Blog Trang 439

Mảng (vết) tím xanh hình lưới (bệnh co thắt mạch máu)

Định nghĩa

Bệnh co thắt mạch máu, có đặc điểm là ở da của chi xuất hiện các vết tím tái.

Căn nguyên

  • Thể vô căn: hay thấy nhất là ở phụ nữ trẻ tuổi.
  • Thể thứ phát: là một biểu hiện của bệnh Lupus ban đỏ rải rác, bệnh viêm đa động mạch nút, chứng globulin-huyết tủa lạnh, di chứng của các vết rạn ở các chi, nghẽn mạch vi thể bởi cholesterol trong liệu pháp thuốc chống đông máu uống.

Triệu chứng

Mảng (vết) tím tái thường xuyên, không đau, lốm đốm, hình lưới, nặng hơn lên khi trời lạnh. Nói chung co thắt mạch máu ở chi dưới thường rõ rệt hơn, so với â chi trên. Mảng (vết) tím tái có thể xuất hiện cả ở thân người.

Mạch bắt thấy bình thường, các chi ẩm và lạnh. Hãn hữu có loét.

Chẩn đoán phân biệt, xem: bệnh Raynaud.

Điều trị

Thuốc giãn mạch (reserpin, các chế phẩm chậm của nitrit) trong những thể nặng. Điều trị nguyên nhân ở những thể thứ phát.

Chẩn đoán và điều trị BETA- THALASSEMIA ở trẻ em

Thalasemia là hội chứng bệnh di truyền về Hb, do thiếu hụt tổng hợp mạch polypeptid trong globin của Hb.

  • p thalassemia: thiếu tổng hợp mạch p.
  • Bệnh HbE/p thalassemia: thiếu tổng hợp mạch p và có HbE.

CHẨN ĐOÁN

Lâm sàng

Thiếu máu tan máu mạn tính: da xanh, vàng da, lách to.

Xét nghiệm

  • Huyết đồ: Hb giảm, hồng cầu lưới tăng, HC nhược sắc, biến dạng hình bia và giọt nước.
  • Sức bền thẩm thấu HC tăng.
  • Sinh hóa: Bilirubin tự do tăng > 6mg/l.

Urobilirubin niệu (+).

  • Điện di có Hb bất thường:

+ p thalassemia đồng hợp tử: HbF > 10% với trẻ > 1 tuổi, có thể tới 90%.

> 25% với trẻ từ 6 tháng – 1 tuổi.

+ p thalassemia/HbE: HbF > 10%

HbE (+)

ĐIỀU TRỊ

Điều trị thiếu máu

  • Truyền máu khi Hb < 80g/l, nên duy trì Hb > 100g/l.
  • Loại máu truyền: khối hồng cầu.
  • Liều lượng truyền: 10 – 20ml/kg.
  • Thời gian truyền: trong vòng 4 giờ.

(Trường hợp thiếu máu quá nặng, có suy tim: nên truyền liều lượng thấp, tốc độ từ từ, kèm theo lợi tiểu lasix 0,5 – 1mg/kg).

Điều trị nhiễm sắt

Khi ferritin huyết thanh > 1000pg /1.

Thuốc: gồm 2 loại: tiêm và uống

  • Loại tiêm: desferal (Deferrioxamin B).

+ Chế phẩm: ống 0,5g, dạng bột trắng.

+ Liều lượng:

30-50mg/kg/8 giờ, tuần 5 lần, dưới da.

50-100mg/kg/8 giờ, TM nếu suy tim cấp do nhiễm độc sắt.

+ Tác dụng phụ: đau tại chỗ tiêm, sưng nề, ít khi gặp phản ứng dị ứng, chậm nhịp tim, tăng hoặc giảm huyết áp.

Nếu dùng lâu dài có thể giảm thị lực và thính lực.

+ Theo dõi: định lượng ferritin 3 tháng/1.

  • Loại uống: Kelfer

+ Chế phẩm: viên nang 0,25g và 0,5g.

+ Liều lượng: 25- 75mg/kg/ngày, uống chia 2- 3 lần.

+ Tác dụng phụ: hiếm gặp: buồn nôn, mệt mỏi, ra mồ hôi trộm, có thể đau khớp đặc biệt khi dùng liều cao kéo dài.

+ Theo dõi: định lượng ferritin 3 tháng/1 để điều chỉnh liều.

Thuốc phụ trợ khác

  • Vitamin E: viên 400 đơn vị.

Liều dùng: ngày 1 viên

Tác dụng: bảo vệ tế bào chống stress oxy hóa.

  • Acid folic: viên nén 5mg, ngày 2- 3 viên.
  • Kẽm: 1- 2mg/ ngày.
  • Vitamin C: chỉ cho trong trường hợp được thải sắt đều theo đúng phác đồ, và bắt đầu sau 2 tuần thải sắt.

Liều dùng: 150 – 250mg/ngày, cho quá liều này sẽ gây ngộ độc cơ tim.

Tác dụng: bổ sung tình trạng thiếu vitamin c của cơ thể người bệnh Thalassemia, tăng tác dụng thải sắt của desferal và kelfer.

  • Hydroxyurea:

+ Viên nén 0,5g

+ Liều dùng: 15 – 20mg/kg ngày, uống.

+ Tác dụng: tăng tổng hợp HbF, được chỉ định ở |3 Thalassemia/HbE nhằm kéo dài đời sống hồng cầu.

+ Tác dụng phụ: rối loạn tiêu hóa, ức chế tuỷ gây giảm bạch cầu hạt và tiểu cầu.

Phẫu thuật cắt lách

  • Khi có biểu hiện cường lách làm tăng thiếu máu (nhu cầu truyền máu tăng).
  • Trẻ trên 5 tuổi.

Bạch cầu kinh dòng tủy (CML)

Bạch cầu kinh dòng tủy là bệnh lý ác tính theo dòng thường đặc trưng bởi lách to và tăng sinh bạch cầu hạt; diễn biến ban đầu không đau nhưng dẫn đến kết quả trong giai đoạn bạch cầu (bùng phát blast) có tiên lượng xấu hơn Bệnh Bạch cầu cấp dòng Tủy tự nhiên; tỷ lệ tiến triển đến giai đoạn bùng phát rất thay đổi; nói chung thời gian sống thêm là 4 năm từ khi chẩn đoán.

Tỷ Lệ Mắc Và Bệnh Nguyên

Ở Hoa Kỳ, khoảng 5430 trường hợp mắc bệnh vào năm 2012. Hơn 90% trường hợp có chuyển đoạn tương hỗ giữa hai nhiễm sắt thể 9 và 22, tạo ra nhiễm sắc thể Philadelphia (Ph) và sản phẩm gen tổng hợp được gọi là BCRABL. (BCR từ 9, ABL từ 22.) Các nhiễm sắc thể bất thường xuất hiện trong tất cả các tế bào bắt nguồn từ tủy xương, trừ tế bào T. Protein được tạo ra từ các gen khảm là 210 kDa trong pha mạn tính và 190 kDa trong chuyển đối blast cấp tính. Ở một số bệnh nhân, pha mạn tính không có biểu hiện lâm sàng và một số bệnh nhân biểu hiện bạch cầu cấp với nhiễm sắc thể Ph.bạch cầu cấp dòng tủy


HÌNH 72-1
Lưu đồ điều trị cho chẩn đoán mới bạch cầu cấp dòng tủy. Với tất cả các thể Bệnh Bạch cầu cấp dòng Tủy trừ bạch cấu cấp thể tiền tủy bào (APL), liệu pháp chuẩn bao gồm truyền liên tục 7 ngày cytarabine (100-–200 mg/m2/ngày) và một đợt 3 ngày daunorubicin (60-–90 mg/m2/ngày) kèm theo có hoặc không 3 ngày etoposide (chỉ daunorubicin 60 mg/m2/ngày) hoặc liệu pháp mới dựa trên nguy cơ tái phát được dự đoán (tức là điều trị rủi ro phân tầng). Idarubicin (12-–13 mg/m2/ngày) có thể thay thế daunorubicin (không hiển thị). Những bệnh nhân thuyên giảm hoàn toàn chuyển sang điều trị củng cố hậu thuyên giảm, gồm các đợt cytarabine liều cao liên tiếp, ghép tế bào gốc tạo máu (HSCT) tự thân, HSCT đồng loại, hoặc liệu pháp mới, dựa trên nguy cơ tái phát được dự đoán (tức là điều trị rủi ro phân tầng). Bệnh nhân có APL (xem sách về điều trị) thường dùng tretinoin đồng thời với hóa trị dựa trên anthracycline để thuyên giảm cảm ứng sau đó dùng arsenic trioxide kết hợp với hóa trị dựa trên anthracycline và có thể duy trì với tretinoin. Vai trò của cytarabine trong APL cảm ứng và kết hợp còn gây tranh cãi.

Đặc Điểm Lâm Sàng Và Cận Lâm Sàng

Các triệu chứng phát triển từ từ; chóng mệt, mệt mỏi, chán ăn, bụng khó chịu và cảm giác no sớm do lách to, tăng tiết mồ hôi. Thỉnh thoảng các bệnh nhân được phát hiện tình cờ dựa trên số lượng bạch cầu tăng. Bạch cầu thường >25,000/μL với tăng tỷ lệ bạch cầu hạt và tiền thân của chúng trở về giai đoạn tủy bào; bạch cầu đũa và các dạng trưởng thành chiếm ưu
thế. Bạch cầu ái kiềm có thể chiếm 10–15% số lượng tế bào trong máu. Số lượng tiểu cầu bình thường hoặc tăng. Thường xuất hiện thiếu máu. Chỉ số alkaline phosphatase bạch cầu trung tính thấp. Tủy xương tăng sinh tế bào với tăng sản bạch cầu hạt. Số lượng tế bào blast tủy bình thường hoặc tăng nhẹ. Nồng độ vitamin B12, B12 kết hợp protein và LDH huyết thanh tăng lên theo tỷ lệ BC. Với số lượng tế bào máu cao, có thể thấy tăng kali máu giả và hạ đường huyết.

Diễn Biến Tự Nhiên

Giai đoạn mạn tính kéo dài 2–4 năm. Giai đoạn tăng tốc được đánh dấu bằng thiếu máu không tương xứng với các triệu chứng bệnh hoặc điều trị. Tiểu cầu giảm. Xuất hiện bất thường di truyền tế bào khác. Số lượng tế bào blast tăng. Thường trong 6–8 tháng, bùng phát blast rõ trong đó sự trưởng thành dừng lại và các tế bào blast chiếm ưu thế. Hình ảnh lâm sàng
là bệnh bạch cầu cấp. Một nửa các trường hợp trở thành Bệnh Bạch cầu cấp dòng Tủy, một phần ba có đặc điểm hình thái của bạch cầu cấp dòng lympho, 10% là bạch cầu cấp dòng hồng cầu và còn lại là không biệt hóa. Thời gian sống thêm của bùng phát blast thường <4 tháng.

ĐIỀU TRỊ Bạch cầu kinh dòng tủy

Tiêu chuẩn đáp ứng được quy định trong Bảng 72-2. Cấy ghép tủy đồng loại có khả năng chữa bệnh ở giai đoạn mạn tính. Tuy nhiên, điều trị đầu
tiên là imatinib, phân tử ức chế hoạt động tyrosine kinase của sản phẩm gen khảm. Liều uống hàng ngày 400 mg làm thuyên giảm hoàn toàn về mặt huyết học là >90% và di truyền học tế bào là 76%. Nếu có người hiến tặng phù hợp, cấy ghép là cách tốt nhất để bệnh thuyên giảm hoàn toàn. Đã xuất hiện một vài cơ chế kháng imatinib và thuốc không chắc sẽ làm bệnh thuyên giảm hoàn toàn khi sử dụng đơn độc; tuy nhiên, theo dõi không đủ để rút ra kết luận chắc chắn.

Bạch cầu kinh dòng tủy

aĐáp ứng huyết học hoàn toàn yêu cầu không còn lách to.
bĐến 15% kỳ giữa bình thường đôi khi thấy được khi chẩn đoán (khi 30 kỳ giữa được phân tích).
Viết tắt: Bạch cầu kinh dòng tủy: bạch cầu kinh dòng tủy; RT-PCR: phản ứng khuếch đại chuỗi sao chép ngược.

Những bệnh nhân không đáp ứng với imatinib có thể đáp ứng với các thuốc ức chế tyrosine kinase khác như dasatinib (100 mg uống 1 lần/ ngày) hoặc nilotinib (400 mg 2 lần/ngày). Đột biến T315I ở gen BCR/ ABL truyền tải sự đề kháng với cả ba chất ức chế kinase. Allopurinol, 300 mg/d, ngăn ngừa bệnh thận do urat. Liệu pháp chữa bệnh duy nhất là ghép tủy xương đồng loại kết hợp HLA. Thời điểm cấy ghép tối ưu không rõ ràng nhưng ghép trong giai đoạn mạn tính hiệu quả hơn so với giai đoạn  tăng tốc hoặc bùng phát blast. Cấy ghép hiệu quả nhất ở các bệnh nhân điều trị trong vòng một năm chẩn đoán. Thời gian sống không bệnh kéo dài có thể đạt được ở 50–-60% bệnh nhân được cấy ghép. Truyền tế bào lympho có thể phục hồi sự thuyên giảm ở các bệnh nhân tái phát. Ở các bệnh nhân không có người hiến tặng phù hợp, cấy phép tự thân có thể hiệu quả khi sử dụng tế bào gốc máu ngoại vi. Điều trị bệnh nhân khi bùng phát blast với imatinib có thể có đáp ứng nhưng không bền.

Cách làm xúp hải sản

Các món xúp quen thuộc dùng làm món khai vị của Việt Nam thường là món xúp Á đông. Các món xúp này thường nấu từ nước dùng bằng xương heo. Tùy theo các nguyên liệu chế biến mà món xúp có các tên gọi khác nhau. Món xúp hải sản dùng nguyên liệu tôm, sò điệp, thịt cua để chế biến nên có tên gọi là xúp hải sản.

Xúp hải sản
Xúp hải sản

Nguyên liệu

2 lít nước dùng

1 củ hành tây

1 trứng gà

100g tôm

Nguyên liệu tôm
Nguyên liệu tôm

100g sò điệp

100g thịt cua

100g bột năng

Gia vị: muôi, tiêu

Ngò

 

Cách làm xúp hải sản

Tôm, sò điệp xắt hạt lựu.

Cua lấy thịt, bỏ xương cua, ướp tiêu.

Hành tây xắt sợi.

Trứng đập ra tô.

Bột năng hòa với nước cho tan.

Cách làm xúp hải sản
Cách làm xúp hải sản

Đặt nồi lên bếp, cho nước lèo vào nồi, nêm gia vị muối, đường. Cho bột năng vào từ từ cho sánh. Cho sò điệp, tôm, cua vào, nấu khoảng 5 phút. Nêm lại gia vị cho vừa ăn. Rưới bột năng từ từ vào xúp, khuấy đều để bột không bị lắng xuống đáy nồi làm vón cục. Đập trứng ra tô, nêm tiêu, bột ngọt và chút muối. Rây trứng gà vào nồi dễ tạo vân trong xúp.

Trình bày

Múc xúp ra đĩa sâu, rắc tiêu và ngò.

Bí quyết món ăn

Trong quá trình tạo vân cho xúp bàng tnĩng, không để xúp sôi với lửa quá lớn, vân xúp sẽ không đẹp.

 

Các Xét Nghiệm và Chẩn Đoán Huyết Khối Tĩnh Mạch Sâu

Nếu bạn nghĩ rằng mình có thể bị huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT), điều tốt nhất bạn có thể làm là gọi cho bác sĩ của bạn càng sớm càng tốt. Có một số cách mà họ có thể xác định xem bạn có loại cục máu đông nguy hiểm này hay không.

Xét nghiệm cho Huyết khối tĩnh mạch sâu

Tại cuộc hẹn, bạn và bác sĩ sẽ thảo luận về các triệu chứng và tiền sử bệnh của bạn. Bạn cũng sẽ được khám sức khỏe. Bác sĩ sẽ sử dụng tất cả thông tin đó để xác định xem bạn có thể có nguy cơ bị Huyết khối tĩnh mạch sâu hay không. Nếu họ nghĩ bạn có thể bị Huyết khối tĩnh mạch sâu, bác sĩ có thể xác nhận điều đó bằng một hoặc nhiều xét nghiệm sau.

Xét nghiệm tại văn phòng bác sĩ của bạn

  • Xét nghiệm D-dimer. Xét nghiệm máu này kiểm tra một loại protein gọi là D-dimer. Đây là sản phẩm mà cục máu đông tạo ra khi nó tan trong cơ thể bạn.Nếu kết quả cho thấy mức protein này thấp hoặc bình thường và bác sĩ của bạn tin rằng bạn có nguy cơ thấp bị cục máu đông, bạn có thể không bị Huyết khối tĩnh mạch sâu. Nhưng nếu bạn có mức D-dimer cao, bạn có thể có một cục máu đông. Bác sĩ có thể xác định điều đó bằng các xét nghiệm khác, đồng thời loại trừ các tình trạng khác có thể làm tăng D-dimer, như mang thai và bệnh tim.

Xét nghiệm được thực hiện tại bệnh viện hoặc phòng khám chẩn đoán hình ảnh

  • Siêu âm. Đây thường là xét nghiệm hình ảnh chính để chẩn đoán Huyết khối tĩnh mạch sâu. Nó sử dụng sóng âm để tạo ra hình ảnh bên trong cơ thể bạn. Hình ảnh có thể cho thấy máu trong tĩnh mạch của bạn và bất kỳ cục máu đông nào.Kỹ thuật viên thực hiện xét nghiệm sẽ ghi lại những hình ảnh này bằng cách di chuyển một thiết bị giống như cái cần qua da bạn ở phần cơ thể có thể bị Huyết khối tĩnh mạch sâu. Bạn sẽ nằm ngửa và sau đó nằm sấp trong quá trình này. Họ cũng có thể nhẹ nhàng ấn lên tĩnh mạch của bạn để xem chúng có cứng lại hay không, điều này có thể báo hiệu một cục máu đông.

    Nếu bạn có nguy cơ cao bị Huyết khối tĩnh mạch sâu, bác sĩ của bạn có thể không thực hiện xét nghiệm D-dimer và ngay lập tức yêu cầu siêu âm chân hoặc bắp chân của bạn.

  • MRI. Đối với xét nghiệm hình ảnh này, bạn sẽ nằm trong một máy có hình dạng ống, quét cơ thể bạn bằng trường từ và sóng radio. Nó không đau, và bạn có thể yêu cầu thuốc để giúp bạn cảm thấy bình tĩnh hơn nếu không gian kín khiến bạn lo lắng. Kỹ thuật viên thực hiện xét nghiệm sẽ quan sát bạn từ một phòng khác, và bạn nên có thể trò chuyện với họ qua một micro trong máy nếu cần. Các bác sĩ không sử dụng MRI phổ biến như siêu âm để chẩn đoán Huyết khối tĩnh mạch sâu.
  • Chụp tĩnh mạch có chất cản quang. Xét nghiệm hình ảnh này sử dụng thuốc nhuộm đặc biệt và X-quang để phát hiện cục máu đông trong một tĩnh mạch sâu. Tuy nhiên, các bác sĩ hiếm khi chẩn đoán Huyết khối tĩnh mạch sâu bằng phương pháp này nữa. Trước khi xét nghiệm, bạn nằm xuống trên bàn X-quang, và một thành viên trong đội ngũ chăm sóc của bạn sẽ đặt một kim gọi là IV vào một tĩnh mạch ở chân hoặc mắt cá chân của bạn. Sau đó, họ tiêm thuốc nhuộm, cho phép các tĩnh mạch sâu trong chân hoặc hông của bạn nổi bật trong hình ảnh X-quang.

Các xét nghiệm liên quan đến Huyết khối tĩnh mạch sâu

DVT có thể dẫn đến một tình trạng nguy hiểm gọi là thuyên tắc phổi (PE). Đối với một số người, PE là dấu hiệu đầu tiên cho thấy họ bị Huyết khối tĩnh mạch sâu.

Thuyên tắc phổi xảy ra khi một cục máu đông ở tĩnh mạch sâu bị vỡ ra, di chuyển đến phổi của bạn và bị kẹt lại trong một động mạch ở đó. Điều này chặn dòng máu bình thường. Đây là một trường hợp khẩn cấp có thể gây chết người.

Bạn có thể có các triệu chứng như:

  • Khó thở
  • Đau khi thở
  • Đau ngực

Các xét nghiệm và chẩn đoán Huyết khối tĩnh mạch sâu

Nếu bạn nghĩ rằng mình có thể bị huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT), điều tốt nhất bạn có thể làm là gọi cho bác sĩ của bạn ngay lập tức. Có nhiều cách mà bác sĩ có thể xác định xem bạn có loại cục máu đông có thể gây nguy hiểm này hay không.

Xét nghiệm cho Huyết khối tĩnh mạch sâu

Tại cuộc hẹn của bạn, bạn và bác sĩ sẽ thảo luận về các triệu chứng và lịch sử bệnh của bạn. Bạn cũng sẽ được khám sức khỏe. Bác sĩ sẽ sử dụng tất cả thông tin đó để xác định xem bạn có thể có nguy cơ mắc Huyết khối tĩnh mạch sâu hay không. Nếu họ nghĩ rằng bạn có thể bị Huyết khối tĩnh mạch sâu, bác sĩ có thể xác nhận điều đó bằng một hoặc nhiều xét nghiệm sau.

Xét nghiệm tại văn phòng bác sĩ của bạn

  • Xét nghiệm D-dimer: Đây là xét nghiệm máu kiểm tra một loại protein gọi là D-dimer. Đây là sản phẩm mà cục máu đông tạo ra khi nó hòa tan bên trong cơ thể bạn.

Nếu kết quả cho thấy mức protein này thấp hoặc bình thường và bác sĩ tin rằng bạn có nguy cơ thấp về cục máu đông, bạn có thể không bị Huyết khối tĩnh mạch sâu. Nhưng nếu bạn có mức D-dimer cao, bạn có thể có một cục máu đông. Bác sĩ có thể xác định điều này thông qua các xét nghiệm khác, đồng thời loại trừ các tình trạng khác có thể làm tăng D-dimer, như mang thai và bệnh tim.

Xét nghiệm tại bệnh viện hoặc phòng khám hình ảnh

  • Siêu âm: Đây thường là xét nghiệm hình ảnh chính để chẩn đoán Huyết khối tĩnh mạch sâu. Nó sử dụng sóng âm để tạo hình ảnh bên trong cơ thể bạn. Những hình ảnh này có thể cho thấy dòng máu trong tĩnh mạch của bạn và bất kỳ cục máu đông nào.

Kỹ thuật viên thực hiện xét nghiệm của bạn sẽ ghi lại những hình ảnh này bằng cách di chuyển một thiết bị giống như cái gậy trên da bạn ở vùng cơ thể có thể có Huyết khối tĩnh mạch sâu. Bạn sẽ nằm ngửa rồi nằm sấp trong khi họ thực hiện. Họ cũng có thể nhẹ nhàng ấn vào tĩnh mạch của bạn để xem chúng có cứng lại hay không, điều này có thể cho thấy có cục máu đông.

Nếu bạn có nguy cơ cao về Huyết khối tĩnh mạch sâu, bác sĩ có thể không thực hiện xét nghiệm D-dimer và ngay lập tức yêu cầu siêu âm chân hoặc bắp chân của bạn.

  • MRI: Đối với xét nghiệm hình ảnh này, bạn sẽ nằm bên trong một máy hình trụ quét cơ thể bạn bằng trường từ và sóng vô tuyến. Nó không đau, và bạn có thể yêu cầu thuốc giúp bạn cảm thấy bình tĩnh hơn nếu không gian kín làm bạn lo lắng. Kỹ thuật viên thực hiện xét nghiệm sẽ quan sát bạn từ một phòng khác, và bạn nên có thể nói chuyện với họ qua một chiếc mic trong máy nếu cần. Bác sĩ không sử dụng MRI phổ biến như siêu âm để chẩn đoán Huyết khối tĩnh mạch sâu.
  • Chụp tĩnh mạch có chất tương phản: Xét nghiệm hình ảnh này sử dụng thuốc nhuộm đặc biệt và X-quang để phát hiện cục máu đông trong một tĩnh mạch sâu. Tuy nhiên, bác sĩ hiếm khi chẩn đoán Huyết khối tĩnh mạch sâu bằng phương pháp này nữa. Trước khi xét nghiệm, bạn sẽ nằm trên một bàn chụp X-quang, và một thành viên trong đội ngũ chăm sóc sẽ đặt một kim gọi là IV vào một tĩnh mạch ở chân hoặc mắt cá chân của bạn. Sau đó, họ sẽ tiêm thuốc nhuộm, giúp các tĩnh mạch sâu ở chân hoặc hông của bạn nổi bật trong các hình ảnh chụp X-quang.

Các xét nghiệm liên quan đến Huyết khối tĩnh mạch sâu

DVT có thể gây ra một tình trạng nguy hiểm gọi là thuyên tắc phổi (PE). Đối với một số người, PE là dấu hiệu đầu tiên cho thấy họ mắc Huyết khối tĩnh mạch sâu.

Thuyên tắc phổi xảy ra khi một cục máu đông từ tĩnh mạch sâu bị rời ra, di chuyển đến phổi và bị kẹt trong một động mạch ở đó. Nó chặn dòng máu bình thường. Đây là một tình huống khẩn cấp có thể gây tử vong.

Bạn có thể có các triệu chứng như:

  • Khó thở
  • Đau khi thở
  • Đau ngực

Bác sĩ của bạn có thể yêu cầu bạn thực hiện xét nghiệm máu D-dimer để xác định khả năng bạn có thuyên tắc phổi hay không. Nếu kết quả của bạn bình thường và các yếu tố nguy cơ khác của bạn thấp, bạn có thể không bị PE. Nếu bác sĩ cho biết kết quả của bạn không bình thường, họ sẽ đề xuất một hoặc nhiều xét nghiệm khác. Bạn sẽ cần đến bệnh viện hoặc phòng khám hình ảnh để thực hiện chúng.

  • Chụp CT động mạch phổi: Đây là xét nghiệm hình ảnh phổ biến nhất để chẩn đoán PE. Nó sử dụng một loại X-quang đặc biệt để quét phổi của bạn tìm các tắc nghẽn do cục máu đông. Nó cũng có thể phát hiện Huyết khối tĩnh mạch sâu ở chân của bạn.

Trước khi thực hiện xét nghiệm, đội ngũ chăm sóc của bạn sẽ tiêm thuốc nhuộm qua IV. Thuốc sẽ vào các động mạch của bạn và làm cho các dấu hiệu của PE hiển thị rõ trong các hình ảnh mà kỹ thuật viên sẽ ghi lại. Bạn sẽ nằm trên một bàn di chuyển từ từ qua một máy hình donut gọi là máy CT scan, một thiết bị chụp ảnh X-quang phổi của bạn từ nhiều góc độ khác nhau.

  • Chụp động mạch phổi: Loại xét nghiệm X-quang ít phổ biến hơn này cũng sử dụng thuốc nhuộm để phát hiện PE. Trước khi thực hiện xét nghiệm, đội ngũ chăm sóc của bạn sẽ cho bạn một loại thuốc an thần để giúp bạn thư giãn. Sau đó, họ sẽ bôi thuốc tê lên cánh tay hoặc vùng bẹn của bạn và đưa một ống mỏng, rỗng gọi là catheter vào một tĩnh mạch. Bạn có thể cảm thấy một chút áp lực khi họ dẫn catheter qua bên phải của tim và vào động mạch phổi của bạn. Điều này cho phép họ thấy các hình ảnh giống như phim của phổi bạn. Sau khi đã đặt catheter vào đó, họ sẽ tiêm thuốc nhuộm qua nó, giúp họ xem liệu cục máu đông Huyết khối tĩnh mạch sâu có đang chặn dòng máu hay không.
  • Quét thông khí – tưới máu: Nếu bạn không thể thực hiện chụp CT động mạch phổi, bác sĩ của bạn có thể đề xuất xét nghiệm hình ảnh này. Họ có thể gọi nó là quét VQ. Xét nghiệm quét phổi của bạn theo hai cách để tạo hình ảnh về lượng oxy và máu lưu thông qua chúng. Nếu một phần của phổi nhận được lượng oxy đúng nhưng không đủ máu, điều đó có thể là dấu hiệu cho thấy cục máu đông Huyết khối tĩnh mạch sâu đang gây ra thuyên tắc phổi.

Trong quá trình xét nghiệm, bạn sẽ nằm trên một bàn khi một thiết bị quét chụp hình từ nhiều góc độ khác nhau. Một nửa của xét nghiệm liên quan đến việc chụp hình dòng khí trong phổi của bạn. Kỹ thuật viên có thể gọi điều này là quét thông khí. Ngay trước đó, bạn sẽ hít một hỗn hợp oxy và khí phóng xạ qua một mặt nạ đeo trên mũi và miệng.

Bạn không cần phải đeo mặt nạ trong nửa còn lại của xét nghiệm, mà chụp hình lưu lượng máu. Điều này được gọi là quét tưới máu. Trước đó, một kỹ thuật viên sẽ tiêm thuốc nhuộm phóng xạ qua IV. Điều này cho phép dòng máu của bạn hiển thị trong các hình ảnh.

Nếu ý tưởng về thuốc nhuộm phóng xạ có vẻ đáng sợ, hãy biết rằng đó chỉ là một lượng nhỏ và nó không nên gây ra tác dụng phụ cho bạn.

Tôi có cần gặp chuyên gia Huyết khối tĩnh mạch sâu không?

Nếu bác sĩ chẩn đoán bạn bị Huyết khối tĩnh mạch sâu, các phương pháp điều trị như thuốc và tất nén có thể đủ để ngăn cục máu đông lớn hơn hoặc cục mới hình thành, trong khi cơ thể bạn xử lý cục máu đông. Nhưng có thể bạn sẽ cần các phương pháp điều trị sâu hơn nếu bạn có những yếu tố nguy cơ cao cho cục máu đông hoặc không phản ứng với điều trị tiêu chuẩn. Nếu bạn có thể điều trị Huyết khối tĩnh mạch sâu tại nhà, bác sĩ sẽ kiểm tra bạn thường xuyên để đảm bảo rằng cục máu đông của bạn đang nhỏ lại và không gây ra bất kỳ triệu chứng nào.

Chuyên gia về Huyết khối tĩnh mạch sâu

Nếu bác sĩ cho rằng bạn có nguy cơ bị cục máu đông nghiêm trọng hơn hoặc cần điều trị nhiều hơn, họ có thể gửi bạn đến chuyên gia như một bác sĩ chuyên khoa về máu (huyết học) hoặc bác sĩ phẫu thuật. Những chuyên gia này có thể làm việc với bạn để phát triển một kế hoạch điều trị phù hợp với nhu cầu và lịch sử bệnh của bạn.

Kết luận

Huyết khối tĩnh mạch sâu là một tình trạng có thể nguy hiểm và cần sự chú ý ngay lập tức. Nếu bạn gặp các triệu chứng như sưng chân, đau, hoặc ấm hơn bình thường, hãy liên hệ với bác sĩ để được tư vấn và xét nghiệm kịp thời. Xét nghiệm Huyết khối tĩnh mạch sâu thường nhanh chóng và có thể được thực hiện trong văn phòng bác sĩ hoặc bệnh viện, và việc điều trị sớm sẽ giúp bạn tránh những biến chứng nghiêm trọng trong tương lai.

Thiếu máu ở người cao tuổi

Thiếu máu là một triệu chứng hay gặp ở người cao tuổi do nhiều nguyên nhân khác nhau, Thiếu máu xuất hiện khi huyết sắc tố (1g/100ml thường do nhiều yếu tố gây nên).

Triệu chứng

  • Người bị thiếu máu da thường bị xanh xao, đánh trống ngực, niêm mạc xanh xao, khó thở, một lừ đừ, khó chịu, dễ bị té, hạ huyết áp thể đứng.
  • Khi bị mắc bệnh thiếu máu người bệnh cần phải chú ý vì có thể đó là biểu hiện nặng của một bệnh khác như thiếu máu cục bộ cơ tim, suy tim, truỵ mạch tim, lú lẫn tâm thần, tai biến mạch máu não. Nhưng cũng có trường hợp là một biểu hiện của việc sử dụng thuốc quá liều như Aspirine, thuốc giảm đau không Steroid.
  • Phải chú thường xuyên. quan tâm đến trực tràng và âm đạo nếu thấy có máu thì đó dấu hiệu của bệnh về máu rất trầm trọng.

Khi thấy có hiện tượng thiếu máu phải làm điện tâm đồ để kiểm tra bệnh về tim.

Xác định các dòng bạch cầu và tiểu cầu đế phát hiện bệnh về máu thuộc loại nào.

Chọc tuỷ xương để phát hiện các bệnh về máu.

Điều trị

Trước khi điều trị, phải làm mọi xét nghiệm cần thiết để tìm nguyên nhân chính xác.

Nếu thấy các hiện tượng thiếu máu nặng phải tiến hành truyền máu nếu có chỉ định:

  • Có dấu hiệu cơ thể bị suy sụp do thiếu máu
  • Chảy máu cấp (hay còn gọi xuất huyết phủ tạng)
  • Thiếu máu Hb < 8g /100 ml

Nếu bị thiếu máu mà không thể điều trị được là do nguyên nhân của các bệnh khác: ung thư…

Trong bệnh suy tim, khi cần truyền máu phải hết sức thận trọng để bệnh nhân ở tư thế nửa ngồi, cho thở oxy và cho uống các thuốc trợ tim.

Các yếu tố lối sống làm tăng nguy cơ ung thư vú

Phụ nữ trên toàn thế giới có khả năng mắc ung thư vú cao hơn bất kỳ loại ung thư nào khác, ngoại trừ ung thư da.

Ung thư là những căn bệnh phức tạp xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhưng một số yếu tố lối sống nhất định có thể làm tăng khả năng mắc ung thư vú của bạn. Việc có một hoặc nhiều đặc điểm này không có nghĩa là bạn sẽ mắc bệnh. Và bạn có thể mắc ung thư vú ngay cả khi không có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào.

Cân nặng. Ngoài ra, việc thừa cân hoặc béo phì làm tăng khả năng ung thư tái phát. Nhưng không phải tất cả các loại mỡ đều giống nhau. Loại mỡ quanh bụng bạn nguy hiểm hơn so với loại mỡ ở hông hoặc đùi. Nó tạo ra hormone insulin, mà quá nhiều có thể kích thích sự phát triển của tế bào ung thư.

Giảm chỉ 5%-10% trọng lượng cơ thể của bạn có thể tạo ra sự khác biệt. Nếu bạn cần giảm cân, hãy đặt mục tiêu giảm nửa pound mỗi tuần cho đến khi bạn đạt được mục tiêu của mình.

Rượu. Uống quá nhiều rượu làm tăng mức estrogen và các hormone khác liên quan đến ung thư vú. Nó cũng có thể làm hỏng DNA của tế bào bạn. Nếu bạn uống ba ly rượu trở lên mỗi tuần, nguy cơ của bạn sẽ tăng 15%. Nó sẽ tăng thêm 10% cho mỗi ly uống vượt quá ba ly mỗi ngày. Các loại đồ uống không chứa cồn là một sự thay thế không có rủi ro.

Hút thuốc. Khả năng mắc ung thư vú của bạn cao hơn nếu bạn bắt đầu hút thuốc trước 17 tuổi. Sau khi bạn bỏ thuốc, nguy cơ của bạn vẫn cao trong khoảng 20 năm. Nếu bạn cần giúp đỡ để bỏ thuốc, bạn có thể:

  • Hỏi bác sĩ về thuốc hoặc miếng dán.
  • Tham gia một nhóm hỗ trợ bỏ thuốc lá.
  • Thử châm cứu và thiền.

Hormone. Sau khi nhiều phụ nữ ngừng liệu pháp hormone thay thế (HRT) vào đầu những năm 2000 theo lời khuyên của các chuyên gia, tỷ lệ ung thư vú giảm ở phụ nữ mãn kinh — những người đã qua giai đoạn mãn kinh.

HRT progesterone và estrogen dùng trong thời kỳ mãn kinh lâu hơn 5 năm làm tăng nguy cơ. Các viên thuốc tránh thai có thể làm điều tương tự. Chúng phát ra một lượng nhỏ hormone. Khi bạn ngừng sử dụng, nguy cơ của bạn sẽ giảm.

Bức xạ. Năng lượng này từ các sóng điện từ có mặt khắp nơi xung quanh chúng ta, như trong lòng đất và từ các tia X y tế. Nghiên cứu cho thấy có thể có một mối liên hệ giữa ung thư vú và bức xạ. Nhưng chưa rõ có mối liên hệ giữa ung thư và một loại bức xạ năng lượng thấp khác gọi là bức xạ tần số vô tuyến, phát ra từ điện thoại di động hoặc các thiết bị Bluetooth hoặc Wi-Fi hay không.

Sinh con muộn. Một trong sáu phụ nữ sinh con ở Hoa Kỳ trên 35 tuổi. Nguy cơ mắc ung thư vú của bạn cao hơn nếu thai kỳ đầu tiên của bạn xảy ra sau 30 tuổi. Điều này là do bạn tiếp xúc với nhiều estrogen hơn trong suốt cuộc đời. Estrogen là yếu tố chính khiến hầu hết các loại ung thư vú phát triển.

Mang thai cũng giúp bảo vệ bạn khỏi sự phát triển tế bào không khỏe mạnh có thể dẫn đến ung thư.

Ít vận động. Nhiều hoạt động hiện đại liên quan đến việc ngồi. Lối sống ít vận động làm tăng khả năng béo phì và ung thư vú. Tìm kiếm những cách để giữ cho cơ thể hoạt động. Đứng dậy và đi bộ bất cứ khi nào có thể. Tìm một hoạt động khiến bạn rời khỏi ghế sofa.

Thiếu vitamin D. Mức vitamin D thấp có thể đặt bạn vào nguy cơ cao hơn mắc ung thư vú. Bạn có thể nhận vitamin D từ một số thực phẩm hoặc bổ sung. Cơ thể bạn tạo ra vitamin D khi làn da hấp thụ ánh sáng mặt trời. Nó có thể thậm chí ngăn chặn sự phát triển của ung thư.

Nhưng quá nhiều ánh nắng trực tiếp có thể làm tăng nguy cơ ung thư da của bạn. Mười lăm phút ánh nắng ba lần mỗi tuần thường là đủ.

Chế độ ăn uống kém. Một chế độ ăn uống không lành mạnh thường chứa nhiều thực phẩm chế biến sẵn — như khoai tây chiên, bánh quy và kẹo — và ít thực phẩm nguyên hạt, như ngũ cốc nguyên hạt và trái cây, rau tươi. Điều này có thể làm tăng nguy cơ ung thư của bạn. Việc ăn nhiều thịt đỏ và thịt chế biến cũng có thể làm tăng nguy cơ này. Các thực phẩm nấu ở nhiệt độ cao hấp thụ các hóa chất gây ung thư. Không ăn quá ba phần thịt đỏ mỗi tuần. Tổng cộng là từ 12-18 ounce. Một nghiên cứu xem xét những phụ nữ trẻ ăn nhiều thịt đỏ trong những năm thiếu niên và tuổi trưởng thành sớm cho thấy họ có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn 22% trong cuộc sống sau này

Bệnh thận và có thai

Suy thận cấp trong thời kỳ có thai

Xẩy ra trong ba tháng có thai đầu tiên, thường là sau thủ thuật gây sẩy thai hoặc trong ba tháng cuối hay sau sản giật. Suy thận là do hoại tử ống thận cấp hay do hoại tử vỏ thận và nếu bị ở cả hai bên thì sẽ bị vô niệu và cần phải lọc máu.

Nhiễm độc thai nghén

TRIỆU CHỨNG: hội chứng mạch máu và thận xảy ra trong ba tháng đầu mang thai, thường gặp nhất ở người có thai lần đầu và khỏi sau khi sinh đẻ. Có huyết áp động mạch cao (trên 140/90 mmHg), phù lan toả (tăng cân), protein niệu và acid uric niệu cao. Nếu không được điều trị, nhiễm độc có thể dẫn đến sản giật. Huyết áp cao và protein niệu mất đi sau vài ngày hoặc vài tuần sau khi đẻ.

ĐIỀU TRỊ: có thể cho các thuốc hạ huyết áp nhưng không được dùng thuốc lợi tiểu. Cần phải nằm viện, theo dõi mẹ và thai nhi. Nếu cần thiết phải gây đẻ vào tuần thứ 38 hoặc phải mổ lấy thai (cách điều trị nhiễm độc thai nghén duy nhất có kết quả là lấy thai ra).

Sản giật

Các cơn co giật xuất hiện trong cơn cao huyết áp (>150/110 mmHg) ở phụ nữ mang thai.

TIỀN SẨN GIẬT: huyết áp tăng lên vào cuối 3 tháng giữa của lần mang thai đầu: có nhức đầu, cảm giác ruồi bay, ù tai, protein niệu, phù. Thai thường chậm phát triển.

CƠN SẢN GIẬT: cơn co cứng và co giật, tiếp theo là hôn mê ngắn (xem bệnh não có huyết áp cao), phù nặng và protein niệu cao. Nếu không được điều trị thì sản giật có thể gây tử vong.

HỘI CHỨNG TAN HUYET – TÃNG ENZYM GAN – TIEU CẦU GIẢM (tiếng Anh HELLP “Hemolysis, Elevated Liver enzymes, Low Platelet”):là một bệnh đa hệ thống (thận, não, tử cung, gan) và huyết áp rất cao, sản giật có tan huyết, giảm tiểu cầu và suy thận cấp.

BIẾN CHỨNG: hay gặp bong rau, thai chết trong tử cung. Có thể tiến triển thành suy thận cấp có vô niệu.

ĐIỀU TRỊ: nghỉ ngơi tuyệt đôi, thuốc an thần (benzodiazepin), thuốc giảm huyết áp có tác dụng nhanh (diazoxid hay nitroprussiat kali), truyền dung dịch muối đẳng trương. Gây mê nếu co giật nặng. Gây đẻ hoặc mổ lấy thai.

Suy thận cấp sau dẻ

TÊN KHÁC: xơ hoá cầu thận sau đẻ.

ĐỊNH NGHĨA: suy thận xảy ra vài ngày đến 10 tuần sau khi đẻ. về mặt lâm sàng và hoá sinh giống hội chứng tan máu có urê huyết cao.

CẢN NGUYÊN: chưa rõ. Dùng thuốc tránh thai theo đường uông dài ngày có thể là yếu tố thuận lợi.

TRIỆU CHỨNG: sau lần đẻ thường là có vẻ bình thường, bệnh khởi phát đột ngột : suy thận cấp có tan máu nhiều, xuất huyết nhiều nơi, huyết áp cao, rối loạn tim và thần kinh. Xét nghiệm cận lâm sàng cho thấy có đông máu nội mạch rải rác.

TIÊN LƯỢNG: tỷ lệ tử vong trên 50%. Chức năng thận thường bị giảm không hồi phục.

CHẨN ĐOÁN: cần chẩn đoán phân biệt suy thận sau đẻ với hội chứng đông máu nội mạch rải rác xảy ra ngay sau một biến chứng sản khoa (nhau tiền đạo, chảy máu, sản giật, nhiễm khuẩn huyết). Trong suy thận sau đẻ có khoảng im lặng: bệnh xuất hiện sau khi đẻ có vẻ bình thường từ vài ngày đến vài tuần.

ĐIỀU TRỊ: chạy thận nhân tạo. Heparin, thuốc chống kết tụ tiểu cầu.

Các bệnh thận đã có từ trước

Tiên lượng có thai là tốt nếu không có cao huyết áp và độ thanh thải creatinin trên 50 ml/phút. Suy thận tăng lên nhẹ và thoáng qua ở 30-50% số trường hợp. Nếu có huyết áp cao và creatinin dưới 50 ml/phút thì xác suất sẩy hoặc đẻ non là trên 50%.

Lọc máu trường diễn

Đã có một vài trường hợp mang thai ở người chạy thận nhân tạo. Thường hay đẻ non.

Ghép thận

Đã có hơn 1000 trường hợp mang thai ở phụ nữ được ghép thận. Các biến chứng là như sau: đẻ non (50%), sản giật hoặc tiền sản giật (30%), sẩy thai (13%), thải thận ghép (9%). Các thuốc ức chế miễn dịch được dùng liên tục. Chưa rõ tác dụng của thuốc ức chế miễn dịch lên thai.

 

Suy tim và Tâm phế mạn

SUY TIM

Khái niệm

Bất thường về cấu trúc tim và/hoặc chức năng dẫn đến các triệu chứng lâm sàng (VD, khó thở, mệt) và các dấu hiệu (VD, phù, ran phổi), nhập viện, chất lượng cuộc sống kém, và giảm tuổi thọ. Việc xác định bản chất bệnh lý tim mạch và các yếu tố nguy cơ gây Suy tim sung huyết cấp đóng vai trò rất quan trọng.

Bệnh lý tim mạch nền

Bao gồm (1) các tình trạng giảm chức năng tâm thu thất và phân suất tống máu (bệnh mạch vành, tăng huyết áp, bệnh cơ tim giãn nở, bệnh lý van tim, bệnh tim bẩm sinh); và (2) những tình trạng suy tim với phân suất tống máu bảo tồn (VD, bệnh lý cơ tim hạn chế, bệnh cơ tim phì đại, xơ hóa, rối loạn endomyocardial), còn được gọi là suy tim tâm trương.

Các Yếu Tố Nguy Cơ Cấp Tính

Bao gồm (1) nhập Na+ quá nhiều, (2) bỏ thuốc điều trị suy tim, (3) NMCT cấp (có thể thầm lặng), (4) THA cấp tính, (5) loạn nhịp cấp, (6) nhiễm trùng và/hoặc sốt, (7) thuyên tắc phổi, (8) thiếu máu, (9) nhiễm độc giáp, (10) mang thai, (11) viêm cơ tim cấp hoặc viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, và (12) thuốc (VD, tác nhân chống viêm không steroid, verapamil).

Triệu chứng

Do thiếu tới máu đến các mô ngoại vi (mệt, khó thở) và tăng áp lực buồng tim (khó thở, khó thở kịch phát về đêm, phù ngoại vi).

Thăm khám lâm sàng

Dãn tĩnh mạch cổ, tiếng T3, sung huyết phổi (ran phổi, gõ đục trong tràn dịch màng phổi), phù ngoại vi, gan to, và cổ chướng. Nhịp nhanh xoang thường gặp.

Với bệnh nhân có suy chức năng tâm trương, tiếng T4 thường xuất hiện.

Cận lâm sàng

X quang ngực có thể thấy tim to, tái phân phối tuần hoàn phổi, đường Kerley B, tràn dịch màng phổi. Rối loạn chức năng co bóp và tâm trương thất trái có thể tiếp cận bằng siêu âm tim Doppler.Siêu âm có thể phát hiện các bệnh lý tim bẩm sinh, bệnh lý van tim, màng ngoài tim tiềm ẩn cũng như bất thường vận động thành thất điển hình cho bệnh mạch vành.Xét
nghiệm lượng peptide Natri niệu loại B (BNP) hoặc N-terminal pro-BNP giúp phân biệt các nguyên nhân khó thở do tim mạch với do phổi .

Bệnh lý mô phỏng Suy tim sung huyết

Bệnh lý phổi: viêm phế quản mạn, khí phế thủng, và hen; đánh giá đờm và bất thường trên X quang ngực và các xét nghiệm chức năng phổi. Các nguyên nhân của phù ngoại vi: Bệnh gan, suy tĩnh mạch, và phù chu kì, các nguyên nhân trên không gây dãn tĩnh mạch cổ. Phù do rối loạn chức năng thận thường kèm theo tăng creatinine
huyết tương và xét nghiệm nước tiểu bất thường.

ĐIỀU TRỊ Suy tim (Xem Hình. 133-1)

Nhằm làm giảm triệu chứng, ngăn chặn tái cấu trúc cơ tim, và kéo dài sống còn. Điều trị tổng quát trong Bảng 133-1; quan trọng nhất, ức chế men chuyển và chẹn beta là nền tảng của liệu pháp điều trị ở bệnh nhân với phân suất tống máu giảm. Một khi triệu chứng xuất hiện:

  • Hạn chế tình trạng ứ dịch: (1) Chế độ ăn giảm natri (không ăn thức ăn mặn, VD, bánh khoai tây, thức ăn hộp, thịt hun khói, muối); kiểm soát chặt hơn (<2 g NaCl/d) trong Suy tim sung huyết tiến triển. Nếu hạ natri máu do hòa loãng xuất hiện , hạn chế truyền dịch (<1000 mL/ ngày). (2) Lợi tiểu: Lợi tiểu quay [VD, furosemide hoặc torsemide (Bảng 133-2)] có tác dụng mạnh nhất và, không giống thiazides, vẫn có tác dụng khi MLCT <25 mL/phút. Kết hợp lợi tiểu quai với Thiazide hoặc metolazone để có tác dụng tăng cường. Trong qua trình diuresis, cần lấy cân nặng mỗi ngày, nhắm đến giảm 1–1.5 kg/ngày.

ĐIỀU TRỊ Suy tim

Bảng 133-1 LIỆU PHÁP ĐIỀU TRỊ SUY TIM

1. Phương pháp tổng quát
a. Hạn chế ăn muối
b. Tránh thuốc chống loạn nhịp cho loạn nhịp không triệu chứng
c. Tránh NSAIDs
d. Tiêm vaccine cúm và viêm phổi phế cầu
2. Lợi tiểu
a. Sử dụng ở bn quá tải dịch nhằm đạt JVP bình thường và giảm phù
b. Cân mỗi ngày để điều chỉnh liều
c. Với trường hợp kháng lợi tiểu, sử dụng đường tĩnh mạch hoặc kết hợp 2 loại lợi tiểu (VD, furosemide và metolazone)
d. Dopamine liều thấp nhằm tăng máu tới thận
3. Ức chế men chuyển hoặc chẹn thụ thể
a. Tất cả bn với suy tim tâm thu TT hoặc mất chức năng TT không triệu chứng
b. Chống chỉ định: K+ huyết thanh >5.5, suy thận tiến triển (VD, creatinine >3 mg/dL), hẹp động mạch thận 2 bên, mang thai
4. Chẹn beta
a. Cho bn suy tim có hoặc không triệu chứng và phân suất tống máu thất trái <40%, kết hợp ức chế men chuyển và lợi tiểu
b. Chống chỉ định: Co thắt khí quản, nhịp chậm có triệu chứng hoặc block tim tiến triển, suy tim không ổn định
5. Đối vận Aldosterone
a. Xem xét cho suy tim class III–IV và phân suất tống máu TT <35%
b. Tránh nếu K+ >5.0 hoặc creatinine >2.5 mg/dL
6. Digitalis
a. Cho bn suy tim tâm thu có triệu chứng thường xuyên (đặc biệt khi có rung nhĩ) thêm vào Ức chế men chuyển, lợi tiểu, chẹn beta
7. Phương pháp khác
a. Xem xét kết hợp hydralazine và nitrate đường uống nếu không dung thứ Ức chế men chuyển/Chẹn thụ thể
b. Xem xét tái đồng bộ thất (máy tạo nhịp 2 thất) cho bn suy tim độ III hoặc IV , LVEF <35%, và QRS >120 ms
c. Xem xét cấy máy khử rung chuyển nhịp cho bn suy tim độ II–III và phân suất tống máu <30–35%


  • Ức chế men chuyển (Bảng 133-2): Khuyến cáo là liệu pháp Suy tim sung huyết đầu tiên. Thuốc sẽ kéo dài đời sống cho bệnh nhân có triệu chứng Suy tim sung huyết. Ức chế men chuyển đã được chứng minh hoãn sự xuất hiện Suy tim sung huyết ở bệnh nhân có rối loạn chức năng thất trái và giảm tỷ lệ tử vong ngay khi bắt đầu sau NMCT cấp.
  • Ức chế men chuyển có thể gây ra hạ huyết áp đáng kể ở bệnh nhân giảm thể tích máu, vì thế nên bắt đầu ở liều thấp nhất (VD, captopril 6.25 mg uống 3l/ng). Ức chế thụ thể (Bảng 133-2) có thể thay thế nếu bệnh nhân không dung nạp thuốc UCMC (VD, ho hoặc phù mạch). Xem xét hydralazine và nitrate đường uống ở bn có tăng Kali máu hoặc suy thận đang sử dụng Ức chế men chuyển.
  • Chẹn Beta (Bảng 133-2) được sử dụng với liều tăng dần nhằm cải thiện triệu chứng và kéo dài sống còn với bệnh nhân suy tim và giảm phân suất tống máu EF <40%. Sau khi bệnh nhân ổn định với Ức chế men chuyển và lợi tiểu, bắt đầu với liều thấp và tăng dần[VD, carvedilol 3.125 mg bid, double q2tuần nếu dung nạp tiến tới liều tối đa of 25 mg bid (for cân nặng<85 kg) or 50 mg bid (cân nặng >85 kg)].
  • Liệu pháp đối vận Aldosterone (spironolactone hoặc eplerenone [Bảng133-2]), được thêm vào liệu pháp điều trị chuẩn ở bn với suy tim tiến triển sẽ giảm tỷ lệ tử vong. Đặc tính thuốc lợi tiểu có thể có lợi khi cải thiện triệu chứng, và liệu pháp như thế nên được xem xét với bệnh nhân có triệu chứng suy tim class III/IV và LVEF <35%. Nên sử dụng cẩn trong khi kết hợp với Ức chế men chuyển hoặc chẹn thụ thể angiotensin nhằm tránh tăng kali máu.
  • Digoxin hữu ích trong suy tim vì (1) rối loạn chức năng tâm thu đáng kể (LV dãn, EF t h ấ p, T3) và (2) suy tim với rung nhĩ (AF) và nhịp nhanh thất. Không như Ức chế men chuyển và chẹn beta, digoxin không kéo dài tuổi thọ ở bn suy tim nhưng giảm khả năng nhập viện. Không được chỉ định trong Suy tim sung huyết do bệnh lý màng ngoài tim, bệnh cơ tim hạn chế, hoặc hẹp van 2 lá (trừ khi có rung nhĩ). Digoxin chống chỉ định với bệnh cơ tim phì đại và bn có block dẫn truyền nhĩ thất.

– Liều lượng digoxin (0.125–0.25 mg qd) phụ thuộc tuổi tác, cân nặng, và chức năng thận có thể được guided bởi đo mức nồng độ digoxin trong huyết thanh digoxin (giữ mức <1.0 ng/mL).

– Nhiễm độc Digitalis có thể theo sau hạ kali máu, thiếu oxy máu, hạ calci máu, hạ magie máu, nhược giáp, hoặc NMCT. Dấu hiệu sớm của nhiễm độc bao gồm chán ăn, buồn nôn, và hôn mê. Nhiễm độc tim bao gồm ngoại tâm thu thất và nhịp nhanh thất và rụng thất; nhịp nhanh nhĩ và block; dừng xoang và block xoang nhĩ; block nhĩ thất mọi độ. Nhiễm độc digitalis mạn có thể gây suy mòn, nữ hóa tuyến vú ở nam, “yellow” vision, hoặc lơ mơ. Nếu có dấu hiệu đầu tiên của nhiễm độc digitalis, dừng thuốc; giữ nồng độ K+ huyết thanh giữa 4.0 và 5.0 mmol/L. Rối loạn nhịp chậm và block nhĩ thất có thể đáp ức với atropine (0.6 mg IV); mặt khác, máy tạo nhịp tạm thời có thể cần thiết. Kháng thể chống digoxin có thể cho quá liều nặng.

  • Kết hợp các thuốc dãn mạch đường uống hydralazine (10–75 mg tid) và isosorbide dinitrate (10–40 mg tid) có thể có lợi khi dùng lâu dài với bệnh nhân không dung thứ ức chế men chuyển và chẹn thụ thể angiotensin và cũng có ích như là 1 phần của liệu pháp chuẩn, cùng với ức chế men chuyển và chẹn beta, ở người Phi, Mỹ suy tim class II–IV.THUỐC ĐIỀU TRỊ SUY TIM MẠN

aPhải hiệu chỉnh liều để giảm triệu chứng suy tim ở bệnh nhân.
bKhông xác định được liều đích.

  • Với người bệnh , bn nhập viện, liệu pháp liệu pháp giãn mạch truyền tĩnh mạch (Bảng 133-3) thường cần thiết. Nitroprusside là thuốc dãn mạch cho bn có kháng lực hệ thống cao đáng kể. Thuốc được chuyển hóa thành thiocyanate, chất sẽ được bài tiết qua thận. Nhằm tránh ngộ độc thiocyanate (co giật, rối loạn tâm ý, buồn nôn), theo dõi mức thiocyanate ở bn rối loạn chức năng thận hoặc sử dụng >2 ngày. Nesiritide đường tĩnh mạch(Bảng 133-3), a purified preparation of BNP, chất dãn mạch giảm áp lực động mạch phổi bít và khó thở
    với bn có suy tim suy huyết cấp mất bù. Thuốc chỉ nên được sử dụng với bệnh nhân suy tim trơ. THUỐC ĐIỀU TRỊ SUY TIM CẤP

aThường <4 (μg/kg)/p.
bInotropes cũng gây giãn mạch.
c Được chứng minh có hiệu quả trong điều trị suy tim cấp.

  • Chất vận mạch truyền tĩnh mạch (xem Bảng 133-3) được sử dụng với bệnh nhân nhập viện vì triệu chứng refractory hoặc cơ cấp của suy tim sung huyết nhằm tăng cung lượng tim. Thuốc chống chỉ định với bệnh cơ tim phì đại. Dobutamine tăng cung lượng tim mà không gây co mạch ngoại vi đáng kể hoặc nhịp nhanh. Dopamine với liều thấp[1–5 (μg/kg)/phút] gây lợi tiểu; liều cao [5–10 (μg/kg)/phút] tác dụng vận mạch dương tính chiếm ưu thế; co mạch ngoại vi lớn nhất ở liều >10 (μg/kg)/phút. Milrinone [0.1–0.75 (μg/ kg)/phút sau 50-μg/kg
    loading dose] là chất vận mạch dương tính không giao cảm và dãn mạch. Những chất vận mạch và dãn mạch trên có thể được sử dụng kết hợp nhằm đạt được hiệu quả tăng cường.
  • Tiếp cận ban đầu để điều trị suy tim cấp mất bù dựa trên profile huyết động của bn (Hình. 133-2) dựa trên thăm khám lâm sàng và, nếu cần, theo dõi huyết động xâm lấn.

Tăng áp lực đổ đầy LV

Không
Không Profile A
“Ấm và khô”
Profile B
“Ấm và ẩm”
Profile L
Lạnh và khô”
Profile C
“Lạnh và ẩm”

HìNH 133-2 Profiles huyết động của bn suy tim cấp. CO, cung lượng tim; LV, thất trái; SVR, kháng lực mạch máu hệ thống.

– Profile A “Ấm và khô”: Triệu chứng do bệnh lý khác suy tim (VD, NMCT cấp). Chưa các bệnh lý nền.

– Profile B “Ấm và ẩm”: Điều trị với lợi tiểu và dãn mạch.

– Profile C “Lạnh và ẩm”: Điều trị với dãn mạch truyền tĩnh mạch và vận mạch.

– Profile L “Lanh và khô”: Nếu áp lực đổ đầy thấp (Áp lực ĐM phổi bít <12 mmHg) được xác định, consider trial of volume repletion.

Xem xét cấy máy khử rung cơ tim (ICD) dự phòng cho suy tim mạn class II–III và LVEF <30–35%. Bn với LVEF <35%, CHF trơ (NYHA class III–IV), và QRS >120 ms có thể là ứng cử viên cho tạo nhip 2 thất (liệu pháp tái đồng bộ tim), thường kết hợp với ICD. Bn bệnh nặng và <6 tháng sống còn dự kiến, bn đạt chỉ tiêu stringent, có thể và ứng cử viên cho thiết bị hỗ trợ thất hoặc thay tim.

Bn với suy tâm trương được điều trị bằng cách hạn chế muối và lợi tiểu. Beta blockers và ACE inhibitors có thể có lợi thông qua giảm kích hoạt thần kinh nội tiết.

TÂM PHẾ MẠN

Phì đại thất phải là kết quả của bệnh phổi nguyên phát; dẫn đến dày thất phải và suy thất phải.Nguyên nhân bao gồm :

Bệnh lý đường dẫn khí hoặc nhu mô phổi dẫn đến co mạch gây thiếu oxy máu. Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD), bệnh phổi mô kẽ, giãn phế quản, xơ nang.

  • Bệnh lý tắc nghẽn tuần hoàn phổi. Thuyên tắc phổi tái phát, tăng áp động mạch phổi (PAH) (Chương 136), viêm mạch máu, thiếu máu hồng cầu hình liềm.
  • Rối loạn thông khí (giảm thông khí mãn). gù vẹo cột sống, rối loạn thần kinh cơ, béo phì , ngưng thở khi ngủ (Chương 146).

Triệu chứng

Phụ thuộc vào nguyên nhân bao gồm khó thở, ho, mệt, và ho đờm (trong bệnh nhu mô)

Thăm khám lâm sàng

Thở nhanh, nhịp đập thất phải dọc bờ trái xương ức, tiếng P2 lớn,tiếng T4 nghe bên phải, xanh tím, móng tay dùi trống là những biểu hiện muộn.

Nếu suy thất phải, tăng áp lực tĩnh mạch cảnh, gan to và cổ chướng, phù, âm thôi hở van 3 lá thường gặp.

ECG

Dày thất phải và to nhĩ phải; rối loạn nhịp nhanh

Chẩn đoán hình ảnh

X quang ngực cho thấy to thất phải và dãn động mạch phổi; nếu xuất hiện tăng áp động mạch phổi, giảm các nhánh động mạch phổi. CT ngực xác định được khí phế thủng, bệnh phổi mô kẽ, và thuyên tắc phổi cấp; Chụp tưới máu phổi tốt hơn để chẩn đoán thuyên tác huyết khối mãn. Xét nghiệm chức năng phổi và ABGs đặc trưng cho bệnh tại phôi.

Siêu âm tim

Dày thất phải; chức năng thất trái thường bình thường. Áp lực tâm thu thất phải có thể được ước lượng nhờ đo Doppler dòng phụt ngược van 3 lá. Nếu chẩn đoán hình ảnh gặp khó khăn vì khí trong phổi dãn rộng, thể tích thất phải và độ dày thành thất có thể được đánh giá thông qua MRI.

Thông tim phải

Có thể khẳng định sự có mặt của tăng áp phổi và loại trừ nguyên nhân suy tim trái.

ĐIỀU TRỊ Tâm phế mạn

Điều trị các bệnh lý phổi và có thể dùng các thuốc dãn phế quản, kháng sinh, sử dụng Oxy, và các biện pháp thông khí nhân tạo không xâm lấn. Với bệnh nhân PAH, liệu pháp dãn mạch phổi có thể có ích nhằm giảm hậu gánh cho thất phải.

Nếu suy thất phải,chữa trị như suy tim, hướng dẫn chết độ ăn ít natri và lợi tiểu; digoxin có lợi ích không rõ và phải được sử dụng cẩn trọng (ngộ độc tăng do thiếu oxy máu, tăng CO2, nhiễm toan). Lợi tiểu quai phải được sử dụng cẩn trong nhằm ngăn ngừa nhiễm kiềm chuyển hóa gây ảnh hưởng hô hấp

Huyệt Phong Long

Phong Long

Tên Huyệt:

Huyệt ở chỗ cơ nhục đầy đủ (Phong Long ), vì vậy gọi là Phong Long (Trung Y Cương Mục).

Xuất Xứ:

Thiên ‘Kinh Mạch’ (Linh khu.10).

Đặc Tính:

Huyệt Lạc.

Vị Trí huyệt:

Đỉnh mắt cá chân ngoài lên 8 thốn hoặc lấy huyệt ở điểm giữa nếp kheo chân và mắt cá chân ngoài.

Giải Phẫu:

Dưới da là khe giữa cơ duỗi chung các ngón chân và cơ mác bên ngắn, ở sâu là cơ duỗi dài riêng ngón chân cái, xương mác.

Thần kinh vận động cơ là nhánh của dây thần kinh chầy trước và nhánh của dây thần kinh cơ-da.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh L5.

Tác Dụng:

Hòa Vị khí, hóa đờm thấp.

Chủ Trị : Trị ho đờm, chóng mặt, suyễn, khó thở, ngực trướng, chi dưới tê liệt, cước khí, đầu đau.

Phối Huyệt:

1. Phối Phục Lưu (Th.7) trị tay chân phù (Giáp Ất Kinh).

2. Phối Dương Giao (Đ.35) + Thừa Tương (Nh.24) trị mặt sưng phù (Giáp Ất Kinh).

3. Phối Xung Dương (Vị 42) trị cuồng, chạy bậy, trèo cao ca hát, cởi quần áo ra mà chạy ( Thiên Kim Phương).

4. Phối Đại Đô (Tỳ 2) + Phục Lưu (Th.7) trị phong nghịch, tay chân phù (Thiên Kim Phương).

5. Phối Tỳ Du (Bàng quang.20) trị tay chân không co duỗi được (Tư Sinh Kinh).

6. Phối Phục Lưu (Th.7) trị tay chân sưng (Tư Sinh Kinh).

7. Phối Phế Du (Bàng quang.13) trị ho đờm (Châm Cứu Tụ Anh).

8. Phối Dũng Tuyền (Th.1) + Hợp Cốc (Đại trường.4) + Thiên Đột (Nh.22) trị họng đau (Châm Cứu Tụ Anh).

9. Phối Công Tôn (Tỳ 4) + Đản Trung (Nh.17) + Trung Khôi trị nôn ra nước dãi, chóng mặt (Châm Cứu Đại Toàn).

10. Phối Giải Khê (Vị 41) trị đau đầu phong, chóng mặt (Châm Cứu Đại Thành).

11. Phối Dũng Tuyền (Th.1) + Quan Nguyên (Nh.4) trị ho lao (Bách Chứng Phú).

12. Phối Cường Gian (Đc.18) trị đầu đau (Ngọc Long Kinh).

13. Phối Trung Quản (Nh.12) trị đờm ẩm (Y Học Cương Mục).

14. Phối Ẩn Bạch (Tỳ 1) + Dũng Tuyền (Th.1) + Quan Xung (Tam tiêu.1) + Thiếu Thương (Phế 11) + Thiếu Xung (Tm.9) trị họng đau (Y Học Cương Mục).

15. Phối Liệt Khuyết (Phế 7) + Phục Lưu (Th.7) trị tay chân phù (Thần Ứng Kinh).

16. Phối An Miên + Thần Môn (Tm.7) trị mất ngủ (Châm Cứu Học Thượng Hải).

17. Phối Hành Gian (C.3) + Nội Quan (Tâm bào.7) + Thiên Trụ (Bàng quang.10) trị chóng mặt (Châm Cứu Học Thượng Hải).

Cách châm Cứu:

Châm thẳng, mũi kim hướng về phía trong, sâu 1-1, 5 thốn – Cứu 5-7 tráng – Ôn cứu 5-15 phút.

Tham Khảo:

Thiên ‘Nhiệt Bệnh’ghi: “Bệnh nhiệt làm cho chân tay nặng nề, đó là Trường Vị bị nhiệt, dùng kim số 4 châm các huyệt Du (của kinh Tỳ + Vị) và các huyệt ở ngón chân dưới, tìm quan hệ khí ở các lạc của kinh Vị [ là huyệt Phong Long ] (Linh khu.23, 28).

Phác đồ điều trị Nhiễm trùng tiểu

Nhiễm trùng tiểu là hậu quả hoặc xâm nhập của các vi sinh vật vào nước tiểu và mô của bất cứ thành phần nào thuộc hệ thống tiết niệu.

Các yếu tố thuận lợi :

  • Đang thông tiểu lưu hoặc thông tiểu ngắt quãng.
  • Thể tích tồn đọng > 100ml trong bàng quang sau khi tiểu
  • Tắc nghẽn cổ bàng quang do sỏi hoặc do nguyên nhân khác.
  • Tật trào ngược bàng quang niệu quản hoặc sau phẩu thuật
  • Suy thận tại thận
  • Sau ghép thận
  • Đái tháo đường
  • Suy giảm miễn dịch
  • Nhiễm trùng tiểu do các vi khuẩn ít gặp hoặc kháng thuốc

Vi khuẩn gây nhiểm trùng tiểu : 75% – 90% do Escherichia coli, 5% – 15% do Staphylococcus saprophyticus, phần còn lại là Enterococci, Klebsiella species, Proteus mirabilis.

I.  TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

  • Hội chứng nhiễm trùng.
  • Các rối loạn đi tiểu : tiểu gắt, tiểu buốt, tiểu gấp,tiểu lắt nhắt
  • Thay đổi tính chất nước tiểu :tiểu đục, tiểu máu.
  • Đau hông lưng, đau hoặc nặng vùng hạ vị,đau vùng hội âm.

II. CẬN LÂM SÀNG

  1. Công thức máu, urea, Creatinine, CRP, cấy máu.
  2. Tổng phân tích nước tiểu (dipstick) : Leucocyte Esterase (+)
  3. Nitrite test (nitrate reductase/vi khuẩn) (+)
  4. Hình ảnh học : siêu âm, chụp xquang hệ niệu (KUB, …).
  5. Cấy nước tiểu : ≥ 105 khúm/ml chỉ 1 loại vi khuẩn

III. CHẨN ĐOÁN 2 trong 3

  1. Lâm sàng
  2. TPTNT : Leucocyte Esterase (+),Nitrite test (nitrate reductase/vi khuẩn) (+)
  3. Cấy nước tiểu : ≥ 105 khúm/ml chỉ 1 loại vi khuẩn

IV. ĐIỀU TRỊ

1. Viêm bàng quang cấp:

  • Yếu tố chẩn đoán : tiểu gắt, lắt nhắt, sốt (±)
  • Nên cấy nước tiểu trước khi điều trị.
  • Kháng sinh ban đầu : nhóm Quinolone, Cephalosporin (II,III).

+ Augmentin 625 mg / viên : 1 v x 3 (uống ) / ngày 1g/lọ x 2 (TB hoặc TM )/ ngày

+ Ciprofloxacin : 500mg/viên : 1v x 2 (uống)/ ngày.

200mg/chai(100ml) : 1chai x 2 (truyền tỉnh mạch)/ngày

+ Levofloxacin : 500mg/viên : 1v (uống)/ngày

500mg/chai(100ml) truyền tỉnh mạch/ngày

+ Cefuroxim : 500mg/viên : 1v x 2(uống)/ngày 750mg/lọ  x 3(TB hoặc TM)/ngày

+ Ceftriaxon (1gr/lọ) 2g (TB hoặc TM)/ngày

+ Cefoperazone (1gr/lọ) 1 lọ x 2 (TB hoặc TM)/ngày

+ Ceftazidime (1gr/lọ) 1 lọ x 2 (TB hoặc TM)/ngày

–   Thời gian điều trị : 5 – 7 ngày.

  • Nếu không đáp ứng → điều trị theo kháng sinh đồ.

2. Viêm đài bể thận cấp

  • Yếu tố chẩn đoán : sốt, ớn lạnh, đau hông lưng, rối loạn đi tiểu (±)
  • Nên cấy nước tiểu trước điều trị.
  • Cấy máu khi có 2/4 tiêu chuẩn đáp ứng viêm toàn thân, hoặc HA tâm thu < 90 mmHg hoặc giảm> 40 mmHg.
  • Kháng sinh ban đầu : nhóm Quinolone, Cephalosporin (II,III).

+ Ciprofloxacin : 500mg/viên : 1v x 2 (uống)/ ngày.

200mg/chai(100ml) : 1chai x 2 (truyền tỉnh mạch)/ngày

+ Levofloxacin : 500mg/viên : 1v (uống)/ngày

500mg/chai(100ml) truyền tỉnh mạch/ngày

+ Cefuroxim : 500mg/viên : 1v x 2(uống)/ngày 750mg x 3(TB hoặc TM)/ngày

+ Ceftriaxon (1gr/lọ) 2g (TB hoặc TM)/ngày

+ Cefoperazone (1gr/lọ) 1 lọ x 2 (TB hoặc TM)/ngày

+ Ceftazidime (1gr/lọ) 1 lọ x 2 (TB hoặc TM)/ngày

  • Thời gian điều trị : 10 – 14 ngày.
  • Nếu không đáp ứng → điều trị theo kháng sinh đồ.

3. Nhiễm trùng tiểu / thai kỳ :

  • Nên cấy nước tiểu trước điều trị.
  • Kháng sinh ban đầu : Cephalosporin (II,III)

+ Cefuroxim : 500mg/viên : 1v x 2(uống)/ngày 750mg x 3(TB hoặc TM)/ngày

+ Ceftriaxon (1gr/lọ) 2g (TB hoặc TM)/ngày

+ Cefoperazone (1gr/lọ) 1 lọ x 2 (TB hoặc TM)/ngày

+ Ceftazidime (1gr/lọ) 1 lọ x 2 (TB hoặc TM)/ngày

  • Thời gian điều trị : Viêm đài bể thận cấp 10 – 14 ngày. Viêm bàng quang cấp 7 – 10 ngày.
  • Nếu không đáp ứng → điều trị theo kháng sinh đồ.

4. Nhiễm trùng tiểu / đái tháo đường :

  • Luôn phải cấy nước tiểu trước và sau điều trị.
  • Kháng sinh ban đầu : Fluoroquinolone, Cephalosporin (II,III).Nếu bệnh nhân có biểu hiện nhiễm trùng nặng phải cấy máu và kết hợp kháng sinh để diệt được Pseudomonas : Imipenem,Ticarcillin/a.Clavulanic.

+ Imipenem (1gr/lọ) 1 lọ x 2 (TB hoặc TM)/ngày  (tối đa 4g/ngày)

+ Ticarcillin 3gr/a.Clavulanic 200mg (Timentin) 1.6 – 3.2gr mỗi 6 – 8 giờ.

5. Viêm tiền liệt tuyến cấp:

  • Yếu tố chẩn đoán : sốt, ớn lạnh, tiểu gắt, tiểu lắt nhắt, đau dưới thắt lưng và hội âm, thăm trực tràng tiền liệt tuyết rất to và đau.
  • Nên cấy nước tiểu trước và sau điều trị.
  • Không nên xoa nắn tiền liệt tuyến để xét nghiệm
  • Bù đủ nước, nghỉ ngơi, giảm đau.
  • Thuốc :

+ Ciprofloxacin : 500mg/viên : 1v x 2 (uống)/ ngày.

200mg/chai(100ml) : 1chai x 2 (truyền tỉnh mạch)/ngày

+ Levofloxacin : 500mg/viên : 1v (uống)/ngày

500mg/chai(100ml) truyền tỉnh mạch/ngày

–   Thời gian điều trị 4 tuần . Nếu không đáp ứng → điều trị theo kháng sinh đồ.

Điều cần biết để tập dưỡng sinh đạt hiệu quả cao

Hiện nay việc tập dưỡng sinh nâng cao sức khoẻ được nhiều người ưa thích. Ngoài việc thực hiện đúng các động tác, người theo tập cần phải chú ý những điều sau đây để việc tập đạt được kết quả cao nhất.

Chuẩn bị tư tưởng

Khi tiến hành tập thể dục chữa bệnh cần phải có lòng tin vào kết quả khả quan. Người tập dưỡng sinh phải bình tĩnh, kiên trì. Nếu có lòng tin và kiên trì mọi bệnh tật sẽ bị đẩy lùi. Cần tránh tư tưởng chán nản, buông xuôi, thiếu kiên nhẫn, ít tập luyện hoặc tập luyện không đều đặn. Thông thường, người bị bệnh tính tình thất thường, căng thẳng do can hư hoả vượng. Vì thế, khi tập luyện không nên nóng nẩy dễ dẫn đến sai lệch động tác. Nếu gặp phải động tác khó, chuyển động chậm, nên tập từ từ rồi sẽ quen và luôn phải nghĩ tập để sức khoẻ tốt hơn thì mọi khó khăn sẽ qua đi. Sau một thời gian tập luyện sẽ thấy tâm tính thay đổi. Đó cũng là lúc sức khoẻ được cải thiện.

Thời gian, cường độ, địa điểm tập

Tốt nhất là tập vào lúc sáng sớm khi chưa ăn gì hoặc trước khi đi ngủ khoảng 30 phút. Không nên tập quá lâu vì không phải cứ tập nhiều là tốt. Thời gian tối đa cho mỗi buổi tập là 1 giờ. Nơi tập luyện có thể là ngoài trời hoặc ở trong nhà cũng được, nhưng nhất thiết chỗ tập phải thoáng, không bị gió lùa, sạch sẽ, yên tĩnh. Cần kiên trì tập luyện bất kể nắng mưa, giá lạnh, nhưng lại không được tập khi người không khoẻ. Thời gian đầu nên tập từ từ để các cơ quan nội tạng quen với sự thay đổi, sau đó mới dần dần nâng lượng vận động. Nếu sau buổi tập thấy người sảng khoái, thở tốt, tinh thần thoải mái… chứng tỏ bài tập được thực hiện đúng và có tác dụng.

Người tập dưỡng sinh phải bình tĩnh, kiên trì
Người tập dưỡng sinh phải bình tĩnh, kiên trì

Trang phục tập luyện

Nên mặc sao không cảm thấy lạnh hay ấm quá. Chất liệu của quần áo phải mềm, thấm mồ hôi. Nên may rộng rãi, không quá chật hay quá rộng. Vào mùa đông khi đi tập nên khoác thêm chiếc áo ấm để tránh cảm lạnh. Trước khi bỏ áo khoác nên vận động một lúc cho ấm người. Sau khi tập phải mặc ngay áo khoác. Nếu áo quần bị ướt phải thay bằng quần áo khô ráo để không bị cảm lạnh. Giầy, mũ, tất, phải nhẹ, thấm mồ hôi, không quá chật hoặc quá rộng sẽ ảnh hưởng đến lưu thông khí huyết và gây cảm giác khó chịu khi luyện tập.

Ăn uống

Song song với việc tập luyện thì chế độ ăn cũng cần phải điều chỉnh cho phù hợp. Nên ăn đúng giờ, ăn chậm, nhai kỹ, không nên ăn quá no. Sau một thời gian tập sẽ ăn nhiều hơn và ngon miệng hơn. Vì thế  cần điều chỉnh mức ăn để bảo đảm cung cấp được lượng calo, vitamin và khoáng chất cần thiết. Tốt nhất là ngày ăn 3 bữa, sáng ăn nhẹ, trưa ăn chính, chiều tối giảm đi một chút. Trước khi tập không nên ăn. Sau khi tập nên uống một cốc nước lọc, sữa hoặc nước hoa quả, 30 phút sau mới được phép ăn nhẹ. Nên ăn các thức ăn dễ tiêu, tránh các thức ăn nóng, chua, cay, đặc biệt không nên uống rượu bia trước và sau khi tập 30 phút.

Gãy xương bệnh lý (gãy xương tự phát)

Tên khác: gãy xương tự phát

Định nghĩa

Gãy xương ở những vị trí xương đã sẵn có tổn thương, xảy ra một cách tự phát hoặc sau một chấn thương cực kỳ nhẹ.

Căn nguyên

Tổn thương xương tại chỗ:

  • u xương lành tính hoặc ác tính.
  • Di căn ung thư vào xương.
  • u nang xương
  • Viêm xương-tuỷ.
  • Tổn thương xương do bức xạ.

Tổn thương xương trong những bệnh toàn thân:

  • Bệnh còi xương và nhuyễn xương.
  • Ưu năng tuyến cận giáp trạng, hội chứng Cushing, liệu pháp corticoid kéo dài.
  • Bệnh bạch cầu, đa u tuỷ xương, bệnh mô bào X, loạn chuyển hoá lipid.
  • Những bệnh thận (suy tiểu cầu thận, giảm phospho huyết).
  • Bệnh Paget.
  • Hội chứng Albright.
  • Ung thư di căn.
  • Những bệnh bẩm sinh: bệnh giòn xương, loạn dưỡng sụn, bệnh đặc xương (bệnh xương hoá đá), V..V…

Điều trị

Điều trị nguyên nhân nếu có thể. Các biện pháp chỉnh hình, và trong trường hợp không kết quả thì thực hiện cố định trong bằng phẫu thuật.

Bệnh Than (mụn mủ ác tính, phù ác tính, sốt than) – triệu chứng, điều trị

Tên khác: mụn mủ ác tính, phù ác tính, sốt than

Định nghĩa

Bệnh của động vật ăn cỏ, do vi khuẩn than gây ra và có khả năng lây truyền sang người, đăc tính của bệnh là các tổn thương da (mụn mủ và phù ác tính) hoặc tổn thương nội tạng.

Căn nguyên

Tác nhân gây bệnh là vi khuẩn than với tên khoa học là Bacillus anthracis, trực khuẩn có kích thước lớn, không di động, Gram dương, ái khí (kỵ khí tuỳ theo hoàn cảnh), sinh bào tử và có vỏ bọc. Trực khuẩn lây truyền sang người là do tiếp xúc trực tiếp với những động vật bị bệnh (cừu, bò, ngựa, dê), hoặc gián tiếp qua những vật liệu bị nhiễm vi khuẩn (như len, da, lông cứng, bộ lông bị nhiễm, đất bị dây bẩn bởi chất thải của các động vật bị bệnh); lây nhiễm do hít phải bào tử hoặc ăn phải thịt bị nhiễm vi khuẩn không đun đủ chín hiếm xảy ra hơn.

Dịch tễ học

Bệnh than hiện nay chỉ giới hạn ở một số vùng trên thế giới, ở đó có dịch địa phương bệnh than động vật lưu hành (Trung Đông, châu Phi, châu Á, vùng biển Caribê). ở châu Âu, bệnh xảy ra chỉ là ngoại lệ ở những công nhân công nghiệp chế biến da súc vật bị nhiễm vi khuẩn than được mang đến từ các vùng có dịch địa phương kể trên.

Triệu chứng

THỜI KỲ Ủ BỆNH: từ 12 giờ đến 5 ngày.

MỤN MỦ ÁC TÍNH: hay xuất hiện nhất ở da mặt, cô và bàn tay. Mối đầu, tổn thương trông giống với một nốt côn trùng đốt, với vết trợt da trên một nền ban đỏ. Trong vòng một vài giờ, tổn thương rộng ra, da trỏ thành màu nâu ở đỉnh của tổn thương, với một viền xung quanh màu đỏ xâm. Ngày hôm sau, những mụn nước xuất hiện ở vùng dìa vết sẩn và ngày sau nữa thì những mụn nước này có màu đỏ hoặc màu lục nhạt, rồi vỡ ra, giải phóng một chất dịch có lẫn máu. Phần trung tâm lõm của vết sẩn bị loét ra và trở thành màu đen vào ngày thứ 3 hoặc thứ 4. Mụn mủ ngứa, nhưng không đau, không mưng mủ và phù nề xuất hiện. Có thể thấy mụn bị bội nhiễm, ví dụ bởi các vi khuẩn gây chốíc lỏ. Những dấu hiệu toàn thân có thể ít nhiều rõ rệt: buồn nôn, nôn, nhức đầu, đau khớp, và sốt không cao.

PHÙ ÁC TÍNH: thay vì những tổn thương có giới hạn rõ như mô tả ở trên là những vết loét nông, vâi vùng dìa màu lục nhạt, và phù nề nhanh chóng lan rộng. Thể này thường khu trú ở vùng có mô liên kết thưa của các mí mắt, ở bàn tay, ở cổ, và đôi khi ở các niêm mạc. Cũng có những triệu chứng toàn thân như trên.

THỂ PHỔI: xảy ra khi bệnh nhân hít phải bụi có lẫn bào tử của vi khuẩn (bệnh của những công nhân chải len thô). Thể phổi biểu hiện bởi những ổ thâm nhiễm ở phổi và bởi bệnh cảnh phế quản- phế viêm.

THỂ DẠ DÀY-RUỘT: là do bệnh nhân ăn phải thịt gia súc nhiễm vi khuẩn bệnh than không được nấu đủ chín. Thể này biểu hiện bởi nôn kéo dài, táo bón, và đôi khi có những dấu hiệu viêm phúc mạc.

THỂ MÀNG NÃO: hiếm gặp, với hội chứng màng não không điển hình.

THỂ NHIỄM KHUẨN HUYẾT: rất nặng.

Xét nghiệm cận lâm sàng

Trực khuẩn bệnh than có thể quan sát được dưới kính hiển vi với độ phóng đại nhỏ ở trên những phiến đồ nhuộm bằng phương pháp Giemsa; trực khuẩn có kích thước dài 6 pm, rộng 1 pm; có thể nhìn thấy bào tử qua kính hiển vi đối pha. Những loại bệnh phẩm cần xét nghiệm dưới kính hiển vi là: dịch của mụn nước, đờm, dịch não tuỷ, và máu. Có thể tiêm truyền cho chuột nhắt, chuột lang hoặc thỏ. Phát hiện kháng thể bằng test ngưng kết hồng cầu gián tiếp. Cấy máu thường cho kết quả dương tính, ngay cả khi không có dấu hiệu nhiễm khuẩn huyết.

Tiên lượng

Đối với những thể ngoài da được điều trị, thì hầu như không có tử vong. Tỷ lệ tử vong cao ở những thể phổi không được điều trị.

Điều trị

Đối với những thể nặng: benzylpenicillin (penicillin G) 10 triệu đơn vị mỗi ngày tiêm tĩnh mạch. Đối với những thể nhẹ và khu trú: erythromycin (250-500 mg uống cách nhau 6 giờ một lần) hoặc tetracyclin (0,5 g uống cách nhau 6 giờ một lần). Tránh không được trích những tổn thương ở da.

Phòng bệnh

Tiêm vaccin cho gia súc dễ mắc bệnh và tiêu huỷ bào tử bằng cách thiêu đốt xác gia súc bị nhiễm vi khuẩn bệnh than. Tiêm phòng vaccin cho những đối tượng phải tiếp xúc với nguồn lây nhiễm là các nhân viên thú y, công nhân công nghiệp xử lý những sản phẩm từ gia súc, những người này đều có thể bị lây nhiễm.

Bệnh Ho Gà (bệnh do Pertussis) – chẩn đoán và điều trị

Tên khác: bệnh do Pertussis

Định nghĩa

Là bệnh truyền nhiễm có để lại miễn dịch ở trẻ em, do trực khuẩn Bordet và Gengou gây ra, bệnh có đặc điểm là viêm long ở đường hô hấp và các cơn ho có tính ẹo thắt..

Căn nguyên

Tác nhân gây bệnh là trực khuẩn Bordet và Gengou với tên khoa học là Bordetella pertussis, một loại trực khuẩn Gram âm, ngắn và không di động, bắt màu thuốc nhuộm ở hai đầu. Trực khuẩn  Bordetella parapertussis cũng gây ra những biểu hiện lâm sàng giống với ho gà, nhưng nhẹ hơn (nên gọi là bệnh “cận ho gà”). Tuy nhiên, không có miễn dịch chéo giữa hai mầm bệnh này. Bệnh ho gà rất dễ lây. Trực khuẩn làm cho các lông chuyển trong đường hô hấp bị tê liệt bởi một độc tố không chịu nhiệt do chúng sản xuất ra.

Dịch tễ học

Bệnh ho gà xuất hiện thành dịch địa phương trên khắp thế giới, với những đợt dịch gia tăng đặc biệt vào mùa xuân cứ 2 đến 4 năm lại tái hiện một lần. Tiêm phòng vaccin hệ thống đã làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong của bệnh ho gà ố những nước công nghiệp phát triển, ở nước Pháp, tiêm phòng vaccin được duy trì từ 40 năm nay đã làm cho những trường hợp mắc bệnh chỉ là ngoại lệ. Tuy nhiên, vài năm gần đây, người ta lại thấy bệnh nổi lên ở người lớn và vị thành niên đã được tiêm phòng vaccin từ trước, như vậy, những người này có thể là nguồn lây nhiễm sang nhũ nhi còn nhỏ chưa được tiêm phòng vaccin và làm chúng dễ mắc các thể ho gà nặng. Trong những quần thể dân chúng không được tiêm phòng vacxin, thì bệnh ho gà vẫn là một nguyên nhân quan trọng gây tử vong ở trẻ em, trong đó một nửa số trường hợp là trẻ dưới 2 tuổi. Theo ước lượng của Tổ chức Y tế Thế giới thì hàng năm với 60 triệu trường hợp mắc bệnh, có khoảng 600.000 trẻ em ở các nước đang phát triển bị chết vì bệnh ho gà.

Miễn dịch sau khi khỏi bệnh là miễn dịch vĩnh viễn, nhưng vẫn có những trường hợp ngoại lệ. Bệnh ho gà lây truyền trực tiếp do người lành hít phải vi khuẩn trong những hạt nước bọt bắn ra từ miệng, mũi những người đã bị nhiễm. Bệnh dễ lây nhất là trong thời kỳ đầu, khi bệnh ở pha (thời kỳ) viêm long. Không có “người lành” mang mầm bệnh. Nguồn dự trữ trực khuẩn gây bệnh chủ yếu là người.

Triệu chứng

Bệnh cảnh lâm sàng mô tả dưới đây là điển hình của bệnh ho gà ở trẻ em 4-7 tuổi không được tiêm phòng vaccin.

THỜI KỲ Ủ BỆNH: 1 đến 2 tuần.

THỜI KỲ XÂM LẤN HOẶC VIÊM LONG: (ngày thứ 8-14): tác nhân gây bệnh xâm lấn vào niêm mạc gây ra viêm long ở đường mũi khí phế quản, mới đầu là viêm long tiết dịch, sau đó là tiết nhày. Bệnh nhi bắt đầu hắt hơi, chán ăn, và suy sút. Mới đầu ho khan, không đáng kể, nhưng chẳng bao lâu ho trở nên dai dẳng, nhất là về ban đêm. Bệnh nhi không sốt hoặc sốt nhẹ. Khám thực thể thấy họng hơi bị đỏ và đôi khi có viêm kết mạc.

THỜI KỲ TOÀN PHÁT HOẶC HO CÖN (NGÀY THỨ 14-18): các cơn ho xảy ra tự phát, không có lý do rõ rệt, hoặc xảy ra sau khi trẻ gắng sức, hoặc sau khi cho trẻ ăn. Mỗi cơn ho thê hiện những dấu hiệu sau:

Ho: ho mạnh và có tính chất co thắt. Bệnh nhi phải thè lưỡi ra khỏi miệng, lồng ngực giữ yên trong thì thở ra, mặt bệnh nhi như sưng phù lên, tím tái, hai mắt lồi lên.

Cơn ho lại: sau khoảng 20 lần thỏ ra mạnh, bệnh nhi hít vào ồn ã với tiếng rít, kéo dài (như “tiếng gà sống gáy”). Sau khi cơn bắt đầu lại, thì kích thích gây ho tiếp tục tác động và bệnh nhi ho từng cơn tiếp nối nhau cho tới khi khạc được đờm ra ngoài.

Khạc đờm: là loại niêm dịch nhớt chảy thành sợi, dính, trong, tạo nên bỏi dịch nhày của phế quản với các bạch cầu đa nhân và một nhân. Trực khuẩn sốm mất đi và dòm của bệnh nhi ở thời kỳ này không gây lây nhiễm nữa. Sau mỗi cơn ho, bệnh nhi rũ người ra, thở hổn hển, người đẫm mồ hôi và mạch đập nhanh. Tuỳ theo mức độ nặng nhẹ của bệnh, bệnh nhi có thể bị ho từ 10 đến 50 cơn như thế trong một ngày. Trong thời kỳ này, người ta thấy mặt bệnh nhi như bị trương phì ra và hãm lưỡi bị loét (gọi là dấu hiệu Cardarellĩ), dấu hiệu này cho phép xác định bệnh ho gà lúc khám bệnh nhi ở khoảng giữa các cơn ho. Khám thực thể không phát hiện được gì. Sốt thường chỉ là dấu hiệu của biến chứng. Tình trạng toàn thân của bệnh nhi ít bị ảnh hưởng, và giữa các cơ ho bệnh nhi có biểu hiện bình thường.

THỜI KỲ THUYÊN GIẢM VÀ HỔI PHỤC: 1-2 tuần sau khi những cơn ho khởi phát, bệnh ho gà đạt tối mức tối đa, rồi sau đó cường độ giảm dần vào tuần thứ 3-6. Ke từ lúc này, các cơn ho mất dần xu hướng co thắt. Tuy nhiên, hàng tháng sau đó cơn ho gà vẫn có thể tái xuất hiện, nhân một hoàn cảnh nhiễm khuẩn đường hô hấp trên.

Tuỳ theo cường độ của các cơn ho gà, người ta phân thành thể thô sơ (“ho gà nhẹ”) , thể “thui chột” và thể rất nặng (“ho gà cường bạo”).

Những thể không điển hình với những cơn ho rất hiếm hoặc không có cơn ho ngày nay có thể thấy ở nhũ nhi và trẻ dưới 2 tuổi. Người lớn đã từng được tiêm phòng vaccin từ trước, có thể bị ho co thắt kéo dài trong vòng hơn một tháng, và triệu chứng này có thể là biểu hiện duy nhất của bệnh ho gà ở người lớn.

Xét nghiệm cận lâm sàng

Xét nghiệm bệnh phẩm bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang trực tiếp, sử dụng huyết thanh kháng Bordetella, cho kết quả nhanh.

Cấy trực khuẩn: nếu lấy bệnh phẩm bằng cách đưa ống thông (sonde) qua mũi, hút ra dịch nhày và mang nhanh tới phòng xét nghiệm sẽ cho kết quả tốt nhất. Cũng có thể dùng bơm tiêm hút dịch nháy từ họng bệnh nhân rồi ria trên môi trường Bordet-Gengou. Cấy bệnh phẩm có thể cho kết quả dương tính trong một nửa số trường hợp ở giai đoạn xâm lấn hoặc vào lúc bắt đầu có những cơn ho.

Làm phản ứng huyết thanh: nên tìm kháng thể thuộc hai lốp immunoglobulin khác nhau kháng lại ít nhất hai kháng nguyên khác nhau của B. pertussis và chứng minh hiệu giá kháng thể tăng lên trong hai lần xét nghiệm liên tiếp. Tìm kháng thể huỳnh quang cho phép phân biệt bệnh “cận ho gà” với bệnh ho gà thật sự.

Huyết đồ: hay thấy tăng bạch cầu trong máu (20.000 đến 50.000/pl, trong đó có 60-80% là tê bào lympho). Trong thời kỳ lại sức thường hay thấy tăng bạch cầu hạt ưa acid.

Phản ứng chuỗi polymerase (PCR: “Polymerase Chain Reaction”) cho phép nhận dạng được DNA của B. pertussis trong các bệnh phẩm lấy từ mũi họng, kỹ thuật này cho kết quả nhanh chóng hơn và chính xác hơn cấy bệnh phẩm (95% dương tính ở nhũ nhi bị bệnh).

Các biến chứng (ngày nay hiếm thấy vì đã có vaccin tiêm phòng)

Các tai biến cơ học do cơn ho: nôn, đại-tiểu tiện không chủ động, xuất huyết dưới kết mạc, chảy máu cam. Rất hiếm tai biến xuất huyết não hoặc màng não. Đôi khi có tai biến thoát vị rốh, sa nội tạng. Khi bệnh nhi ho, áp lực trong lồng ngực tăng lên, có thể gây ra khí phế thũng kẽ hoặc tràn khí màng phổi.

Những biến chứng phổi:

+ “Ho gà thể phổi” ở nhũ nhi, với “viêm phế nang ứ nước” lan toả và thở nhanh, có thể đưa tới ngạt thở.

+ Viêm phế quản phổi do bội nhiễm:  phổi có ran ẩm, hình ảnh X quang thâm nhiễm quanh phế quản, có thể tiến triển tối viêm phế quản mạn tính.

+ Những di chứng (hiếm có): giãn phế quản, khí phế thũng tồn dư, xẹp phổi do một nút niêm dịch làm tắc một tiểu phế quản.

+ Viêm tai giữa: hay gặp.

+ Biến chứng thần kinh: co giật; viêm não chỉ là biến chứng ngoại lệ.

Chẩn đoán dựa vào

Hỏi tiền sử chưa bao giờ bị ho gà.

Bệnh khởi phát bởi một thời kỳ (pha) viêm long mũi khí, phế quản.

Sau 1-2 tuần, xuất hiện các cơn ho điển hình,.không sốt.

Trong công thức bạch cầu có tăng tế bào lympho vượt quá 50%.

Chẩn đoán được xác định bởi cấy bệnh phẩm thấy B. pertussis.

Chẩn đoán phân biệt: với những trường hợp nhiễm adenovirus, nhiễm Chlamydia hoặc nhiễm H. influenzae, những trường hợp này có thể biểu hiện giống như ho gà. Trong thời kỳ có những cơn ho, phải phân tích hình ảnh sưng hạch bạch huyết ở vùng khí phê quản thường hay có nguồn gốc từ bệnh lao, với triệu chứng ho kiểu ho gà.

Tiên lượng: ở trẻ dưới một năm tuổi, tỷ lệ tử vong có thể tới 2%. Nếu thiếu chăm sóc thích đáng, nhất là ở những nước đang phát triển, bệnh ho gà đặc biệt nguy hiểm đổi với trẻ dưới 6 tháng tuổi. Những cơn ho hiếm khi gây nguy hiểm cho bệnh nhi, nhưng nếu không được chăm sóc tốt, trẻ có thể bị ngạt thở vì dịch tiết ra làm tắc phế quản.Tiên lượng thường tốt ở trẻ trên 2 năm tuổi, nhưng bệnh ho gà có thể nặng ở người già.

Điều trị

ĐIỀU TRỊ TOÀN THÂN: Sau khi trẻ nôn cần cho ăn lai, theo dõi tình trạng mất nước và nếu thấy cần thì phục hồi nước bằng cách cho uống, truyền dịch theo đường dưới da hoặc tĩnh mạch. ĐỐI với nhũ nhi, nên điều trị nội trú để theo dõi, có thể bắt buộc phải hút dịch tiết phê quản. Lau mũi họng bằng dung dịch nước muối sinh lý.

THUỐC KHÁNG SINH: trong trường hợp bội nhiễm, cho erythromycin 50 mg/kg cân nặng cơ thể mỗi ngày, uống trong 10 ngày, hoặc tetracyclin tuỳ theo hoàn cảnh. Những thuốc kháng sinh này không hiệu quả trong pha có cơn ho gà, nhưng có thể làm cho bệnh “thui chột” nếu cho thuốc vào thời kỳ ủ bệnh, và cũng có ích để loại trừ mầm bệnh khỏi đường hô hấp.

ĐIỀU TRỊ BIẾN CHỨNG:

Biến chứng phổi do nhiễm

khuẩn thứ phát:  cho thuốc kháng sinh tuỳ theo vi khuẩn gây bội nhiễm.

Co giật: cho thuốc làm dịu (an thần kinh), oxy.

Phòng bệnh: là bệnh bắt buộc phải khai báo y tế. Cách ly bệnh nhân trong 30 ngày kể từ khi bắt đầu có cơn ho. Cho trẻ nghỉ học.

Trẻ từ 3 tháng tuổi cần cho tiêm phòng vaccin chống ho gà (xem từ này), thường phối hợp với vaccin chống bạch hầu và chống uốn ván, tiêm 3 mũi sâu dưới da, cách nhau mỗi lần 1 tháng, một năm sau tiêm nhắc nhở thêm một mũi. Chống chỉ định tiêm vaccin này nếu trẻ có tiền sử co giật hoặc bệnh não. vaccin có thể gây hiệu quả không mong muốn về thần kinh ở 1 trong 10.000 hoặc 1 trong 180.000 trường hợp theo những kết quả thông kê khác nhau. Những vaccin “không tế bào” (làm từ thành phần kháng nguyên của vi khuẩn chứ không phải từ vi khuẩn đã bị giết chết hoặc làm cho yếu đi) ít gây hiệu quả không mong muốn hơn, so với vaccin làm từ trực khuẩn bất hoạt. Tiêm immunoglobulin đặc hiệu sau khi bị nhiễm vi khuẩn tuy không ngăn ngừa được bệnh ho gà xảy ra, nhưng có thể làm giảm nhẹ bệnh ở trẻ em dưới một năm tuổi.

 

Thức ăn cho người già và người huyết áp cao.

Trong bữa ăn hàng ngày của người già có bệnh cao huyết áp nên chú ý thận trọng đến vấn đề ăn uống.

Nên ăn thịt:

Thịt lợn nên ăn nạc, có tính bình, người có huyết áp cao không ăn mỡ. Cần bổ sung các loại thịt súc vật khác.

Thịt trâu, tính rất mát, bổ tỳ, lợi tiểu.

Thịt ngỗng, tính mát, người có tính nóng nẩy nên ăn.

Thịt vịt, tính lạnh, bình, bổ, lợi tiểu.

Gà ác, thịt lành không độc, bổ suy nhược cơ thể.

Chim bồ câu tính bình, nhất là bồ câu trắng có tác dụng bổ âm, bổ tinh khí, giải các thứ độc, bệnh ghẻ lở nên dùng.

Không nên ăn các thức ăn sau:

Thịt bò, tính nóng nên người có tính nóng nên kiêng.

Thịt dê, lòng lợn.

Thịt gà, tính nóng có độc đối với người tạng nhiệt và người huyết áp cao không nên ăn.

Các loại cá nên ăn:

Cá trắm ngon lành, không độc.

Cá mè bổ tỳ vị, điều hòa khí huyết.

Cá rô lành, bổ tỳ vị, không độc.

Cá điếc bổ tỳ.

Nên kiêng:

Cá nóc nhiều độc.

Cá chuối làm tăng nhiệt.

Ngoài thịt cá, nên ăn kèm đậu phụ có chất bổ nhiều nhất, dinh dưỡng cao, nên ăn luôn.

Các thứ rau nên ăn:

Tùy theo thời vụ, nên ăn các loại rau ăn thích hợp.

Rau cải trắng (hay gọi cải ngọt), cải thìa. Người có bệnh nội nhiệt, thiếu tân dịch, môi khô ráo, chân răng sưng thũng, kẽ răng chảy máu, họng khô, huyết áp cao nên ăn thường xuyên.

Cải xoong: Mùa xuân ăn rất tốt. Người có bệnh nội nhiệt, môi lưỡi khô ráo, có thể nấu canh cải xoong ăn rất ngon, cải xoong có tác dụng thanh phế giải nhiệt,

Cải xoong nấu với cá tươi rất ngon, cải xoong nấu canh với thịt lợn nạc thì nhuận phổi, khỏi ho.

Rau ngót có quanh năm, vị ngọt, tính mát, mát huyết, giải độc, lợi tiểu. Nấu canh hoặc ăn sống.

Rau cúc: nấu canh ăn chữa ho, có vitamin c và vitamin A, chất protein, chất béo.

Rau khúc: thường có vào vụ đông xuân, luộc ăn chữa ho, viêm phế quản.

Rau mồng tơi, có quanh năm, nấu canh có vị ngọt, nhiều nhớt, hơi ngọt, tính mát, giải nhiệt, lợi tiểu, nhuận tràng mát máu, có vitamin A.

Mướp đắng (gọi là khổ qua) xào nấu với thịt nạc, có công hiệu thanh nhiệt, mát, tiêu viêm, có thể hầm với sườn lợn, nấu với cá (người khỏe có thể xào với ếch. thịt bò). Trong khổ qua có nhiều vitamin B. C.

Rau cần ta. có vitamin c. Nấu canh ăn giải nhiệt, hạ huyết áp.

Củ cà rốt, nấu ăn giải nhiệt, có vị ngọt, bổ huyết giúp tiêu hóa.

Rau dền, mùa hè nên ăn rau dền trắng, xanh, đỏ, dền ngô. dền ngũ sắc, dền răng ngựa) dền trắng ngon nhất, dền xanh nhiều vitamin A, B, c.

Rau dền không những dưỡng sinh mà còn trị bệnh lý tốt.

(Sách bản thảo thần nông Trung y xếp rau dền vào loại thương phẩm).

Đậu ván, có nhiều vitamin A, B, c là thức ăn dinh dưỡng tốt. Người già do dạ dày yếu, đại tiện kém, dùng đậu ván trắng nấu canh, xào ăn, hoặc nấu với mì cán lát hàng ngày ăn sáng, trưa rất có ích.

Bí ngô, có tác dụng làm mát, tiêu viêm, giảm đau đầu, suy nhược.

Bời lời đắng-Bời lời lá tròn-Bời lời nhớt-Bời lời thon

Bời lời đắng

Loài của Trung Quốc, Mianma, Campuchia, Việt Nam, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Cây khá phổ biến ở nước ta, trong các savan cây bụi, trong rừng thưa và rừng rậm tới độ cao 1200m ở nhiều nơi: Lào Cai, Lạng Sơn, Vĩnh Phú, Hà Tây, Ninh Bình, Gia Lai, Kontum, Bà Rịa – Vũng Tàu. Thu hái lá quanh năm, thường dùng tươi.

Bời lời đắng, Mò lông, Nhan sang – Litsea umbellata (Luor.) Merr, (L. amara Blume), thuộc họ Long não -Lauraceae.

Mô tả: Cây gỗ nhỏ có các nhánh thường có lông màu hung. Lá mọc so le, hình bầu dục, thuôn hay trái xoan, thon hẹp hay tròn ở gốc, nhọn ở đầu, bóng và nhẵn ở mặt trên, trừ trên gân giữa, màu tối hay có lông nâu ở dưới; gân bên 8-16 đôi, lõm ở trên, lồi ở dưới; cuống lá khá to, có lông, dài 8-10mm. Hoa xếp 5-6 cái thành tán tụ họp ở nách lá, có cuống chung ngắn, có lông ngắn màu hung. Quả hình cầu, đường kính 5-6 mm, có cuống nhỏ, hơi phồng lên ở phía dưới quả. Hoa tháng 2-1.

Bộ phận dùng: Lá – Folium Litseae Umbellatae.

Nơi sống và thu hái: Loài của Trung Quốc, Mianma, Campuchia, Việt Nam, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Cây khá phổ biến ở nước ta, trong các savan cây bụi, trong rừng thưa và rừng rậm tới độ cao 1200m ở nhiều nơi: Lào Cai, Lạng Sơn, Vĩnh Phú, Hà Tây, Ninh Bình, Gia Lai, Kontum, Bà Rịa – Vũng Tàu. Thu hái lá quanh năm, thường dùng tươi.

Thành phần hoá học: Rễ chứa một alcaloid. Lá và cành non chứa một chất nhầy.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Malaixia, lá cây luộc lên có thể dùng để đắp lên những vết đau, và mụn nhọt như một thứ cao dán. Ở Campuchia, người ta cũng dùng lá làm thuốc đắp ngoài trị đinh nhọt.

Bời lời lá tròn

Bời lời lá tròn – Litsea rotundifolia (Wall. ex Nees) Hemsl. var. oblongifolia (Nees) Allen (Actinodaphne chinensis (Bl.) Nees), thuộc họ Long não – Lauraceae.

Mô tả: Cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ; nhánh không lông, lúc khô đen ở phần non, nâu ở phần già. Lá mọc so le, hình trái xoan ngược hay thuôn ngọn giáo dài 5-6 cm, rộng 2,5cm, thường thắt lại ở phía gốc, nhọn ở đầu, mặt trên nâu bóng, mặt dưới mốc mốc; gân phụ 6-7 đôi; cuống lá dài 5-6mm. Cụm hoa tán không cuống ở nách lá; lá bắc nhẵn; mỗi tán có 4 hoa dài 2mm; bao hoa 6 thuỳ có lông cả hai mặt; nhị 3, có cuống, bầu nhẵn. Quả hình cầu màu đen,to bằng hạt đậu Hà Lan. Hoa tháng 5.

Bộ phận dùng: Rễ, lá – Radix et Folium Litseae Rotundifoliae.

Nơi sống và thu hái: Loài của Việt Nam, Nam Trung Quốc. Cây gặp ở lùm bụi một số nơi thuộc các tỉnh Bắc Thái, Hải Hưng, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An. Có thể thu hái rễ, lá quanh năm, rửa sạch, thái phiến, phơi trong râm để dùng.

Tính vị, tác dụng: Vị cay, ngọt, tính ấm, có mùi thơm; có tác dụng khu phong trừ thấp, hành khí giảm đau.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Được dùng trị: 1. Viêm khớp do phong thấp, đòn ngã thương tích, lưng đau gối mỏi; 2. Bế kinh, đau bụng kinh; 3. Rối loạn tiêu hoá, đầy hơi, cảm mạo đau đầu. Liều dùng 20-40 g rễ, lá khô sắc uống hoặc ngâm rượu uống.

Bời lời nhớt

Bời lời nhớt, Bời lời dầu – Litsea glutinosa (Lour.) C.B. Rob. thuộc họ Long não – Lauraceae. Mô tả: Cây nhỡ thường xanh hay cây gỗ cao 3-15m; cành non có góc, có lông;

Cành già hình trụ nhẵn. Lá mọc so le, thường tụ họp ở đầu cành, hơi dai, màu lục sẫm, mặt trên sáng bóng, mặt dưới có lông nhiều hay ít; phiến lá hình bầu dục hoặc thuôn, tròn hay nhọn ở gốc, có mũi nhọn hay tù ở đầu. Hoa xếp 3 – 6 cái thành tán trên một cuống hoa chung ở nách lá. Quả mọng hình cầu, màu đen, to bằng hạt đậu dính trên những cuống quả phồng lên. Ra hoa tháng 5-7.

Bộ phận dùng: Rễ, vỏ lá – Radix, Cortex et Folium Litseae Glutinosae.

Nơi sống và thu hái: Loài của Ấn Độ, Trung Quốc, Philippin, Việt Nam. Ở nước ta, cây mọc ở bờ rào, rừng còi, khắp nơi từ Lạng Sơn đến An Giang. Có thể thu hái vỏ cây và lá quanh năm nhất là vào mùa hè – thu. Rễ đào về, rửa sạch, thái nhỏ rồi phơi khô; vỏ cây và lá thường dùng tươi.

Thành phần hoá học: Tất cả các bộ phận của cây đều chứa một chất nhầy.

Tính vị, tác dụng: Bời lời có vị ngọt, đắng, se, tính mát; có tác dụng tiêu viêm, chống sưng, cầm máu, giảm đau.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Rễ dùng trị: 1. ỉa chảy, viêm ruột; 2. Viêm tuyến mang tai, nhọt ở da đầu; 3. Chấn thương bầm giập; 4. Đái tháo đường. Liều dùng rễ 15-30g, dạng thuốc sắc. Vỏ và lá dùng giã nát đắp trị viêm tuyến mang tai, đinh nhọt, viêm mủ da, viêm vú, ngoại thương và vết thương chảy máu. Vỏ cũng có thể dùng như rễ để chữa lỵ, đi tả và dùng ngoài chữa sưng vú, sưng bắp chuối.

Bời lời thon

Bời lời thon – Litsea lancifolia (Roxb. ex Nees). Hook, f., thuộc họ Long não – Lauraceae.

Mô tả: Cây nhỏ hay cây gỗ nhỏ; nhánh có nhiều lông mịn màu nâu. Lá mọc đối, phiến lá thon hẹp dài cỡ 14 cm, rộng cỡ 3cm, có lông ở gân chính mặt trên và trên các gân mặt dưới; cuống 5-7 mm. Cụm hoa xim co ở nách lá, cuống chung 5-7mm, bao chung có 4 lá bắc có lông. Hoa 5, mỗi hoa có 6 mảnh bao hoa; hoa đực có 9 nhị; hoa cái có 6 nhị lép, 3 tuyến và bầu không lông. Quả mọng to 6-9mm. Hoa tháng 7.

Bộ phận dùng: Vỏ cây – Cortex Litseae Lancifoliae

Nơi sống và thu hái: Loài của Việt Nam, Nam Trung Quốc. Ở nước ta, cây mọc ở rừng Vĩnh Phú, Hoà Bình, Nghệ An, Bình Định, Kontum, Gia Lai, Ninh Thuận. Có thể thu hái vỏ quanh năm.

Thành phần hoá học: Vỏ chứa laurotetanine.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Ấn Độ, vỏ cây được dùng làm thuốc đắp trị bong gân và các vết thương.

Bệnh huyết thanh – Nguyên nhân, triệu chứng, điều trị

Tên khác: bệnh của huyết thanh.

Định nghĩa

Bệnh dị ứng xảy ra một hoặc hai tuần sau khi tiêm huyết thanh có nguồn gốc động vật (huyết thanh khác loài) hoặc sau khi dùng một số thuốc; có nổi ban, sốt, đau khớp và đôi khi bị sưng hạch bạch huyết.

Căn nguyên

Có những thể sau:

  1. Huyết thanh có nguồn gốc dộng vật (huyết thanh khác loài): huyết thanh kháng bạch hầu, huyết thanh kháng nọc độc (rắn, bọ cạp, nhện), huyết thanh kháng lympho thường là huyết thanh động vật (phần nhiều là ngựa). Việc sản xuất ra các globulin miễn dịch đặc hiệu của người đã làm giảm rõ rệt nguy cơ xuất hiện tai biến huyết thanh.
  2. Thuốc: các penicillin, cephalosporin có thể gây ra các phản ứng kiểu bệnh huyết thanh. Hiếm gặp hơn là do sulfamid, streptomycin, một số hormon polypeptid, các sulfonyl urê, các dẫn xuất thiazid.

Bệnh sinh

Bệnh huyết thanh là điển hình của bệnh do phức hợp miễn dịch lưu hành gây ra. Các kháng thể kháng huyết thanh xuất hiện sau khi tiêm huyết thanh từ 5 đến 6 ngày. Các kháng thể này kết hợp với kháng nguyên, đồng thời lượng bổ thể giảm. Sự tạo thành các phức hợp miễn dịch thường có kèm theo các tổn thương viêm (hồng ban, viêm khớp, viêm mạch, viêm thận) do các phức hợp miễn dịch gắn vào thành mạch máu. Nguy cơ mắc bệnh huyết thanh tỷ lệ với liều huyết thanh tiêm vào. 1/3 số trường hợp dùng liều 30 ml huyết thanh (ba ống 10 ml) bị mắc bệnh huyết thanh.

Triệu chứng

  1. Sốt: xuất hiện 1-2 tuần sau khi bắt đầu điều trị. Thường sốt không cao, trong khoảng 38°c.
  2. Da: nổi mày đay, hồng ban đơn thuần, hồng ban dạng tinh hồng nhiệt, dạng sỏi, phù mạch, phù Quincke.
  3. Khớp: đau khớp thoáng qua, thường ở các khớp nhỏ ở bàn tay, . khớp thái dương-hàm hoặc đoạn sống cổ.
  4. Thần kinh: viêm thần kinh hoặc viêm đa thần kinh ở đám rối cánh tay, tối các đốt tuỷ C5 và C6, có khi tiến triển thành teo cơ. Rất hiếm khi viêm dây thần kinh thị giác.
  5. Triệu chứng khác: sưng nhiều hạch, lách to. Viêm mũi, viêm phế quản, hen. Thiểu niệu, albumin niệu, đái ra máu vi thể và trụ niệu. Rất hiếm khi tiến tới suy thận. Viêm cơ tim. Rối loạn kiểu viêm đại tràng, đau bụng, tiêu chảy.

Tiên lượng

Bệnh huyết thanh tự khỏi sau vài ngày. Hiếm gặp các thể kéo dài hoặc tái phát. Chỉ có viêm dây thần kinh cánh tay là có thể để lại di chứng.

Điều trị

  1. Thuốc kháng histamin Hl. Acid acetyl salicylic nếu có đau khớp.
  2. Corticoid liều thường dùng trong 7 -10 ngày tuỳ theo bệnh nặng hay nhẹ, có biến chứng hay không có (viêm đa thần kinh, viêm cơ tim).

Phòng bệnh

Người có tiền sử bị dị ứng có nguy cơ cao bị bệnh huyết thanh khi được tiêm huyết thanh ngựa hoặc của động vật khác. Các phản ứng bì thường cho phép tiên đoán trước bệnh nhân có quá mẫn typ I (sớm, kiểu phản vệ) nhưng không tiên đoán được phản ứng typ III là kiểu gây ra bệnh huyết thanh.

Trước khi tiêm huyết thanh khác loài cẩn phải làm như sau:

  • Test bì bằng cách rạch da: dùng huyết thanh pha loãng 1/10. Nếu âm tính sau 10 phút thì làm test nội bì.
  • Test bì: tiêm 0,02 – 0,05 ml huyết thanh pha loãng 1/10 trong dunh dịch sinh lý (pha loãng 1/100 đến 1/1000 nếu chắc chắn đã từng bị dị ứng). Tiêm mũi đối chứng chỉ có dung dịch sinh lý. Nếu test là âm tính thì có thể tiêm huyết thanh theo các chỉ dẫn của nhà sản xuất. Nếu quanh chỗ tiêm làm test có nổi đỏ kiểu mày đay rộng trên 5 mm thì bệnh nhân có dị ứng kiểu phản vệ. Cần phải giải mẫn cảm ngay.
  • Giải mẫn cảm nhanh: phương pháp Besredka: cứ 15 phút lại tiêm 1/10 ml huyết thanh. Nếu không có phản ứng nào xuất hiện sau 15 phút thì lại tăng liều lên gấp đôi (1/4 ml), rối tiêm nốt liều còn lại. Trong trường hợp truyền tĩnh mạch, pha loãng 10 ml huyết thanh trong 500 ml dung dịch glucose hoặc dung dịch muối. Điều chỉnh tốc độ truyền theo phản ứng của bệnh nhân, cần phải có trong tay phương tiện và thuốc men cần thiết, nhất là adrenalin, để phòng trường hợp bị sốc phản vệ.
  • Cách dùng huyết thanh: đường dưới da là đường kinh điển nhưng nên pha loãng huyết thanh (một ống huyết thanh pha trong 500 ml dung dịch glucose hoặc muối) và truyền theo đường tĩnh mạch vì có thể kiểm soát được liều một cách nhanh chóng trong trường hợp bị tai biến dị ứng.