Blog Trang 438

Thuốc Benazepril được sử dụng để điều trị huyết áp cao

Tên thuốc gốc: Benazepril

Tên thương mại: Lotensin HTC

Lớp thuốc: Kết hợp ACEI/Thuốc lợi tiểu, Kết hợp ACEI-HTCZ

Benazepril là gì và được sử dụng để làm gì?

Benazepril là một loại thuốc ức chế ACE (enzym chuyển đổi angiotensin) được sử dụng để điều trị huyết áp cao. Benazepril có thể được sử dụng riêng lẻ hoặc kết hợp với hydrochlorothiazide để điều trị huyết áp cao.

ACE là một enzym trong cơ thể gây ra sự hình thành angiotensin II. Angiotensin II gây co thắt các cơ xung quanh động mạch và thu hẹp các động mạch trong cơ thể, từ đó làm tăng huyết áp. Các ức chế ACE như benazepril giúp hạ huyết áp bằng cách ngăn chặn sự hình thành angiotensin II, do đó làm giãn nở các động mạch. Việc giãn nở các động mạch không chỉ làm giảm huyết áp mà còn cải thiện hiệu suất bơm máu của một trái tim đang suy yếu, từ đó có lợi cho bệnh nhân suy tim.

Giống như các ức chế ACE khác, benazepril cũng được sử dụng để điều trị suy tim hoặc bệnh thận do tiểu đường (bệnh thận), mặc dù đây không phải là các chỉ định được FDA phê duyệt cho benazepril. Các ức chế ACE khác bao gồm enalapril (Vasotec), quinapril (Accupril), captopril (Capoten), fosinopril (Monopril), ramipril (Altace), moexipril (Univasc) và trandolapril (Mavik).

FDA đã phê duyệt benazepril vào tháng 6 năm 1991.

Các tác dụng phụ của benazepril là gì?

Benazepril thường được dung nạp tốt và các tác dụng phụ thường nhẹ và thoáng qua. Các tác dụng phụ bao gồm:

  • Đau bụng
  • Táo bón
  • Tiêu chảy
  • Chóng mặt
  • Mệt mỏi
  • Đau đầu
  • Mất vị giác
  • Mất khẩu vị
  • Buồn nôn và nôn
  • Dễ bị bầm tím hoặc chảy máu
  • Đau ngực
  • Ớn lạnh
  • Khó thở
  • Chóng mặt nặng
  • Ngất
  • Sốt
  • Tê hoặc ngứa ở tay hoặc chân
  • Phát ban
  • Rối loạn cương dương
  • Cổ họng đau hoặc sưng

Một cơn ho khô và kéo dài đã được báo cáo với việc sử dụng benazepril và các ức chế ACE khác. Cơn ho sẽ giảm sau khi ngừng thuốc.

Trong một số trường hợp hiếm, đã có báo cáo về rối loạn chức năng gan và vàng da (vàng da) với các ức chế ACE. Benazepril không nên được sử dụng bởi những người có tiền sử dị ứng với các ức chế ACE. Sưng mô mặt và thậm chí đường hô hấp trên đã được báo cáo trong những trường hợp rất hiếm gặp với các ức chế ACE, và có thể dẫn đến khó thở nghiêm trọng. Trong một số trường hợp hiếm, đã có báo cáo về giảm số lượng bạch cầu với việc sử dụng một ức chế ACE. Giảm số lượng bạch cầu làm tăng nguy cơ nhiễm trùng cho bệnh nhân.

Liều lượng của benazepril là gì?

Liều khởi đầu thông thường của benazepril là 10 mg mỗi ngày. Nếu bệnh nhân đang dùng thuốc lợi tiểu (thuốc lợi tiểu), liều khởi đầu là 5 mg mỗi ngày. Liều có thể được tăng lên 20-40 mg mỗi ngày một lần hoặc chia thành hai lần mỗi ngày.

Các loại thuốc nào tương tác với benazepril?

Kết hợp benazepril với các bổ sung kali, các loại muối thay thế chứa kali và thuốc lợi tiểu bảo tồn kali như amiloride (Moduretic), spironolactone (Aldactone) và triamterene (Dyazide, Maxzide), có thể dẫn đến nồng độ kali trong máu nguy hiểm cao.

Kết hợp benazepril hoặc các ức chế ACE khác với thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs) ở bệnh nhân cao tuổi, thiếu nước (bao gồm những người đang điều trị bằng thuốc lợi tiểu) hoặc có chức năng thận kém có thể dẫn đến giảm chức năng thận, bao gồm suy thận.

Những tác dụng này thường là có thể hồi phục.

Đã có báo cáo rằng aspirin và các NSAIDs khác như ibuprofen (Advil, Children’s Advil/Motrin, Medipren, Motrin, Nuprin, PediaCare Fever và nhiều loại khác), indomethacin (Indocin, Indocin-SR) và naproxen (Anaprox, Naprelan, Naprosyn, Aleve) có thể làm giảm tác dụng của các ức chế ACE. Khi dùng với lithium (Eskalith, Lithobid), benazepril có thể làm tăng nồng độ lithium lên mức độc trong máu.

Các phản ứng nitritoid (các triệu chứng bao gồm đỏ mặt, buồn nôn, nôn và hạ huyết áp) có thể xảy ra khi vàng tiêm (sodium aurothiomalate), được sử dụng trong điều trị viêm khớp dạng thấp, được kết hợp với các ức chế ACE, bao gồm benazepril.

Benazepril có an toàn để sử dụng nếu tôi đang mang thai hoặc cho con bú không?

  • Các ức chế ACE, bao gồm benazepril, có thể gây hại cho thai nhi và không nên được sử dụng bởi phụ nữ mang thai.
  • Một lượng nhỏ benazepril được bài tiết vào sữa mẹ. Một trẻ sơ sinh được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ có thể tiêu thụ ít hơn 0,1% liều benazepril của mẹ.

Tôi nên biết thêm điều gì về benazepril?

Các dạng bào chế của benazepril có sẵn?

Viên nén: 5, 10, 20 và 40 mg.

Tôi nên bảo quản benazepril như thế nào?

Viên nén nên được bảo quản ở nhiệt độ phòng, không quá 30°C (86°F) và phải được bảo vệ khỏi độ ẩm.

Tóm tắt

Benazepril là một loại thuốc được kê đơn riêng lẻ hoặc kết hợp với hydrochlorothiazide để điều trị huyết áp cao. Các chỉ định ngoài nhãn cho benazepril bao gồm điều trị suy tim hoặc bệnh thần kinh tiểu đường. Các tác dụng phụ, tương tác thuốc, liều lượng và độ an toàn trong thai kỳ cũng như cho con bú cần được xem xét trước khi sử dụng loại thuốc này.

Viêm tủy cấp (Myelitis acuta)

Ở thế kỷ thứ XIX, hầu hết các bệnh ở tủy sống đều được gọi là viêm tủy. Morton Prince, đã viết trong Dercum’s textbook of nervous diesease năm 1895, đề cập tới viêm tủy chấn thương, viêm tủy chèn ép… Cùng với thời gian, sự hiểu biết về bệnh sinh thần kinh đã có nhiều bước tiến bộ, các bệnh lý về tổn thương tủy do các nguyên nhân khác bị loại bỏ ra khỏi bảng phân loại này và chỉ còn lại thuật ngữ viêm tủy. Nhưng cho đến ngày nay sự liên quan giữa viêm và nhiễm trùng còn chưa rõ ràng. Một vài virut chậm khác thường có thể phá huỷ các tế bào thần kinh nhưng không xuất hiện các tế bào viêm. Ngày nay trong thực tế thuật ngữ bệnh tủy (myelopathy) hay được dùng hơn.

Thuật ngữ:

Tủy sống là khu vực của 1 số quá trình viêm, một số căn nguyên tập trung phá huỷ các neuron, số khác tham gia vào màng và chất trắng hoặc đưa đến hoại tử cả chất xám và chất trắng. Thuật ngữ được chấp nhận hiện tại cho tất cả các bệnh lý tủy này là “bệnh tủy” (myelopathy). Ngoài ra còn có một số thuật ngữ chuyên biệt khác được sử dụng để chỉ ra chính xác hơn sự phân bố của quá trình viêm như sau:

  • Nếu tổn thương giới hạn ở chất xám là viêm tủy xám (poliomyelitis).
  • Tổn thương ở chất trắng là viêm tủy trắng (leucomyelitis).
    • Toàn bộ khu vực cắt ngang của tủy đều bị tổn thương được gọi là viêm tủy ngang (myelitis transversa).
    • Nếu tổn thương ở nhiều nơi và lan rộng quá phạm vi chiều dài là viêm tủy rải rác (difuse hoặc disseminated myelitis).
  • Thuật ngữ meningomyelitis là dùng trong trường hợp có sự phối hợp của viêm màng tủy và tủy sống.
    • Có thể phối hợp viêm tủy sống với viêm dây thần kinh thị giác. Gọi là viêm tủy thị thần kinh (neuromyelitis optica).
    • Các dạng bệnh lý viêm tủy cấp còn có thể phối hợp 1 số ổ viêm đồng thời có ở tủy sống và ở trong não – gọi là viêm não-tủy cấp tính (encephalomyelitis acute).
  • Có thể phối hợp viêm tủy với viêm rễ thần kinh tủy sống (myeloradiculite).
  • Một dạng viêm tủy đặc biệt khác là viêm tủy leo (liệt leo Landry).

Khái niệm về thể bệnh:

  • Viêm tủy cấp được đề cập khi các triệu chứng bệnh xuất hiện nhanh và đạt giai đoạn toàn phát trong vòng vài ngày.
  • Bán cấp là bệnh tiến triển trong khoảng thời gian từ 2 đến 6 tuần
  • Viêm tủy mạn tính với thời gian hơn 6 tuần kể từ khi khởi phát tới khi phát triển đầy đủ bệnh cảnh lâm sàng.

Nguyên nhân:

Viêm tủy cấp bao gồm những tổn thương cấp tính ở tủy sống, có thể là tiên phát hoặc thứ phát, do virut hoặc vi khuẩn gây nên.

+ Nhiễm khuẩn:

  • Tiên phát: virut dại, poliovirut, ARBO-virut
  • Thứ phát: do virut bạch hầu, cúm, sởi, vi khuẩn lị, phế cầu, tụ cầu, liên cầu, hoặc do các bệnh nhiễm trùng phức tạp khác như xoắn khuẩn giang mai, thương hàn, lỵ và các loại nhiễm khuẩn huyết khác gây nên.

+ Nhiễm độc: arsen, chì, thủy ngân và các kim loại nặng khác.

Đặc điểm tổn thương:

  • Hình ảnh tổn thương bệnh lý theo quá trình tiến triển của bệnh gồm 3 giai đoạn:
  • Nhũn tủy đỏ: Giai đoạn bắt đầu của viêm, biểu hiện xung huyết phù nề tủy, giãn mạch, xuất huyết nhỏ, những tế bào thần kinh bị tổn thương tan nhân, tạo không bào, vỡ tế bào. Các sợi trục bị huỷ myelin. Về mặt điều trị chỉ có thể làm tủy hồi phục ở giai đoạn nhũn tủy đỏ.
  • Nhũn tủy trắng:

Các tế bào và tổ chức thần kinh bị hoại tử, tế bào thần kinh bị phá vỡ hàng loạt, sợi trục bị phá huỷ.

  • Xơ hoá:

Tổ chức thần kinh bị hoại tử được thay bằng tổ chức xơ, xen kẽ các tế bào thần kinh đệm. Đây là sự sẹo hoá ở vị trí tổ chức tủy bị tổn thương.

Viêm tủy ngang cấp

Viêm tủy ngang cấp (VTNC) là thể lâm sàng thường gặp nhất của viêm tủy cấp. Trong thực tế thường hay gặp viêm tủy ngang ở đoạn tủy phình thắt lưng, đoạn tủy ngực, rất ít khi gặp ở đoạn tủy cổ.

Nguyên nhân chủ yếu tiên phát do virut cũng có thể thứ phát nhưng hiếm (sau cúm, sởi…).

Lâm sàng:

Hội chứng nhiễm khuẩn:

Bệnh thường khởi phát cấp tính bằng hội chứng nhiễm khuẩn. Sốt cao ở các mức độ khác nhau (tuy nhiên cũng có trường hợp sốt không rõ) kèm theo đau các dây thần kinh ở khu vực bị viêm, đau lan trong khoanh đoạn da do rễ thần kinh của các khoanh tủy đó chi phối. Sau một vài ngày xuất hiện triệu chứng thần kinh khu trú.

  • Hội chứng tổn thương thần kinh khu trú:

Tuỳ theo khu vực tủy bị tổn thương mà có những triệu chứng tương ứng, dấu hiệu lâm sàng phát triển điển hình của 1 tổn thương cắt ngang tủy sống.

  • Rối loạn vận động: kiểu đường dẫn truyền, liệt phần cơ thể dưới mức tủy tổn thương, giai đoạn đầu liệt mềm (đặc điểm quan trọng). Trương lực cơ phần chi liệt giảm. Giai đoạn sau chuyển sang liệt cứng.
  • Rối loạn về phản xạ: phản xạ gân xương mất (tương ứng phần chi liệt). Phản xạ da bụng mất.
  • Rối loạn cảm giác: mất cảm giác kiểu đường dẫn truyền, mất toàn bộ các loại cảm giác dưới khoanh tủy tổn thương, ngay trên vùng tổn thương mất cảm giác là vùng tăng cảm.
  • Rối loạn cơ vòng: thường xuất hiện sớm ở đa số bệnh nhân biểu hiện là bí đái, đái khó, đến khi liệt nặng chuyển sang đái dầm.
  • Rối loạn dinh dưỡng, thực vật: bệnh nhân có rối loạn dinh dưỡng trầm trọng ở khu vực bị tổn thương, biểu hiện lâm sàng là loét mục điểm tỳ sớm, loét rộng, sâu và rụng lông tóc.

Tất cả các triệu chứng trên chứng tỏ tính chất của 1 liệt mềm là hậu quả của 1 giai đoạn sốc tủy nặng nề.

Xét nghiệm:

  • Dịch não tủy: nhiều trường hợp không thay đổi đáng kể, một số có biểu hiện tăng albumin, bạch cầu N,
    • Máu: có thể tăng tốc độ máu lắng, thay đổi công thức bạch cầu.
    • Cấy khuẩn: cấy DNT hoặc cấy máu ít khi phân lập được vi khuẩn.
  • Chẩn đoán huyết thanh đặc hiệu cũng ít trường hợp xác định được rõ loại virut gây bệnh.

Chẩn đoán:

Chẩn đoán viêm tủy ngang cấp cơ bản dựa vào lâm sàng.

Chẩn đoán định khu căn cứ vào các triệu chứng thần kinh (rối loạn vận động, cảm giác…).

Chẩn đoán phân biệt.

  • Phân biệt với rối loạn tuần hoàn tủy:

Có trường hợp viêm tủy cấp khởi phát đột ngột bằng liệt hai chân, rối loạn cảm giác và rối loạn cơ vòng kiểu đột quỵ tủy sống, vì vậy cần chẩn đoán phân biệt với tắc động mạch tủy sống. Sự kiện này thường chỉ xảy ra ở khu vực của

động mạch tủy sống trước. Động mạch này cung cấp máu cho 2/3 trước của tủy, tự nuôi dưỡng chỉ bằng một số nhánh mạch máu rất hạn chế. Trong khi động mạch tủy sống sau được cung cấp bởi số lượng nhánh mạch máu ở nhiều mức khác nhau. Hội chứng động mạch tủy trước thường xảy ra do tắc một trong những mạch nuôi. Bệnh thường xảy ra ở người huyết áp cao, vữa xơ động mạch, chấn thương, chụp động mạch……

Bệnh cảnh lâm sàng điển hình là khởi phát cấp tính biểu hiện là: liệt, mất phản xạ, giai đoạn sốc tủy sẽ hết sau một vài ngày hoặc tuần, tiến triển thành liệt mềm với phản xạ gân xương nhậy và phản xạ da gan chân đảo ngược. Thêm vào đó, rối loạn cảm giác phân ly (mất cảm giác đau, nhiệt độ, nhưng còn cảm giác sâu và cảm giác tư thế vì cột sau được nuôi dưỡng bởi động mạch tủy sống sau).

  • Phân biệt với u tủy:

Có thể viêm tủy giả u, triệu chứng thần kinh tiến triển nặng dần lên, nhưng trong u tủy tiến triển chậm hơn.

Đau là bệnh cảnh nổi bật – ở nhiều bệnh nhân bệnh khởi phát bất thường với các triệu chứng của một tổn thương ngoại tủy như đau rễ, đau khu trú ở lưng, hoặc đau lan toả ở một chi và với đặc tính tăng lên khi ho hoặc kéo căng rễ.

Rối loạn vận động có thể xảy ra, liệt cứng sớm. Loét muộn và nhẹ hơn.

Có nghẽn tắc lưu thông DNT, xét nghiệm DNT có phân ly albumin – tế bào. Chụp tủy cản quang thấy vị trí tủy bị chèn ép.

  • Giang mai tủy sống:
  • Tổn thương: chủ yếu gây tổn thương cột sau tủy sống – (hay gặp là tổn thương bó Goll) và các rễ sau vùng tủy thắt lưng- cùng.
  • Triệu chứng lâm sàng: rối loạn cảm giác chủ quan và khách Đau là triệu chứng điển hình của bệnh. Tính chất của đau rất đặc biệt; bệnh nhân đau ở một vùng như kim nhọn châm chích, hoặc như điện giật , sét đánh, cơn đau xuất hiện tự nhiên hay do kích thích.
  • Rối loạn cảm giác khách quan chủ yếu hai chi dưới. Mất cảm giác sâu. Bệnh nhân đi bằng mắt, do đó khi không có ánh sáng bệnh nhân không thể đi lại được.
  • Giảm trương lực cơ và mất phản xạ gân xương (do tổn thương rễ sau của cung phản xạ khoanh tủy).
  • Rối loạn thần kinh thực vật.
    • Thay đổi trong dịch não tủy: tế bào tăng, protein tăng, chủ yếu là globulin
      • Xơ não – tủy rải rác:
    • Thuộc bệnh thoái hoá myelin, tổn thương biểu hiện rải rác ở não, tủy sống, ở não, ở tiểu não, dây thần kinh thị giác, bệnh tiến triển từng đợt một và rất hiếm gặp ở Việt Nam

Lâm sàng: bảng lâm sàng rất đa dạng, thường phối hợp mấy hội chứng sau: hội chứng tháp, hội chứng tiểu não, rối loạn cảm giác, rối loạn mắt và tiền đình.

Đặc biệt cần phân biệt là các trường hợp tổn thương bệnh lý khu trú ở tủy sống. Bệnh thường xuất hiện ở tuổi thanh và trung niên, diễn biến có tính chất tuần tiến. Có thể cả trong quá trình bệnh chỉ có triệu chứng liệt hai chi dưới.

Ngoài ra còn phân biệt với: chấn thương tủy sống; các bệnh lý của cột sống gây chèn ép tủy.

  • Dùng kháng sinh.
  • Dùng corticoid.
  • Vitamin nhóm B.

Điều trị:

  • Thuốc kích thích tăng cường dẫn truyền thần kinh (như nivalin).
  • Nuôi dưỡng: chú ý tăng thành phần đạm.
  • Chống loét: đệm lót điểm tỳ, trở mình 1 – 2 giờ một lần, lau sạch
  • Chống nhiễm trùng đường tiết niệu: không đặt sonde nếu bệnh nhân đái dầm, nếu bệnh nhân bí đái thì cho đặt sonde 2 -3 ngày rút ra, cho bệnh nhân tập đi tiểu tiện, dẫn lưu nước tiểu kín, vô trùng. Nếu đã nhiễm khuẩn bàng quang phải rửa bằng rivanol 1‰ hoặc dung dịch thuốc tím 4‰.
  • Tập vận động, châm cứu, xoa bóp, điều trị lý liệu.

Tiến triển và tiên lượng:

Nếu điều trị sớm, tích cực, săn sóc hộ lý tốt thì bệnh nhân có thể hồi phục một phần. Đã có trường hợp có di chứng bại hoặc liệt hai chi dưới, rối loạn cơ vòng

hồi phục tốt, nhưng cũng có trường hợp không hồi phục được. Những bệnh nhân tử vong là do suy kiệt và bội nhiễm.

Viêm tủy leo cấp (hội chứng Landry).

Viêm tủy leo cấp – Landry có đặc điểm lâm sàng khởi phát giống viêm tủy ngang cấp, nhưng tiến triển nhanh chóng hàng ngày hàng giờ lan dần từ thấp lên cao và có thể tổn thương lên hành não, gây tử vong nhanh do suy thở, truỵ tim mạch.

Tiên lượng dè dặt, tỷ lệ tử vong cao.

Lâm sàng:

Khởi phát thường tổn thương ở tủy lưng, với biểu hiện liệt mềm hai chi dưới, trong vòng một vài ngày liệt lên hai chi trên.

Bệnh nhân trở thành liệt mềm tứ chi, có thể thấy phản xạ bệnh lý bó tháp ở hai chi dưới. Mức độ mất cảm giác cũng lan dần từ chân lên bụng, ngực, lên chi trên và lên cổ. Rối loạn cơ vòng kiểu trung ương, lúc đầu thường là bí đái, tiểu tiện sau đái dầm ngắt quãng. Đôi khi tổn thương hai bên tủy không đồng đều, bên này nặng hơn bên kia hoặc sớm hơn bên kia, tạo nên hội 1 chứng kiểu Brown- Séquard.

Sau đó bệnh tiếp tục tiến triển, bệnh nhân đau ở cổ, gáy rồi liệt các cơ ở cổ, biểu hiện tổn thương dây thần kinh hoành, khó thở, tổn thương nhân dây thần kinh IX, X, XII, biểu hiện: nói khó, nghẹn, sặc, mất phản xạ họng – hầu, liệt vận động lưỡi. Cuối cùng rối loạn nhịp tim và bệnh nhân tử vong do truỵ tim mạch.

Mức độ liệt và rối loạn cảm giác lúc đầu càng nặng thì tiến triển càng nhanh và tiên lượng càng xấu, bệnh nhân có thể chết trong vài ngày.

Những trường hợp nhẹ mức độ tổn thương không nặng được cứu chữa kịp thời, bệnh nhân không tử vong, sau 10 – 15 ngày bắt đầu triệu chứng hồi phục một phần. Đa số để lại di chứng, thường để lại di chứng bại hoặc liệt cứng hai chi dưới, ở chi trên có thể phục hồi tốt hơn, có thể còn di chứng liệt hai chi dưới kiểu trung ương kết hợp bại hai chi trên hoặc một chi trên kiểu ngoại vi (do tổn thương ở phình cổ), biểu hiện liệt mềm, teo cơ, mất phản xạ gân xương. Hiếm gặp liệt ngoại vi ở hai chi dưới (tổn thương phình thắt lưng).

Rối loạn cơ vòng có thể được phục hồi, bệnh nhân đại tiểu tiện chủ động được. Rất hiếm trường hợp hồi phục hoàn toàn không để lại di chứng gì.

Điều trị:

Như viêm tủy ngang cấp. Điều cần chú ý ở đây là phát hiện sớm thể bệnh này, khi có khó thở thì phải hỗ trợ hô hấp kịp thời, hồi sức tích cực cho bệnh nhân.

Viêm tủy thị thần kinh (bệnh Devic).

Là 1 thể đặc biệt của viêm tủy ngang cấp. Biểu hiện của viêm kết hợp dây thần kinh thị giác với viêm tủy ngang. Thể bệnh này về lâm sàng, phát triển và điều trị tương tự như viêm tủy ngang cấp.

Tổn thương đặc hiệu:

Là thoái hoá bao myelin của sợi thần kinh, gặp ở dây thần kinh thị giác chủ yếu ở giao thoa thị giác. Trong nhiều trường hợp đây là giai đoạn đầu của biểu hiện xơ não tủy rải rác.

  • Tổn thương bất cứ nơi nào của tủy sống, nhưng phổ biến nhất là tủy sống ngực.

Lâm sàng:

Khởi phát tương đối đột ngột, triệu chứng giảm thị lực và liệt 2 chi dưới có thể cùng xuất hiện, hoặc triệu chứng thị giác xuất hiện trước chừng vài ngày hay vài tuần.

Rối loạn thị giác được biểu hiện bằng tự nhiên giảm thị lực ở 1 hay cả 2 bên, thường có ám điểm trung tâm và thu hẹp thị trường. Gai thị có hiện tượng phù viêm. Giảm thị lực từ nhẹ tới mù hẳn với tốc độ tương đối nhanh.

Sau 1 – 2 ngày hoặc 1 tuần có triệu chứng cắt ngang tủy sống, có triệu chứng rối loạn vận động và rối loạn cảm giác kiểu đường dẫn truyền, rối loạn cơ vòng.

Có thể có triệu chứng về não: đau đầu, rối loạn ý thức nhẹ, có thể có co giật kiểu

động kinh, có khi là động kinh tủy sống (co cứng 2 chi dưới, đau đớn).

Xét nghiệm:

Xét nghiệm DNT: đa số là trong giới hạn bình thường, số ít có tăng albumin nhẹ.

Tiến triển:

Kết quả điều trị tương đối khả quan. Sự hồi phục trước tiên là dây thần kinh thị giác dưới tác dụng của cocticoid. Một số để lại di chứng giảm thị lực, teo gai thị.

Viêm tủy xám cấp (bệnh bại liệt).

Con người đã biết bệnh viêm tủy xám từ hàng thế kỷ nay. Năm 1840, Jacob Heine đã mô tả bệnh cảnh lâm sàng đầu tiên. Năm 1890, Medin đã bổ sung những hiểu biết về dịch tễ học của bệnh. Đầu thế kỷ XX Landsteiner, Popper, Flexner, Levis đã xác định được bệnh do virut gây ra. Ngày nay người ta đã biết virut gây bệnh bại liệt là polio virut.

+ Đặc điểm của virut bại liệt:

Có ái tính cao với tế bào thần kinh vận động (nhất là những tế bào thần kinh vận động lớn), phá huỷ tế bào thần kinh ở sừng trước tủy sống và thân não, phân huỷ chất nhiễm sắc và tồn tại trong tế bào dưới dạng bào quan ưa axit và gây hoại tử tế bào. Chúng có thể kéo theo viêm màng tủy vùng kế cận. Virut bại liệt còn có thể xâm lấn tấn công tế bào sừng sau tủy sống, các tế bào hạch thần kinh và các tổ chức thần kinh trung ương (nhưng rất hiếm).

+ Đường xâm nhập: virut bại liệt xâm nhập vào cơ thể qua đường miệng, chúng sinh sản ở họng, ruột và tổ chức lympho của Amidal, sau đó vào hạch cổ và mạc treo ruột rồi vào máu (thời gian chúng ở trong máu rất ngắn). Vào giai đoạn này chúng không gây triệu chứng lâm sàng. Sau đó chúng xâm nhập vào tổ chức thần kinh bằng con đường nào thì ý kiến của các tác giả còn chưa thống nhất. Đa số các tác giả cho rằng có hai con đường xâm nhập là qua hàng rào mạch máu – não và qua xinap thần kinh – cơ.

Dịch tễ:

Bệnh lưu hành trên khắp thế giới, nhất là các vùng nóng, có thể xảy ra vào mọi thời kỳ nhưng thường vào cuối hạ sang thu.

Có thể xảy ra lẻ tẻ (sporadic), địa phương (endemic) nhưng cũng có thể xảy ra thành dịch (epidemic).

Tuổi rất hiếm gặp dưới 6 tháng tuổi; thường gặp trong giai đoạn 5 – 10 tuổi. Nhưng nói chung có thể gặp ở mọi lứa tuổi.

ở Việt Nam trong vòng 10 năm từ năm 1979 đến 1988, tình hình bại liệt trẻ em đã giảm xuống khá nhiều, tuy nhiên tỷ lệ mắc bệnh vẫn tương đối cao. Đặc biệt ở miền Nam cao khoảng gấp 10 lần hơn ở miền Bắc. Mặc dù tỷ lệ tử vong do bại liệt không lớn lắm nhưng điều quan trọng hơn là các di chứng thần kinh rất khó hồi phục về mặt vận động nên chiến lược của Tổ chức Y tế thế giới là tiến tới thanh toán bệnh này trên toàn thế giới.

Lâm sàng:

Bệnh khởi đầu giống nhiễm khuẩn cấp. 25% trường hợp các triệu chứng khởi phát mất đi sau 36 – 48 giờ, sau đó bệnh nhân thấy sức khoẻ hồi phục 2 – 3 ngày. Tiếp theo là sốt đợt 2 kèm theo hội chứng màng não, đau đầu tăng dần, đau cơ xuất hiện và thường khu trú ở gáy và thắt lưng. Có thể có rối loạn ý thức nhẹ. Thường sau khi có triệu chứng thần kinh đầu tiên 3 – 5 ngày thì liệt xuất hiện. Nhưng cũng có khi liệt là triệu chứng thần kinh xuất hiện đầu tiên hoặc rất muộn (sau 2- 3 tuần). Tổn thương vận động tiến triển nhanh trong vòng 3 – 5 ngày. Liệt thường khu trú ở tứ chi, cũng có khi cơ thân cũng tổn thương. Những trường hợp nặng các cơ hô hấp và cơ hoành cũng bị liệt. Thông thường triệu chứng sốt tồn tại 4 – 7 ngày, sau đó thân nhiệt giảm dần và trở về bình thường.

Xét nghiệm:

  • Dịch não tủy: Trong dịch não tủy thường thấy tăng tế bào, từ 10 – 200 bạch cầu/mm3, hiếm khi tới trên 500 bạch cầu/mm3. ở giai đoạn sớm của bệnh, tỷ lệ bạch cầu đa nhân đối với limpho thường cao nhưng chỉ trong vài ngày tỷ lệ đó sẽ đảo ngược. Protein não tủy tăng vừa, trung bình khoảng 40 – 50mg/100mm3 nhưng cũng có trường hợp mức protein tăng cao hơn nữa và tồn tại trong nhiều tuần. Còn lượng glucoza não tủy trong danh giới bình thường.
  • Phân lập virut:

Lấy phân của bệnh nhân ngay khi mới khởi phát và trong các thời gian tiếp theo. Người ta thường sử dụng nuôi tế bào của người hoặc của khỉ để theo dõi sự phát triển của virut bại liệt. Có thể phát hiện được virut bại liệt ở bệnh nhân trong vòng 2 tuần đầu với tỷ lệ 80% nhưng sang 2 tuần tiếp đó chỉ đạt được tỷ lệ 20%.

  • Huyết thanh học:

Các kháng thể trung hoà thường xuất hiện sớm và có thể phát hiện được ngay sau khi bệnh nhân vào viện. Cần lấy máu kép để thử phản ứng huyết thanh và qua đó đánh giá được hiệu giá kháng thể.

Chẩn đoán:

ở đa số các trường hợp chẩn đoán có thể dễ dàng, căn cứ vào liệt mềm tiến triển không đối xứng, thay đổi dịch não tủy. Trong những trường hợp không điển hình hoặc mới ở giai đoạn khởi phát, nếu bệnh nhân mới được tiêm chủng hoặc ở vùng đang có dịch cần sớm nghĩ tới viêm tủy xám.

Dịch não tủy thấy có tăng áp lực, tăng tế bào, tăng đạm nhẹ (nếu liệt nặng có thể tăng 1 – 3g/l). Lưu ý tế bào tăng sớm (trước khi liệt) và giảm nhanh, trong khi đó đạm tăng muộn và tồn tại nhiều tuần sau.

Điều trị:

Điều trị viêm tủy xám như điều trị viêm tủy ngang.

Hiện nay chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu nên cần phải điều trị triệu chứng. Vấn đề quan trọng là trong giai đoạn cấp, ngay tại giường bệnh đã phải đề phòng các biến dạng tư thế. ở các giai đoạn sau cần đẩy mạnh phục hồi chức năng.

Tiên lượng:

Gần 10% tử vong trong giai đoạn đầu của bệnh do suy thở, suy hô hấp và biến chứng phổi.

Thể có tổn thương hành não có tỷ lệ tử vong cao nhất (trên 50%).

Tiên lượng xấu nếu có liệt rộng, liệt tiến triển chậm và có các đợt gây liệt thêm các nhớm cơ mới.

Sự phục hồi phụ thuộc vào mức độ lan rộng và mức độ nặng nề của liệt.

Một số bệnh nhân có hội chứng postpolio biểu hiện bằng các triệu chứng: yếu cơ tái phát, teo cơ tiến triển và rung giật bó sợi cơ. Hay còn gọi là “teo cơ tiến triển sau viêm tủy xám”.

Phòng bệnh:

Cần sử dụng văcxin phòng bại liệt cho tất cả các trẻ em và trong các vụ dịch. Có hai loại vắcxin hiện nay: loại vắcxin bất hoạt với formalin và loại vắcxin Sabin.

Nước ta thường xuyên thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng phòng 6 bệnh phổ biến trong đó có bệnh bại liệt trẻ em.

Viêm não – tủy do tiêm văc-xin phòng bệnh dại.

Khi tiêm văc-xin phòng bệnh dại có thể gây nên viêm não – tủy. Triệu chứng thường xuất hiện sau khi tiêm lần cuối cùng và có thể sau khi tiêm văc-xin khoảng 1 – 2 tháng.

Có 3 thể lâm sàng chính:

  • Liệt leo cấp tính: bệnh cảnh giống như bệnh tủy leo cấp tính nêu ở trên. Bệnh nhân sốt, đau đầu, tăng kích thích sau 2 – 3 ngày xuất hiện liệt 2 chi dưới, sau đó liệt lên hai chi trên và liệt lên hành não, đe dọa tính mạng của bệnh nhân.
  • Thể viêm tủy thắt lưng: bệnh cảnh lâm sàng giống như viêm tủy ngang cấp.
  • Thể viêm nhiều dây thần kinh: biểu hiện hay gặp là tổn thương các dây thần kinh sọ não như dây VII, III, IV, V và các dây thần kinh như dây trụ, dây quay, dây thần kinh hông

Thường kèm theo các triệu chứng não chung như nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, nôn, co giật,v.v…

Một số thể viêm tủy cấp khác.

  • Viêm tủy cấp một phần:

Tổn thương không cắt ngang hoàn toàn tủy sống, do vậy triệu chứng lâm sàng biểu hiện không mất dẫn truyền của tủy sống một cách toàn bộ.

Nếu tổn thương ngang 1/2 tủy sống sẽ gây hội chứng Brown – Séquard. Bệnh nhân mất toàn bộ cảm giác sâu và tinh vi bên tổn thương và kèm theo liệt nửa người. Bên đối diện thì mất cảm giác nhiệt đau.

Tổn thương ở mép xám trước ở vùng phình cổ sẽ có biểu hiện phân ly cảm giác, mất cảm giác đau và cảm giác nóng, lạnh; còn xúc giác và cảm giác sâu, khu trú ở hai tay và nửa trên ngực hình cánh bướm.

  • Viêm sừng trước tủy cấp tính:

Virut xâm nhập chủ yếu vào đầu sừng trước tủy sống làm huỷ hoại các tế bào vận động của sừng trước.

Viêm sừng trước tủy sống cấp tính do virut bại liệt – bệnh bại liệt ở trẻ em là một thể bệnh điển hình. Ngoài ra viêm tủy do virut khác gây nên cả ở người lớn. Biểu hiện lâm sàng thần kinh giống như bệnh bại liệt, yếu liệt kiểu ngoại biên, liệt mềm, trương lực cơ giảm và dinh dưỡng rối loạn nhanh với phản ứng thoái hoá điện.

Tóm lại viêm tủy cấp hay có thể gọi là bệnh tủy cấp tính do nhiều nguyên nhân gây nên, có những thể lâm sàng khác nhau. Cần chú ý khám kỹ về thần kinh để chẩn đoán định khu và chẩn đoán xác định bệnh.Việc điều trị cần chú ý khâu săn sóc hộ lý phục vụ bệnh nhân.

Tài liệu tham khảo

  1. Đức Hinh (1993). Bệnh bại liệt trẻ Tập huấn về kỹ năng giám sát và xác định bệnh bại liệt. Chương trình tiêm chủng mở rộng thanh toán bệnh bại liệt quốc gia – Bộ Y tế.
  1. Nguyễn Xuân Thản (1996), Lâm sàng Thần kinh dùng cho sau Đại học, Học viện Quân Y
  2. Văn Thành (1984), Hội chứng và bệnh học thần kinh, Nhà xuất bản Y học.
  3. D.Adams, M.Victor, A.H.Ropper (1997), Principles of Neurology, International Edition.
  4. Barnett H.J.M., J.P.Mohr (1998), Spinal cord ischemia, Stroke, Churchill Livingstone, 751 – 766.
  5. Bradley W.G., Daroff R.B., Fenichei M., (1996). Neurology in clinical practice, Butterworth – Heinemann.
  6. Greenberg D.A., Aminoff J., Simon R.P. (1996), Motor deficits, Clinical Neurology, Appleton & Lange.
  7. Samuels M.A., (1999). Manual of neurologic therapeutics, Lippincott William & Wilkins.

Nguyên nhân, triệu chứng, điều trị Bệnh Wilson

Tên khác: thoái hoá gan-nhân bèo tiến triển.

Định nghĩa

Bệnh di truyền do giảm bài tiết nguyên tố đồng khỏi cơ thể, làm cho nguyên tố này tích tụ trong các cơ quan như gan, não, và các cơ quan khác nữa. Bệnh biểu hiện bởi cứng cơ toàn thân, rối loạn lời nói (loạn ngôn ngữ), run và xơ gan.

Căn nguyên

Bệnh di truyền nhiễm sắc thể thân kiểu lặn. Gen bất thường nằm ở trên nhiễm sắc thể 13; có khoảng 20 kiểu biến dị khác nhau của gen này đã được phát hiện. Ngay từ khi mowsi sinh, hàm lượng ceruloplasmin trong máu của trẻ bị bệnh đã giảm, dẫn tới tích tụ nguyên tố đồng trong gan, rồi sau đó khi gan đã bão hoà nguyên tố đồng thì nguyên tố này tích tụ trong não. Hàm lượng trong huyết thanh của đồng tăng từ 10 tới 20 lần so với giá trị bình thường. Bài tiết đồng theo nước tiểu tăng lên (chứng tăng đồng-niệu).

Giải phẫu bệnh

Thoái hoá tế bào thần kinh ở những nhân bèo (một trong những nhân xám dưới vỏ đại não, hoặc còn gọi là nhân xám trung ương) của não, nhất là ở nhân bèo sẫm và ở nhân bèo nhạt với mức độ kém hơn. Lắng đọng chất đồng ở trong não, trong gan, trong da (có màu xám nhạt) và trong giác mạc. Sinh thiết gan có thể thấy hình ảnh thoái hoá mỡ. Xơ gan nốt to (các tổn thương xơ hoá có hình những cục hoặc nốt rất to) thường tiềm tàng và được phát hiện khi mổ tử thi.

Triệu chứng

DẤU HIỆU THẦN KINH: bệnh khởi phát ở trẻ em vào lúc 6 tuổi bởi những rối loạn tâm thần, cứng cơ (những động tác chủ động bị hãm lại bởi động tác quá mức của các cơ đối vận), run lúc nghỉ hoặc run cố ý và cười co cứng vì tăng trương lực các cơ bám da mặt, xúc cảm không bền vững. Có những động tác tự động kiểu múa vờn (chậm chạp) hoặc múa giật (nhanh). Bệnh nhân hay bị run hữu ý và rối loạn lòi nói (loạn ngôn ngữ). Tất cả những triệu chứng vừa nêu trên đều do hệ thống thần kinh ngoại tháp bị tổn thương, trong khi hệ tháp và các cảm giác đều bình thường.

DẤU HIỆU GAN: bệnh có thể biểu hiện bởi viêm gan mạn tính hoạt động, xơ gan, hoặc hay gặp nhất là gan to không triệu chứng.

VÒNG KAYSER-FLEISCHER: do lắng đọng chất đồng màu xanh nhạt hoặc nâu nhạt thành một vòng xung quanh kết mạc, giữa kết và giác mạc mắt. Hiếm thấy bệnh nhân bị đục nhân mắt (đục thuỷ tinh thể).

CƠN TAN HUYẾT CẤP TÍNH: có thể xảy ra. Nguyên nhân là do độc tính của chất đồng tác động lên màng của hồng cầu.

THỂ BÙNG PHÁT: Vàng da, suy tế bào gan cấp tính.

Xét nghiệm cận lâm sàng

  • Giảm ceruloplasmin huyết thanh (< 200 mg/1).
  • Tăng hàm lượng đồng trong nước tiểu (> 100 pg trong 24 giò).
  • Tăng hàm lượng đồng trong huyết thanh.
  • Tăng enzym transaminase thường xuyên.
  • Chọc sinh thiết gan: tăng lượng đồng trong mô gan (> 250 pg/g mô gan sấy khô).
  • Điều tra gia đình: định lượng ceruloplasmin huyết thanh và chọc sinh thiết gan để phát hiện và điều trị những thể không có biểu hiện triệu chứng.

Tiên lượng

Nếu không điều trị thì thường bệnh trở nên nguy kịch trước tuổi 30.

Điều trị

Cho các chất tạo phức với đồng, đặc biệt là penicillamin uống với liều trung bình 0,5 g hai lần mỗi ngày, cộng thêm 25 mg vitamin B6 (pyridoxin) mỗi ngày. Bệnh nhân phải tiếp tục điều trị suốt đời. Theo dõi huyết đồ (vì nguy cơ giảm tiểu cầu), và nước tiểu (để phát hiện sớm hội chứng thận hư). (Về chi tiết của những hiệu quả không mong muốn, xem: penicillamin).

Ghép gan được chỉ định khi bệnh gan tiến triển, dù đã điều trị thuốc như trên, và trong những thể bùng phát khi phải phòng ngừa hậu quả nguy kịch.

Đối với những thể dị hợp tử không triệu chứng thì không cần điều trị.

GHI CHÚ: Bệnh giả xơ cứng Westphal-Strümpell là một thể thoái hoá gan-nhân bèo trong đó những biểu hiện lâm sàng nổi trội là những động tác múa vờn nhưng không cứng cơ.

Bài thuốc độc hoạt ký sinh thang

Độc hoạt tang ký sinh (Độc hoạt ký sinh thang)

Thành phần Độc hoạt tang ký sinh:

Tế tân 4g Ngưu tất 12g Độc hoạt 9g
Phục linh 12g Tần giao 6g Đỗ trọng 12g
Phòng phong 6g Quế tâm 6g Ký sinh 6g
Nhân sâm 6g Xuyên khung 6g
Đương quy 12g Cam thảo 6g
Thục địa 12g Thược dược 12g
Tế tân 4g Ngưu tất 12g

 

Cách dùng: Sắc nước uống

Công dụng Độc hoạt tang ký sinh: Khu phong thấp, chỉ tý thống, ích can thận, bổ huyết.

Chủ trị Độc hoạt tang ký sinh: Tý chứng lâu ngày, can thận lưỡng hư, khí huyết bất túc, lưng gối đau nhức, khớp chi co duỗi khó khăn hoặc tờ dại khó chịu, sợ lạnh thích ấm, tim rung, đoản khớ, lưỡi nhạt rêu trắng, mạch tế nhược.

Phân tích phương thuốc: Trong bài này Độc hoạt làm quân, có tác dụng trị phong phục lâu ngày, chuyên trừ khử phong hàn thấp tả ở hạ tiờu và khoảng gân cốt. Phối ngũ với Tế tân phỏt Tán âm kinh phong hàn, giảm đau. Phòng phong đuổi phong tà thắng thấp; Tần giao trừ phong thấp mà thư duỗi cân; Tang ký sinh, Đỗ trọng, Ngưu tất đuổi phong thấp kiêm bổ can thận; Đương quy, Xuyên khung, Thục địa, Bạch thược dưỡng huyết lại kiêm hoạt huyết; Nhân sâm, Phục linh bổ khí kiện tỳ; Quế tâm ấm thụng huyết mạch, Cam thảo điều hoà các vị thuốc. Tổng hợp cả bài, khu tà phũ chính, kiờn cố cả gốc ngọn, có thể khiến huyết khứ mà phong thấp trừ, can thận mạnh lên mà tờ đau khỏi.

Gia giảm:

Đau nhiều gia Địa long, Hồng hoa, Ô đầu để đuổi phong thông lạc.

Hàn tà thiên thắng gia Phụ tử.

Thấp tà thắng gia Phòng kỷ.

Chính khí không hư có thể bỏ Nhân sâm, Thục địa.

Ứng dụng lâm sàng: Ngày nay thường dùng Độc hoạt tang ký sinh để điều trị đau dây thần kinh toạ, lao tổn mạn tính của tứ chi hoặc sống lưng, đau khớp, viêm khớp xương, viêm khớp dạng phong thấp…

Tham khảo thêm>>>

ĐỘC HOẠT KÝ SINH THANG

(Phụ: Tam tý thang)

« Thiên kim phương »

Thành phần:

  1. Độc hoạt 12 gam
  2. Tang ký sinh 16-40 gam
  3. Tần giao 12 gam
  4. Phòng phong 12 gam
  5. Tế tân 4-8 gam
  6. Đương quy 12 gam
  7. Thược dược 12 gam (Bạch hay Xích)
  8. Xuyên khung 8-12 gam
  9. Địa hoàng 16-24 gam (Sinh hoặc Thục)
  10. Đỗ trọng 12 gam
  11. Ngưu tất 12 gam
  12. Nhân sâm 12 gam (hoặc Đảng sâm)
  13. Phục linh 12 gam
  14. Chích thảo 4 gam
  15. Quế tâm 4 gam

Cách dùng: Ngày 1 thang sắc nước chia 2 lần uống.

Công dụng: Khư phong thấp, bổ khí huyết, ích can thận, chỉ tý thống.

Chủ trị: Phong hàn thấp tý, khớp đau nhức, lưng đau mỏi.

Giải bài thuốc: Đây là phương tễ trị chung các chứng phong hàn thấp tý gồm hai loại vị thuốc:

  1. Lấy khư tà làm chủ:

Độc hoạt, Tế tân, Phòng phong, Tần giao, để khư phong thấp, giảm đau.

  1. Lấy phù chính làm chủ:

Nhân sâm, Phục linh, Cam thảo, Địa hoàng, Thược dược, Đương quy, Xuyên khung. Tức là: Bát trân thang bỏ Bạch truật, có công năng song bổ khí huyết, trong đó phần Tứ vật có tác dụng hoạt huyết (trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt), lại gia Ký sinh, Đỗ trọng, Ngưu tất để bổ can thận mạnh eo lưng, đầu gối, mạnh gân xương. Vì thế phương này có thể chữa thấp khớp thể hư rất là công hiệu.

Gia giảm: Nếu thiên hàn, tăng ôn dược, còn gia chế Phụ tử, thiên nhiệt nên tăng Tần giao, Địa hoàng, Xích thược. Tỳ hư thấp nặng, ỉa nhão, bỏ Địa hoàng gia Thương truật, ứ huyết gia Đào nhân, Hồng hoa.

Phụ phương:

Tam tý thang: Tức là bản phương bỏ Ký sinh, gia Hoàng kỳ, Tục đoạn, tức là lấy bài Thập toàn đại bổ làm cơ sở và gia thuốc bổ can thận, khư phong thấp mà hợp thành. Cách trị cũng như phương trên, nhưng có Hoàng kỳ thì tác dụng bổ hư càng mạnh.

Lịch Tiêm Chủng Ở Người Lớn của Mỹ

  1. Vaccine Cúm

Vaccine cúm được khuyến cáo tiêm hàng năm cho tất cả trẻ trên 6 tháng tuổi, và người lớn. Người lớn khỏe mạnh, không mang thai dưới 50 tuổi không có bệnh lí nguy cơ cao có thể tiêm vaccine sống, giảm độc lực (FluMist), hoặc vaccine bất hoạt. Các đối tượng khác nên tiêm vaccine bất hoạt. Người trên 65 tuổi có thể tiêm vaccine cúm chuẩn hoặc vaccine cúm liều cao (Fluzone). Các thông tin khác xem tại http://www.cdc.gov/vaccines/vpd-vac/flu/default.htm.

  1. Vaccine Bạch Hầu, Ho Gà, Uốn Ván (DPT/DT)

Tiêm 1 liều DPT cho người lớn dưới 65 tuổi, trước đó chưa tiêm hoặc không nhớ để thay cho mũi tiêm DT nhắc lại và tiêm sớm cho các đối tượng 1) phụ nữ sau sinh, 2) tiếp xúc với trẻ dưới 12 tháng tuổi (vd, ông bà, người chăm sóc trẻ) 3) nhân viên y tế tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân. Người lớn từ 65 tuổi trở lên, chưa tiêm DPT trước đó, và tiếp xúc với trẻ dưới 12 tháng tuổi nên được tiêm vaccine. Những người khác từ 65 tuổi trở lên có thể tiêm DPT. Vaccine DPT có thể tiêm mà không cần tính khoảng cách giữa các liều vì hầu hết các vaccine đều chứa uốn ván hoặc bạch hầu.

Với người lớn không rõ tiền sử tiêm chủng hoặc chưa hoàn thành 3 mũi vaccine DT nên tiêm đầy đủ 3 mũi đó. Với người chưa tiêm vaccine, tiêm 2 mũi đầu cách nhau ít nhất 4 tuần và mũi tiêm thứ 3 sau đó 6-12 tuần. Với người tiêm chưa đủ (vd, tiêm ít hơn 3 mũi), tiêm các mũi còn lại. Thay thế 1 liều DPT cho 1 liều DT, hoặc trong 3 mũi tiêm cơ bản hoặc trong lần tiêm nhắc lại.

Nếu phụ nữ mang thai và lần tiêm vaccine DT gần nhất cách từ 10 năm trở lên, tiêm vaccine DT trong quý thứ 2 hoặc 3 của thai kì. Nếu mới tiêm cách đây dưới 10 năm, tiêm vaccine DPT ngay sau sinh. Bác sĩ có thể cân nhắc, Vaccine DT có thể hoãn tiêm khi mang thai và thay thế bằng DPT sau sinh, hoặc tiêm DPT thay thế cho DT với phụ nữ mang thai sau khi tham khảo ý kiến của bệnh nhân.

Tiêm vaccine DT dự phòng trong trường hợp chấn thương, xem tại http://www.cdc.gov/vaccines/pubs/acip-list.htm.

  1. Vaccine Thủy Đậu

Tất cả người trưởng thành chưa có miễn dịch với thủy đậu nên tiêm 2 mũi vaccine thủy đậu nếu chưa tiêm trước đó hoặc mũi thứ 2 nếu trước đó mới tiêm 1 mũi, trừ khi có chống chỉ định. Cần đặc biệt chú ý đến các đối tượng 1) tiếp xúc gần với những người có nguy cơ cao mức bệnh nặng (vd nhân viên y tế, người thân tiếp xúc với người suy giảm miễn dịch hoặc 2) nguy cơ tiếp xúc, lây truyền cao (vd, giáo viên, người chăm sóc trẻ, sinh viên, quân đội, người vị thành niên và người lớn sống cạnh trẻ em, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ không mang thai, người du lịch)

Bằng chứng miễn dịch với thủy đậu gồm: 1) tiêm đủ 2 mũi vaccine thủy đậu cách nhau ít nhất 4 tuần; 2) sinh tại Mỹ trước năm 1980 ( nhưng với nhân viên y tế, phụ nữ có thai không nên cho là đã có miễn dịch); 3) tiền sử thủy đậu đã được chẩn đoán, xác nhận bởi bác sĩ ( với những bệnh nhân nói tiền sử có các triệu chứng không điển hỉnh hoặc triệu chứng nhẹ, bác sĩ nên tìm mối liên quan với dịch tễ, với các ca bệnh đã được chẩn đoán xác định, hoặc bằng chứng của xét nghiệm, nếu xét nghiệm làm ở giai đoạn cấp tính của bệnh; 4) tiền sử nhiễm herpes zoster đã được chẩn đoán bởi bác sĩ; or 5) bằng chứng xét nghiệm có miễn dịch hoặc mắc bệnh.

Phụ nữ có thai nên được đánh giá miễn dịch với thủy đậu. Những người chưa có miễn dịch nên tiêm liều đầu khi hoàn thành hoặc đình chỉ thai nghén và trước khi ra viên. Liều thứ 2 nên tiêm sau liều đầu 4-8 tuần.

  1. Vaccine HPV

Vaccine HPV (loại chống 4 chủng – HPV4) hoặc (loại chống 2 chủng – HPV2) được khuyến cáo cho phụ nữ ở tuổi 11,12  và có thể tiêm ở tuổi 13-26 nếu chưa tiêm.

Lí tưởng, nên tiêm vaccine trước khi tiếp xúc với HPV qua quan hệ tình dục, tuy nhiên, phụ nữ đã quan hệ vẫn nên tiêm dựa trên khuyến cáo ở nhóm tuổi đó. Những phụ nữ đã quan hệ tình dục nhưng chưa nhiễm bất kì typ HPV nào trong 4 typ (typ 6,11,16,18, phòng được bỏi HPV4) hoặc bất kì typ nào trong 2 typ (typ 16,18, đều được phòng bởi HPV2) có hiệu quả đầy đủ của vaccine. Hiệu quả giảm đi ở những phụ nữ nhiễm từ 1 typ HPV trở lên. Có thể tiêm HPV4 hoặc HPV2 ở phụ nữ có mụn cóc ở bộ phận sinh dục, test Pap bất thường, XN gen HPV dương tính, vì nó không phải là bằng chứng cho thấy đã nhiễm tất cả các typ HPV trong vaccine.

HPV4 có thể tiêm ở nam tuổi 9-26 để giảm khả năng mụn cóc sinh dục. HPV4 có hiệu quả nhất khi tiêm trước khi tiếp xúc với HPV qua quan hệ tình dục.

Tiêm vaccine HPV4 hoặc HPV2 đầy đủ gồm 3 mũi. Mũi tiêm thứ 2 nên cách mũi 1 từ 1-2 tháng; và mũi 3 nên tiêm sau mũi đầu 6 tháng.

Mặc dù HPV không được khuyến cáo cho các trường hợp đặc biệt trong Hình 2, “Các vaccine có thể chỉ định cho trường hợp đặc biệt hoặc bệnh lí”, nhưng có thể tiêm cho những đối tượng này vì HPV không phải là vaccine sống. Tuy nhiên, đáp ứng miễn dịch và hiệu quả của vaccine có thể giảm hơn so với người bình thường.

  1. Vaccine Herpes zoster

Một liều vaccine zoster được khuyến cáo cho người lớn từ 60 tuổi trở lên dù trước đo đã nhiễm herpes zoster hay chưa. Những người có bệnh mãn tính có thể tiêm trừ khi bệnh đó là chống chỉ định.

  1. Vaccine Sởi, Quai Bị, Rubella (MMR)

Những người sinh trước  năm 1957 thường được coi là đã có miễn dịch với sởi và quai bị. Với tất cả những người sinh từ năm 1957 trở lại đây cần có thông tin đã tiêm từ 1 liều vaccine MMR trở lên trừ khi có chống chỉ định, bằng chứng về xét nghiệm có miễn dịch với 3 bệnh đó hoặc đã mắc sởi, quai bị được chẩn đoán. Với rubella, thông tin đã mắc bệnh không được chấp nhận là đã có miễn dịch.

Với Vaccine sởi: Liều MMR thứ 2, tiêm cách mũi 1 ít nhất 28 ngày, được khuyến cáo cho người lớn mà 1) gần đây tiếp xúc với sởi hoặc sống trong vùng có dịch; 2) học sinh tại các trường phổ thông trở lên; 3) làm việc tại các cơ sở y tế; 4) dự định đi du lịch quốc tế. Những người đã tiêm vaccine sởi bất hoạt hoặc vaccine không rõ loại từ 1963-1967 nên tiêm lại với 2 liều vaccine MMR.

Với Vaccine quai bị: Liều MMR thứ 2, tiêm cách mũi 1 ít nhất 28 ngày, được khuyến cáo cho người lớn mà 1) sống trong cộng đồng có dịch quai bị và nằm trong nhóm tuổi chịu ảnh hưởng; 2) học sinh tại các trường phổ thông trở lên; 3) làm việc tại các cơ sở y tế; 4) dự định đi du lịch quốc tế. Những người đã tiêm vaccine sởi bất hoạt hoặc vaccine không rõ loại từ trước năm 1979 mà có nguy cơ cao nhiễm virus quai bị (vd, nhân viên làm việc tại các cơ sở y tế) nên tiêm lại với 2 liều MMR.

Với Vaccine Rubella: Với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, bất kì tuổi nào, nên xác định miễn dịch với rubella. Nếu không có miễn dịch, nên tiêm vaccine cho phụ nữ không mang thai. Với phụ nữ mang thai chưa có miễn dịch thì nên tiêm MMR sau khi hoàn thành hoặc đình chỉ thai nghén và trước khi ra viện.

Nhân viên y tế sinh trước năm 1957: Với người chưa tiêm vaccine sinh trước 1957 mà không có bằng chứng xét nghiệm miễn dịch với sởi, quai bị và/hoặc rubella, hoặc đã mắc bệnh, các cơ sở y tế nên 1) xem xét tiêm vaccine cho nhân viên với 2 liều MMR (cho sởi và quai bị) và 1 liều MMR (cho rubella) và 2) khuyến cáo tiêm 2 liều MMR khi có dịch sởi hoặc quai bị và 1 liều MMR khi có dịch rubella. Thông tin đầy đủ về bằng chứng có miễn dịch xem tại http://www.cdc.gov/vaccines/recs/provisional/ default.htm.

  1. Vaccine Phế Cầu Loại polysaccaride (PPSV) Tiêm vaccine cho tất cả các đối tượng sau:

Bệnh lí: Bệnh phổi mạn tính (gồm hen phế quản); bệnh tim mạch mạn tính; đái tháo đường; bệnh gan mạn; xơ gan; uống rượu kéo dài; mất lách giải phẫu hoặc chức năng (vd, bệnh hồng cầu hình liềm hoặc cắt lách [nếu cắt lách theo chương trình, tiêm vaccine trước phẫu thuật tối thiểu 2 tuần]); tình trạng suy giảm miễn dịch (gồm suy thận mạn hoặc hội chứng thận hư); cấy ốc tai và dẫn lưu dịch não tủy. Tiêm vaccine cho người nhiễm HIV..

Khác: Người sống tại các nhà điều dưỡng hoặc các cơ sở chăm sóc và những người hút thuốc. Tiêm vaccine phế cầu không được chỉ định thường qui cho người Ấn gốc Mỹ hoặc người dưới 65 tuổi trừ khi họ có bệnh lí là chỉ đình cần tiêm vaccine. Tuy nhiên, có thể cân nhắc tiêm vaccine cho người Ấn gốc Mỹ và người tuổi 50-64 sống trong vùng có nguy cơ nhiễm phế cầu cao.

  1. Tiêm Nhắc Lại Vaccine Phế Cầu

Tiêm nhắc lại 1 lần sau 5 năm được khuyến cáo cho người tuổi 10-64 có hội thận hư hoặc suy thận mạn; mất lách giải phẫu hoặc chức năng (vd, bệnh hồng cầu hình liềm hoặc cắt lách); và người suy giảm miễn dịch. Với những người từ 65 tuổi trở lên, tiêm nhắc lại 1 lần đã tiêm vaccine trước đó từ 5 năm trở lên và ở tuổi dưới 65.

  1. Vaccine Màng Não Cầu

Nên tiêm vaccine màng não cầu cho các đối tượng sau:

Bệnh lí: Khuyến cáo tiêm 2 liều vaccine liên hợp màng não cầu cho người trưởng thành mất lách giải phẫu hoặc chức năng, hoặc giảm thành phần bổ thể kéo dài. Người nhiễm HIV đã được tiêm trước đó cũng nên tiêm 2 liều cách nhau 2 tháng.

Khác: Khuyến cáo tiêm 1 liều vaccine màng não cầu cho sinh viên năm 1 chưa tiêm vaccine sống trong kí túc; các nhà vi sinh hàng ngày tiếp xúc với não mô cầu; các tân binh sĩ; và những người du lịch tới, sống ở vùng có dịch (vd, ‘’vùng viêm màng não’’ ở Châu Phi vào mùa khô [Tháng 12 – 6]), đặc biệt khi tiếp xúc với dân bản địa lâu dài. Chính phủ Arabia yêu cầu tiêm vaccine cho tất cả khách du lịch tới Mecca.

Vaccine màng não cầu liên hợp, 4 chủng (MCV4) thường ưu tiên cho người dưới 55 tuổi; Vaccine màng não cầu polysaccharide (MPSV4) thường ưu tiên cho người từ 56 tuổi trở lên. Khuyến cáo tiêm nhắc lại vaccine MCV4 5 năm/1 lần cho người đã tiêm MCV4 hoặc MPSV4 nhưng vẫn còn nguy cơ cao nhiễm khuẩn (vd, người mất lách giải phẫu hoặc chức năng, hoặc suy giảm bổ thể kéo dài).

  1. Vaccine Viêm Gan A

Tiêm vaccine cho tất cả những người muốn phòng viêm gan A và những đối tượng sau:

Hành vi: Nam giới quan hệ đồng tính, người dùng thuốc đường tiêm.

Nghề nghiệp: Người tiếp xúc với động vật nhiễm HAV hoặc HAV trong phòng thí nghiệm.

Bệnh lí: Bệnh gan mạn tính, bệnh nhân truyền yếu tố đông máu.

Khác: Những người du lịch tới hoặc làm việc tại các quốc gia có tỉ lệ nhiễm HAV trung bình, cao (danh sách các nước xem tại http://wwwn.cdc.gov/travel/contentdiseases.aspx).

Những người chưa tiêm vaccine mà có tiếp xúc gần (vd, cùng nhà, trông giữ trẻ) với những người nước ngoài trong 60 ngày đầu đến Mỹ từ các nước tỉ lệ nhiễm HAV trung bình, cao nên được tiêm vaccine. Liều đầu trong 2 liều vaccine nên được tiêm sớm nhất có thể khi biết cần tiếp xúc, tốt nhất trước đó 2 tuần.

Vaccine đơn kháng nguyên nên tiêm 2 liều vào tháng 0 và tháng 6-12 (Havrix), hoặc tháng 0 và tháng 6–18 (Vaqta). Nếu tiêm vaccine kết hợp HAV và HBV (Twinrix) nên tiêm 3 liều vào tháng 0, 1, và 6; hoặc, 4 liều vào ngày 0, 7, và 21–30,sau đó tiêm nhắc lại vào tháng thứ 12.

  1. Vaccine Viêm Gan B

Tiêm vaccine cho tất cả những người muốn phòng viêm gan B và những đối tượng sau:       

Hành vi: Những người quan hệ tình dục không phải mối quan hệ một vợ một chồng (vd, một người quan hệ vớ nhiều hơn 1 bạn tình trong 6 tháng trước đó); những người đang khám và điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục; hiện tại hoặc gần đây sử dụng thuốc đường tiêm; và nam giới quan hệ đồng tính.

Nghề nghiệp: Nhân viên y tế hoặc ngành nghề có tiếp xúc với máu hoặc các dịch cơ thể khác có nguy cơ nhiễm HBV.

Bệnh lí: Bệnh nhân có bệnh thận giai đoạn cuối, gồm cả những bệnh nhân đang lọc máu; nhiễm HIV; bệnh gan mạn.  Khác: Sống cùng hoặc quan hệ tình dục với người nhiễm HBV mạn; bệnh nhân hoặc nhân viên của các viện cho người chậm phát triển; người du lịch tới các nước có tỉ lệ nhiễm HBV mạn mức trung bình, cao. (danh sách các nước xem tại http:// wwwn.cdc.gov/travel/contentdiseases.aspx).

Vaccine viêm gan B được khuyến cáo cho tất cả người trưởng thành trong các cơ sở sau: cơ sở điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục; xét nghiệm và điều trị HIV; điều trị và phòng nghiện chất; hệ thống chăm sóc sức khỏe có sử dụng thuốc đường tiêm; điều trị bệnh thận giai đoạn cuối và cơ sở lọc máu;…

Tiêm các liều còn thiếu để đủ 3 liều vaccine viêm gan B cho người chưa tiêm hoặc tiêm chưa đủ. liều thứ 2 nên tiêm sau liều đầu 1 tháng, liều thứ 3 tiêm sau liều 2 ít nhất 2 tháng (cách liều 1 ít nhất 4 tháng). Nếu tiêm vaccine phối hợp viêm gan A/B (Twinrix), tiêm 3 liều vào tháng 0,1 và 6; hoặc 4 liều vào ngày 0, 7, 21 – 30 và tiêm nhắc lại vào tháng thứ 12.

Người đang lọc máu hoặc có suy giảm miễn dịch nên tiêm 1 liều 40 μg/mL (Recombivax HB) theo lịch 3 liều hoặc 2 liều 20 μg/mL (Engerix-B) theo lịch 4 liều vào tháng 0, 1, 2, và 6.

  1. Các bệnh lí cần tiêm Vaccine Hib

1 liều vaccine Hib nên tiêm cho các đối tượng: bệnh hồng cầu hình liềm, lơ xê mi, nhiễm HIV, hoặc cắt lách, nếu họ chưa tiêm vaccine Hib trước đó.

  1. Bệnh lí suy giảm miễn dịch

Ở người suy giảm miễn dịch, thường tiêm vaccine bất hoạt (vd, phế cầu, màng não cầu, cúm) và nên tránh vaccine sống. xem thêm tại  http://www.cdc.gov/vaccines/pubs/acip-list.htm.

 

 

Bài thuốc dân gian chữa giun sán

  1. Sán lãi

Chuối chín lột chấm ăn thường

Rang tán hột bỏ muối nhằm trị phương Bao nhiêu sên lãi tìm đường vong thân.

Tiểu hồi, bông cỏ, Sử quân

Cam thảo tán mạt uống lần bụng không.

  1. Sán xơ mít
  • Hạt mủn (sao qua tán nhỏ) 3 lạng
  • Đường cát 2 lạng

Tối nhịn cơm, sáng nướng 1 miếng thịt lợn, ăn thuốc xong ăn luôn thịt lợn. Cứ làm việc như thường, 2 giờ chiều con sán ra. Chỉ ăn vào đầu tháng âm lịch từ tháng 1 đến tháng 10 (đầu tháng sán ăn lên, cuối tháng sán ăn xuống)

  1. Giun dũa
  • Nước cốt rau sam 100g (hoặc nấu lấy nước)
  • Muối – Giấm thanh 1 thìa
  • 2 giờ sau giun ra hết.
  1. Sán lãi trẻ em Trẻ em có lãi, bụng lớn, nổi gân xanh.

Đâm nát củ và rễ cỏ ống, vắt nước cốt uống 3 lần lúc bụng đói. Mỗi lần uống 1 ly nhỏ.

  1. Sán lãi trẻ em
  • Trâm bầu già 100 hột – Nấm gốc tre 10 tai Đâm, xắt nhỏ, ngào đường cho ăn lúc bụng đói.
  1. Sên lãi làm bụng lớn “trướng”
  • Rễ và vỏ cây lựu 20g – Dây Hà thủ ô 5g
  • Hạt cau tầm vung 10g

Sắc cho kẹo uống lúc bụng đói.

Uống vô đau bụng, triệu chứng sên lãi chết.

  1. Thuốc xổ lãi

Xuyên Đại hoàng 3 chỉ

Sắc 1,5 chén nước, lấy 1/3 chén uống lúc đói.

  1. Thuốc trừ căn

Đốt 1 cục vôi ăn trầu cháy đỏ, để vô nước sôi, lấy nước trong nấu cháo mà ăn.

Vỏ cây sầu đâu (cỡ 3 ngón tay) 1 miếng – Phèn chua (cỡ ngón tay út) 1 cục

Sắc 1,5 chén, lấy 1/3 chén, sáng sớm uống cho hết. Cách 10 ngày lại uống nữa, luôn 3 lần.

  1. Toa trị sán lãi – bụng nổi gân xanh

Đâm rau sam, vắt 1/2 chén nước uống với tí muối.

Cỏ mực 1 nắm

Cỏ Mần trầu 1 nắm

Gừng sống 2 lát

Rau má 1 nắm

Muồng trâu 3 lá

Rễ tranh 1 nắm

Thuốc cứu 10 lá

  • Nấm mọc gốc tre 5 tai
  • Cây ké đầu ngựa 1 nắm
  • Vỏ quít 1 nắm
  • Trâm bầu 100 hột
  • Cam thảo đất 1 nắm
  • Sả 7 lá

Sắc 3 chén, lấy 2 phần chén. Chia 2 lần uống trong ngày, uống liên tiếp 3 ngày.

  1. Sán xơ mít

Cây thù lù tía (thân, cả gốc rễ, sao, khử thổ)

Sắc 3 chén còn 7 phân, uống thì ra liền.

  1. Các loại giun sán, quấy trong bụng sinh đau nhức vùng tim, hoặc nhổ nhiều nước trong
  • Cá lạt nấu nhạt, ăn no, ăn 3 – 5 lần là khỏi.
  • Cỏ nụ áo, phơi khô, tán luyện mật, viên bằng hạt ngô đồng, 1 lần uống 10 viên với nước nóng, ngày 3 lần.
  1. Bị giun quấy mà đau tim
  • Mật gấu, 1 cục bằng hạt đậu, hòa tan trong nước, uống.
  1. Giun đũa quấy đau nhói trong bụng, nhổ ra nước miếng trong
  • Long đởm thảo 1 lạng, bỏ gốc cắt nhỏ, đổ 2 chén nước sắc lấy 1 chén, nhịn đói 1 đêm, sáng sớm uống hết.
  1. Bạch thốn trùng
  • Hạt ngút, tán 3 đồng cân, tuần đầu tháng, tối hôm trước không ăn cơm, chỉ ăn thịt nướng, đến 4 giờ khuya lấy nước hòa bột ngút, ăn, đến 9 – 10 giờ trưa thì sán ra chết hết. Sau đó, ần cháo để bảo vệ tạng khí và khỏi hại tỳ vị, không được ăn cơm.
  • Rễ lựu 1 nắm rửa sạch. Hạt cau khô 5 hạt, sắc đặc, sáng sớm dùng 1 miếng thịt lợn nướng vàng ngậm vào miệng, để cho sán ngoi đầu lên, 1 lúc nhả thịt ra, uống nước thuốc vào, sán chết mà ra hết.
  1. Bạch thốn trùng (sán xơ mít)
  • Hạt cau khô 14 hạt, tán, còn vỏ cau thì đổ vào 2 bát nước sắc lấy 1 bát, rồi hòa 1 đồng cân bột hạt cau đó mà uống lúc đói, ít ngày thì sán ra hết, lại uống thêm như trên, sán ra hết mới thôi.
  • Cành dâu, dùng dao tre cạo lấy vỏ trắng 3 nắm, nước 3 bát sắc lấy 1 bát, chờ ăn bữa cơm tối, sáng sớm mai đang đói bụng là uống, thì sán liền xuống hết, uống 2 – 3 lần thì dứt nọc.
  • Rau sam, sắc lấy 1 bát nước cho ít muôi và giấm uống lúc đói, nên uống 2-3 lần sán xuống hết thì thôi.
  1. Xà trùng bụng đau, miệng ứa ra nước dãi trong
  • Lá Ngải cứu 1 nắm, nước 2 thăng sắc còn 1 thăng, uống, trùng sẽ mửa ra hoặc tả ra.
  • Rễ Ý dĩ, cắt nhỏ 1/2 cân, uống lúc đói.
  • Lá Ngải tươi, giã vắt lấy nước 1 bát, đầu canh 5 (4 giờ sáng) trước ăn 1 miếng thịt nướng, hồi lâu uống nước Ngải, sán tự ra.
  • Hạt cau khô 2 lạng thái nhỏ, rượu 2 bát, sắc lấy 1/2, chia ra uống.
  • Cà dại, mổ lấy hạt, luyện mật, viên bằng hòn đạn 1 lần uống 3 viên lúc đói, sán ăn mật là chết.
  • Mộc nhĩ cây hòe, đốt tồn tính, tán, uống với nước nóng lúc đói độ 2 đồng cân, sán ra hết.
  1. Giun ra đàng miệng và mũi
  • Ô mai sắc nước thường uống và ngậm là yên.
  1. Giun

Vỏ cây xoan còn tươi 300g, sắc lấy nước đặc, cho vào 300g gạo nấu thành cơm phơi khô cơm, đem rang cho đường vào như cốm calci bằng 3 liều cho người lớn (mỗi liều độ 100g gạo và 100g vỏ xoan)

* Cách uống: Uống buổi sáng bụng đói, 3-4 giờ sau ăn cháo hay ăn cơm và làm việc bình thường, giun sẽ chết hoặc yếu và ra theo phân không cần uống thuốc tẩy.

  1. Giun
  • Ô mai 20g
  • Chỉ xác 6g
  • Hạt đắng cay 6g
  • Thanh bì 6g

* Bốn thứ ngâm kiệt

  • Vỏ Núc nác 6g
  • Nam mộc hương 10g
  • Vỏ rễ xoan
  • Binh lang 8g
  • Sử quân tử 10 hột
  • Hàn: uống với nước sắc gừng khô và Quế chi 4 g
  • Nhiệt: Uống với nước sắc Kim Ngân hoa, Nhân trần.

    Sử quân tử
    Sử quân tử
  1. Đau bụng giun, thổ nhiều nước dãi trắng
  • Cá trạch nấu nhạt ăn cả nước và cái, 5 – 6 lần là khỏi
  1. Sán xơ mít
  • Binh lang (3-7 hạt) tán

Trước lấy vỏ cau nấu với 2 thăng nước rồi hòa 1 đồng cân bột Binh lang uống khi đói, vài ngày sau sán ra, chưa ra lại uống, ra hết thì thôi.

Hoặc thêm Thạch lựu bì càng kiến hiệu

Hoặc tổ ong đốt tồn tính, tán, uống với 2 thìa con rượu sán ra ngay.

  1. Giun đũa
  • Vỏ rễ cây xoan cùng nấu với trứng gà cho chín, ăn khi đói (lấy thứ xoan có quả mới không độc)
  1. Giun đũa, miệng chảy bọt dãi
  • Sử quân tử, bỏ vỏ, tán, canh năm uống 1 đồng cân với nước cơm.
  1. Tẩy giun đũa
  • Hạt keo dậu 20g

Rang hạt keo dậu, rang cho đến khi có mùi thơm, ăn vào buổi sáng lúc đói, ăn trong 3 ngày liền.

  1. Thuốc trừ giun
  • Quán chúng, cải ráng, phơi khô giòn, tán 1 lạng
  • Nga truật tẩm giấm sao 1 lạng
  • Nam mộc hương 1 lạng
  • Thanh bì (bỏ múi) sao 1 lạng
  • Hậu phác (vỏ vối) cạo vỏ, tẩm gừng sao 1 lạng
  • Sa nhân sao 5 đồng cân
  • Binh lang thái mỏng phơi khô 5 đồng cân
  • Xuyên tiêu chọn những hoa nở rồi, bỏ hột trong đi 2,5 đồng cân
  • Ngô thù rửa rượu sao 2,5 đồng cân
  • Sử quân (quả giun) bỏ vỏ và màng, tẩm nước vo gạo sao 3 đồng cân Các vị tán nhỏ rây mịn đóng lọ nút kín
  • Cách dùng: Trẻ 1 tuổi, uống 1 đồng cân
  • 3 tuổi: uống 1,5 đồng cân

5 tuổi: uống 2 đồng cân

Nấu nước gừng và ô mai làm thang cho uống

  • Kiêng ăn: các thứ béo – ngọt – tanh
  • Kết quả: trẻ em giun sán đau bụng khỏi 95%

Nếu muôn cho ra giun thì uống thuốc này 3 ngày – đến ngày thứ tư nhịn cơm 1 bữa, nghỉ cách đêm, sáng hôm sau cho ăn cùi dứa, nếu không có cùi dứa thì cho ăn bột bí ngô sao, ăn chán thì thôi, buổi chiều sẽ ra giun.

  1. Thuốc chữa bệnh sán
  • Rễ lựu tươi 1 lạng                       – Rễ cau 1 lạng
  • Xuyên tiêu hoa 5 đồng cân       – Hạt hẹ 3 đồng cân

Các vị để tươi, đều rửa, hạt hẹ tán dập trộn vào 3 vị trên, cho 3 bát nước sắc lọc lấy 2 bát, cho nước vào hòa, sắc lại lấy 1 bát.

  • Cách dùng: Nếu định uống vào sáng sớm hôm sau thì ngày hôm trước ăn cơm nát hoặc ăn cháo.

Sáng sớm đun lại thuốc cho nóng uống một hơi hết thuốc, sau khi uống 15 phút có phản ứng chóng mặt không nên đi lại, khi đi đại tiện thì đi vào trong chậu nước âm ấm để sán khỏi đứt khúc.

  • Kiêng kỵ: Nên ăn cơm nhão hoặc cháo 1 tuần
  • Chú thích: Bài thuốc này có rễ lựu trắng, rễ cau có độc nên khi dùng phải cẩn thận liều uống ở trên là dùng cho người lớn và trẻ em từ 9 – 10 tuổi trở lên giảm đi nửa liều và chỉ dùng thuốc này khi nào cơ thể khỏe.
  1. Sán nhỏ
  • Đun 1 chén nước cau, rau sam hòa với muối giấm, uống khi đói.
  1. Sán xơ mít
  • 1 nắm rễ lựu mọc ở phía đông, sắc với nước, rồi đốt tổ ong tồn tính cho vào một ít rượu, uống, sán bị chết và tông ra hết, sau ăn cháo để bổ lại.
  1. Tẩy giun sán
  • Phèn xanh, Thương truật, 2 lạng, sao Nếu đầy bụng thì gia Mộc hương.
  1. Giun chui ống mật
  • Ô mai 2 đồng cân
  • Sử quân tử 3 đồng cân
  • Binh lang 2 đồng cân
  • Sài hồ 2,5 đồng cân
  • Mộc hương 0,5 đồng cân
  • Thiên niên kiện 1 đồng cân
  • Chỉ thực 2 đồng cân
  • Hậu phác 3 đồng cân
  • Thanh bì 2 đồng cân

Bệnh túi thừa và viêm túi thừa đại tràng

Tên khác: bệnh túi thừa đại tràng.

Định nghĩa

  • Bệnh túi thừa: có các túi thừa
  • Viêm túi thừa: niêm mạc phủ mặt trong túi thừa bị viêm.

Dịch tễ học

Tỷ lệ mắc bệnh túi thừa là khoảng 10% ở những nước phát triển, tỷ lệ này thay đổi từ 5% ở lứa tuổi 50 tới 30% hoặc 50% kể từ 60 tuổi trở lên. Giữa hai giới không có khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh.

Căn nguyên

  • Bệnh túi thừa: chưa rõ căn nguyên. Chế độ ăn nghèo chất sợi có thể là một yếu tố thuận lợi cho túi thừa đại tràng phát triển.
  • Viêm túi thừa: thường do vi khuẩn đường ruột, các cầu khuẩn ruột.

Giải phẫu bệnh

90% số trường hợp túi thừa đại tràng nằm ở đại tràng sigma, 10% ở đại tràng xuống hoặc toàn bộ đại tràng. Túi thừa “khổng lồ” (đường kính > 3 cm) hiếm thấy, và thường chỉ có một túi duy nhất.

Triệu chứng

BỆNH TÚI THỪA ĐẠI TRÀNG: những túi thừa đại tràng thường không có triệu chứng, và được phát hiện ngẫu nhiên nhân khám X quang. Tuy nhiên, bệnh túi thừa đại tràng cũng có thể gây ra những triệu chứng tương tự với triệu chứng của bệnh ruột dễ bị kích thích. Chảy máu có thể xảy ra không có nguyên nhân rõ rệt. Chẩn đoán chủ yếu dựa vào X quang.

VIÊM TÚI THỪA ĐẠI TRÀNG: là bệnh cảnh của “viêm ruột thừa ở bên trái”, với đau hố chậu trái, sốt, tăng bạch cầu trong máu, phản ứng cơ thành bụng ở vùng hố chậu trái. Thăm trực tràng bằng ngón tay thấy túi cùng Douglas đau ở phía trái. Nội soi đại tràng cho thấy viêm niêm mạc ở vùng xung quanh của túi thừa.

X quang: thụt baryt cho thấy hình ảnh đặc biệt của túi thừa, hiếm khi thấy hình ảnh một túi “khổng lồ”. X quang còn cho phép loại trừ trường hợp ung thư đại tràng.

Nội soi đại tràng: nhất thiết phải làm nếu X quang cho hình ảnh nghi ngồ ác tính.

Chụp cắt lớp vi tính: được chỉ định trong trường hợp viêm túi thừa cấp tính không đáp ứng điều trị nội khoa, hoặc nếu nghi ngờ viêm đã trở thành apxe (sờ nắn thấy một khốì, sốt cao, V..V…).

Biến chứng

Viêm quanh tạng gây hẹp:trong trường hợp viêm túi thừa, một đoạn đại tràng thường là ở đại tràng sigma có thể bị hẹp và gây tắc ruột tiến triển.

Apxe quanh đại tràng sờ nắn thấy: có thể hình thành và vỡ vào ổ phúc mạc (gây ra viêm phúc mạc nặng).

Rò: rò đại tràng sigma-bàng quang dẫn tới nhiễm khuẩn đường tiết niệu và những bọt khí có mùi thôi xuất hiện trong nước tiểu (gọi là tràn khí niệu).

Chảy máu:chảy máu ở ạt hoặc ẩn, bệnh nhân không đau bụng, thường xảy ra ở đại tràng phải. Khó phát hiện được vị trí chảy máu bằng soi đại tràng hoặc bằng chụp động mạch mạc treo ruột chọn lọc. Nên soi dạ dày để loại trừ khả năng chảy máu đường tiêu hoá trên (cao).

Thủng.

Chẩn đoán phân biệt

Phải phân biệt bệnh túi thừa đơn thuần với bệnh đại tràng dễ bị kích thích và bệnh loạn sản mạch máu đại tràng. Viêm túi thừa đại tràng thì cần chẩn đoán phân biệt với nhiều bệnh khác của đường tiêu hoá và ngoài đường tiêu hoá, nhất là những bệnh đại tràng dễ bị kích thích, viêm ruột thừa cấp tính, bệnh Crohn, viêm trực-đại tràng loét xuất huyết, viêm đại tràng do thiếu máu cục bộ, ung thư đại tràng, viêm bể thận- thận cấp tính, sỏi niệu, khối phân.

Điều trị

  • Bệnh túi thừa đơn thuần,xem: chế độ ăn trong bệnh đại tràng dễ bị kích thích. Ngoài ra, cho thêm thuốc chống co thắt nếu bệnh nhân đau bụng. Thông thường nên yêu cầu cắt bỏ túi thừa “khổng lồ”.
  • Viêm túi thừa cấp tính: thuốc kháng sinh ví dụ cefoxitin (1- 1,5g, 4 lần mỗi ngày) hoặc ciprofloxacin (0,5g, 2 lần mỗi ngày) cộng thêm metronidazol (500 mg, 3 lần mỗi ngày). Ngoài ra, chế độ ăn (xem: chế độ ăn trong viêm túi thừa đại tràng). Cắt đoạn đại tràng nếu bệnh nhân trên 50 tuổi và viêm không giảm hoặc tái phát.
  • Viêm quanh tạng gây hẹp: cắt đoạn đại tràng khi giai đoạn cấp tính đã được chữa khỏi (xem: tắc ruột).
  • Apxe quanh đại tràng và viêm phúc mạc: dẫn lưu bằng phẫu thuật đồng thời điều trị thuốc kháng sinh. Mở thông đại tràng tạm thời ở phía trên đoạn bị apxe. Khâu nối lại đại tràng khi đã làm chủ được nhiễm khuẩn và tình trạng toàn thân cho phép.
  • Chảy máu: điều trị nội trú, truyền máu. Trong trường hợp chảy máu tái phát thì cắt đoạn đại tràng. Có thể rất khó phát hiện vị trí chảy máu, ngay cả khi làm nội soi đại tràng và chụp động mạch, cắt toàn bộ đại tràng trong trường hợp chảy máu tái phát và không thể tìm thấy vị trí chảy máu.

Thương nhĩ tử

Thương nhĩ tử ( 苍耳子 )

Tên và nguồn gốc

– Tên thuốc: Thương nhỉ tử (Xuất xứ: Thần nông bản thảo kinh).

– Tên khác: Đài nhĩ thật (枱耳实), Ngưu sắt tử (牛虱子), Hồ tẩm tử (胡寝子), Thương lang chủng (苍郎种), Miên đường lang (棉螳螂), Thương tử (苍子), Hồ thương tử (胡苍子), Ngạ sắt tử (饿虱子), Thương khỏa tử (苍棵子), Thương nhĩ tật lê (苍耳蒺藜).

– Tên Trung văn: 苍耳子Cang’erzi

– Tên Anh văn: Siberian Cocklour Fruit, Fruit of Siberian Cocklebur

– Tên La tinh:

Xanthium sibiricum Patrin.ex Widder Xanthium mongolicum Kitag.- Nguồn gốc: Là quả của Thương nhĩ mang tổng bao thực vật họ Cúc ( Feverfew).

Phân bố

Cả Trung Quốc các vùng đều có sản xuất, chủ yếu sản xuất ở các vùng Sơn Đông, Giang Tây, Hồ Bắc, Giang Tô v.v…

Thu hoạch

Vào khoản tháng 8 ~9, lúc quả đã chín hái xuống phơi khô; hoặc cắt lấy cả gốc, đánh quả xuống, nhặt sạch tạp chất, phơi khô.

Ké đầu ngựa - Thương nhĩ tử
Ké đầu ngựa – Thương nhĩ tử

Bào chế

Nhặt sạch tạp chất, bỏ gai, sàng đi bụi vụn, sao hơi đến sắc vàng, lấy ra để nguội.

Tính vị

– Trung dược đại từ điển: Ngọt, ấm, có độc.

– Trung dược học: Cay, đắng, ấm.

– Bản kinh: Vị ngọt, ấm.

– Biệt lục: Đắng.

– Phẩm hối tinh yếu: Vị đắng ngọt, tính ấm, có độc nhỏ.

Qui kinh

– Trung dược đại từ điển: Vào kinh Phế, Can

– Trung dược học: Có độc, vào kinh Phế.

– Lôi Công bào chế dược tính giải: Vào kinh Phế.

– Ngọc thu dược giải: Vào kinh Túc quyết âm Can.

– Bản thảo cầu chân: Vào Can, Tỳ.

– Hội ước y kính: Vào 2 kinh Can, Thận.

Công dụng và chủ trị

Tán phong, ngừng đau, khu thấp, sát trùng. Trị đau đầu phong hàn, tỵ uyên, răng đau, phong hàn thấp tý, tay chân co đau, ghẻ chốc, ngứa ngáy.

– Bản kinh: Chủ phong đầu lạnh đau, phong thấp chu tý, tay chân cong co đau, thịt độc cơ chết.

– Bản thảo thập di: Ngâm rượu trừ phong, bổ ích.

– Nhật Hoa tử bản thảo: Trị tất cả phong khí, thêm tủy, ấm lưng gối. Trị tràng nhạc, ghẻ lở và ngứa ngáy.

– Bản thảo mông thuyên: Ngừng đau đầu, giỏi thông đỉnh môn, đuổi phong độc, gánh vác ở tuỷ xương, giết cam trùng thấp trốn.

– Bản thảo chính: Trị tị uyên.

– Bản thảo bị yếu: Giỏi phát hãn, tán phong thấp, trên thông đỉnh não, dưới chạy xuống chân gối, ngoài đạt bì phu. Trị đau đầu mắt tối, đau răng, tỵ uyên, bỏ gai.

– Ngọc thu dược giải: Tiêu sưng khai tý, tiết phong khứ thấp. Trị ghẻ nhọt, phong ngứa ẩn chẩn.

– Yếu dược phân tể: Trị tỵ tức (Mũi mọc thịt thừa).

– Hội ước y kính: Điều trị các chứng trĩ.

– Bản thảo tái tân: Trị nhức mắt.

Cách dùng và liều dùng

Sắc uống, 3 ~9g. Hoặc cho vào hoàn tán.

Kiêng kị

– Trung dược đại từ điển: Đau đầu, tý thống do huyết hư kỵ uống.

– Trung dược học: Huyết hư đau đầu không nên dùng. Uống quá liều dễ trúng độc.

– Đường bản thảo: Kị thịt heo, thịt ngựa, nước vo gạo.

– Bản thảo tái tân: Tán khí hao huyết, người hư chớ uống.

Nghiên cứu hiện đại

  1. Thành phần hoá học: Bổn phẩm hàm chứa Xanthostrumarin, Dầu béo, Alkaloid, Xanthanol, Protein, Vitamin C v.v… (Trung dược học).
  2. Tác dụng dược lý:

Xanthostrumarin có tác dụng giáng đường huyết rõ rệt đối với chuột lớn, thỏ và chó bình thường. Thuốc sắc có tác dung trấn ho. Liều nhỏ có tác dụng hưng phấn hô hấp, lìều lớn có tác dụng ức chế. Bổn phẩm có tác dụng ức chế đối với tạng tim, làm nhịp tim giảm chậm, lực thu co giảm yếu. Có tác dụng giãn nở đối với mạch máu tai thỏ; tiêm tỉnh mạch có tác dụng giáng áp ngắn tạm thời. Có tác dụng ức chế nhất định đối với khuẩn cầu chùm sắc vàng kim, khuẩn liên cầu loại B, khuẩn song cầu viêm phổi, và đồng thời có tác dụng chống chân khuẩn (Trung dược học).

Phụ dược

Thương nhĩ thảo (苍耳草) Là thân lá của Thương nhỉ. Tính vị đắng, cay, hơi lạnh; có độc nhỏ. Công năng khư phong, thanh nhiệt, giải độc. Chủ yếu dùng trị chứng phong thấp tý thống, tay chân cong cấp v.v…. Cũng có thể dùng trị chứng ma phong, đinh độc, da dẻ ngứa ngáy. Bổn phẩm có độc, uống trong không nên quá liều, cũng không được uống lâu dài. Liều dùng 6 ~ 15g, sắc nước hoặc nấu cao và cho vào hoàn tán. Dùng ngoài lượng thích hợp. Bổn phẩm tán khí hao huyết, người thể hư nên cẩn thận dùng.

Bài thuốc cổ kim tham khảo

+ Phương thuốc 1:

Trị các chứng phong váng đầu hoa mắt, hoặc não đầu công đau: Thưong nhĩ nhân 3 lượng, Thiên ma, Bạch cúc hoa đều 3 chỉ.

(Bản thảo hối ngôn)

+ Phương thuốc 2:

Trị đại ma phong (bệnh hủi): Thương truật 1 cân, Thương nhĩ tử 3 lượng, đều nghiền nhỏ, cơm làm hoàn như hạt ngô đồng, ngày uống 3 lần, mỗi lần 2 chỉ. Kị phòng sự 3 tháng.

(Đỗng thiên áo chỉ)

+ Phương thuốc 3:

Trị ghẻ chốc, tiêu phong tán độc: Thương nhỉ tử sao thịt hến ăn.

(Sinh thảo dược tính bị yếu)

+ Phương thuốc 4:

Trị mũi chảy nước đục không ngừng: Tân di hoa nửa lượng, Thương nhĩ tử 2 chỉ rưỡi, Hương bạch chỉ 1 lượng, Bạc hà nửa chỉ. Thuốc trên tất cả phơi khô làm thành bột mịn. Mỗi lần uống 2 chỉ, dùng hành, trà xanh điều uống sau bửa ăn.

(Tế sinh phương – Thương nhĩ tán)

+ Phương thuốc 5:

Trị đau răng: Thương nhĩ tử 5 thăng, dùng nước 1 đấu, nấu lấy 5 thăng, nóng ngậm vậy, nguội nhổ ra, nhổ ngậm lại, không quả, thân lá cũng dùng được vậy.

(Thiên kim dực phương)

+ Phương thuốc 6:

Trị đinh nhọt độc: Thương nhỉ tử 5 chỉ, sao qua nghiền bột, rượu vàng quấy uống; đống thời dùng tròng trắng trứng gà thoa vào chổ bệnh, rễ đinh nhọt nhổ ra.

(Kinh nghiệm quảng tập – Thương nhĩ tửu)

+ Phương thuốc 7:

Dùng dịch cô đặc thuốc ngâm nước Thương nhỉ tử điều trị 15 ca thương hàn, toàn bộ kiến hiệu, thời gian hạ sốt 10 giờ ~ 19 ngày, gan lách to 5 ~ 7 ngày tiêu mất, 7 ca , máu, phân, dịch mật trực khuẩn thương hàn dương tính, sau khi điều trị toàn bộ chuyển âm.

(Tạp chí Trung y dược Thương Hải, 1981,(8):23)

+ Phương thuốc 8: Thương nhỉ tử tán gia vị

-Thành phần: Bạch chỉ 15g, Bạc hà 10g, Tân di hoa 10g, Thương nhỉ tử 10g, Xuyên khung 10g, Cúc hoa 10g, Phòng phong 10g, Hoàng cầm 15g, Mộc thông 10g.

-Cách dùng: Sắc nước uống, mỗi ngày 2~3 lần.

+ Phương thuốc 9: Tam hoa tán

-Thành phần: Kim ngân hoa 30g, Dã cúc hoa 30g, Tân di hoa 10g, Thương nhỉ tử 20g, Sinh ý dĩ nhân 20g; Đào nhân, Hoàng cầm, Bạch chỉ mỗi vị 10g.

-Cách dùng: Sắc nước uống, mỗi ngày 1 thang.

Thuốc amantadine

Amantadine là gì và cơ chế hoạt động của nó như thế nào?

Amantadine là một loại thuốc kháng virus tổng hợp (nhân tạo) có khả năng ức chế sự nhân lên của virus trong tế bào. Để ngăn ngừa nhiễm virus, thuốc phải có mặt trong cơ thể trước khi tiếp xúc với virus. Rõ ràng điều này không khả thi đối với hầu hết các loại nhiễm virus. Ban đầu, amantadine được sử dụng để phòng ngừa cúm A trong mùa cúm và, nếu được dùng trong vòng 24 đến 48 giờ sau khi xuất hiện các triệu chứng cúm, có thể giảm mức độ nghiêm trọng của cúm. Sau đó, người ta phát hiện ra rằng amantadine có thể cải thiện các triệu chứng của bệnh Parkinson. Cơ chế hoạt động của amantadine trong bệnh Parkinson chưa được hiểu đầy đủ. Tác dụng của nó có thể liên quan đến khả năng tăng cường (khuếch đại) tác dụng của dopamine, một chất dẫn truyền thần kinh trong não, bị giảm trong bệnh Parkinson. Amantadine kém hiệu quả hơn levodopa trong điều trị bệnh Parkinson nhưng có thể mang lại lợi ích bổ sung khi dùng cùng với levodopa. Amantadine được FDA phê duyệt vào năm 1966.

Amantadine có sẵn dưới dạng thuốc gốc không?
THUỐC GỐC: Không

Tôi có cần toa thuốc để mua amantadine không?

Amantadine được sử dụng để làm gì?

Amantadine được kê đơn để phòng ngừa và điều trị nhiễm cúm A. Amantadine cũng được kê đơn để kiểm soát các triệu chứng của bệnh Parkinson và để điều trị các triệu chứng ngoại tháp do thuốc gây ra.

Tác dụng phụ của amantadine là gì?

Các tác dụng phụ phổ biến nhất liên quan đến amantadine có thể xuất hiện sau vài giờ hoặc vài ngày điều trị bao gồm:

  • Chóng mặt
  • Mất phối hợp
  • Khó ngủ
  • Lo lắng
  • Buồn nôn
  • Nôn

Các tác dụng phụ ít phổ biến hơn bao gồm:

  • Đau đầu
  • Cáu kỉnh
  • Ác mộng
  • Trầm cảm
  • Lú lẫn
  • Buồn ngủ
  • Ảo giác
  • Yếu cơ
  • Mất trí nhớ
  • Nói lắp
  • Tiêu chảy
  • Táo bón
  • Mất cảm giác thèm ăn
  • Sự thay đổi màu trong mắt

Liều dùng của amantadine là bao nhiêu?

Amantadine được dùng một hoặc hai lần mỗi ngày, có thể uống cùng hoặc không cùng với thức ăn. Nếu thuốc gây khó chịu dạ dày, có thể dùng cùng với thức ăn. Liều dùng để phòng ngừa và điều trị nhiễm cúm A ở người lớn là 200 mg mỗi ngày. Để điều trị cúm, amantadine nên được bắt đầu trong vòng 24 đến 48 giờ sau khi xuất hiện các dấu hiệu hoặc triệu chứng và nên tiếp tục trong 24 đến 48 giờ sau khi các dấu hiệu hoặc triệu chứng biến mất. Để phòng ngừa cúm, amantadine nên được bắt đầu càng sớm càng tốt sau khi tiếp xúc với virus cúm và tiếp tục ít nhất trong 10 ngày. Người có chức năng thận giảm và người cao tuổi có thể cần liều thấp hơn (hoặc liều ít thường xuyên hơn).

Liều dùng để điều trị bệnh Parkinson hoặc các triệu chứng ngoại tháp là 100 mg hai lần mỗi ngày.

Các loại thuốc hoặc chất bổ sung tương tác với amantadine là gì?

Amantadine làm tăng tác dụng an thần của rượu và các loại thuốc an thần khác, chẳng hạn như:

Thuốc thuộc nhóm benzodiazepine chống lo âu, ví dụ:

  • diazepam (Valium)
  • lorazepam (Ativan)
  • clonazepam (Klonopin)
  • alprazolam (Xanax, Xanax XR, Niravam)
  • zolpidem (Ambien, Ambien CR, Zolpimist, Edluar)

Thuốc thuộc nhóm chống trầm cảm ba vòng, ví dụ:

  • amitriptyline (Elavil, Endep)
  • imipramine (Tofranil, Tofranil-PM)
  • desipramine (Norpramin)
  • dicyclomine (Bentyl)

Một số loại thuốc kháng histamin, ví dụ:

  • diphenhydramine (Benadryl)
  • hydroxyzine (Vistaril, Atarax)
  • clemastine

Thuốc giảm đau nhóm opioid, ví dụ:

  • hydromorphone hydrochloride (Dilaudid)
  • hydrocodone/acetaminophen (Vicodin, Vicodin ES, Lorcet, Lorcet Plus, Norco)
  • oxycodone và acetaminophen (Percocet, Roxicet, Tylox, Oxycet)
  • codeine

Một số loại thuốc hạ huyết áp, ví dụ:

  • clonidine (Catapres, Catapres-TTS, Jenloga)
  • propranolol (Inderal, Inderal LA, Innopran XL)

Những sự kết hợp này có thể gây chóng mặt, nhầm lẫn, choáng váng, ngất xỉu hoặc chóng mặt khi đứng lên (hạ huyết áp tư thế đứng).

Vì amantadine tăng cường tác dụng của dopamine trong não, nên các loại thuốc ngăn chặn tác dụng của dopamine cần tránh ở những người đang dùng amantadine khi điều trị bệnh Parkinson. Những loại thuốc này bao gồm haloperidol (Haldol), metoclopramide (Reglan), và phenothiazines, ví dụ, thioridazine (Mellaril) hoặc triflupromazine (Stelazine).

Việc sử dụng các thuốc lợi tiểu hydrochlorothiazide hoặc triamterene (Dyazide; Maxzide) cùng với amantadine có thể làm giảm khả năng thận loại bỏ amantadine. Điều này có thể dẫn đến mức độ amantadine cao trong máu và gây độc tính do amantadine.

Amantadine có an toàn khi sử dụng nếu tôi đang mang thai hoặc cho con bú không?

Không có nghiên cứu được kiểm soát tốt nào được thực hiện trên phụ nữ mang thai để đánh giá độ an toàn của amantadine. Các bác sĩ có thể chọn sử dụng amantadine trong thời kỳ mang thai khi lợi ích tiềm năng lớn hơn các rủi ro tiềm ẩn nhưng chưa được biết đến đối với thai nhi.

Amantadine được bài tiết vào sữa mẹ với nồng độ thấp. Mặc dù không có thông tin về tác dụng trên trẻ sơ sinh, nhà sản xuất khuyến cáo nên thận trọng khi sử dụng amantadine ở phụ nữ đang cho con bú.

Tôi cần biết thêm gì về amantadine?

Các dạng bào chế của amantadine là gì?

  • Viên nang: 100 mg.
  • Xi-rô: 50 mg/5 ml (một thìa cà phê).

Tôi nên bảo quản amantadine như thế nào?

Amantadine nên được bảo quản ở nhiệt độ phòng, trong khoảng 15°C – 30°C (59°F – 86°F).

Tóm tắt

Amantadine (Symmetrel – đã ngừng sản xuất) được kê đơn để phòng ngừa và điều trị các bệnh nhiễm cúm A. Amantadine cũng được kê đơn để kiểm soát các triệu chứng của bệnh Parkinson và điều trị các triệu chứng ngoại tháp do thuốc gây ra.

Cách làm cơm chiên cá hồi ngon tuyệt

Cá hồi là một loại cá sinh sống ở vùng biển lạnh. Gần đây, nguyên liệu này được bày sẵn khá phổ biến ở các siêu thị với nhiều sản phẩm được sơ chế sẵn. Các bà nội trợ có thể sử dụng dễ dàng nhờ nguyên liệu đã được làm sạch, bỏ xương. Thịt cá lại thơm ngon và có hương vị độc đáo. Trong đó sản phẩm cá hồi xông khói có hương vị đặc biệt thơm ngon và hợp khẩu vị với nhiều người

Nguyên liệu

200g cá hồi xông khói

Cá hồi xông khói
Cá hồi xông khói

1 củ hành tây vừa

1 lon gạo

1 trứng gà luộc

Gia vị

Tỏi

Dầu, bột càri, muối

Cà chua, dưa leo, rau cần

Cách làm

 

Cá hồi xông khói xắt nhỏ, hành tây xắt hạt lựu.

Cách làm cơm chiên cá hồi
Cách làm cơm chiên cá hồi

Trứng luộc chín, xắt hạt lựu và nêm gia vị cho vừa ăn.

Nấu cơm chín, xới ra cho ráo.

Cho cơm vào chảo, xào với dầu và trứng cho săn hột cơm. Cho cá hồi vào, nêm chút muối, càri vừa ăn. Trộn đều rồi nhắc xuống, xúc ra đĩa trang trí.

Trình bày

Đĩa trang trí 4 chiếc lá cắt từ lá chuối, trên để hành tây xắt sợi nhuyễn, cà chua. Xúc cơm ra, rắc rau cần tây xắt nhỏ. Dọn chung với nước tương và ớt xắt khoanh.

Cơm chiên cá hồi
Cơm chiên cá hồi

Vẹo cổ ở trẻ em

A. VẸO CỔ DO U CƠ ỨC ĐÒN CHŨM

I. ĐẠI CƯƠNG

Vẹo cổ là một bệnh lý thường gặp ở trẻ em, có tần suất cao hơn ở những trẻ sinh ngôi mông, tỉ lệ khoảng 1/300 trẻ sinh sống. Nguyên nhân hiện tại cũng chưa được biết rõ nhưng có giả thuyết nổi bật liên quan đến sang chấn sản khoa làm ảnh hưởng đến cơ ức đòn chũm

II. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

Có thể phát hiện được trong những tháng đầu tiên với những triệu chứng sau:

Cơ ức đòn chũm
Cơ ức đòn chũm
  • Trẻ nhìn sang một bên
  • Sờ thấy khối u vùng cổ bên vẹo
  • Hộp sọ biến dạng, đầu bất đối xứng
  • Xương gò má, trán, hàm dưới lệch về bên bị ảnh hưởng
  • Đối với trẻ lớn khả năng quan sát và kỷ năng vận động bị ảnh hưởng thể hiện rõ.

 

III. ĐIỀU TRỊ

1. Điều trị bảo tồn

Tập vật lý trị liệu tích cực trong 1 năm đầu tiên.

2. Can thiệp phẫu thuật

Chỉ định phẫu thuật khi điều trị bảo tồn không đạt hiệu quả hoặc ở những trẻ có hạn cử động xoay hơn 15 độ so với bên bình thường sau 6 tháng tập vật lý trị liệu.

Cắt chỗ bám cơ ức đòn chũm + đeo nẹp cổ cứng.

A. VẸO CỘT SỐNG BẨM SINH

I. ĐẠI CƯƠNG

  • Vẹo cột sống bẩm sinh là tình trạng cột sống vẹo sang một bên gây ra bởi một khiếm khuyết bẩm sinh thường xảy ra vào tuần thứ 3 – thứ 6 của thai kỳ.
    • Vẹo cột sống có thể phát hiện ở bất cứ thời điểm nào trong cột sống thường là ở tuổi vị thành niên đang ở giai đoạn phát triển mạnh
    • Vẹo cột sống là vô căn, 10% thứ phát do bệnh lý thần kinh cơ.

– Tần suất: 1/10.000.

– Nữ/Nam: 6/4.

II. CHẨN ĐOÁN

1. Lâm sàng

  • Thường phát hiện tình cờ.
  • Nhìn thấy vùng vẹo cột sống
  • Mất cân đối 2 vai, 2 hông.
  • Biến dạng lồng ngực
  • Teo cơ.

2. Cận lâm sàng

  • X-quang: thẳng, nghiêng, Bending (T,P).
  • CT scan
  • MRI

III.   ĐIỀU TRỊ

Mức độ vẹo cột sống
Mức độ vẹo cột sống

– Mục tiêu điều trị là để trẻ tăng trưởng với một cột sống cân bằng tránh biến chứng.

1.   Không phẫu thuật

  • Mặc áo thân trong trường hợp vẹo cột sống nhẹ, góc Cobb < 45o hoặc tuổi chưa dậy thì.
  • Kiểm tra độ vẹo bằng X-quang mỗi 6 tháng.

2.   Điều trị phẫu thuật

  • Chỉ định:

+  Góc Cobb > 45o .

+  Diễn tiến nhanh.

+  Ảnh hưởng đến chức năng hô hấp, thần kinh.

– Phương pháp mổ: đặt dụng cụ lối sau nắn chỉnh vẹo cột sống.

IV. BIẾN CHỨNG

  • Chảy máu.
  • Nhiễm trùng.
  • Tổn thương tuỷ sống
  • Tử vong

Cỏ linh lăng (Alfalfa) là gì và được sử dụng để làm gì?

Tên gốc: Alfalfa

Tên khác: Medicago sativa

Nhóm thuốc: Thảo dược

Alfalfa là gì và được sử dụng để làm gì?

Alfalfa là một loại cây hoa lâu năm chủ yếu được trồng làm thức ăn cho gia súc. Mầm alfalfa được thêm vào như một món trang trí cho nhiều món ăn khác nhau, trong khi lá khô được bán như một loại thực phẩm bổ sung thảo dược, có sẵn dưới dạng viên nén hoặc bột để pha trà.

Thực phẩm bổ sung thảo dược alfalfa được sử dụng cho một số tình trạng bao gồm tiểu đường, cholesterol cao, khó tiêu và hen suyễn, nhưng có rất ít bằng chứng khoa học để hỗ trợ những công dụng này. Con người cũng sử dụng alfalfa như một nguồn cung cấp canxi, kali, phốt pho, sắt, magiê và các vitamin A, C, E và K.

Alfalfa chứa chất xơ và saponin, những hợp chất được cho là có khả năng liên kết với cholesterol và ngăn cản sự hấp thu cholesterol trong ruột. Alfalfa chứa phytoestrogen có thể hoạt động giống như estrogen và giúp giảm triệu chứng mãn kinh; tuy nhiên, nó cũng có thể thúc đẩy sự phát triển của tế bào ung thư vú phụ thuộc estrogen. Một số nghiên cứu trên động vật cho thấy alfalfa có thể tăng cường sự tiết insulin và cải thiện chức năng của nó, giúp giảm mức đường huyết.

Mặc dù alfalfa dường như có giá trị dinh dưỡng cao khi tiêu thụ trong thực phẩm, nhưng không có nhiều nghiên cứu kiểm soát tốt trên người để xác định độ an toàn và hiệu quả của nó khi sử dụng như một thực phẩm bổ sung thảo dược. Mầm alfalfa đã liên quan đến một số vụ bùng phát ngộ độc thực phẩm (nhiễm Escherichia coli và Salmonella) ở California và châu Âu. Thêm vào đó, hạt alfalfa chứa L-canavanine, một axit amin độc hại có thể gây ra cơn tái phát lupus, một bệnh viêm.

Các công dụng được gợi ý của alfalfa bao gồm:

  • Tiểu đường
  • Cholesterol cao
  • Thúc đẩy tiểu tiện (tiểu nhiều)
  • Rối loạn tiêu hóa
  • Hen suyễn, sốt cỏ khô và dị ứng
  • Vấn đề tuyến giáp
  • Rối loạn kinh nguyệt
  • Thúc đẩy cho con bú

Cảnh báo

  • Không sử dụng nếu bạn mẫn cảm với alfalfa.
  • Tránh sử dụng trước và ngay sau khi phẫu thuật vì có thể tăng nguy cơ chảy máu.
  • Tránh alfalfa nếu bạn mắc bệnh gout, vì alfalfa chứa purine và có thể làm trầm trọng thêm triệu chứng gout.
  • Tránh alfalfa trong thời kỳ mang thai và cho con bú vì tác động giống estrogen của nó.
  • Không dùng alfalfa nếu bạn có bất kỳ tình trạng nhạy cảm với estrogen nào, bao gồm u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung, ung thư tử cung, buồng trứng hoặc vú.
  • Không dùng nếu bạn mắc lupus ban đỏ hệ thống, vì hạt alfalfa chứa một axit amin độc hại có thể gây tái phát bệnh lupus.

Các tác dụng phụ của alfalfa là gì?

Các tác dụng phụ phổ biến của alfalfa bao gồm:

  • Tăng khối lượng và tần suất đi đại tiện
  • Tiêu chảy và phân lỏng
  • Khó chịu ở bụng
  • Khí trong ruột
  • Nhạy cảm với ánh sáng
  • Pancytopenia, một rối loạn máu với số lượng thấp tất cả các loại tế bào máu (từ hạt alfalfa xay)

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra từ việc sử dụng thuốc này.

Gọi cho bác sĩ của bạn để được tư vấn về các tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc phản ứng bất lợi.

Liều lượng của alfalfa là gì?

Chưa có liều lượng chuẩn xác cho thực phẩm bổ sung thảo dược alfalfa.

Liều dùng gợi ý:

  • 5-10 gram uống ba lần mỗi ngày

Ngộ độc

Không có thông tin về ngộ độc alfalfa. Trong trường hợp ngộ độc, hãy tìm sự giúp đỡ y tế hoặc liên hệ với Trung tâm Kiểm soát Chất độc.

Thuốc nào tương tác với alfalfa?

Hãy thông báo cho bác sĩ về tất cả các loại thuốc bạn đang sử dụng, người có thể tư vấn cho bạn về bất kỳ tương tác thuốc nào có thể xảy ra. Không bao giờ bắt đầu dùng, ngừng đột ngột hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự khuyến nghị của bác sĩ.

  • Alfalfa không có tương tác nghiêm trọng nào với bất kỳ loại thuốc nào.
  • Alfalfa không có tương tác nghiêm trọng nào với bất kỳ loại thuốc nào.
  • Alfalfa có tương tác vừa phải với ít nhất 72 loại thuốc khác nhau.

Các tương tác nhẹ của alfalfa bao gồm:

  • Anamu
  • Chlorpromazine
  • Danshen
  • Devil’s claw
  • Mestranol
  • Vitamin E

Các tương tác thuốc được liệt kê ở trên không phải là tất cả các tương tác có thể xảy ra hoặc tác dụng phụ. Để biết thêm thông tin về tương tác thuốc, hãy truy cập vào trình kiểm tra tương tác thuốc RxList.

Rất quan trọng để luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ hoặc nhân viên y tế của bạn về tất cả các loại thuốc theo toa và thuốc không kê đơn mà bạn sử dụng, cũng như liều lượng cho mỗi loại, và giữ một danh sách thông tin. Hãy kiểm tra với bác sĩ hoặc nhân viên chăm sóc sức khỏe của bạn nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về thuốc.

Thai kỳ và cho con bú

Một lượng nhỏ alfalfa trong thực phẩm có thể an toàn trong thời kỳ mang thai và cho con bú.
Alfalfa chứa phytoestrogen có thể hoạt động giống như estrogen của con người.
Tính an toàn của thực phẩm bổ sung alfalfa trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú chưa được xác lập, vì vậy hãy tránh sử dụng nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Tôi nên biết thêm điều gì về alfalfa?

Mầm alfalfa đã liên quan đến ngộ độc thực phẩm do E. Coli và Salmonella. Đã có báo cáo về listeriosis liên quan đến việc tiêu thụ viên alfalfa bị nhiễm bẩn. Hãy thận trọng.

Các thực phẩm bổ sung thảo dược alfalfa không yêu cầu phê duyệt tiếp thị rộng rãi từ FDA. Có thể có sự khác biệt giữa nhãn và các thành phần thực tế cũng như số lượng của chúng. Hãy chọn sản phẩm của bạn một cách cẩn thận.

Tóm tắt

Các thực phẩm bổ sung thảo dược alfalfa được sử dụng cho một số tình trạng như tiểu đường, cholesterol cao, khó tiêu và hen suyễn, nhưng có rất ít bằng chứng khoa học để hỗ trợ những công dụng này. Các tác dụng phụ phổ biến của alfalfa bao gồm tăng khối lượng và tần suất đi đại tiện, tiêu chảy và phân lỏng, khó chịu ở bụng, khí trong ruột, nhạy cảm với ánh sáng và pancytopenia (một rối loạn máu). Không nên sử dụng thực phẩm bổ sung alfalfa nếu đang mang thai hoặc cho con bú.

Bệnh Loãng xương ở trẻ em

Thiếu xương và loãng xương (xương xốp) là tình trạng giảm khối xương và bất thường vi cấu trúc của xương dẫn đến nguy cơ gãy xương. Theo ISCD (International Society for Clinical Densitometry) năm 2007, loãng xương ở trẻ em được định nghĩa khi có một trong các triệu chứng sau:

  • Gãy 1 xương dài ở chi dưới
  • Gãy trên 2 xương dài ở chi trên
  • Lún xẹp đốt sống

Và tỉ số z-score của tỉ trọng khoáng xương (BMD) ≤ -2 SD theo tuổi, giới, kích thước cơ thể.

Nguyên nhân gây loãng xương ở trẻ em.

Nguyên phát

  • Tạo xương bất toàn
  • Hội chứng loãng xương- giả u thần kinh
  • Loãng xương thiếu niên nguyên phát

Thứ phát

A.  Dinh dưỡng

  • Suy dinh dưỡng
  • Chán ăn tâm thần
  • Hội chứng kém hấp thu
  • Thiếu Vitamin D

B.  Bệnh lý nội tiết/ chuyển hóa

  • Chậm phát triển thể chất
  • Suy sinh dục
  • Cường giáp
  • Suy tuyến yên
  • Hội chứng Cushing

C.  Tình trạng bất động cơ thể

D. Bệnh lý viêm mãn tính:

Bệnh lupus hệ thống

Viêm khớp thiếu niên

Viêm da cơ

Viêm ruôt mãn tính

Hội chứng thận hư

E. Thuốc:

  • Glucocorticoids, ức chế miễn dịch, thuốc chống động kinh, thuốc kháng siêu vi
  • Nghiện rượu, thuốc lá.

CHẨN ĐOÁN

Công việc chẩn đoán:

Hỏi: Tiền sử:

  • Gãy xương, gãy xương không do chấn thương hoặc khi chấn thương nhẹ.
  • Gãy, lún đốt sống
  • Sử dụng lâu ngày: vd thuốc corticoid, thuốc chống động kinh, ức chế miễn dị
  • Gia đình có cha, mẹ anh chị em có vấn đề về bệnh lý xương. Bệnh sử:
  • Đau cột sống do xẹp các đốt sống: Xuất hiện tự nhiên, hoặc liên quan tới gắng sức hoặc chấn thương nhỏ, đau giảm rõ khi nằm và giảm dần rồi biến mất trong vài tuần. Đau xuất hiện khi có một đốt sống mới bị xẹp, hoặc đốt sống ban đầu bị xẹp nặng thêm. Tuy nhiên, một tỷ lệ rất lớn các lún xẹp đốt sống không có triệu chứng đau cột sống. Trước khi xuất hiện lún xẹp đốt sống, không bao giờ có đau cột sống do loãng xương
  • Khai thác triệu chứng vùng cột sống thắt lưng, vùng xương dài của chi trên, chi dưới
  • Khai thác các triệu chứng của tình trạng loãng xương thứ phát: triệu chứng các bệnh lý liên quan đường tiêu hóa, thận, nội tiết
  • Thói quen ăn uống, luyện tập, tình trạng bất động cơ thể kéo dài

    Bệnh Loãng xương ở trẻ em
    Bệnh Loãng xương ở trẻ em

Khám lâm sàng:

  • Đo chiều cao, cân nặng, tỉ số khối cơ thể (Body Mass Index: BMI)
  • Khám tổng quát tìm bệnh lý toàn thân
  • Khám tìm bất thường vùng cơ, xương, khớp, cột sống: biến dạng đường cong bình thường cột sống, gõ hoặc ấn vào các gai của đốt sống gây tình trạng đau tăng và lan tỏa xung quanh
  • Không thể thực hiện được hoặc khó thực hiện các động tác cúi, ngửa, nghiêng, quay thân mình.

Đề nghị xét nghiệm:

Xét nghiệm chẩn đoán xác định:

+Chụp DEXA (Dual- energy x-ray absorptiometry) ở vị trí cổ xương đùi, xương sống thắt lưng L1 – L4 và toàn bộ cơ thể: tiêu chuẩn vàng trong chẩn đóan loãng xương

Xét nghiệm tìm nguyên nhân và hỗ trợ chẩn đoán:

+Ca, P, Alkaline phosphatase, định lượng Vitamin D, PTH/ máu

+Ca, P niệu 24 giờ

+Chụp cột sống thắt lưng tư thế nghiêng tìm hình ảnh lún xẹp đốt sống

Chẩn đoán xác định:

Triệu chứng lâm sàng gợi ý và tỉ số Z-score chụp bằng phương pháp DEXA ≤ -2 ĐLC.

ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc điều trị:

  • Chế độ tập luyện và dinh dưỡng phù hợp
  • Cung cấp calcium và vitamin D
  • Ngăn ngừa tình trạng hủy xương bằng thuốc biphosphonate
  • Điều trị nguyên nhân gây loãng xương

Điều trị:

  • Calcium nguyên tố: liều khuyến cáo dành cho mọi trẻ Trẻ 0- 6 tháng: 210 mg/ ngày

Trẻ 6 – 12 tháng: 270 mg/ ngày

Trẻ 1 – 3 tuổi: 500 mg/ ngày

Trẻ 4 – 8 tuổi: 800 mg/ ngày

Trẻ 9 – 15 tuổi: 1300 mg/ ngày

  • Vitamin D2:

Liều cơ bản: 400 UI/ ngày

Mục tiêu: giữ nồng độ 25- OH vitamin D > 32 ng/ml

  • Biphosphonate (vd Pamidronate, Zoledronic acid):

Cơ chế của thuốc làm ức chế hủy cốt bào hủy xương, giữ can xi trong cấu trúc xương. Hiệu quả của thuốc làm giảm nguy cơ gãy xương và làm giảm đau ở bệnh nhân loãng xương do tạo xương bất toàn. Tác dụng phụ của thuốc hiếm gặp, bao gồm khó chịu, yếu cơ, đau xương, tiêu chảy, hạ can xi, hạ phosphore và hạ ma giê máu. Thuốc cần được sử dụng tại trung tâm có kinh nghiệm.

Zoledronic acid (Zometa), chỉ định trong trường hợp loãng xương trong bệnh Tạo xương bất toàn . Liều tối đa 5 mg. Đối với trẻ >2 tuổi liều thuốc là 0,05 mg/kg, truyền tĩnh mạch trong 50 phút, 6 tháng 1 lần. Đối với trẻ < 2 tuổi cần có nghiên cứu thêm.

Cách pha và truyền tĩnh mạch Zoledronic acid

Liề u Zoledronic Acid Lượ ng NaCl 0,9% thêm và o Tố c độ  truyề n tĩnh mạch (ml/h)
0 – 0,05 mg 10 ml 12.5
0,051 to 0,125 mg 10 ml 15
0,126 to 0,25 mg 15 ml 25
0,251 to 0,375 mg 20 ml 30
0,376 to 0.5 mg 30 ml 40
> 0.5 mg 50 ml 65
> 1.0 mg 100 ml 130

Trước truyền Zoledronic acid cần đo cân năng, chiều cao , xét nghiệm nồng độ Ca (toàn phần, ion), Vitamin D. Đối với bệnh nhân chưa được truyền bisphosphonate thì cần nhập viên và xuất viện sau 48 giờ sau truyền thuốc . Không truyền bisphosphonate cho bệnh nhân mà phải can thiệp xương trong 4 tháng, bệnh nhân có  hạ Ca, bệnh nhân có thai.

  • Theo dõi:
    • Ca, P, Mg máu mỗi 3 tháng
    • Đo mật độ xương bằng PP DEXA, PTH, Vitamin D máu mỗi 6 tháng.

PHÒNG NGỪA

  • Cung cấp đầy đủ calcium và vitamin D cho trẻ.
  • Tăng cường hoạt động thể lực
  • Tầm soát nguy cơ loãng xương ở các trẻ có nguy cơ bằng thăm khám lâm sàng và chụp DEXA.

Thói quen dùng sai nước sôi để nguội có hại cho sức khỏe

Nước đun sôi rồi cứ để nguội tự nhiên tới 20°C-25°C thì đó là nước sôi để nguội. Thể khí hòa tan trong nước sôi để nguội đã giảm đi một nửa so với trước lúc đun sôi. Tính chất của nước sôi để nguội đã biến hóa một cách tương ứng: Sức hội tụ lớn lên, giữa các phân tử càng thêm chặt chẽ, sức trương nở bề mặt tăng thêm v.v… Những tính chất đó rất gần với nước của tế bào sinh vật.

Tiến sĩ Johnsum đã từng nghiên cứu về nước đun sôi để nguội. Kết luận của ông là loại nước này rất dễ thấm qua màng tế bào, có tính sinh vật đặc biệt lạ thường. Khi dùng nước này ngâm hạt giống hoặc tưới vào cây trồng dễ làm cho hạt giống và cây trồng đó hấp thu, có thể tăng nhanh sự sinh trưởng và nâng cao sản lượng đơn vị; nếu cho động vật uống thì có thể thúc đẩy việc trao đổi chuyển hóa chất, tăng thêm hàm lượng protoheme trong máu, nâng cao được sức miễn dịch của cơ thể.

Nước đun sôi
Nước đun sôi

Chuyên gia sửa sắc đẹp Nhật Bản Shemhi cho biết: Thường xuyên dùng nước đun sôi để nguội tắm rửa có thể có công hiệu làm cho làn da mềm mại, mịn màng, săn giãn, tươi tắn. Nhưng nếu để nước sôi để nguội ra ngoài không khí trong 4 giờ trở lên thì đã làm mất đi trên 70% hoạt tính sinh vật kỳ diệu của nó, bởi vì khí trời sẽ lại xâm nhập vào, tạo nên hai lần ô nhiễm vi khuẩn trong không khí.

Nếu người ta có thói quen uống nước đun sôi để nguội thì sẽ tăng thêm chất dehydrase trong các cơ quan nội tạng, làm giảm thấp tích lũy chất lactate trong cơ bắp, khiến cơ thể không hay cảm thấy mệt mỏi rã rời. Thường xuyên uống nước đun sôi để nguội sẽ không hay mắc các bệnh viêm đường hô hấp.

Nước dùng để uống không nên để lâu.

Có một số người có thói quen để dành nước đã đun sôi để uống dần. Đó là một thói quen thiếu khoa học, bởi vì nước đun sôi để từ 3 ngày trở lên, vi khuẩn dễ sinh sôi nảy nở, sinh ra lượng lớn chất nitrite dẫn tới ung thư. Sau khi xâm nhập cơ thể, có thể gây độc hại, làm cho hồng huyết cầu mất đi tác dụng mang theo oxy của nó, dẫn tới chỗ làm cho các tổ chức trong cơ thể thiếu oxy, gây nên các chứng bệnh như da và môi bầm tím, đầu óc đau nhức, choáng váng, buồn nôn, nôn mửa, tức ngực, khó thở, bụng cồn cào khó chịu. Người bị nặng có thể nguy đến tính mệnh. Chất nitrite ở trong cơ thể kết hợp với chất amine hữu cơ thành nitrosamine, có thể gây ra nhiều các chứng bệnh như ung thư thực đạo, ung thư dạ dày, ung thư gan, ung thư phổi v.v… Cho dù nước đó không có chứa chất nitrite đi nữa cũng không nên để quá 3 ngày, đặc biệt là nước sôi để trong phích càng không được để quá 3 ngày. Nếu để như vậy sẽ không thể coi là nước dùng để uống được.

Tác dụng của Lá sen, ngó sen, hoa sen, hạt sen, tim sen

SEN

Tên khác:             Liên, ngậu (Tày), bó bua (Thái), lìn ngó (Dao).

Tên khoa học: Nelumbo nucifera Gaertn.

Họ Sen súng (Nelumbonaceae).

MÔ TẢ

Cây thảo, sống ở nước.

Thân rễ mập, mọc trong bùn.

Lá hình tròn, mọc vượt lên khỏi mặt nước bằng một cuống rất dài đính vào giữa lá, màu lục xám, mép nguyên uốh lượn, mặt sau đôi khi điểm những đốm tía, gân hình khiên.

Hoa to, màu hồng hoặc trắng, mọc trên cuống dài có nhiều gai ngắn; lá đài màu lục, rụng sớm; cánh hoa nhiều, cánh ngoài to và khum, cánh giữa và cánh trong nhỏ dần; nhị rất nhiều, màu vàng; bộ nhụy gồm nhiều lá noãn rời nằm trong đế hoa hình nón ngược.

Quả bế, có vỏ ngoài mỏng và cứng, màu lục tía, phần giữa chứa tinh bột màu trắng, phần trong là lá mầm, màu lục sẫm.

Mùa hoa quả: tháng 5 – 9.

Lá sen
Lá sen

PHÂN BỐ, NƠI MỌC

Trên thế giới, sen phân bố ở vùng nhiệt đới châu Á bao gồm Ấn Độ, Trung Quốc, các nước Đông Nam Á. Người ta còn đưa sen sang trồng ở vùng nhiệt đới châu Mỹ.

Ở Việt Nam, cây mọc hoang ở vùng Đồng Tháp Mười sau được trồng rộng rãi ở khắp nơi từ Nam ra Bắc trong các ao, hồ, đầm, ruộng trũng.

BỘ PHẬN DÙNG, THU HÁI, CHẾ BIẾN

Thân rễ hay ngó sen, thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi khô.

Lá sen, thu hái vào mùa thu, có khi dùng cả cuống, dùng tươi hay phơi, sấy khô.

Hoa sen loại mới nở là tốt nhất, gỡ cánh để tươi hoặc phơi khô.

Hoa Sen
Hoa Sen

Tua sen (nhị) bỏ hạt gạo ở đầu.

Quả sen thu hái khi đã chín già, gỡ khỏi đế hoa, dùng tươi hay phơi khô.

Tâm sen là mầm trong hạt sen, lấy khỏi hạt, phơi khô.

Gương sen là đế hoa sen đã lấy hết quả, phơi khô. Dùng sống hoặc sao cháy tồn tính.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Lá sen chứa alcaloid nuciferin. nor-nuciferin, roemerin, pronuciferin, quercetin, isoquercitrin, nelumbosid và nhiều chất khác với tỷ lệ cao hơn trong lá bánh tẻ.

Hạt sen chứa tinh bột; protein gồm các loại acid amin: leucin, isoleucin, methionin, phenylalanin, threonin; dầu béo có acid myristic, acid palmitic, acid oleic; các chất khác là P-sitosterol, stigmasterol, campestrol.

Tâm sen chứa alcaloid liensinin, isoliensinin, nuciíerin, roemerin, lotUóin.

Gương sen chứa alcaloid nuciferin, liriodenin; các flavonoid quercetin, isoquercitrin.

Nhị sen có nhiều thành phần thơm như linalol, limonen, terpinen.

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Liensinin có tác dụng hạ áp. Nuciferin ức chế hệ thần kinh trung ương, giảm ho, giảm đau và giải co thắt cơ trơn. Nước sắc nhị sen ức chế tụ cầu vàng.

Dịch chiết và alcaloid toàn phần của lá sen và tâm sen có tác dụng an thần, trong đó tác dụng của lá sen mạnh hơn. Nuciferin có tác dụng kéo dài giấc ngủ.

Gương sen có tác dụng cầm máu (chính là do sự có mặt của quercetin).

CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

  • Lá sen được dùng trong y học cổ truyền với tên thuốc là liên diệp hay hà diệp, chữa các chứng chảy máu như đại tiện ra máu, xuất huyết dưới da, chứng mất ngủ, ngủ không yên, háo khát, ho ra máu, băng huyết, chảy máu cam.

Dùng lá sen non (loại lá còn cuộn lại chưa mở càng tốt) rửa sạch, thái nhỏ, ép lấy nước uống làm nhiều lần trong ngày chữa háo khát. Hoặc thái nhỏ, trộn với các loại rau ghém, ăn sống hàng ngày. Người bị tiêu chảy vừa chữa khỏi, cơ thể đang bị thiếu nước dùng rất tốt.

Để chữa máu hôi không ra hết sau khi đẻ, lấy lá sen sao thơm (20 – 30g) tán nhỏ, uống với nước hoặc đồng tiện (nước tiểu trẻ em), hoặc sắc với 200ml nước còn 50ml, uống làm một lần trong ngày..

  • Ngó sen (liên ngẫu) để sống thì hàn, nấu chín thì ôn, có tác dụng cầm máu là chủ yếu. Ngó sen (7 cái) giã nát, sắc với nước, thêm ít mật, uống nóng chữa thổ huyết (Nam dược thần hiệu). Nếu bị chảy máu cam, lấy ngay ngó sen tươi, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước nhỏ vào mũi, máu sẽ cầm ngay.

    Tâm sen và ngó sen
    Tâm sen và ngó sen đều được dùng chữa bệnh

Đốt ngó sen (ngẫu tiết) cũng được dùng với tác dụng tương tự như ngó sen.

  • Hoa sen (liên hoa) có tác dụng an thần, cầm máu, chống viêm, trừ thấp. Cánh hoa sen (loại mới nở càng tốt) phơi cho héo (3 – 5g) thái nhỏ, hãm hoặc sắc uống chữa nôn ra máu. Y học hiện đại dùng cánh hoa sen pha chế dưới dạng sirô để làm thuốc gây ngủ. Phụ nữ lại dùng cánh hoa sen, ngó sen và hạt sen (lượng mỗi thứ bằng nhau), phơi khô, tán nhỏ, uống mỗi lần 8g để làm đẹp nhan sắc. Ngày làm 2 – 3 lần.

Dùng ngoài, cánh hoa sen giã nát, đắp chống phồng rộp, lỏ loét.

  • Nhị sen hay tua sen (liên tu) chữa thổ huyết, băng huyết, di mộng tinh. Liều dùng hàng ngày: 5 – 10g dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hoặc phối hợp với đảng sâm,

thục địa, ba kích, khiếm thực, cẩu tích, ngưu tất, xà sàng…

Chú ý: Người bị suy nhược, táo bón, tiểu tiện không thông không nên dùng.

  • Quả sen (liên thạch) chữa kiết lỵ, đau lưng, kém ngủ.

Liều dùng hàng ngày: 6 – 12 g dưới dạng thuốc sắc.

Nếu bóc bỏ vỏ ngoài (vỏ cứng) để lại màng mỏng màu nâu hồng (vỏ lụa) thì được hạt sen (liên nhục). Liên nhục có vị ngọt, hơi chát, có tác dụng bổ tỳ, dưỡng tâm, cố tinh chữa suy nhược cơ thể, mất ngủ, kém ăn, di mộng tinh, kiết lỵ. Liều dùng hàng ngày: 12 – 20g, có khi hơn dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột, thuốc viên. Để chữa gầy yếu, hay tiêu chảy ở trẻ em, người ta thường dùng hạt sen sấy khô, tán bột, cho trẻ uống 8 – 10g mỗi ngày vào lúc đói hoặc quấy bột.

  • Tâm sen (liên tâm) có tác dụng an thần chữa tâm phiền, lo âu, mất ngủ. Liều dùng hàng ngày: 2 – 5 g, có khi hơn, dưới dạng thuốc hãm, sắc hoặc làm bột uống. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.
  • Gương sen (liên phòng) có tác dụng cầm máu, hạ áp, chữa đại tiện ra máu, băng huyết, rong kinh, cao huyết áp.

Liều dùng hàng ngày: 15 – 30g (1 – 2 cái) dưới dạng thuốc sắc.

BÀI THUỐC

  • Chữa chảy máu cam, băng huyết, tiêu chảy ra máu: Lá sen (30 – 40g, để sống), rau má (12g, sao vàng), thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.
  • Chữa nôn ra máu, ho ra máu: Lá sen, ngó sen, sinh địa (mỗi thứ 30g), ngải cứu, trắc bá (mỗi thứ 20g). Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc uống trong ngày.
  • Chữa sốt xuất huyết: Lá sen, ngó sen hoặc cỏ nhọ nồi (mỗi thứ 40g), rau má (30g), hạt mã đề (20g), sắc uống ngày một thang. Có thể tăng liều lượng của lá và ngó sen lên 50 – 60g nếu xuất huyết nhiều.
  • Chữa mất ngủ: Viên bao gồm cao khô lá sen (0,05g), cao khô lá vông (0,06g), 1-tetrahydropalmatin (0,03g), tá dược vừa đủ cho 1 viên. Ngày uống 2 – 4 viên trước khi đi ngủ. Một đợt điều trị từ 10 đến 15 ngày.
  • Chữa ho ra máu: Ngó sen (20g), bách hợp hoặc lá trắc bá (20g), cỏ nhọ nồi (10g). Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc uống làm hai lần trong ngày.
  • Chữa băng huyết, rong kinh: Ngó sen (8g, sao), tam lăng, huyết dụ, nga truật, bồ hoàng sao (mỗi thứ 8g), bách thảo sương (6g). sắc uống.
  • Chữa viêm xoang, ngạt mũi: Cánh hoa sen (100g), rễ bạch chỉ (100g), thái nhỏ, phơi khô, trộn đều, quấn như điếu thuốc lá, rồi hút hít và thở khói qua đường mũi. Ngày làm hai lần.
  • Chữa kém ăn, ít ngủ, phiền muộn, lưng đau, gối mỏi: Quả sen (12g), liên nhục (8g), hoài sơn (16g), thục địa (12g), phụ tử chế (8g), trạch tả (8g), táo nhân (8g), nhục quế (6g). Tất cả thái nhỏ, sắc uống ngày một thang.
  • Chữa thiếu máu, yếu tim: Hạt sen (100g, sao vàng), rau má (100g, sao giòn), hoài sơn (80g, sao vàng), cỏ nhọ nồi (80g, sao giòn), hoàng tinh chế (80g, thái nhỏ), đan sâm (40g, ủ mềm, sấy khô), ngải cứu (15g, sao giòn), củ sả (15g, sao nhẹ cho thơm). Tán bột riêng từng loại, rồi trộn chung, luyện với mật ong thành một khối dẻo. Chế thành hoàn 10g. Ngày uống 40g chia làm 3 lần.
  • Chữa rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy ở trẻ em: Hạt sen (50g), đảng sâm (50g), đậu ván trắng (50g), ý dĩ (50g), hoài sơn (50g), cốc nha (15 g). Các vị tán nhỏ, rây bột mịn. Trần bì (10g), sa nhân (10g), nhục đậu khấu (10g) sắc lấy nước đặc rồi trộn với bột thuốc trên làm thành dạng cốm. Ngày uống 10 – 15g.
  • Chữa khó ngủ, hồi hộp, tâm phiền: Tâm sen (5g), lá vông (20g), táo nhân (10g). Tâm sen sao thơm; táo nhân sao đen, đập giập; lá vông sấy khô, tán bột. Tất cả trộn đều, hãm với 1 lít nước. Để nguội, thêm 1 – 2 bông hoa nhài tươi. Ngày uống làm nhiều lần.
  • Chữa băng huyết: Gương sen (40g), kinh giới tuệ (40g). Trộn đều, đốt tồn tính, tán bột, mỗi lần uống 8g với nước ấm. (Nam dược thần hiệu).
  • Chữa rong huyết: Gương sen (20g, sao cháy tồn tính), kinh giới tuệ (20g, sao đen), ngải cứu (12g, sao đen), cỏ nhọ nồi (12g), rau má (20g), bách thảo, sương (12g). sắc uống làm hai lần trong ngày.

Hoàng kỳ

Hoàng kỳ ( 黄耆 )

Tên và nguồn gốc

+ Tên thuốc: Hoàng kì (Xuất xứ: Bản kinh).

+ Tên khác: Đái tảm (戴糁), Đái châm (戴椹), Độc châm (独椹), Thục chi (蜀脂), Bách bổn (百本), Vương tôn (王孙), Miên hoàng kì (绵黄耆), Tiễn kì (箭芪) v.v…

+ Tên Trung văn: 黄耆 HUANGQI

+ Tên Anh Văn: RADIX ASTRAGALI

+ Tên La tinh:

①Hoàng kỳ Astragalus membranaeus (Fisch.)Bge.②Nội Mông Hoàng kỳ Astragalus mongholicus Bge ③Kim dực Hoàng kỳ Astra-galus chrysopterusBge.④Hoàng kỳ nhiều hoa Astragalus floridus Benth

+ Nguồn gốc: Là rễ khô của Hoàng kỳ hoặc Nội Mông Hoàng kỳ, thực vật họ Đậu( Legume).

Phân bố

Hoàng kỳ
Hoàng kỳ

Chủ yếu sản xuất ở các vùng Nội Mông Cổ, Sơn Tây, Hắc Long Giang v.v…của Trung Quốc.

Thu hoạch

Mùa thu đào, bỏ sạch đất, cắt bỏ đầu rễ và rễ nhánh, sau khi phơi khô phân riêng ra đóng thành bó hoặc phơi khô 6, 7 phần, buộc thành bó nhỏ, rồi phơi khô nữa.

Bào chế

– Hoàng kì: Nhặt sạch tạp chất, bỏ đi đầu rễ hỏng và thứ rỗng ruột khá to, dùng nước ngâm, vớt ra, sau khi ngấm ướt kịp thời cắt phiến, phơi khô.

– Hoàng kì chích mật: Lấy Hoàng kì phiến, thêm mật ong luyện chín và chút ít nước sôi, trộn đều, đậy kín cho ngấm qua, để trong nồi dùng lửa nhỏ sao đến khi trở nên màu vàng, không dính tay là độ, lấy ra để nguội. (Cứ mỗi 100 cân Hoàng kì phiến, dùng mật ong luyện chín 25 ~ 30 cân).

– Cương mục: Hoàng kì, người thời nay đập giẹt, dùng nước mật bôi chích vài lần, lấy chín làm độ.

Bảo quản:

Để nơi khô ráo thoáng gió, phòng độc biến.

Tính vị

– Trung dược học: Ngọt, hơi ấm.

– Bản kinh: Vị ngọt, hơi ấm.

– Y học khải nguyên: Khí ấm, vị ngọt, bình.

Qui kinh

– Trung dược học: Vào kinh Tỳ, Phế.

– Thang dịch bản thảo: Vào kinh Thủ thiếu dương, Túc thái âm, Túc thiếu âm mệnh môn.

– Bản thảo mông thuyên: Vào Thủ thiếu dương, Thủ túc thái âm.

– Bản thảo kinh sơ: Kinh Thủ dương minh, Thái âm.

– Bản cách tân biên: Vào kinh Thủ thái âm, Túc thái âm, Thủ thiếu âm.

Công dụng và chủ trị

Sinh hoàng kỳ
Sinh hoàng kỳ

– Dùng sống: Ích vệ cố biểu, lợi thủy tiêu sưng, thác độc, sinh cơ.

Trị tự ra mồ hôi, ra mồ hôi trộm, huyết tý, phù thũng, ung nhọt không vỡ hoặc lóet lâu ngày không thu liễm.

– Dùng chích: Bổ trung ích khí.

Trị nội thương nhọc mệt, Tỳ hư tiêu chảy, thóat giang, khí hư huyết thóat, băng đới cùng với các chứng khí suy huyết hư.

– Bản kinh: Chủ ung nhọt, bại sang lâu ngày, bày trừ mủ ngừng đau, bệnh chốc đầu đại phong, năm thứ trĩ, thử lậu. Bổ hư, trăm bệnh trẻ con.

– Biệt lục: Chủ phong tà khí ở tử tạng của đàn bà, trục ác huyết ở ngũ tạng. Bổ hư tổn ở đàn ông, ngũ lao gấy ốm. Ngừng khát, đau bụng, tiết lỵ, ích khí, lợi âm khí.

– Nhật hoa tử bản thảo: Hoàng kì trợ khí tráng gân xương, trường nhục bổ huyết, phá trưng ghẻ lở, trị tràng nhạc, anh chuế (bướu cổ), trường phong, huyết băng, đới hạ, xích bạch lỵ, tất cả các bệnh sản tiền hậu, tháng không đều, tiêu khát, ho đàm; và trị đầu phong, nhiệt độc, mắt đỏ v.v…

– Vương Hảo Cổ; Chủ sốt rét Thái âm.

– Bản thảo bị yếu: Dùng sống cố biểu, không mồ hôi có thể phát, có mồ hôi có thể cầm, ấm phần thịt, thực tấu lý, tả âm hỏa, giải cơ nhiệt; Dùng chích bổ trung, ích nguyên khí, ấm tam tiêu, tráng Tỳ Vị. Sanh huyết, sanh cơ, bài nùng nội thác, thánh dược ung nhọt. Chứng đậu không xuất, dương hư không nhiệt nên dùng vậy.

Dùng thuốc phân biệt

Chích hoàng kỳ
Chích hoàng kỳ

Ba vị Nhân sâm, Đảng sâm, Hoàng kì đều có công hiệu bổ khí và bổ khí sanh tân, bổ khí sanh huyết,thường dùng tương tu, có thể hỗ trợ nhau tăng cường hiệu quả điều trị. Nhưng tác dụng của Nhân sâm khá mạnh, được khen là yếu dược số 1 bổ khí, và có công ích khí cứu thóat, an thần tăng chí, bổ khí trợ dương. Lực bổ khí của Đảng sâm khá bình hòa, chuyên về bổ ích khí của Tỳ Phế, kiêm năng bổ huyết. Lực bổ ích nguyên của Hùynh kì không bằng Nhân sâm, nhưng giỏi về bổ khí thăng dương, ích vệ cố biểu, thác sang sinh cơ, lợi thủy thối thũng, nhất là chứng Tỳ hư khí hãm, biểu hư tự ra mồ hôi v.v…

Tham khảo

Hoàng kì với Nhân sâm cùng dùng, lực bổ khí càng mạnh; Với Phụ tử cùng dùng có thể bổ khí trợ dương; Với Bạch truật cùng dùng có thể bổ khí kiện Tỳ; Với Đương qui cùng dùng có thể bổ khí sanh huyết; Với thuốc bổ khí thăng dương cùng dùng, như Đảng sâm, Thăng ma có thể ích khí thăng dương; Với thuốc lợi thủy cùng dùng, như Phục linh, Bạch truật có thể bổ khí lợi thủy (Trung y phương dược học).

Liều dùng và cách dùng

Sắc uống, 9 ~ 30g. Bổn phẩm có dùng sống, có dùng chích mật.

Thường dùng vào bổ ích khí huyết nên dùng chích, cồ biểu thác nùng sinh cơ nên dùng sống.

Kiêng kỵ

– Trung y phương dược học: Phàm âm hư hỏa vượng, chứng thực tà nhiệt đều không nên dùng.

– Bản thảo kinh tập chú: Ghét Qui giáp.

– Nhật hoa tử bản thảo: Ghét Bạch tiên bì.

– Dược đối: Phục linh làm sứ của nó vậy.

– Y học nhập môn: Người khí thịnh đen xanh cấm dùng, người biểu tà vượng cũng không được dùng, người âm hư cũng nên dùng ít. Sợ Phòng phong.

– Bản thảo kinh sơ: Người khó thở hung cách, trường vị có tích trệ chớ dùng; Người dương thịnh âm hư kỵ vậy; Người thượng tiêu nhiệt nặng, hạ tiêu hư hàn kỵ vậy; Bện nhân giận nhiều, Can khí không hòa chớ uống; Mụn đậu huyết phận nhiệt nặng kỵ vậy.

Nghiên cứu hiện đại

  1. Thành phần hóa học:

– Bổn phẩm chủ yếu hàm chứa glycoside, polysaccharide, flavonoids, amino acids, nguyên tố vi lượng v.v…(Trung dược học).

– Hoàng kì hàm chứa sucrose, glucuronic acid, chất dịch dính, một số lọai amino acid, chất đắng, sinkaline, lycine, folic acid (FA) (65 microgram /100g rễ khô),còn phân ly ra2′,4′-dihydroxy -5,6-dimethoxyisoflavane và Kumatakenin。Trong sản phẩm xà phòng hóa của chất mở Nội Mông Hoàng kì phân ra linoleic acid, linolenic acid;Trong thành phần phi xà phòng hóa có β-sitosterol (Trung dược đại từ điển).

  1. Tác dụng dược lý:

– Hoàng kỳ có thể xúc tiến chuyển hóa cơ thể, chống mệt mỏi, xúc tiến đổi mới huyết thanh và protein tạng gan; Có tác dụng lợi niệu rõ rệt, có thể tiêu trừ chứng tiểu protein viêm thận thực nghiệm; có thể cải thiện hiện tượng động vật thiếu máu; Có thể thăng cao đường huyết thấp, giáng thấp máu cao; Có thể hưng phấn hô hấp; Có thể tăng cường và điều tiết công năng miễn dịch của cơ thể, có tác dụng xúc tiến hệ thống interferon, có thể đề cao sức đề kháng của cơ thể; có tác dụng ức chế độ nhẹ đối với nhiều lọai vi rút gây ra bệnh biến tế bào như vi rút cúm v.v…, có tác dụng bảo hộ đối với chuột con nhiễm vi rút cúm; có tác dụng kháng khuẩn khá rộng, Hoàng kì ở trong nuôi cấy tế bào, có thể làm cho số tế bào tăng nhiều rõ rệt, tế bào tăng trưởng mạnh, tuổi thọ dài; Có thể tăng cường lực co bóp cơ tim, bảo hộ hệ thống mạch máu tim, chống lọan nhịp tim, giãn mạch máu ngọai vi và động mạch vành, giáng thấp huyết áp, có thể giáng thấp lực dính của tiểu cầu, giảm bớt hình thành huyết khối, còn có tác dụng giáng mỡ máu, chống suy lão, chống thiếu ô xy, bảo hộ gan (Trung dược học).

– Có tác dụng cường tim, có thể tăng cường co bóp của tạng tim bình thường, tác dụng của nó rõ rệt nhất đối với tạng tim trúng độc và mệt nhọc; Có tác dụng lợi niệu độ vừa và giáng áp, có thể giãn đầu mút mạch máu tòan thân và mạch vành, do đó làm cho huyết áp hạ thấp, nhưng trên lâm sàng làm thuốc lợi niệu, giáng áp, rất ít sử dụng riêng mình nó, cần phối hợp với thuốc tương ứng, dùng trị thũy thũng thuộc hư và cao huyết áp thuộc hư, có hiệu quả nhất định; Có tác dụng cầm mồ hôi, có thể bài tiết lỗ chân lông bế tắc, ức chế phát hãn quá nhiều; Có tác dụng lọai kích thích tố sinh dục. (Trung y phương dược học).

– Theo thí nghiệm kháng khuẩn, bổn phẩm có tác dụng ức chế đối với nhiều loại vi khuẩn như trực khuẩn lỵ, trực khuẩn bệnh nhiệt thán, khuẩn liên cầu tan máu, trực khuẩn bạch hầu, khuẩn song cầu viêm phổi, khuẩn cầu chùm sắc vàng kim v.v…(Trung y phương dược học).

  1. Nghiên cứu lâm sàng: Có báo cáo bổn phẩm phối hợp Đảng sâm điều trị tiểu protein viêm thận mạn tính và bệnh tiểu đường có hiệu quả (Trung y phương dược học).

Bài thuốc cổ kim tham khảo

+ Phương thuốc 1:Trị tự ra mồ hôi: Phòng phong, Hùynh kỳ đều 1 lượng, Bạch truật 2 lượng. Thuốc trên nghiền nhỏ, mỗi lần uống 3 chỉ, nước 1 chén rưỡi, gừng 3 lát sắc uống.

(Đơn khê tâm pháp – Ngọc bình phong tán)

+ Phương thuốc 2:

Trị phong thấp mạch phù, mình nặng, ra mồ hôi sợ gió: Phòng kỷ 1 lượng, Cam thảo nửa lượng (sao), Bạch truật 7 chỉ rưỡi, Hoàng kì 1 lượng 1 phân (Bỏ mầm). Thuốc trên nghiền nhỏ như hạt đậu mè, mỗi lần múc thìa 5 chỉ, gừng tươi 4 lát, Đại táo 1 trái, nước 1 chén rưỡi, sắc 8 phân, bỏ bã uống ấm, rất lâu lại uống.

(Kim qủy yếu lược – Phòng kỷ Hoàng kỳ thang)

+ Phương thuốc 3:

Trị ung nhọt các chứng độc mủ bên trong đã thành, không xuyên vỡ: Hoàng kì 4 chỉ, Sơn giáp (nghiền bôt 1 chỉ, Tạo giác châm 1,5 chỉ, Đương qui 2 chỉ, Xuyên khung 3 chỉ. Nước 2 chén, sắc 1 chén rưỡi, trước sau tùy bệnh, lúc đi ngủ cho vào rượu 1 ly cũng được.

(Ngọai khoa chính tông – Thấu nùng tán).

+ Phương thuốc 4:

Trị thạch thư màu da không thay đổi. lâu ngày không làm mủ: Hoàng kỳ chích 2 lượng, Đại phụ tử (Bỏ núm vỏ, ngâm tẩm nước gừng, cắt phiến, lửa nướng chích, dùng nước gừng dưới mức 1 chén là độ) 7 chỉ, Thỏ ty tử (tẩm rượu, hấp), Đại hồi hương sao đều 1 lượng. Tất cả nghiền bột, rượu đánh hồ làm hòan. Mỗi lần uống chỉ, mỗi ngày uống 2 lần, bụng đói, trước bửa ăn rượu vàng tống uống.

(Ngọai khoa đại thành – Hoàng cao hòan).

+ Phương thuốc 5:

Trị ung nhọt phát bối, ung nhọt ruột, ung nhọt vú, vô danh sưng độc, mưng đỏ làm đau nhức, ghét lạnh sốt cao, tương tự như thương hàn, không hỏi người già trẻ hư yếu: Nhẫn đông thảo (Bỏ cành), Hoàng kì (bỏ mầm) đều 5 lượng, Đương qui 1 lượng 2 chỉ, Cam thảo (chích) 1 lượng. Thuốc trên nghiền nhỏ, mỗi lần uống 2 chỉ, rượu 1 chén rưỡi, sắc đến 1 chén, nếu bệnh phần trên, uống sau bửa ăn, bệnh ở dưới, uống trước bửa ăn, tí nữa lại uống lần thứ 2, lưu lại bã đắp ngòai, chưa thành mủ tiêu bên trong, đã thành mủ tức vỡ.

(Cục phương – Thần hiệu thác lý tán).

+ Phương thuốc 6:

Trị ung nhọt sau khi mủ đã tiết ra, vỡ lóet không thể thu miệng: Hoàng kỳ 3 chỉ, Nhân sâm 3 chỉ, Cam thảo 2 chỉ, Ngũ vị 1 chỉ, Sinh khương 3 chỉ, Phục linh 3 chỉ, Mẫu lệ 3 chỉ. Sắc nước nửa chung lớn, uống ấm.

(Tứ thánh tâm nguyên – Hoàng kỳ Nhân sâm Mẫu lệ thang)

+ Phương thuốc 7:

Trị các chứng hư bất túc, tay chân cơ thể mỏi mệt, trong ngực phiền tim hồi hộp, thường tiêu khát, miệng môi khô táo, sắc mặt héo vàng, không thể ăn uống, hoặc trước khát mà muốn phát nhọt ghẻ, hoặc bệnh ung nhọt sau đó khát: Hoàng kì 6 lượng (bỏ mầm, mật thoa nướng), Cam thảo 1 lượng (nướng). Thuốc trên cắt nhỏ, mỗi ngày 2 chỉ, nước 1 chén, táo 1 trái, sắc 7 phân, bỏ bã uống ấm, bất cứ lúc nào.

(Cục phương – Hoàng kì Lục nhất thang).

+ Phương thuốc 8:

Trị da nóng táo nhiệt, khát uống, mắt đỏ mặt đỏ, mạch hồng đại mà hư, ấn nặng hòan tòan vô lực, chứng giống Bạch hổ, chỉ có mạch không trường, uống nhầm Bạch hổ thang ắt chết, bệnh này mắc là do quá đói lại lao nhọc: Hoàng kỳ 1 lượng, Đương qui (rửa rượu) 2 chỉ. Thuốc trên cắt nhỏ, làm uống 1 lần, nước 2 chén, sắc đến 1 chén, bỏ bã uống ấm, bụng đói uống trước bửa ăn.

(Nội ngọai thương biện – Đương qui bổ huyết thang).

+ Phương thuốc 9:

Trị trường phong ỉa máu: Hoàng kì, Hoàng liên lượng bằng nhau. Thuốc trên nghiền bột, hồ bột hòan, lớn như hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 30 hòan, nước cơm uống.

(Tôn Dụng Hòa)

+ Phương thuốc 10:

Trị tiểu máu sa lâm, đau không chịu được: Hoàng kì, Nhân sâm lượng bằng nhau, nghiền bột, dùng củ cải lớn 1 cái, cắt dày như ngón tay 4, 5 lát, mật 2 lượng, ngâm nướng cho hết, không cho cháy, chấm bột, không kễ lúc nào, dùng nước muối uống.

(Vĩnh lọai kiềm phương).

+ Phương thuốc 11:

Trị bạch trọc: Hoàng kì muối sao nửa lượng, Phục linh 1 lượng. Thuốc trên nghiền bột, mỗi lần uống 1, 2 chỉ, bụng đói nước sôi trắng tồng uống.

(Kinh nghiệm lương phương – Hoàng kì tán)

+ Phương thuốc 12:

Trị tửu đản, tâm đau, cẳng chân đầy, tiểu tiện vàng, uống rượu phát đen vàng ban đỏ, do quá say gặp gió, nước nhập gây ra: Hoàng kì 2 lượng, Mộc lan 1 lượng. Nghiền bột vậy, rượu uống thìa 1 tấc vuông, ngày 3 lần.

(Bổ khuyết trửu hậu phương).

+ Phương thuốc 13:

Trị người già đại tiện bí rít: Miên Hoàng kì, Trần bì ( bỏ xơ trắng) đều nửa lượng. Thuốc trên nghiền nhỏ, mỗi lần uống 3 chỉ, dùng Đại ma nhân (hạt mè lớn) 1 hợp nghiền nát, lấy nứơc đặc 1 chén, lọc bỏ bã, cho vào đồ đựng bạc, đá sắc, lúc có sữa nỗi lên, thì gia thêm mật ong 1 thìa lớn, lại sắc cho sôi, hòa thuốc bột, bụng đói uống trước bửa ăn.

(Cục phương – Hoàng kì thang)

+ Phương thuốc 14:

Trị đốt tay chân rụng thóat, nhưng có liền da, không được cử động, bèn gân rời ra vậy: Hoàng kì 3 lượng, rượu tẩm 1 đêm, nướng nghiền, rượu uống 2 chỉ, đến khỏi thì ngừng.

(Đắc phối bản thảo).

+ Phương thuốc 15:

Trị khí hư thai động, đau bụng ra nước: Gạo nếp 1 hợp, Hoàng kì, Xuyên khung đều 1 lượng. sắc nước uống, phân 3 lần uống.

(Phụ nhân lương phương – Hoàng kì thang).

+ Phương thuốc 16:

Trị đỉnh đậu vùi lấp vào trong da mỏng mà mềm: Chích Hoàng kì 3 chỉ, Nhân sâm 1,5 chỉ, Chích cam thảo 7 chỉ, Xuyên khung 1 chỉ, Nhục quế 1 chỉ, Bạch truật 1 chỉ. Gia vào trái táo cùng sắc, khí không hành gia Mộc hương.

(Chủng đậu tân thư – Bảo nguyên thang).

+ Phương thuốc 17:

Trị trẻ con tiểu tiện không thông: Miên Hoàng kì nghiền bột, mỗi lần uống 1 chỉ, nước 1 chén, sắc đến 5 phân, uống ấm bất kễ lúc nào.

(Tiểu nhi vệ sinh tổng vi luận phương).

+ Phương thuốc 18:

Trị trẻ con dinh vệ bất hòa, da thịt gấy mòn, cốt chưng khát nhiều, không muốn ăn uống, bụng đầy tiêu chảy, khí hư kém sức: Hoàng kì nướng, Nhân sâm, Đương qui, Xích thược dược, Trầm hương đều 1 lượng, Mộc hương, Quế tâm đều nửa lượng. thuốc trên cắt nhỏ, mỗi lần uống 1chỉ, gừng tươi 2 lát, táo nửa trái, nước nửa chén, sắc đến 3 phân, bỏ bã uống ấm.

(Phổ tế phương – Hoàng kỳ tán)

+ Phương thuốc 19:

Trị thóat giang: Sinh hoàng kì 4 lượng, Phòng phong 3 chỉ. Sắc nước uống.

(Nội Mông Cổ – Trung thảo dược tân y liệu pháp tư liệu tinh tuyển).

+ Phương thuốc 20:

Hoàng kì 50g, sắc nước uống, mỗi ngày 1 thang, điều trị viêm mũi dị ứng, viêm mũi mạn tính và phòng ngừa trẻ con cảm nhiễm đường hô hấp trên v.v…hiệu quả khá tốt.

+ Phương thuốc 21:

Mỗi ngày uống dịch chiết Hoàng kì 2ml (hàm chứa 2g thuốc sống), phòng ngừa trẻ con cảm nhiễm đường hô hấp trên 100 ca, có hiệu suất 94 %.

(Cáp Nhĩ Tân y khoa đại học học báo, 1993, 5: 66)

+ Phương thuốc 22:

Liều lớn Hoàng kì điều trị Luput ban đỏ hệ thống: Tổng cộng điều trị 17 ca. liều Hoàng kì mỗi ngày là 30, 60 hoặc 90g sắc uống, liệu trình 2 ~ 12 tháng, đều thu được hiệu quả, trong đó hiệu quả rõ 6 ca, hữu hiệu 11 ca. Đại đa số bệnh nhân lâm sàng biểu hiện chuyển biến tốt hoặc tiêu giảm và cùng nhất chí tăng cường công năng miễn dịch tế bào, hiệu suất hình thành vòng hoa vốn giảm thấp tăng cao. Bộ phận ca bệnh nặng, độ vừa hoặc bệnh nhân có tổn thương tạng thận, vốn đã trong tiếp nhận liều nhỏ cocticoit vô hiệu, sau khi dùng thêm Hoàng kỳ tình trạng cải thiện rõ, và giảm bớt liều dùng kích thích tố.

(Lâm sàng y học tạp chí 1 (2) : 34 – 36, 1985)

+ Phương thuốc 23: Ung thư mũi cổ họng dùng Huỳnh kỳ kháng nham thang.

Tiên Huỳnh kỳ, Bạch hoa xà thiệt thảo mỗi vị 100g, Hoàng liên 20g, Bán chi liên 50g, mỗi ngày 01 thang, sắc uống.

+ Phương thuốc 24 : – Thành phần: Đảng sâm 20~30g; Hoàng kỳ, Đan sâm, Ngũ vị tử, Câu kỉ tử, Phục linh mỗi vị 15g, Cam thảo 6g, Xuyên khung 10g, Đương qui 10~15g.

– Gia giảm: Nếu người vùng gan đau nhức, gia thêm Huyền hồ sách, Viễn chí mỗi vị 10~15g, nếu người bị bụng nước gia Trư linh 20g, Trạch tả 15g.

– Cách dùng: Mỗi ngày 1 thang, phân 2 lần uống, mỗi tuần uống liên tục 5 thang, ngừng 2 ngày. 8 tuần là 1 liệu trình.

– Chứng thích ứng: Viêm gan B mạn tính.

– Hiệu quả điều trị: Dùng thuốc trên điều trị bệnh nhân viêm gan B mạn tính 71 ca, trong đó cơ bản trị khỏi 41 ca, hiệu quả rõ 14 ca, hữu hiệu 10 ca, vô hiệu 6 ca. So sánh với nhóm đối chiếu Tây dược có khác biệt rõ rệt (P< 0,5). Hiệu quả trị liệu tốt hơn đối với nhóm đối chiếu Tây dược.

+ Phương thuốc 25:- Thành phần: Hoàng kỳ 100g, Kim ngân hoa 50g, Bồ công anh 30g, Đương qui 25g, Sanh cam thảo 15g.

– Cách dùng: Đem thuốc trên sắc nước 3 lần, hợp các dịch thuốc lại độ 1000ml, phân 3 ~4 lần uống, mỗi ngày 1 thang.

– Hiệu quả điều trị: Dùng phương này điều trị bệnh nhân bị nhọt sưng 121 ca, uống 5 ~10 thang, điều trị khỏi.

Theo “Dược phẩm vựng yếu”

HOÀNG KỲ

Khí vị:

Vị ngọt, hơi ấm, không độc, khí hậu hơn vị, tính thăng được, giáng được, thuộc loại dương dược, vào kinh Thủ dương minh và Thủ thái âm. Ghét Miết giáp, Bạch tiên bì, sợ Phòng phong.

Chủ dụng:

Để sống thì trị ung nhọt, nướng chín thì bổ hư tổn, chữa 5 chứng lao, 7 chứng thương, khí huỵết hư hao, ích nguyên dương, tả âm hỏa, làm ấm cho phần thịt, đầy đặn da thịt, kín đáo thớ thịt, chữa được ra mồ hôi trộm, tự ra mồ hôi, làm vỡ mũ. Đẩy độc từ trong ra cho khỏi đau, lên da non. Ngoài thì lưu hành nơi da lông, trong thì bổ Tỳ Vị. Công của nó chuyên về củng cố phần biểu. Tính sợ Phòng phong mà gặp được Phòng phong thì công lại càng to. Lại có người nói: Trị khí đoản thuộc hư ở Thượng tiêu vì tả được hỏa của thở suyễn tạng Phế, cũng chữa những chứng tả lỵ lâu ngày, chứng tràng phong, bệnh kinh nguyệt, băng đới, thai tiền, sản hậu, mọi bệnh của trẻ con, rất bổ cho cả Tam tiêu. Trục ác huyết, phong đồi, chữa 5 loại tri, mụn nhọt ở Phế đã vỡ, phần biểu hư có tà xâm phạm, mồ hôi không ra được uống nó thì có mồ hôi, cho nên nói có nhiều mồ hôi thì ngăn lại được, không có mồ hôi thi phát ra được, lại chỉ khát, sinh tân dịch, sinh ra huyết, là thuốc thánh để tả âm hỏa, lui hư hỏa.

Hợp dụng:

Cùng với Bạch truật thì bổ trung tiêu, cùng với Nhân sâm thì bổ khí, cùng với Đương quy thì bổ huyết.

Cấm kỵ: Phàm những chứng dương thịnh âm hư, cũng như chứng Thượng tiêu rất nhiệt, hạ tiêu hư hàn, Can khí không hòa, người bệnh hay giận, và mạch ở bộ Phế hồng đại, hỏa đưa lên Phế mà ho, âm hỏa xông lên mà thổ huyết đều cấm dùng.

Cách chế:

Thứ mềm, trông sáng màu thì tốt. Để sống dùng thì có khả năng đẩy độc tà ra ngoài biểu, làm vỡ mủ, chích Mật thì điều bổ hư tổn, ở Hạ tiêu hư thì tẩm nước Muối sao.

Nhận xét:

Hoàng kỳ bẩm thọ khí xung hòa của trời mà sinh ra, ngọt là mùi vị chính của đất, cho nên giải được độc, là dương dược thì giải phần biểu, vị ngọt thì có ích cho huyết, Tỳ chủ về phần cơ nhục, cho nên chủ trị lở ngứa, thối nát đã lâu ngày, làm vỡ mủ khỏi đau. Thực là vị thuốc chủ yếu để bổ cho phần biểu, nếu tà khí ở ngoài biểu đang còn thịnh thì cũng nên kiêng dùng nó.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Y học trung trung tham tây lục”

Bài Thăng hãm thang

Hoàng kỳ 18g, Sài hồ 5g, Tri mẫu 10g, Cát cánh 5g, Thăng ma 4g.

Chữa khí ở ngực bị hạ hãm, đoản hơi, ho suyễn, lúc nóng, lúc lạnh, họng khô khát, lo sợ hồi hộp, hay quên, mạch trầm vi nhươc.

“Tang phù tiêu bản dược thức”

Bài Hoàng kỳ thang

Nhân sâm 10g, Tang bạch bì 12g, Hoàng kỳ 8g, Cam thảo 10g, Địa cốt bì 20g.

Chữa trẻ em Phế nhiệt, mình nóng, mũi khô.

“Cảnh Nhạc toàn thư”

Bài Cử nguyên tiễn

Nhân sâm 20g, Bạch truật 4g, Hoàng kỳ 20g, Thăng ma 4g, Cam thảo 8g.

Chữa Tỳ hư gảy ra khỉ hư hạ hãm, băng huyết, vong dương.

“Kim quỹ yếu lược” Bài Hoàng kỳ kiến trung thang

Bài Hoàng kỳ kiến trung thang

Hoàng kỳ 12g, Đại táo 4 quả, Quế chi 12g, Sinh Khương 12g, Cam tảo 12g, Bạch thược 24g, Di đường 50g. (Di đường không có cũng tạm được).

Chữa hư lao bất túc, trong bụng căng cấp, tự ra mồ hôi, hoặc ra mồ hôi trộm, đoàn hoi, thân thế rã rời, mạch hư đại.

“kim quỹ yếu lược”

Bài Hoàng kỳ quế chi ngũ vật thang

Hoàng kỳ 12g, Sinh Khương 24g, Bạch thược 12g, Đại táo 12 quả, Quế chi 12g.

Chữa huyết tỷ, chân tay tê dại. Trên lâm sàng dùng chữa tắc mạch máu.

“Y lâm cải thác”

Bài Bổ dương hoàng ngũ thang

Hoàng kỳ 40-160g, Đương quy vĩ 8-12g, Xích thược 6-8g, Đào nhân 4-8g, Địa long 4g, Xuyên khung 8g, Hồng hoa 4-8g. Sắc, chia uống vài lần trong ngày.

Có tác dụng bổ khí, hoạt huyết, thông lạc.

Trị di chứng trúng phong, khí hư huyết trệ, mạch lạc không thông gây liệt nửa người, nói khó, mắt lệch, miệng méo, lưỡi tối nhạt, rêu lưỡi trẳng. mạch hoãn vô lưc.

Trên lâm sàng thường dùng chữa thiểu năng tuần hoàn não, trúng phong liệt nửa người, mạch máu não viêm tắc, huyết áp cao do thiếu máu, thần kinh tọa đau, liệt mặt, mất ngủ lâu năm, thống kinh, phì đại Tiền liệt tuyến.

“Kim quỹ yếu lược”

Bài Phòng kỷ hoàng kỳ thang

Phòng ký 8-12g, Bạch truật 8-12g, Hoàng kỳ 12-24g, Chích Cam thảo 4g, Sinh Khương 3 nhát, Đại táo 3 quả. sắc, chia uống 2 lần trong ngày.

Có tác dụng bổ khí, kiện Tỳ, lợi thủy, tiêu phù.

Trị phong thủy, thấp tỷ thuộc chứng biểu hư, thấp nặng, ra mồ hôi, sợ gió, thân thể sưng phù nặng nề.

“Nội ngoại thương biện hoắc luận”

Bài Đương quy bổ huyết thang

Hoàng kỳ 20-40g, Đương quy 12-16g. sắc uống ấm trước ăn. Có tác dụng bổ khí sinh huyết.

Trị sau khi máu ra nhiều, phụ nữ bị rong huyết, huyết hư, da mặt vàng ủa, tinh thần mệt mỏi thiếu sức hoặc có sốt nhẹ, sau khi ung nhọt vỡ, máu mủ nhiều, mạch hư, đai vô lưc.

“Y tông tất độc”

Bài Chửng dương lý lao thang

Nhân sâm 8g, Hoàng kỳ 8g, Trần bì 4g, Ngũ vị tử 2g, Đại táo 2 quả, Bạch truật 4g, Cam thảo 2g, Nhục quế 3g, Sinh Khương 4g, Đương quy 6g. sắc, chia uống 3 lần trong ngày. Chữa mệt nhọc hao khỉ, biếng nói, động làm là suyễn, biểu nhiệt tự ra mo hôi, Tâm phiền, đau nhức toàn thân…

Bài Bổ trung ích khí thang (Tỳ vị luận)

Hoàng kỳ 20g, Nhân sâm 8g, (không có nhân sâm thì dùng 12-16g Đảng sâm), Bạch truật 12g, Chích Cam thảo 4-6g, Đương quy 8-12g, Trần bì 4-6g, Thăng ma 4-6g, Sài hồ 6-10g. Sắc, chia uống 3 lần trong ngày, xa bữa ăn.

Có tác dụng ích khí thăng dương, điều bổ Tỳ Vị.

Trị Tỳ Vị khí hư, tinh thần mệt mỏi, sợ lạnh, tự ra mồ hôi, hoặc phát sốt, trung khỉ hạ hãm, lòi dom, sa Tử cung, sa Dạ dày, tiêu nhiều hay tiểu ít và phụ nữ kinh nguyệt không thuận do nguyên nhân Tỳ, Phế khí hư.

Trên lâm sàng thường dùng chữa sa Dạ dày, sa Dạ con, trị đới hạ, băng lậu, trị yếu cơ năng, tri viêm Gan mạn tính, trị thoát vị bẹn, trị lồng ruột trẻ nhỏ, trị tiểu đục, trị trẻ nhỏ tiểu nhiều lần do rối loạn thần kinh, trị tiểu tiện không tự chủ sau sinh, trị đau

thắt Thận do sỏi di chuyển, trị Bạch cầu giảm, trị động kinh, ù tai, mất ngủ kéo dài do dương khí không thăng lên nên tuần hoàn não kém, trị di tinh sau kết hôn.

Nói chung chữa những người khí hư hạ hãn, mạch hư nhuyễn, nhất là bộ thốn bên phải.

“Hiệu phỏng tân phương”-Hải Thượng Lãn ông

Bài Bổ âm ích dương phương

Hoàng kỳ 2 lạng (80g), Đương quy 5đ, Lộc nhung (tẩm Rượu nướng) 2đ, Bố sâm 5đ, Bạch linh 5đ, Chích Cam thảo 2đ, Long cốt 2đ (nung lừa, nghiền uống) Mẫu lệ 2đ (nung lửa nghiền uống).

Các vị trên sắc nước cùng với bột Long cốt, Mẫu lệ chia uống 3 lần trong ngày.

Có tác dụng bổ âm ích dương.

Chủ trị các chứng âm vong dương thoát, ra mổ hôi trộm, mình ấm, chân tay dần dần giá lạnh.

Bài Gia vị ích tâm thang (Thiên gia diệu phương)

Đảng sâm 10g, Hoàng kỳ 15g, Cát căn 9g, Xuyên khung 9g, Đan sâm 15g, Xích thược 9g, Sơn tra 30g, Xương bồ 5g, Huyết kiệt phấn l,5g, Giáng hương 3g, Tam thất phấn 1,5g, Quyết minh tử 30g.

Huyết kiệt phấn và Tam thất phấn để riêng, sắc các vị khác, bỏ bã, hòa Huyết kiệt và Tam thất vào nước thuốc, chia uống 3 lần trong ngày.

Có tác dung ích huyết, hóa ứ.

Chữa đau thắt động mạch vành.

Đối với người cao tuổi, bệnh lâu ngày khí huyết hư lại có ứ chứng thì bài thuốc này lại càng thích hợp. Ngoài ra nó còn có hiệu quả nhất định hồi phục chức năng cơ Tim.

Các phương thuốc bổ dưỡng thường dùng:

Hoàng Kỳ bổ huyết thang (thang thuốc hoàng kỳ bổ máu)

Hoàng Ky 30g

Đường qui (sao tẩm rượu) 6g

Cả hai vị đổ nước vào sắc hai lần, trộn lần với nhau;

Uống ngày hai lần.

Dùng cho người mệt mỏi nội thương, khí hư, huyết hư, như thiếu máu, giảm bạch cầu, sau khi lở loét, mủ quá nhiều, vết thương lâu không lành, phụ nữ phát sốt khi hành kinh hoặc sau khi đẻ, mất máu nhiều cơ thể suy nhược v.v…

Kỳ qui thang (thang hoàng kỳ – thịt rùa)

Hoàng kỳ 60g

Thịt rùa 250g

Chỉ xác rang 15g

Cho nước vào hầm chín, bỏ bã thuốc, ăn thịt, uống thang. Chủ trị bệnh sa dạ dày.

Hoàng kỳ trư đề thang (thang chân giò, hoàng kỳ)

Hoàng kỳ 20g

Chân giò 1 chiếc

Đại táo 15g

Cho nước vào hẩm chín, bỏ bã thuốc, ăn thịt, ụỗng thang chủ trị bệnh sa dạ con, lòi dom.

Hoàng kỳ thang (thang hoàng kỳ)

Hoàng ky 20 – 30g

Sắc nước uống nhiều lần.

Chù trị các chứng khí hư, thiếu lực, bệnh lở loét và viêm dạ dày co thắt mạn tính, trẻ em hen phế quản và có thể phòng cảm cum.

Kỳ ngư thang (thang hoàng kỳ cá quả)

Hoàng kỳ 30g

Cá quả 250g

Cho nước, gia vị vừa phải, hầm chín, ăn cá, uống thang, dùng cho người bị viêm thận phù nề.

Bổ dương hoàn ngũ thang

Hoàng Kỳ 30g

Đương qui 6g

Địa long 3g

Xích thược 3g

Đào nhân 3g

Hồng hoa 3g

 Xuyên khung 30g

Sắc 2 nước, trộn lần, uống ngày 2 lần.

Thường dùng cho người phục hỏi sau khi bị bệnh não, điều dưỡng tại nha như di chứng não sau khi trúng gió, di chứng trẻ em sau khi tê liệt, và bị liệt nửa người do mọi nguyên nhân, teo cơ chân hoặc tay v.v…

Hoàn nải thang (thuốc tăng sữa)

Hoàng Kỳ 60g

Lộ lộ thông 12g

Đảng sâm 12g

Tê tê 15g

Cát ngạch 12g

Mộc thông 6g

Vương bất lưu hành 12g

Các vị trên hầm với chân giò ăn, dùng cho bà mẹ ít sữa.

Trị ung sang phương (Thuốc chữa ung loét)

Hoàng Kỳ 30g

Đương qui 15g

Bồ công anh 30g

Vương bất lưu hành 15g

Ngân hoa 30g

vẩy Tê tê 15g

Địa đinh 20g

Cát ngạnh 12g

Cho vẩy tê tê vào ninh trước 10 phút, sau đó cho tất cả các vị thuốc khác vào sắc chung trong 10 phút, chắt lấy nước, uống ngày một thang, chia 2 lần.

Dùng cho người khí huyết vận hành thất thường, các chất độc ngưng tụ trong cơ trong thịt dẫn tới việc nảy sinh những ung nhọt trên cơ thể.

Hoàng Kỳ nhân sâm mẫu lịch thang (thang con hà, nhân sâm, hoàng kỳ)

Hoàng Kỳ 15g

Con hà 15g

Nhân sâm 15g

Cam thảo 10g

Gừng tươi 15g

Ngũ vị tử 5g

Phục linh 15g

Con hà đem nấu trước 10 phút, sau đó cho các vị khác vào sắc chung hai nước, trộn lẩn, uống ngày 1 thang chia 2 lần.

Chủ trị ung nhọt vỡ mủ xong không liền miệng được, hoặc các vết mô nhiễm trung để lâu không khô miệng.

Ngọc bình phong thang (thang thuốc ngọc bình phong)

Hoàng Kỳ 18g

Bạch truật 12g

Phong phong 9g

Cả ba sắc 2 nước, trộn lẫn, uống ngày 1 thang chia 2 lần.

Dùng cho người thể hư, dị cảm ngoại tà, hoặc sau khi khỏi mụn nhọt toàn thản ngứa ngáy, dị ứng thuốc sinh ra bệnh mẩn tịt v.v…

Giáng đường tiêu khát thang (Thang thuốc tiêu khát, giảm đường trong máu)

Hoàng Kỳ 20g

Mạch môn đông 10g

Smh địa 30g

Thiên hoa phấn 15g

Sơn dược 30g

Ngũ vị tử 9g

Huyền sâm 15g

Sắc chung hai nước, trộn lẫn, uống ngày 1 thang chia 2 lần.

Phương thuốc này có tác dụng bổ khí, bổ tỳ, tiêu khát sinh nước bọt, có thể chữa trợ giúp cho người bị bệnh đái đường.

Hoàng Kỳ kiến trung thang.

Hoàng kỳ sao 20g

Cam thảo sao 6g

Bạch thược 12g

Quế chi 6g

Kẹo mạch nha 2 – 3 thìa

Trừ kẹo mạch nha, các vị trên cho vào sắc chung 2 nước, trộn lẫn, đổ kẹo mạch nha vào khuấy tan, uống ngày 1 thang chia 2 lần.

Dùng cho người đau dạ dày và loét hành tá tràng, do tỳ vị hư hàn sinh ra.

Những cấm kỵ khi dùng thuốc:

Người bệnh cao huyết áp, tim không bình thường, hay thở hổn hển, cần thận trọng trong khi sử dụng.

Người bị tức ngực, tức bụng, có chất tích tụ trong ruột và dạ day không được sử dụng.

Người hay tức giận, can khí bất hoà không được sử dụng.

Người thuộc thực nhiệt kiêng không dùng.

Bữa sáng không nên ăn gì?

Không nên coi thường bữa ăn sáng

Có học giả người Anh đã làm cuộc điều tra đối với những người phụ nữ bị mắc bệnh sỏi mật, thì phát hiện ra rằng người mắc bệnh sỏi mật có liên quan đến việc không ăn bữa sáng.

Bởi vị bụng rỗng quá lâu, các thành phần trong mật có sự biến hoá, hàm lượng axit mật giảm đi, hàm lượng côlestêrin không đổi, do đó mà hình thành côlestêrin mật quá cao. Côlestêrin quá cao dễ tích luỹ lại ở trong túi mật, hình thành chất hạt nhân sỏi. Do đó để bảo vệ sức khỏe, không nên coi thường bữa ăn sáng.

Bữa sáng không nên ăn cơm nguội

Bữa sáng ăn cơm nguội là không thoả đáng.

Bữa sáng không nên ăn gì?
Bữa sáng không nên ăn gì?

Bởi vì sáng sớm sau khi ngủ dậy, công năng ruột và dạ dày còn chưa được khôi phục, còn chưa muốn ăn, nếu ăn cơm nguội, không những không ăn được nhiều, mà cũng khó tiêu hoá.. Hơn nữa sau một đêm ngủ, cơ thể tiêu hao rất nhiều nước, đang ở trạng thái tương đối thiếu nước, nên cần phải ăn cái gì có nhiều nước hoặc là uống nước. Như vậy không những có thể tăng thêm nhiệt lượng, mà còn có thể mở rộng dung lượng máu, có lợi cho tuần hoàn máu và khôi phục những chất mới được thay thế.

Bữa sáng không nên ăn cơm chan

Nhiều người thích ăn cơm chan canh, nhất là bữa ăn sáng. Họ cho rằng ăn cơm chan sẽ có lợi cho việc tiêu hoá. Cơm chan tuy có mềm hơn một chút, nhưng họ không biết rằng, nó ảnh hưởng đến quá trình tiêu hoá thức ăn bình thường .

Bởi vì cơm chan, thường chưa kịp nhai kỹ đã trôi xuống dạ dày, do đó mà làm cho dạ dày phải làm việc nhiều hơn, đồng thời nước trong cơm chan có thể làm loãng dịch vị, ảnh hưởng đến công năng bình thường cuả dạ dày. Cho nên không nên ăn cơm chan. Bữa ăn sáng càng không nên ăn cơm chan.

Cơm rang cũng còn gọi là cơm trộn, tức là sau khi xào xong thức ăn, còn dư lại ít dầu mỡ, tranh thủ đổ cơm vào rang. Như vậy, tuy số dầu mỡ dư thừa có được tận dụng, song đối với sức khỏe thì ăn cơm rang là có hại. Bởi vì sau khi xào rau, những chất dư thừa ở trong chảo, không những chỉ có dầu mỡ, mà còn có cả mì chính, muối, xì dầu v.v… do chảo nóng quá nên bị cháy tạo ra chất nitrat amin. Chất nitrat amin này có nhân tố tiềm tàng của ung thư. Cho nên, cơm rang tuy có thơm ngon, nhưng không nên ăn thường xuyên.

Dị cảm đầu chi – Triệu chứng, điều trị

Định nghĩa: hội chứng có cảm giác kim châm và cảm giác rát bỏng ở đầu chi.

Căn nguyên: rối loạn thần kinh thực vật, thiếu máu, tetani, viêm mạch có huyết khối gây tắc nghẽn, bệnh Raynaud, chèn ép cơ bậc thang.

Triệu chứng: cảm giác đau làm bệnh nhân thức tỉnh lúc sáng sớm và giảm dần trong buổi sáng. Các cảm giác này lại xuất hiện khi ngâm bàn tay vào nước lạnh.

Chẩn đoán phân biệt: xơ hốc tủy ở giai đoạn đầu, chèn ép tuỷ, tủy sống vừa bị tabès vừa bị xơ hoá.

Điều trị: các thuốc gây giãn mạch ngoại vi ít có tác dụng. Nói cho bệnh nhân biết là do rối loạn thần kinh thực vật để bệnh nhân yên tâm. Điều trị nguyên nhân nếu có thể.