Blog Trang 443

Thức ăn nào bổ tim?

Có người nói: “ăn tim bổ cho tim” “ăn gan bổ gan” “ăn thận bổ thận”, nói như vậy chỉ đúng một phần nhỏ, vì trong các cơ quan bộ phận đó có phần lớn các chất cần thiết cho sự cấu tạo và hoạt động của cơ thể, trong đó có tim; gan và thận. Cơ thể ta phát triển và hoạt động được là nhờ sự tiếp tế liên tục vào cơ thể các chất đạm, chất béo, chất bột, các chất sinh tố, muối khoáng, nước và dưỡng khí. Những thức ăn ta ăn hàng ngày có đủ các chất kể trên được tiêu hóa, bởi các men đặc biệt, cuối cùng ngấm vào máu, lọc qua gan, chảy vào nửa tim phải, lên phổi trao đổi khí, trở về nửa quả tim trái để đi nuôi cơ thể, trong đó có quả tim.

Vậy đối với người khỏe mạnh, thức ăn là các chất bổ cho toàn cơ thể mà mỗi cơ quan bộ phận chọn lọc lấy phần cần thiết cho nhu cầu cấu tạo, thay thế và hoạt động của cơ quan bộ phận đó.

Khi một cơ quan bộ phận nào bị bệnh, nó cần điều trị và làm việc điều độ hoặc nghỉ ngơi do đó những thức ăn nào không phù hợp, làm tăng thêm gánh nặng cho sự hoạt động của nó hoặc làm bệnh càng ngày càng nặng lên, đều phải cố gắng tránh, bỏ. Ví dụ đối với người mắc bệnh xơ vữa động mạch cần phải kiêng cữ những thức ăn có nhiều mỡ. Não, gan, thận, lòng đỏ trứng v.v… là những chất có chứa nhiều cholesterol, tránh ăn mặn, uống rượu, cà phê, thuốc lá và trà đậm v.v… Như vậy, đối với bệnh xơ vữa động mạch, các thức ăn kể trên không bổ cho hệ thống tim mạch vì nó có hại cho sự hoạt động của tim, và làm tăng sự phát triển của bệnh.

Tóm lại, không nên đặt vấn đề thức ăn nào bổ cho tim, mà nên hiểu rằng, các thức ăn có đủ chất, không có hại cho sự hoạt động của tim, không bắt nó phải làm việc nhiều và không làm cho bệnh nặng lên thì có thể coi như những thức ăn đó bổ thực sự cho tim trong hoàn cảnh và điều kiện cụ thể hiện tại.

SIÊU ÂM CHẨN ĐOÁN THÔNG LIÊN THẤT 

  1. Siêu âm TM:

Đo một số thông số sau:

– Đường kính nhĩ trái (LA)

– Đường kính gốc ĐMC (Ao)

– Đường kính thất trái cuối tâm trương (LVDd)

– Đường kính thất trái cuối tâm thu (LVDs)

– Bề dày vách liên thất tâm trương (IVSd)

– Bề dày thành sau thất trái cuối tâm trương (LVPWd)

– Đường kính thất phải cuối tâm trương (RVDd)

Từ đó tính:

  • Chỉ số co ngắn sợi cơ (%D)

%D = (Dd – Ds) / Dd

  • Phân số tống máu thất trái (% EF)

EF = (Vd – Vs) /Vd

Trong đó:    Vd: Thể tích thất trái cuối tâm trương

Vs: Thể tích thất trái cuối tâm thu

Vd và Vs máy tự động tính (dựa theo Dd, Ds theo công thức teicholz).

  1. Siêu âm 2D.

2.1. Vị trí lỗ thông (phối hợp với màu và Doppler)

2.1.1. Phần màng (Quanh màng): (Subaortic, infracristal, membranous, Perimembranous…).

– Mặt cắt trục dài cạnh ức trái.

– Mặt cắt 5 buồng từ mỏm.

– Mặt cắt 5 buồng từ dưới sườn

– Mặt cắt trục ngắn cạnh ức trái mức qua van ĐMC.

2.1.2. Phần cơ bè (Trabecular, phần cơ, muscular, central, Apical, Marginal).

– Mặt cắt trục dài cạnh ức trái.

– Mắt cắt 4 buồng, 5 buồng từ mỏm (lệch)

– Mặt cắt 4 buồng, 5 buồng từ mỏm.

2.1.3. Phần buồng nhận (kiểu TSNT, inlet, kiểu dưới van 3 lá…).

– Mặt cắt 4 buồng từ mỏm (nghiêng về phía sau)

– Mặt cắt 4 buồng dưới sườn

– Mặt cắt trục ngắn cạnh ức qua van 2 lá

– Mặt cắt trục ngắn cạnh ức qua thất (T).

2.1.4. Phần buồng thoát (outlet, phần phễu, conal (nón) Supracristal (trên mào) subpulmonary (dưới van ĐMP), Doubly comitted (dưới 2 van ĐM, Subarterial (dưới van ĐM).

– Trục ngắn cạnh ức trái qua van ĐMC (12h -> 3h)

– Trục dài cạnh ức nghiêng về phía đường ra thất phải.

– Trục ngắn mức van ĐMC (12h -> 3h)

+ Malalignment: lỗ thông ở vị trí giữa phần buồng thoát và phần vách cỏ bè. Đây là thể thường thấy trong TOF, thân chung ĐM.

2.2. Xác định kích thước lỗ thông.

– Cách đo: Đo vào thời kỳ đầu tâm thu hoặc cuối tâm trương, ở vị trí rõ  nhất, kết hợp với S/A màu.

– Cách phân loại:

+ Theo diện tích cơ thể.

Lỗ TLT nhỏ d < 5mm/m2, trung bình: 5 – 9 mm/m2, lớn > 9 mm/m2.

+ Theo sự so sánh với ĐMC.

Với gốc:

– Lỗ thông nhỏ < 1/3 đường kính gốc ĐMC.

– Lỗ thông trung bình: 1/3 -> 2/3 đường kính gốc ĐMC.

– Lỗ thông lớn: > 2/3 hoặc gần bằng gốc ĐMC

* Siêu âm Doppler (phối hợp PW, CW và S.A màu).

– Nhỏ (Restrictive): < 0,5 cm2, < 50% vòng van ĐMC.

– Trung bình: (0,5 – 1,0 cm2) = 50 – 100% vòng van ĐMC.

– Lớn (Unrestrictive): (> 1,0 cm2). Lớn hơn 100% vòng van ĐMC.

  1. Siêu âm Doppler.

3.1. Đánh giá các biến đổi huyết động chính.

3.1.1. Xác định shunt, hướng shunt qua lỗ thông.

(Dựa vào màu Doppler xung, liên tục)

– Trong TLT có dòng chảy rối tâm thu khi đặt cửa sổ Doppler ở phía thất phải của lỗ TLT và phổ Doppler là phổ (+).

– Doppler xung rất nhạy trong việc xác định luồng Shunt qua lỗ thông bị đảo chiều.

3.1.2. Xác định độ lớn của Shunt:

3.1.2.1. Xác định lưu lượng Shunt: Bằng cách tính tỷ lệ lưu lượng dòng chảy qua van ĐMP (Qp) và lưu lượng dòng chảy qua van ĐMC (Qs).

– Thăm dò dòng chảy qua van ĐMP (Qp): thiết đồ cắt ngang cạnh ức trái ở mức van ĐMC, đặt cửa sổ Doppler ở ĐRTP sao cho phổ Doppler qua van ĐMP rõ nhất, đẹp nhất.

– Thăm dò dòng chảy qua van ĐMC (QS): mặt cắt 5 buồng tim từ mỏm, cửa sổ Doppler đặt ở ĐRTT ngang với vòng van ĐMC.

Q = VTI x (d/2)2 x p x HR

VTI: tích phân theo thời gian của vận tốc dòng chảy qua van ĐMC (hoặc van ĐMP) (cm).

d: đường kính đường ra thất phải (hay thất trái) do trên 2D (mm).

HR: tần số tim/phút.

Q: lưu lượng dòng chảy qua van ĐMC (hay ĐMP) bình thường Qp/Qs =1, trong TLT Qp/Qs > 1.

3.1.2.2. Đo chênh áp giữa thất trái và thất phải qua lỗ TLT.

3.1.2.3. Ước tính áp lực tâm thu động mạch phổi:

Dựa vào:

* Chênh áp thất trái, thất phải (qua TLT).

– Đo chênh áp TLT bằng mặt cắt trục dài cạnh ức trái.

ALTTĐMP = HA – PGmax TT/TP

Trong đó:

ALTTĐMP: áp lực tâm thu ĐMP

HA: Huyết áp tâm thu của bn đo ở cánh tay.

PGmax TT/TP: chênh áp tâm thu tối đa giữa thất trái và thất phải.

PGmax TT/TP = 4V2 (V là vận tốc tối đa dòng Shunt qua lỗ TLT).

* Dựa vào phổ hở van 3 lá (chênh áp TP, NP).

– Đo phổ hở van 3 lá trên mặt cắt 4 buồng từ mơm, hoặc trục ngắn cạnh ức trái.

ALTTĐMP = PGmax TP/NP + PNP

Trong đó: PGmax TP/NP = 4V2 (V là vận tốc tối đa dòng hở van 3 lá)

Pnp = áp lực nhĩ phải

(Thuỳ theo tình trạng suy tim từ 5 -> 15-20mmHg).

* Dựa vào phổ hở van ĐM phổi.

– Đo phổ hở van DMP bằng mặt cắt trục ngắn cạnh ức trái, mức van ĐMC PGmax đầu tâm trương + 10mgHg = áp lực trung bình (ALTB)

PGmax cuối tâm trương + 10mmHg = áp lực tâm trương (ALTTR)

ALTT (ĐMP) = 3ALTB – 2ALTTR

3.2. Đánh giá chức năng tâm trương thất trái: (Thăm dò dòng chảy qua van 2 lá).

– Mặt cắt 4 buồng từ mỏm:

Đo các thông số sau:

  1. Vận tốc dòng đổ đầy đầu tâm trương (VE) cm/s
  2. Vận tốc dòng đổ đầy cuối tâm trương (VA) cm/s
  3. Tỷ lệ VE/VA
  4. Tích phân vận tốc theo thời gian sóng E (VTIE) cm
  5. Tích phân vận tốc theo thời gian sóng A (VTIA) cm
  6. Tích phân vận tốc theo thời gian của dòng chảy toàn tâm trương (VTI) cm
  7. Tỷ lệ VTIE/VTIA
  8. Tỷ lệ VTIE/VTI
  9. Tỉ lệ VTIA/VTI
  10. Dốc giảm tốc của dòng chảy qua van 2 lá (Ds). Đo từ đỉnh sóng E đến điểm giao nhau giữa phần dốc giảm tốc và đường zero, máy tự cho kết quả.
  11. Thời gian giảm tốc của dòng đổ đày đầu tâm trương (DT): Được tính từ đỉnh sóng E đến điểm giao nhau của dốc giảm tốc sóng E và đường Zero (máy sẽ cho kết quả, đơn vị ms).
  12. Thời gian dãn đồng thể tích (IVRT) đo từ điểm cuối của phổ Doppler dòng chảy qua van ĐMC đến điểm bắt đầu của phổ Doppler dòng chảy qua van 2 lá trên đường zero (máy cho kết quả, đơn vị ms).

Trong TLT, nếu có rối loạn chức năng tâm trương thất trái thì:

– VA, DT, IVRT, VTIE, VTIA ­

– VE, Ds ¯

3.3. Tìm các tổn thương phối hợp.

– Tìm các tổn thương phối hợp.

* Do hậu quả của TLT:

– Hở van 2 lá, 3 lá, ĐMC, ĐMP do dãn vòng van.

– Sùi ở vách tim (thường gặp) và các van tim.

* Các tổn thường phối hợp khác:

– TLN

– Còn ống đ/m

– Các tổn thương tắc nghẽn của DMC (hẹp trên van, dưới van ĐMC, hẹp eo ĐMC.

– Hở van 2 lá (do sa van 2 lá).

– Hở 3 lá bẩm sinh

– Hẹp van 2 lá

– Hẹp van ĐMP

– Có thể kết hợp với các dị tật phức tạp như (TOF, thân chung ĐM…).

Tài liệu tham khảo:

1, Samanek M , Voriskova M. Congenital heart disease among 815,569 children born between 1980 and 1990 and their 15 year survival: a prospective Bohemia survival study. Pediatr Cardiol1999;20:411–7.

2, Meberg A , Otterstad JE, Froland G, et al. Increasing incidence of ventricular septal defects caused by improved detection rate. Acta Paediatr1994;83:653–7.

3, Mehta AV, Chidambaram B. Ventricular septal defect in the first year of life. Am J Cardiol1992;70:364–6.

4, Ramaciotti C , Vetter JM, Bornemeier RA, et al. Prevalence, relation to spontaneous closure, and association of muscular ventricular septal defects with other cardiac defects. Am J Cardiol1995;75:61–5.

5, Frontera-Izquierdo P , Cabezuelo-Huerta G. Natural and modified history of isolated ventricular septal defect: a 17-year study. Paediatr Cardiol1992;13:193–7.

6, Kidd L , Driscoll DJ, Gersony WM, et al. Second natural history study of congenital heart defects: results of treatment of patients with ventricular septal defects. Circulation1993;87 (suppl I) :I38–51.

7, Magee AG, Fenn L, Vellekoop J, et al. Left ventricular function in adolescents and adults with restrictive ventricular septal defect and moderate left-to-right shunting. Cardiol Young2000;10:126–9.

8, Magee AG, Boutin C, McCrindle BW, et al. Echocardiography and cardiac catheterisation in the preoperative assessment of ventricular septal defect in infancy. Am Heart J1998;135:907–13.

9, Gelb BD, O’Laughlin MP, Mullins CE. Prevalence of additional cardiovascular anomalies in patients referred for transcatheter closure of patent ductus arteriosus. J Am Coll Cardiol1990;16:1680–6.

10, Sutherland GR, Godman MJ, Smallhorn JF, et al. Ventricular septal defects: two dimensional echocardiographic and morphological correlations. Br Heart J1982;47:316–28.

11, O’Fallon WM, Weidman WH, eds. Long-term follow-up of congenital aortic stenosis, pulmonary stenosis, and ventricular septal defect: report from the second joint study of congenital heart defects (NHS-2). Circulation1993;87 (suppl I) :I1–126.

12, Craig BG, Smallhorn JF, Burrows P, et al. Cross-sectional echocardiography in the evaluation of aortic valve prolapse associated with ventricular septal defects. Am Heart J1986;112:800–7.

13, Tohyama K , Satomi G, Momma K. Aortic valve prolapse and aortic regurgitation associated with subpulmonic ventricular septal defect. Am J Cardiol1997;79:1285–9.

14, Ando M , Takao A. Pathological anatomy of ventricular septal defect associated with aortic valve prolapse and regurgitation. Heart Vessels1986;2:117–26.

15, Eroglu AG, Oztunc F, Saltik L, et al. Aortic valve prolapse and aortic regurgitation in patients with ventricular septal defect. Pediatr Cardiol2003;24:36–9.

Thuốc Saphris có tác dụng gì?

Tên thương hiệu: Saphris

Tên chung: asenapine

Nhóm thuốc: Thuốc chống loạn thần, Thế hệ thứ hai

Saphris là gì, và nó được sử dụng để làm gì?

Asenapine là một loại thuốc chống loạn thần không điển hình được sử dụng để điều trị bệnh tâm thần phân liệt. Các thuốc chống loạn thần không điển hình khác bao gồm olanzapine (Zyprexa), quetiapine (Seroquel), ziprasidone (Geodon), iloperidone (Fanapt) và aripiprazole (Abilify).

Các thuốc chống loạn thần không điển hình khác với các thuốc chống loạn thần điển hình vì chúng gây ra mức độ tác dụng phụ liên quan đến vận động (ngoại tháp) và táo bón ít hơn.

Cơ chế hoạt động chính xác của asenapine chưa được biết đến, nhưng giống như các thuốc chống loạn thần khác, người ta tin rằng asenapine ảnh hưởng đến cách mà não hoạt động bằng cách can thiệp vào sự giao tiếp giữa các dây thần kinh trong não. Các dây thần kinh giao tiếp với nhau bằng cách tạo ra và giải phóng các hóa chất gọi là chất dẫn truyền thần kinh. Các chất dẫn truyền thần kinh di chuyển đến các dây thần kinh lân cận nơi chúng gắn vào các thụ thể trên dây thần kinh. Việc gắn kết các chất dẫn truyền thần kinh sẽ kích thích hoặc ức chế chức năng của các dây thần kinh lân cận. Asenapine chặn một số thụ thể trên dây thần kinh bao gồm thụ thể dopamine loại 2, thụ thể serotonin loại 2 và thụ thể adrenergic loại 2.

Người ta tin rằng nhiều bệnh tâm thần được gây ra bởi sự giao tiếp bất thường giữa các dây thần kinh trong não, và bằng cách thay đổi giao tiếp thông qua các chất dẫn truyền thần kinh, asenapine có thể thay đổi trạng thái tâm thần.

Asenapine đã được FDA phê duyệt vào tháng 8 năm 2009.

Tác dụng phụ của Saphris là gì?

Các tác dụng phụ phổ biến nhất của asenapine bao gồm:

  • Buồn ngủ
  • Đau đầu
  • Chóng mặt

Các tác dụng phụ khác có thể bao gồm:

  • Mệt mỏi
  • Mất ngủ
  • Miệng khô
  • Cảm giác bồn chồn hoặc khó ngồi yên
  • Cứng nhắc và đi lại lóng ngóng
  • Rung tay
  • Đau khớp

Các tác dụng phụ ít phổ biến nhưng nghiêm trọng có thể bao gồm:

  • Hội chứng ác tính do thuốc chống loạn thần (NMS): NMS là một tác dụng phụ hiếm gặp nhưng nghiêm trọng liên quan đến việc sử dụng thuốc chống loạn thần. NMS có thể dẫn đến tử vong và cần được điều trị trong bệnh viện. Các dấu hiệu và triệu chứng của NMS có thể bao gồm sốt cao, đổ mồ hôi (ra mồ hôi nhiều), cứng hoặc cứng cơ nặng, sự nhầm lẫn, mất ý thức, huyết áp cao, nhịp tim nhanh và thay đổi trong hơi thở của bạn.
  • Tác dụng phụ ngoại tháp (EPS) bao gồm:
    • Dystonia: co thắt đau đớn của cơ miệng, họng hoặc cổ có thể gây khó khăn trong việc nói, nuốt, và cứng cổ.
    • Akathisia: cảm giác bồn chồn hoặc khó ngồi yên.
    • Pseudoparkinsonism: triệu chứng Parkinson do thuốc gây ra.
  • Rối loạn vận động muộn (TD): TD thường xảy ra sau khi sử dụng thuốc chống loạn thần trong thời gian dài và thường biểu hiện bằng các vấn đề về chuyển động ảnh hưởng đến lưỡi, môi, hàm, mặt và các chi.
  • Thay đổi chuyển hóa bao gồm đường huyết cao (tăng đường huyết), bệnh tiểu đường, tăng cholesterol trong máu và tăng cân.
  • Mức prolactin trong máu cao: Prolactin là một hormone cho phép sản xuất sữa mẹ. Mức prolactin cao có thể gây ra các bất thường trong chu kỳ kinh nguyệt, rò rỉ sữa từ vú, phát triển ngực ở nam giới (vú to) và vấn đề cương dương ở nam giới (rối loạn cương dương).

Liều dùng của Saphris là gì?

Liều khởi đầu để điều trị bệnh tâm thần phân liệt ở người lớn là 5 mg mỗi 12 giờ. Liều có thể được tăng lên 10 mg mỗi 12 giờ sau 1 tuần.
Liều để điều trị rối loạn lưỡng cực là 5 đến 10 mg mỗi 12 giờ.
Viên nén asenapine dưới lưỡi nên được đặt dưới lưỡi và để tan hoàn toàn. Viên nén tan trong vòng vài giây và không nên nuốt. Nên tránh ăn uống trong 10 phút sau khi sử dụng thuốc.

Những loại thuốc nào tương tác với Saphris?

Asenapine có thể làm giảm huyết áp, đặc biệt là khi đứng dậy từ tư thế ngồi hoặc nằm (huyết áp tư thế). Do đó, asenapine nên được sử dụng cẩn thận với các loại thuốc khác cũng liên quan đến huyết áp tư thế.

Asenapine có thể làm tăng nồng độ paroxetine (Paxil) trong máu gấp đôi. Liều paroxetine nên được giảm một nửa nếu được sử dụng cùng với asenapine.

Fluvoxamine (Luvox) có thể làm giảm sự phân hủy của asenapine trong gan, làm tăng nồng độ asenapine trong máu. Nên xem xét liều thấp hơn của asenapine.

Mang thai và cho con bú

Thai nhi tiếp xúc với thuốc chống loạn thần trong tam cá nguyệt thứ ba của thai kỳ có nguy cơ gặp phải các triệu chứng ngoại tháp và triệu chứng cai sau khi sinh. Các triệu chứng được báo cáo bao gồm kích thích, tăng trương lực cơ, giảm trương lực cơ, rung, buồn ngủ, thở kém và rối loạn ăn uống. Hiện tại chưa có dữ liệu về việc sử dụng asenapine trong thai kỳ. Asenapine chỉ nên được sử dụng trong thai kỳ nếu lợi ích tiềm năng cho người mẹ vượt trội hơn nguy cơ tác dụng phụ đối với thai nhi.

Một đăng ký theo dõi thai kỳ đã được thiết lập để giám sát việc sử dụng các thuốc chống loạn thần không điển hình, bao gồm asenapine, trong thai kỳ. Tất cả phụ nữ mang thai được điều trị bằng thuốc chống loạn thần không điển hình được khuyến cáo tham gia vào đăng ký thai kỳ này và báo cáo bất kỳ tác dụng phụ nào.

Asenapine chưa được đánh giá ở phụ nữ cho con bú.

Tôi còn nên biết gì về Saphris?

Các dạng bào chế của asenapine có sẵn:

Viên nén dưới lưỡi: 2.5 mg, 5 mg và 10 mg

Asenapine nên được bảo quản như thế nào?

Asenapine nên được bảo quản ở nhiệt độ phòng, từ 15°C đến 30°C (59°F đến 86°F).

Tóm tắt

Asenapine là một loại thuốc theo đơn được sử dụng để điều trị bệnh tâm thần phân liệt và các giai đoạn hưng cảm hoặc hỗn hợp của rối loạn lưỡng cực ở người lớn và trẻ em. Các tác dụng phụ, tương tác thuốc, cách bảo quản, liều dùng và độ an toàn trong thai kỳ và cho con bú cần được xem xét trước khi sử dụng loại thuốc này.

Chứng Phế khí hư yếu ở trẻ em

Chứng Phế khí hư yếu ở trẻ em là tên gọi chung các chứng trạng do các bệnh ho, suyễn tái phát nhiều lần, điều trị lâu ngày không khỏi, Phế khí bị tổn thương, phát sinh đoản hơi thiểu khí, hô hấp không lợi hoặc công năng bảo vệ bên ngoài của tạng Phế hạ thấp gây nên bệnh.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là đoản hơi, động làm càng tăng, khó thở, thậm chí há miệng thở suyễn, tự ra mồ hôi, tiếng nói thấp khẽ, sắc mặt trắng bệch, sắc môi nhợt, chất lưỡi non bệu, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Tế Nhược. Lại do dễ tự ra mồ hôi, thường bị ngoại tà xâm phạm mà gây nên cảm mạo.

Chứng này gặp nhiều trong các bệnh Háo suyễn, Khái thấu, Hãn chứng.

Chứng Phế khí hư yếu ở trẻ em nên chẩn đoán phân biệt với các chứng Phế Tỳ khí hư ở trẻ em, chứng Phế thận khí hư ở trẻ em, chứng Tâm Phế khí hư ở trẻ em, chứng Phế dương hư ở trẻ em.

Phân tích

Chứng Phế khí hư yếu trong các tật bệnh khác nhau, biểu hiện lâm sàng cũng không giống nhau.

– Như bệnh Háo suyễn xuất hiện chứng Phế khí hư yếu, biểu hiện lâm sàng có các chứng khó thở, đoản hơi yếu, há miệng thở suyễn không nằm ngửa được, sắc mặt kém tươi, tinh thần mỏi mệt; Điều trị nên bổ chỗ hư của Phế khí, tả cái thực do Phế bị uất để dẹp cơn suyễn, chọn dùng bài Hoàng kỳ thang (Tạng phủ tiêu bản dược thức).

– Bệnh Khái thấu xuất hiện chứng Phế khí hư yếu, biểu hiện lâm sàng là ho kéo dài, tiếng ho yếu sức, khó thở, hễ động làm thì đoản hơi; Điều trị dùng bài Bổ Phế tán (Y tông kim giám).

– Chứng Phế khí hư xuất hiện trong chứng ra nhiều mồ hôi là do biểu khí không bền, công năng bảo vệ bên ngoài hạ thấp, biểu hiện lâm sàng chủ yếu là mình lạnh, tự ra mồ hôi, thiếu hơi biếng nói, không chịu nổi phong hàn; điều trị nên bổ Phế cố biểu, cho uống bài Ngọc bình phong tán (Đan Khê tâm pháp)

Chẩn đoán phân biệt

– Chứng Phế Tỳ khí hư ở trẻ em với chứng Phế khí hư yếu ở trẻ em, thuộc tính hai chứng bệnh này đều là Khí hư, vị trí bệnh lại cùng ở một Tạng Phủ, cho nên lâm sàng có thể thấy các chứng hô hấp khí yếu, thiểu khí biếng nói, động làm thì suyễn thở. Nhưng vì chứng Phế Tỳ khí hư có kiêm cả Tỳ khí hư, cho nên thường kèm theo các chứng kém ăn bụng dưới trướng, ỉa lỏng, tinh thần mỏi mệt, thể trạng gầy còm. Hơn nữa chứng Phế Tỳ khí hư ở trẻ em, thường là do Tỳ khí hư dẫn đến Phế khí hư, tức là nói “Bệnh mẹ liên lụy đến con”, lâm sàng có thể thấy các chứng trạng ngực khó chịu và nhiều đờm, căn cứ vào đó mà phân biệt.

– Chứng Phế Thận khí hư ở trẻ em với chứng Phế khí hư yếu ở trẻ em: Phế chủ khí, Thận chủ nạp khí. Chứng Phế Thận khí hư ở trẻ em biểu hiện lâm sàng đột xuất nhất là thì thở ra nhiều, thì hút vào ít, nạp khí khó khăn, động làm thì thở suyễn, không nằm ngửa được so với chứng Phế khí hư yếu đều nặng hơn; Đây là vì chứng Phế Thân khí hư ở trẻ em phần nhiều do chứng Phế khí hư yếu ở trẻ em lâu ngày phát triển nên, đó là chứng Phế khí hư yếu ở trẻ em biểu hiện thêm một bước nặng thêm – những đặc điểm ấy là cơ sở chẩn đoán phân biệt giữa hai chứng.

– Chứng Tâm Phế khí hư ở trẻ em với chứng Phế khí hư yếu ở trẻ em: Phế chủ khí, Tâm chủ huyết, hai Tạng cùng ở Thượng tiêu. Phế khí ở trẻ em vốn yếu, dễ bị ngoại tà làm hại, Phế khí tổn thương càng dễ dẫn đến Tâm khí bị tổn hại. Chứng Tâm Phế khí hư ở trẻ em tất phải có các chứng hồi hộp không yên, mạch Động Sác hoặc Kết Đại. Tâm khí bị tổn hại cũng có thể liên lụy đến Phế càng hư nên hô hấp yếu, hễ động làm thì suyễn nặng so với chứng Phế khí hư yếu lại càng rõ rệt. Vì vậy chứng Tâm Phế khí hư ở trẻ em biểu hiện lâm sàng chủ yếu là hồi hộp, ngực khó chịu, đoản hơi với chứng Phế khí hư yếu đơn thuần khó thở đoản hơi hoặc thiểu khí có chỗ khác nhau.

– Chứng Phế dương hư ở trẻ em với chứng Phế khí hư yếu ở trẻ em: Phế chủ trị tiết, tự hô hấp, có thể thông điều thủy đạo, chứng Phế dương hư ở trẻ em với chứng Phế khí hư yếu ở trẻ em cùng thuộc Hư chứng nhưng mức độ có khác nhau. Chứng Phế dương hư là chỉ công năng riêng của tạng Phế giáng thấp, ngoài những biểu hiện lâm sàng Phế khí hư yếu như thở khẽ, thiểu hơi biếng nói, tự ra mồ hôi, còn có thể thấy các chứng mặt mắt phù thũng, cơ thể lạnh, tay chân lạnh, ho nhổ ra đờm lõang, do công năng thông điều thủy đạo của Phế giảm sút, tạo nên những biểu hiện thủy thấp, đàm ẩm đọng ở trong. Những chứng trạng và cơ chế bệnh đó khác nhau, có thể làm căn cứ để phân biệt chứng Phế dương hư ở trẻ em với chứng Phế khí hư yếu ở trẻ em.

Trích dẫn y văn

– Sau khi mắc bệnh nặng và ốm kéo dài hoặc sau khi uống thuốc hàn lương quá khắc phạt hoặc sau khi thổ kéo dài, tả kéo dài đột nhiên thấy thở gấp giống như Suyễn mà không phải suyễn, hơi thở ngắn gấp gọi là khí đoản. Đoản là cơ sở của Đoạn, là khí sắp thoát vậy (Háo suyễn chứng trị – Ầu ấu tập thành).

– Lại có chứng hư bại, đột ngột há miệng suyễn nặng, thở vài ít thở ra nhiều mà hơi thở ra, vào không vướng trệ, đó là Thận không nạp khí, phù tán ra bên ngoài.

– Chứng Hư suyễn, thiếu khí mà ngắn rít, cho uống Hoàng kỳ thang của Khiết cổ (Âu khoa tạp bệnh tâm pháp yếu quyết – Y tông kim giám).

– Con người cảm thấy hơi thở giữa hơi ở trong và hơi ở không nối tiếp nhau tức là đại khí hư mà muốn hãm, không thể gắn bó để nâng Phế lên (Trị đại khí hạ hãm phương – Y học trung trung tham tây lục).

Viêm cầu thận mãn tính ở người cao tuổi.

Viêm cầu thận mãn thường gặp ở người cao tuổi, do sức đề kháng yếu và khả năng tập luyện kém nên dễ dẫn đến căn bệnh này.

Người mắc chứng bệnh này có thể Là do viêm thận cấp kéo dài không được điều trị hoặc điều trị không đúng phương pháp nên bệnh cứ theo sự tiến triển mà thành. Nhưng thời kỳ viêm thận cấp tính lại không biểu hiện rõ, khi thấy xuất hiện triệu chứng lâm sàng thì bệnh đã chuyển sang giai đoạn mãn tính.

Theo Đông y đây là chúng “thuỷ thũng” và “hư lao”. Bệnh kéo dài lâu ngày chính khí suy yếu, công năng điều tiết thuỷ dịch của 2 tạng tì, thận bất thường gây ra hàn thấp tổn thướng tỳ, thận (dương khí suy) hoặc do dương hư kéo theo âm hư, tổn thương can thận âm huyết làm cho ngũ tạng trong cơ thể không được nuôi dưỡng. Khí bệnh nặng thì âm dương khí huyết đều đã suy nhược.

Viêm cầu thận mãn tính được điều trị bằng thuốc y học cổ truyền. Viêm cầu thận mãn được phân thành nhiều loại.

Tỳ dương hư:

Triệu chứng: Người bệnh bị phù toàn thân, phù tái đi tái lại nhiều lần, người nặng nề, tay chân mỏi mệt, đầy tức bụng, sắc mặt vàng xanh bủng, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch vi hoãn.

Phương pháp điều trị: Ôn dương, hoá thấp, lợi thũng.

*Bài thuốc: Vị linh thang gia giảm.

Quế chi 4 – 6 g, Trạch tả 12 – 16 g, Thương truật sao 8 – 12 g, ý dĩ 10 – 12 g, Hậu phát 6 – 8 g, Xa tiền tử 16 – 20 g,, Xuyên tiêu 3 – 4 g.

Nếu người bệnh bị đổ mồ hôi nhiều, sợ gió thì sắc uống thêm: Sinh hoàng kỳ 12 – 16 g, Phòng phong 4 – 6 g.

Nếu ăn uống kém, sợ lạnh, phân lỏng hoặc sệt (đi nhiều lần trong ngày) thì nên uống thêm: Phụ tử chê 4 – 6 g, Can khương 4 – 6 g. Bạch truật sao 12 – 16 g, Đảng sâm cao 10 – 12 g.

Tỳ thận dương hư:

Triệu chứng: Người mắc chứng bệnh này có triệu chứng phù thũng không rõ hoặc phù kéo dài (nhất là ở hai mắt cá chân), bụng chướng, đau mỏi lưng gối, sợ lạnh, lạnh ở hai chân, tiểu ít, mặt trắng xanh, ngũ canh tiết tả (sáng sớm đi cầu phân lỏng). Chất lưỡi hồng nhạt, bệu, rêu trắng mỏng. Mạch trầm vi tế.

Phương pháp điều trị: Ôn thận, kiện tì.

*Bài thuốc: Quế phụ lý trung thang hợp với thận khí hoàn phụ tử chế 8 – 10 g, Sơn dược sao 16 -20 g, Thục địa 16 – 20 g, Trạch tả 12 – 16 g, Sơn ;hù 10 – 12 g, Can khương 4 – 6 g, Bạch truật sao 12 – 16 g.

Nếu bệnh bị phù rõ thì sắc thêm: Ngưu tất 12 – 16g, Xa tiền tử 16 – 20 g.

Khi thấy ăn ít, đầy bụng, phân lỏng thì sắc bỏ bớt Thục địa, Sơn thù, cho thêm Đảng sâm 12 g.

Khi đau mỏi lưng nhiều, sợ lạnh, tiểu ít, ít phù thì bỏ Trạch tả, Can khương, thêm Đỗ trọng 10 – 12 g, Thỏ ty tử 10 – 12 g, Lộc giác phiến 10 – 12 g.

Nếu mắt mỏi nhiểu, khí đoản (ngắn hơi) váng đầu hồi hộp, nặng mặt, dễ đổ mồ hôi thì bỏ Trạch tả, Can khương, gia Đảng sâm 10 – 12 g, Hoàng kỳ 12 – 16 g, Đương quy 10 – 12g.

Nếu kèm ngoại cảm: sợ gió, phát sốt, ho, phù, gia ma hoàng 4 – 6 g, tế tân 1 – 2 g, quế chi 6 – 8 g.

Can thận âm hư:

Triệu chứng: Phù ít hoặc không phù, chóng mặt, đau đầu, mặt đỏ, ù tai, hoa mắt hoặc mù mắt, lưng mỏi đau, khô miệng, hồi hộp, đổ mồ hôi trộm, dì tinh, tiểu vàng, chất lưỡi đỏ, rêu vàng mỏng.

Mạch vi huyền (đa số bệnh nhãn thể can thận âm hư dẫn đến huyết áp tăng cao).

Phương pháp trị liệu : Tư dưỡng can thận.

*Bài thuốc: Kỷ cúc địa hoàng thang gia giảm

Chế thủ ô 12 – 16 g, mẫu lệ 20 – 24 g, sinh địa 12 – 16 g, cúc hoa 12 – 16 g, câu kỷ tử 12 – 16 g, đơn bì 8 – 12 g, tay ký sinh 16 – 20 g, bạch tật lệ 12 – 16 g-

Nêu người bệnh thấy trong người không được khoẻ mạnh hay có tâm trạng hồi hộp, mất ngủ thì nên sắc uống thêm Toan táo nhân sao 8 – 12 g.

Khi người bệnh đi tiểu ít, người bệnh cảm thấy nóng nực thì gia thêm tri mẫu 10 – 12 g, hoàng bá 10 – 12 g.

Nêu thấy chóng mặt, đau đầu nhiều nên bỏ cúc hoa, gia thêm hạ khô thảo 12 g, câu đằng 16 g, thạch quyết minh 2g.

Nếu bị phù nhẹ: bỏ vị chế thủ ô, cúc hoa, bạch tật lê. Nhưng cho thêm tiền thảo 16- 20 g, thổ phục linh 10 – 16 g, trạch tả 10 – 12 g.

Người bệnh muốn điều trị bệnh của mình, phải tự tạo cho mình một cách nghỉ ngơi hợp lý, làm việc, ăn uống phù hợp chặt chẽ (ăn nhạt, kiêng mỡ động vật, ăn đủ đạm).

Say rượu và các rối loạn tâm thần do rượu

Các rối loạn tâm thần do rượu được chia làm 4 nhóm: say rượu, hội chứng cai, các bệnh não thực tổn do rượu và các rối loạn tâm thần liên quan đến rượu. Ở đây chỉ trình bày say rượu và các rối loạn tâm thần có liên quan với nghiện rượu.

Say rượu

  • Say rượu đơn thuần

Say rượu đơn thuần được chia thành 3 mức độ:

  • Mức độ nhẹ: say rượu mức độ nhẹ thường biểu hiện bằng giảm ngưỡng cảm giác, rối loạn chú ý, phản ứng chậm, tư duy logic giảm sút, hiểu biết xung quanh rất khó khăn, khả năng phê phán giảm, khí sắc dao động và thường là tăng, hay nổi khùng, dễ bị kích thích, thậm chí rất hung bạo. Các triệu chứng trên thường phối hợp với rối loạn vận động và rối loạn ngôn ngữ.
  • Mức độ trung bình: say rượu mức độ trung bình gây rối loạn chú ý nặng hơn; bệnh nhân hay đãng trí, tri giác thiếu chính xác và sai thực tại. Quá trình hoạt động trí tuệ diễn ra với nhịp độ chậm hơn trước, xuất hiện tư duy lai nhai; các ham thích cũ vượng lên, đặc biệt là hoạt động tình dục. Nổi bật trong giai đoạn này là hành vi hung bạo, tấn công và thường gây gổ, đánh nhau gây nhiều phiền phức cho xung quanh. Ngoài ra còn xuất hiện các rối loạn phối hợp vận động làm cho bệnh nhân đi lại loạng choạng và nói khó.
  • Mức độ nặng: say rượu mức độ nặng được biểu hiện bằng trạng thái choáng váng ngày càng tăng, những giấc ngủ sâu kéo dài hơn. Trong nhiễm độc rượu nặng có thể gây ra trạng thái bán hôn mê, hoặc hôn mê kèm theo các rối loạn cơ thể nặng. Nhiều trường hợp cần phải rửa dạ dày, trợ tim mạch và hô hấp.

Lượng rượu trong máu những người nghiện rượu thấy khá cao (mức độ nhẹ: 2%; mức độ trung bình 2-5%; còn mức độ nặng thì nồng độ rượu trong máu lên đến 5%). Người ta có thể tính lượng rượu trong máu theo trọng lượng cơ thể để định mức độ (nhẹ: 1-1,5ml/kg; trung bình: 1,5-2,5ml/kg; nặng 2,5-3,5ml/kg), nhưng lâm sàng là tài liệu chủ yếu đánh giá nghiện rượu vì nó tổng hợp tất cả các phương pháp để đánh giá.

Say rượu
Say rượu
  • Say rượu bệnh lý

Say rượu bệnh lý là các rối loạn tâm thần cấp tính xảy ra do uống rượu, trong một khoảng thời gian ngắn, triệu chứng khá đa dạng và phong phú. Trong say rượu bệnh lý chủ yếu gặp là trạng thái rối loạn ý thức, rối loạn ngôn ngữ. Trong say rượu đơn thuần chỉ rối loạn ngôn ngữ và trạng thái choáng váng.

Say rượu bệnh lý xảy ra ngay sau khi uống không chỉ với một lượng rượu lớn mà còn cả khi uống một lượng rượu nhỏ. Trong trạng thái say rượu bệnh lý, người bệnh có hành vi nguy hiểm cho xã hội. Các hành vi này thực tế không phải là phản ứng mà là những hành vi xung động, hành vi kích động và ám ảnh bệnh lý kết hợp với các rối loạn vận động tự động và thăng bằng. Trạng thái nghiện rượu bệnh lý được kết thúc đột ngột cũng như là khi chúng bắt đầu, đôi khi được kết thúc bằng một giấc ngủ sâu. Tất cả các giai đoạn của say rượu bệnh lý người bệnh không nhớ được. Say rượu bệnh lý trong pháp y tâm thần được xem xét như là một trường hợp rối loạn tâm thần và người bệnh không có năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Thuật ngữ say rượu bệnh lý được áp dụng cho các thay đổi rõ ràng về hành vi (như kích động), xảy ra trong vài phút, khi bệnh nhân uống một lượng rượu nhỏ (không đủ gây ngộ độc rượu cho hầu hết mọi người). Đặc trưng của say rượu bệnh lý là các kích động có tính chất bùng nổ. vẫn còn nhiều tác giả nghi ngờ quan điểm một lượng rượu nhỏ có thể gây ra say rượu bệnh lý. Nhưng năm 1976, Maletzky đã nghiên cứu trên 23 người có tiền sử say rượu bệnh lý bằng cách pha cồn vào dịch truyền tĩnh mạch thì thấy 15 người trong số đó đã có các hành vi kích động bùng nổ. Tuy nhiên, các hành vi kích động này chỉ xuất hiện khi nồng độ cồn trong máu đạt đến một ngưỡng nhất định.

Mất nhớ ngắn là triệu chứng rất hay gặp trong uống rượu nhiều. Họ thường mất nhớ các sự kiện xảy ra vào buổi tối khi họ uống rượu nhiều mặc dù khi đó ý thức của họ vẫn tỉnh táo. Mất trí nhớ ngắn có thể xảy ra ngay lần uống rượu nhiều đầu tiên ở người không nghiện rượu. Nếu chúng hay xảy ra thì có nghĩa là người bệnh đã có thói quen uống rượu nhiều thường xuyên. Cùng với việc uống nhiều rượu, mất nhớ ngắn ảnh hưởng đến bệnh nhân trong một lúc, thậm chí cả ngày.

Tiêu chuẩn chẩn đoán say rượu bệnh lý theo DSM-IV

  • Gần đây có sử dụng rượu.
  • Những thay đổi tâm lý và hành vi như: hành vi tình dục không thích hợp, dễ thay đổi cảm xúc, giảm suy đoán, giảm chức năng xã hội và nghề nghiệp, diễn ra trong một thời gian ngắn sau khi sử dụng rượu.
  • Một hoặc nhiều hơn các dấu hiệu dưới đây xảy ra trong khi sử dụng rượu:

Nói lè nhè

Mất phối hợp vận động

Dáng đi loạng choạng

Rung giật nhãn cầu

Giảm chú ý và trí nhớ

Bất tỉnh hoặc hôn mê

  • Các triệu chứng này không do một bệnh thực tổn hoặc một rối loạn tâm thần nào khác gây ra.

Các rối loạn tâm thần khác phối hợp với nghiện rượu

  • Rối loạn nhân cách

Bệnh nhân nghiện rượu chỉ quan tâm làm sao có rượu để uống mà không còn quan tâm đến những gì xảy ra xung quanh. Họ từ chối các chuẩn mực của xã hội; dần dần họ bỏ việc, họ lừa dối người khác và có các hành vi bất lương.

  • Rối loạn cảm xúc

Có mối liên quan chặt chẽ giữa uống rượu và rối loạn cảm xúc. Trầm cảm thì dẫn đến lạm dụng rượu; nhưng mặt khác, uống rượu nhiều lại gây ra trầm cảm và lo âu.

Các nghiên cứu ở người Việt Nam gần đây cho thấy có đến 85% số người nghiện rượu bị trầm cảm. Tỷ lệ rối loạn lo âu ở các bệnh nhân này là khoảng 75%.

Những bệnh nhân trầm cảm, lo âu… hay sử dụng rượu (và các thuốc bình thần) như là phương thuốc tự điều trị cho mình.

Khi uống rượu, họ cảm thấy tự tin hơn, ngủ được, giảm cảm giác lo lắng, vì vậy họ dễ trở thành người nghiện rượu.

Ngược lại, những bệnh nhân nghiện rượu thì bị trầm cảm, lo âu (trầm cảm, lo âu do rượu). Khi có hội chứng cai, các triệu chứng trầm cảm, lo âu sẽ tăng lên; vì thế họ uống rượu thường xuyên đề tránh hội chứng cai, do vậy tình trạng trầm cảm và lo âu của người nghiện rượu ngày càng trầm trọng.

  • Ý định và hành vi tự sát

Ý định và hành vi tự sát là rất phổ biến trong nghiện rượu, khoảng 25% tổng số các trường hợp tự sát là do nghiện rượu. Người ta cho rằng từ 6 -20% số người nghiện rượu sẽ chết vì tự sát.

Các yếu tố ảnh hưởng đến tự sát ở người nghiện rượu là tuổi trên 45, lượng rượu uống nhiều (trên 300ml rượu 40 độ cồn/ngày), thời gian uống kéo dài (trên 15 năm), có bệnh cơ thể phối hợp (cao huyết áp, đái đường, loét dạ dày – hành tá tràng) và có bệnh tâm thần phối hợp (trầm cảm, lo âu, rối loạn nhân cách).

Người bệnh có thể tự sát lúc ý thức hoàn toàn tỉnh táo, cũng có thể tự sát lúc có hội chứng cai rượu hoặc trong trạng thái say rượu (khó phân biệt giữa tư sát hoặc tai nạn).

  • Rối loạn chức năng tình dục

Khó cương dương vật và chậm xuất tinh là rất phổ biến ở người nghiện rượu. Các rối loạn này sẽ trầm trọng thêm nếu có mâu thuẫn trong gia đình (đây là mâu thuẫn rất phổ biến ở gia đình người nghiện rượu). Mặt khác, vợ bệnh nhân thường có cảm giác ghê tởm khi phải quan hệ tình dục với người chồng trong trạng thái say rượu và không vệ sinh cơ thể (hôi, bẩn).

  • Ghen tuông bệnh lý

Có hai nguyên nhân dẫn đến ghen tuông bệnh lý của bệnh nhân: thứ nhất do bệnh nhân mất chức năng tình dục (như nói trên); thứ hai do bệnh nhân uống rượu quá nhiều gây ra các hoang tưởng, nghi ngờ bạn tình của mình không chung thuỷ. Thật ra hoang tưởng ghen tuông ở người nghiện rượu là ít gặp, nhưng thái độ nghi ngờ vợ mình không chung thuỷ thì có ở hầu hết các bệnh nhân.

Đi tiểu ra máu – Cách chữa tại nhà đơn giản, hiệu quả

Nước tiểu có máu là đi tiểu ra máu, lượng máu trong nước tiểu nhiều mắt thường có thể nhìn thấy, gọi là nước tiểu có máu nhìn thấy, phải dùng kính hiển vi mới phát hiện được gọi là nước tiểu có máu qua kính hiển vi. Nguyên nhân dẫn tới nước tiểu có máu rất nhiều, ngoài bệnh tật về hệ thống tiết niệu như đường tiết niệu cơ sỏi, thận có sỏi, hệ thống tiết niệu có khối u ra còn có bệnh tật toàn thân như bệnh máu trắng, bệnh thiếu máu.v.v. Ngoài ra còn thấy hiện tượng máu trong nước tiểu có tính vận động như vận động quá mạnh, hay quá mệt mỏi gây ra.

Nước tiểu có máu thuộc phạm vi niệu huyết hoặc huyết lâm trong đông y. Đông y cho rằng bệnh này là do âm hư hoả vượng, tâm hoả kháng thịnh, tỳ thận lưỡng khuy, nhiệt bức bàng quang gây nên.

Nội dung chữa bệnh.

Tìm nguyên nhân gây bệnh để chữa bệnh đúng bệnh.

Người mắc bệnh máu trong nước tiểu cần chú ý nghỉ ngơi, nếu ra máu nhiều cần nằm nghỉ trên giường.

Nên uống nhiều nước, lượng nước uống trong ngày không nên dưới 2 lít.

Nên ăn những thứ mát máu và cầm máu như ngó sen, hồng, rau làm châm, hạt sen, hồng táo, ô mai.v.v.

Kiêng ăn những thứ cay đắng, kích thích và những thứ bổ như động vật biển tươi sống, thịt dè.v.v.

Kiêng rượu, thuốc lá, khống chế việc sinh hoạt vợ chồng, trong thời kỳ phát bệnh thì cấm hẳn.

Bình thường phải rèn luyện thân thể, tăng cường thể chất.

Kịp thời chữa các bệnh viêm loét, đái tháo đường, cảm cúm.v.v. để tránh gây ra bệnh này.

Vị thuốc Xa tiền tử chữa tiểu ra máu
Vị thuốc Xa tiền tử chữa tiểu ra máu

Phương pháp chữa bệnh

Phương thuốc hiệu nghiệm

  1. Cây xa tiền tươi 60 gam, giã lấy nước, uống lúc đói, hoặc hạt xa tiền 15 gam, sắc lấy nước đặc, ngày uống 2 lần.
  2. Rễ kỷ tử tươi 60 gam, giã lấy nước nóng.
  3. Sinh địa 30 gam, cây sen cạn 10 gam, lá trúc 12 gam, cam thảo 10 gam, ngưu tất 12 gam, sắc uống, ngày 2 lần.

Phương pháp ăn uống

  • Trứng gà 1 quả, tề thái tươi 200 gam, nấu nước uống, mỗi ngày 1 lần.
  • Hồng khô 2 quả, cỏ bấc 6 gam, đường trắng 10 gam, nấu canh, bỏ cỏ bấc chỉ ăn canh.
  • Cật lợn 1 quả, ý dĩ nhân 50 gam, mộc nhĩ 20 gam, rễ khế 50 gam. Rửa sạch cật lợn, thuốc gói riêng cùng nấu chín, bỏ bã thuốc đi, ăn cật lợn và uống nước.

    Đăng tâm thảo ( Cỏ bấc đèn, Bấc)
    Đăng tâm thảo ( Cỏ bấc đèn, Bấc)

Chữa bệnh bên ngoài

  1. Lấy một ít rau diếp, giã nhỏ đắp vào rốn, dùng vải màn buộc lại mỗi ngày một lần.
  2. Tỏi 2 củ, giã nhỏ một nửa đắp vào huyệt bách hội (ở giữa đỉnh đầu) một nửa đắp ở huyệt dũng tuyền dưới bàn chân, cảm thấy nóng thì bỏ đi, mỗi ngày một lần.

Những việc cần lưu ý

Máu trong nước tiểu chỉ là một triệu chứng, nguyên nhân dẫn tới việc nước tiểu có máu rất nhiều, cầm máu không phải là mục đích duy nhất, mà chỉ là một cách đối phó tạm thời, sau khi cầm máu rồi phải trị đúng nguyên nhân gây ra bệnh.

Số lượng máu ra nhiều, lại có triệu chứng toàn thân mệt mỏi, phải đi bệnh viện kiểm tra để xác định đúng bệnh.

Đái ra máu nhưng không đau, cũng phải đi bệnh viện kiểm tra để tìm ra nguyên nhân gây bệnh.

Suy thận cấp

1. ĐỊNH NGHĨA

Suy thận cấp là hội chứng gây ra bởi nhiều nguyên nhân, có thể là nguyên nhân ngoài thận hoặc tại thận, làm suy sụp và mất chức năng tạm thời, cấp tính của cả hai thận, do ngừng hoặc suy giảm nhanh chóng mức lọc cầu thận. Biểu hiện lâm sàng là thiểu niệu hoặc vô niệu xảy ra cấp tính, tiếp theo là tăng nitơ phiprotein trong máu, rối loạn cân bằng nước điện giải, rối loạn cân bằng kiềm toan, phù và tăng huyết áp. Suy thận cấp có tỉ lệ từ vong cao, nhưng nếu được chẩn đoán và điều trị kịp thời thì chức năng thận có thể hồi phục hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn.

2. NGUYÊN NHÂN

Có nhiều cách phân loại nguyên nhân gây ra suy thận cấp, nhưng người ta thường phân ra ba nhóm nguyên nhân dựa trên sự khác nhau về cơ chế bệnh sinh.

a. Nguyên nhân trước thận

Nguyên nhân trước thận bao gồm mọi nguyên nhân gây giảm dòng máu hiệu dụng tới thận, dẫn tới giảm áp lực lọc cầu thận và gây ra thiểu niệu hoặc vô niệu.

  • Gồm các nguyên nhân gây sốc: sốc giảm thể tích ( mất nước, mất máu), sốc tim, sốc nhiễm khuẩn, sốc quá mẫn, …
  • Các nguyên nhân gây giảm khối lượng tuần hoàn khác: giảm áp lực keo trong hội chứng thận hư, xơ gan mất bù, thiểu dưỡ

b. Nguyên nhân tại thận

Các nguyên nhân tại thận bao gồm các tổn thương thực thể tại thận, gặp trong các bệnh thận:

  • Bệnh cầu thận và bệnh của các mạch máu nhỏ trong thận: viêm cầu thận tiến triển nhanh, viêm màng trong tim nhiễm khuẩn bán cấp gây viêm các mạch máu trong thận, viêm cầu thận cấp sau nhiễm liên cầu khuẩn, viêm mạch máu thận trong các bệnh mạch máu hệ thống, xơ cứng bì, tăng huyết áp ác tính, hội chứng tan máu tăng ure máu, nhiễm độc thai nghén, đông máu rải rác trong lòng mạch
  • Bệnh mô kẽ thận: viêm thận kẽ do nhiễm khuẩn, viêm thận kẽ do thuốc, xâm nhập tế bào ác tính vào mô kẽ thận (u lympho, bệnh bạch cầu, ung thư mô liên kết).
  • Bệnh ống thận: hoại từ thận sau thiếu máu, nhiễm độc thận (do thuốc, chất cản quang đường tĩnh mạch, thuốc gây mê, kim loại nặng, dung môi hữu cơ, nọc độc của rắn, mật cá lớn hoặc mật động vật, nấm độc, nọc ong, thuốc thảo mộc), bệnh thận chuỗi nhẹ, tăng calci máu.

c.   Nguyên nhân sau thận

Các nguyên nhân gây tắc đường dẫn nước tiểu của thận, bao gồm:

  • Tắc đường tiết niệu cao: sỏi đường tiết niệu, cục máu đông, mẩu nhú thận hoại tử, khối u, xơ hóa phúc mạc thành sau, phẫu thuật thắt nhầm niệu quản
  • Tác đường tiết niệu thấp: tắc niệu đạo, tắc ở cổ bàng quang (phì đại tuyến tiền liệt, ung thư tuyến tiền liệt), hội chứng bàng quang do thần kinh

3. CHẨN ĐOÁN

a. Chẩn đoán xác định

Chẩn đoán xác định suy thận cấp căn cứ vào các yếu tố sau:

  • Có nguyên nhân có thể gây suy thận cấp (tuy nhiên đôi khi không tìm được nguyên nhân).
  • Vô niệu hoặc thiểu niệu xảy ra cấp tính.
  • Tốc độ gia tăng creatinin huyết thanh > 42,5µmol trong vòng 24 giờ – 48 giờ so với creatinin nền nếu creatinin nền của người bệnh < 221 µmol/l hoặc: Tốc độ gia tăng creatinin huyết thanh > 20% trong vòng 24giờ đến 48 giờ so với creatinin nền nếu creatinin nề của người bệnh > 221 µmol/l.
  • Mức lọc cầu thận giảm < 60 ml/ph, xảy ra sau vô niệu
  • Kali máu thường tăng
  • Có thể có toan máu chuyển hoá.
  • Diễn biến qua 4 giai đoạn

b.  Chẩn đoán thể lâm sàng

Thể vô niệu dễ chẩn đoán, dựa vào các yếu tố trên.

Thể có bảo tồn nước tiểu, chẩn đoán dựa vào nồng độ ure và creatinin trong máu tăng, mức lọc cầu thận giảm, xảy ra đột ngột sau khi có nguyên nhân bệnh tác động mà trước đó các thông số này vẫn trong giới hạn bình thường.

c. Chẩn đoán phân biệt

Một số trường hợp có tăng creatinin hoặc urê máu mà không có suy thận cấp

+ Tăng ure do:

  • Tăng quá nhiều lượng protein vào cơ thể: qua ăn, uống, truyền nhiều acid amin.
  • Xuất huyết đường tiêu hoá.
  • Tăng quá trình giáng hoá.
  • Đang dung corticoids.
  • Đang dung tetracycline

+ Tăng nồng độ creatinin máu do:

  • Tăng giải phóng từ cơ.
  • Giảm bài tiết ở ống lượn gần do dung cimetidin,

Đợt tiến triển nặng của suy thận mạn

Nếu chỉ dựa vào lâm sàng mà không có sinh thiết thận, thì chẩn đoán phân biệt suy thận cấp với đợt tiến triển nặng của suy thận mạn có vô niệu, nhiều khi rất khó khăn. Nhiều người bệnh không được phát hiện có bệnh thận cho đến khi đột ngột bị vô niệu, những người bệnh này có thể được chẩn đoán nhầm là suy thận cầp.

+ Trong suy thận mạn:

  • Tiền sử có bệnh thận – tiết niệu
  • Creatinin và urê huyết thanh tăng từ trước nếu đã được chẩn đoán và theo dõi.
  • Thiếu máu tương ứng với mức độ suy thận
  • Tăng huyết áp, suy tim: thường nặng hơn trên người bệnh suy thận mạn
  • Siêu âm có thể thấy hai thận teo nhỏ, nhu mô thận tăng độ cản âm (phản ánh mức độ xơ của nhu mô thận) nếu do viêm cầu thận mạn, hoặc thấy các nguyên nhân gây suy thận mạn khác như: thận đa nang, sỏi thận…

+ Đợt cấp của suy thận mạn:

  • Có các nguyên nhân làm nặng them mức độ suy thận như: dùng các thuốc độc cho thận, dung thuốc nam không rõ nguồn gốc hoạt chất, mất nước do nôn, ỉa chảy, nhiễm trùng toàn thân hoặc các ổ nhiễm trùng tại thận, tắc nghẽn sau thận đột ngộ
  • Suy thận nặng nhưng thiếu máu không nặng nếu nguyên nhân gây suy thận cấp không do mất máu và người bệnh không dung thuốc kích thích tăng sinh hồng cầu trước đó.
  • Trên siêu âm: Kích thước và tính chất nhu mô thận không tương xứng với mức độ suy thận, suy thận nặng nhưng thận không teo và cản âm nhiều nếu nguyên nhân gây suy thận mạn là viêm cầu thận mạ
  • Loại trừ các nguyên nhân thuận lợi gây suy giảm chức năng thận thì mức độ suy thận sẽ giảm đi nhưng không bao giờ trở về bình thường.

Chẩn đoán phân biệt suy thận cấp chức năng với suy thận cấp thực tổn

Chẩn đoán phân biệt suy thận cấp chức năng với suy thận cấp thực tổn được đạt ra với các suy thận cấp do nguyên nhân trước thận. Nếu suy thận cấp mới chỉ ở mức suy chức năng, nghĩa là do không cung cấp đủ máu cho thận đảm bảo chức năng, thì các chức năng của ống thận vẫn còn tốt, khả năng tái hấp thu natri và cô đặc nước tiểu của thận còn tốt. Khi ống thận bị tổn thương thực thể, thì các chức năng ống thận bị suy giảm. Vì vậy, phân tích sinh hóa máu và nước tiểu sẽ giúp ích cho nhận định suy thận cấp là suy chức năng hay suy thực tổn.

Bảng 1. Chẩn đoán phân biệt suy thận cấp chức năng và suy thận cấp thực tổn (Dieter Kleinknecht 1992)

Thông số STC chức năng STC thực tổn
1.   Uosm sáng sớm (mOsm/kg H2O)

2.   Uosm/Posm

>500

>1,5

<350

<1,1

3.   CH2O (ml/ph)

4.   UNa (mmol/l)

Âm tính

<20

Tiến tới 0

>40

5. FENa (%) <1 >1
6.   Ucre/Pcre

7.   Uure/Pure

>40

>8

<20

<3

Trong đó: Uosm sáng sớm là độ thẩm thấu nước tiểu mẫu sáng sớm; Uosm/Posm là tỉ số độ thẩm thấu nước tiểu và độ thẩm thấu máu; CH2O là hệ số thanh thải nước tự do. Ba thông số này cho phép nhận định khả năng cô đặc nước tiểu của ống thận còn tốt hay đã bị suy giảm. Nếu suy thận là suy chức năng, thì khả năng cô đặc nước tiểu của thận còn tốt, trái lại nếu ống thận đã bị tổn thương thì khả năng cô đặc nước tiểu của thận giảm; UNa là nồng độ natri trong nước tiểu; FENb là phân số thải natri của thận, được tính theo công thức FENa=(UNa/PNa)x100/(Ucre/Pcre). Hai thông số này cho phép nhận định khả năng tái hấp thu natri của ống thận còn tốt hay đã bị suy giảm. Nếu suy thận là suy chức năng thì khả năng tái hấp thu natri của ống thận còn tốt (khả năng bảo tồn natri của thận còn tốt), nếu ống thận đã bị tổn thương thì khả năng tái hấp thu natri của thận giảm. Ống thận để mất natri qua nước tiểu. Các thông số Ucre/Pcre là tỉ số giữa nồng độ creatinin nước tiểu và nồng độ creatinin máu; Uure/Pure là tỉ số giữa nồng độ ure trong nước tiểu và nồng độ ure máu. Hai thông số này phản ánh khả năng bài xuất nitơ phiprotein của thận. Nếu suy thận là suy chức năng thì khả năng bài xuất ure và creatinin của thận giảm.

4. ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc chung

  • Nhanh chóng loại bỏ nguyên nhân gây suy thận cấp nếu có thể ( tuỳ từng nhóm nguyên nhân trước thận, tại thận hay sau thận mà có biện pháp điều trị phù hợp).
  • Điều chỉnh các rối loạn tuần hoàn, trong đó quan trọng là phục hồi lại lượng máu và dịch, duy trì huyết áp tâm thu 100-120
  • Phục hồi lại dòng nước tiểu
  • Điều chỉnh các rối loạn nội môi do suy thận cấp gây ra
  • Điều trị triệu chứng phù hợp với tưng giai đoạn của bệnh
  • Chỉ định lọc máu ngoài thận khi cần thiết
  • Chú ý chế độ dinh dưỡng, cân bằng nước điện giải phù hợp với từng giai đoạn của bệnh

Điều trị theo giai đoạn bệnh

–   Giai đoạn tấn công của tác nhân gây bệnh

+ Cố gắng điều trị loại bỏ nguyên nhân gây bệnh: bù đủ nước khi có mất nước, loại bỏ tắc nghẽn đường tiểu, rửa dạ dày khi uống mật cá trắm trong 6 giờ đầu,….

+ Theo dõi sát tình trạng thiểu niệu, vô niệu để có chẩn đoán suy thận cấp sớm

–   Giai đoạn thiểu niệu, vô niệu

+ Giữ cân bằng nước, điện giải:

  • Nước ở người bệnh vô niệu hoặc thiểu niệu đã có phù, đảm bảo cân bằng (-): nước vào ít hơn nước
  • Lợi tiều: dung lợi tiểu quai Furosemid dò liề Liều khởi đầu có thể 40 – 80 mg. Liều tối đa 1000 mg. Khi thấy người bệnh có thể đã tiểu được không do thuốc, phải dừng ngay lợi tiểu vì sau đó người bệnh có thể tiểu rất nhiều (> 10 lít). Thời gian tác dụng của Furosemid đường tiêm kéo dài 4 giờ. Không dung lợi tiểu nếu suy thận cấp sau thận.
  • Trường hợp suy thận cấp trước thận: Bù đủ thể tích tuần hoàn càng sớm càng tốt, không dùng lợi tiểu nếu chưa bù đủ khối lượng tuần hoàn.

+ Điều trị tăng Kali máu:

Hạn chế đưa K+ vào : rau quả nhiều K+, thuốc, dịch truyền có K+. Loại bỏ các ổ hoại tử, chống nhiễm khuẩn.

Thuốc:

  • Calcigluconat hoặc Clorua: cần tiêm tĩnh mạch ngay khi K+ máu cao ≥ 6,5 mmol/l hoặc khi có những biểu hiện tim mạch rõ ( mạch chậm,loạn nhịp, QRs giãn rộng), liều trung bình 1 g, tiêm tĩnh mạch chậm trong ít nhất 5 phút. Nhắc lại liều sau 30 phút khi cần
  • Glucoza kết hợp Insulin dẫn Kali vào trong tế bào, bắt đầu tác dụng sau khoảng 30 phút. Lượng đưa vào khoảng 200 – 250 ml dung dịch glucose 20% có thể giảm được 0,5 mmol/l Liều insulin sử dụng: 1 UI insulin actrapid/25ml

Glucose 20%

  • Truyền hoặc tiêm tĩnh mạch chậm Natribicarbonat khi có toan máu để hạn chế Kali đi từ trong tế bào ra ngoài tế bào.
  • Resin trao đổi ion qua niêm mạc ruột: Resincalcio, Resinsodio, Kayexalat cứ mỗi 15 g uống phối hợp với sorbitol có thể giảm 0,5 mmol/l. Thuốc phát huy tác dụng sau 1 giờ. Nếu người bệnh không uống được có thể thụt thuốc qua hậu môn (100ml dịch đẳng trương).
  • Lợi tiểu thải nước và Kali
  • Lọc máu cấp: khi điều trị tăng kali máu bằng nội khoa không kết quả và K+ ≥ 6,5 mmol/l.

+ Điều trị các rối loạn điện giải khác nếu có.

+ Hạn chế tăng Nitơphiprotein máu:

  • Chế độ ăn giảm đạm
  • Loại bỏ ổ nhiễm khuẩn

+ Điều trị chống toan máu nếu có.

+ Điều trị các triệu chứng và biến chứng khác nếu có: tăng huyết áp, suy tim.

+ Chỉ định lọc máu cấp:

  • Chỉ định lọc máu cấp cứu nếu không đáp ứng các biện pháp điều trị nội khoa tăng kali máu (K+ máu > 6,5 mmol/l).
  • Khi có biểu hiện toan máu chuyển hoá rõ pH< 7,2 ( thường khi ure > 30 mmol/l, creatinin > 600 µmol/l).
  • Thừa dịch nặng gây phù phổi cấp hoặc doạ phù phổi cấp

–   Giai đoạn đái trở lại

Chủ yếu là cân bằng nước điện giải. Cần đo chính xác lượng nước tiểu 24h và theo dõi sát điện giải máu để kịp thời điều chỉnh.

+ Khi tiểu > 3 lít/24h nên bù dịch bằng đường truyền tĩnh mạch, lượng dịch bù tuỳ thuộc vào lượng nước tiểu. chú ý bù đủ cả điện giải.

+ Khi tiểu < 3 lít/24h, không có rối loạn điện giải nặng: cho uống Orezol.

+ Sau khoảng 5 ngày nếu người bệnh vẫn tiểu nhiều cũng hạn chế lượng dịch truyền và uống vì thận đã bắt đầu phục hồi chức năng cô đặc. Theo dõi sát nước tiểu 24h để có thái độ bù dịch thích hợp

– Giai đoạn phục hồi chức năng:

+ Vẫn cần chú ý công tác điều dưỡng: chế độ ăn cần tăng đạm khi ure máu đã về mức bình thường.

+ Theo dõi định kỳ theo chỉ dẫn thầy thuốc.

+ Tiếp tục điều trị nguyên nhân nếu có. Chú ý các nguyên nhân có thể dẫn đến suy thận mạn tính ( bệnh lý cầu thận, bệnh lý kẽ thận, …)

5. DỰ PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ CÁC BIẾN CHỨNG

Khi xảy ra các biến chứng trong suy thận cấp sẽ làm tiên lượng người bệnh xấu đi nhiều. Theo báo cáo của Hội Lọc máu và Ghép thận Châu Âu (EDTA) thì tỉ lệ tử vong chỉ 8% nếu chỉ tổn thương thận đơn độc, nhưng tỉ lệ tử vong tăng lên 65- 76% nếu thêm một hoặc hơn các cơ quan khác bị tổn thương (Bullock và Kindle 1985) đặc biệt là tổn thương phổi, người bệnh phải hô hấp bằng máy, biến chứng tim mạch, biến chứng nhiễm khuẩn huyết.

a. Chống nhiễm khuẩn, chống loét

Tỉ lệ nhiễm khuẩn đường tiết niệu thứ phát sau vô niệu rất cao, theo Hamburger gặp trên 50% số người bệnh, vi khuẩn chủ yếu là E. Coli, Enterococci, ít gặp hơn là Staphilococci, Bacillus pyocyaneus. cần cho kháng sinh để dự phòng nhiễm khuẩn, chú ý tránh dùng các kháng sinh độc với thận.

b. Tăng kali máu gây rung thất và ngừng tim

Tăng kali máu luôn là nguy cơ đe dọa tính mạng người bệnh suy thận cấp, ngay cả hiện nay đã có thận nhân tạo. Vì vậy, dự phòng tăng kali máu luôn là vấn đề phải đặt ra. Cần thực hiện sớm ngay từ giai đoạn đầu và suốt thời gian vô niệu việc hạn chế lượng kali ngoại sinh đưa vào cơ thể, và loại trừ sớm lượng kali nội sinh. Theo dõi điện tim để phát hiện kịp thời và sử trí sớm tăng kali máu, điện tim có độ nhạy cao và rất hữu ích để phát hiện tăng kali máu, và theo dõi biến dổi kali máu trong quá trình điều trị, không nên chờ xét nghiệm điện giải hoặc biểu hiện lâm sàng của tăng kali máu, mà cần sử trí để hạ kali máu ngay khi có các dấu hiệu tăng kali máu trên điện tim.

c. Phù phổi cấp

Mặc dù thận nhân tạo đã làm giảm đáng kể biến chứng phù phổi cấp do suy thận cấp, nhưng phù phổi cấp vẫn là một trong những nguyên nhân quan trọng gây tử vong ở người bệnh suy thận cấp cần được dự phòng và sử trí sớm. Điều chỉnh cân bằng nước và natri bằng tiết chế cần được chú ý trong suốt thời gian vô niệu, gây bài niệu tích cực cũng là biện pháp hữu hiệu để dự phòng biến chứng này. Cần đánh giá và theo dõi huyết áp và tình trạng quá tải dịch thường xuyên để điều chỉnh và chỉ định lọc máu ngoài thận kịp thời. Đặc biệt chú ý những người bệnh đã có bệnh lý tim mạch hoặc bệnh lý phổi từ trước khi bị suy thận cấp, những người bệnh bị nhiễm độc qua dường hô hấp, bỏng đường hô hấp, là những người bệnh có tỉ lệ phù phổi cấp cao.

d.   Hôn mê và tử vong do ure máu cao

Từ khi có thận nhân tạo biến chứng này ít gặp, tuy nhiên vẫn có nguy cơ cao xảy ra khi chế độ ăn uống không đúng. Vì vậy, trong suốt thời gian vô niệu cần chú ý tiết chế đúng.

Xem thêm:

Cấp cứu Suy thận cấp

Suy thận cấp – chẩn đoán, xử trí

Nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh suy thận

Phác đồ điều trị Suy thận cấp

Chẩn đoán gan to

I. Đại cương

1. Định nghĩa

Gan to : Gan có khối lượng lớn hơn bình thường ( Bt: 0,8 – 1,2kg ), gan có kích thước lớn hơn bình thường tuỳ theo chiều :

  • Chiều cao trên dưới ( Bt:10 – 11cm )
  • To lên trên vượt quá liên sườn V đường giữa đòn phải .
  • To theo chiều xuống dưới vượt qúa bờ sườn phải hoặc vượt quá 1/3 đoạn nối mũi ức rốn .

II-  Các phương pháp chẩn đoán gan to :

A- Chẩn đoán xác định:

1/ Phương pháp lâm sàng :

  • Nhìn : So sánh bên HSP và HST , nếu gan to thấy HSP vồng cao hơn HST ( hiếm thấy ) trừ khi gan rất to .
  • Sờ : ( tư thế ngửa , nghiêng trái ) :

+ Xác định bờ dưới gan ( đầu các ngón tay chạm dưới bờ dưới gan ) dùng PP “ móc gan “ cong 4 đầu ngón tay móc vào HSP tìm bờ gan .

+ Xác định mật độ gan ( Mềm , chắc , cứng …) ấn các ngón tay lên gan tìm cảm giác trên .

+ Xác định bờ mặt gan ( nhẵn , lổn nhổn , u cục to nhỏ , đều )

+ Xác định bờ gan ( mỏng , xắc , răng cưa , tù …)

+ ấn xem gan đau . Làm phản hồi gan tĩnh mạch cổ .(-) hoặc (+).

  • Gõ :

+ Gõ xác định bờ trên gan ( theo 4 đường : đường giữa đòn phải thẳng xuống , đường nách trước , đường nách giữa , đường cạnh ức phải ) gõ gián tiếp bắt

đầu từ khoang liên sườn I . Khi gõ thấy “ đục “ ở đâu lấy bút bi đánh dấu , sau đó nối lại ta có kích thước bờ trên gan .

+ Gõ xác định bờ dưới gan , gõ gián tiếp từ dưới lên .

+ Khi gõ gan tìm dấu hiệu “ rung gan “ .

  • Nghe :

+ Nghe không có giá trị chẩn đoán gan to . Trừ khi ung thư gan trên mặt gan có một khối u to lúc đó dùng ống nghe đặt trên mặt khối u tìm tiếng thổi tâm thu – nếu có TTT giúp ta nghĩ tới u của K gan .

* Tóm lại :

Sau khám thấy : bờ trên gan gõ “đục “ ở liên sườn IV , bờ dưới sờ thấy gan dưới bờ HSP 5cm , đo thấy chiều cao trên dưới 12 -14cm

* Kết luận :

+ Chụp gan xa : để bóng đèn chụp cách BN 1 -1,2m hình gan đo chiều cao : 10 -11cm là bình thường , vượt trên 11cm là gan to .

+Khi hơi vào ổ bụng , cho uống barýt , thụt barýt đại tràng rồi chụp bụng xem bóng gan . Nếu gan to sẽ thấy hình đè lấn đại tràng , dạ dày , cơ hoành . ( Cơ hoành bị đẩy lên cao )

+ Chụp đường mật , mạch máu bằng thuốc cản quang :

Thuốc cản quang vào mật và mạch máu cho hình ảnh toàn bộ gan , biến kích thước gan to hay nhỏ , có u cục trong gan không .

+ SOB : biết được khối lượng , mật độ , bề mặt , bờ trước của gan

. Một phần bề mặt trước trên

. Một phần mặt dưới phía trước .

+ SA : xạ đồ gan : cho biết kích thước gan .

B-   Chẩn đoán phân biệt :

1/ Gan sa :Bờ trên gan xuống liên sườn VI , dưới sờ thấy , chiều cao10-11cm

2/ U dạ dày : gõ trong ( gan gõ đục ) , di động . Có dấu hiệu hẹp môn vị . Chắc chắn nhất chụp dạ dày có hình khuyết .

3/ U đại tràng phải :

  • Khối u không liên tục với gan .
  • Có dấu hiệu bán tắc .
  • Chụp khung đại tràng có thấy hình khối u .

4/ U thận phải :

  • Chạm thận , bập bềnh thận (+)
  • Không di động theo nhịp thở
  • Có rối loạn về tiểu tiện .

5/ U thành bụng :

  • Bảo BN ngồi dậy vẫn túm được khối u .

C-   Chẩn đoán nguyên nhân gan to :

1/ Gan to đơn thuần ( một số nguyên nhân hay gặp )

  • áp xe gan:có tam chứng Fontam (sốt,đau HSP,gan to,rung gan (+) + SA.
  • Gan tim : Gan to , p/h gan ,t/m cổ (+) , phù chân , cổ trướng , khó thở ..
  • Ung thư gan nguyên phát : Có u cứng , dựa vào SA, SOB, sinh thiết .

2/ Gan to , vàng da :

  • Viêm gan SVT : sốt , đau HSP , vàng da , khi vàng da hết sốt , SGPT cao
  • Viêm đường mật do sỏi : tam chứng Charcot nhắc lại nhiều lần + H/c tắc mật ( gan to , túi mât to , phân bạc màu ) + SA, Xq , dịch mật .
  • U đầu tụy : vàng da tăng dần + SA , XqDD .

3/ Gan to , lách to :

  • Hc Banti ( gan to , lách to , thiếu máu )
  • Xơ gan : cổ trướng , THBH, lách to , gan mặt lổn nhổn , SA ,

4/ Gan to , lách to , hạch to :

  • Bệnh bạch cầu : sốt , chảy máu , thiếu máu gan , lách , hạch to ,tuỷ đồ .
  • Bệnh Hodgkin : hạch thượng đòn , gan to , lách to , sinh thiết hạch .

III- Kết luận :

1/ Chẩn đoán gan to thường dễ nhưng cần biết cách khám .

2/ Chẩn đoán nguyên nhân khó hơn phải nhờ SA, SOB, sinh thiết .

Triệu chứng Bệnh viêm tủy thị thần kinh (Neuromyélite optique)

Bệnh được Devic mô tả từ 1897, hay gặp ở lứa tuổị 30 – 50 và khác với xơ cứng tủy từng mảng ở chỗ bệnh Devic thường hay gặp ở người da vàng, bệnh có vẻ đơn phát. Đôi khi có hình thái di truyền hoặc ở người sinh đôi một trứng.

Triệu chứng lâm sàng là một viêm thị thần kinh phối hợp với một hội chứng tủy.

  • Triệu chứng mắt:

+ Đau nhức mắt: khởi phát có thể một mắt hoặc cả hai mắt và phục hồi dần sau điều trị.

+ Soi đáy mắt có thể thấy đáy mắt bình thường (hình thái viêm thị thần kinh hậu nhãn cầu). Trong một số trường hợp khác lại có hình thái viêm đĩa thị giác có thể trên cùng một bệnh nhân có hai mắt tổn thương không đối xứng.

  • Triệu chứng viêm tủy:

+ Thường thì triệu chứng tủy xuất hiện sau viêm thị thần kinh. Liệt mềm hai chi dưới kèm theo các dấu hiệu rối loạn cảm giác và cơ thắt. Có thể liệt cả tứ chi theo hướng đi lên.

+ Có một vài dấu hiệu màng não: nước não tủy có tăng albumin và phản ứng tế bào lympho.

  • Tiến triển phức tạp. Có trường hợp hệt đến cơ hô hấp gây tử vong. Thường thì các triệu chứng về thị giác và tủy sẽ hồi phục một cách chậm chạp, có thể để lại di chứng teo thị thần kinh một phần hay toàn bộ.

Bí đặc-Bí đao-Bí đỏ

Bí đặc

Hoa chứa một anthocyanin, cyanidin pentose glucosid và flavon, bao gồm quercetin và kaempferol. Vỏ chứa một chất đắng và acid tannic.

Bí đặc, Xúc xích, Cây đồi – Kigelia africana (Lam.) Benth (K. pinnata (Jacq) DC) thuộc họ Núc nác -Bignoniaceae.

Mô tả: Cây gỗ to, đường kính 10-20cm. Lá kép lông chim lẻ ba lần. Cụm hoa chùm xim thưa, buông rũ; hoa hình ống màu đỏ sẫm ở mặt trong, có vạch vàng ở phía ngoài. 1m. Quả hình trụ, hoa gỗ, rắn, to bằng quả bí, màu xám có cuống dài, treo lủng lẳng trên cây, dài đến

Bộ phận dùng: Quả và vỏ cây – Fructus et Cortex Kigeliae.

Nơi sống và thu hái: Loài của các savan cây gỗ ở Ðông Phi châu, được gây trồng lấy bóng mát và làm cảnh ở Hà Nội và một số địa phương khác.

Thành phần hoá học: Hoa chứa một anthocyanin, cyanidin pentose glucosid và flavon, bao gồm quercetin và kaempferol. Vỏ chứa một chất đắng và acid tannic.

Tính vị, tác dụng: Quả có tính xổ.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Quả được dùng ở Phi Châu làm thuốc bôi lên các vết loét kể cả giang mai và trị tê thấp. Vỏ được dùng trị tê thấp, lỵ và bệnh hoa liễu.

Bí đao

Bí phấn, Bí xanh – Benincasa hispida (Thunb.) Cogn., thuộc họ Bầu bí – Cucurbitaceae.

Mô tả: Cây thảo một năm mộc leo dài tới 5m, có nhiều lông dài. Lá hình tim hay thận, đường kính 10-25cm, xẻ 5 thuỳ chân vịt; tua cuốn thường xẻ 2-1 nhánh. Hoa đơn tính màu vàng. Quả thuôn dài 25-40cm, dày 10-15cm lúc non có lông cứng, khi già có sáp ở mặt ngoài, nặng 3-5kg, màu lục mốc, chứa nhiều hạt dẹp.

Hoa tháng 6-9; quả tháng 7-10.

Bộ phận dùng: Vỏ quả – Exocarpium Benincasae; thường gọi là Đông qua bì. Hạt cũng được sử dụng.

Bí đao
Bí đao

Nơi sống và thu hái: Bí đao gốc ở Ấn Độ, được trồng rộng rãi ở khắp các vùng nhiệt đới và á nhiệt đới của châu á và miền Ðông của châu Ðại Dương. Ở nước ta, Bí đao cũng được trồng khắp nơi để lấy quả. Ta thường gặp 2 giống chính là Bí đá và Bí gối. Bí đá có quả nhỏ, thuôn dài, vỏ xanh, khi già vỏ xanh xám và xứng, hầu như không có phấn trắng ở ngoài. Bí đá dày cùi, ít ruột, ăn ngon nhưng cho năng suất thấp. Còn Bí gối quả to, khi già phủ lớp sáp trắng, giống này dày cùi nhưng ruột nhiều, lại cho năng suất cao. Bí đao dễ bảo quản; nếu để nơi mát, khô ráo cho thoáng, đừng xếp chồng lên nhau thì có thể để dành bí trong nhiều tháng. Ðể làm thuốc, ta dùng quả già lấy thịt quả, vỏ quả và hạt.

Thành phần hoá học: Bí đao tươi có tỷ lệ % các chất như sau: nước 67,9, protid 0,1, lipid 0,1, cellulos 0,7, dẫn xuất không protein 30,5, khoáng toàn phần 0,1. Trong các loại kháng có calcium 26mg, phosphor 23mg, sắt 0,3mg. Còn có các vitamin caroten 0,01mg, vitamin B1 0,01mg, vitamin B2 0,02mg, vitamin PP 0,03mg và vitamin C 16mg. Nhiệt lượng do 100g bí cung cấp cho cơ thể là 12calo. Hạt chứa ureaza.

Tính vị, tác dụng: Bí đao có vị ngọt, tính lạnh, không độc, có tác dụng lợi tiểu tiện, tiờu phự thũng, thanh nhiệt, tiêu viêm. Vỏ Bí đao vị ngọt, tính mát, có tác dụng lợi tiểu, tiêu viêm tiêu thũng, giải nhiệt. Hạt có tác dụng kháng sinh, tiêu độc trừ giun.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Bí đao là loại rau xanh thường dùng trong các bữa ăn của nhân dân ta, cũng như dưa chuột. Có thể dùng Bí đao ăn luộc hoặc nấu canh tôm, canh cua, làm nộm, xào thịt gà, thịt lợn. Bí đao còn dùng làm mứt; mứt Bí đao thường dùng trong dịp Tết Nguyên đán. Ăn Bí đao thông tiểu, tiêu phù, giải khát, mát tim, trừ phiền nhiệt, bớt mụn nhọt. Vỏ quả dùng chữa đái dắt do bàng quang nhiệt hoặc đái đục ra chất nhầy. Hạt Bí đao cũng dùng rang ăn và dùng chữa ho, giải độc và trị rắn cắn. Lá Bí đao giã nát trộn với giấm rịt đắp chữa các đầu ngón tay sưng đau (chín mé). Ở Cămpuchia, người ta dùng rễ nấu nước tắm để trị bệnh đậu mùa.

Ðơn thuốc:

  1. Chữa phù thũng: Khi cả mình và mặt đều phù, dùng Bí đao cùng Hành củ nấu canh với cá chép ăn thường (Nam dược thần hiệu) hoặc dùng Bí đao 40g, Ðậu đỏ 40g sắc đặc uống hàng ngày (Kinh nghiệm dân gian).
  2. Chữa đái không thông do bàng quang nhiệt, hoặc đái đục ra chất nhầy, dùng vỏ Bí đao sắc đặc, uống nhiều sẽ đái thông (Nam dược thần hiệu).
  1. Chữa ung nhọt ở phổi hay ở đại tràng, dùng hạt Bí đao, Bồ công anh, Kim ngân hoa, ý dĩ, Diếp cá, đều Rễ lau 20g, Hạt đào, Cát cánh, Cam thảo đều 10g, sắc uống.

Bí đỏ

Bí rợ, Bầu rợ – Cucurbita maxima Duch ex Lam., thuộc họ Bầu bí – Cucurbitaceae.

Mô tả: Cây thảo lớn mọc hằng năm, phân nhánh nhiều, bò dài; thân dài 4-5m, có 5 cạnh, có lông cứng, giòn, trắng; tua cuốn chia nhiều nhánh. Lá đơn, mọc so le, dài đến 20cm, có cuống dài; phiến lá hình tim chia 5 thuỳ cạn và tròn, có lông mềm. Cây có hoa cùng gốc, hoa màu vàng nghệ, mùi thơm thơm; tràng hình chuông; nhị 3 có bao phấn dính nhau thành một, khối dài tới 2cm. Quả rất to, hình cầu, dẹp hai bên, lõm ở giữa, có thể nặng tới 50kg; thịt vàng; hạt trắng hay vàng vàng, dẹp, hơi có mép, dài 20-29mm.

Bộ phận dùng: Quả và hạt -Fructus et Semen Cucurbitae Maximae; thường gọi là Duẩn qua.

Nơi sống và thu hái: Cây của miền nhiệt đới châu Mỹ, được trồng nhiều khắp nước ta, cho năng suất cao 100-120 tấn/ha. Trồng bằng hạt vào tháng 5. Ðào hố sâu khoảng 50cm, cách nhau 3m, bón phân lót, phủ đất mịn và có nhiều mùn lên trên. Mỗi hốc bỏ 2-3 hạt. Khi cây có 2-3 lá chính thức thì cắt ngọn. Muốn có quả to, người ta thường chỉ giữ 2 hay 3 quả mỗi gốc và cắt phần ngọn ở trên quả cuối cùng.

Thành phần hoá học: Quả Bí đỏ chứa 88,3-87,2% nước, 1,40-1,33 protid, 0,5-0,43% lipid, 9,0- 9,33% chất chiết xuất không có nitrogen, 0,8-0,70% chất màng, 0,8-1,01% tro. Thịt quả tươi chứa 2,81% đường tổng số mà 2,47% là đường giảm, 90,5mg N tổng số mà 38,6 N proteic và 51,9 N hoà tan. Quả chứa caroten và xauthophin còn có sắt, mangan, đồng kẽm, arsenic. Hạt chứa các globulin. Trong 100g protein có glycololle 0,57, alanine 1,92 valin 0,26, leucin 7,32, cystin 0,23, acid aspartic 3,30, acidglutamic 12,35, tyrosin 3,07, phenylalanin 3,32, arginin 14,33, lysin 1,99, histidin 2,63, ammoniac arachilic, acid stearic, acid palmitic, acid olcic, acid linolecic, chất không savon hoá 1%; còn có những hạt phytin. Người ta tách được một carboxylase oxalacetic và pyruvic. Ở Ấn Độ, người ta xác định có saponin, cucurbitin, lutecin. Hạt chứa nhựa có tính diệt giun nhưng không có glucosid.

Tính vị, tác dụng: Cũng như Bí ngô.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Hạt dùng trị giun, diệt sán xơ mít, lợi tiểu và bổ. Dầu dùng để bổ thần kinh; thịt quả dùng đắp trị bỏng, sưng viêm và nhọt.

Bệnh rối loạn chuyển hóa lipid máu

1. Lipid máu

1.1. Khái niệm

Theo Trauber, lipid là các thành phần không tan trong nước, chiết rút được từ tổ chức bởi các dung môi ete, clorofoc hay một số dung môi hữu cơ. Theo định nghĩa hóa học, lipid là những este hoặc amid của acid béo với alcol hoặc aminoalcol .

Lipid máu là những thành phần lipid có trong huyết tương, bao gồm: cholesterol, triglycerid, phospholipid và các acid béo tự do . Cholesterol là những lipid trong cấu tạo có nhân sterol. Triglycerid (TG) là các este của glycerol và các acid béo. Phospholipid là các este của acid phosphatidic. Acid béo là các cấu trúc gồm mạch carbon gắn với gốc acid hữu cơ đơn thuần .

1.2. Phân loại

Lipid gồm nhiều loại và có thể sắp xếp theo nhiều cách, tuy nhiên người ta thường phân thành 2 loại lớn: lipid thuần và lipid tạp. Lipid thuần là những este của các acid béo với các alcol khác nhau; bao gồm glycerid, cerid và sterid.  Lipid tạp gồm phospholipid và sphingolipid, được cấu tạo từ acid béo, alcol và có thêm các nhóm hóa học khác nhau .

Theo ý nghĩa bệnh học, trên lâm sàng các thầy thuốc thường quan tâm tới cách phân loại theo sinh lý bệnh và chia lipid máu thành 2 loại lớn, đó là: cholesterol và triglycerid.

1.3. Nguồn gốc

Lipid trong máu được tạo nên bởi 2 nguồn gốc là nội sinh và ngoại sinh. Cholesterol được hấp thu ở ruột non từ thức ăn, gắn vào các chylomicron và vận chuyển tới gan. Cholesterol cũng được tổng hợp nội sinh từ hệ thống enzym HMG.CoA reductase của gan. TG nội sinh được tổng hợp ở gan và mô mỡ qua con đường glycerolphosphat từ các nguồn nguyên liệu là các sản phẩm chuyển hóa của glucid, protid. Tuy nhiên 90% TG trong máu có nguồn gốc từ ngoại sinh.

2. Lipoproteein máu

2.1. Khái niệm

Do các phân tử lipid không tan trong nước nên trong máu chúng được lưu thông dưới dạng kết hợp với các protein đặc hiệu (gọi là các apoprotein) tạo thành các lipoprotein. Đây là các phân tử có trọng lượng riêng cao, tan trong nước

Lipoprotein có dạng hình cầu, đường kính dao động trong khoảng 100-500 Å, có cấu trúc gồm một trong các lipid đã nêu trên ở trung tâm (phần kỵ nước) và một phân tử protein đặc hiệu với loại lipid đó ở phía ngoài (phần ưa nước).

2.2. Nguồn gốc và phân loại

Dựa theo tỉ trọng khi siêu ly tâm phân tích, lipoprotein được chia thành 5 loại chính, mỗi loại lại có nguồn gốc khác nhau. Cụ thể như sau:

  • Chylomicron (CM): là các lipoprotein có kích thước lớn nhất, thực chất nó là các hạt mỡ nhỏ li ti có thành phần chủ yếu là TG (98-99%). CM có tỷ trọng < 0,96 và có kích thước 800-10.000 Å, chúng mang các apoprotein AI, AII, B và một ít C, E. Các CM được tổng hợp tại tế bào niêm mạc ruột, chỉ lưu hành một thời gian ngắn trong huyết tương sau bữa ăn giàu lipid (làm cho huyết tương có màu trắng đục) Đây là dạng vận chuyển của TG ngoại sinh từ ruột tới gan. Ở người bình thường, CM sẽ biến mất sau vài giờ khi kết thúc bữa ăn.
  • Lipprotein tỉ trọng rất thấp (very low density lipoprotein-VLDL): được tạo thành chủ yếu từ tế bào gan (khoảng 90%) và một phần nhỏ tại ruột (10%), đây là dạng vận chuyển TG nội sinh từ gan qua hệ tuần hoàn tới các mô vì vậy các VLDL có nồng độ trong huyết thanh rất thấp khi cơ thể ở trngj thái đói. Thành phần VLDL chứa 89-94% TG. VLDL có tỉ trọng 0,96-1,006, có kích thước 300-800 Å, mang các apoprotein B, C, E.
  • Lipprotein tỉ trọng trung gian (intermediate density lipoprotein- IDL): là sản phẩm chuyển hóa của VLDL và là tiền chất của LDL, chúng có tỉ trọng 1,006-1,019. IDL được tạo thành trong vòng tuần hoàn khi VLDL bị mất dần TG bởi sự thủy phân của các enzym lipase, este hóa cholesterol và mất apoprotein C.
  • Lipprotein tỉ trọng thấp (low density lipoprotein- LDL): là sản phẩm chuyển hóa của VLDL, trong thành phần chứa 75-80% lipid và rất giầu cholesterol. Các LDL có kích thước khoảng 200-220 Å, tỉ trọng 1,019-1,063, mang chủ yếu các apoprotein B. Chức năng của LDL là vận chuyển cholesterol từ gan tới các mô cơ quan và đó là nhân tố chính tham gia vào sự phát triển của các mảng xơ vữa động mạch.
  • Lipprotein tỉ trọng cao (high density lipoprotein- HDL): đây là những chất được tổng hợp từ gan và ruột non, được hoàn thiện trong huyết tương. HDL có khích thước khoảng 70-95 Å, tỉ trọng 1,063-1,125, mang các apoprotein AI và AII. HDL có vai trò nhận các phân tử cholesterol từ ngoại vi và vận chuyển về gan. HDL chứa 50-55% lipid, nó là yếu tố chính làm giảm quá trình xơ vữa mạch.

Bảng 1.1. Đặc điểm các loại lipoprotein

Loại lipoprotein Kích thước(Å) Tỉ trọng Chứa apoprotein Chứa lipid Nguồn gốc
CM 800-10000 < 0,96 AI, AII,B TG Ruột
VLDL 300-800 0,96-1,006 B,C,E TG Gan, ruột
IDL 200-300 1,006 – 1,019 TG, TC VLDL
LDL 200-220 1,010 – 1,063 B TC VLDL
HDL 70-95 1,063 -1,125 AI, AII TC Gan, ruột

2.3. Chuyển hóa lipid và lipoprotein

Phụ thuộc vào nguồn gốc, lipid và lipoprotein có con đường chuyển hóa khác nhau:

  • Đường ngoại sinh:

Các phân tử lipid được đưa vào cơ thể qua đường thức ăn sẽ được chuyển hóa theo con đường ngoại sinh. TG, TC và phosphatid từ thức ăn sau khi được hấp thu qua niêm mạc ruột được chuyển thành các CM trong hệ thống mao mạch. CM được dòng máu vận chuyển tới mô mỡ và mô cơ. Tại đây, dưới tác dụng của enzym lipoprotein lipase, các phân tử TG bị thủy phân thành glycerol và các acid béo, đồng thời các phân tử apoprotein C cũng bị tách dần khỏi các CM. Quá trình này xảy ra liên tục làm cho các CM bị mất dần TG và tạo thành các CM tàn dư có tỉ lệ cholesterol ngày càng tăng. Các phân tử acid béo được mô cơ quan giữ lại để xây dựng tổ chức, dữ trữ hoặc tạo năng lượng cung cấp cho tế bào; các CM tàn dư được vận chuyển tới gan. Tại các tế bào gan, phần cholesterol trong các CM tàn dư được chuyển hóa thành các acid mật, muối mật tạo nên dịch mật; phần còn lại cùng TG tham gia quá trình tạo VLDL. VLDL rời tế bào gan vào vòng tuần hoàn, bắt đầu con đường chuyển hóa lipid nội sinh.

  • Đường nội sinh:

Đây là con đường chuyển hóa dành cho các lipoprotein, lipid có nguồn gốc từ gan. Sau khi VLDL được tế bào gan và ruột tổng hợp, chúng theo dòng máu tới các tổ chức ngoại vi. Trong quá trình vận chuyển và tại các tổ chức, phần TG bị thủy phân dần bởi các enzym lipoprotein lipase, apoprotein C cũng bị tách dần dể tạo HDL làm cho kích thước của VLDL ngày càng giảm (lượng TG mất dần). Đồng thời với quá trình này, dưới tác dụng của một enzym khác (lecithin cholesterol acyl transferase) các phân tử cholesterol tự do trong VLDL được este hóa tạo thành cholesterol este. Như vậy VLDL bị mất phần lớn TG, este hóa cholesterol và mất apoprotein C chuyển thành các IDL.

Các IDL được chuyển hóa rất nhanh, một phần chúng bị giữ lại tại gan, phần còn lại bị tách apoprotein E ngay trong vòng tuần hoàn để tạo thành các LDL (thành phần chủ yếu là cholesterol este, một phần cholesterol tự do và apoprotein B100).

LDL sau khi được hình thành sẽ vận chuyển các phân tử cholesterol tới mô đích. Tại tế bào đích, LDL được thực bào và bị thủy phân trong các lysosom tạo ra các sản phẩm phục vụ cho chuyển hóa của tế bào. Trong quãng đường di chuyển của mình, LDL có thể reo rắc các phân tử cholesterol trên các thành mạch và đây là nguyên nhân gây ra tình trạng xơ vữa động mạch.

Các phân tử HDL được tổng hợp tại gan và tế bào ruột, chúng có nhiệm vụ tiếp nhận, thu nạp các phân tử cholesterol tự do trong máu, trên các thành mạch và vận chuyển về gan. Tại đây, cholesterol được các tế bào gan sử dụng còn các apoprotein (A, E) trong HDL sẽ được đưa vào máu để tiếp tục chu trình mới.

Ở người bình thường, quá trình tổng hợp và giáng hóa lipid diễn ra cân bằng và theo nhu cầu của cơ thể. Do vậy, hàm lượng và tỉ lệ thành phần các loại lipoprotein, lipid trong máu được ổn định. Khi mất cân bằng giữa hai quá trình này, rối loạn chuyển hóa lipid sẽ xảy ra.

3. Rối loạn chuyển hóa lipid

3.1. Khái niệm

Khi nhắc tới rối loạn chuyển hoá lipid người ta thường chú trọng tới các chỉ số lipid trong máu. Mặc dù “rối loạn chuyển hoá lipid” không chỉ biểu hiện đơn thuần là sự thay đổi của các thành phần lipid trong huyết thanh nhưng có thể coi “rối loạn lipid máu” là vấn đề chính, cốt lõi của “rối loạn chuyển hóa lipid”.

Rối loạn lipid máu là là tình trạng thay đổi và/hoặc tăng nồng độ các thành phần lipid trong huyết thanh [1,10]. Như vậy, ngày nay người ta coi như đã có rối loạn lipid máu ngay từ khi tỉ lệ các thành phần của lipid trong máu có sự thay đổi, mặc dù giá trị tuyệt đối nồng độ các thành phần lipid trong máu chưa tăng.

3.2. Chẩn đoán

Trong huyết thanh tồn tại nhiều thành phần lipid, mỗi loại đều có giới hạn nhất định; chỉ cần thay đổi có ý nghĩa một trong các thành phần đó tức là rối loạn chuyển hoá lipid đã xảy ra.

  • Tăng Cholesterol máu: nồng độ Cholesterol toàn phần (TC) trong máu > 5,2 mmol/l (200 mg/dl).
  • Tăng TG máu: TG > 1,7 mmol/l (150 mg/dl).
  • Giảm HDL-C: Khi HDL-C máu < 0,9 mmol/l (35mg/dl).
  • Tăng LDL–C: LDL-C > 3,4 mmol/l (130 mg/dl)
  • Rối loạn lipid máu kiểu hỗn hợp: khi có rối loạn cả TG và TC.

Trong thực tế lâm sàng, các thầy thuốc không chỉ dựa vào các giá trị tuyệt đối của các chỉ số lipid máu. Ngay cả khi các chỉ số tuyệt đối chưa tăng nhưng có sự thay đổi về thành phần, tỉ lệ các loại lipid máu cũng có thể chẩn đoán rối loạn chuyển hóa lipid. Các tỉ lệ thường dùng là:

  • TC/HDL: bình thường chỉ số này dưới 5.
  • LDL/HDL: chỉ số này bình thường dưới 4.
  • Cholesterol không HDL: thông số này phản ánh tình trạng số lượng Cholesterol có hại với cơ thể. Giá trị tối ưu là < 3,4 mmol/l.

3.3. Phân loại

Có nhiều cách phân loại các rối loạn lipid máu, ở đây chúng tôi giới thiệu 3 cách phân loại thường dùng:

  • Phân loại theo nguyên nhân:
    • Hội chứng tăng lipid máu nguyên phát (trình bày ở sau)
    • Hội chứng tăng lipid máu thứ phát gặp trong các bệnh: đái tháo đường, goutte, suy tuyến giáp, hội chứng tắc mật, suy thận mạn…, sau dùng thuốc lợi tiểu, corticoid…

Bảng 1.2. Rối loạn lipid máu trong một số bệnh

Bệnh lý Lipid Lipoprotein
Đái tháo đường “ TG “ VLDL, ” HDL
Hội chứng thận hư “ TC, TG “ LDL
Tăng ure máu “ TG “ VLDL
Suy giáp “ TC, TG “ LDL
Bệnh mật tắc nghẽn “ TG
Nghiện rượu “ TG “ VLDL, HDL
Dùng thuốc tránh thai “ TG “ VLDL, ” HDL
Dùng thuốc chẹn b “ TG “ VLDL, CM, ” HDL

 

  • Phân loại của De Gennes:
    • Hội chứng tăng cholesterol máu nguyên phát: huyết thanh bệnh nhân lúc đói trong, cholesterol máu tăng rất cao, TG máu bình thường hoặc tăng nhẹ, chỉ số TC/TG ≥ 2,5.
    • Hội chứng tăng TG máu chủ yếu: huyết thanh bệnh nhân khi đói có màu đục như sữa ở phía trên, phía dưới tương đối trong, TC máu bình thường hoặc tăng nhẹ, TG máu tăng rất cao, tỷ số TG/TC ≥ 2,5.
    • Hội chứng tăng lipid máu hỗn hợp: huyết thanh lúc đói thường đục nhẹ, có thể đực đều hoặc chỉ đục phần trên, TC tăng ở mức độ vừa phải, TG tăng nhiều hơn, tỉ số TC/TG < 2,5.
  • Phân loại của Fredrickson: năm 1965, Fredrickson dựa vào kỹ thuật điện ly và siêu ly tâm đã phân loại rối loạn lipid máu thành 5 týp, chủ yếu dựa vào thành phần lipiprotein, năm 1970, một số tác giả tách týp II thành IIa và IIb, từ đó nó trở thành bảng phân loại quốc tế :

Bảng 1.3. Phân loại quốc tế rối loạn lipid máu

Týp Lipoprotein TG TC
I “ CM “““ “
IIa “ LDL bt ““
IIb “ LDL, VLDL ““ ““
III “ IDL ““ “
IV “ VLDL ““ bt/“
V “ VLDL, CM “““ “

bt: bình thường              ““: tăng vừa

“: tăng nhẹ                     “““: tăng nhiều

  • Phân loại của hiệp hội xơ vữa động mạch châu Âu EAS (European Antherosis Society):

Bảng 1.4. Phân loại của EAS 1987

Phân loại TC (mmol/l) TG (mmol/l)
Bình thường ≤ 5,2 ≤ 2,2
Týp A 5,2 – 6,5 ≤ 2,2
Týp B 6,5 – 7,8 ≤ 2,2
Týp C ≤ 5,2 2,2 – 5,5
Týp D 5,2 – 7,8 2,2 – 5,5
Týp E > 7,8 > 5,5

 

Bảng 1.5. Các mức độ rối loạn lipid máu

Chỉ số mg/dl mmol/l Đánh giá
LDL-C < 100 < 2,6 Tối ưu
100-129 2,6-3,35 Bình thường
130-159 3,35-4,1 Cao giới hạn
160-189 4,1-4,15 Cao
≥ 190 > 4,15 Rất cao
TC < 200 < 5,2 Bình thường
200-239 5,2 – 6,24 Cao giới hạn
≥ 240 > 6,24 Cao
HDL-C < 40 < 0,9 Thấp
≥ 60 > 1,35 Cao
TG < 150 < 1,7 Bình thường
150-199 1,7 – 2,3 Cao giới hạn
200-499 2,3 – 5,5 Cao
≥ 500 > 5,5 Rất cao

 

3.4. Nguyên nhân

Khi đề cập tới nguyên nhân gây ra tình trạng rối loạn lipid máu, người ta thường nói tới sự kết hợp của rất nhiều yếu tố như: sự lão hóa của cơ thể theo độ tuổi, chế độ ăn giầu lipid, khiếm khuyết của hệ thống gen…

  • Nguyên nhân tiên phát:

Các nguyên nhân tiên phát là các đột biến đơn hoặc đa gen, hậu quả là làm tăng sản xuất hoặc giảm thanh thải TG và LDL-C, hoặc giảm sản xuất hoặc tăng giáng hóa HDL-C. Chúng ta nghi ngờ rối loạn lipid máu tiên phát khi bệnh nhân có rối loạn chuyển hóa lipid, xuất hiện các biểu hiện của xơ vữa động mạch sớm trước tuổi 30 và tiền sử gia đình bị xơ vữa động mạch. Rối loạn lipid máu tiên phát gặp chủ yếu ở trẻ em, còn ở người lớn nó chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ .

  • Nguyên nhân thứ phát:

Các nguyên nhân thứ phát là nguyên nhân chính gây ra tình trạng bệnh lý rối loạn lipid máu ở người trưởng thành. Nguyên nhân quan trọng bậc nhất là lối sống tĩnh tại kết hợp với chế độ ăn quá nhiều thức ăn chứa các acid béo no và cholesterol. Tiếp đó phải kể đến bệnh lý rối loạn chuyển hóa carbonhydrat mà điển hình là đái tháo đường týp 2. Các nguyên nhân khác bao gồm: uống quá nhiều rượu, xơ gan mật tiên phát, dùng nhiều thuốc lợi tiểu thiazid, lạm dụng corticoid, estrogen…Các nguyên nhân này gây tăng TG, LDL nhỏ và làm giảm HDL. Mỗi một nguyên nhân gây ảnh hưởng ít nhất tới một thành phần lipid máu. Có thể kể tới như sau:

Nguyên nhân gây tăng cholesterol máu:

  • Ăn quá nhiều mỡ động vật.
  • Ăn quá nhiều thức ăn có chứa nhiều cholesterol (phủ tạng động vật, mỡ động vật, trứng, bơ, sữa toàn phần…).
  • Chế độ ăn d­ư thừa năng l­ợng (béo phì).
  • Tăng cholesterol gia đình (thiếu hụt thụ thể với LDL).
  • Rối loạn lipid máu kiểu hỗn hợp có tính chất gia đình.
  • Tăng cholesterol máu do rối loạn hỗn hợp gen.
  • Hội chứng thận hư­.
  • Suy giáp.
  • Đái tháo đư­ờng.
  • Bệnh lý gan tắc nghẽn.
  • Các bệnh gây rối loạn protein máu (đa u tuỷ xư­ơng, macroglobulinemia).

Nguyên nhân gây tăng Triglycerid máu:

  • Thiếu hụt gen lipase tiêu huỷ lipoprotein hoặc apolipoprotein C-II.
  • Tăng TG có tính chất gia đình.
  • Béo phì.
  • Uống quá nhiều r­uợu.
  • Đái tháo đ­ường.
  • Dùng thuốc chẹn bêta giao cảm kéo dài.

Nguyên nhân gây giảm HDL-C:

  • Hút thuốc lá.
  • Béo phì.
  • L­ười vận động thể lực.
  • Đái tháo đ­ường không phụ thuộc insulin.
  • Tăng TG máu.
  • Dùng thuốc chẹn beta giao cảm kéo dài.
  • Rối loạn gen chuyển hoá HDL.

3.5. Các vấn đề liên quan

  • Thừa cân, béo phì

Những người thừa cân, béo phì đặc biệt là những người béo bụng có tỉ lệ rối loạn lipid máu rất cao và thường được biểu hiện bởi: tăng TG, tăng LDL, giảm HDL. Kết quả nghiên cứu của tác giả Inoun (Nhật Bản) chỉ ra rằng nguy cơ tăng TG, LDL và hạ HDL máu ở nhóm đối tượng có BMI > 25 cao gấp 2 lần so với nhóm có BMI = 22.

  • Đái tháo đường

Người mắc bệnh đái tháo đường có tỉ lệ mắc rối loạn chuyển hoá lipid cao gấp 2-3 lần người không mắc đái tháo đường. Thậm chí, có nhiều ý kiến cho rằng ở những người có rối loạn dung nạp glucose hoặc suy giảm glucose máu lúc đói cũng đã có rối loạn chuyển hoá lipid ở mức tương tự . Điều nguy hiểm cho các đối tượng này là ở chỗ họ không hề biết mình mắc bệnh để đề phòng mặc dù mức độ nguy cơ với các bệnh lý tim mạch là rất lớn. Nghiên cứu UKPDS ở Anh quốc cho thấy, ở người bệnh đái tháo đường thường có tăng LDL-C, tăng TG và giảm HDL-C trong huyết thanh.

Đối với đái tháo đường týp 1, tăng TG- thường tăng LDL-C hạt nhỏ là biểu hiện thường thấy trong giai đoạn đầu của bệnh do giảm hoạt tính của enzym lipoprotein lipase ở mô mỡ. Cũng có thể thấy mức HDL-C thấp ở những đối tượng kiểm soát glucose máu kém. Tuy nhiên, tất cả các bất thường này sẽ được cải thiện song hành với mức độ kiểm soát glucose máu.

Đối với người bệnh đái tháo đường týp 2 chưa từng được điều trị thường có tăng TG máu kết hợp với giảm HDL-C. Tuy nhiên trong thực tế, tăng TG và giảm HDL-C vẫn tồn tại khi người bệnh đái tháo đường týp 2 đã được điều trị và đôi khi không phụ thuộc vào mức độ kiểm soát glucose máu. Những bất thường còn lại này người ta gọi là rối loạn lipid máu trong bệnh đái tháo đường.

3.6. Triệu chứng rối loạn chuyển hóa lipid

  • Lâm sàng:

Nhìn chung, các biểu hiện lâm sàng của rối loạn chuyển hóa lipid khá nghèo nàn. Rất hiếm khi tìm được triệu chứng đặc thù của rối loạn chuyển hoá lipid. Nếu không phải là các trường hợp có thừa cân thì thông thường bệnh nhân được phát hiện qua các đợt khám bệnh định kỳ hoặc qua các biến chứng của nó. Tuy nhiên trên một trường hợp có rối loạn chuyển hóa lipid, thường là tiên phát, có thể tìm thấy một số biểu hiện sau:

  • U vàng ngoài da: thường xuất hiện trong các rối loạn chuyển hóa lipid có tính chất gia đình, u vàng thường xuất hiện tại gân cơ achill, khuỷu tay hay đầu gối.
  • U vàng phát ban xuất hiện khi có tăng CM kéo dài, thường gặp ở vùng bụng và mặt trong của chi trên.
  • Viêm tụy cấp tái phát nhiều lần khi tăng TG kéo dài ( ≥ 11,3 mmol/l hay 1000mg/dl), nguyên nhân có lẽ do men lipase phóng thích quá nhiều vào hệ mao mạch tụy.
  • Các động tĩnh mạch võng mạc có màu kem trắng khi TG tăng ≥ 2000mg/dl.
  • Đau bụng mạn tính do gan nhiễm mỡ và tình trạng kéo căng bao gan.
  • Cận lâm sàng:

Cận lâm sàng là triệu chứng được quan tâm hàng đầu và là tiêu chuẩn để chẩn đoán xác định các trường hợp có rối loạn chuyển hóa lipid.

  • Tăng TG, LDL-C, TC huyết thanh.
  • Giảm HDL-C.
  • Xơ vữa động mạch trên máy siêu âm doppler mạch.
  • Huyết tương có màu đục sữa khi TG tăng cao.

3.7. Hậu quả của rối loạn chuyển hóa lipid

  • Xơ vữa động mạch

Theo Tổ chức y tế Thế giới: “Vữa xơ động mạch là sự phối hợp những biến đổi của lớp nội mạc động mạch bao gồm sự tích tụ tại chỗ các lipid, phức hợp các glucid, máu và các sản phẩm của máu, tổ chức và calci kèm theo những biến đổi của lớp trung mạc”. Vữa xơ động mạch là bệnh lý của các động mạch lớn và vừa, được thể hiện bằng 2 loại tổn thương cơ bản là mảng xơ vữa rất giầu cholesterol và tổ chức xơ xảy ra ở lớp nội mạc và một phần lớp trung mạc. Nó làm hẹp dần lòng động mạch và cản trở dòng máu đến nuôi dưỡn các tổ chức.

Rối loạn chuyển hoá lipid thường gắn liền với bệnh lý mạch máu, đặc biệt là bệnh mạch vành. Tăng lipoprotein tỉ trọng thấp (LDL-C), giảm lipoprotein tỉ trọng cao (HDL-C) và tăng TG là các yếu tố nguy cơ độc lập của bệnh động mạch vành. Mức LDL-C tăng càng cao thì nguy cơ mắc bệnh mạch vành càng lớn. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng tỉ lệ nhồi máu cơ tim, đau thắt ngực tăng song hành với mức độ tăng của nồng độ cholesterol trong máu. Tiên lượng của các bệnh nhân bị bệnh mạch vành được cải thiện đáng kể khi các rối loạn này được điều chỉnh.

Tác động của rối loạn chuyển hoá lipid làm tăng nguy cơ mắc các bệnh lý tim mạch thông qua cơ chế làm xơ vữa mạch máu. Rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, béo phì…đều là các yếu tố nguy cơ làm tăng tỉ lệ mắc xơ vữa mạch. Tuy nhiên, yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất thúc đẩy sự hình thành các mảng xơ vữa là các rối loạn lipid máu.

Các tế bào nội mô có một vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì chức năng mạch máu, chúng có khả năng tiết ra các chất để điều hòa trương lực thành mạch và tốc độ dòng chảy của máu, cũng như khả năng thủy phân fibrin. Trong rối loạn chuyển hoá lipid, ít nhiều tình trạng đề kháng với hoạt động của insulin có xuất hiện do sự bất thường về hoạt động của các mô mỡ, một cơ quan đích khá quan trọng của insulin. Cùng với nó là sự hoạt hóa các tế bào nội mô mạch máu; thậm chí là tình trạng viêm nhiễm lớp tế bào nội mạch do tăng quá mức nồng độ các loại lipid máu, làm suy giảm chức năng của các tế bào này dẫn đến tình trạng tăng co mạch. Bên cạnh đó là tình trạng phản ứng quá mức của tiểu cầu, monocyst sẽ tạo điều kiện cho các rối loạn đông máu phát triển.

Quá trình chuyển hóa của các lipoprotein xảy ra ở gan được kiểm soát chủ yếu bởi insulin. Ở người có rối loạn chuyển hóa, kháng insulin xảy ra và kết hợp chặt chẽ với tình trạng rối loạn chuyển hóa lipid. Khi nồng độ lipid, đặc biệt là các mẩu LDL-C nhỏ, tăng cao trong máu kết hợp với các tổn thương của tế bào nội mô là điều kiện rất thuận lợi cho việc tích tụ các lipoprotein trên bề mặt lớp nội mạc mạch máu (do các đại thực bào biến thành các tế bào bọt để lại). Đó là điều kiện cần và đủ để hình thành mảng xơ vữa.

  • Tăng huyết áp:

Theo thống kê của Khoa Sinh hóa bệnh viện Bạch Mai trong năm 2000, có tới 79% những người tăng huyết áp có rối loạn lipid máu. Xơ vữa động mạch có thể làm hẹp động mạch thận, đây có thể là nguyên nhân gây tăng huyết áp hoặc làm nặng thêm các trường hợp đã có tăng huyết áp từ trước đó.

Xem thêm:

điều trị rối loạn lipid máu

Bệnh Rối loạn lipid máu theo Y học cổ truyền

Tác dụng chữa bệnh của củ Hành ta (hành hoa, hành lá)

Tên khoa học:

Allium fistulosum L. Họ Hành (Alliaceae).

Tên khác:  Hành ta, hành hoa, hành hương, thông bạch, co xông, hom búa (Thái), sông (Dao).

Mô tả:

Cây thảo, sống hàng năm, có thân hành nhỏ phân nhánh. Lá hình trụ nhẵn, rỗng ruột mọc thẳng từ thân hành, có bẹ rộng và dài, màu trắng đôi khi pha hồng nhạt, mọc ốp sát vào nhau.

Cụm hoa mọc trên một cán rỗng thành tán giả, hoa nhiều có 6 thùy bằng nhau, màu trắng có sọc xanh, nhị 6 dài hơn bao hoa, mọc thò ra ngoài.

Quả nang, hình cầu, hạt hình ba cạnh, màu đen.

Toàn thân khi vò ra có mùi hăng cay.

Mùa hoa quả: tháng 4-11.

Còn có cây hành nén hay hành củ có thân hành to, cũng được dùng với công dụng tương tự.

Hành tăm
Hành tăm

Thành phần hóa học:

Hành chứa tinh dầu với thành phần chính là allicin, các hợp chất diallyldisulfid, các đường glucose, saccharose, các vitamin B1, B2, C, các chất vô cơ Ca, Fe, P, các men tiêu hóa như invertin, pepsin, pancreatin, các acid béo, pectin, chất nhầy.

Tinh dầu hành còn có nhiều hợp chất sulfur.

Tác dụng dược lý:

Hành có tác dụng làm tăng sự bài tiết các dịch tiêu hóa góp phần vào quá trình chuyển hóa các chất đạm, mỡ và đường, tránh được đầy chướng và ngộ độc.

Chất allicin trong tinh dầu hành có tác dụng kháng khuẩn mạnh.

Nước chiết từ hành làm ức chế nhiều loài nấm gây bệnh ngoài da.

Một số tác dụng chữa bệnh của hành có thể kể ra như sau:

Giảm cholesterone: Chất sắt có trong hành tây chính là lý do tại sao hành tây được cho là rất tốt trong việc điều trị thiếu máu.

Chống đông máu: Chỉ cần mỗi ngày ăn nửa củ hành thôi là bạn đã có thể tự giảm đáng kể lượng cholesterone cho mình và giúp bản thân ngăn ngừa những cơn đau tim.

Chống viêm: Các chất chống viêm trong hành rất có ích trong việc giảm các triệu chứng của tình trạng viêm, đặc biệt là viêm khớp và bệnh gút.

Chống nhiễm khuẩn: Hành có tác dụng tiêu diệt các vi khuẩn lây nhiễm, bao gồm cả vi khuẩn E.coli và Salmonella. Ngoài ra, nó còn có hiệu quả chống lại bệnh lao và nhiễm trùng đường tiểu, chẳng hạn như viêm bàng quang.
Tốt cho huyết áp: Dù bạn ăn sống hoặc nấu chín, hành tây cũng giúp bạn hạ huyết áp một cách tự nhiên. Nó cũng làm loãng máu, hòa tan cục máu đông và lọc máu khỏi các chất béo không lành mạnh.

Phòng chống ung thư ruột kết: Fructo-oligosaccharides trong hành kích thích sự tăng trưởng của vi khuẩn có lợi trong ruột kết và giúp giảm nguy cơ phát triển khối u ở ruột kết.

Theo những nghiên cứu ghi chép thì hành được sử dụng từ những năm trước công nguyên và là một vị thuốc chữa được rất nhiều bệnh.Ăn hành tây đỏ, giảm cholesterol

Hành tây là một thành viên của gia đình hoa huệ tây và có “mối liên hệ mật thiết” với tỏi. Nó thường được gọi là “vua của các loại rau” vì hương vị cay nồng.

Có nhiều loại hành với đủ loại màu sắc, kích thước và vị giác. Các củ hành nhỏ thì thường được gọi là hành lá, bao gồm hẹ, tỏi tây và hẹ tây.

Lợi ích dinh dưỡng: Tuy cùng là một giống nhưng sự khác nhau về chủng loại, thời gian trồng và thời gian lưu trữ cũng làm cho các loại hành này có tác dụng dinh dưỡng khác nhau.

Hành được coi là thực phẩm có tính kháng viêm cao. Ngoài ra, nó lại rất giàu vitamin A, B, C và là một nguồn tiềm năng của acid folic, canxi, phốt pho, magiê, crom, sắt và chất xơ.

Lợi ích sức khỏe: Theo những nghiên cứu ghi chép thì hành được sử dụng từ những năm trước công nguyên và là một vị thuốc chữa được rất nhiều bệnh.

Một số tác dụng chữa bệnh của hành có thể kể ra như sau:

Giảm cholesterone: Chất sắt có trong hành tây chính là lý do tại sao hành tây được cho là rất tốt trong việc điều trị thiếu máu.

Chống đông máu: Chỉ cần mỗi ngày ăn nửa củ hành thôi là bạn đã có thể tự giảm đáng kể lượng cholesterone cho mình và giúp bản thân ngăn ngừa những cơn đau tim.

Chống viêm: Các chất chống viêm trong hành rất có ích trong việc giảm các triệu chứng của tình trạng viêm, đặc biệt là viêm khớp và bệnh gút.

Chống nhiễm khuẩn: Hành có tác dụng tiêu diệt các vi khuẩn lây nhiễm, bao gồm cả vi khuẩn E.coli và Salmonella. Ngoài ra, nó còn có hiệu quả chống lại bệnh lao và nhiễm trùng đường tiểu, chẳng hạn như viêm bàng quang.

Tốt cho huyết áp: Dù bạn ăn sống hoặc nấu chín, hành tây cũng giúp bạn hạ huyết áp một cách tự nhiên. Nó cũng làm loãng máu, hòa tan cục máu đông và lọc máu khỏi các chất béo không lành mạnh.

Phòng chống ung thư ruột kết: Fructo-oligosaccharides trong hành kích thích sự tăng trưởng của vi khuẩn có lợi trong ruột kết và giúp giảm nguy cơ phát triển khối u ở ruột kết.

Táo bón và đầy hơi: Ăn nhiều hành tây sẽ giúp giảm táo bón mãn tính và đầy hơi.

Tiểu đường: Chromium trong hành tây giúp các tế bào trong cơ thể của bệnh nhân tiểu đường có phản ứng thích hợp để làm giảm mức độ insulin và cải thiện lượng đường glucose hấp thụ vào cơ thể.

Lợi tiểu và làm sạch máu: Hành có tác dụng giữ nước để tránh sỏi tiết niệu, viêm khớp và bệnh gút.

Chữa ù tai: Trong một số nền văn hóa, người ta nhúng bông vào nước ép hành và chấm vào tai để chống lại sự ù tai.

Rụng tóc: Một nghiên cứu đã cho thấy việc bôi nước ép hành tây trên da đầu hai lần một tuần trong 2 tháng sẽ làm cho tóc mọc lại. Biện pháp này hiệu quả mà chi phí lại chắc chắn rẻ hơn những loại thuốc mọc tóc khác.Cách trị rụng tóc

Tăng cường miễn dịch: Vị hăng của hành làm tăng lưu thông máu và sự tiết mồ hôi. Đặc biệt trong thời tiết lạnh, hành có tác dụng tránh nhiễm trùng, giảm sốt và đổ mồ hôi ra cảm lạnh và cúm rất tốt.

Loãng xương: Trong hành có chứa một hợp chất có thể ngăn ngừa các hoạt động phá vỡ xương. Đặc biệt nó có lợi cho những phụ nữ có nguy cơ bị loãng xương khi họ đi qua thời kỳ mãn kinh.

Hô hấp: Mỗi ngày bạn nên uống 3-4 thìa cà phê hỗn hợp nước ép hành và mật ong để làm tiêu đờm và ngăn chặn sự tạo đờm trong cơ thể. Hỗn hợp này cũng là vị thuốc để chống lại bệnh cảm lạnh thông thường.

Nâng cao chất lượng “chăn gối”: Hành là một chất kích thích tình dục mạnh, chỉ đứng thứ hai sau tỏi.

Nhiễm trùng đường tiết niệu: Đun sôi hành trong nước cho đến khi nước bốc hơi. Lọc lấy nước củ hành, để nguội và uống. Các đặc tính chống vi khuẩn của hành sẽ giúp làm giảm các cảm giác nóng khi tiểu tiện.

Công dụng chữa bệnh theo Đông y:

Y học cổ truyền coi hành có vị cay, tính ôn, có tác dụng thanh nhiệt, làm ra mồ hôi, lợi tiểu, giúp tiêu hóa, kháng khuẩn. Hành củ dùng để làm gia vị cho các món ăn hằng ngày nhưng hành còn là một vị thuốc độc đáo mà Đông y gọi là “thông bạch”, giúp chữa cảm mạo, động thai…

Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) đã dùng hành sắc uống chữa bí đái và lấy hành giã nát trộn với mật ong, đắp băng làm mau lành vết thương.

Củ hành (15 – 20g) giã nhỏ trộn với cháo nóng ăn cho giải nhiệt, làm ra mồ hôi. Nước sắc củ hành dùng uống chữa bí đái, đại tiện khó khăn; dùng xông trị cảm cúm, viêm mũi, ngạt mũi; súc miệng tránh được những bệnh về răng miệng và thụt hậu môn để tẩy giun kim. Để chữa mụn nhọt, chủ yếu làm mụn chóng mưng và vỡ mủ, lấy một củ hành giã với ít muối, gói vào vải xô sạch, hơ nóng, đắp, băng lại; ngày làm một lần.

Bài thuốc chữa bệnh từ củ hành:

Sau đây là một số bài thuốc chữa bệnh từ củ hành

  1. Trị cảm mạo, ho, mồ hôi không ra, đau đầu, đau gáy

Nguyên liệu: Hành ta 5 củ, lấy cả rễ, gạo 50g; gừng tươi 10g.

Cách chế biến: Gừng tươi xắt lát rồi giã nát. Nấu gừng và gạo thành cháo nhuyễn (nấu loãng). Hành thái nhỏ cho vào cháo, cho thêm 3 – 5 ml giấm ăn, trộn đều, cho vào tí muối và tiêu. Nên ăn lúc cháo đang còn nóng để cho ra mồ hôi. Lưu ý, khi ra mồ hôi nhiều rồi thì không nên ăn nữa. cũng có thể làm theo cách: nấu một bát cháo lòng, hành củ đập dập cho vào, gia vị ít tiêu, muối vừa đủ, ăn lúc cháo đang còn nóng.Cảm cúm

  1. Động thai

Dùng từ 20 đến 50g củ hành tươi giã nát, cho vào một chén nước và nấu đến sôi, lọc bỏ bã, lấy nước uống từ từ.

  1. Giải cảm

Hành củ 50g, đậu xị 50g, gạo trắng 60g. Giã nát củ hành, rồi cho cả 3 thứ vào nồi nấu cháo, ăn lúc còn nóng…

Ngoài ra, hành củ còn có công dụng làm thông kinh hoạt huyết, ấm thận, giảm mỡ. Lưu ý, không được ăn hành cùng với mật ong.

  1. Chữa cảm cúm, nhức đầu:

Hành (3 củ gồm cả lá), lá tía tô (1 nắm), gừng sống (1 – 2 lát), trứng gà (1 quả). Lá hành và lá tía tô rửa sạch, thái nhỏ; củ hành và gừng giã nát. Tất cả đựng trong một bát sạch, đập trứng gà vào, trộn đều, thêm ít nước mắm hoặc muối. Lấy một nắm gạo tẻ, vo sạch, nấu thành một bát cháo to. Khi cháo chín, đang lúc còn nóng sôi, đem đổ vào bát có hành, tía tô, gừng và trứng, khuấy đều, ăn nóng. Sau đó, đắp chăn nằm nghỉ cho ra mồ hôi. Có người lại chỉ dùng hành và gừng.

  1. Thuốc kích thích tiêu hóa, chống nôn mửa:

Hành (1 củ) phơi khô, gừng già (2 -3 lát) sao cho thơm. Hai vị giã nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.

  1. Chữa vết thương, vết hỏng:

Hành nấu thành cao đặc rồi trộn với mật lợn và nước ép tỏi, là trầu không, lá ớt, dùng bôi hàng ngày.

  1. Chữa cảm sốt, đau đầu, ngạt mũi:

Hành (30g), đạm đậu xị (15g), sinh khương (10g), chè hương (10g). Đun sôi với 300ml nước, gạn bỏ bã. Uống lúc nóng rồi đắp chăn cho toát mồ hôi.

Bài thuốc dân gian chữa bệnh từ củ Hành

  1. Bệnh cổ trướng

Bệnh cổ trướng nguyên nhân do tì vị hư, không phân hóa được các thực vật, nên nó thành nước, tích chứa trong tạng phủ, làm bụng căng như cái trống, hay như bụng cóc. Có rút nước ra bao nhiêu thì nó càng căng lên.

Xin giới thiệu cách chữa trị trong dân gian như sau: 1 kg hành đỏ giã, nấu sôi kỹ, gạn nước để uống, uống được một lúc sẽ thấy muốn tiểu tiện, uống thay nước đến khi hết.

  1. Cảm mạo – Nghẹt mũi – Nhức đầu như búa bổ

Hành lá 300g (cả rễ lá) gừng 40g, sắc kỹ uống cho ra mồ hôi là khỏi.

Bát cháo giải cảm: Hành tươi 3 củ gừng 3 lát, tía tô 10g, thêm chút muối nấu cháo ăn. Có thể thêm quả trứng gà vào bát cháo.

Hành tươi 30g, gừng 10g. sắc nước uống đắp mền cho ra mồ hôi.

  1. Viêm mũi, nghẹt mũi

Giã vài củ hành, chế nước sôi lấy một vật rộng hở lỗ nhỏ úp lại, rồi hít hơi đó cho thông mũi.

Có thể lấy nước cốt thành nhỏ mũi, hoặc pha chút nước cho loãng rồi nhỏ, chỉ làm vài lần.

  1. Trị giun đũa làm nghẽn ruột

Hành củ 30g, xay nát, pha với 30g dầu mè, cho uống ngày 2 lần mỗi lần 5g.

  1. Trị sưng đầu gối

Hành lấy cả lá, rễ, củ giã với củ gừng bằng đầu ngón chân cái, với chút muối giã đắp.

  1. Trị di tinh, hoạt tinh

Nâu canh hành ngày ăn 2 lần, từ 3 đến 5 lần là đủ.

Không nên ăn hành nướng với mật.

Chú thích: Hành có tính phát tán, xông lên, không nên dùng nhiều hại mắt.

Cách làm hủ tíu nam vang ngon tuyệt

Hủ tíu Nam Vang có nguồn gốc từ Campuchia, những món hủ tíu này đã trở nên rất quen thuộc đối với người Việt Nam, đặc biệt là người dân miền Tây, Nam bộ. Món hủ tíu Nam Vang thật phong phú về nguyên liệu, nước dùng trong vắt và ngọt lịm với vị giòn giòn của miếng cải bắc thảo khô, vị bùi bùi của hạt đậu phộng… tạo nên một món ăn thật độc đáo.

Nguyên liệu

0,5kg xương heo

50g tôm khô

300g củ cải trắng

300g thịt nạc

200g thịt nạc dăm băm nhuyễn

200g gan heo, 200g tôm sú

15 trứng cút

100g đậu phộng rang

30g cải bắc thảo muối

0,5kg hủ tíu dai

Hành, tỏi, nước mắm, nước tương, ớt, giấm

Muối tiêu đường bột ngọt, dầu ăn

Chanh ớt, xà lách, cần tây, giá sống, tần ô, hẹ sống

Nguyên liệu
Nguyên liệu

Cách làm hủ tíu nam vang

Nấu nước dùng: Tôm khô rửa sạch để ráo, rang sơ. Cho xương heo, củ cải trắng, tôm khô vào nồi với 3 lít nước, hầm chung cho sôi lăn tăn khoảng 30 phút, nêm muối, hành tím đập giập, nướng vàng. Tiếp tục hầm cho xương ra hết nước ngọt (khoảng 1 giờ), nêm thêm nước mắm ngon, đường, bột ngọt. Cho thịt nạc, gan vào luộc chín, vớt ra ngâm nước lã cho nguội.

Cách làm hủ tíu nam vang
Cách làm hủ tíu nam vang

Bắc chảo lên bếp, cho mỡ vào, phi hành tỏi cho thơm, cho thịt nạc dăm vào xào chín, nêm nước mắm, bột ngọt, tiêu và 1/2 chén nước dùng, để sôi vài phút cho thịt thấm gia vị. Thịt nạc, gan vớt ra xắt miếng mỏng vừa ăn.

Cải thảo đem xào với mỡ phi tỏi, nêm chút bột ngọt.

Tôm luộc chín, bóc vỏ, chừa đuôi.

Trứng cút luộc chín.

Trình bày

Trụng giá, hẹ, hủ tíu vào nước sôi, cho ra tô. Xếp thịt nạc, gan, tôm, trứng cút, múc thêm thịt nạc bằm, cải thảo. Chan nước dùng, rắc hành ngò, tiêu và một ít đậu phộng rang.

Hủ tíu nam vang
Hủ tíu nam vang

Bí quyết món ăn

Nếu muốn dùng món hủ tíu khô, cần làm thêm nước xốt gồm 1/2 chén xốt cà, 1 tô nước dùng pha với 1 muỗng cà phê bột năng, khuấy cho sánh. Khi ăn trụng giá hẹ, hủ tíu, xóc cho ráo nước, rưới 1 muỗng xúp mỡ hành trộn đều cho ra tô. Xếp thịt, tôm gan và thịt bằm lên trên, rắc đậu phộng rang, tiêu, chế thêm 1 muỗng xúp nước xốt. Dọn kèm với chén nước dùng nóng.

Cách pha chế Mắm tôm chanh ớt ngon đúng kiểu

Nguyên liệu pha chế mắm tôm chanh ớt

Mắm tôm lỏng

Chanh ớt tươi

Đường

Cách pha chế mắm tôm chanh ớt  ngon đúng kiểu

Dùng để pha món chấm cần thứ mắm sánh mượt. Lấy ra bát, vắt nước chanh vào cùng với đường dùng đũa quấy kỹ làm mắm sủi bọt trắng (nếu đủ chua mắm mới sủi nhiều bọt). Khi múc ra chén nhỏ chỉ hớt phần bọt, còn sạn lắng dưới đáy bỏ đi. ót thái nhỏ để riêng lúc ăn mới cho vào mắm.

Cách pha chế mắm tôm tỏi ớt
Cách pha chế mắm tôm tỏi ớt

Yêu cầu thành phẩm

Không mặn gắt, sủi nhiều bọt, chua mặn.

Mắm tôm tỏi ớt
Mắm tôm tỏi ớt

Giá trị sử dụng

Chấm lòng lợn, thịt cầy, đậu phụ rán, bánh đúc. Nếu chấm chả cá hay ăn với bún thang cần cho thêm cà cuống.

 

Thuốc Blessed thistle có những tác dụng gì?

Tên gốc: blessed thistle (cây cúc gai thánh)

Tên khác: Carbenia benedicta, cây kế đắng, cardo santo, cnicin, Cnicus benedictus, cỏ thánh linh, cây kế đốm

Nhóm thuốc: Thảo dược

Blessed thistle là gì và nó được dùng để làm gì?

Blessed thistle (cúc gai thánh) là một loài cây có hoa, có vị đắng, gai góc, tên khoa học Cnicus benedictus, thuộc họ cúc, có nguồn gốc từ vùng Địa Trung Hải. Lá, thân, và đầu hoa của cây blessed thistle đã được sử dụng trong y học dân gian để điều trị các vấn đề về tiêu hóa, tăng tiết sữa mẹ, ho, và chữa lành vết thương, tuy nhiên hiện chưa có nghiên cứu khoa học nào chứng minh hiệu quả và tính an toàn cho các mục đích sử dụng này.

Các đặc tính trị liệu của blessed thistle được cho là kích thích cảm giác thèm ăn, thúc đẩy kinh nguyệt, tăng tiết sữa mẹ và gia tăng tiết mồ hôi. Ngoài ra, loại thảo dược này còn được cho là có khả năng kháng khuẩn, chống viêm, chống khối u, ức chế sự phát triển của tế bào ung thư và hỗ trợ làm lành vết thương. Tác dụng dược lý của blessed thistle có thể đến từ các chất có hoạt tính sinh học chứa trong cây, bao gồm sesquiterpene lactones (trong đó cnicin là thành phần chính), triterpenoids, lignans, tannins, tinh dầu, flavonoids và polyenes.

Trong thời Trung Cổ, blessed thistle được dùng làm thuốc bổ và điều trị bệnh đậu mùa, cũng như dịch hạch, và được các tu sĩ dòng Benedictine trồng trọt – nơi mà cây này được đặt tên theo. Người châu Âu cổ đại thường ăn lá tươi, luộc rễ và dùng như rau, thậm chí còn sử dụng nó làm thức ăn bổ dưỡng cho gia súc. Blessed thistle được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) công nhận là an toàn (GRAS) và được sử dụng làm chất tạo hương trong rượu Benedictine, một loại rượu mùi.

Các công dụng được đề xuất của blessed thistle bao gồm:

Sử dụng qua đường uống:

  • Kích thích thèm ăn
  • Đầy hơi
  • Khó tiêu
  • Ợ nóng
  • Tiêu chảy
  • Cảm lạnh
  • Ho
  • Sốt
  • Nhiễm trùng do vi khuẩn

Sử dụng ngoài da:

  • Nhọt
  • Vết thương
  • Loét

Cảnh báo

  • Không sử dụng blessed thistle nếu bạn bị dị ứng với loại cây này hoặc các loài thực vật thuộc họ Cúc (Asteraceae) như cỏ phấn hương, hoa cúc dại, hoa cúc vạn thọ và hoa cúc.
  • Không sử dụng nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.
  • Không dùng cho trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi.
  • Không sử dụng blessed thistle nếu bạn mắc một trong các bệnh sau:
    • Bệnh Crohn
    • Các bệnh viêm ruột
    • Hội chứng ruột kích thích
    • Loét dạ dày

Tác dụng phụ của blessed thistle là gì?

Các tác dụng phụ phổ biến của blessed thistle bao gồm:

  • Buồn nôn
  • Nôn mửa
  • Khó chịu dạ dày
  • Đau quặn bụng
  • Khô miệng
  • Mệt mỏi

Gọi cho bác sĩ ngay lập tức nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng nào sau khi sử dụng loại thảo dược này:

  • Các triệu chứng tim nghiêm trọng bao gồm nhịp tim nhanh hoặc đập mạnh, rung động trong ngực, khó thở, chóng mặt đột ngột;
  • Đau đầu dữ dội, lú lẫn, nói ngọng, yếu nghiêm trọng, nôn mửa, mất khả năng phối hợp, cảm giác mất thăng bằng;
  • Phản ứng nghiêm trọng của hệ thần kinh với cơ bắp rất cứng, sốt cao, đổ mồ hôi, lú lẫn, nhịp tim nhanh hoặc không đều, run rẩy và cảm giác ngất xỉu;
  • Các triệu chứng mắt nghiêm trọng như mờ mắt, nhìn thấy quầng sáng xung quanh đèn, đau hoặc sưng mắt.

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra khi sử dụng loại thảo dược này. Hãy gọi cho bác sĩ để được tư vấn y tế về các tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc phản ứng bất lợi.

Liều dùng của blessed thistle là gì?

Hiện chưa có đủ thông tin về liều lượng thích hợp của blessed thistle.

Liều dùng đề xuất:

Người lớn

  • Ngâm nước: 2 g/150 mL nước, uống 1 lần mỗi ngày.
  • Trà: 1 cốc (1,5-3 g/150 mL nước), uống ba lần mỗi ngày.
  • 4-6 g/ngày, chia uống ba lần mỗi ngày (theo khuyến cáo của chuyên khảo từ Ủy ban E của Đức).
  • Cồn thuốc (1 g/5 mL): 10 mL uống 1 lần mỗi ngày.
  • Chiết xuất lỏng (1 g/mL): 2 mL uống 1 lần mỗi ngày hoặc 1,5-3 mL (1:1 trong 25% cồn), uống ba lần mỗi ngày.

Quá liều: Quá liều blessed thistle có thể gây kích ứng đường tiêu hóa, buồn nôn và nôn mửa. Các triệu chứng này sẽ được cải thiện khi ngừng dùng blessed thistle và uống đủ nước.

Thuốc nào tương tác với blessed thistle?

Hãy thông báo cho bác sĩ biết về tất cả các loại thuốc bạn đang sử dụng để nhận được tư vấn về các tương tác thuốc có thể xảy ra. Không bao giờ bắt đầu sử dụng, đột ngột ngừng hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có khuyến nghị của bác sĩ.

Blessed thistle không có tương tác nghiêm trọng hoặc trung bình nào được biết đến với các loại thuốc khác.

Tương tác nhẹ của blessed thistle bao gồm:

  • Aluminum hydroxide
  • Calcium carbonate
  • Cimetidine
  • Dexlansoprazole
  • Esomeprazole
  • Famotidine
  • Ibuprofen/famotidine
  • Lansoprazole
  • Nizatidine
  • Omeprazole
  • Pantoprazole
  • Rabeprazole
  • Sodium bicarbonate
  • Sodium citrate/citric acid

Danh sách tương tác trên không phải là tất cả các tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về tương tác thuốc, bạn có thể tham khảo công cụ kiểm tra tương tác thuốc.

Điều quan trọng là luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe về tất cả các loại thuốc kê đơn và không kê đơn mà bạn sử dụng, cũng như liều lượng của từng loại. Kiểm tra với bác sĩ nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào về thuốc.

Mang thai và cho con bú:

Hiện chưa có đủ thông tin đáng tin cậy về tính an toàn khi sử dụng blessed thistle trong thời kỳ mang thai. Việc sử dụng ngoài da có thể không gây hại cho thai nhi, tuy nhiên tránh dùng bằng đường uống vì có thể gây sảy thai.

Mặc dù blessed thistle đã được sử dụng truyền thống để tăng tiết sữa, nhưng chưa có nghiên cứu khoa học nào chứng minh hiệu quả của nó. Tác động lên trẻ bú mẹ vẫn chưa được biết đến. Tránh uống blessed thistle nếu bạn đang cho con bú.

Không sử dụng bất kỳ chất bổ sung thảo dược nào nếu chưa tham khảo ý kiến bác sĩ, đặc biệt nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Những điều cần biết thêm về blessed thistle:

Blessed thistle được tiêu thụ với liều nhỏ trong thực phẩm, trà hoặc các dạng lỏng khác với liều khuyến nghị thường an toàn cho hầu hết người lớn.

  • Dùng blessed thistle đúng theo hướng dẫn trên nhãn.
  • Các sản phẩm tự nhiên không phải lúc nào cũng an toàn, vì vậy tuân thủ đúng liều khuyến nghị là quan trọng.
  • Kiểm tra với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe trước khi sử dụng bất kỳ sản phẩm thảo dược nào, bao gồm cả blessed thistle, đặc biệt nếu bạn có bất kỳ tình trạng sức khỏe nào hoặc đang dùng thuốc.
  • Các sản phẩm thảo dược thường chứa nhiều thành phần khác nhau. Hãy kiểm tra nhãn để biết thành phần trong sản phẩm blessed thistle mà bạn chọn.
  • Blessed thistle được quảng bá dưới dạng bổ sung thảo dược và không được FDA quản lý. Sản phẩm có thể khác nhau về công thức và hàm lượng, và nhãn không phải lúc nào cũng phản ánh đúng nội dung. Cẩn thận khi chọn sản phẩm.
  • Bảo quản sản phẩm blessed thistle ở nơi an toàn, xa tầm tay trẻ em.
  • Nếu bạn gặp quá liều và triệu chứng kéo dài, hãy tìm kiếm sự giúp đỡ y tế hoặc liên hệ với Trung tâm Kiểm soát Độc chất.

Tóm tắt:

Lá, thân và đầu hoa của blessed thistle đã được sử dụng trong dân gian để điều trị nhiều vấn đề như các bệnh về tiêu hóa, tăng tiết sữa mẹ, ho, và chữa lành vết thương, nhưng chưa có nghiên cứu khoa học nào chứng minh hiệu quả và an toàn cho các mục đích này. Các tác dụng phụ phổ biến của blessed thistle bao gồm buồn nôn, nôn mửa, khó chịu dạ dày, đau quặn bụng, khô miệng và mệt mỏi. Tránh uống blessed thistle nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Bệnh ung thư thực quản

Khái niệm chung:

  • Ung thư thực quản là bệnh thường gặp, tỷ lệ mắc bệnh thay đổi tuỳ theo mỗi nước. Bệnh khá phổ biến ở một số nước như: Chilê, Nhật, Pháp…, ở Mỹ khoảng 4% số dân chết vì bệnh ung thư thực quản và khoảng 2,5% số bệnh nhân nằm viện là do ung thư thực quản.

Bệnh viện Việt – Đức theo dõi 12 năm (1955-1966) trong 12404 bệnh nhân ung thư nằm điều trị thì có 252 trường hợp ung thư thực quản, tỷ lệ là 1,88%.

  • Ung thư thực quản là 1 bệnh rất nặng, khoảng 10-20% số bệnh nhân được mổ sống thêm được 5 năm.
  • Yếu tố thuận lợi dẫn đến ung thư thực quản:

+ Nghiện rượu, thuốc lá.

+ Các bệnh mãn tính ống tiêu hoá.

+ Ăn thức ăn quá nóng, quá lạnh trong một thời gian dài.

+ Sau bỏng hoặc chấn thương thực quản.

+ Sau bệnh túi thừa thực quản, co thắt thực quản.

+ Sau nhiễm trùng mạn: lao, giang mai thực quản.

  • Giải phẫu bệnh lý:

+ Vị trí tổn thương ung thư: hay gặp ở đoạn dưới 1/3 thực quản (40%). Nơi di căn của ung thư thực quản: hạch cổ, trung thất, động mạch chủ, khí quản, thần kinh quặt ngược.

+ Giai đoạn phát triển: ung thư thực quản được chia làm 4 giai đoạn:

Giai đoạn 1: ung thư còn ở niêm mạc thực quản.

Giai đoạn 2: ung thư ăn sâu vào lớp cơ của thành thực quản có di căn tới hạch ở gần.

Giai đoạn 3: ung thư lan ra ngoài thực quản có di căn tới các tổ chức xung quanh.

Giai đoạn 4: di căn tới các cơ quan dễ gây tử vong.

Triệu chứng:

Tại chỗ:

Bệnh diễn ra từ từ với các triệu chứng sau:

  • Cảm giác nặng và tức ở ngực.
  • Cảm giác vướng ở trong cổ họng.
  • Khó nuốt: lúc đầu khó nuốt nhưng không đau, về sau khó nuốt kèm theo đau, lúc đầu khó nuốt với thức ăn rắn, về sau khó nuốt với cả thức ăn lỏng.
  • Đau âm ỉ đè nén dọc theo xương ức.
  • Miệng hôi thối.

Giọng khàn (do u chèn ép và thần kinh quặt ngược)

Toàn thân:

  • Mệt mỏi, kém ăn, khát nước, nôn máu.
  • Sút cân.
  • Da xanh nhợt.

Về sau tuỳ theo di căn của ung thư thực quản tới các cơ quan lân cận có thể có:

  • Biểu hiện dạ dày: đau thượng vị, buồn nôn, nóng rát, ợ, nôn máu.
  • Biểu hiện hẹp tâm vị: cảm giác khó thở ngột ngạt, cảm giác chèn ép sau xương ức
  • Các dấu hiệu màng phổi: đau ngực, sốt, ho
  • Các dấu hiệu phổi- phế quản: sốt, ho, khạc đờm lẫn máu, mủ.
  • Dấu hiệu thanh- khí quản: giọng khàn, ho như ếch kêu.

Xét nghiệm:

  • Bạch cầu tăng, công thức bạch cầu chuyển trái.
  • Hồng cầu giảm, huyết sắc tố giảm.
  • Máu lắng tăng

X-quang thực quản:

  • Thành thực quản cứng đờ, lòng thực quản hẹp hình phễu, mất các sóng nhu động.
  • Có hình khuyết ở bờ ngoài thực quản, bờ vùng khuyết nham nhở, khúc khuỷu.

Soi thực quản và sinh thiết:

  • Hình ảnh soi thấy có hình xâm nhiễm, xung huyết niêm mạc, loét, xước, dễ chảy máu.
  • Mảnh sinh thiết có hình ảnh:

+ Hình ảnh ung thư biểu mô lát.

+ Ung thư thể trụ.

+ Ung thư tổ chức liên kết.

Chẩn đoán (+):

  • Lâm sàng.
  • X-quang.
  • Nội soi sinh thiết.

Điều trị:

Điều trị nội khoa:

  • Chống mất nước: Glucoza 5% 600ml nhỏ giọt tĩnh mạch 40 giọt trong 1 phút. HTM 0,9% 300ml nhỏ giọt tĩnh mạch 40 giọt trong 1 phút.
  • Chống co thắt thực quản:

+ Papaverin: 0,10 x 1 ống tiêm bắp/24 giờ.

+ Atropin: 1/2mg x 1 ống tiêm dưới da/24 giờ .

+ Nâng đỡ cơ thể: tiêm Vitamin B1, Vitamin C nhất là Vitamin C liều cao, không dùng Vitamin B12, truyền máu tươi cùng nhóm 300-600ml nhỏ giọt tĩnh mạch 40 giọt/1 phút, tuần cho 1-2 lần.

Điều trị bảo tồn:

  • Quang tuyến trị liệu.
  • Hoá trị liệu.

Ngoại khoa:

  • Phẫu thuật Thorek: cắt hết thực quản, sau tái tạo thực quản bằng 1 đoạn ruột đặt trước hoặc sau xương ức ở giai đoạn 2 của thủ thuật.
  • Thủ thuật cắt hết thực quản đồng thời tái tạo thực quản trong lồng ngực bằng 1 bộ phận giả tạo khác loại (A.A Vinsonhepxki, Moore A., V.P Mennicova).

Triển vọng nối trong lồng ngực khi ung thư thực quản ở thấp.

Novalgine

Thuốc Novalgine
Thuốc Novalgine

NOVALGINE

Viên nén: hộp 20 viên, ép vỉ.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Métamizole sodique (noramidopyrine mésilate sodique) 500 mg

DƯỢC LỰC

Thuốc giảm đau, hạ sốt.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Sau khi uống, noramidopyrine được thủy phân nhanh trong ống tiêu hóa. Chất chuyển hóa chính, 4-methyl-amino antipyrine (4-MAA) được hấp thu nhanh và hầu như hoàn toàn. Sự hấp thu thuốc không bị ảnh hưởng bởi thức ăn.

Đạt được nồng độ tối đa trong máu trong vòng 1-2 giờ.

Tất cả các sản phẩm chuyển hóa đều gắn vào protéine huyết tương. Tỉ lệ gắn của 4-MAA là 58%. Tình trạng gắn này không dẫn đến sự tương tác nào với thuốc như thuốc chống đông.

Noramidopyrine được chuyển hóa hoàn toàn: 90% của liều uống vào được tìm thấy trong nước tiểu và 6% được thải qua mật.

Thời gian bán hủy (4-MAA) là 2,7 giờ, chuyển sang 4,5 giờ ở người lớn tuổi.

Trong suy thận cấp độ thanh thải tổng cộng của 4-MAA giảm và có thể dẫn đến sự tích tụ của chất chuyển hóa hoạt tính nếu dùng thuốc nhiều lần.

Sản phẩm chuyển hóa của noramidopyrine đi qua sữa mẹ. Noramidopyrine và những sản phẩm chuyển hóa thải nhanh chóng bằng thẩm tách.

CHỈ ĐỊNH

Đau nhức nhiều cấp tính hay mạn tính như đau trong bệnh thấp, nhức đầu, nhức răng, đau do u bướu, đau sau chấn thương hay phẫu thuật.

Đau do co thắt cơ trơn như đau co thắt vùng dạ dày-ruột, đường mật, thận và đường niệu dưới.

Để hạ cơn sốt cao không thuyên giảm với các biện pháp khác.

Chỉ sử dụng noramidopyrine nếu thực sự nó chứng tỏ có hiệu quả hơn so với thuốc giảm đau khác.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

  • Suy chức năng tủy xương hoặc bệnh của hệ tạo máu.
  • Tiền căn lên cơn suyễn hoặc phản ứng phản vệ do thuốc giảm đau như salicylate, paracetamol và các thuốc giảm đau không gây nghiện khác như diclofenac, ibuprofen, indomethacin, naproxen.
  • Dị ứng hay không dung nạp thuốc chứa pyrazole (đặc biệt là noramidopyrine hay amidopyrine).
  • Cấm dùng thuốc với bất kỳ liều lượng nào ở người đã bị chứng mất bạch cầu hạt dù có phải do amidopyrine hoặc noramidopyrine hay không.
  • Thiếu glucose-6 phosphate d shydrog nase (nguy cơ tán huyết).
  • Rối loạn chuyển hóa porphyrine ở gan (nguy cơ kịch phát).
  • Phụ nữ có thai và cho con bú: xem Lúc có thai và Lúc nuôi con bú.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG

Cẩn thận, vì thuốc này chứa noramidopyrine nên có thể gây ra chứng mất bạch cầu hạt hay sốc dẫn đến tử vong.

Mất bạch cầu hạt: Điều kiện xuất hiện:

Tất cả các thuốc chứa noramidopyrine đều có thể gây ra chứng mất bạch cầu hạt. Đó là tai biến miễn dịch – dị ứng với chứng mất bạch cầu hạt hoàn toàn trong thời gian tối thiểu là một tuần. Những tai biến này hiếm gặp nhưng vẫn gây tử vong trong hơn 10% trường hợp mặc dù có những kỹ thuật hồi sức huyết học hiện nay. Chứng mất bạch cầu hạt không liên quan đến liều lượng và có thể xảy ra dù với liều rất thấp-thí dụ nửa viên. Không lường trước được các tai biến này.

Thận trọng:

Ở người không có tiền căn bệnh về máu phải cân nhắc thật kỹ trước khi ghi toa. Thực vậy, hiện nay không có cách nào để phát hiện những người nhạy cảm ; mặt khác khi đang điều trị, không có cách nào tiên lượng được chứng mất bạch cầu hạt vì nó có thể xuất hiện sau lần uống thuốc đầu tiên (thấy rõ) hay sau nhiều tuần điều trị hoặc khi dùng thuốc trở lại. Do đó, không thể dựa vào việc theo dõi công thức bạch cầu. Ngược lại mọi bệnh nhân dùng thuốc này phải biết là khi sốt xuất hiện và (hay) đau họng và (hay) lở miệng thì phải:

  • ngưng thuốc ngay ;
  • kiểm tra huyết đồ tức khắc

Thực vậy, dùng thuốc tiếp tục sẽ làm tăng nguy cơ tử vong. Khi thấy chứng mất bạch cầu hạt phải chuyển ngay bệnh nhân vào bệnh viện.

Sốc:

Điều kiện xuất hiện:

Đó là phản ứng toàn thân, xảy ra chủ yếu ở những người đã có khuynh hướng từ trước. Thận trọng:

Phải hỏi bệnh nhân về tiền căn dị ứng với thuốc chứa pyrazole (xem Chống chỉ định).

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Thận trọng đối với bệnh nhân suyễn và nhiễm trùng hô hấp mạn tính, bệnh nhân có tiền căn lên cơn suyễn khi dùng thuốc giảm đau hoặc không dung nạp thuốc giảm đau và bệnh nhân có  nguy cơ cao không dung nạp thuốc giảm đau. Bệnh nhân suy hệ tạo máu.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Lúc có thai: chưa có đủ dữ liệu lâm sàng về việc dùng noramidopyrine cho phụ nữ có thai, do đó chống chỉ định dùng Novalgine trong thời kỳ mang thai.

Lúc nuôi con bú: chống chỉ định dùng vì noramidopyrine đi qua sữa mẹ.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

  • Tai biến huyết học:

Chứng mất bạch cầu hạt: xem Chống chỉ định, Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng. Hiếm gặp thiếu máu hay giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu.

  • Giống như tất cả các thuốc chứa pyrazole có thể có phản ứng dị ứng da kiểu mề đay hay phát ban dạng dát sần. Hiếm khi nặng dưới dạng hoại tử biểu bì (hội chứng Lyell và Stevens- Johnson).
  • Một số trường hợp riêng lẻ bị suy thận cấp hay bệnh thận mô kẽ.
  • Cơn suyễn xảy ra ở người đa nhạy cảm, đặc biệt không dung nạp
  • Nước tiểu acide có thể có màu đỏ: có thể do một sản phẩm chuyển hóa hiện diện với lượng rất ít (3% của liều uống vào): acide rubazonique.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Người lớn: 1-2 viên, 1-3 lần/ngày.

Không dùng dạng bào chế này cho trẻ em.

QUÁ LIỀU

Giới hạn điều trị đặc biệt rộng, liều lượng hàng ngày 15 g đã từng được dùng ở bệnh viện.