi Cà dại hoa trắng, phối hợp với cành lá của cây Đơn buốt.
  2. Đau bụng của trẻ em: Hãm hoa lấy nước cho uống.
  3. Ong (vò vẽ) đốt, nứt nẻ ở bàn chân, kẽ chân: Quả giã nát với Lá lốt, lấy nước bôi.
  4. Đau răng: Rễ Cà dại hoa trắng sắc đặc với rễ Chanh, vỏ cây Lai, vỏ cây Trẩu, mỗi vị 10g, lấy nước ngậm rồi nhổ nước.

Eloxatin 50 mg / Eloxatin 100 mg

Thuốc eloxatin
Thuốc eloxatin

ELOXATIN 50 mg / ELOXATIN 100 mg

SANOFI SYNTHELABO VIETNAM

Bột pha tiêm 50 mg: hộp 1 lọ. Bột pha tiêm 100 mg: hộp 1 lọ.

THÀNH PHẦN

cho 1 lọ
Oxaliplatin 50 mg
Lactose monohydrat 450 mg
cho 1 lọ
Oxaliplatin 100 mg
Lactose monohydrat 900 mg

DƯỢC LỰC

Tác nhân ngưng bào (L: thuốc chống ung thư-thuốc ức chế miễn dịch-platinium). Oxaliplatin là một thuốc chống tân sinh thuộc nhóm các hợp chất platinium mới, trong đó platinium nguyên tử tạo phức hợp với 1,2-diaminocyclohexane (“DACH”) và nhóm oxalate. Oxaliplatin có phổ tác dụng rộng trong in vitro gây ra độc tế bào và in vivo có hoạt tính kháng u trên nhiều loại u bao gồm u đại-trực tràng. Có hiện tượng cộng lực về hoạt tính độc tế bào giữa oxaliplatin với 5- fluorouracil trong cả in vitro và in vivo. Oxaliplatin cũng cho thấy hoạt tính trong in vitro và in vivo của nó trên các loại ung thư đề kháng với cisplatin. Các nghiên cứu về cớ chế hoạt động của oxaliplatin – mặc dù chưa hoàn toàn sáng tỏ – cho thấy các dẫn xuất mạnh là kết quả của chuyển hóa sinh học của oxaliplatin đã tương tác với DNA tạo ra cả hai loại kết dính giữa và trong các sợi chéo nhau gây ra hiện tượng phá vỡ sự tổng hợp của DNA dẫn đến kết quả kháng u và độc tế bào. Kinh nghiệm lâm sàng trên những bệnh nhân bị ung thư đại-trực tràng chưa điều trị gì trước đó cho thấy điều trị bằng oxaliplatin (85 mg/m2 lập lại mỗi 2 tuần) kết hợp với 5-fluorouracil/folinic acid, so với khi dùng 5-fluorouracil/folinic acid đơn độc mang lại hiệu quả đáp ứng cao gấp đôi (49% so với 22%) và k o dài được thời gian sống sót mà bệnh không tiến triển (8,2 so với 6 tháng). Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm trên bất kỳ các thông số nào về chất lượng cuộc sống. Trên những bệnh nhân bị ung thư đại-trực tràng chưa điều trị gì trước đó, oxaliplatin với liều 130 mg/m2 mỗi 3 tuần và kết hợp với 5-fluorouracil/folinic acid cũng được đánh giá so với dùng 5-fluorouracil/folinic acid một mình. Kết quả về hiệu quả là tương đương khi dùng oxaliplatin 85 mg/m2 mỗi 2 tuần. Oxaliplatin kết hợp với 5- fluorouracil/folinic có tỷ lệ đáp ứng tốt hơn gấp hai lần (34% vs 12%) và k o dài hơn thời gian sống không có triệu chứng bệnh của bệnh nhân (8,3 vs 4,2 tháng). Tuy nhiên mức độ an toàn có khác nhau giữa các chế độ điều trị.

Huyết học :

Oxaliplatin kết hợp với 5- fluorouracil 85mg/m2 mỗi 2 tuần 130mg/m2 mỗi 3 tuần (EFC2961)
Mọi mức độ Độ 3 Độ 4 Mọi mức độ Độ 3 Độ 4
Thiếu máu (%) 83 4 <1 38 1 0
Giảm bạch cầu (%) 66 25 13 32 2 0
Giảm tiểu cầu (%) 76 3 <1 22 1 0

Hệ tiêu hóa :

Oxaliplatin kết hợp với 5- fluorouracil 85mg/m2 mỗi 2 tuần 130mg/m2 mỗi 3 tuần (EFC2961)
Mọi mức độ Độ 3 Độ 4 Mọi mức độ Độ 3 Độ 4
Nôn/buồn nôn (%) 83 4 <1 38 1 0
Tiêu chảy (%) 66 25 13 32 2 0
Viêm niêm mạc (%) 76 3 <1 22 1 0

Tỷ lệ cao của các tác dụng phụ dạ dày ruột gặp trên những bệnh nhân dùng chế độ 3 tuần. Tiêu chảy sẽ giảm dần trong các chu kỳ kế tiếp.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Dược động học của platinium siêu lọc, biểu thị hỗn hợp của tất cả THÀNH PHẦN không gắn kết với protein, gồm các loại platinium hoạt động hay không hoạt động, hai giờ sau khi tiêm truyền oxaliplatin với liều 130 mg/m2 mỗi 3 tuần từ 1 đến 5 chu kỳ được nêu trong bảng dưới đây :

Huyết tương siêu lọc Cmax (mg/ml) Tmax (h) AUC0-48mg/ml.h AUC0-inf mg/ml.h T1/2 a(h) T1/2 b(h) T1/2 xy(h) Vss (l) Cl (l/h)
Trung bình 1,21 2 8,20 11,9 0,28 16,3 273 582 10,1
SD 0,10 2,40 4,60 0,06 2,90 19,0 261 3,07

Giá trị trung bình AUC0-48, Cmax được tính vào chu kỳ 5 Giá trị trung bình AUC0-inf, Vss, Cl được tính vào chu kỳ 1

T1/2 là giá trị trung bình của tất cả các chu kỳ được tính bằng cách dùng phân tích chia ngăn Vào cuối giờ thứ 2 của tiêm truyền, 15% platinium đã dùng xuất hiện trong tuần hoàn, còn lại 85% nhanh chóng được phân bố vào các mô hay được thải trừ trong nước tiểu. Do gắn kết không hồi phục với hồng cầu và protein huyết tương nên thời gian bán hủy của thuốc gắn liền với vòng chu chuyển tự nhiên của hồng cầu và albumin huyết tương. Không có hiện tượng tích tụ thuốc sau khi dùng liều 85 mg/m2 mỗi 2 tuần hay 130 mg/m2 mỗi 3 tuần và trạng thái ổn định đạt được từ chu kỳ thứ nhất. Sự khác biệt trong và giữa các cá thể nhìn chung là thấp. Sinh chuyển hóa in vitro là kết quả của thoái biến không qua men và không có bằng chứng về sự tham gia của cytochrome P450 đối với sự chuyển hóa vòng diaminocyclohexane (DAHC).

Oxaliplatin trải qua sự chuyển hóa ở hầu hết bệnh nhân và vào cuối giờ thứ 2 không còn thấy thuốc chưa được chuyển hóa trong huyết thanh siêu lọc. Sau đó, một số chất sinh chuyển hóa gây độc tế bào là monochloro, dichloro và diaquo DAHC platinium được phân lập trong tuần hoàn cùng với một số chất kết hợp bất hoạt. Platinium được bài tiết chủ yếu qua nước tiểu, sự thanh thải chủ yếu là trong vòng 48 giờ sau khi dùng thuốc. Đến ngày thứ 5, gần 54% của tổng liều được tìm thấy trong nước tiểu và < 3% trong phân. Có hiện tượng giảm có ý nghĩa độ thanh thải từ 17,6+/-2,18l/h xuống 9,95+/-1,91 l/h trong trường hợp suy thận cùng với hiện tượng giảm có ý nghĩa thể tích phân phối từ 330+/-40,9 xuống 241+/-36,11. Ảnh hưởng của suy thận nặng lên độ thanh thải platinium chưa được xác định

CHỈ ĐỊNH

Oxaliplatin được khuyên dùng như liệu pháp hàng đầu để điều trị ung thư đại-trực tràng có di căn bằng cách kết hợp với 5-fluorouracil và folinic acid.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

  • Chống chỉ định dùng trên bệnh nhân quá mẫn với oxaliplatin.
  • Đang cho con bú.
  • Suy tủy: bạch cầu đa nhân trung tính dưới 2×109/l và/hay tiều cầu < 100×109/l.
  • Bệnh thần kinh ngoại biên có rối loạn chức năng trước khi dùng liệu trình đầu tiên.
  • Suy thận nặng: độ thanh thải của creatinine < 30 ml/phút.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

  • Oxaliplatin chỉ được dùng trong các chuyên khoa ung thư học và nên được tiêm truyền dưới sự theo dõi của các bác sĩ chuyên khoa ung thư.
  • Oxaliplatin không thấy gây ra độc tính trên thận. Tuy nhiên do những giới hạn thông tin về mức độ an toàn trên bệnh nhân bị suy thận vừa, việc dùng thuốc chỉ nên được xem x t đến sau khi đã cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ mang lại cho bệnh nhân.
  • Bệnh nhân có tiền sử dị ứng với các THÀNH PHẦN platinium nên được theo dõi các triệu chứng dị ứng. Trong trường hợp có những phản ứng giống dị ứng với oxaliplatin, phải ngưng dùng thuốc ngay tức thì và triển khai các điều trị triệu chứng thích hợp.
  • Oxaliplatin ít gây ra giộp da nhưng nếu thuốc bị tràn ra ngoài mạch máu phải ngưng tiêm truyền ngay tức thì.
  • Độc tính thần kinh của oxaliplatin nên được theo dõi kỹ, đặc biệt khi dùng kết hợp với các thuốc khác cũng có độc tính thần Khám thần kinh nên được thực hiện trước và sau mỗi đợt sử dụng. Những bệnh nhân bị loạn cảm giác vùng hầu họng (xem mục “Tác dụng không mong muốn”) trong lúc hay trong vòng 2 giờ sau tiêm truyền thì lần tiêm truyền kế tiếp nên được cho trên 6 giờ. Nếu các triệu chứng thần kinh (loạn cảm, dị cảm) xảy ra, liều điều chỉnh của oxaliplatin sẽ dùng sau đó nên tuỳ thuộc vào mức độ k o dài và độ nặng của các triệu chứng này :
  • nếu triệu chứng cuối cùng kéo dài trên 7 ngày và gây khó chịu giảm liều từ 85 mg/m2xuống còn 65 mg/m2.
  • nếu dị cảm không gây rối loạn chức năng k o dài đến chu kỳ tiếp theo, liều oxaliplatin giảm từ 85 mg/m2xuống 65 mg/m2.
  • nếu dị cảm kèm rối loạn chức năng tồn tại đến chu kỳ tiếp theo phải ngưng điều trị.
  • nếu các triệu chứng cải thiện sau khi ngưng thuốc thì nên xem xét dùng trở lại.
  • Dự phòng độc tính dạ dày ruột biểu hiện bằng nôn và buồn nôn bằng liệu pháp chống nôn.
  • Khi độc tính huyết học xảy ra (bạch cầu đa nhân < 1,5×109/l hay tiểu cầu < 50×109/l), nên trì hoãn đợt điều trị mới cho đến khi các dấu hiệu huyết học trở về các giá trị chấp nhận được. Nên làm công thức máu kể cả công thức bạch cầu trước mỗi lần điều trị.
  • Khi oxaliplatin dùng kết hợp với 5-fluorouracil (có hay không có acid folic), điều chỉnh liều thông thường của 5-fluorouracil nên kết hợp với mức độc tính. Nếu độc tính là độ 4 tiêu chảy của WHO, độ 3-4 giảm bạch cầu (bạch cầu < 1,0 x109/l), độ 3-4 giảm tiểu cầu (tiểu cầu < 50×109) liều của oxaliplatin phải giảm đi 25% cùng với giảm liều của 5-fluorouracil.

Lái xe và điều khiển máy móc :

Không có dữ kiện.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Cho đến nay vẫn chưa có thông tin gì về độ an toàn của thuốc trên phụ nữ mang thai. Dựa trên các nghiên cứu tiền lâm sàng, dường như oxaliplatin có thể gây tử vong và/hay quái thai trên bào thai người với liều điều trị, do vậy không nên dùng thuốc trong thời kỳ mang thai hoặc nếu phải sử dụng thì phải cân nhắc giữa lợi ích mang lại và nguy cơ trên bào thai và phải có sự chấp thuận của bệnh nhân.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Trên những bệnh nhân dùng đơn liều 85 mg/m2 oxaliplatin ngay trước khi dùng 5-fluorouracil, không làm thay đổi mức độ nguy cơ của 5-fluorouracil. In vitro, không có hiện tượng cạnh tranh gắn kết với protein huyết tương với các chất sau: erythromycin, salicylat, granisetron, paclitaxel và sodium valproat.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Các tác dụng không mong muốn của oxaliplatin được báo cáo qua các nghiên cứu lâm sàng trong điều trị ung thư đại-trực tràng di căn được phân tích trên 244 bệnh nhân được điều trị đơn liệu pháp và gần 1500 bệnh nhân được điều trị phối hợp với 5-fluorouracil.

Huyết học: oxaliplatin khi dùng đơn liệu pháp (130mg/m2 mỗi 3 tuần) gây ra ít độc tính huyết học độ 3-4

Oxaliplatin đơn liệu pháp Mọi mức độ Độ 3 Độ 4
Thiếu máu (% bệnh nhân) 64 3 < 1
Giảm bạch cầu (% bệnh nhân) 15 2 < 1
Giảm tiểu cầu (% bệnh nhân) 41 2 < 1

Tỷ lệ giảm bạch cầu và tiểu cầu sẽ nặng hơn khi kết hợp cùng lúc với 5-fluorouracil và folic acid hơn là khi kết hợp riêng rẽ với từng loại thuốc trên.

Oxaliplatin kết hợp với 5-fluorouracil 85 mg/m2mỗi 2 tuần
Mọi mức độ Độ 3 Độ 4
Thiếu máu (% bệnh nhân) 83 4 < 1
Giảm bạch cầu (% bệnh nhân) 66 25 13
Giảm tiểu cầu (% bệnh nhân) 76 3 < 1

Hệ tiêu hóa: Khi dùng đơn liệu pháp, oxaliplatin (130 mg/m2 mỗi 3 tuần) buồn nôn, nôn và tiêu chảy. Trong phần lớn trường hợp các triệu chứng này không nặng.

Oxaliplatin đơn liệu pháp Mọi mức độ Độ 3 Độ 4
Nôn, buồn nôn (% bệnh nhân) 69 12 2
Tiêu chảy (% bệnh nhân) 41 4 < 1
Viêm niêm mạc (% bệnh nhân) 4 < 1 < 1
Bất thường chức năng gan (% bệnh nhân) 46 10 2

Dự phòng và/hay điều trị các triệu chứng này bằng các liệu pháp chống nôn. Khi dùng oxaliplatin kết hợp với 5-fluorouracil (có kèm hay không folinic acid), tần xuất và mức độ nặng của tiêu chảy và viêm niêm mạc gia tăng có ý nghĩa so với khi dùng 5-fluorouracil một mình.

Oxaliplatin kết hợp với 5-fluorouracil 85 mg/m2mỗi 2 tuần
Mọi mức độ Độ 3 Độ 4
Nôn/buồn nôn (% bệnh nhân) 71 11 1
Tiêu chảy (% bệnh nhân) 58 7 3
Viêm niêm mạc 42 7 1

Mức độ tăng ở độ 1-2 của men gan thường thấy trong lúc điều trị với oxaliplatin. Trong các nghiên cứu so sánh ngẩu nhiên kết hợp giữa 5-fluorouracil và folinic acid với sự kết hợp với 5- fluorouracid, folinic acid và oxaliplatin, tỷ lệ gia tăng men gan ở mức độ 3-4 tương tự nhau ở hai nhóm

Hệ thần kinh trung ương: độc tính giới hạn theo liều của oxaliplatin là độc tính thần kinh. Độc tính này bao gồm các bệnh lý thần kinh cảm giác ngoại biên như loạn cảm và/hay dị cảm đầu chi có kèm hay không cảm giác vọp bẻ, thường khởi phát do lạnh. Các triệu chứng này xuất hiện trên 85% đến 95% bệnh nhân điều trị. Thời gian tồn tại của các triệu chứng này, thường là giảm đi giữa các lần điều trị, gia tăng theo số chu kỳ điều trị. Xuất hiện đau và/hay rối loạn chức năng- phụ thuộc vào thời gian của các triệu chứng -là chỉ định điều chỉnh liều hay thậm chí ngưng thuốc. Các rối loạn chức năng nêu trên bao gồm khó thực hiện các các cử động tinh tế và có thể là hậu quả của giảm cảm giác. Nguy cơ xuất hiện các rối loạn chức năng với liều cộng dồn 800 mg/m2 (nghĩa là 10 chu kỳ) là < 15%. Các dấu hiệu và triệu chứng thần kinh sẽ cải thiện khi ngưng điều trị trong phần lớn trường hợp. Một hội chứng cấp tính do rối loạn cảm giác vùng hầu họng đã được ghi nhận khi điều trị với oxaliplatin với tỉ lệ 1-2%. Hội chứng này nhìn chung thường xuất hiện trong vòng vài giờ khi khởi đầu điều trị nhất là khi bị lạnh. Hội chứng này biểu hiện bằng cảm giác chủ quan như rối loạn ngôn ngữ, khó thở mà không có bất kỳ bằng chứng khách quan nào về rối loạn hô hấp (thiếu ôxy, co thắt họng, co thắt phế quản). Co thắt hàm, bất thường cảm giác vùng lưỡi có thể xảy ra sau loạn vận ngôn và cảm giác nặng ngực cũng đã được quan sát thấy. Mặc dù các thuốc kháng histamin và thuốc giãn phế quản được sử dụng trong các trường hợp này, các dấu hiệu và triệu chứng trên nhanh chóng hồi phục ngay cả khi không điều trị. Kéo dài thời gian tiêm truyền ở chu kỳ sau sẽ làm giảm tỷ lệ của các hội chứng này. Các triệu chứng khác như mất phản xạ gân cơ và dấu hiệu Lhermittes’s cũng được quan sát thấy khi điều trị bằng oxaliplatin.

Phản ứng dị ứng: không thường gặp, đi từ nổi mẩn đến sốc dị ứng đã được mô tả với các dẫn xuất platinium. Trong các thử nghiệm lâm sàng, các phản ứng kiểu dị ứng xuất hiện trên 0.5% bệnh nhân điều trị với oxaliplatin.

Độc tính khác: độc tính tai < 1%. Các rối loạn chức năng thận: 3% bệnh nhân điều trị với < 1% bệnh nhân bất thường ở độ 3-4. Qua các nghiên cứu lâm sàng và sau marketing, không thấy rối loạn nhịp thất với oxaliplatin. Khi kết hợp với 5-fluorouracil, sốt ở mức độ vừa nhận thấy trên 36% bệnh nhân. Hơn nữa, có 23% bệnh nhân bị nhiễm trùng ở mức độ 1-2. Sốt do giảm bạch cầu xảy ra < 2% bệnh nhân. Rụng tóc mức độ vừa: 2% bệnh nhân dùng đơn liệu pháp không gia tăng khi kết hợp với 5-fluorouracil so với khi dùng 5-fluorouracil một mình. Giảm thị giác thoáng qua gặp < 0,1% bệnh nhân.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Thuốc chỉ dùng cho người lớn.

Liều dùng: Liều khuyến cáo của Eloxatine như là liệu pháp hàng đầu là 85 mg/m2 cơ thể đường tĩnh mạch mỗi 2 tuần. Liều dùng nên được điều chỉnh theo độ dung nạp. Phải luôn luôn dùng oxaliplatin trước fluoropyrimidines. Oxaliplatin tiêm truyền tĩnh mạch 2-6 giờ trong 250-500 ml dung dịch glucose 5%. Oxaliplatin chủ yếu được dùng kết hợp với 5-fluorouracil liều cơ bản. Cho một liệu trình điều trị mỗi 2 tuần, phác đồ kết hợp dùng 5-fluorouracil liều nạp và truyền tĩnh mạch liên tục nên được sử dụng.

Đối tượng đặc biệt :

Suy thận: oxaliplatin không được nghiên cứu trên bệnh nhân suy thận nặng (xem “Chống chỉ định”). Trên bệnh nhân suy thận vừa, nên khởi đầu điều trị với liều thông thường. Không cần điều chỉnh liều trên bệnh nhân suy thận nhẹ.

Suy gan: oxaliplatin chưa được nghiên cứu trên bệnh nhân suy gan nặng. Người ta không nhận thấy việc gia tăng độc tính do oxaliplatin trên những bệnh có rối loạn chức năng gan qua các x t nghiệm về chức năng gan. Không cần điều chỉnh liều trên bệnh nhân có bất thường chức năng gan qua xét nghiệm trong quá trình diễn tiến lâm sàng.

Người già: không thấy tăng độc tính nặng khi dùng oxaliplatin như là đơn liệu pháp hay khi kết hợp với 5-fluorouracil trên những bệnh nhân trên 65 tuổi. Như vậy là không cần điều chỉnh liều trên bệnh nhân già.

Cách dùng: Nên dùng oxaliplatin tiêm truyền tĩnh mạch. Không cần bù nước khi dùng oxaliplatin. Oxaliplatin pha trong 250-500 ml dung dịch glucose 5% tiêm truyền qua đường tĩnh mạch ngoại biên hay tĩnh mạch trung tâm trong 2-6 giờ. Luôn tiêm truyền oxaliplatin trước khi dùng 5-fluorouracil. Khi thuốc bị thoát ra ngoài mạch phải ngưng tiêm truyền ngay tức thì.

Oxaliplatin phải được pha loãng trong dung dịch dùng pha loãng trước khi sử dụng.

QUÁ LIỀU

Không có antidote của oxaliplatin. Trong trường hợp quá liều, các tác dụng phụ có thể trầm trọng hơn. Theo dõi các thông số huyết học và điều trị triệu chứng.

BẢO QUẢN

Dung dịch sau khi hòa trộn ổn định về mặt hóa lý trong 48 giờ ở 2-8oC và 30oC. Tuy nhiên về mặt vi sinh, sau khi hòa trộn nên được pha loãng vào dịch truyền để dùng ngay. Nếu chưa được sử dụng ngay thì dung dịch này phải được bảo quản ở 2-8oC không quá 24 giờ. Dung dịch thuốc sau khi đã pha vào chai dịch truyền nên được dùng ngay.

Quan sát kỹ lọ thuốc trước khi dùng. Chỉ khi thấy lọ thuốc trong suốt không có cặn thì mới sử dụng.

Sai khớp cắn loại I – nguyên nhân, triệu chứng, điều trị

I.   ĐỊNH NGHĨA

Là tình trạng sai khớp cắn mà ở tư thế cắn trung tâm, múi ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm trên khớp với rãnh ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm dưới, tương quan xương hai hàm bình thường, nhưng các răng phía trước lệch lạc ảnh hưởng tới thẩm mỹ và chức năng.

II.    NGUYÊN NHÂN

  • Các rối loạn trong quá trình phát triển

Thiếu răng bẩm

Bất thường hình thể răng.

Thừa răng.

Răng mọc lạc chỗ.

Răng ngầm

  • Di truyền

Biểu hiện là sự bất cân xứng giữa kích thước cung hàm và kích thước răng.

  • Chấn thương

Tổn thương mầm răng vĩnh viễn

Mất răng sữa dẫn đến thay đổi vị trí mọc của răng vĩnh viễn

Chấn thương ảnh hưởng trực tiếp lên răng vĩnh viễn

  • Các thói quen xấu

Mút ngón

Đẩy lưỡi

Thở miệng…

III.     CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

Lâm sàng

Ngoài mặt: Mặt cân đối, kiểu mặt thẳng hoặc lồi.  Môi có thể bình thường hoặc không khép kín.

Trong miệng

  • Tương quan răng hàm lớn thứ nhất là loại I theo Angle
  • Tương quan răng nanh loại I hoặc II
  • Có thể có biểu hiện các dạng lệch lạc răng:

+ Răng mọc chen chúc, răng mọc ngoài cung, hoặc xoay, hoặc kẹt.

+ Khe thưa giữa các răng với các mức độ khác nhau tùy trường hợp: Có thể do bất cân xứng kích thước răng và cung hàm, hoặc có răng thừa hoặc thiếu răng, hoặc có phanh môi bám thấp.

  • Có thể có khớp cắn sâu.
  • Độ cắn trùm tăng.
  • Có thể đường cong spee sâu.
  • Có thể có cắn hở.
  • Có thể có cắn chéo.
  • Có thể có vẩu răng hai hàm.
  • Có thể thiếu răng trên cung hàm hoặc còn răng sữa quá tuổi
  • Có thể có răng mọc lạc chỗ.

Cận lâm sàng

Mẫu hàm thạch cao

Tương quan răng hàm lớn thứ nhất loại I.

  • X quang
  • Trên phim sọ nghiêng (Cephalometrics)

+ Tương quan xương hai hàm loại I:

+  Số đo góc ANB: 0 < góc ANB< 2.

+ Chỉ số Wits bình thường.

– Trên phim toàn cảnh Panorama

Có thể thấy hình ảnh răng thừa, răng ngầm, lệch lạc răng, thiếu răng, Odontoma…

Chẩn đoán phân biệt

  • Lệch lạc răng do sai khớp cắn loại II: phân biệt dựa vào tương quan răng hàm lớn thứ nhất hai hàm trên lâm sàng, X
  • Lệch lạc răng do sai khớp cắn loại III: phân biệt dựa vào tương quan răng hàm lớn thứ nhất hai hàm trên lâm sàng, X

IV.     ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc

Tạo lập lại tương quan hai hàm lý tưởng với tương quan răng nanh loại

Cải thiện về thẩm mỹ.

Đảm bảo độ ổn định

Điều trị cụ thể

  • Nhổ các răng có chỉ định nhổ

Các răng thừa

Trường hợp thiếu khoảng do mất cân xứng kích thước răng và hàm.

Răng ngầm không có chỉ định nắn chỉ

  • Điều trị loại bỏ các nguyên nhân gây lệch lạc răng

Cắt bỏ phanh môi bám thấp

Cắt bỏ phanh lưỡi bám bất thường

Điều trị loại bỏ các thói quen xấu gây lệch lạc răng….

  • Điều trị lệch lạc răng và tạo lập tương quan hai hàm về mức tối ưu

Gắn mắc cài

Đi dây cung thích hợp

Sắp xếp và làm đều các răng theo chiều đứng và chiều ngang tùy từng trường hợp:

+ Trường hợp có răng chen chúc: Đóng khoảng sau khi nhổ răng và làm đều các răng.

+ Trường hợp có khe thưa: Đóng khe thưa hoặc tạo chỗ để làm phục hình răng nếu cần.

+ Trường hợp có cắn sâu: làm trồi các răng phía sau, lún các răng phía trước, làm phẳng đường cong Spee.

+ Trường hợp có cắn hở: Đóng khoảng hở liên hàm.

+ Trường hợp có cắn chéo: Giải phóng điểm cản trở gây dịch chuyển chức năng, hoặc nong rộng hàm.

+ Trường hợp vẩu hai hàm: Kéo lùi khối răng trước ra sau.

+ Trường hợp có răng ngầm: Loại bỏ yếu tố cản trở, bộc lộ răng ngầm, gắn khí cụ và đưa răng về vị trí mong muốn.

+ Trường hợp răng mọc lạc chỗ: Đưa răng về đúng vị trí hoặc đổi chỗ mà vẫn đảm bảo chức năng

+ Trường hợp thiếu răng: Đóng khoảng hoặc tạo khoảng để làm phục hình.

  • Hoàn thiện
  • Duy trì kết quả điều trị.

V.    TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG

  • Tiên lượng

Sai khớp cắn loại I gây ảnh hưởng tới thẩm mỹ và chức năng. Nếu không được điều trị sớm còn có thể gây sang chấn các răng, sâu răng, viêm quanh răng… dẫn tới mất răng sớm

Nếu điều trị đúng phác đồ nói trên thì tiên lượng tốt

  • Biến chứng

Sang chấn các răng.

Đau khớp thái dương hàm.

Rối loạn khớp thái dương hàm.

Mất răng sớm

VI.     PHÒNG BỆNH

  • Cần khám định kỳ, phát hiện và điều trị sớm
  • Chăm sóc răng miệng trẻ em để giữ được các răng sữa đến tuổi

Thuốc nam điều trị cảm mạo

ĐỊNH NGHĨA VÀ NGUYÊN NHÂN

Cảm phải khí lục dâm của thời tiết mà sinh bệnh gọi chung là cảm mạo. Cúm là một thể của cảm mạo nhưng khác ỏ chỗ cúm do thời khí trái thường (dịch lệ), bệnh lây lan nhiều người cùng bị vào một lúc. Cảm mạo không lây lan như cúm.

THỂ BỆNH

  1. Phong nhiệt

Triệu chứng:

Sốt sợ gió, đầu nặng, có mồ hôi, ho, đau họng khát nưóc, tiểu tiện vàng, mạch phù sác.

Điều trị: Thuốc:

Bạc hà                8g               Kim ngân hoa                12g

Lá tre                2ồg               Cam thảo nam                12g

Kinh giới            8g

Đổ 400ml nước sắc lấy 200ml uống nóng.

Châm cứu: Đại chùy, Phong trì, Hợp cốc, Ngoại quan (châm tả).

  1. Phong hàn

Triệu chứng:

Sợ lạnh nhiều, sốt vừa, đau đầu, không có mồ hôi, ho, cổ ngứa, không khát, mạch phù.

Điều trị:

Thuốc:

Hương phụ (củ gấu)          12g

Tử tô

Trần bì (vỏ quýt)

Cam thảo Nam

Đổ 400ml nước sắc lấy 200ml.

Châm cứu: Phong môn, Phong trì, Phong phủ, Hợp cốc, Liệt khuyết. Gia giảm: đau đầu gia Thái dương, ngạt mũi gia Nghinh hương.

Đối với hai thể cảm mạo, trước khi dùng thuốc có thể dùng phép xông rất thông dụng trong dân gian.

Lá bưởi (hoặc chanh , cam)                         Hương nhu

Tía tô                                                            Cúc tần

Ngải cứu                                                      Lá sả

Mỗi thứ một nắm nấu xông, có khi chỉ xông bệnh cũng khỏi không phải uống thuốc.

  1. Cúm

Triệu chứng:

Sốt cao, đau đầu nhiều, toàn thân nhức nhối, họng khô hoặc đau, ho, chảy nước mũi, nôn mửa. Trẻ em kinh giật, suyễn thở.

Điều trị:

Thuốc:

Lá tía tô Cam thảo dây Hương nhu

Vỏ vôi               20g

Trần bì               10g

Gừng khô            4g

ĐỔ 400ml nước sắc lấy 200ml uống.

Bài này khi có dịch cúm nên tán sẵn uống 12g/lần, uống 2 lần/ngày, uống xong đắp chăn nằm 15 phút.

PHÒNG BỆNH

Những khi thay đổi khí hậu đột ngột, nóng chuyển sang rét lạnh, cần phải mặc ấm, nhất là đối với các cháu bé. Khi có dịch cúm nên có rượu tỏi phòng cúm. Tỏi 100 g giã nát ngâm với 1/2 lít rượu 60° trong hai ngày, lọc lấy nước uống 3 lần/tuần, uống với nước lọc 20 – 30 giọt /lần. Đồng thời giỏ mũi bằng nước tỏi khi có dịch cúm.

Tiểu phúc thống (chính giữa dưới rốn đau) – Chứng trạng Đông y

Khái niệm

Bộ phận chính giữa dưới rốn đau gọi là Tiểu phúc thống. Tiểu phúc thống là chứng trạng thường gặp trong Phụ khoa, phần nhiều có liên quan tới bệnh biến của Thận, Bàng quang, Tiểu trường.

Trong các y thư cổ, chứng này rất ít xếp vào đơn vị riêng, mà phần nhiều xếp dưới các mục “Phúc thống” như (Y học chính truyền) “Tâm phúc thống” như (Cảnh Nhạc toàn thư) hoặc tản mạn trong các tật bệnh Long bế, Lâm chứng.

Trong Thương hàn luận nói đến các chứng “Thiếu phúc cấp kết “Thiếu phúc lý cấp” và trong Kim quỹ yếu lược nói đến chứng “Thiếu phúc huyền cấp” thực ra là chì chứng đau quặn ở vùng Tiểu phúc, nên thuộc phạm vi chứng này. Còn loại ngoại cảm phong hàn dẫn đến chứng Xúc thủy ở Bàng quang thì lấy các chứng tiểu tiện không lợi, Tiểu phúc trướng đầy làm chủ yếu, phần nhiều không có chứng đau rõ rệt, không thuộc phạm vi chứng này.

Bệnh biến ở hai mạch Xung Nhâm và Bào cung, đa số có thể thấy chứng đau Tiểu phúc, còn kiêm cả các chứng nguyệt kinh không đều, thông kinh, kinh bế, đái hạ… thuộc phạm vi Phụ khoa, trong Tạp bệnh nguyên lưu tê chúc có nói chứng “Xung thư”, cũng nêu “phát bệnh ở tiểu phúc”, “đau và hàn nhiệt”, “như bàn tay mà nóng”, “cũng hoặc đỏ bừng hơi sưng”, thuộc phạm vi ngoại khoa… đều là những chứng không thảo luận ở mục này.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Tiểu phúc thống do Bàng quang thấp nhiệt: Có chứng bụng dưới trướng đầy đau, tiểu tiện lượng ít sắc đỏ hoặc tiểu tiện ra huyết, khi tiểu tiện nóng đau thậm chí giỏ giọt không thông, Tiểu phúc căng gấp, khát nước, táo bón, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch Sác hoặc Tế Sác.
  • Tiểu phúc thống do Bàng quang nghẽn trệ: Nói Bàng quang nghẽn trệ là nói hoặc là do thấp nhiệt (như Tiểu phúc thống do Bàng quang thấp nhiệt) hoặc là khí trệ, hoặc huyết ứ, hoặc cát sỏi gây nên. Khí trệ thì bụng dưới trướng đau, ngực trướng sườn đau, sau khi tiểu tiện đau bụng dưới, mạch Huyền Huyết ứ thì Tiểu phúc thống nặng hoặc căng gấp, tiểu tiện ra huyết, sỏi cát nghẽn trệ thì Tiểu phúc thống, đau xiên xuống âm bộ, đau kịch liệt, tiểu tiện ra huyết. Nếu tiểu tiện ra cát sỏi thì các chứng khỏi ngay.
  • Tiểu phúc thống do hạ tiêu hư hàn: Có chứng Tiểu phúc đau âm ỉ, lúc nhẹ lúc nặng, bụng lạnh thậm chí như băng giá, tuy mùa Hạ vẫn không ấm, gặp lạnh bệnh tăng, được ấm thì dễ chịu, cơ thể lạnh chân tay lạnh, môi nhạt miệng đỏ, tiểu tiện trong dài hoặc còn sót cuối bãi không hết, lưỡi nhợt rêu trắng, mạch Trầm Tế.

Phân tích

– Chứng Tiểu phúc thống do Bàng quang thấp nhiệt với chứng Tiểu phúc thống do Hạ tiêu hư hàn: Loại trên là thấp nhiệt thực chứng. Loại sau là chứng hư hàn. Bàng quang thấp nhiệt là thấp nhiệt kết ở Bàng quang phát bệnh gấp, bụng dưới trướng đầy đau nặng hoặc căng gấp, tiểu tiện đỏ, khi đi tiểu đau rát, khát nước, táo bón, rêu lưỡi vàng, mạch Sác, đều là một loạt hiện tượng chứng nhiệt. Điều trị nên thanh lợi hạ tiêu Bàng quang thấp nhiệt, thấp nhiệt rút thì chứng đau bụng dưới cũng theo ra mà khỏi, chọn dùng phương Bát chính tán gia giảm. Còn chứng Hạ tiêu hư hàn, nguyên nhân bệnh là Hạ tiêu dương hư, dương hư thì hàn, bệnh không phải mới bị một ngày, biểu hiện là một loạt các hiện tượng hàn như Tiểu phúc đau âm ỉ, vả lại bụng dưới lạnh như băng, cơ thể lạnh, chân tay mát, sợ lạnh ưa ấm, tiểu tiện trong dài hoặc giỏ giọt không hết, lưỡi nhợt mạch Tế. Điều trị nên ôn bổ Hạ tiêu, khiến cho nguyên dương dồi dào thì hư hàn trừ mà khỏi đau bụng, dùng phương Hữu qui hoàn gia giảm.

– Chứng Tiểu phúc thống do Bàng quang nghẽn trệ: Có thấp nhiệt, khí trệ, ứ huyết, cát sỏi khác nhau.

Thấp nhiệt đã như giới thiệu ở trên. Tiểu phúc thống do khí trệ thì trướng nặng hơn đau, mà chủ yếu là trướng, vả lại kiêm chứng đau sườn, bụng dưới đau nhiều khi xuất hiện sau khi tiểu tiện, bài tiết tiểu tiện khó khăn nhưng không có dấu vết gì tỏ ra ngả về hàn, ngả về nhiệt rõ rệt, vì đó là do khí cơ không thư suớng gây nên. Điều trị nên lợi khí sơ đạo, dùng phương Trầm hương giáng khí tán gia giảm. Chứng Tiểu phúc thống do ứ huyết có chứng bụng dưới trướng đau, đau nặng hơn trướng, nặng hơn nữa thì đau như kim châm, bụng dưới căng gấp hoặc tiểu tiện ra huyết. Điều trị nên thông lợi hoạt huyết, dùng phương Đào hạch Thừa khí thang hoặc Để đương thang (hoàn) gia giảm. Chứng Tiểu phúc thống do sỏi cát nghẽn trệ, thì đau quặn như dao cắt hoặc xiên suốt sang lưng cũng đau, hoặc lan tỏa tới hội âm, tiểu tiện ra huyết rất rõ, điều trị nên thông lâm trừ sỏi, dùng phương Bài thạch thang gia giảm.

Tóm lại, hai chứng Tiểu phúc thống với Thiếu phúc thông trên lâm sàng thường không phân biệt rõ ràng. Tiểu phúc thống phần nhiều có liên quan tới Bàng quang và Tử cung, lâm sàng tuy có chia ra hàn nhiệt hư thực, nhưng cuối cùng phần nhiều là nhiệt chứng, thực chứng mà rất ít hàn chứng, hư chứng. Sách Trương thị y thông viết “Có ba chứng đầy, đau ở Tiểu phúc, đều là do bên trong có lưu đọng chứ không phải là hư khí”.

Trích dẫn y văn

Hạ tiêu Tiểu phúc thống, hoặc do hàn, do nhiệt, hoặc do thực, do trùng, hoặc do huyết, do khí nghịch… đều có cả. Trường hợp bế kết thì nên lợi, nên hạ, nên dựa vào từng loại mà điều trị (Cảnh Nhạc toàn thư – Tạp chứng mô).

Nam tinh

Khí vị:

Vị đắng cay, tính ấm, có độc mạnh, thăng lên được, giáng xuống được, là thuốc dương trong âm dược, vào 2 kinh Can và Đởm, ghét Thảo quả, sợ Phụ tử, Can khương, dùng Thục tất làm sứ.

Chủ dụng:

Vị thuốc Nam tinh
Vị thuốc Nam tinh

Chữa trúng phong tê dại, dòm khí quánh đặc, giải được chứng đờm mê tâm khiếu, chữa miệng mắt méo lệch, cấm khẩu, mình cứng đờ, trừ ung nhọt tiêu sưng, phá huyết, lợi thủy, hạ khí trụy thai, té ngã ứ máu, chữa ghẻ nước, ác sang và rắn rết cắn.

Kỵ dụng:

Phàm chứng âm hư, dòm táo thì kiêng dùng.

Cách chế:

Tháng chạp âm lịch thì ngâm vào nước sôi để bỏ tính táo, nóng, cho vào lửa than mà nướng rồi bóc bỏ vỏ, hoặc nấu nước gừng và phèn chua, đến lúc giữa ruột không còn màu trắng làm chuẩn. Lại có cách khác là ngâm vào nước Gừng, phơi khô, nghiền nhỏ, cho vào trong cái mật Heo treo lên trước gió, hết năm lại thay cái mật khác, trải qua lâu năm càng tốt, gọi là Đởm tinh, tính hung hãn của nó được hòa hoãn bớt.

Nhận xét:

Nam tinh khí ấm mà tiết ra, tính khẩn cấp, có độc, có khả năng công kiên, trừ thấp. Bán hạ cay mà hay thủ một chỗ, Nam tinh cay mà không giữ một chỗ, tính của nó dữ hơn Bán hạ, nó chuyên chữa phong đờm mà Bán hạ chuyên chữa thấp đờm, công việc tuy giống nhau mà tác dụng khác nhau, Tóm lại Nam tinh là vị thuốc chủ yếu thắng được thấp, trừ được đờm, khu phong, trục huyết.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Hiệu chú phụ nhân lương phương”

Bài Đạo đờm thang

Bán hạ 8-12g, Trần bì 8-12g, Nam tinh 6-10g, Cam thảo 4g, Chỉ thực 8-12g, Phục linh 12g, Sinh Khương 3 nhát.

Sắc, chia uống vài lần trong ngày.

Trì đàm, dãi ủng thịnh, ngực bỉ tắc, khái tấu, nôn mửa.

“Diệp thiên sĩ nữ khoa”

Bài Hương phụ đạo đờm thang

Xương truật     8g     Phục linh     16g

Hương phụ      8g     Chỉ xác       12g

Trần bì           12g     Thiên nam tinh 8g

Bán hạ           12g     Cam thảo      4g

Sắc, chia uống vài lần trong ngày.

Chữa phụ nữ kinh bê hoặc hành kinh lượng ít, khí hư ra nhiều, sức yếu, thể trạng béo mập.

“Tế sinh phương”

Bài Địch đờm thang

Bán hạ (chê) 6g, Chỉ thực 8g, Đỏm tinh 6g, Bạch linh 8g, Xương bô 6g, Trúc nhự 3g, Nhân sâm 4g, Cam thảo 2g, Trân bì 8g, Đại táo 2 quả, Gừng tươi 3 nhát, sắc uông ngày 1 thang, chia vài lân. Có tác dụng địch đờm, táo thấp.

Trị chứng phong đờm mê tâm khiếu, lưỡi cứng không nói được. Bài này tác dung giông bài trên, nhưng người bệnh yêu hơn, ngày thường vốn Tâm Tỳ hư nhược mà nhieu đờm, lại bị cảm nhiễm phong tà

“Hướng dẫn sử dụng các bài thuốc”

Bài Nhị truật thang

Bán hạ 4-8g, Bạch truật 3-5g, Bạch linh 3-5g, Trần bì 3-5g, Nam tinh 3-5g, Hương phụ 3-5g, Hoàng cầm 3-5g, Thương truật 4-7g, Cam thảo 2-3g, Uy linh tiên 3-5g, Khương hoạt 3-5g, Can khương 1-2g.

Săc, chia uống vài lần trong ngày, Có tác dụng sinh khí huyết, đuổi phong hàn.

Chữa người già khí huyết hư kém sinh hàn trễ, hay mắc chứng đau tay, mỏi vai.

Bài này dùng Bạch truật, Thương truật phá hàn ở Vị Tràng; dùng Bán hạ, Nam tinh phá hàn đàm để tăng cường công năng của Vị Tràng, sinh khí huyết để đuổi phong hàn. Bài này có Nhị trần ở trong cho nên cũng có thể cải biên thành: Trần bì, Bán hạ, Bạch linh, Cam thảo, Thương truật, Mộc qua, Ý dĩ, Chỉ thực, Câu đằng.

“Tuệ Tĩnh toàn tập”

Chữa chứng hạch đờm, nổi ngoài da, ở mặt, trên đầu, lớn thì bằng ngón tay, nhỏ thì bằng hạt thóc, hoặc mềm, hoặc cứng, không nhức, không ngứa, dùng Nam tinh, Phèn chua, nghiền nhỏ, hòa nước như bùn, đắp vào chỗ nổi hạch, rất hiệu nghiệm.

“Hướng dẫn sử dụng các bài thuốc”

Bài Thanh thấp hóa đàm thang

Bán hạ, Bạch linh, Bạch truật đều 8g, Nam tinh, Hoàng cầm, Sinh Khương đều 6g, Trần bì 4-6g, Khương hoạt, Bạch chỉ, Bạch giới, Cam thảo đều 3g. sắc, chia uống 3 lần trong ngày

Phân tích và áp dung:

Bài này gồm Nhị trần và Bạch giới phá đàm, các vị khác khu phong. Đàm gây nên phong. Những người đau thần kinh, đau khớp, đau cơ, đau sườn, đau ngực, lạnh lưng, đau di chuyển khắp người là bị phong chạy (du phong) là do đàm.Người bị cảm mạo, trẻ phù sữa, người phù bạch hạch, mỏi tê vai, tay, chân, mất cảm giác đều do đàm đều dùng được bài này. Sa Dạ dày, mất trương lực Dạ dày cũng do đàm thấp gây nên.

Thuốc ambenonium – Tác dụng và liều dùng

Tên gốc: ambenonium (thuốc đã ngừng sản xuất)
Tên thương hiệu: Mytelase
Nhóm thuốc: Thuốc ức chế cholinesterase

Ambenonium là gì và nó được sử dụng để làm gì?

Ambenonium là một loại thuốc được sử dụng để điều trị bệnh nhược cơ (myasthenia gravis), một bệnh tự miễn ảnh hưởng đến hệ thần kinh cơ. Bệnh nhược cơ làm suy yếu chức năng thần kinh vận động, gây yếu cơ xương, dẫn đến yếu tay chân, khó khăn trong việc cử động mắt, mí mắt, nói chuyện, nhai, nuốt, biểu cảm khuôn mặt và thở. Ambenonium cải thiện các triệu chứng của bệnh nhược cơ bằng cách tăng cường truyền tín hiệu thần kinh đến các cơ.

Acetylcholine là một chất hóa học tự nhiên (chất dẫn truyền thần kinh) mà các đầu dây thần kinh trong cơ bắp tiết ra để kích thích sự co cơ. Acetylcholine kích thích các phân tử protein được gọi là thụ thể cholinergic trong các khớp thần kinh cơ, khiến các sợi cơ co lại. Có hai loại thụ thể cholinergic, muscarinic và nicotinic, với các chức năng đa dạng trong cơ thể. Ở những bệnh nhân mắc bệnh nhược cơ, các kháng thể tự miễn hình thành chống lại các thụ thể này, gây tổn thương và phá hủy chúng, ngăn cản quá trình dẫn truyền thần kinh bình thường.

Ambenonium cải thiện việc truyền tín hiệu thần kinh đến các sợi cơ bằng cách ngăn chặn sự phân hủy acetylcholine và tăng cường khả dụng sinh học của nó. Chất dẫn truyền thần kinh thường bị phân hủy và tái hấp thu bởi các tế bào thần kinh sau khi quá trình dẫn truyền thần kinh hoàn tất, như một phần của quá trình tự nhiên. Acetylcholine bị phân hủy bởi enzyme cholinesterase. Ambenonium ức chế hoạt động của cholinesterase và kéo dài tác dụng của acetylcholine.

Cảnh báo

  • Không sử dụng ambenonium cho bệnh nhân quá mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào trong công thức của thuốc.
  • Không dùng đồng thời với atropine theo thói quen, vì atropine có thể làm giảm các triệu chứng muscarinic của sự kích thích quá mức ở đường tiêu hóa, nhưng các triệu chứng nghiêm trọng hơn như co giật cơ (giật cơ) và liệt cơ tự nguyện có thể vẫn còn.
  • Không dùng đồng thời với mecamylamine hoặc các thuốc chẹn hạch khác làm giảm hoạt động của acetylcholine.
  • Không sử dụng ambenonium đồng thời với các loại thuốc khác tăng cường hoạt động của acetylcholine, trừ khi có sự giám sát y tế nghiêm ngặt, vì thuốc này có tác dụng kéo dài hơn các loại thuốc chống nhược cơ khác.
  • Ambenonium có biên độ an toàn rất hẹp giữa các tác dụng phụ đầu tiên xuất hiện và các tác dụng độc nghiêm trọng, vì vậy rất ít cảnh báo trước khi xảy ra quá liều. Hãy sử dụng thuốc một cách cực kỳ thận trọng và giám sát chặt chẽ, đặc biệt khi tăng liều.

Sử dụng ambenonium thận trọng ở những bệnh nhân có các tình trạng sau:

  • Hen suyễn
  • Bệnh Parkinson
  • Tắc nghẽn cơ học ở ruột hoặc đường tiết niệu.

Các tác dụng phụ của ambenonium là gì?

Các tác dụng phụ thường gặp của ambenonium bao gồm:

  • Buồn nôn
  • Nôn mửa
  • Đau quặn bụng
  • Tiêu chảy
  • Tiết nước bọt quá mức
  • Tăng tiết dịch phế quản
  • Chảy nước mắt quá mức (lachrymation)
  • Đổ mồ hôi
  • Tiểu nhiều (pollakiuria)
  • Cảm giác buồn tiểu gấp
  • Co giật cơ (giật cơ)
  • Liệt cơ lưỡi
  • Liệt cơ hô hấp
  • Khó nuốt
  • Khó thở
  • Khó thở (dyspnea)
  • Tăng huyết áp
  • Nhịp tim chậm (bradycardia)
  • Co hẹp đồng tử (miosis)
  • Lo lắng
  • Hoảng loạn
  • Cảm giác khó chịu chung (malaise)
  • Chóng mặt

Gọi ngay cho bác sĩ nếu bạn gặp phải bất kỳ triệu chứng hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng nào sau đây khi sử dụng thuốc này:

  • Các triệu chứng tim nghiêm trọng như tim đập nhanh hoặc đập mạnh, rung trong lồng ngực, khó thở, và chóng mặt đột ngột;
  • Đau đầu nặng, nhầm lẫn, nói lắp, yếu nghiêm trọng, nôn mửa, mất phối hợp, cảm giác không vững;
  • Phản ứng thần kinh nghiêm trọng với cơ cứng rất mạnh, sốt cao, đổ mồ hôi, nhầm lẫn, nhịp tim nhanh hoặc không đều, run rẩy, và cảm giác có thể ngất đi;
  • Các triệu chứng mắt nghiêm trọng bao gồm mờ mắt, nhìn thấy đường hầm, đau mắt hoặc sưng, hoặc thấy quầng sáng xung quanh ánh sáng.

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra khi sử dụng thuốc này. Hãy gọi bác sĩ của bạn để được tư vấn y tế về các tác dụng phụ hoặc phản ứng nghiêm trọng.

Liều dùng của ambenonium là gì?

Viên nén

  • 10 mg

Nhược cơ (Myasthenia Gravis)

Người lớn:

  • Liều khởi đầu: 5 mg uống mỗi 6-8 giờ
  • Liều duy trì: 15-100 mg/ngày, thông thường 40 mg/ngày
  • Tối đa 50-75 mg uống mỗi 6-8 giờ

Trẻ em:

  • Liều khởi đầu: 0,3 mg/kg/ngày chia thành liều uống mỗi 6-8 giờ
  • Liều duy trì: 1,5 mg/kg/ngày chia thành liều uống mỗi 6-8 giờ.

Quá liều

Các triệu chứng của quá liều ambenonium bao gồm sự kích thích quá mức ở đường tiêu hóa với cảm giác khó chịu ở vùng thượng vị, đau quặn bụng, nôn mửa, tiêu chảy, tiết nước bọt quá mức, tiểu nhiều, buồn tiểu gấp, đổ mồ hôi lạnh, co hẹp đồng tử, mờ mắt, khó thở và khó nuốt, co giật cơ và liệt các cơ tự nguyện.

Điều trị quá liều bao gồm ngừng sử dụng ambenonium, sử dụng atropine để đảo ngược tác dụng của acetylcholine lên thụ thể muscarinic và sử dụng pralidoxime chloride để đảo ngược tác dụng lên thụ thể nicotinic. Các biện pháp hỗ trợ khác như cung cấp oxy và hô hấp nhân tạo có thể được áp dụng nếu cần.

Các loại thuốc nào tương tác với ambenonium?

Hãy thông báo cho bác sĩ về tất cả các loại thuốc bạn đang sử dụng để bác sĩ có thể tư vấn về bất kỳ tương tác thuốc nào có thể xảy ra. Không nên bắt đầu, ngừng sử dụng đột ngột hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có khuyến nghị của bác sĩ.

Ambenonium không có danh sách tương tác nghiêm trọng, nghiêm trọng, trung bình, hoặc nhẹ với các loại thuốc khác. Tuy nhiên, những tương tác thuốc được liệt kê trên đây không phải là tất cả các tương tác hoặc tác dụng bất lợi có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về tương tác thuốc, bạn có thể truy cập RxList Drug Interaction Checker.

Điều quan trọng là luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ y tế của bạn về tất cả các loại thuốc kê đơn và không kê đơn mà bạn đang sử dụng, cũng như liều lượng của mỗi loại. Hãy hỏi ý kiến bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ y tế nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào về thuốc.

Mang thai và cho con bú

Sự an toàn của việc sử dụng ambenonium ở phụ nữ mang thai chưa được xác định. Ambenonium chỉ nên được sử dụng ở phụ nữ mang thai hoặc có khả năng mang thai khi thật sự cần thiết và khi lợi ích cho mẹ vượt trội so với nguy cơ tiềm ẩn cho thai nhi.

Hiện chưa biết ambenonium có tồn tại trong sữa mẹ hay không, nhưng có khả năng vì nhiều loại thuốc được bài tiết vào sữa mẹ. Quyết định ngừng thuốc hoặc ngừng cho con bú nên dựa trên nhu cầu lâm sàng của người mẹ, vì có khả năng xảy ra các phản ứng bất lợi nghiêm trọng cho trẻ bú mẹ.

Tôi cần biết thêm gì về ambenonium?

  • Hãy dùng ambenonium đúng theo chỉ định của bác sĩ.
  • Bảo quản thuốc ở nơi an toàn, ngoài tầm với của trẻ em.
  • Trong trường hợp quá liều, hãy tìm kiếm sự trợ giúp y tế ngay lập tức hoặc liên hệ với Trung tâm Kiểm soát Chất độc.

Tóm tắt

Ambenonium là một loại thuốc kê đơn đã ngừng sản xuất, được sử dụng để điều trị bệnh nhược cơ (myasthenia gravis), một bệnh tự miễn ảnh hưởng đến hệ thần kinh cơ. Ambenonium cần được sử dụng thận trọng ở những người mắc bệnh hen suyễn, bệnh Parkinson và tắc nghẽn cơ học ở ruột hoặc đường tiết niệu. Các tác dụng phụ phổ biến của ambenonium bao gồm buồn nôn, nôn mửa, đau quặn bụng, tiêu chảy, tiết nước bọt quá mức, tăng tiết dịch phế quản, chảy nước mắt quá mức, đổ mồ hôi, tiểu nhiều, buồn tiểu gấp, co giật cơ, liệt cơ lưỡi, liệt cơ hô hấp, khó nuốt, khó thở, khó thở gấp (dyspnea), và nhiều triệu chứng khác.

Nguyên nhân, triệu chứng và điều trị viêm phế quản cấp tính

Định nghĩa

Bệnh viêm cấp tính những phế quản lớn và trung bình, khí quản thường cũng bị viêm (nên còn gọi là viêm phí-phế quản).

Căn nguyên

Virus hô hấp, cúm, sởi, nhiễm vi khuẩn (phế cầu khuẩn, Haemophilus influenzae, Pseudomonas aeruginosa). Viêm phế quản có thể kết hợp với ho gà, bệnh tinh hồng nhiệt, sốt thương hàn, bệnh phổi do nhiễm vi khuẩn lao, nhiễm nấm, giãn phế quản, hoặc thở hít phải những chất kích thích (do, ammoniac, acid, dung môi công nghiệp). Hút thuốc lá là một yếu tố nguy cơ quan trọng. Song cầu khuẩn Gram âm, tên khoa học là Branhamella catarrhalis, có khả năng sản xuất enzym bêta- lactamase, thường sống hoại sinh ở đường hô hấp trên là họ hàng với giống Neisseria. Song cầu khuẩn này là tác nhân gây ra viêm phế quản nhiễm khuẩn, viêm tai giữa, viêm phổi, và hiếm hơn, viêm màng não hoặc viêm nội tâm mạc, nhất là ở những đối tượng suy hô hấp hoặc suy giảm miễn dịch.

Sinh lý bệnh

Vì rối loạn hoạt động của những lông chuyển ở niêm mạc phế quản và của những đại thực bào có vai trò làm sạch phế quản, nên những vi khuẩn xâm nhập vào phế quản và gây ra ứ đọng dịch nhầy và những sản phẩm phân huỷ tế bào. Ho là động tác rất quan trọng để đẩy dịch chế tiết của niêm mạc phế quản ra bên ngoài.

Triệu chứng

  • Sốt, ho, khạc đờm niêm dịch hoặc đôi khi khạc đờm có mủ tuỳ theo tác nhân gây bệnh. Viêm phế quản cấp tính hay xẩy ra vào mùa rét hơn. Nếu viêm chỉ giới hạn ở khí quản và những phế quản lớn thì khi nghe phổi có thể hoàn toàn không thấy có những triệu chứng gì. Ngược lại, nếu những phế quản cỡ trung bình bị viêm thì sẽ nghe thấy ran ngáy, ran rít, nói chung ở cả hai bên phổi.
  • Xét nghiệm cận lâm sàng: tốc độ lắng máu tăng, và số lượng bạch cầu tăng vừa phải.
  • X quang: viêm phế quản cấp tính không có dấu hiệu X quang, nhưng chỉ định chụp X quang lồng ngực là để loại trừ những bệnh khác khi thấy những triệu chứng lâm sàng nặng và kéo dài.

Tiên lượng

Ở người lớn khoẻ mạnh, viêm phế quản cấp tính khỏi sau 10-15 ngày không để lại di chứng, ở những người bị giãn phế nang, viêm phế quản cấp tính có thể gây ra suy hô hấp, đôi khi dẫn tới tử vong, ở trẻ sơ sinh và trẻ em còn bú, viêm phế quản cấp tính có thể nguy hiểm.

Một trường hợp viêm phế quản cấp tính bề ngoài nhẹ nhàng không đáng kể, nhưng đôi khi lại là nguồn gốc dẫn tới trạng thái bệnh hen.

Điều trị

  • Làm ẩm vi khí quyển, cho bệnh nhân uống nhiều nước. Trong trường hợp ho nhiều thì cho codein với liều thông dụng. Thuốc này có chống chỉ định ở những bệnh nhân giãn phế nang, vì có thể làm tăng tắc nghẽn phế quản.
  • Theophyllin hoặc thuốc giống- bêta trong trường hợp co thắt phế quản.
  • Thuốc kháng sinh chỉ nên chỉ định ở những bệnh nhân suy hô hấp mạn tính, những bệnh nhân bệnh tim, hoặc trong trường hợp viêm phế quản nặng, có sốt và khạc nhiều đờm niêm dịch-mủ.

Cấy đờm không nhất thiết cho biết đúng mầm bệnh và kết quả thường quá muộn. Do đó, người ta thường chọn theo kinh nghiệm một trong những thuốc kháng sinh sau đây:      aminopenicillin (ví dụ: ampicillin) hoặc một loại macrolid (ví dụ erythromycin). Phối hợp Sulfamethoxazol + trimethoprim cũng có hiệu quả. Vi khuẩn Branhamella catarrhalis nhạy cảm với amoxicillin + acid clavulanic, với tetracyclin, với cephalosporin hoặc với erythromycin.

Triệu chứng, chẩn đoán và nguyên nhân nứt hậu môn

Nứt hậu môn là một vết rách hoặc vết loét (lở) xuất hiện trong niêm mạc của đại tràng, gần hậu môn.

Triệu chứng nứt hậu môn

Triệu chứng phổ biến nhất của nứt hậu môn là:

  • Đau nhói khi đi tiêu, thường được theo sau bởi cảm giác bỏng rát sâu có thể kéo dài vài giờ.
  • Chảy máu khi đi tiêu – hầu hết mọi người nhận thấy một lượng nhỏ máu đỏ tươi có thể có trong phân hoặc trên giấy vệ sinh.

Khi nào nên gặp bác sĩ

Gặp bác sĩ nếu bạn nghĩ rằng mình có nứt hậu môn.

Đừng để sự xấu hổ ngăn bạn tìm kiếm sự giúp đỡ. Nứt hậu môn là một vấn đề phổ biến mà bác sĩ thường gặp.

Hầu hết nứt hậu môn sẽ tự khỏi mà không cần điều trị, nhưng bác sĩ sẽ muốn loại trừ các tình trạng khác có triệu chứng tương tự, chẳng hạn như trĩ.

Họ cũng có thể cho bạn biết về các biện pháp tự giúp đỡ và các phương pháp điều trị có thể giảm triệu chứng của bạn và giảm nguy cơ nứt hậu môn tái phát.

Chẩn đoán nứt hậu môn

Bác sĩ sẽ hỏi bạn về triệu chứng và loại đau mà bạn đang trải qua. Họ cũng có thể hỏi về thói quen đi vệ sinh của bạn.

Họ thường có thể nhìn thấy nứt hậu môn bằng cách nhẹ nhàng tách hai mông của bạn.

Khám trực tràng kỹ thuật số, trong đó bác sĩ đưa một ngón tay đã bôi trơn và đeo găng tay vào hậu môn của bạn để cảm nhận sự bất thường, thường không được sử dụng để chẩn đoán nứt hậu môn vì nó có thể gây đau.

Bác sĩ có thể chuyển bạn đến đánh giá chuyên khoa nếu họ nghĩ rằng có điều gì nghiêm trọng có thể gây ra nứt hậu môn của bạn.

Điều này có thể bao gồm một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng hơn của hậu môn được thực hiện dưới gây mê để giảm đau.

Đôi khi, áp lực của cơ vòng hậu môn có thể được đo nếu nứt hậu môn không đáp ứng với các phương pháp điều trị đơn giản.

Cơ vòng hậu môn là vòng cơ mở và đóng hậu môn.

Nguyên nhân gây ra nứt hậu môn

Nứt hậu môn thường do tổn thương niêm mạc của hậu môn hoặc ống hậu môn, phần cuối cùng của đại tràng.

Hầu hết các trường hợp xảy ra ở những người bị táo bón, khi một phân cứng hoặc lớn làm rách niêm mạc của ống hậu môn.

Các nguyên nhân khác có thể gây ra nứt hậu môn bao gồm:

  • Tiêu chảy kéo dài
  • Bệnh viêm ruột (IBD), chẳng hạn như bệnh Crohn và viêm loét đại tràng
  • Mang thai và sinh nở
  • Đôi khi, nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục (STI), như giang mai hoặc herpes, có thể lây nhiễm và làm tổn thương ống hậu môn
  • Có cơ vòng hậu môn căng thẳng bất thường, điều này có thể làm tăng áp lực trong ống hậu môn, khiến nó dễ bị rách hơn

Trong nhiều trường hợp, không thể xác định rõ nguyên nhân.

Điều trị nứt hậu môn từ bác sĩ

Bác sĩ có thể kê thuốc để giúp giảm triệu chứng của bạn và thúc đẩy quá trình lành bệnh.

Điều này có thể bao gồm thuốc nhuận tràng để giúp bạn đi tiêu dễ dàng hơn và thuốc mỡ giảm đau mà bạn bôi trực tiếp lên hậu môn.

Phẫu thuật có thể được khuyến nghị trong các trường hợp nứt hậu môn kéo dài mà các biện pháp tự giúp đỡ và thuốc không có hiệu quả.

Phẫu thuật thường rất hiệu quả trong việc điều trị nứt hậu môn, nhưng nó có một rủi ro nhỏ về các biến chứng, chẳng hạn như mất kiểm soát ruột tạm thời hoặc vĩnh viễn (tiêu chảy không kiểm soát).

Nứt hậu môn thường lành lại trong vài tuần mà không cần điều trị.

Nhưng chúng có thể dễ dàng tái phát nếu nguyên nhân do táo bón không được điều trị.

Ở một số người, triệu chứng từ nứt hậu môn kéo dài từ 6 tuần trở lên (nứt hậu môn mạn tính).

Cách giảm triệu chứng nứt hậu môn

Áp dụng một số biện pháp tự giúp đỡ đơn giản có thể giúp việc đi vệ sinh dễ dàng hơn.

Điều này sẽ cho phép các nứt hiện tại lành lại, cũng như giảm khả năng phát triển nứt mới trong tương lai.

Các biện pháp tự giúp đỡ để tránh táo bón bao gồm:

  • Nạp nhiều chất xơ vào chế độ ăn uống, chẳng hạn như trái cây, rau và bánh mì nguyên hạt, mì ống và gạo – người lớn nên cố gắng ăn ít nhất 30g chất xơ mỗi ngày
  • Uống nhiều nước để giữ cơ thể được cấp nước
  • Không bỏ qua cơn buồn đi tiêu – điều này có thể khiến phân của bạn khô lại và khó đi hơn
  • Tập thể dục thường xuyên – bạn nên cố gắng thực hiện ít nhất 150 phút hoạt động thể chất mỗi tuần

Bạn có thể giúp giảm cơn đau bằng cách uống thuốc giảm đau đơn giản, chẳng hạn như paracetamol hoặc ibuprofen, hoặc ngâm hậu môn của bạn trong bồn tắm ấm vài lần mỗi ngày, đặc biệt là sau khi đi tiêu.

Ai bị ảnh hưởng

Nứt hậu môn khá phổ biến, với khoảng 1 trong 10 người bị ảnh hưởng vào một thời điểm nào đó trong đời.

Chúng ảnh hưởng đến cả hai giới và mọi lứa tuổi đều có thể mắc phải.

Tuy nhiên, trẻ em và người lớn trẻ từ 15 đến 40 tuổi có khả năng cao hơn trong việc bị nứt hậu môn.

Sốt xuất huyết thể não

  • Sốt xuất huyết thể não còn được gọi là hội chứng não cấp…

Lâm sàng Sốt xuất huyết thể não.

Một số bệnh nhân Sốt xuất huyết nặng từ ngày thứ 4 đến thứ 7, đôi khi sớm hơn, bị vật vã lảm nhảm, mê sảng, rồi vào hôn mê một cách từ từ (giai đoạn 1) với những đặc điểm: hay có tăng trương lực cơ, run giật cơ mặt, chân tay, tay bắt chuồn chuồn, run rẩy khi cử động, thỉnh thoảng có cơn duỗi cứng mất não, dấu hiệu bó tháp thất thường (nếu dương tính thường cả hai bên), đôi khi có dấu hiệu “bánh xe răng cưa”, phản xạ gân xương đều cả hai bên, thường không có liệt nửa người, không có viêm màng não (dịch ống sống ít biến đổi, có thế cổ cứng và Kernig dương tính giả, đa phần chỉ là do tăng trương lực cơ), tổn thương dây thần kinh sọ não thất thường, không đặc hiệu, ở bệnh nhi có kèm theo co giật; sang giai đoạn 2: hôn mô ngày một sâu, phản xạ gân-xương – đã mất dần, đồng tử giãn đều, mất phản xạ ánh sáng và giác mạc, gai thị không phù nề, bệnh nhân thở sâu – khò khè; sang giai đoạn 3: bệnh nhân thở nhanh chậm thất thường kiểu nhiễm toan, mồ hôi vã ra, cuối cùng thở yếu dần, nhịp chậm lại và ngừng thở. Bệnh cạnh những triệu chứng của một hội chứng não cấp lan toả kể trên, tất nhiên có những triệu chứng điển hình của Sốt xuất huyết; sốt, giãn mạch, dây thắt (+), xuất huyết (dưới da, niêm mạc, phủ tạng), bạch cầu giảm, tiểu cầu giảm, hematocrit cao…, xét nghiệm IH dương tính. Tóm lại, Sốt xuất huyết thể não thường biểu hiện là một hội chứng não cấp lan toả có phù não và ít khi có triệu chứng khu trú.

Chẩn đoán phát hiện Sốt xuất huyết thể não

Sốt xuất huyết thể não chiếm khoảng 2% đến 2,2% tổng số bệnh nhi Sốt xuất huyết nằm tại bệnh viện tuyến cuối. ở bệnh nhân người lớn, Sốt xuất huyết thể não gặp nhiều hơn, chiếm 9% tại Bệnh viện Việt Nam – Cuba năm 1969 (Nguyễn Thượng Liễn và cs, 1970) và 5% tại Bệnh viện K43: 21/412 trường hợp (Bs Phi, 1975); đặc biệt trong số 154 bệnh nhân Sốt xuất huyết các thể nặng ở người lớn cấp cứu tại Khoa điều trị tích cực của Viện 175, đã có 30% trường hợp thể não, chiếm 19,5% trong những trường hợp nặng ở người lớn (Nguyễn Thiện Thìn, 1979).

Phân tích nguyên nhân chết ở 30 ca tử vong vì Sốt xuất huyết ở Giacacta c6 chẩn đoán virut học, các tác giả

Nghiên cứu ở 671 bệnh nhân Sốt xuất huyết tại Giacacta, L.K. Kho và cs. (1983) xác định có hội chứng não cấp ở 32 trường hợp (4,7%), ngoài ra 119 trường hợp (17,7%) có triệu chứng thần kinh là biến chứng của sốc (ngủ gà, bán hôn mê, hôn mê, co giật, bại, v.v…). Những nghiên cứu ở Gacacta cho thấy: hội chứng não cấp chiếm 4,7% số bệnh nhân Sốt xuất huyết, ngoài ra triệu chứng thần kinh gặp ở 17,7% bệnh nhân Sốt xuất huyết và ở 70% trường hợp trước khi chết. Tại bệnh viện nhi đồng 1 ghi nhận có hội chứng não cấp ở 4,6% bệnh nhân sốc dengue (sốt xuất huyết độ 3-4) và ở 46-75% trường hợp chết do sốc (Lại Văn Tiến và cs…, 1992; Đỗ Hồng Ngọc, 1979; Nguyễn Tường Vân, 1977).

Trong chẩn đoán Sốt xuất huyết thể não, kinh nghiệm cho thấy:

  • Không nên tính vào đây những trường hợp chỉ mới bứt rứt, vật vã hoặc li bì nhưng không rối loạn ý thức (không bán hôn mê hoặc hôn mê). Loại này hay gặp ở bệnh nhi, chiếm từ 23-47%, thậm chí 75% (đối tượng bệnh nhân nặng) tại Bệnh viện nhi đồng 1 và Bệnh viện B, đây chỉ là những triệu chứng báo hiệu chuyển vào thể sốc (da phần) hoặc thể não (một phần nhỏ).
  • Cũng không nên dễ dàng gọi là Sốt xuất huyết thể não những trường hợp có một hoặc vài biểu hiện thần kinh là triệu chứng hoặc biến chứng của sốt cao hoặc của xuất huyết tiêu hóa nặng. Có thể kể vào đây: co giật do sốt cao ở trẻ em; tỷ lệ co giật do sốt cao ở bệnh nhi Sốt xuất huyết tại Bệnh viện nhi đồng 1 là 6%, nhưng tỷ lệ hôn mê chỉ là 2%, nói lên không phải trường hợp co giật nào cũng là biểu hiện của thể não (Bs Đôn, 1974).

Ở Giacacta, hội chứng não cấp (thế não) chiếm 4,7% số bệnh nhân Sốt xuất huyết, nhưng triệu chứng não gặp ở 70% bệnh nhân sốc trước khi chết. Do đó cần phân biệt thể não với những thể sốc kèm theo biểu hiện não: sốc kết hợp triệu chứng não hay xảy ra và có tiên lượng rất xấu.

  • Nguyên nhân và tiên lượng Sốt xuất huyết thể não
  • Sốt xuất huyết thể não có thể do những nhân tố sau đây tác động đơn thuần hoặc phối hợp:
  • Tăng tính thấm mao quản nặng, thoát huyết tương ra ngoài mạch, cô máu, dẫn đến rối loạn vi tuần hoàn trong não (ứ trệ tuần hoàn, xung huyết, phù nề não…).
  • Ớ mức độ cao, có thêm xuất huyết đốm rải rác và đối xứng ở 2 bán cầu đại não.

+ Hậu quả của sốc và đông máu rải rác nội mạch gây thiếu oxy não, tích tụ axit lactic, axit béo và axit amin: trường hợp này là triệu chứng não thứ phát sau sốc kéo dài, (sốc kéo dài có biến chứng).

  • Tiên lượng Sốt xuất huyết thể não rất nặng:ở người lớn tỷ lệ tử vong vì thể não trung bình là 56,8% (25/44), số chết vì thể não có khi chiếm trên 50% (25/47) tổng số tử vong (thống kê tại Viện 108, Viện 175, Bệnh viện Việt Nam – Cuba 2 năm 1969, 1975). Bệnh viện Việt Nam – Cuba trong vụ dịch Sốt xuất huyết năm 1969 gặp 13 bệnh nhân Sốt xuất huyết thể não (trong tổng số 150 bệnh nhân Sốt xuất huyết người lớn), bao gồm 10 hôn mê và 3 hôn mê + duỗi cứng, tử vong 12, tất cả đều vì suy hô hấp ngừng thở, mổ tử thi thấy não phù nề xung huyết với nhiều đốm xuất huyết rải rác cả 2 bán cầu, tương đối nhiều ở vùng đồi thị, các tác giả đề nghị gọi là viêm não xuất huyết (Nguyễn Thượng Liễu và cs, 1970), Tại Viện quân y Z200 QĐx, trong vụ dịch Sốt xuất huyết 1975 có 14 tử vong thì 8 trường hợp là thể não; có một bệnh nhân thể não sau khi bổ sung nước và điện giải đã thoát khỏi hôn mê và phục hồi hoàn toàn không có di chứng; ở đây cũng nghĩ tới 3 yếu tố từ nhẹ đến nặng: rối loạn nước và điện giải, xung huyết và phù nề não, xuất huyết não – màng não (Phan Chúc Lâm và cs, ]975). Bệnh viện K43, QĐy gặp 21 trường hợp thể não trong 412 bệnh nhân Sốt xuất huyết người lớn (5%) với những triệu chứng mê sảng, lảm nhảm, có khi kích động, run giật cơ mặt, chân tay, láy mắt, dễ nhầm với sốt rét ác tính, thời gian vào hôn mê từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 9 (Bs Phi, 1970).

ở bệnh nhi sốt xuất huyết thể não, tiên lượng cũng rất nặng. Tử vong vì hội chứng não cấp tại Bệnh viện nhi đồng là 11 trên 16 bệnh nhân (61,12%; Lại Văn Tiến và cs, 1982). Trong tổng số 139 trường hợp tử vong tại một số bệnh viện nhi, số chết vì thế não chiếm 27 (19,3%; thống kê ở Bệnh viện B năm 1969 và ở một số trại Bệnh viện Nhi Đồng 1, 1972 – 1973). Tại Bệnh viện B (1969) gặp một số trường hợp hôn mê co giật rồi suy hô hấp thở nông và chậm dần, cuối cùng ngừng thở, dịch ống sông ở 20 ca có hội chứng màng não đều bình thường; làm giải phẫu thi thể thấy phù não, xung huyết não, có trường hợp xuất huyết đốm ở não – tiểu não và hành tuỷ (Bùi Xuân Bách và cs, 1970). Tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 năm 1972 – 1973, bác sĩ Trâm gặp 5 trường hợp có hội chứng não cấp trong 259 bệnh nhân Sốt xuất huyết (2%), tất cả đều tử vong, tác giả gọi là viêm não (Trần Tấn Trâm, 1974).

Thực tế trên nói lên: thể não có tiên lượng nói chung rất nặng nhưng cũng có ca khỏi nhanh và thường không để lại di chứng, pó lẽ do não mới bị phù nề và xung huyết nhẹ được cấp cứu kịp thời: tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 (1972-1973), bác sĩ Vân gặp 3 trường hợp hôn mê trong 166 bệnh nhân (1,8%); tất cả đều tỉnh và khỏi sau 3-4 ngày, 2 ca được kiểm tra dịch ống sông đều bình thường, tác giả nghĩ tới một hội chứng não cấp do rối loạn tuần hoàn não (não xung huyết, phù nề); cũng tại bệnh viện này ở trại II D, trong 100 bệnh nhi Sốt xuất huyết có 24 ca có vật vã bứt rứt, 6 co giật và hôn mê (2%), tất cả đều phục hồi.

Về đanh từ đặt cho hội chứng này, vì những trường hợp khỏi bệnh thưống khổng để lại di chứng, vì tổn thương giải phẫu bệnh ở não có tỉnh chất rải rác lan toả (chủ yếu là xung huyết, phù nề, đốm xuất huyết) chúng tôi thống nhất với 1 số tác giả trong và ngoài nưốc dùng danh từ hội chứng não cấp ở Sốt xuất huyết, hoặc Sốt xuất huyết, thể não.

Hội chứng não cấp và những triệu chứng thần kinh ở Sốt xuất huyết đã được chứng minh trên thực tế ở Việt Nam trong các vụ dịch 1969, 1973, 1975 V. V…(Nguyễn.Hữu Lộc. 1969, Bùi Đại 1969, Nguyên Thượng Liễn 1970, Trấn Tấn Trâm – 1974 (Kỷ yếu BV Nhi Đồng 1-1974), Nguyễn Tường Vân 1977, Đỗ Hồng Ngọc 1979, Nguyễn

Thiện Thìn 1979 (Qyv 175), Lại Văn Tiến, Nguyễn Tường Lân, Võ Thị Hổng, 1982 v.v…), và ở ngoải nước (Paramaesvaran 1965, Rudnick 1965, Wong 1973, Tin 1976, Sumarmo 1978-83, Kho 1981 v.v…)

Lĩnh vực này ngày nay dần dần được chú ý nghiên cứu hơn (Lum và cs 1992-1995, Qiu và cs 1993 v.v…) Ớ.Malaysia tỷ lệ có.hội chứng não cấp ở Sốt xuất huyết độ III-IV đạt khoảng 50% từ 1991 đến 1994. Hội chứng thần kinh ở Sốt xuất huyết có thể tạm chia ra 3 nhóm:

  1. Triệu chứng thần kinh chung của nhiễm virut D. cấp (rức đầu, chóng mặt, mẽ sảng, li bì V.. )
  2. Hội chứng não cấp đôi khi khó phân biệt với viêm màng não – não: lũ lẫn, hôn mê, co giật v.v…
  3. Nhóm triệu chứng thần kinh xuất hiện muộn sau khi đã hết sốt, chủ yếu là viêm đa rễ giây thần kinh (gợi ý hội chứng Guillain Barré).

Hội chứng não cấp thường có đặc điểm rối loạn ý thức (hôn mê, cuồng sảng, vật vã, hoang tưởng), co giật (cục bộ, toàn thân) đôi khi có triệu chứng kích thích màng não, trương lực cơ tăng hoặc giảm, bại hoặc liệt… Mọi týp virut D. có thể gặp ở hội chứng não cấp, phổ biến là D2 và D3 (Hendarto và Hadinegoro, 1992, ở Indonesia; Klam, 1994 ở Malaysa; vụ dịch Sốt xuất huyết D3 1987 ở ThaiLand) Đại đa số trường hợp, nếu khỏi thường không để lại di chứng, rất hiếm gặp liệt cứng. Hội chứng não thường gặp ở những trường hợp: xuất huyết nặng, sốc kéo dài, suy gan nặng, có ĐMRRNM v.v… Tử vong của hội chứng não cấp Sốt xuất huyết là 48% (Hendarto và cs, 1992); 70% số tử vong có hội chứng não cấp (Sumarmo và cs, 1983). Dịch não tuỷ không có dấu hiệu viêm, tế bào bình thường (Nimmaninitya 1987, Hen darto và cs. 1992), nhưng có kháng thể IgM kháng D trong DNT, với hiệu giá thường thấp hơn trong huyết thanh, và mất đi sau 1 tháng (Chen, 1991; Lum, 1996); cơ thể do huyết tương đã thấm qua hàng rào máu não vào DNT, hoặc do virut đã xâm nhập qua hàng rào máu não. Virut D hãn hữu được phân lập từ DNT và từ não, tuy nhiên Rosa (1989) ở Myanmar đã phân lập được D2 từ não giữa 1 bệnh nhi 4 tháng tử vong, và gần đây ở Malaysia đã phân lập được Davà Ds từ DNT của 5 bệnh nhân (Lum, 1996). Nhưng cho tới nay vẫn chưa có bằng chứng nói lên virut D trực tiếp gây tổn thương các nơ rôn. (TCYTTG, 1997). Chụp C.T đều thấy phù nề não, điện não đồ (EEG) ghi toàn sóng chậm lan toả. Tổn thương não chỉ thấy chủ yếu phù nề não xung huyết chẹn não và đôm xuất huyết rải rác, không thấy dấu hiệu của viêm não (Bhamarapravati 1968; Nimmanitya, 1987). Từ các nhận xét trên (không có di chứng, CT và điện não đồ không thấy tổn thương định khu, tổn thương giải phẫu không thấy dấu hiệu viêm não), các tác giả cũng dùng danh từ Bệnh não cấp, Hội chứng não cấp (encephalopathv) như 1 số tác giả Việt Nam đã đề cập từ 1969 về nguyên nhân của Hội chứng não cấp trong SXH, ngoài 4 yếu tố (thoát huyết tương qua -thành mạch, xuất huyết rải rác ở não, sốc biến chứng ĐMRRNM) y văn gần đây còn nêu thêm yếu tố “giảm tưới máu não”, và yếu tố hội chứng não cấp liên  quan tới tổn thương và suy gan nặng

Xem tiếp:

  1. Chẩn đoán, điều trị sốt dengue và sốt xuất huyết dengue
  2. Sốt xuất huyết thể không điển hình và điển hình
  3. Phân loại thể bệnh sốt xuất huyết
  4. Sốt xuất huyết thể sốc ( Dengue độ 3 và 4 )
  5. Sốt xuất huyết thể xuất huyết phủ tạng (độ 2b)
  6. Sốt xuất huyết thể não
  7. Sốt xuất huyết thể suy gan cấp
  8. Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố (hct)
  9. Những biến chứng của Sốt xuất huyết xuất
  10. Tiên lượng bệnh sốt xuất huyết
  11. Chẩn đoán bệnh sốt xuất huyết
  12. Nguyên tắc điều trị sốt xuất huyết
  13. Điều trị sốt xuất huyết độ 1 -2 (không có sốc)
  14. Điều trị sốt xuất huyết độ 1-2 bằng thuốc nam y học cổ truyền
  15. Triệu chứng hô hấp trong bệnh sốt xuất huyết
  16. Những biến đổi thể dịch của bệnh sốt xuất huyết
  17. Biện pháp phòng dịch sốt xuất huyết
  18. Đường lây truyền bệnh sốt xuất huyết dengue
  19. Cơ chế lây truyền bệnh sốt xuất huyết
  20. Triệu chứng dengue xuất huyết thể điển hình (độ II)
  21. Triệu chứng thần kinh trong sốt xuất huyết
  22. Hội chứng tim mạch trong sốt xuất huyết
  23. Triệu chứng tiêu hoá trong sốt xuất huyết

Sự phát triển và tâm lý của trẻ 1- 4 tháng tuổi

Từ 1 ngày đến 1 tháng

  1. Thời gian mới sinh, thế nằm của Bé giống như khi Bé nằm trong bụng mẹ. Nếu kéo chân, tay Bé ra, Bé lại co lại.
  2. Nếu ta để ngón tay vào bàn tay Bé, Bé sẽ nắm chắc lấy có khi chặt đến nỗi các ngón tay Bé trắng bệch ra. Bàn chân Bé cũng có phản ứng tương tự.

Trẻ thường có nhiều phản ứng tự nhiên như : muốn bước đi khi được đặt theo thế đứng, muốn bú khi bị dụng vào môi… Bác sĩ thường thử đủ các phản ứng này để biết Bé có bình thường hay không.

Các cơ bắp ở cổ trẻ sơ sinh chưa có khả năng co lại như những cơ ở chân, tay : Do đó, khi ta nhấc ngửa Bé lên, Bé không ngẩng đầu lên được. Bác sĩ hay các nhà chuyên môn thường thử động tác này để xem các cơ bắp ở cổ Bé phát triển tới độ nào rồi.

Từ 1 tháng đến 4 tháng

Trẻ 1 tháng đã biết phân biệt tối – sáng, các bộ mặt quen thuộc, đường vòng, một số mầu sắc. Các cháu quan sát liên tục, nhìn mọi thứ, mọi vật cho tới khi thấy mắt mỏi. Bé nhìn chung quanh giường, những đồ chơi người lớn treo lủng lẳng trên đầu, nhìn bàn tay mình, nhìn các lá cây rung động… Mỗi ngày, mắt Bé lại có khả năng quan sát tinh tường hơn.

Tới tháng thứ 3, màu con ngươi mắt được xác định vĩnh viễn, các tuyến nước mắt bắt đầu hoạt động nên Bé đã khóc ra nước mắt. Bây giờ, Bé quay được cổ sang trái, sang phải, nên tầm nhìn của Bé rộng hơn, Bé biết nhận xét để nhớ các nét mặt quen : hình như có một khuôn mặt hay cúi xuống mình, những nét nhăn trên mặt mờ đi, miệng mở rộng… Thế rồi, tới một hôm nào đó, Bé bắt chước được nét mặt đó và nhoẻn miệng cười, nụ cười đầu tiên làm mẹ và cả nhà reo lên sung sướng.

Từ nụ cười ấy tới câu nói bập bẹ đầu tiên phải mất nhiều tháng. Trong thời gian đó, Bé có nhiều cách để làm mọi người cảm thông với mình như các tiếng ê – a, cách lăn mình sang.bên này, bên kia, cười thành tiếng v.v… Cứ như vậy, Bé mang lại những giây phút sảng khoái cho bố, cho mẹ, và cho tất cả những người thân thường quây quần quanh Bé.Thay tã lót cho bé phải chú ý những gì?

Mỗi ngày một lớn

Từ 1 tới 4 tháng, mỗi ngày Bé lại ít khóc hơn, khiến bố, mẹ cũng được ngủ yên. Bình thường thì Bé khóc mỗi ngày 3 giờ tới tuần thứ 6, và còn khóc 1/2 giờ khi đã được 3 tháng. Đây là thời gian trung bình. Có trẻ khóc nhiều hơn.

Người lớn không nên nghĩ rằng Bé khóc là Bé quấy. Vì còn nhỏ chưa biết cách thể hiện ý muốn của mình, nên Bé phải lấy tiếng khóc để báo cho mọi người biết ý muốn của mình như : muốn bế, muốn bú vì đã đói, muốn được thay tã ướt, muốn bỏ bớt mền ra vì nóng… Hoặc có những hiện tượng bất thường xảy ra với Bé như Bé bị đau bụng, Bé không ngủ được hoặc có điều gì đây làm Bé không ngủ yên, bị giật mình…

Nếu mọi việc đều bình thường thì từ tháng thứ 3 – 4, Bé ăn đều và ngủ đều. Trước kia, Bé thường ngủ lơ mơ, bây giờ giấc ngủ say và lâu hơn nhất là về đêm. Vì được ngủ say nên thời gian ngủ trong ngày ít đi. Thời gian mới sinh, Bé ngủ lơ mơ 20 giờ mỗi ngày. Được 16 tuần, Bé chỉ ngủ 18 giờ mỗi ngày, có 7 – 8 lần thức giấc. Ban đêm, Ềé không khóc nữa. Những cơn khóc vào buổi chiều cũng không còn, khi Bé được 3 tháng trở đi : có lẽ vì ở độ tuổi này, Bé không bị đau bụng nữa.

Hiện tượng ói sữa cũng không còn. Trong thời gian đầu, Bé thường bú mẹ hay bú bình mạnh quá nên nuốt cả không khí vào bụng. Bây giờ, Bé đã bú từ từ hơn, có thói quen tới bữa mới đòi bú.

Tóm lại, từ tháng thứ 3 trở đi, Bé khóc ít hơn, ngủ ngon hơn, ăn tốt hơn và đã có thói quen theo nề nếp sinh hoạt trong ngày. Người lớn có thể nhận thấy, hình như mỗi khi thức dậy, Bé đã biết chú ý quan sát những vật dụng và cả các sự việc diễn ra chung quanh mình.

  1. Bé biết nhìn theo người lớn, khi người lớn di chuyển. Bé biết cười thực sự. Nét mặt Bé thay đổi theo tình cảm.
  2. Đặt Bé nằm sấp, Bé ngẩng được đầu lên vì cổ đã cứng. Bế Bé lên khi Bé nằm ngửa, Bé cũng giữ được đầu thẳng.
  3. Bé đã biết điều khiển bàn tay của mình : khi nắm vào, lúc duỗi các ngón tay ra, giơ tay ra trước mặt, chơi đùa với bàn tay của mình. Bé biết dùng bàn tay để sờ, cào, gãi. Thấy có vật gì ở gần, Bé muốn với ngay tới vật đó. Bé biết nắm chặt tay vào các thanh giường. Nhưng nếu đánh rơi đồ chơi, Bé chưa biết tự nhặt lên.

Quen dần nề nếp

Từ 3 – 4 tháng trở đi, Bé bắt đầu biết nhận xét. Những việc chung quanh Bé thường lặp đi lặp lại như : những bữa bú, được thay tã lót, được tắm rửa, được bế hoặc nằm xe đẩy đi chơi, được nhìn thấy những khuôn mặt quen thuộc… tất cả những việc đó làm cho Bé quen dần với một nề nếp sinh hoạt hàng ngày.

Khi được bú, Bé cảm thấy vòng tay của mẹ, bầu vú, hơi ấm mùi người, tiếng nói của mẹ và sự dễ chịu khi cái đổi tan dần. Nếu được bú bình, Bé cũng cảm thấy gần đủ như vậy.

Khi được tắm, Bé nghe thấy tiếng nước chảy, cảm giác nước ấm thích thú được nằm truồng trong chậu nước, được rửa ráy, kỳ cọ.

Khi đi chơi, Bé nhìn thấy cánh cửa mở ra, bộ mặt quen thuộc của bố hay mẹ trên chiếc xe đẩy, tiếng động của đường phố, các lá cây rung động trong công viên…

Đối với các trẻ em ở tuổi này, mỗi việc làm liên quan tới Bé đều là một chuỗi các hiện tượng và cảm giác cùng với nét mặt của một số người quen thuộc. Những sự việc đó dần dần trở thành những điều quen thuộc đối với Bé. Có được nhìn thấy, cảm thấy như vậy Bé mới yên tâm. Khi đã quen với nề nếp sinh hoạt, Bé dự đoán được việc gì sắp tới trong ngày. Thí dụ, dù đói nhưng Bé cũng nán chờ được vì biết sắp tới giờ ăn và mình sẽ được ăn.

Nếu những giờ giấc và nề nếp sinh hoạt bị thay đổi, đứa trẻ sẽ thấy hoang mang và không được yên tâm. Do đó, chúng ta có thể rút ra những kết luận như sau :

  • Không nên thay đổi lịch trình sinh hoạt trong ngày một cách tùy tiện khi không cần thiết;
  • Không nên thay đổi luôn những người săn sóc Bé;
  • Nên dành cho Bé một chỗ đứng riêng, dù nhỏ, để Bé quen với chỗ của mình.
  • Nên tắm hoặc cho Bé đi dạo chơi đúng giờ giấc. Nếu có thể cũng không nên thay đổi người tắm cho Bé hoặc đưa Bé đi chơi.

Nếu cần có sự thay đổi thì phải có sự chuẩn bị. Có những thay đổi không thể tránh được như tới một thời gian nào đó, Bé phải cai sữa, thay đổi thức ăn; mẹ phải đi làm, nhờ người khác săn sóc Bé.

Phải mất một thời gian Bé mới làm quen được sự thay đổi đó, chịu đựng được sự xa cách đó. Bé cũng cảm thấy buồn, nhưng chính vì vượt qua được, mà Bé sẽ dần dần lớn lên.Nôn trớ ở trẻ nhỏ

Cai sữa

Đối vđi Bé, cai sữa không phải đơn thuần chỉ là việc thay đổi thức ăn hay chuyển cách bú, từ bú mẹ sang bú bình, mà còn là một sự mất mát lớn về tình cảm và tâm lý.

Hãy nghĩ tới tâm lý của Bé từ khi mới lọt lòng : khi thấy đói, cảm giác sung sướng nhất của Bé là được bú để làm tan hết sự khó chịu đó đi, được nằm trong vòng tay của mẹ và cảm thấy được che chở, được an toàn. Bé còn chưa biết ngồi, chưa sử dụng được bàn tay mình nên miệng Bé đúng là trung tâm của mọi cảm giác và cảm xúc : ăn, cười, ê – a thành tiếng, khóc để báo hiệu tới mọi người. Bầu vú mẹ là niềm vui, là hạnh phúc và niềm an ủi của Bé vì là vật Bé được đụng chạm trực tiếp, tập sử dụng bàn tay và cảm thấy được gần gũi với người mình thân yêu.

Vậy mà bây giờ người ta bắt Bé phải xa rời vật thân yêu đó và thay bằng một vật kỳ dị vô tri vô giác : cái bình với núm vú giả ! Chính người mẹ cũng cảm thấy bị hụt hẫng về tình cảm khi không cho con bú nữa. Bởi vậy, nhiều người cứ nấn ná, hoãn đi hoãn lại việc cai sữa cho con. Cho nên, trước khi cai sữa, phải có thời gian chuẩn bị cho cả con lẫn mẹ.

Cần phải tập cai sữa trong một thời gian dài, trong nhiều ngày hoặc trong nhiều tuần. Đứa trẻ sẽ quen dần với việc này, không phải là ít khó khăn. Nhưng sau khi đã vượt qua được, Bé sẽ trở thành cứng cáp hơn để sẵn sàng đương đầu với những trở ngại mới sẽ gặp trên con đường mỗi ngày mỗi lớn.

Những trở ngại của việc cai sữa

Có trường hợp người mẹ bất chợt phải cai sữa cho con, không có thời gian chuẩn bị. Như vậy, Bé có thể có nhiều phản ứng như : không chịu ăn sữa mới, thức ăn mới, từ chối không bú bình, ói mửa sau khi ăn, bị đau bụng v.v… Tuy vậy, không đứa trẻ nào chịu chết đói cả. Khi Bé phản ứng lại, không nên ép Bé ăn nữa. Rồi dần dần, Bé sẽ quen với chế độ ăn mới. Trong khi thay đổi chế độ ăn hoặc cai sữa, những người vẫn thường săn sóc Bé như bố, mẹ… nên trực tiếp cho Bé ăn hoặc có mặt trong lúc Bé ăn. Như vậy sẽ làm cho Bé yên tâm và an ủi Bé được một phần nào.

Thường việc cai sữa hoặc thay đổi chế độ ăn phải thực hiện một cách bất chợt là do các trường hợp như : mẹ và con phải cách xa nhau vì công việc, vì bệnh, vì mâu thuẫn gia đình, vì Bé phải tới nhà trẻ, tới trường….

Việc cai sữa có thể làm người mẹ thấy buồn rầu mất một thời gian. Nguyên nhân vừa có tính chất tâm lý : mẹ con xa nhau, không được bồng bế con trong khi ăn, không được cảm thấy sự dễ chịu khi nguồn sữa chảy ra lúc con bú. Nhưng cũng còn do nguyên nhân sinh lý nữa : khi thôi không cho con bú, thì sự hoạt động của các hoócmôn trong cơ thể cũng thay đổi.

Mẹ phải đi làm trở lại

Tại một số nước, người phụ nữ đi làm ở công sở, khi sinh con được nghỉ tới khi con được 2 tháng. Nhưng nhiều người cảm thấy đứa trẻ 2 tháng còn non quá, chưa rời được mẹ nên xin nghỉ thêm tới khi con được 4 tháng. Sự thật thì đứa trẻ 4 tháng đúng là có cứng cáp hơn và dễ dàng chịu đựng được cuộc thử thách xa mẹ này.

Tuy vậy, việc cai sữa và đưa con đi gửi hoặc để người khác săn sóc vẫn cần phải tiến hành dần dần như sau :

Ngày đầu, mẹ nên ở cùng con tại chỗ gửi (nếu có điều kiện) để Bé làm quen với các bộ mặt mới, chỗ ở mới. Thời gian đầu, chỉ để Bé ở lại 2 giờ mỗi ngày; 2, 3 ngày mỗi tuần rồi dần tăng số giờ và ngày lên.

Khi đưa con đi nhà trẻ, bố hoặc mẹ nên đưa đi? Dù Bé chưa nói được, nhưng cứ nói với Bé lý do bố, mẹ phải gửi con. Nhiều nhà tâm lý thấy rằng, đứa trẻ nghe bố mẹ nói, hình như có thể thông cảm và cũng được an ủi phần nào.

Nói chung, việc mang gửi một đứa trẻ rõ ràng là phải khác với việc mang gửi một gói hàng.

Bé lớn lên như thế nào ?

ở độ tuổi 3 – 4 tháng, Bé lớn lên do tự tìm tòi kinh nghiệm hoặc biết bắt chước. Thí dụ : Bé tự nắm được ngón tay cái của mình, giơ ra trước mắt để coi, rồi cho vào miệng mút thử.

Lần khác, Bé kêu “A, a”, nghe thấy tiếng mình lấy làm thích rồi lại thử kêu lại; Bé khua tay vào quả bóng, thấy nó chuyển động, Bé lại khua tay lần nữa, lần nữa…

Bé nhìn chung quanh, thấy người lớn cười, Bé cũng cười lại. Nụ cười của Bé làm mọi người cười vui. Bé dần dần cảm thấy mình cười sẽ làm cho người lớn cười theo.

Sự lớn khôn của Bé dựa trên việc bắt chước người lớn, làm đi làm lại nhiều lần. Mỗi lần làm lại là một lần Bé tập luyện, nhận biết và hiểu thêm.

Khi Bé làm gì, như chơi đùa với bàn tay mình, nói ê – a, Bé muốn được người lớn cùng tham gia. Nhiều người lớn thấy ngại không muốn ê – a hoặc tham gia chơi cùng Bé vì không biết rằng làm việc đó là giúp Bé luyện tập và cũng sẽ tìm thấy sự thư giãn cho mình trong trò chơi với Bé.

Từ 1 tới 4 tháng, Bé “lớn khôn” dần về mọi mặt vì :

  • Bé ngủ ít đi nên có nhiều thời gian thức hơn.
  • Bé phải qua các thử thách như đi nhà trẻ, làm quen với người lạ.

Việc thay đổi chỗ ở hoặc tới ở một nơi mới cũng khiến Bé phải có các nhận xét về con người, tiếng động, quang cảnh…

  • Trong thời gian Bé thức, mọi người tăng cường tiếp xúc với Bé : như nói chuyện với Bé, hát cho Bé nghe nhiều hơn khi trước.

Tuy vậy, cũng nên chú ý đừng làm Bé mệt. Khi bị hỏi chuyện lâu quá, tiếp nhiều người lớn quá, Bé có những biểu hiện cho biết mình đã mệt rồi như : nhắm mắt lại, quay mặt đi hoặc có hành động từ chối, trốn chạy…

Bé thích gì ?

ở độ tuổi từ 1 – 4 tháng, Bé thích gì ?

  • Thích bú mẹ, bú núm vú giả, mút ngón tay hoặc đồ vật gì có trong tay.
  • Thích nhìn chung quanh, nhìn bàn tay, cây cối, nhìn bố mẹ hoặc người lớn đứng gần mình hoặc đi lại gần nôi, thích ngắm các đồ chơi được mắc vào giường Bé.
  • Thích nghe thấy tiếng của mọi người. Từ cuối tháng thứ 2, Bé bắt đầu biết ê – a, nghe tiếng ê – a của mình và thích người lớn cùng phụ họa. Bé thích nghe tiếng hộp đồ chơi phát ra tiếng nhạc.
  • Thích được bế đi dạo.
  • Trước khi ngủ, Bé thích được yên tĩnh.
  • Khi thức giấc, Bé thích được thay đổi thế nằm.

Từ 3 tháng trở đi, Bé biết cười thành tiếng và thích được nằm hoặc bế ở chỗ đông vui, có mặt mọi người trong gia đình.

Bé không thích gì ?

Bé không thích tiếng động, sự thay đổi, những việc bất chợt làm Bé giật mình. Bé cũng không thích sự sinh hoạt không có giờ giấc nhất định, nhưng cũng không nên cứng nhắc quá.

Tất cả những cảm giác và cảm xúc Bé nhận được ngay từ khoảng thời gian đầu của cuộc sống, đều được tích trữ lại trong tâm hồn của Bé, để tới một ngày nào đó sẽ thể hiện ra trong cách ứng xử của Bé với mọi sự việc chung quanh và khi lớn, tạo thành nhân cách của một con người. Đó là những cảm xúc dễ chịu hay khó chịu, được thỏa mãn hay thất vọng, buồn rầu hay sung sướng, được phục vụ kịp thời hay phải chờ đợi… Tất cả những việc xảy ra có liên quan tới những cảm tưởng này đều được ghi nhận và biến thành tiềm thức, sẽ ảnh hưởng tới tính nết và cách hành động của Bé sau này.