Trang chủBệnh thần kinhViêm tủy cấp (Myelitis acuta)

Viêm tủy cấp (Myelitis acuta)

Ở thế kỷ thứ XIX, hầu hết các bệnh ở tủy sống đều được gọi là viêm tủy. Morton Prince, đã viết trong Dercum’s textbook of nervous diesease năm 1895, đề cập tới viêm tủy chấn thương, viêm tủy chèn ép… Cùng với thời gian, sự hiểu biết về bệnh sinh thần kinh đã có nhiều bước tiến bộ, các bệnh lý về tổn thương tủy do các nguyên nhân khác bị loại bỏ ra khỏi bảng phân loại này và chỉ còn lại thuật ngữ viêm tủy. Nhưng cho đến ngày nay sự liên quan giữa viêm và nhiễm trùng còn chưa rõ ràng. Một vài virut chậm khác thường có thể phá huỷ các tế bào thần kinh nhưng không xuất hiện các tế bào viêm. Ngày nay trong thực tế thuật ngữ bệnh tủy (myelopathy) hay được dùng hơn.

Thuật ngữ:

Tủy sống là khu vực của 1 số quá trình viêm, một số căn nguyên tập trung phá huỷ các neuron, số khác tham gia vào màng và chất trắng hoặc đưa đến hoại tử cả chất xám và chất trắng. Thuật ngữ được chấp nhận hiện tại cho tất cả các bệnh lý tủy này là “bệnh tủy” (myelopathy). Ngoài ra còn có một số thuật ngữ chuyên biệt khác được sử dụng để chỉ ra chính xác hơn sự phân bố của quá trình viêm như sau:

  • Nếu tổn thương giới hạn ở chất xám là viêm tủy xám (poliomyelitis).
  • Tổn thương ở chất trắng là viêm tủy trắng (leucomyelitis).
    • Toàn bộ khu vực cắt ngang của tủy đều bị tổn thương được gọi là viêm tủy ngang (myelitis transversa).
    • Nếu tổn thương ở nhiều nơi và lan rộng quá phạm vi chiều dài là viêm tủy rải rác (difuse hoặc disseminated myelitis).
  • Thuật ngữ meningomyelitis là dùng trong trường hợp có sự phối hợp của viêm màng tủy và tủy sống.
    • Có thể phối hợp viêm tủy sống với viêm dây thần kinh thị giác. Gọi là viêm tủy thị thần kinh (neuromyelitis optica).
    • Các dạng bệnh lý viêm tủy cấp còn có thể phối hợp 1 số ổ viêm đồng thời có ở tủy sống và ở trong não – gọi là viêm não-tủy cấp tính (encephalomyelitis acute).
  • Có thể phối hợp viêm tủy với viêm rễ thần kinh tủy sống (myeloradiculite).
  • Một dạng viêm tủy đặc biệt khác là viêm tủy leo (liệt leo Landry).

Khái niệm về thể bệnh:

  • Viêm tủy cấp được đề cập khi các triệu chứng bệnh xuất hiện nhanh và đạt giai đoạn toàn phát trong vòng vài ngày.
  • Bán cấp là bệnh tiến triển trong khoảng thời gian từ 2 đến 6 tuần
  • Viêm tủy mạn tính với thời gian hơn 6 tuần kể từ khi khởi phát tới khi phát triển đầy đủ bệnh cảnh lâm sàng.

Nguyên nhân:

Viêm tủy cấp bao gồm những tổn thương cấp tính ở tủy sống, có thể là tiên phát hoặc thứ phát, do virut hoặc vi khuẩn gây nên.

+ Nhiễm khuẩn:

  • Tiên phát: virut dại, poliovirut, ARBO-virut
  • Thứ phát: do virut bạch hầu, cúm, sởi, vi khuẩn lị, phế cầu, tụ cầu, liên cầu, hoặc do các bệnh nhiễm trùng phức tạp khác như xoắn khuẩn giang mai, thương hàn, lỵ và các loại nhiễm khuẩn huyết khác gây nên.

+ Nhiễm độc: arsen, chì, thủy ngân và các kim loại nặng khác.

Đặc điểm tổn thương:

  • Hình ảnh tổn thương bệnh lý theo quá trình tiến triển của bệnh gồm 3 giai đoạn:
  • Nhũn tủy đỏ: Giai đoạn bắt đầu của viêm, biểu hiện xung huyết phù nề tủy, giãn mạch, xuất huyết nhỏ, những tế bào thần kinh bị tổn thương tan nhân, tạo không bào, vỡ tế bào. Các sợi trục bị huỷ myelin. Về mặt điều trị chỉ có thể làm tủy hồi phục ở giai đoạn nhũn tủy đỏ.
  • Nhũn tủy trắng:

Các tế bào và tổ chức thần kinh bị hoại tử, tế bào thần kinh bị phá vỡ hàng loạt, sợi trục bị phá huỷ.

  • Xơ hoá:

Tổ chức thần kinh bị hoại tử được thay bằng tổ chức xơ, xen kẽ các tế bào thần kinh đệm. Đây là sự sẹo hoá ở vị trí tổ chức tủy bị tổn thương.

Viêm tủy ngang cấp

Viêm tủy ngang cấp (VTNC) là thể lâm sàng thường gặp nhất của viêm tủy cấp. Trong thực tế thường hay gặp viêm tủy ngang ở đoạn tủy phình thắt lưng, đoạn tủy ngực, rất ít khi gặp ở đoạn tủy cổ.

Nguyên nhân chủ yếu tiên phát do virut cũng có thể thứ phát nhưng hiếm (sau cúm, sởi…).

Lâm sàng:

Hội chứng nhiễm khuẩn:

Bệnh thường khởi phát cấp tính bằng hội chứng nhiễm khuẩn. Sốt cao ở các mức độ khác nhau (tuy nhiên cũng có trường hợp sốt không rõ) kèm theo đau các dây thần kinh ở khu vực bị viêm, đau lan trong khoanh đoạn da do rễ thần kinh của các khoanh tủy đó chi phối. Sau một vài ngày xuất hiện triệu chứng thần kinh khu trú.

  • Hội chứng tổn thương thần kinh khu trú:

Tuỳ theo khu vực tủy bị tổn thương mà có những triệu chứng tương ứng, dấu hiệu lâm sàng phát triển điển hình của 1 tổn thương cắt ngang tủy sống.

  • Rối loạn vận động: kiểu đường dẫn truyền, liệt phần cơ thể dưới mức tủy tổn thương, giai đoạn đầu liệt mềm (đặc điểm quan trọng). Trương lực cơ phần chi liệt giảm. Giai đoạn sau chuyển sang liệt cứng.
  • Rối loạn về phản xạ: phản xạ gân xương mất (tương ứng phần chi liệt). Phản xạ da bụng mất.
  • Rối loạn cảm giác: mất cảm giác kiểu đường dẫn truyền, mất toàn bộ các loại cảm giác dưới khoanh tủy tổn thương, ngay trên vùng tổn thương mất cảm giác là vùng tăng cảm.
  • Rối loạn cơ vòng: thường xuất hiện sớm ở đa số bệnh nhân biểu hiện là bí đái, đái khó, đến khi liệt nặng chuyển sang đái dầm.
  • Rối loạn dinh dưỡng, thực vật: bệnh nhân có rối loạn dinh dưỡng trầm trọng ở khu vực bị tổn thương, biểu hiện lâm sàng là loét mục điểm tỳ sớm, loét rộng, sâu và rụng lông tóc.

Tất cả các triệu chứng trên chứng tỏ tính chất của 1 liệt mềm là hậu quả của 1 giai đoạn sốc tủy nặng nề.

Xét nghiệm:

  • Dịch não tủy: nhiều trường hợp không thay đổi đáng kể, một số có biểu hiện tăng albumin, bạch cầu N,
    • Máu: có thể tăng tốc độ máu lắng, thay đổi công thức bạch cầu.
    • Cấy khuẩn: cấy DNT hoặc cấy máu ít khi phân lập được vi khuẩn.
  • Chẩn đoán huyết thanh đặc hiệu cũng ít trường hợp xác định được rõ loại virut gây bệnh.

Chẩn đoán:

Chẩn đoán viêm tủy ngang cấp cơ bản dựa vào lâm sàng.

Chẩn đoán định khu căn cứ vào các triệu chứng thần kinh (rối loạn vận động, cảm giác…).

Chẩn đoán phân biệt.

  • Phân biệt với rối loạn tuần hoàn tủy:

Có trường hợp viêm tủy cấp khởi phát đột ngột bằng liệt hai chân, rối loạn cảm giác và rối loạn cơ vòng kiểu đột quỵ tủy sống, vì vậy cần chẩn đoán phân biệt với tắc động mạch tủy sống. Sự kiện này thường chỉ xảy ra ở khu vực của

động mạch tủy sống trước. Động mạch này cung cấp máu cho 2/3 trước của tủy, tự nuôi dưỡng chỉ bằng một số nhánh mạch máu rất hạn chế. Trong khi động mạch tủy sống sau được cung cấp bởi số lượng nhánh mạch máu ở nhiều mức khác nhau. Hội chứng động mạch tủy trước thường xảy ra do tắc một trong những mạch nuôi. Bệnh thường xảy ra ở người huyết áp cao, vữa xơ động mạch, chấn thương, chụp động mạch……

Bệnh cảnh lâm sàng điển hình là khởi phát cấp tính biểu hiện là: liệt, mất phản xạ, giai đoạn sốc tủy sẽ hết sau một vài ngày hoặc tuần, tiến triển thành liệt mềm với phản xạ gân xương nhậy và phản xạ da gan chân đảo ngược. Thêm vào đó, rối loạn cảm giác phân ly (mất cảm giác đau, nhiệt độ, nhưng còn cảm giác sâu và cảm giác tư thế vì cột sau được nuôi dưỡng bởi động mạch tủy sống sau).

  • Phân biệt với u tủy:

Có thể viêm tủy giả u, triệu chứng thần kinh tiến triển nặng dần lên, nhưng trong u tủy tiến triển chậm hơn.

Đau là bệnh cảnh nổi bật – ở nhiều bệnh nhân bệnh khởi phát bất thường với các triệu chứng của một tổn thương ngoại tủy như đau rễ, đau khu trú ở lưng, hoặc đau lan toả ở một chi và với đặc tính tăng lên khi ho hoặc kéo căng rễ.

Rối loạn vận động có thể xảy ra, liệt cứng sớm. Loét muộn và nhẹ hơn.

Có nghẽn tắc lưu thông DNT, xét nghiệm DNT có phân ly albumin – tế bào. Chụp tủy cản quang thấy vị trí tủy bị chèn ép.

  • Giang mai tủy sống:
  • Tổn thương: chủ yếu gây tổn thương cột sau tủy sống – (hay gặp là tổn thương bó Goll) và các rễ sau vùng tủy thắt lưng- cùng.
  • Triệu chứng lâm sàng: rối loạn cảm giác chủ quan và khách Đau là triệu chứng điển hình của bệnh. Tính chất của đau rất đặc biệt; bệnh nhân đau ở một vùng như kim nhọn châm chích, hoặc như điện giật , sét đánh, cơn đau xuất hiện tự nhiên hay do kích thích.
  • Rối loạn cảm giác khách quan chủ yếu hai chi dưới. Mất cảm giác sâu. Bệnh nhân đi bằng mắt, do đó khi không có ánh sáng bệnh nhân không thể đi lại được.
  • Giảm trương lực cơ và mất phản xạ gân xương (do tổn thương rễ sau của cung phản xạ khoanh tủy).
  • Rối loạn thần kinh thực vật.
    • Thay đổi trong dịch não tủy: tế bào tăng, protein tăng, chủ yếu là globulin
      • Xơ não – tủy rải rác:
    • Thuộc bệnh thoái hoá myelin, tổn thương biểu hiện rải rác ở não, tủy sống, ở não, ở tiểu não, dây thần kinh thị giác, bệnh tiến triển từng đợt một và rất hiếm gặp ở Việt Nam

Lâm sàng: bảng lâm sàng rất đa dạng, thường phối hợp mấy hội chứng sau: hội chứng tháp, hội chứng tiểu não, rối loạn cảm giác, rối loạn mắt và tiền đình.

Đặc biệt cần phân biệt là các trường hợp tổn thương bệnh lý khu trú ở tủy sống. Bệnh thường xuất hiện ở tuổi thanh và trung niên, diễn biến có tính chất tuần tiến. Có thể cả trong quá trình bệnh chỉ có triệu chứng liệt hai chi dưới.

Ngoài ra còn phân biệt với: chấn thương tủy sống; các bệnh lý của cột sống gây chèn ép tủy.

  • Dùng kháng sinh.
  • Dùng corticoid.
  • Vitamin nhóm B.

Điều trị:

  • Thuốc kích thích tăng cường dẫn truyền thần kinh (như nivalin).
  • Nuôi dưỡng: chú ý tăng thành phần đạm.
  • Chống loét: đệm lót điểm tỳ, trở mình 1 – 2 giờ một lần, lau sạch
  • Chống nhiễm trùng đường tiết niệu: không đặt sonde nếu bệnh nhân đái dầm, nếu bệnh nhân bí đái thì cho đặt sonde 2 -3 ngày rút ra, cho bệnh nhân tập đi tiểu tiện, dẫn lưu nước tiểu kín, vô trùng. Nếu đã nhiễm khuẩn bàng quang phải rửa bằng rivanol 1‰ hoặc dung dịch thuốc tím 4‰.
  • Tập vận động, châm cứu, xoa bóp, điều trị lý liệu.

Tiến triển và tiên lượng:

Nếu điều trị sớm, tích cực, săn sóc hộ lý tốt thì bệnh nhân có thể hồi phục một phần. Đã có trường hợp có di chứng bại hoặc liệt hai chi dưới, rối loạn cơ vòng

hồi phục tốt, nhưng cũng có trường hợp không hồi phục được. Những bệnh nhân tử vong là do suy kiệt và bội nhiễm.

Viêm tủy leo cấp (hội chứng Landry).

Viêm tủy leo cấp – Landry có đặc điểm lâm sàng khởi phát giống viêm tủy ngang cấp, nhưng tiến triển nhanh chóng hàng ngày hàng giờ lan dần từ thấp lên cao và có thể tổn thương lên hành não, gây tử vong nhanh do suy thở, truỵ tim mạch.

Tiên lượng dè dặt, tỷ lệ tử vong cao.

Lâm sàng:

Khởi phát thường tổn thương ở tủy lưng, với biểu hiện liệt mềm hai chi dưới, trong vòng một vài ngày liệt lên hai chi trên.

Bệnh nhân trở thành liệt mềm tứ chi, có thể thấy phản xạ bệnh lý bó tháp ở hai chi dưới. Mức độ mất cảm giác cũng lan dần từ chân lên bụng, ngực, lên chi trên và lên cổ. Rối loạn cơ vòng kiểu trung ương, lúc đầu thường là bí đái, tiểu tiện sau đái dầm ngắt quãng. Đôi khi tổn thương hai bên tủy không đồng đều, bên này nặng hơn bên kia hoặc sớm hơn bên kia, tạo nên hội 1 chứng kiểu Brown- Séquard.

Sau đó bệnh tiếp tục tiến triển, bệnh nhân đau ở cổ, gáy rồi liệt các cơ ở cổ, biểu hiện tổn thương dây thần kinh hoành, khó thở, tổn thương nhân dây thần kinh IX, X, XII, biểu hiện: nói khó, nghẹn, sặc, mất phản xạ họng – hầu, liệt vận động lưỡi. Cuối cùng rối loạn nhịp tim và bệnh nhân tử vong do truỵ tim mạch.

Mức độ liệt và rối loạn cảm giác lúc đầu càng nặng thì tiến triển càng nhanh và tiên lượng càng xấu, bệnh nhân có thể chết trong vài ngày.

Những trường hợp nhẹ mức độ tổn thương không nặng được cứu chữa kịp thời, bệnh nhân không tử vong, sau 10 – 15 ngày bắt đầu triệu chứng hồi phục một phần. Đa số để lại di chứng, thường để lại di chứng bại hoặc liệt cứng hai chi dưới, ở chi trên có thể phục hồi tốt hơn, có thể còn di chứng liệt hai chi dưới kiểu trung ương kết hợp bại hai chi trên hoặc một chi trên kiểu ngoại vi (do tổn thương ở phình cổ), biểu hiện liệt mềm, teo cơ, mất phản xạ gân xương. Hiếm gặp liệt ngoại vi ở hai chi dưới (tổn thương phình thắt lưng).

Rối loạn cơ vòng có thể được phục hồi, bệnh nhân đại tiểu tiện chủ động được. Rất hiếm trường hợp hồi phục hoàn toàn không để lại di chứng gì.

Điều trị:

Như viêm tủy ngang cấp. Điều cần chú ý ở đây là phát hiện sớm thể bệnh này, khi có khó thở thì phải hỗ trợ hô hấp kịp thời, hồi sức tích cực cho bệnh nhân.

Viêm tủy thị thần kinh (bệnh Devic).

Là 1 thể đặc biệt của viêm tủy ngang cấp. Biểu hiện của viêm kết hợp dây thần kinh thị giác với viêm tủy ngang. Thể bệnh này về lâm sàng, phát triển và điều trị tương tự như viêm tủy ngang cấp.

Tổn thương đặc hiệu:

Là thoái hoá bao myelin của sợi thần kinh, gặp ở dây thần kinh thị giác chủ yếu ở giao thoa thị giác. Trong nhiều trường hợp đây là giai đoạn đầu của biểu hiện xơ não tủy rải rác.

  • Tổn thương bất cứ nơi nào của tủy sống, nhưng phổ biến nhất là tủy sống ngực.

Lâm sàng:

Khởi phát tương đối đột ngột, triệu chứng giảm thị lực và liệt 2 chi dưới có thể cùng xuất hiện, hoặc triệu chứng thị giác xuất hiện trước chừng vài ngày hay vài tuần.

Rối loạn thị giác được biểu hiện bằng tự nhiên giảm thị lực ở 1 hay cả 2 bên, thường có ám điểm trung tâm và thu hẹp thị trường. Gai thị có hiện tượng phù viêm. Giảm thị lực từ nhẹ tới mù hẳn với tốc độ tương đối nhanh.

Sau 1 – 2 ngày hoặc 1 tuần có triệu chứng cắt ngang tủy sống, có triệu chứng rối loạn vận động và rối loạn cảm giác kiểu đường dẫn truyền, rối loạn cơ vòng.

Có thể có triệu chứng về não: đau đầu, rối loạn ý thức nhẹ, có thể có co giật kiểu

động kinh, có khi là động kinh tủy sống (co cứng 2 chi dưới, đau đớn).

Xét nghiệm:

Xét nghiệm DNT: đa số là trong giới hạn bình thường, số ít có tăng albumin nhẹ.

Tiến triển:

Kết quả điều trị tương đối khả quan. Sự hồi phục trước tiên là dây thần kinh thị giác dưới tác dụng của cocticoid. Một số để lại di chứng giảm thị lực, teo gai thị.

Viêm tủy xám cấp (bệnh bại liệt).

Con người đã biết bệnh viêm tủy xám từ hàng thế kỷ nay. Năm 1840, Jacob Heine đã mô tả bệnh cảnh lâm sàng đầu tiên. Năm 1890, Medin đã bổ sung những hiểu biết về dịch tễ học của bệnh. Đầu thế kỷ XX Landsteiner, Popper, Flexner, Levis đã xác định được bệnh do virut gây ra. Ngày nay người ta đã biết virut gây bệnh bại liệt là polio virut.

+ Đặc điểm của virut bại liệt:

Có ái tính cao với tế bào thần kinh vận động (nhất là những tế bào thần kinh vận động lớn), phá huỷ tế bào thần kinh ở sừng trước tủy sống và thân não, phân huỷ chất nhiễm sắc và tồn tại trong tế bào dưới dạng bào quan ưa axit và gây hoại tử tế bào. Chúng có thể kéo theo viêm màng tủy vùng kế cận. Virut bại liệt còn có thể xâm lấn tấn công tế bào sừng sau tủy sống, các tế bào hạch thần kinh và các tổ chức thần kinh trung ương (nhưng rất hiếm).

+ Đường xâm nhập: virut bại liệt xâm nhập vào cơ thể qua đường miệng, chúng sinh sản ở họng, ruột và tổ chức lympho của Amidal, sau đó vào hạch cổ và mạc treo ruột rồi vào máu (thời gian chúng ở trong máu rất ngắn). Vào giai đoạn này chúng không gây triệu chứng lâm sàng. Sau đó chúng xâm nhập vào tổ chức thần kinh bằng con đường nào thì ý kiến của các tác giả còn chưa thống nhất. Đa số các tác giả cho rằng có hai con đường xâm nhập là qua hàng rào mạch máu – não và qua xinap thần kinh – cơ.

Dịch tễ:

Bệnh lưu hành trên khắp thế giới, nhất là các vùng nóng, có thể xảy ra vào mọi thời kỳ nhưng thường vào cuối hạ sang thu.

Có thể xảy ra lẻ tẻ (sporadic), địa phương (endemic) nhưng cũng có thể xảy ra thành dịch (epidemic).

Tuổi rất hiếm gặp dưới 6 tháng tuổi; thường gặp trong giai đoạn 5 – 10 tuổi. Nhưng nói chung có thể gặp ở mọi lứa tuổi.

ở Việt Nam trong vòng 10 năm từ năm 1979 đến 1988, tình hình bại liệt trẻ em đã giảm xuống khá nhiều, tuy nhiên tỷ lệ mắc bệnh vẫn tương đối cao. Đặc biệt ở miền Nam cao khoảng gấp 10 lần hơn ở miền Bắc. Mặc dù tỷ lệ tử vong do bại liệt không lớn lắm nhưng điều quan trọng hơn là các di chứng thần kinh rất khó hồi phục về mặt vận động nên chiến lược của Tổ chức Y tế thế giới là tiến tới thanh toán bệnh này trên toàn thế giới.

Lâm sàng:

Bệnh khởi đầu giống nhiễm khuẩn cấp. 25% trường hợp các triệu chứng khởi phát mất đi sau 36 – 48 giờ, sau đó bệnh nhân thấy sức khoẻ hồi phục 2 – 3 ngày. Tiếp theo là sốt đợt 2 kèm theo hội chứng màng não, đau đầu tăng dần, đau cơ xuất hiện và thường khu trú ở gáy và thắt lưng. Có thể có rối loạn ý thức nhẹ. Thường sau khi có triệu chứng thần kinh đầu tiên 3 – 5 ngày thì liệt xuất hiện. Nhưng cũng có khi liệt là triệu chứng thần kinh xuất hiện đầu tiên hoặc rất muộn (sau 2- 3 tuần). Tổn thương vận động tiến triển nhanh trong vòng 3 – 5 ngày. Liệt thường khu trú ở tứ chi, cũng có khi cơ thân cũng tổn thương. Những trường hợp nặng các cơ hô hấp và cơ hoành cũng bị liệt. Thông thường triệu chứng sốt tồn tại 4 – 7 ngày, sau đó thân nhiệt giảm dần và trở về bình thường.

Xét nghiệm:

  • Dịch não tủy: Trong dịch não tủy thường thấy tăng tế bào, từ 10 – 200 bạch cầu/mm3, hiếm khi tới trên 500 bạch cầu/mm3. ở giai đoạn sớm của bệnh, tỷ lệ bạch cầu đa nhân đối với limpho thường cao nhưng chỉ trong vài ngày tỷ lệ đó sẽ đảo ngược. Protein não tủy tăng vừa, trung bình khoảng 40 – 50mg/100mm3 nhưng cũng có trường hợp mức protein tăng cao hơn nữa và tồn tại trong nhiều tuần. Còn lượng glucoza não tủy trong danh giới bình thường.
  • Phân lập virut:

Lấy phân của bệnh nhân ngay khi mới khởi phát và trong các thời gian tiếp theo. Người ta thường sử dụng nuôi tế bào của người hoặc của khỉ để theo dõi sự phát triển của virut bại liệt. Có thể phát hiện được virut bại liệt ở bệnh nhân trong vòng 2 tuần đầu với tỷ lệ 80% nhưng sang 2 tuần tiếp đó chỉ đạt được tỷ lệ 20%.

  • Huyết thanh học:

Các kháng thể trung hoà thường xuất hiện sớm và có thể phát hiện được ngay sau khi bệnh nhân vào viện. Cần lấy máu kép để thử phản ứng huyết thanh và qua đó đánh giá được hiệu giá kháng thể.

Chẩn đoán:

ở đa số các trường hợp chẩn đoán có thể dễ dàng, căn cứ vào liệt mềm tiến triển không đối xứng, thay đổi dịch não tủy. Trong những trường hợp không điển hình hoặc mới ở giai đoạn khởi phát, nếu bệnh nhân mới được tiêm chủng hoặc ở vùng đang có dịch cần sớm nghĩ tới viêm tủy xám.

Dịch não tủy thấy có tăng áp lực, tăng tế bào, tăng đạm nhẹ (nếu liệt nặng có thể tăng 1 – 3g/l). Lưu ý tế bào tăng sớm (trước khi liệt) và giảm nhanh, trong khi đó đạm tăng muộn và tồn tại nhiều tuần sau.

Điều trị:

Điều trị viêm tủy xám như điều trị viêm tủy ngang.

Hiện nay chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu nên cần phải điều trị triệu chứng. Vấn đề quan trọng là trong giai đoạn cấp, ngay tại giường bệnh đã phải đề phòng các biến dạng tư thế. ở các giai đoạn sau cần đẩy mạnh phục hồi chức năng.

Tiên lượng:

Gần 10% tử vong trong giai đoạn đầu của bệnh do suy thở, suy hô hấp và biến chứng phổi.

Thể có tổn thương hành não có tỷ lệ tử vong cao nhất (trên 50%).

Tiên lượng xấu nếu có liệt rộng, liệt tiến triển chậm và có các đợt gây liệt thêm các nhớm cơ mới.

Sự phục hồi phụ thuộc vào mức độ lan rộng và mức độ nặng nề của liệt.

Một số bệnh nhân có hội chứng postpolio biểu hiện bằng các triệu chứng: yếu cơ tái phát, teo cơ tiến triển và rung giật bó sợi cơ. Hay còn gọi là “teo cơ tiến triển sau viêm tủy xám”.

Phòng bệnh:

Cần sử dụng văcxin phòng bại liệt cho tất cả các trẻ em và trong các vụ dịch. Có hai loại vắcxin hiện nay: loại vắcxin bất hoạt với formalin và loại vắcxin Sabin.

Nước ta thường xuyên thực hiện chương trình tiêm chủng mở rộng phòng 6 bệnh phổ biến trong đó có bệnh bại liệt trẻ em.

Viêm não – tủy do tiêm văc-xin phòng bệnh dại.

Khi tiêm văc-xin phòng bệnh dại có thể gây nên viêm não – tủy. Triệu chứng thường xuất hiện sau khi tiêm lần cuối cùng và có thể sau khi tiêm văc-xin khoảng 1 – 2 tháng.

Có 3 thể lâm sàng chính:

  • Liệt leo cấp tính: bệnh cảnh giống như bệnh tủy leo cấp tính nêu ở trên. Bệnh nhân sốt, đau đầu, tăng kích thích sau 2 – 3 ngày xuất hiện liệt 2 chi dưới, sau đó liệt lên hai chi trên và liệt lên hành não, đe dọa tính mạng của bệnh nhân.
  • Thể viêm tủy thắt lưng: bệnh cảnh lâm sàng giống như viêm tủy ngang cấp.
  • Thể viêm nhiều dây thần kinh: biểu hiện hay gặp là tổn thương các dây thần kinh sọ não như dây VII, III, IV, V và các dây thần kinh như dây trụ, dây quay, dây thần kinh hông

Thường kèm theo các triệu chứng não chung như nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, nôn, co giật,v.v…

Một số thể viêm tủy cấp khác.

  • Viêm tủy cấp một phần:

Tổn thương không cắt ngang hoàn toàn tủy sống, do vậy triệu chứng lâm sàng biểu hiện không mất dẫn truyền của tủy sống một cách toàn bộ.

Nếu tổn thương ngang 1/2 tủy sống sẽ gây hội chứng Brown – Séquard. Bệnh nhân mất toàn bộ cảm giác sâu và tinh vi bên tổn thương và kèm theo liệt nửa người. Bên đối diện thì mất cảm giác nhiệt đau.

Tổn thương ở mép xám trước ở vùng phình cổ sẽ có biểu hiện phân ly cảm giác, mất cảm giác đau và cảm giác nóng, lạnh; còn xúc giác và cảm giác sâu, khu trú ở hai tay và nửa trên ngực hình cánh bướm.

  • Viêm sừng trước tủy cấp tính:

Virut xâm nhập chủ yếu vào đầu sừng trước tủy sống làm huỷ hoại các tế bào vận động của sừng trước.

Viêm sừng trước tủy sống cấp tính do virut bại liệt – bệnh bại liệt ở trẻ em là một thể bệnh điển hình. Ngoài ra viêm tủy do virut khác gây nên cả ở người lớn. Biểu hiện lâm sàng thần kinh giống như bệnh bại liệt, yếu liệt kiểu ngoại biên, liệt mềm, trương lực cơ giảm và dinh dưỡng rối loạn nhanh với phản ứng thoái hoá điện.

Tóm lại viêm tủy cấp hay có thể gọi là bệnh tủy cấp tính do nhiều nguyên nhân gây nên, có những thể lâm sàng khác nhau. Cần chú ý khám kỹ về thần kinh để chẩn đoán định khu và chẩn đoán xác định bệnh.Việc điều trị cần chú ý khâu săn sóc hộ lý phục vụ bệnh nhân.

Tài liệu tham khảo

  1. Đức Hinh (1993). Bệnh bại liệt trẻ Tập huấn về kỹ năng giám sát và xác định bệnh bại liệt. Chương trình tiêm chủng mở rộng thanh toán bệnh bại liệt quốc gia – Bộ Y tế.
  1. Nguyễn Xuân Thản (1996), Lâm sàng Thần kinh dùng cho sau Đại học, Học viện Quân Y
  2. Văn Thành (1984), Hội chứng và bệnh học thần kinh, Nhà xuất bản Y học.
  3. D.Adams, M.Victor, A.H.Ropper (1997), Principles of Neurology, International Edition.
  4. Barnett H.J.M., J.P.Mohr (1998), Spinal cord ischemia, Stroke, Churchill Livingstone, 751 – 766.
  5. Bradley W.G., Daroff R.B., Fenichei M., (1996). Neurology in clinical practice, Butterworth – Heinemann.
  6. Greenberg D.A., Aminoff J., Simon R.P. (1996), Motor deficits, Clinical Neurology, Appleton & Lange.
  7. Samuels M.A., (1999). Manual of neurologic therapeutics, Lippincott William & Wilkins.
Bài viết liên quan
Bài viết cùng danh mục

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây