Blog Trang 539

Bệnh viêm khớp vảy nến (bệnh thấp vảy nến)

Tên khác: bệnh thấp vảy nến

Triệu chứng

Trong 5% các trường hợp bị bệnh vảy nến, người ta thấy có viêm khớp kèm theo và viêm khớp thường xảy ra trước khi các tổn thương da xuất hiện. Ngoài sự kết hợp hay có giữa bệnh vảy nến và viêm đa khớp dạng thấp, người ta còn mô tả những trường hợp viêm khớp vảy nến hoặc bệnh thấp vảy nến, thường tác động tới những khớp gian đốt ngón tay và ngón chân, và đôi khi chỉ tác động riêng tới những khớp này. Những biểu hiện khớp này thường kết hợp với bệnh vảy nến ở móng. Ngoài ra, tổn thương bệnh ở khớp mang tính chất phá huỷ đặc biệt (nên gọi Ịà “viêm khớp tàn phế”), và cũng hay gặp các trường hợp viêm đốt sống và viêm khớp cùng chậu (chiếm 25-35% những trường hợp viêm khớp vảy nến). Không thấy có những nốt (cục) dưới da của bệnh thấp.

Xét nghiệm cận lâm sàng: tốc độ máu lắng tăng cao. Xét nghiệm các yếu tố bệnh thấp âm tính. Đôi khi có tăng acid uric máu. Bệnh nhân, nhất là bệnh nhân với biến chứng viêm đốt sống, thường thuộc nhóm có kháng nguyên phù hợp mô HLA-B27.

X quang: ở các khớp gian đốt ngón tay xa (thứ hai) có hình ảnh trợt sụn (hoặc mòn sụn) ở nhiều chỗ, nhưng không có hình ảnh loãng xương, mà là hình ảnh dính liền khớp và tổn thương tiêu xương nặng ở các đốt ngón tay.

Điều trị

Aspirin hoặc các thuốc chống viêm không steroid khác, hoặc salazopirin. Điều trị bệnh vảy nến. Chỉ định sử dụng muối vàng và những thuốc ức chế miễn dịch phải dựa vào ý kiến của các thày thuốc chuyên khoa sâu. Xem phác đồ điều trị viêm khớp vảy nến

 

Công nghệ antisense trong điều trị ung thư

CÔNG NGHỆ ANTISENSE

Trị liệu antisense được thiết kế để chuyển các phân tử antisense tới các TB đích, các phân tử này sẽ lai tạo và ức chế một cách đặc hiệu sự biểu hiện của các gen gây bệnh (Hình 4.1). Trước kia, thuật ngữ antisense bao hàm một vài nghĩa tuy khác biệt nhưng lại có quan hệ gần gũi như công nghệ antisense hay anticode, ribozym hay acid nucleic xúc tác (catalytic ribonucleic acid – RNA), triplex hay antigene và aptamer (Bảng 1). Cho tới nay vẫn chưa có thuật ngữ chuyên môn để mô tả các công nghệ trong lĩnh vực này. Mục đích sử dụng thuật ngữ trị liệu antisense trong chương này là cách tiếp cận antisense theo nghĩa kinh điển. Chúng ta sẽ đề cập tới ribozym và aptamer ở các chương sau.

Acid nucleic antisense là các oligonucleotid chuỗi đơn bổ cứu cho trình tự của một RNA hoặc DNA đích. Hơn 25 năm trước, Zamecnik và Stephenson lần đầu tiên giới thiệu phương pháp trị liệu antisense. Hơn nữa, RNA antisene tự nhiên đã được phát hiện với nghĩa là điều hòa biểu hiện gen trong các tế bào sống. Tuy nhiên, những phát hiện lý thú này không làm hấp dẫn các nhà nghiên cứu vì các thực nghiệm về trị liệu antisense trong thời kỳ 1970-1980 phát triển rất chậm.

Sau đột phá lớn về tổng hợp tự động các oligonucleotid người ta đã thu được một lượng đủ lớn oligonucleotid chất lượng cao cho các nghiên cứu in vitro in vivo trên người, công nghệ antisense đã được phát triển nhanh chóng và được áp dụng rộng rãi trong nghiên cứu về chức năng và điều hòa gen, hiệu chỉnh biểu hiện gen và phê chuẩn các thuốc mới. Hiện nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu công bố về tiềm năng sử dụng các oligonucleotid trong điều trị bệnh cho người như bệnh cao huyết áp và các bệnh tim mạch khác, bệnh ung thư, các rối loạn di truyền và các bệnh nhiễm trùng do virus.

Thuốc antisense đầu tiên có tên là Vitravene được phê chuẩn để điều trị các bệnh viêm võng mạc do cảm ứng với cytomegalovirus. Một số antisense oligonucleotid đã tham gia trong các thử nghiệm lâm sàng pha I-II với tư cách là các tác nhân kháng ung thư (điều trị riêng rẽ hay kết hợp với hóa trị liệu thông thường).

Một phạm vi có quan hệ gần gũi là công nghệ RNA interference (RNAi). RNAi lần đầu tiên được phát hiện với tư cách là một cơ chế bảo vệ tế bào chống lại sự xâm lấn của các gen ngoại lai ở Caenorhaditis elegans và sau này cũng quan sát thấy ở nhiều loài nhân thực như côn trùng, cây cỏ, nấm và các động vật có xương sống. RNAi là một cơ chế nội bào có ảnh hưởng lớn đối với đặc hiệu trình tự, làm yên lặng gen hậu phiên mã để kiềm chế gen. Các RNA sợi kép được xử lý bởi Dicer – một enzym có tên là ribonuclease III của TB để tạo nên cặp đôi khoảng 21 nt với phần 3 nhô ra được gọi là small interfering RNA (siRNA) gián tiếp phân hủy RNA thông tin đặc hiệu trình tự. Các phân tử siRNA trong các TB động vật có vú còn có khả năng làm yên lặng một cách đặc hiệu sự biểu hiện gen. Vì vậy, công nghệ RNAi đã được sử dụng như là một thay thế mới và hiệu lực so với các công nghệ làm yên lặng gen khác như antisense và ribozym.

Antisense oligonucleotid sẽ bổ cứu với trình tự RNA đích

Hình 4.1. Mô hình đơn giản quá trình biểu hiện gen và những cơ chế tác động của antisense oligonucleotid. Antisense oligonucleotid sẽ bổ cứu với trình tự RNA đích. Nó lai tạo đặc hiệu với RNA đích dẫn đến ngừng quá trình phiên dịch và làm tăng sự phân giải RNA do hoạt tính của RNase H hoặc giảm đồng hóa RNA do ức chế sự ghép đôi của RNA.

(Theo Ruiwen Zhang và Hui Wang. (2005) Cancer Gene Therapy. Human Press. Totowwa, New Jersey)

Bảng 4.1. Những đặc tính chính của antisense và công nghệ RNAi

 

Công nghệ

Phân tử 

hoạt hóa

Đích 

phân tử

Vị trí tác động 

của TBa

Cơ chế tác động Tình trạng phát hiện 

phát triển thuốc

Antisense DNA hoặc RNAb Bào tương Ngừng dịch mã, Thử nghiệm lâm sàngc
RNA hoạt hóa RNase H, Thử nghiệm lâm sàng
ức chế ghép đôi,
phá vỡ cấu trúc RNA
Ribozym RNA RNA Bào tương Ngừng dịch mã, Thử nghiệm lâm sàng
Hủy cấu trúc RNA
Triplex- forming sàng DNA DNA Nhân TB Khóa phiên mã Thử nghiệm tiền lâm
-oligonucleotid
Aptamer DNA hoặc Protein Nhân TB, bào Can thiệp chức năng Thử nghiệm lâm sàng
RNA tương, hoặc protein pha I
ngoài TB
RNAi RNA RNA Bào tương Thúc đẩy phân giải Nghiên cứu in vitro,
RNA giới hạn trong nghiên
cứu in vivo

Ghi chú: Vị trí tác độnga là vị trí khởi đầu của sự tương tác giữa các phân tử hoạt hóa với phân tử đích. RNAb  là các RNA đích như pre RNA, mRNA hoặc RNA của virus

Antisense  đầu  tiên  là  Vitravene  được  phê  chuẩn  để  điều  trị  các  bệnh  viêm  võng  mạc  do  cảm  ứng  bởi cytomegalovirus. Một vài antisense khác đã được sử dụng trong các thử nghiệm lâm sàng pha I-II.

Ghi chú: PKC-protein kinase C; tiểu đơn vị điều hòa PKC-RIa I của protein kinase A phụ thuộc AMP vòng (cAMP)

Tuy nhiên, công nghệ này cũng còn nhiều giới hạn vì khi sử dụng các phân tử siRNA để điều hòa biểu hiện một gen đặc hiệu lại phụ thuộc sự cận đích và hiệu quả chuyển giao siRNA vào các TB đích. Phần lớn các báo cáo về công nghệ siRNA lấy từ các kết quả in vtro, còn hiệu ứng của việc sử dụng dài hạn in vivo thì vẫn chưa được xác định. Chúng ta sẽ còn đề cập tới các RNAi hay siRNA ở các mục khác.

CÔNG NGHỆ ANTISENSE

Hóa học antisense

Cả antisense RNA và DNA đều được sử dụng trong nghiên cứu chức năng gen bằng cách làm yên lặng biểu hiện gen đích.

Antisense RNA

Antisense RNA tự nhiên đã chứng minh được rằng có liên quan tới việc điều hòa gen ở các cơ thể bình thường. Các antisense RNA tổng hợp cũng đã được sử dụng cho các nghiên cứu in vitro. Vì các RNA cực kỳ nhạy cảm với sự phân giải của nuclease nên tiềm năng sử dụng về mặt dược lý học của antisense RNA bị hạn chế.

Trước đây đã có 2 cách tiếp cận chính về việc ứng dụng antisense trong các TB sống. Đó là biểu hiện nhân (nuclear expression) của antisense bởi các gen antisense công nghệ hóa và vi tiêm RNA antisense tổng hợp vào trong TB. Các antisense RNA đã cải biến hóa học được nghiên cứu với tư cách là các phân tử antisense RNA ổn định trong điều hòa xuống các gen liên quan tới ung thư.

Chẳng hạn như antisense 2-O-methyl RNA 30- mer nhắm vào thymidylat synthase (TS) mRNA đã thể hiện rõ là một tác nhân antisense có hiệu ứng in vitro. TS là một enzym chủ chốt chuyển hóa nucleotid và sự biểu hiện của nó được kiểm soát bởi protein của chính mình và sản phẩm TS cũng là một chất điều hòa âm tự động. Khi rối loạn điều hòa này sẽ làm tăng tổng hợp TS và có thể dẫn tới kháng thuốc của TB đối với các tác nhân kháng ung thư như 5-fluorouracil. Antisense 2-O-methyl RNA này đã được thiết kế nhắm trực tiếp vào yếu tố điều hòa hoạt tính ngược của 5 cis (nucleotid 80-109) của TS mRNA, nó cũng ức chế sự biểu hiện TS trong các tế bào RKO của ung thư kết tràng người, tùy thuộc vào liều lượng sử dụng.

Biểu hiện TS không bị tác động bởi việc xử lý với sense hoặc các kiểm soát không thích ứng.

Các nhà nghiên cứu cũng chứng minh rằng antisense 2-O-methyl RNA 18-mer nhắm vào trình tự cùng lõi (same core) thì cũng ức chế biểu hiện TS. Tuy nhiên, khi giảm hơn nữa kích cỡ oligonucleotid thì sẽ làm mất hoạt tính của antisense. Sau khi điều trị với antisense RNA thì mức protein TS cũng giảm thùy thuộc vào từng thời điểm và mức giảm cao nhất là sau 24 giờ biểu hiện oligonucleotid. Tuy nhiên, các phân tích Northern blot lại cho thấy TS mRNA không bị tác động bởi việc xử lý với antisense RNA và đời sống bán phần của protein TS không thay đổi sau khi xử lý bằng antisense. Điều đó chứng minh rằng cơ chế tác động của antisense RNA được trung gian qua một quá trình làm ngừng sự dịch mã, nhưng không liên quan gì tới tính ổn định của mRNA. Sự phát hiện này đã chỉ rõ rằng các antisense RNA khi đã được cải biến hóa học với thời gian ngắn có tiềm năng làm yên lặng các gen. Tuy nhiên, việc ứng dụng in vivo của các antisense RNA thì vẫn còn nhiều điều cần làm rõ.

Antisense DNA

Antisense oligodeoxynucleotide là các trình tự ngắn của DNA chuỗi đơn và có thể được sản xuất với số lượng lớn bằng tổng hợp hữu cơ tự động với nhiều bộ phận gắn kết (linkage) hay các nhóm tận cùng (terminal) đã được cải biến. Vì thế antisense DNA được sử dụng nhiều hơn antisense RNA và ribozym.

Các phosphodiester oligonucleotid chưa cải biến

Những phát hiện sớm về antisense được bắt đầu với phosphodiester oligonucleotid (PO-oligos). Do ái lực cao với các đích của chúng nên các PO-oligos gắn một cách ổn định vào mRNA đích và nhiệt độ chảy (melting temperature) Tm của PO-oligos RNA duplex là cao. PO-oligos cũng hoạt hóa RNase H, kết quả là làm phân giải mRNA (Hình 4.1). Bất lợi chính của PO-oligos là nhạy cảm với nuclease vì thế việc ứng dụng của các PO-oligos rất hạn chế.

Các tương đồng của oligonucleotid với bộ khung đã được cải biến

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng việc cải biến bộ khung oligonucleotid sẽ làm cho TB dễ tiếp thu hơn và làm tăng sự đề kháng với các nuclease của các antisene oligonucleotid. Trong số đó thì phosphothiat oligonucleotid – (PS-oligos) và methylphosphonat oligonucleotid (MP-oligos) được nghiên cứu nhiều nhất. Đối với các MP-oligos, năm 1970 lần đầu tiên Miller và cộng sự đã tổng hợp được hợp chất này với việc thay thế -CH3 bằng O và khẳng định sức đề kháng của hợp chất này đối với các nuclease nội và ngoại bào là rất cao. Điểm chảy của các MP-oligos như sau: RNA duplex cao hơn PO-oligos, vì oligonucleotid này không tích điện như các MP- oligos nên xuyên qua màng sinh chất dẽ hơn so với PO-oligos.

Bất lợi chính của các MP-oligos là hiệu ứng lai tạo tương đối thấp và bất lực với việc hoạt hóa RNase H. Khi thay thế isosteric oxy bằng sulfur trên gốc phosphor của DNA thì sẽ tạo được các PS-oligos. Cũng như các oligonucleotid khác, các PS-oligos vẫn duy trì trạng thái điện đích âm nên hòa tan trong nước nhiều hơn MP-oligos. Các PS-oligos cũng kháng các nuclease và dễ dàng hoạt hóa RNase H. Bất lợi của các PS- oligos là sự hấp thu TB kém và có độc tính không đặc hiệu in vivo. Do vậy, phần lớn các antisense oligonucleotid được test trên lâm sàng là các PS-oligos

Các oligonucleotid có cải biến đầu tận cùng

Các nghiên cứu cho thấy antisense oligonucleotid có thể bị phân giải ở đầu 3, đầu 5 hoặc ở cả 2 đầu 3 và 5. Để nâng cao sự hấp thu TB và sức đề kháng với nuclease của các oligonucleotid, nhiều cải biến ở đầu tận 5 hoặc 3 của các oligonucleotid  đã  được  thực  hiện.  Chẳng  hạn  như  các  chất  polylysine,  avidin (acridine) và cholesterol đã được sử dụng để nâng cao sự hấp thu TB và hiệu ứng antisense của các oligonucleotid. Tuy nhiên, giá trị của những cải biến này vẫn chưa được xác định, đặc biệt là trong các thí nghiệm in vivo.

Các oligonucleotid với bộ khung hỗn hợp

Để nâng cao hơn nữa các đặc tinh cuả các antisense nucleotid người ta đã thiết kế các oligonucleotid bộ khung hỗn hợp (mixed backbone oligonucleotid MBO). Một loại MBO có các đoạn phosphorothiat ở đầu 3 và 5 và có một oligodeoxynucleotid cải biến hoặc một đoạn oligoribonucleotid định vị ở phần trung tâm của oligonucleotid này. Một số MBO thấy các đặc tính đã được nâng cao hơn các PS-oligos như: ái lực với RNA, hoạt hóa RNase H và hoạt tính kháng khối u. Thêm vào đó, nhiều dẫn liệu dược lý học có thể chấp nhận được trong phân giải in vivo và các khái luận dược động học đã thu lượm được từ các MBO này. Một trong số các MBO này đã được đưa vào thử nghiệm lâm sàng (Bảng 4.2). Một ví dụ khác của MBO có chứa các đoạn 2-5 ribo và 3-5 deoxyribonucleotid.

Các nghiên cứu về nhiệt độ chảy của các phosphodiester MBO chỉ rõ rằng sự hợp nhất 2-5 ribonucleotide vào 3-5 oligodeoxyribonucleotid đã làm giảm sự liên kết với các chuỗi đích khi so sánh với tất cả các 3-5 oligodeoxyribonucleotid có cùng chiều dài và trình tự. Khi tăng số liên kết 2-5 (từ 6 đến 10) thì sẽ làm giảm hơn nữa sự liên kết với chuỗi DNA đích. Các tương đồng của MBO làm mất ổn định của duplex với chuỗi DNA đích hơn là duplex với chuỗi RNA đích. Những MBO này thể hiện rõ sự ổn định khá cao đối với việc kháng lại nuclease.

Mặc dầu sự cải biến 2-5 không tạo hoạt tính cho RNase H và cũng không gây ảnh hưởng tới bản chất hoạt hóa RNase H của các đoạn 3-5 deoxyribonucleotid liền kề chỗ cải biến, nhưng nó lại tác động ít hơn tới sự tăng sinh TB, kéo dài thời gian đông máu và sự ly giải các thành phần hồng cầu so với các PS-oligos đối chứng. Những kết quả này đã chứng minh rằng với một số giới hạn các liên kết 2-5 cũng có thể gắn kết được với các PS-oligos để nâng cao hơn nữa các đặc tính antisense oligonucleotid với tư cách là các tác nhân trị liệu.

Các cơ chế tác động của antisense

Cơ chế chính xác về tác động của antisense oligonucleotid vẫn chưa được rõ hoàn toàn, nhưng có lẽ là rất phức tạp. Tuy nhiên hiện nay càng có nhiều bằng chứng ủng hộ cho ý kiến cho rằng hoạt tính sinh học của một antisense nucleotid rõ ràng là có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác nhau ở mức phân tử, tế bào, tổ chức /mô và toàn cơ thể. Các yếu tố đó có thể là nồng độ oligonucleotid ở vị trí đích (RNA), nồng độ của RNA đích, sự chuyển hóa của RNA và các cơ chế tương tác giữa oligonucleotid và RNA đích của nó.

Nhiều cơ chế tác động của antisense đã được đưa ra, trong đó có 2 cơ chế chính, đó là dừng quá trình lai tạo và hoạt hóa RNase H (Hình 4.1). Các nghiên cứu trước đã chứng minh rằng antisense nucleotid gắn và tương tác với vùng mã hóa (code region) gây phong tỏa mRNA thông qua việc đọc của ribosome và dừng sự dịch mã (Hình 4.1). Sau này người ta đã chứng minh rằng antisense nucleotid cũng có thể đích tới vùng mã khởi đầu và ức chế xuống sự biểu hiện gen. Hơn nữa, các antisense oligonucleotid cũng có thể tạo ra hiệu ứng antisense thông qua việc gắn với vùng mũ 5, vùng 3 poly A và / hoặc vị trí ghép nối pre -RNA, và sau cùng là can thiệp tới sự ghép nối RNA, đột biến và vận chuyển.

Một cơ chế chủ chốt khác nữa của tương tác là hoạt hóa RNase H bởi một vài dạng antisense oligonucleotid như PS-oligos, nó có thể gắn với RNA đích của chúng để hình thành một RNA:DNA duplex, khi đó sẽ hoạt hóa enzym RNase H, kết quả là phân giải RNA đích. Tuy nhiên, các dạng khác của oligonucleotid như MP-oligos lại không có đặc tính này. RNase H của người đã được tách dòng và xác định đặc tính có thể tạo thuận lợi cho việc nghiên cứu cơ chế antisense. RNase người có chung nhiều đặc tính enzym như RNase H của E.coli. Enzym của người khi tách riêng RNA ra khỏi phức DNA:RNA duplex thì sẽ được các sản phẩm với các đầu tận cùng là 5’- phosphate và 3’-hydroxy như thế nghĩa là có thể bóc tách được phần RNA chuối đơn nhô ra nằm cạnh một DNA:RNA duplex, tuy nhiên nó không có khả năng phân giải các chất trong chuỗi RNA hoặc DNA có cải biến ở vị trí phân cắt 2’. Enzym của người có vận tốc phân cắt khởi đầu một heteroduplex có chứa RNA-phosphorothiat DNA lớn hơn so với RNA:DNA duplex. Một RNA:DNA duplex ngắn nhất có thể giúp cho việc cắt ngắn ra thành những mảnh 6 bp và một DNA:RNA với khe (gap- size) nhỏ nhất để rồi có thể cắt ngắn ra thành các mảnh 5bp. Những phát hiện này có thể tạo thuận lợi cho việc thiết kế các antisense nucleotide phụ thuộc RNase H.

Nhìn chung, có thể coi tác động của RNAi như kiểu cơ chế tác động của một antisense, nó sử dụng một RNase chuỗi kép để thúc đẩy thủy phân RNA đích. Veckers và cộng sự đã so sánh hiệu quả của antisense nucleotid được thiết kế tối ưu nhất với cách hoạt động theo cơ chế RNAi của các oligonucleotid để thiết lập phương thức tác động theo cơ chế phụ thuộc RNase H trên các tế bào người. Các nhà nghiên cứu thấy rằng những oligonucleotid này có thể xứng đáng với các thuật ngữ: tiềm năng, hiệu quả tối đa, kéo dài sự tác động và đặc hiệu trình tự. Hơn nữa, hoạt tính của cả siRNA oligonucleotid cũng như oligonucleotid phụ thuộc RNase H đều bị tác động bởi cấu trúc bậc hai của mRNA đích. Khi kiểm tra 80 siRNA oligonucleotid duplex được thiết kế để gắn vào RNA từ 4 gen người khác loại đã cho thấy: nhìn chung có sự tương hỗ hoạt tính giữa các oligonucleotid phụ thuộc RNase H khi nhắm vào cùng một vị trí. Một khác biệt lớn giữa 2 cách tiếp cận này là các oligonucleotid phụ thuộc RNase H có hoạt tính kháng lại các đích trên pre -mRNA, trong khi đó siRNA lại không có hoạt tính này. Phát hiện này đã chứng minh rằng cả công nghệ dựa trên nền tảng siRNA cũng như công nghệ anisense phụ thuộc RNase H đều là những cách tiếp cận hiệu quả để đánh giá chức năng gen, ít nhất là ở các thí nghiệm với nền tảng tế bào. Tuy nhiên, những phát hiện này liệu có hiệu lực in vivo hay không thì vẫn cần được xác định.

Nguyên lý thiết kế antisense

Mặc dầu mẫu thiết kế antisense oligonucleotid về lý thuyết là đơn giản (chỉ để nhận dạng một oligonucleotid bổ cứu trên cơ sở các trình tự trên mRNA). Nhưng việc lựa chọn được một antisense oligonucleotid đặc hiệu và hiệu quả lại là một vấn đề lớn thuộc về kinh nghiệm nghiên cứu cũng như các kết quả thực nghiệm. Hơn nữa, vì các trình tự của oligonucletid xác định như CpG và GGGG là để chỉ sự phụ thuộc trình tư (sequence – dependent) và hiệu ứng không antisense (non-antisense effect). Những trình tự này cần phải tránh khi nhận dạng các thuốc antisense đặc hiệu trình tự (sequence-specific antisense drugs). Một số cách tiếp cận phổ thông là lựa chọn một trình tự antisense tối ưu như chúng ta sẽ bàn luận dưới đây.

Cách tiếp cận bách bộ – trình tự ngẫu nhiên (random sequence walkingr)

Phương pháp bách bộ – trình tự dựa trên cơ sở quy luật cặp đôi base của Watson -Crick đối với một trình tự đã biết của gen đích theo một đường thẳng để thiết kế và lựa chọn các antisense oligonucleotid. Thông thường thì khá nhiều oligonucletid ngẫu nhiên (10-100 phụ thuộc vào chiều dài của gen khảo sát) có chiều dài xác định (15-25 mer) nhắm vào các vùng khác nhau của mRNA đích đã được tổng hợp một cách tách biệt và hoạt tính antisense của chúng được xác định bằng cách sử dụng một tấm chắn với cơ sở tế bào hoặc phi tế bào in vitro. Đây là phương pháp thông dụng đã được sử dụng trong nhiều thí nghiệm về antisense và đã thu được những kết quả tốt mặc dầu tốn kém và mất nhiều thời gian, công sức (chỉ dưới 5% oligonucleotid được phát hiện là có hiệu ứng).

Chọn lọc đích với sự trợ giúp của máy tính

Khi áp dụng các phương pháp trên người ta thường thấy có sự thay đổi một hoặc một vài base, đó là sự thay đổi không có ý nghĩa về mặt cấu trúc oligonucleotid nhưng lại có thể tạo nên những khác biệt về hoạt tính antisense. Hiệu lực của các oligonucleotid bổ cứu cho RNA đích xác định chủ yếu bởi cấu trúc bậc 2 và 3 của RNA đích. Vì thế hiệu quả của các antisense oligonucleotid có thể liên quan rất nhiều tới khả năng của các vị trí có thể được sử dụng làm đích cho các RNA đích. Những vị trí có thể sử dụng được trong mRNA lại có thể đoán trước được nếu sử dụng một chương trình máy tính thông qua các cách tiếp cận khác nhau để tiên đoán cấu trúc bậc 2 của RNA. Chẳng hạn như khi sử dụng chương trình gấp nếp RNA (RNA- folding program) như MFOLD (genetics Computer Group, Madison, WI) thì các antisense oligonucleotid có thể được thiết kế để kháng lại các vùng đích của mRNA (đã dự đoán trước) dựa trên sự cặp đôi phân tử của các base, vì thế mà nó có thể được sử dụng trong thiết kế các oligonucleotid.

Các dãy oligonucleotid

Những ích lợi trong công nghệ dãy DNA (DNA array technology) đã dẫn đến việc phát triển các dãy quét oligonucleotid như là một phương pháp mới để xác định các antisense oligonucleotid hoạt tính. Phương pháp này cho phép tổng hợp tổ hợp một lượng lớn oligonucleotid song song với việc đo lực liên kết của tất cả các oligonucleotid với mRNA đích. Cũng có thể là mối tương quan giữa lực liên kết và hoạt tính antisense đã tạo cơ sở cho sự tối ưu hóa các antisense oligonucleotid. Tuy nhiên, phương pháp này vẫn chưa được test rộng rãi trong các nghiên cứu antisense.

Sàng lọc dựa trên cơ sở sự phân giải của RNase H

Như đã đề cập ở trên, hoạt hóa RNase H là một trong các cơ chế chính của antisense, đặc biệt là các PS-oligos. Các thí nghiệm lâm sàng RNase H có thể được kết hợp sử dụng cùng với thư viện oligonucleotid ngẫu nhiên hoặc bán ngẫu nhiên để đi tới tối ưu hóa các oligonucleotid; mRNA đích được phiên mã in vivo với các đuôi đánh dấu và trộn lẫn với thư viện oligonucleotid; các vị trí phân cắt của RNase H sau đó được xác định bằng điện di trên gel. Tuy nhiên, phương pháp này cũng chưa xác định được một cách chính xác các vị trí có thể dùng được của mRNA đích bởi vì sự phân giải của RNase H có thể xảy ra ở nhiều hơn một vị trí. Vì thế sẽ khó mà đoán trước được hoạt tính anisense đơn lẻ trên cơ sở RNase mapping.

CÁC NGUYÊN LÝ ĐÁNH GIÁ ANTISENSE

Cũng như các loại thuốc mới khác, việc trị liệu bằng oligonucleotid cũng cần phải trải qua quá trình đánh giá một cách hệ thống và lâu dài trong các thử nghiệm tiền lâm sàng và lâm sàng (Hình 4.2 và 4.3). Hoạt tính sinh học của một thuốc antisense bao hàm các hiệu ứng mong muốn và không mong muốn có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau từ mức phân tử, tế bào, tổ chức /mô hay toàn cơ thể (Bảng 4.3 và 4.4). Các antisense oligonucleotid có thể gây các hiệu ứng sinh học lên các gen đích thông qua một vài cơ chế riêng biệt bao gồm cả cơ chế antisense và không antisense trên các tế bào hoặc mô đích hay không đích.

Hơn nữa, việc chuyển giao các thuốc antisense tới được các tế bào đích là vấn đề then chốt đi đến thành công. Trong các nghiên cứu in vivo, các lipid thường được sử dụng để tạo thuận lợi cho sự hấp thu của tế bào đối với các oligonucleotid. Nhưng cũng cần phải lưu ý rằng, tỷ lệ lipid đối trong các oligonucleotid sẽ tác động tới kết quả hấp thu cũng như các hoạt tính sinh học của oligonucleotid. Độc tính TB của riêng một lipid xác định cũng cần phải được lý giải trong các kết quả in vivo. Trái lại trong các nghiên cứu in vivo thì việc hấp thu oligonucleotid dường như là tốt hơn so với các thí nghiệm in vitro. Do vậy có lẽ cũng không cần phải sử dụng một phương tiện vận chuyển đặc biệt cho các oligonucleotid.

Đánh giá dược lý học

Đã có một số lượng lớn các báo cáo mô tả các tính chất dược động học của nhiều loại antisense oligonucleotid. Các antisense oligonucleotid với các chiều dài và các thành phần base khác nhau đã được đánh giá ở các mẫu khác nhau như ở chuột lớn, chuột nhắt, thỏ, khỉ và người với các phương thức đưa vào cơ thể khác nhau (qua tĩnh mạch, trong màng bụng, dưới da, trong cơ, uống và hít). Trong hầu hết cấc trường hợp, hàm lượng oligonucleotid gốc (parent) và các sản phẩm đã bị phân giải (trong một số trường hợp) được báo cáo là trên các mẫu huyết tương.

Trong một số nghiên cứu khác người ta đã phân phối các oligonucleotid tới nhiều mô khác. Nhìn chung là PS-oligos có đời sống phân phối bán phần huyết tương ngắn t1/2 dưới 1 giờ và đời sống loại thải bán phần lại rất dài t1/2 ở thang 40 -60 giờ.

Dược động học huyết tương của các oligonucleotid không liên quan tới chiều dài hay trình tự bậc nhất, trừ trường hợp các oligonucleotid đã cải biến khung và có các đoạn đặc hiệu ở đầu 3 và /hoặc đầu 5. Các antisense oligonucleotid được phân phối nhiều với nồng độ cao nhất ở gan và thận. Bài tiết qua nước tiểu có lẽ là con đường loại thải chính.

Việc duy trì oligonucleotid trong các mô đích và các mô bình thường liên quan trực tiếp tới tính ổn định in vivo. Để tăng hiệu ứng trị liệu cần phải tăng thời gian duy trì của các oligonucleotid nguyên vẹn trong cơ thể bằng cách làm tăng tính ổn định in vivo và giảm bài tiết. Các nghiên cứu tại phòng thí nghiệm cho thấy các MBO kéo dài sự duy trì tại mô hơn các PS-oligos. Tuy nhiên, vì sự phân phối mô không đặc hiệu và có sự tích lũy nên khi duy trì các mức (nồng độ) cao và kéo dài oligonucleotid trong các mô vật chủ thì có thể sẽ làm tăng rủi ro. Hơn nữa, độc tính và sự rủi ro này có thể tăng hơn nữa tùy thuộc trạng thái bệnh của từng cá thể cũng như chức năng của các tổ chức như gan và thận.

Đánh giá hiệu lực antisense

Có lẽ khía cạnh quan trọng nhất của các antisense oligonucleotid là hiệu ứng đích và tính đặc hiệu của các tác nhân antisense này (Hình 4.2, Bảng 4.3). Các oligonucleotid đã được thiết kế thường được test ở cả mức in vitro in vivo (Hình 4.2). In vitro các thử nghiệm dựa trên cơ sở TB hoăc phi TB đã được sử dụng một cách thường quy để xác lập nền tảng cho những nghiên cứu xa hơn. Sự hấp thu TB của các oligonucleotid được test  có lẽ phụ thuộc vào dạng TB, nồng độ thuốc, các điều kiện nuôi cấy TB và hệ thống chuyển giao. Nói chung, có thể chấp nhận được rằng phần lớn các oligonucleotid có thể vượt qua màng TB vào tận tế bào chất với một hàm lượng đủ để đạt tới hiệu ứng mong muốn.

Để tăng hấp thu TB in vitro, một vài phương tiện chuyển giao như liposome hoặc phospholipid đã được sử dụng có tính chất thường quy để tránh việc phải sử dụng nồng độ antisense cực kỳ cao trong những ngày đầu nghiên cứu.

Để chứng minh tính đặc hiệu của các oligonucleotid được test, mức độ biểu hiện của gen đích, người ta thường sử dụng phương pháp Western blot, phản ứng tổng hợp chuỗi phiên mã ngược (reverse transcriptase polymerase chain reaction RT- PCR) và / hoặc các phân tích Northern blot. Nếu muốn khảo sát sự ức chế biểu hiện protein và những tác động lên sự chuyển hóa mRNA của các gen đích theo thời gian, liều lượng, cách thức phụ thuộc trình tự thì phải xác định được hiệu ứng đặc hiệu antisense. Cũng phải thực hiện các kiểm chứng đặc biệt (chưa xử lý, oligo không thích hợp, các lipid). Để chứng minh xa hơn nữa tính đặc hiệu của các antisense oligonucleotid được test thì việc kiểm soát các protein hay các gen quản gia chẳng hạn như actin cũng phải được phân tích đồng thời.

Các thử nghiệm nhằm xác định những biến đổi, sự tăng sinh và apoptosis TB cũng được sử dụng để vẽ được bức tranh tổng thể về hoạt tính kháng u của các oligonucleotid được test khi so sánh với các đối chứng. Tuy nhiên, những thử nghiệm này cũng có thể tạo ra các kết quả dương tính giả hay âm tính giả. Chẳng hạn như, một số lipid được dùng để nâng cao sự hấp thu oligonucleotid lại có độc tính đối với TB. Vì thế, các kiểm chứng đặc biệt (âm tính, dương tính, không xứng đôi) là rất cần thiết. Các đáp ứng về liều lượng, thời gian và sự phụ thuộc trình tự là những bằng chứng tốt đối với hiệu ứng antisense cũng như việc thiết lập nền tảng cho những đánh giá in vivio xa hơn cho các oligonucleotid được test.

Bằng chứng về hoạt tính kháng u in vivo của các antisense oligonucleotid là rất quan trọng đối với việc phát triển đường dây thông tin. Nhưng thật khó mà tạo được các kết quả làm cho người ta tin tưởng như là với các test in vitro. Các mô hình trên các loại chuột như mô hình ghép ngoại lai trên chuột nude và SCID trên chuột nhắt cũng như các mô hình chuột chuyển gen cũng thường hay được sử dụng nhất trước khi đi tới các thử nghiệm lâm sàng. Đích cuối cùng của hiệu ứng này là các số liệu về khối lượng khối u, sự di căn, sự sống sót, các marker phân tử và sự đánh giá mô bệnh học.

Có 3 mô hình test có thể được sử dụng – phụ thuộc vào lịch trình và thời gian điều trị. Thứ nhất là hiệu ứng đối với khởi đầu ung thư và việc tạo ra các oligonucleotid. Vấn đề này có thể xác định được khi sử dụng một protocol ex vivo trong đó các TB đã được xử lý với các antisense oliogonucleotide trước khi ghép ngoại lai TB. Tốc độ hình thành khối u và sự ức chế tăng trưởng có thể được coi như là đích chính trong các mô hình này.

Thứ hai là, hiệu ứng ức chế tăng trưởng khối u của các oligonucleotid test có thể được thực nghiệm với việc sử dụng một proptocol xử lý in vivo, trong đó việc xử lý bằng oligonucleotid được bắt đầu ở giai đoạn sớm của tăng trưởng khối u, thường là khi khối u đạt tới 50-100mg. Trong các mô hình này, ức chế tăng trưởng khối u và các marker phân tử / bệnh lý là đích chính cuối cùng.

Thứ ba là, hoạt tính kháng u của các oligonucleotid có thể được test ở các khối u giai đoạn muộn, khi đó người ta sử dụng một protocol mà việc xử lý bằng oligonucleotid bắt đầu khi khối lượng khối u đạt tới 500-1000mg, tùy thuộc vào từng dạng khối u. Trong những mô hình này, ức chế tăng trưởng khối u và sự sống sót có thể là đích chính cuối cùng.

 

Việc thiết kế mối tương quan đáp ứng liều trong các mô hình in vivo là rất quan trọng. Các kiểm chứng đặc biệt (không xử lý, chất dẫn thuốc, oligonucleotid) cũng cần được đề cập, Bằng chứng in vivo về việc ngăn chặn biểu hiện gen đặc hiệu cũng là điều mà người ta mong mỏi. Cần phải chỉ rõ rằng, hoạt tính kháng u in vivo của một antisense oligonucleotid đã biết không nhất thiết phải là kết quả tất yếu của cơ chế antisense mà nó còn có thể liên quan tới cả hoạt tính không đặc hiệu và /hoặc hoạt tính kháng antisense đặc hiệu trình tự.

Trị liệu kết hợp

Mặc dầu hầu hết các antisense oligonucleotid được test in vivo với tư cách là trị liệu đơn, nhưng các phương pháp điều trị kết hợp giữa antisense oligonucleotid và các tác nhân hóa trị thông thường, các kháng thể kháng ung thư và xạ trị cũng được nghiên cứu với diện rộng. Có nhiều nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh rằng sự điều hòa xuống các sản phẩm gen đặc hiệu với antisense oligonucleotid làm các TB ung thư nhạy cảm với các tác nhân hóa trị, kết quả là có hoạt tính cộng hoặc đồng thuận kháng ung thư. Đích của các antisense này là receptor yếu tố tăng trưởng bì của chuột double minutes 2 (MDM2), protein kinase c-myc phụ thuộc AMP vòng (cAMP), protein kinase C và Bcl-2. Những antisense oligonucleotid này làm tăng hiệu ứng trị liệu của các tác nhân hóa trị như paclitaxel, 5-fluorouracil, cisplatin, carboplatin, taxotere, camtothecin, irinotecan, leucovorin, gemcitabin, mefosfamid, doxorubicin, adramycin và dacarbazin.

Tuy nhiên, cơ chế đáp ứng cho hiệu ứng cộng hay đồng thuận như thế giữa các antisense oligonucleotid và các tác nhân hóa trị thì vẫn chưa được rõ hoàn toàn. Có thể cả yếu tố động dược học và dược động lực đều có thể liên quan tới cơ chế này (Bảng 4.3). Sự đồng thuận giữa 2 lớp tác nhân có thể dẫn đến từ sự tương tác trên một số cơ chế, chẳng hạn như sự làm ngừng chu kỳ tế bào, cảm ứng apoptosis, cảm ứng đáp ứng miễn dịch và sản xuất các cytokin. Mặc dầu hầu hết các nghiên cứu đã chỉ ra rằng hiệu ứng cộng hay đồng thuận như thế là do sự đặc hiệu trình tự, nhưng các nghiên cứu khác lại chứng minh rằng các antisense oligonucleotid cũng có thể làm cho irinotecan có tiềm lực kháng u trong phương thức độc lập trình tự – có thể là thông qua một tương tác ở mức dược động học và / hoặc chuyển hóa đã làm tăng sự chuyển đổi của các chất chuyển hóa hoạt tính.

Các thử nghiệm lâm sàng

So với các thử nghiệm tiền lâm sàng thì các nghiên cứu lâm sàng về oligonucleotid có số báo cáo ít hơn (Bảng 4.2). Hầu hết các antisense oligonucleotid đã được test là các PS-oligos, sơ bộ cho thấy độ nan toàn là có thể chấp nhận được và có hiệu lực kháng u ở giai đoạn khởi đầu trên người. Các antisense oligonucleotid đã được test với tư cách là trị liệu đơn cũng như trị liệu kết hợp với các tác nhân hóa trị khác.

Trong hầu hết các kết quả thử nghiệm pha I đã được báo cáo thì các antisense oligonucleotid có độ an toàn tốt. Các tác dụng phụ bao gồm: giảm tiểu cầu, kéo dài thời gian tạo cục đông đã được hoạt hóa cục bộ, tăng nhẹ các men gan. Độc tính với thận và gan không đánh kể. Các nghiên cứu động dược học được thực hiện trên các bệnh nhân đã chỉ rõ rằng: đời sống bán phần của sự phân phối huyết tương là ngắn nhưng lại kéo dài đời sống bán phần bài tiết. Bài tiết qua nước tiểu là con đường chính với các sản phẩm đã bị phân giải. Ngày nay, các antisense oligonucleotid đã thể hiện có thể ức chế được sự biểu hiện các gen đích và đáp ứng kháng u khởi đầu một cách đặc hiệu. Những hạn chế của các thử nghiệm pha II và III cũng đã được báo cáo và thấy cũng cần phải có các nghiên cứu xa hơn nữa. Trên thực tế, tương lai của trị liệu antisense sẽ còn phụ thuộc vào những thành công trong các thử nghiệm lâm sàng.

Đánh giá độ an toàn

Các nghiên cứu kỹ lưỡng về độc chất học là chìa khóa cho sự phát triển thuốc antisense. Cũng có một vài giới hạn về độc chất học đã được báo cáo trong các đánh giá về antisense oligonucleotid, mặc dầu có nhiều phosphorothiat đã được nghiên cứu mở rộng về độ an toàn của chúng trên một vài mẫu như chuột nhắt, chuột lớn, khỉ và người. Các hiệu ứng phụ lệ thuộc liều trong các thí nghiệm ở chuột lớn và chuột nhắt bao gồm: giảm tiểu cầu, phì đại lách và tăng transaminase. Những biến đổi mô bệnh học bao gồm: thâm nhiễm TB đơn nhân trong các mô như gan, thận và lách cũng như tăng sản các TB lưới nội mô và các TB lympho. Sự khốc liệt của các hiệu ứng phụ phụ thuộc vào liều lượng, tần suất và thời gian sử dụng các oligonucleotid. Nhìn chung khái lược về độc chất học của các PS-oligos có các thành phần base và chiều dài khác nhau là tương tự nhau, trừ khi có sự hiện diện của một motif trình tự xác định chẳng hạn như CpG -dinucleotid và motif poly -G. Những motif này góp phần làm nghiêm trọng thêm về độc chất học.

Các nghiên cứu về độc chất học tiền lâm sàng đã được sử dụng để chỉ dẫn cho kế hoạch thử nghiệm lâm sàng về về liều khởi đầu và liều tăng dần. Để củng cố cho các thử nghiệm lâm sàng pha I, người ta nghiên cứu độc chất học trên động vật với việc sử dụng 2 mẫu động vật, thường là một mẫu là loài gặm nhấm và một mẫu không phải là gặm nhấm. Đối với các antisense oligonucleotid thì các động vật cao cấp không phải là người thường được sử dụng trong các thử nghiệm. Hơn nữa, các nghiên cứu độc chất học đặc hiệu cũng được đề xướng để xác định độc chất học tim, độc chất học gan và độc chất học miễn dịch.

KẾT LUẬN

Mặc dầu đã có những tiến bộ đáng kể trong thập kỷ qua, nhưng các antisense oligonucleotid vẫn chưa được phát triển với tư cách là một phương pháp trị liệu hợp thức. Một trong số các khía cạnh quan trọng nhất của việc phát triển các antisense oligonucleotid là phê chuẩn các các đích thuốc và nâng cao hiệu lực cũng như tính đặc hiệu đích của các thuốc antisense này. Với việc ngày càng gia tăng các antisense oligonucleotid kháng ung thư đã được đánh giá trên lâm sàng thì hy vọng sẽ có các tác nhân trị liệu một cách đơn lẻ hay kết hợp cùng với các tác nhân trị liệu khác. Các nghiên cứu tương lai rất cần thiết vì nó không chỉ là cung cấp các nguyên lý cơ bản của công nghệ antisense in vitro in vivo mà còn làm thỏa mãn đầy đủ các nhu cầu của trị liệu. Các nghiên cứu cơ bản cũng rất cần thiết nhằm khám phá ra các cơ chế tác động tới các hoạt tính sinh học của các oligonucleotid. Với các thuốc antisense thế hệ mới đã được sáng chế và kiểm định, hy vọng rằng hiệu ứng trị liệu và độ an toàn của các tác nhân này sẽ được nâng cao một cách đáng kể.

Các bệnh rối loạn di truyền về chuyển hoá

Định nghĩa

Rối loạn di truyền gây thiếu protein enzym đặc hiệu hoặc gây rối loạn vận chuyển chất qua màng tế bào.

RỐI LOẠN CHUYỂN HOÁ ACID AMIN:

  1. Alcapton niệu.
  2. Phenylceton niệu.
  3. ứ đọng cystin.
  4. Homocystin niệu
  5. ứ đọng leucin
  6. Oxalat niệu cao nguyên phát
  7. Rối loạn khác: xem rối loạn chuyển hoá acid

RỐI LOẠN CHUYỂN HOÁ HYDRAT CARBON:

  1. Galactose huyết
  2. Không dung nạp fructose và fructose niệu.
  3. Thiếu lactase không rõ nguyên nhân.
  4. ứ đọng glycogen
  5. ứ đọng mucopolysaccharid
  6. Tiểu đường (có yếu tố gen)

RỐI LOẠN CHUYỂN HOÁ LIPID HUYẾT TƯƠNG

  1. Lipoprotein huyết cao.
  2. Cholesterol huyết cao mang tính gia đình.
  3. Không có beta lipoprotein huyết.
  4. Bệnh tangier

RỐI LOẠN CHUYỂN HOÁ LIPID VÀ Ứ LIPID:

  1. Bệnh Gaucher
  2. Bệnh Niemann-Pick
  3. U sừng mạch máu lan toả.
  4. Bệnh Tay-Sachs.
  5. Bệnh loạn dưỡng chất trắng có biến đổi màu.
  6. Các rối loạn khác: xem rối loạn mỡ.

RỐI LOẠN CHUYYỂN HOÁ PURIN:

Acid orotic niệu.

Acid uric huyết cao bẩm sinh.

RỐI LOẠN VẬN CHUYỂN Ở TẾ BÀO:

  1. Cystin niệu.
  2. Nhiễm acid do ống thận.
  3. Còi xương có phospho huyết giảm.
  4. Đường niệu do thận.
  5. Đái tháo (tiểu) nhạt do nguyên nhân tại thận.
  6. Bệnh Hartnup.
  7. Các rối loạn khác: xem rối loạn di truyền về vận chuyển ở tế bào.

RỐI LOẠN CHUYỂN HOÁ CÁC SẮC Tố:

  1. Bạch tạng.
  2. Rối loạn chuyển hoá porphyrin

CÁC RỐI LOẠN KHÁC:

Xem nhiễm sắc tố sắt nguyên phát, bệnh methemoglobin bẩm sinh, bệnh Wilson, phosphatase thấp.

Chẩn đoán và điều trị tràn khí màng phổi

  1. Đại cương

Tràn khí màng phổi là tình trạng xuất hiện khí trong khoang màng phổi. Tràn khí màng phổi thường được chia thành Tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát, Tràn khí màng phổi tự phát thứ phát, Tràn khí màng phổi do chấn thương và Tràn khí màng phổi do các thủ thuật chẩn đoán và điều trị gây ra.

  1. Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định

Triu chng lâm sàng

  • Đau ngực: thường đột ngột và ở bên bị tràn khí.
  • Khó thở, thở nhanh nông khi nghỉ hoặc khi gắng sức.
  • Ho khan.
  • Lồng ngực bên tràn khí căng vồng kém di động, gõ vang, rì rào phế nang giảm, rung thanh giảm. Có thể có dấu hiệu tràn khí dưới da: cổ bạnh, mắt híp, ấn da lạo xạo.

Cn lâm sàng

XQ phổi:

  • Khoảng tăng sáng, mất hình nhu mô phổi (vân phổi) giữa thành ngực và nhu mô phổi, hình đường viền ngăn giữa nhu mô phổi và vùng tràn khí.
  • Khoang liên sườn giãn rộng.
  • Trung thất bị đẩy lệch sang bên đối diện trong trường hợp Tràn khí màng phổi áp lực dương.

Chẩn đoán phân biệt

  • Kén khí phổi với Tràn khí màng phổi khu trú: kén khí xuất hiện từ trước, bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng, trên phim X-quang: thành kén khí mỏng, góc tiếp giáp với thành ngực là góc nhọn (Tràn khí màng phổi khu trú: góc tiếp giáp với màng phổi là góc tù). Chẩn đoán xác định bằng chụp cắt lớp vi tính ngực.
  • Giãn phế nang nặng: bệnh nhân có biểu hiện suy hô hấp mạn tính, trên phim chụp X-quang phổi thấy trường phổi 2 bên quá sáng, tuy nhiên, còn thấy nhu mô phổi đến sát thành ngự
  • Nếp da cơ ở thành ngực, bóng vú ở phụ nữ.

Phân loại tràn khí màng phổi

  • Tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát: không rõ nguyên nhân, thường gặp ở người trẻ, cao gầy, hút thuốc.
  • Tràn khí màng phổi tự phát thứ phát sau một số bệnh phổi:
  • BPTNMT, giãn phế nang, hen phế quản. Cần nghĩ tới Tràn khí màng phổi khi bệnh nhân đang ổn định, đột nhiên xuất hiện suy hô hấp nặng.
  • Nhiễm khuẩn phổi: do tụ cầu vàng, viêm phổi hoại tử do vi khuẩn Gram âm, viêm phổi do Pneumocystis jiroveci, lao phổi.
  • Các bệnh phổi mô kẽ như xơ phổi mô kẽ lan toả, bụi phổi silic, bệnh sacoit, bệnh phổi đột lỗ, nhồi máu phổi đều có thể có biến chứng
  • Bệnh tự miễn: Viêm khớp dạng thấp, viêm da cơ, xơ cứng bì.
  • Ung thư phế quản gây di căn màng phổi làm thủng màng phổi: hiếm gặp
  • Tràn khí màng phổi do chấn thương hoặc vết thương: vết thương ngực hở hoặc gẫy xương sườn gây tổn thương phổi, dập nhu mô phổi.
  • Tràn khí màng phổi do các thủ thuật chẩn đoán và điều trị: chọc dịch màng phổi, sinh thiết màng phổi, sinh thiết phổi xuyên thành ngực hay soi phế quản, đặt catheter tĩnh mạch dưới đòn, bóp bóng quá mạnh hoặc thở máy áp lực cao, bệnh nhân chống máy (chấn thương phổi do áp lực).
  1. Điều trị

Nguyên tắc: hút hết khí khoang màng phổi và phòng tái phát

Hút hết khí màng phổi

  • Tràn khí màng phi tự phát nguyên phát, lượng khí màng phi ít (< 15% thể tích bên tràn khí; chiều ngang của dải khí sát màng phổi < 2 cm): không cần hút dẫn lưu, thở oxy 2-3 lít/phút trong 2-3 ngày, sau đó chụp lại XQ phổi, nếu ổn định, có thể cho ra viện
  • Chc hút khí màng phổi đơn thuần
  • Chỉ định cho những bệnh nhân Tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát > 15% thể tích bên phổi tràn khí (chiều ngang của dải khí sát màng phổi > 2 cm). Tràn khí màng phổi thứ phát sau các thủ thuật: chọc dịch màng phổi, sinh thiết màng phổi, sinh thiết phổi xuyên thành ngực; lượng khí ít < 15% thể tích bên phổi tràn khí.
  • Sử dụng kim nhỏ nối với ba chạc và bơm tiêm 50 Sau khi hút hết khí thì rút kim. Nếu hút được 4 lít mà khí vẫn ra đều, không có cảm giác khí sắp hết cần xét chỉ định mở màng phổi. Hoặc:
  • Sử dụng kim luồn (14-16G) nối với dây truyền dịch, ba chạc và bơm tiêm 50 Sau khi hút hết khí, kẹp dây truyền và khóa ba chạc trong12 giờ, sau chụp lại, nếu không thấy tái phát thì rút kim luồn. Hoặc:
  • Đặt catheter có nòng polyethylen vào khoang màng phổi.
  • Hút áp lực âm 20 cm nước liên tục cho đến khi hết khí màng phổi, sau đó kẹp ống dẫn lưu 24 giờ.
  • Rút ống dẫn lưu nếu không thấy Tràn khí màng phổi tái phát sau 24 giờ dựa vào: khám lâm sàng và chụp X-quang phổi.
  • Sau kẹp ống dẫn lưu nếu thấy bệnh nhân khó thở tăng và/hoặc tràn khí dưới da, cần mở kẹp và hút khí trở lại
  • Mở màng phổi – đặt ống dn lưu
  • Chỉ định:
  • Tràn khí màng phổi áp lực dương: nhịp thở > 30 lần/phút, nhịp tim > 120 lần/phút, huyết áp tụt. Trung thất bị đẩy lệch về bên đối diện, vòm hoành hạ thấp dẹt và thẳng, có khi đảo ngược, tràn khí dưới Nếu chọc kim vào khoang màng phổi sẽ thấy khí xì ra.
  • Tất cả các trường hợp Tràn khí màng phổi tự phát thứ phát (Tràn khí màng phổi ở bệnh nhân BPTNMT, lao phổi, áp xe phổi).
  • Tràn khí màng phổi do chấn thương.
  • Tràn khí màng phổi thứ phát sau thông khí nhân tạ
  • Tràn khí màng phổi tự phát tiên phát lượng khí nhiều hoặc thất bại với các biện pháp điều trị nêu trên.
  • Tràn khí tràn dịch màng phổi (vì có thể do tràn máu màng phổi).
  • Tiến hành:
  • Mở màng phổi với ống thông 16-28F tuỳ từng trường hợp: 24-28F cho những bệnh nhân Tràn khí màng phổi cần thở máy hoặc Tràn khí màng phổi kèm tràn máu màng phổi.
  • Nên sử dụng van Heimlich hoặc van nước trong 12-24 giờ đầu để tránh nguy cơ phù phổi do phổi giãn nở nhanh nếu Tràn khí màng phổi đã có từ trước khi dẫn lưu nhiều ngày.
  • Hút áp lực âm 20 cm nước liên tục cho đến khi hết khí màng phổi, sau đó kẹp ống dẫn lưu 24 giờ.
  • Rút ống dẫn lưu nếu không thấy Tràn khí màng phổi tái phát sau 24 giờ: khám lâm sàng và chụp X-quang phổi.
  • Sau kẹp ống dẫn lưu nếu thấy bệnh nhân khó thở tăng và/hoặc tràn khí dưới da, cần mở kẹp và hút khí trở lại
  • Thất bại: khí tiếp tục ra sau 5 ngày hút dẫn lưu liên tục

Dự phòng tái phát

Chỉ định:

  • Tràn khí màng phổi tự phát nguyên phát đã tái phát từ lần 2 trở đi
  • Tràn khí màng phổi tự phát thứ phát sau các bệnh: BPTNMT, lao phổi cũ, bệnh phổi mô kẽ.
  • Hình ảnh bóng, kén khí trên phim chụp X-quang, hoặc CLV

Bơm bột talc y tế qua ống dn lưu:

  • Chỉ định: bệnh nhân Tràn khí màng phổi có suy hô hấp hoặc không có điều kiện nội soi màng phổi, hoặc có các chống chỉ định của nội soi màng phổi.
  • Thực hiện ngay sau đặt dẫn lưu màng phổi.
  • Pha 10 gam bột talc y tế vô trùng với 50 ml natriclorua 0,9% và 10 ml lidocain 2%, rồi bơm qua ống dẫn lưu màng phổi.
  • Dừng hút dẫn lưu, thay đổi tư thế 15 phút/lần. Hút dẫn lưu liên tục sau bơm bột talc 2 giờ.
  • Lưu ý: không kẹp ống dẫn lưu trong trường hợp bệnh nhân khó thở khi kẹp ống dẫn lưu, có thể tiến hành hút dẫn lưu sớm nếu bệnh nhân xuất hiện dấu hiệu suy hô hấp sau kẹp ống dẫn lưu.
  • Tác dụng phụ: bệnh nhân thường có đau nhiều (có thể tiêm thuốc giảm đau trước và sau bơm bột talc), sốt sau bơm bột talc.

Bơm iodopovidon qua ống dn lưu:

  • Chỉ định: tương tự bơm bột talc qua ống dẫn lưu. Nên chỉ định bơm iodopovidone trong trường hợp đã đặt ống dẫn lưu nhiều ngày, hoặc bệnh nhân có suy hô hấp nhiều
  • Bơm dung dịch pha 40 ml iodopovidon 10% với 60 ml natriclorua 0,9%.
  • Dừng hút dẫn lưu, thay đổi tư thế 15 phút/lần. Hút dẫn lưu liên tục sau bơm iodopovidon 2 giờ.
  • Lưu ý: sau bơm iodopovidon bệnh nhân có thể đau nhiều, có thể sốt, tràn dịch màng phổi (có thể tràn dịch khá nhiều). Cần theo dõi và hút hết dịch ngay khi phát hiện để đảm bảo 2 lá màng phổi dính sát

Nội soi màng phổi can thiệp: Nơi có điều kiện, nên được xem xét can thiệp sớm trong các trường hợp thất bại điều trị sau 5 ngày dẫn lưu. Qua nội soi có thể tiến hành: gây dính màng phổi với bột talc dạng phun mù, chà sát màng phổi; đốt điện, cắt bỏ bóng khí, thắt, kẹp hoặc khâu các bóng khí.

Mở lồng ngực:

  • Chỉ định: không có điều kiện nội soi màng phổi hoặc nội soi màng phổi thất bại.
  • Mở lồng ngực để xử lý các bóng khí hoặc lỗ rò phế quản – màng phổi. Kết hợp gây dính màng phổi với hoá chất hoặc gây viêm dính bằng cách chà sát màng phổi.
  1. Một số thể Tràn khí màng phổi

    • Tràn khí màng phổi và tràn dịch (máu, mủ…) màng phổi
  • Mở màng phổi hút dẫn lưu kín
  • Nếu có điều kiện, chỉ định nội soi can thiệp khoang màng phổi sớm hoặc phẫu thuật sau khi thất bại với biện pháp điều trị nêu trên.
    • Tràn khí màng phổi áp lực dương
  • Ngay khi phát hiện, cần chọc ngay một kim thường hoặc ống thông nhỏ vào khoang liên sườn 2, đường giữa đòn để giảm áp lực khoang màng phổi.
  • Mở màng phổi hút dẫn lưu sớm.
    • Tràn khí màng phổi do các thủ thuật chẩn đoán và điều trị
  • Tràn khí màng phổi sau các thủ thuật: lượng khí ít chỉ cần chọc hút kim nhỏ hoặc đặt ống thông dẫn lưu khoang màng phổi. Mở MP nếu lượng khí nhiều (>15% thể tích bên phổi tràn khí) hoặc chọc hút kim nhỏ không hiệu quả.
  • Tràn khí màng phổi ở bệnh nhân mắc BPTNMT do bóp bóng hoặc thở máy, cần mở màng phổi với ống cỡ 24-28F, sau đó hút dẫn lưu liên tục và có thể gây dính màng phổi bằng bột talc hoặc iodopovidon qua ống dẫn lưu. Nội soi can thiệp khi có điều kiện.

Tài liệu tham khảo

  1. Henry , Arnold T., Harvey J. (2003), “BTS guidelines for the management of spontaneous pneumothorax”, Thorax, 58 Suppl 2: ii 39- 52.
  2. Levin J., Sako E.Y., Peters J. (2008), Fishmans Pulmonary Diseases and Disorder (4th ed), McGraw-Hill, pp.1517-1535.
  3. Light W, Y. C. Gary Lee (2010), “Pneumothorax, chylothorax, hemothorax, and fibrothorax”, Textbook of Pulmonary Medicine 5rded, pp.2043-2066.
  4. Sahn A., Heffner J.E. (2000), “Spontaneous pneumothorax”, N Engl J Med, 342 (12); pp.868-874.

Chứng chậm tiêu hoá ở người lớn tuổi cần chú ý điều gì

Người chậm tiêu hoá khi ăn vào không tiêu, cảm giác nặng bụng lúc ăn trưa, cảm giác đầy bụng hoặc buồn nôn, ăn không ngon, chán thức ăn, đầy hơi, ợ.

Khi thấy có hiện tượng trên phải được kiểm tra đầy đủ: cân đo, tình trạng mất nước, tình hình răng lợi (có nhai được bình thường không).

Nên soi dạ dày để loại trừ thoát vị khe, loét dạ dày, ung thư thực quản, rối loạn chức năng và vận động thực quản.

Nếu đau vùng thượng vị, kiểu theo nhịp bữa ăn, cẩn tiến hành soi bằng ống soi mềm để loại trừ ung thư, loét dạ dày, viêm dạ dày.

Siêu âm bụng: xem sỏi mật, ung thư gan, u vùng ổ bụng.

Soi đại tràng: phát hiện ung thư đại tràng, viêm đại tràng.

Điều trị

  • Phải điều trị ngoại khoa nếu có ung thư dạ dày hay đại tràng. điều trị trong các triệu chứng loét dạ dày, viêm thực quản, viêm dạ dày, dùng thuốc chống viêm:  Ranitidine 300 mg/ngày hay Sulcrafate (2×2 gói/ngày) trong thời gian từ 6 – 8 tuần.
  • Nếu có táo bón cho uống thuốc điều hoà chuyển vận thức ăn từ dạ dày, chống tăng áp lực môn vị hay chống giảm áp lực cơ thắt dưới của thực quản như Trinébutine, Domperidone Metoclopramide.
  • Chú ý đến chế độ dinh dưỡng, nhưng không nên quá hạn chế. Tránh các loại thức ăn kích thích, rượu, gia vị, loại thức ăn nhiều mỡ, quá nhiều về số lượng.
  • Cần uống đủ nước 2 I/ngày.
  • Cho bệnh nhân uống các loại thuốc an thần, chống ưu tư: Chloradiaze poxide 1 viên buổi tối, Bromazepam 1/2 viên/ngày.

 

Các biến chứng của huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT)

Nếu bạn có cục máu đông trong tĩnh mạch sâu, bạn có nguy cơ bị tổn thương tĩnh mạch và cơ quan, cũng như các vấn đề nguy hiểm đến tính mạng khác. Không phải ai bị Huyết khối tĩnh mạch sâu cũng gặp rắc rối, nhưng có khả năng bạn sẽ bị ảnh hưởng.

Hãy tuân thủ kế hoạch điều trị Huyết khối tĩnh mạch sâu của bạn để giúp cơ thể phá vỡ cục máu đông và giữ cho máu lưu thông. Hãy hỏi bác sĩ về những gì bạn có thể làm để tránh những biến chứng này.

Thuyên tắc phổi

DVT ở chân là nguyên nhân phổ biến nhất. Nếu cục máu đông tách ra khỏi tĩnh mạch và di chuyển qua dòng máu, cuối cùng làm tắc một phần hoặc hoàn toàn động mạch trong phổi, nó được gọi là thuyên tắc phổi (PE). Điều này có thể xảy ra ngay sau khi cục máu đông hình thành, hoặc có thể xảy ra sau đó.

Khoảng 1 trong 10 người bị huyết khối tĩnh mạch sâu sẽ bị PE. Tuy nhiên, con số này có thể cao hơn nhiều vì một số người không có triệu chứng và không được chẩn đoán.

Nếu bạn có bất kỳ triệu chứng nào sau đây, hãy gọi 115 hoặc đến phòng cấp cứu ngay lập tức:

  • Ho đột ngột, có thể kèm máu
  • Thở nhanh hoặc khó thở đột ngột, ngay cả khi nghỉ ngơi
  • Đau ngực: có thể là đau nhói, rát, đau âm ỉ hoặc nhức (có thể nặng hơn khi thở sâu, ho, ăn uống hoặc cúi người)
  • Nhịp tim nhanh đột ngột

PE có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng, bao gồm:

  • Nhịp tim không đều (rối loạn nhịp tim)
  • Suy tim, khi tim không thể đáp ứng nhu cầu của cơ thể
  • Khó thở
  • Huyết áp cao ở phổi, gọi là tăng áp phổi
  • Tử vong đột ngột ở 1 trong 4 người bị PE

Bạn có thể cần chăm sóc khẩn cấp tại bệnh viện. Các bác sĩ có thể cho bạn dùng thuốc để hòa tan cục máu đông (gọi là thuốc tiêu sợi huyết) và ngăn ngừa cục máu đông mới (gọi là thuốc chống đông máu hoặc thuốc làm loãng máu). Tùy thuộc vào triệu chứng và kết quả xét nghiệm của bạn, bạn cũng có thể cần các phương pháp điều trị khác.

Hội chứng sau huyết khối hoặc suy tĩnh mạch mạn tính

Khi cục máu đông ở chân hoặc tay quá lâu, nó có thể làm hỏng tĩnh mạch hoặc các van của nó. Các van hoạt động không đúng sẽ khiến máu chảy ngược và ứ đọng, thay vì đẩy nó về phía tim.

Hội chứng sau huyết khối thường nhẹ, nhưng một số triệu chứng có thể nghiêm trọng. Chúng có thể không xuất hiện cho đến nhiều năm sau đó. Lên đến một nửa số người bị Huyết khối tĩnh mạch sâu có các tác động dài hạn tại nơi cục máu đông hình thành:

  • Đau
  • Sưng
  • Da bị sậm màu
  • Lở loét da
  • Giãn tĩnh mạch – tĩnh mạch bị sưng, đôi khi xoắn hoặc có màu xanh mà bạn có thể nhìn thấy dưới da

Vì máu không lưu thông tốt có nguy cơ tạo cục máu đông cao hơn, bạn cũng có thể bị thêm một cục máu đông khác hoặc bị thuyên tắc phổi.

Phòng ngừa là chìa khóa. Ngoài việc cung cấp thuốc để ngăn ngừa cục máu đông, bác sĩ có thể khuyên bạn:

  • Mang vớ ép
  • Nâng cao chân hoặc tay khi nghỉ ngơi
  • Thực hiện thủ thuật để mở rộng tĩnh mạch hẹp, chẳng hạn như nong bóng hoặc đặt stent
  • Loại bỏ cục máu đông bằng phẫu thuật

Phlegmasia Cerulea Dolens

PCD là tình trạng nghiêm trọng khi cục máu đông, hoặc “huyết khối,” gây tích tụ chất lỏng cực kỳ lớn – thậm chí nhiều hơn Huyết khối tĩnh mạch sâu – trong tĩnh mạch chính và đôi khi trong các tĩnh mạch “bên cạnh” nhỏ hơn xung quanh nó.

Nó xảy ra ở chân trái nhiều gấp gần bốn lần so với chân phải và hiếm gặp ở bất kỳ nơi nào khác ngoài chân. Da của bạn có thể trở nên nhợt nhạt khi chất lỏng tích tụ, và sau đó có thể bắt đầu chuyển sang màu xanh. Khi điều đó xảy ra, bạn cũng có thể bắt đầu nhận thấy:

  • Phồng rộp trên da (bullae)
  • Cảm giác rát, ngứa ran hoặc tê da (cảm giác dị cảm)
  • Yếu cơ và khó khăn khi di chuyển

Nếu không được điều trị, nó có thể bắt đầu giết chết mô (hoại tử), khiến da của bạn thậm chí trở nên sậm màu hơn (đen).

Yếu tố nguy cơ phổ biến nhất là một khối u ung thư ở đâu đó trong cơ thể bạn. Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm:

  • Chấn thương
  • Phẫu thuật
  • Viêm loét đại tràng
  • Hội chứng May-Thurner (động mạch chậu ép lên tĩnh mạch)
  • Hội chứng tăng đông máu
  • Bộ lọc tĩnh mạch chủ dưới (thiết bị ngăn cục máu đông di chuyển đến phổi)

PCD là một trường hợp cấp cứu y tế cần được điều trị ngay lập tức. Các bác sĩ có thể sẽ cho bạn dùng các loại thuốc chống đông máu chuyên dụng để giúp phá vỡ cục máu đông. Các loại thuốc này có thể bao gồm:

  • Heparin (truyền qua IV)
  • Heparin trọng lượng phân tử thấp (LMWHs)
  • Thuốc ức chế yếu tố Xa dạng uống

Bạn có thể cần dùng thuốc chống đông máu trong ít nhất 6 tháng sau khi điều trị ban đầu.

Cây cứt lợn

Cây ngũ sắc, Cây ngũ vị, Cỏ hôi
Cây ngũ sắc, Cây ngũ vị, Cỏ hôi

CÂY CỨT LỢN

Tên khác: Cây ngũ sắc, Cây ngũ vị, Cỏ hôi

Tên khoa học: Ageratum conyzoides L., họ Cúc (Asteraceae).

Mô tả:

Cây thảo mọc hằng năm, cao chừng 25 – 50cm. Lá mọc đối, hình trứng, mép có răng cưa tròn. Toàn thân và lá đều có lông.

Hoa nhỏ, màu tím hay xanh trắng, xếp thành đầu; các đầu này lại tập hợp thành ngù. Quả bế có ba sống dọc, màu đen.

Bộ phận dùng: Phần trên mặt đất.

Phân bố: Cây mọc hoang khắp nơi.

Thành phần hoá học:

Tinh dầu 0,16%, hoa có tinh dầu 0,2%, trong tinh dầu hoa và lá đều có Cadinen, Caryophyllen, Geratocromen, Demetoxygeratocromen và một số thành phần khác Alcaloid, saponin.

Công năng:

Thanh nhiệt, giải độc, tiêu sưng, cầm máu, trừ sỏi.

Công dụng:

Chữa các bệnh viêm nhiễm đường hô hấp, viêm họng, viêm dạ dày, đau bụng, sỏi thận, sỏi bàng quang, hỗ trợ điều trị ung thư cổ tử cung, ung thư dạ dày. Ngoài ra, cây cứt lợn còn giúp chữa eczema, chốc đầu, viêm xoang mũi, dị ứng cấp, rong huyết sau khi sinh… Dân gian cũng thường dùng cây này nấu với bồ kết để gội đầu.

Cách dùng, liều dùng:

  • Chữa viêm xoang mũi dị ứng: cây tươi rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước tẩm vào bông, dùng bông nhét vào lỗ mũi.
  • Chữa bệnh phụ nữ (bị rong huyết sau khi sinh nở): 30-50g cây tươi, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước uống trong ngày.
  • Phối hợp với nước bồ kết để gội đầu

Bài thuốc:

Viêm họng: Cây cứt lợn 20 g, kim ngân hoa 20 g, lá giẻ quạt 6 g, cam thảo đất 16 g. Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần.

Viêm đường hô hấp: Cây cứt lợn 20 g, lá bồng bồng 12 g, cam thảo đất 16 Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần.

Sỏi tiết niệu: Cỏ cứt lợn 20 g, kim tiền thảo 16 g, râu ngô 12 g, mã đề 20 g, cam thảo đất 16 Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần.

Phụ nữ đẻ xong chảy máu không ngừng: Cây cứt lợn 30-50 g, vò nát, vắt lấy nước uống liên tục trong 3-4 ngày.

Eczema, chốc đầu: Cây cứt lợn lượng vừa phải, nấu nước rửa tổn thương, ngày 1-2 lần.

Viêm xoang: Cây cứt lợn 30 g, kim ngân hoa 20 g, k đầu ngựa 12 g, cam thảo đất 16 Sắc uống ngày một thang, chia 2-3 lần.

Ung thư cổ tử cung, ung thư dạ dày: Cây cứt lợn 20 g, cỏ nhọ nồi, kim nữu khấu, dạ hương ngưu mỗi thứ 30 g, giã nát, thêm nước cây ma phong 15 ml, uống sau bữa ăn 1-2 lần.

Ghi chú: Tránh nhầm với cây Ngũ sắc (Lantana camara L.) và cây Cỏ lào (Eupatorium odoratum L. – cũng được gọi là cây Cứt lợn, Cỏ hôi).

Bệnh viêm nha chu răng

Bệnh nha chu là bệnh phá hủy những cơ cấu thành phần nâng đỡ răng như nướu, dây chằng nha chu, ximăng gốc răng và xương ổ răng.

DỊCH TỄ HỌC BỆNH NHA CHU

Bệnh nha chu có liên quan với các bệnh khác ở miệng và toàn thân, cũng như sự liên quan với môi trường sống. Không có bệnh nha chu nào thuần túy, riêng biệt xuất hiện một cách ngẫu nhiên, mà bao giờ cũng là kết qủa của một hay nhiều xáo trộn, mất cân bằng nào đó ở tại chỗ như răng mọc lệch, sâu răng, răng giả… hoặc toàn thân như bệnh suy dinh dưỡng, đái tháo đường, yếu tố di truyền…

Ngoài ra, mô nha chu còn có mối liên hệ với răng, với khớp thái dương hàm, bộ máy nhai và hệ thống miễn dịch của cơ thể.

Bệnh nha chu là một bệnh lưu hành phổ biến, chiếm một tỷ lệ khá cao trong cộng đồng và gặp ở tất cả các lứa tuổi, các vùng địa lý từ thành phố đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi.

Theo điều tra sức khoẻ răng miệng (SKRM) toàn quốc ở Việt Nam 1999 – 2000 của Trần Văn Trường và Lâm Ngọc Ấn, tỷ lệ viêm nướu của cả nước như sau:

Tuổi       Cả nước               T.P Hà Nội           T.P HCM               Cao Bằng

12           95%        84%        100%     88%

15           95,6%    96%        96%        92%

35-44     99,26%  92%        100%     100%

–              Ở Huế, theo mẫu điều tra sức khỏe răng miệng của nhân dân thành phố năm 1990, tỷ lệ viêm nướu là 93, 57% ở lứa tuổi 12-15.

–              Các nước trên thế giới tỷ lệ viêm nướu lứa tuổi 15-19 như sau:

Ấn Độ: năm 1989 là 96%

Nepal: năm 1986 là 99%

Thái Lan: năm 1981 là 100%

Úc: năm 1984 là 63%

Nhật: năm 1987 là 88%

GIẢI PHẪU VÀ CHỨC NĂNG SINH LÝ CỦA MÔ NHA CHU

Mô nha chu là toàn bộ những cơ cấu nâng đỡ răng và giúp răng đứng vững trên cung hàm. Có bốn loại mô chủ yếu: nướu răng (lợi răng), dây chằng nha chu (màng nha chu), ximăng gốc răng, xương ổ răng (XOR).

Nướu răng

–  Là phần của niêm mạc miệng, còn gọi là niêm mạc nhai, nướu bao bọc quanh xương ổ răng và răng, ôm sát cổ răng và trải dài từ cổ răng đến lằn tiếp hợp niêm mạc di động (đáy hành lang miệng).

–  Bình thường nướu có màu hồng nhạt, rắn chắc, bề mặt nướu có lấm tấm màu da cam.

Có thể chia nướu ra làm hai phần:

Nướu rời (nướu tự do)

Là phần nướu viền bao quanh cổ răng như một chiếc nhẫn, không dính vào răng, được giới hạn với nướu dính bởi một rãnh nhỏ gọi là rãnh nướu rời. Nướu rời rộng chừng 1mm và làm thành vách mềm của khe nướu (sở dĩ gọi là nướu rời hay nướu tự do vì người ta có thể dùng cây thăm dò tách nướu rời ra khỏi mặt răng).

– Khe nướu là một rãnh nhỏ hẹp hình chữ V, là nơi tiếp xúc giữa nướu rời và mặt răng, khe nướu cũng bao quanh răng như nướu rời. Chiều sâu của khe nướu bình thường là 0 – 3,5mm (cách đánh giá trong điều tra dịch tễ học theo hệ thống CPITN của WHO, hệ thống PSR của Mỹ hoặc hệ thống BPE của Anh) lý tưởng là 0 mm. Đáy của khe nướu là nơi bám của biểu mô bám dính (EA). Biểu mô bám dính trải dài từ men răng (ở đáy khe nướu) đến lằn tiếp hợp men- ximăng, bề rộng của dải biểu mô này khoảng 2,5mm. Khe nướu gồm 2 vách, vách mềm là nướu rời, vách cứng là bề mặt gốc răng, Trong khe nướu thường xuyên tiết ra một chất dịch để sát trùng và rửa sạch khe nướu. ở khe nướu, biểu mô vừa mỏng lại không được hóa sừng cho nên độc tố vi khuẩn dễ xâm nhập vào mô liên kết của nướu rời và gây nên viêm nướu. Chính vì vậy, khe nướu giữ một vị trí quan trọng là điểm xuất phát cho nhiều hình thức viêm nướu.

–  Gai nướu (nướu kẽ răng) là phần nướu giữa 2 răng có hình tháp. Gai nướu quá to hoặc không có gai nướu làm mất thẩm mỹ đồng thời gây ứ đọng thức ăn, tạo những hố hốc ở kẽ răng làm bệnh nha chu phát triển.

Nướu dính

Là phần nướu kế tiếp phần nướu rời trải dài đến lằn tiếp hợp nướu – niêm mạc di động. Bề rộng của nướu dính thay đổi từ 0,5 – 6mm. ở vùng khẩu cái không có ranh giới giữa nướu dính và niêm mạc. Nướu dính không di động, không thay đổi dưới sức nhai, áp sát vào răng, bám chặt vào ximăng và xương ổ răng.

Dây chằng nha chu

Định nghĩa

Là một cấu trúc mô liên kết sợi bao bọc quanh gốc răng và nối gốc răng vào xương ổ răng. Dây chằng nha chu là sự kéo dài mô liên kết của nướu, liên lạc với tuỷ xương thông qua những ống nhỏ của phiến cứng. Chức năng là neo giữ răng trong xương ổ và duy trì mối quan hệ sinh lý giữa răng và xương ổ.

Cấu tạo

–  Gồm chủ yếu là sợi collagen và sợi oxytalan xếp thành các bó sợi chính.

Có 4 nhóm: Nhóm đỉnh xương ổ, nhóm ngang, nhóm nghiêng, nhóm chóp gốc răng

–  Các tế bào: tế bào sợi, tế bào nội mô, tế bào tạo ximăng, tạo cốt bào, đại thực bào, tế bào biểu mô Malassez.

–  Dây thần kinh, mạch máu và mạch bạch huyết.

Chức năng

– Chức năng vật lý: Dẫn truyền lực cắn nhai đến XOR và nối răng với xương ổ, thích ứng được với những cử động sinh lý của răng, giữ gìn mối quan hệ giữa nướu và răng, làm vỏ bọc che chở cho các mạch máu và dây thần kinh khỏi bị chấn thương bởi lực cơ học.

– Chức năng dinh dưỡng và cảm giác: Nuôi dưỡng ximăng gốc răng, XOR và nướu, các dây thần kinh tạo ra cảm giác định vị và xúc giác.

– Chức năng cơ quan di truyền: Màng nha chu giữ vai trò là màng xương cho ximăng và xương ổ

răng, những tế bào màng nha chu tham gia vào quá trình tiêu huỷ ximăng và xương ổ răng.

Ximăng gốc răng

Định nghĩa

Là một lớp xương do mô liên kết tạo ra bao bọc mặt ngoài gốc răng, có nguồn gốc trung

bì.

Chức năng

Là chỗ bám cho các dây chằng nha chu nối răng vào xương ổ.

Cấu tạo

Ximăng gốc răng gồm 2 lọai:

– Ximăng gốc răng không có tế bào:

Có ở cổ răng và ở 1/2 chân răng phía cổ răng. Lớp ximăng này mỏng trong suốt ngăn cách rõ rệt với ngà răng. Gồm nhiều lớp sắp xếp song song với nhau và song song với bề mặt gốc răng điều đó chứng tỏ ximăng gốc răng được bồi đắp theo chu kỳ, rất chậm và kéo dài cả đời người.

– Ximăng gốc răng có tế bào:

Có ở vùng quanh chóp gốc,1/2 chân răng phía chóp răng và nơi chia 2, chia 3 của răng nhiều chân và cũng được hình thành từng lớp một.

Sự bồi đắp ximăng gốc răng xảy ra liên tục sau khi răng đã mọc chạm răng đối kháng, góp phần cho quá trình mọc răng liên tục để bù đắp phần men răng bị mòn vì lực nhai. Trong quá trình mọc răng, phần chân răng nằm trong giảm dần, do đó làm suy yếu sự giữ vững của chân răng. Để bù đắp hiện tượng này ximăng gốc răng có sự bồi đắp liên tục ở bề mặt gốc. Sự bồi đắp chủ yếu xảy ra ở chóp răng hoặc vùng chia của răng nhiều chân. Người ta cho rằng sự hư hại hoặc rối loạn cho sự thành lập ximăng gốc răng là một trong những nguyên nhân gây ra túi nha chu và nó không còn giới hạn được sự di chuyển của biểu mô bám dính về mô chóp răng. Cho nên, vì một lý do nào đó ở tại chỗ (như sang chấn, cao răng, nhồi nhét thức ăn, vệ sinh răng miệng kém…) hoặc toàn thân (như suy dinh dưỡng, thiếu vitamin A, D, lao…) làm cho sự thành lập ximăng gốc răng bị trì trệ, xáo trộn. Sự bồi đắp ximăng gốc răng ở từng vị trí có liên quan đến tuổi như: tuổi càng lớn sự bồi đắp men ở vùng cổ chậm lại, trong lúc ấy sự bồi đắp ở vùng chóp gốc lại tăng lên, tốc độ bồi đắp chậm lại ở tuổi già.

Xương ổ răng

Định nghĩa

Là phần của xương hàm, gồm một vách xương mỏng xốp bao cứng chung quanh gốc răng là nơi để các dây chằng nha chu bám vào.

Chức năng

Giữ cho răng được vững chắc, sự vững chắc này phụ thuộc vào chiều cao của xương ổ. Xương ổ tồn tại cùng với răng, nếu răng bị nhổ bỏ hoặc không có răng xương ổ răng sẽ bị tiêu.

–  Xương ổ răng là một nguồn dự trữ canxi cho cơ thể do đó nó cũng tham gia vào sự cân bằng can xi trong máu, vì thế xương ổ răng cũng bị ảnh hưởng bởi yếu tố toàn thân và nội tiết.

–  Xương ổ răng là mô kém ổn định nhất so với các mô nha chu khác, chịu tác động của nhiều yếu tố trong đó yếu tố sang chấn là quan trọng. Tiêu xương ổ răng là một dấu chứng đáng buồn trong bệnh nha chu và thường là do nguyên nhân tại chỗ (như viêm nướu, chấn thương khớp cắn).

NGUYÊN NHÂN

Bệnh nha chu gồm 2 nguyên nhân: tại chỗ và tổng quát

Nguyên nhân tại chỗ

Nguyên nhân do vi khuẩn

Vi khuẩn nằm trong mảng bám răng do vậy mọi sự tích tụ mảng bám vi khuẩn ở chung quanh răng và nhất là ở khe nướu chính là yếu tố khởi phát và kéo dài phản ứng viêm như:

– Cao răng

Được thành lập do sự vôi hóa mảng bám răng và nó cũng là chỗ dính lý tưởng cho các lớp mảng bám kế tiếp bám vào. Cao răng có thể là trên nướu họăc dưới nướu hoặc cả trên và dưới nướu.

– Nhồi nhét thức ăn

Do hở khoảng tiếp cận giữa hai răng (xoang trám lọai II sai hay phục hình sai hoặc do răng mọc lệch, nhổ răng không làm răng giả). Tạo sự lưu giữ các mảng bám vi khuẩn.

– Có sự liên quan và ảnh hưởng bất thường của răng kế cận và răng đối diện (răng thiếu chức năng hoặc có những điểm vướng cộm ở mặt nhai hay cạnh cắn)

– Thường xuyên sử dụng đường và các sản phẩm chế biến từ đường mà không giữ vệ sinh răng miệng đúng mức.

Sang chấn do khớp cắn

– Sang chấn sinh ra do khớp cắn bị lệch lạc, bị xáo trộn như: răng mọc lệch, trám răng và phục hình răng sai, nhổ răng không làm răng giả…Sang chấn khớp cắn dẫn đến tiêu xương ổ răng.

– Ngoài hai nguyên nhân kể trên còn có một số nguyên nhân tại chỗ khác khác như: thở miệng, kích thích từ hàm răng giả tháo lắp, lưỡi lớn, thắng môi và má bám thấp… Nhưng nói chung, nguyên nhân trực tiếp chủ yếu vẫn là do tình trạng vệ sinh răng miệng kém gây tích tụ mảng bám vi khuẩn.

Nguyên nhân toàn thân

Rối loạn nội tiết

Bệnh tiểu đường, bệnh thiểu năng tuyến thượng thận, phụ nữ mang thai, tuổi dậy thì, rối loạn cân bằng chuyển hóa.

Bệnh ác tính toàn thân như ung thư máu.

Những bệnh nhiễm khuẩn

Viêm miệng và nướu do liên cầu, zona, giang mai giai đoạn hai, viêm miệng herpes.

Suy dinh dưỡng, tình trạng thiếu vitamin C trầm trọng.

Yếu tố miễn dịch

Yếu tố nguy cơ: Khi nghiên cứu về vấn đề dịch tễ học của bệnh nha chu, người ta không thể bỏ qua yếu tố nguy cơ của bệnh như: tuổi, giới tính, chủng tộc, nghề nghiệp, tình trạng kinh tế, xã hội, địa dư, chế độ ăn uống, dinh dưỡng được xem là có liên quan đến mức độ trầm trọng của bệnh.

–  Tuổi: tăng về tỷ lệ và mức độ trầm trọng theo tuổi. Sự gia tăng này có thể là hậu quả của nhiều lần viêm hoặc là sự tăng dần về mức độ phá huỷ do vệ sinh răng miệng kém hay do sự thay đổi trong đáp ứng của cơ thể.

Điều tra cơ bản SKRM quốc gia 1990 tỷ lệ người có túi nha chu nông là 29, 97% túi nha chu sâu là 2,36% ở nhóm tuổi 35 – 44. Trong lúc ấy, tỷ lệ túi nông là không đáng kể và tỷ lệ túi sâu là 0% ở lứa tuổi 12 – 15.

Ở New Zealand (Tân Tây Lan) chỉ số nha chu (PI: periodontal index) tăng lên từ 0,89 ở tuổi 35 đến 1,21 ở tuổi 64

Như vậy, bệnh nha chu tăng theo tuổi là rõ rệt ở Việt nam cũng như nhiều nước trên thế giới.

– Giới tính

Không có sự thay đổi về tần số và mức độ trầm trọng của bệnh viêm nha chu ở nam và nữ.

Chỉ có sự khác biệt về tỷ lệ chảy máu nướu ở lứa tuổi 15 – 19 nữ cao hơn nam.

Theo điều tra cơ bản năm 1984 của Bộ môn Nha chu – trường ĐHYD thành phố HCM thì ở tuổi 35 trở lên nam bị cao răng chảy máu nướu và tỷ lệ bệnh nha chu cao hơn nữ có lẽ do vệ sinh răng miệng kém hơn. Lứa tuổi 15 – 19 ở nữ chảy máu nướu nhiều hơn nam.

–  Yếu tố xã hội

Người da đen có bệnh nặng hơn người da trắng. Tỷ lệ bệnh ở châu Á và châu Phi nhiều hơn ở châu Âu, châu Úc và Hoa kỳ. Điều này có thể giải thích do sự phát triển kinh tế của những nước này kém hơn.

–  Chế độ ăn uống và dinh dưỡng

Chế độ dinh dưỡng kém dẫn đến tốc độ phát triển và mức độ trầm trọng của bệnh viêm nha chu.

SINH BỆNH HỌC CỦA BỆNH NHA CHU

–  Bệnh nha chu là một bệnh nhiễm khuẩn ở mô nha chu, bệnh xảy ra khi có sự mất cân bằng giữa một bên là vi khuẩn tập trung với số lượng lớn và một bên là những cơ chế bảo vệ có ở mô nha chu.

–  Sang chấn với những lực bất thường tác động trên răng cũng là nguyên nhân tại chỗ quan trọng. Sang chấn không gây ra viêm nhưng gây ra tiêu XOR và biến viêm nướu thành viêm nha chu.

–  Ngoài ra những cơ chế bảo vệ tại chỗ cũng bị chi phối rất nhiều bởi yếu tố tổng quát cụ thể là các bệnh tổng quát như tiểu đường. Nguyên nhân tổng quát sẽ thúc đẩy quá trình phát triển của bệnh từ viêm nướu nhẹ thành viêm nướu nặng hoặc từ viêm nướu thành viêm nha chu phá hủy.

CÁC HÌNH THỂ LÂM SÀNG BỆNH NHA CHU

Trong bài này chúng tôi chỉ đề cập đến những bệnh nha chu phổ biến nhất: viêm nướu, viêm nha chu phá hủy, viêm nha chu ở lứa tuổi thanh niên (suy nha chu).

Viêm nướu (gingivitis)

Đặc điểm của bệnh

–  Bệnh có tính hoàn nguyên.

–  Là một bệnh nha chu có sang thương khu trú ở nướu, các thành phần khác của mô nha chu không bị ảnh hưởng.

Triệu chứng lâm sàng

–  Chảy máu nướu: khi thăm khám hoặc đánh răng nếu viêm nặng hơn có chảy máu tự phát.

–  Màu sắc: nướu có màu đỏ đậm hoặc xanh xám.

–  Vị trí, hình dạng và độ săn chắc của nướu: viêm nhẹ chỉ nướu viền và gai nướu sưng. Viêm nặng cả phần nướu dính cũng bị ảnh hưởng, viền nướu trở nên tròn bóng, các gai nướu căng phồng, nướu bở không còn săn chắc.

–  Đau: viêm cấp tính đau nhức, nếu viêm mãn chỉ có cảm giác ngứa ở nướu.

–  Độ sâu của khe nướu: có sự gia tăng độ sâu của khe nướu do nướu bị phù nề và sưng tạo thành túi nướu (túi nha chu giả).

–  Tăng tiết dịch nướu và dịch viêm.

Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt

– Chẩn đoán xác định dựa vào các triệu chứng lâm sàng.

– Chẩn đoán phân biệt: với viêm nha chu phá huỷ có túi nha chu, răng lung lay, hình ảnh X- quang có tiêu xương ổ răng theo chiều ngang.

Viêm nha chu phá hủy (Periodontitis)

Đặc điểm của bệnh

– Là bệnh của toàn thể những mô nha chu gồm có nướu, dây chằng nha chu, XOR, ximăng gốc răng. Đặc trưng của bệnh là sự mất bám dính từ ít đến nhiều và có thể phát hiện một cách dễ dàng trên lâm sàng và phim X-quang.

– Là một bệnh mãn tính xảy ra ở những người lớn trên 35 tuổi, không phân biệt giới tính.

– Là bệnh không hoàn nguyên.

– Bệnh diễn tiến theo chu kỳ (thời kỳ bộc phát xen lẫn thời kỳ yên nghỉ).

Triệu chứng lâm sàng

–  Viêm nha chu phá huỷ có tất cả các dấu chứng của viêm nướu như: nướu sưng đỏ, chảy máu và rỉ dịch.

– Ngoài ra răng lung lay và di chuyển cũng là một dấu chứng có sớm hoặc ở vào giai đoạn muộn của bệnh.

– Dấu chứng đặc hiệu là sự hình thành túi nha chu.

X-quang

  • Có hình ảnh tiêu xương ổ răng ở đỉnh hay mào xương.

Cơ chế tạo thành túi nha chu

  • Túi nha chu hình thành do sự di chuyển của biểu mô bám dính về phía chóp gốc răng đồng thời với sự tiêu xương ổ răng. Túi nha chu có hình chữ V trong túi có nhiều vi khuẩn.

Biến chứng của viêm nha chu phá hủy

–  Áp xe nha chu.

– Viêm khớp răng, viêm tủy đảo ngược.

– Viêm mô tế bào, viêm xương hàm, viêm xoang hàm.

Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt

– Chẩn đoán xác định dựa vào các triệu chứng lâm sàng.

– Chẩn đoán phân biệt: Với viêm nha chu ở lứa tuổi thanh niên trên hình ảnh X-quang có tiêu xương ổ răng theo chiều dọc.

Viêm nha chu ở lứa tuổi thanh niên (Suy nha chu: Periodontosis)

Đặc điểm của bệnh

– Là một bệnh mãn tính hay gặp ở tuổi 12 – 26, tỷ lệ nữ mắc bệnh nhiều hơn nam gấp 3 lần.

– Xảy ra trên những bệnh nhân khỏe mạnh, có tình trạng vệ sinh răng miệng tốt, cao răng, mảng bám răng, sâu răng ít.

– Bệnh tác động lên các răng cối thứ nhất và các răng cửa có thể có thêm 1 hoặc 2 răng phụ kèm theo.

– Nguyên nhân tổng quát là chủ yếu còn nguyên nhân tại chỗ chỉ là yếu tố phụ giúp làm bệnh nặng thêm.

Triệu chứng lâm sàng

– Nướu răng không viêm mà teo.

– Có sự mất bám dính, răng lung lay và di chuyển bất thường, tạo khoảng hở giữa các răng, ở giai đoạn này bệnh nhân không đau, không chảy máu nướu. Sau đó, do những kích thích tại chỗ viêm bắt đầu xuất hiện và tiếp theo là sự hình thành túi nha chu, bệnh có những triệu chứng lâm sàng giống viêm nha chu phá hủy (bệnh nhân thường đến khám ở giai đọan này).

X-quang

Xương ổ răng tiêu theo chiều dọc hoặc vát.

Chẩn đoán

– Chẩn đoán xác định dựa vào các triệu chứng lâm sàng.

– Chẩn đoán phân biệt với viêm nha chu phá huỷ, suy nha chu nướu teo và hình ảnh X-quang xương ổ răng tiêu theo chiều dọc

KẾ HOẠCH ĐIỀU TRỊ

Cần đi từng bước có thứ tự và hợp lý với những biện pháp nhằm loại bỏ những triệu chứng và dấu chứng của bệnh, phục hồi sức khỏe cho mô nha chu. Tùy theo từng hình thể lâm sàng ta có kế hoạch điều trị cụ thể:

Viêm nướu

–  Hướng dẫn vệ sinh răng miệng

–  Điều trị các sang thương cấp tính

–  Lấy cao răng trên và dưới nướu

–  Loại bỏ các vị trí gây tích lũy tập trung mảng bám răng: sửa chữa những yếu tố tại chỗ gây bất thường cho mô nha chu (miếng trám dư, phục hình sai…).

–  Xử lý bề mặt gốc răng hay Lấy láng gốc răng

–  Điều trị tạm thời các răng sâu

–  Nhổ những răng bất lợi hay không còn hy vọng điều trị bảo tồn.

Viêm nha chu phá hủy và suy nha chu

Là bệnh không hoàn nguyên vì thế mục đích của việc điều trị là chặn đứng sự phát triển của bệnh.

Kế hoạch cụ thể: bao gồm điều trị viêm nướu (từ bước 1 đến bước 7) phối hợp điều trị nha chu:

– Cố định các răng lung lay và di chuyển

– Mài điều chỉnh khớp cắn

– Phẫu thuật nha chu

–  Phục hình các răng mất

–  Hẹn tái khám để điều trị duy trì (3 – 4 tháng một lần)

DỰ PHÒNG

Mục đích của việc dự phòng bệnh nha chu là bảo vệ răng cho từng người hoặc cho nhiều người trong cộng đồng để răng tồn tại suốt đời càng nhiều răng càng tốt. Chúng ta biết, nguyên nhân của bệnh nha chu là mảng bám vi khuẩn, mảng bám gây ra viêm nướu và từ đó mới phát triển thành nhiều hình thức bệnh nha chu khác. Loại bỏ mảng bám để điều trị viêm nướu hay để phòng ngừa viêm nướu phải là mục tiêu chính của mọi biện pháp dự phòng bệnh nha chu.

Dự phòng cấp 0

Phối hợp với các cấp chính quyền, các ngành nâng cao mức sống của nhân dân trong cộng đồng về mặt văn hóa xã hội kinh tế. Tuyên truyền phòng bệnh (chải răng kỹ sau khi ăn, chế độ dinh dưỡng thích hợp, không ăn vặt…).

Dự phòng cấp 1

Khi bệnh chưa xảy ra

– Giáo dục sức khỏe để cải thiện vệ sinh răng miệng: hướng dẫn phương pháp chải răng; cách dùng chỉ nha khoa, tăm xỉa răng, xoa nắn nướu.

– Khám răng và Lấy cao răng định kỳ, phát hiện sớm những tổn thương.

– Trám răng sâu, sửa chữa những phục hình sai, miếng trám sai kỹ thuật, sửa chữa những thói quen xấu như mút tay, cắn chỉ.

Dự phòng cấp 2

Khi bệnh đã xảy ra

– Điều trị những dấu hiệu hoặc triệu chứng đầu tiên của bệnh nha chu nhằm ngăn chặn bệnh phát triển. Dự phòng cấp 2 cũng bao gồm việc giáo dục sức khỏe hướng dẫn vệ sinh răng miệng, Lấy cao răng trên nướu và dưới nước và điều trị túi nha chu nông.

– Khám răng định kỳ, kết hợp với chụp phim X-quang.

Dự phòng cấp 3

Ðiều trị phục hồi tránh tái phát bao gồm: phẫu thuật nha chu, phục hình các răng đã mất, mài điều chỉnh khớp cắn.

Bệnh đau xơ cơ nguyên phát (viêm xơ cơ, viêm xơ, hội chứng đau cơ-cân)

Tên khác: viêm xơ cơ, viêm xơ, hội chứng đau nhiều cơ lan toả vô căn, hội chứng đau cơ-cân, (tiếng Anh: “Generalized Myofascial Pain Syndrome” – Hội chứng đau cơ-mạc toàn thân)

Định nghĩa

Hội chứng đau mạn tính, xảy ra ở một số khối cơ, nhưng không hề có bất kỳ quá trình bệnh thấp, bệnh viêm hoặc thoái hoá nào.

Căn nguyên

Chưa rõ. Hội chứng gần giống với thấp và thần kinh trong đó yếu tố” tâm-thể đóng vai trò quan trọng.

Triệu chứng

Đau xơ cơ nguyên phát là một bệnh hay gặp nhất trong khám bệnh ngoại trú (theo một số thông kê thì 10% số bệnh nhân đến khám bệnh với lý do này). Bệnh nổi trội ở phụ nữ giữa 20 và 50 tuổi, thường là những đối tượng hay lo âu, quá hoạt bát hoặc trầm cảm. Stress có thể cũng khởi động hội chứng này.

– Cảm giác đau xảy ra ở một hoặc nhiều vị trí giải phẫu, trong đó những vị trí hay bị nhất là:

+ Phần giữa của cơ thang trên và/hoặc của cơ ức đòn chũm.

+ Lớp mô mỡ đệm ở mặt trong của khớp gổi.

+ Những vùng nằm trực tiếp ngay phía dưới của mỏm trên lồi cầu hoặc mỏm trên ròng rọc.

+ Phần tư trên ngoài của vùng mông ở mào chậu.

+ Khớp sụn sườn thứ hai.

Nếu ấn vào một số điểm thuộc vùng “phát động”, nhất là vùng cạnh cột sống và những chỗ bám của các gân cơ thì sẽ khởi phát cảm giác đau lan.

  • Khám thực thể không thấy có bệnh hệ thống nào có thể giải thích cho những triệu chứng này.
  • Có các triệu chứng kết hợp sau đây: mất ngủ, mệt mỏi, trầm cảm, nhức đầu, co thắt đại tràng, chứng da vẽ nổi (bằng một đầu nhọn vạch nhẹ lên da thì da sẽ phản ứng nổi đỏ), hội chứng Raynaud.

Xét nghiệm đặc biệt: tốc độ máu lắng, huyết đồ, xét nghiệm X quang, và xét nghiệm huyết thanh đều bình thường.

Điều trị

Giải thích cho bệnh nhân biết các triệu chứng này là lành tính, và diễn biến mạn tính. Châm cứu hoặc kích thích điện qua da, liệu pháp vận động thư giãn.

Trong trường hợp không kết quả có thể cho benzodiazepin hoặc thuốc chống trầm cảm ba nhân vòng liều nhẹ (ví dụ amitriptylin 10 mg trước lúc đi ngủ).

Thuốc Descapeptyl 0,1mg

Thuốc Descapeptyl 0,1mg
Thuốc Descapeptyl 0,1mg
Chỉ định điều trị Ung thư tuyến tiền liệt có di căn : Điều trị tấn công, trước khi sử dụng dạng có tác dụng kéo dài. Thuốc có hiệu quả điều trị tốt hơn và thường hơn nếu như bệnh nhân chưa từng được điều trị trước đó bằng nội tiết tố…

DÉCAPEPTYL 0,1 mg

Bột và dung môi pha tiêm dưới da: hộp 7 lọ thuốc bột và 7 ống dung môi 1 ml – Bảng A.

THÀNH PHẦN

Thuốc bột :

cho 1 lọ
Triptoréline 0,1 mg
Tá dược: mannitol.
cho 1 hộp
Triptoréline 0,7 mg

Ống dung môi :

cho 1 lọ
Sodium chlorure 9 mg
Nước cất pha tiêm 1 ml
cho 1 hộp
Sodium chlorure 63 mg
Nước cất pha tiêm 7 ml

DƯỢC LỰC

Triptoréline là một décapeptide tổng hợp, là một chất tương tự GnRH tự nhiên (hormone được giải phóng từ LH).

Các nghiên cứu được thực hiện ở người cũng như ở động vật đã cho thấy rằng sau khi có một sự kích thích ban đầu, dùng kéo dài triptoréline sẽ ức chế sự bài tiết hướng sinh dục, làm mất các chức năng của tinh hoàn và buồng trứng. Sau một số nghiên cứu trên động vật, người ta thấy có một cơ chế tác động khác của thuốc như sau: thuốc tác động trực tiếp lên các tuyến sinh dục bằng cách làm giảm sự nhạy cảm của các thụ thể ở ngoại biên đối với GnRH.

Ung thư tuyến tiền liệt :

  • Ở người, dùng mỗi ngày một liều triptoréline, có thể lúc ban đầu sẽ làm tăng các nồng độ LH và FSH trong máu, điều này dẫn đến hệ quả là lúc đầu nồng độ các stéroide sinh dục (như testostérone và dihydrotestostérone) sẽ tăng lên. Nếu tiếp tục điều trị, các nồng độ LH và FSH sau đó sẽ giảm đưa đến nồng độ của các stéroide sinh dục sẽ giảm dần đến các giá trị như bị hoạn, trong một thời hạn từ 2 đến 3 tuần, cùng thời gian với việc sử dụng thuốc.
  • Trong thời gian đầu điều trị cũng có thể ghi nhận thấy có tăng thoáng qua các phosphatase
  • Việc điều trị sẽ làm cải thiện các dấu hiệu chức năng và khách quan. Phụ nữ không có khả năng thụ thai :

Dùng hàng ngày Décapeptyl sẽ tạo ra một giai đoạn khởi đầu là kích thích hướng sinh dục (FSH và LH), tiếp theo đó là giai đoạn ức chế. Do đó việc điều trị này sẽ ức chế đỉnh gian phát của lượng LH và cho phép tạo thành các nang noãn hoàn chỉnh, cũng như gia tăng sự tuyển chọn nang noãn.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Ở người lớn khỏe mạnh :

Triptor line tiêm dưới da (0,1 mg) được tan nhanh (Tmax = 0,63 +/- 0,26 giờ với nồng độ trong huyết tương đạt đỉnh cao Cmax = 1,85 +/- 0,23 ng/ml). Thuốc được đào thải với thời gian bán hủy sinh học là 7,6 +/- 1,6 g sau khi được phân phối trong 3 đến 4 giờ.

Thanh thải toàn phần trong huyết tương là 161 +/- 28 ml/phút. Thể tích phân phối là 1 562 +/- 158 ml/kg.

Ở bệnh nhân bị ung thư tuyến tiền liệt :

Dùng bằng đường tiêm dưới da (0,1 mg), các nồng độ trong huyết tương dao động giữa giá trị tối đa là 1,28 +/- 0,24 ng/ml (Cmax) thường đạt được khoảng 1 giờ sau khi tiêm thuốc (Tmax) và giá trị tối thiểu là 0,28 +/- 0,15 ng/ml (Cmin) đạt được sau khi tiêm thuốc 24 giờ.

Thời gian bán hủy sinh học trung bình là 11,7 +/- 3,4 giờ nhưng thay đổi tùy theo từng người, và độ thanh thải trong huyết tương là 118 +/- 32 ml/phút phản ảnh việc đào thải chậm của thuốc ở những bệnh nhân này, trong khi đó thì thể tích phân phối thì vẫn tương tự như ở những người khỏe mạnh (1 130 +/- 210 ml/kg).

CHỈ ĐỊNH

Ung thư tuyến tiền liệt có di căn :

Điều trị tấn công, trước khi sử dụng dạng có tác dụng kéo dài.

Thuốc có hiệu quả điều trị tốt hơn và thường hơn nếu như bệnh nhân chưa từng được điều trị trước đó bằng nội tiết tố.

Phụ nữ không có khả năng thụ thai :

Điều trị hỗ trợ bằng cách phối hợp với các gonadotrophine (hMG, FSH, hCG) trong giai đoạn cảm ứng sự rụng trứng cho việc thụ tinh nhân tạo tiếp theo là một quá trình cấy chuyển phôi (Fivete).

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Phụ nữ có thai: xem mục Lúc có thai và Lúc nuôi con bú.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Chú ý đề phòng :

Ung thư tuyến tiền liệt :

Khi bắt đầu điều trị: một vài trường hợp riêng rẽ được ghi nhận là có nặng lên, thường chỉ tạm thời, các triệu chứng lâm sàng (nhất là đau xương) được ghi nhận khi bắt đầu điều trị. Do đó cần phải theo dõi y khoa chặt chẽ trong các tuần lễ đầu điều trị, nhất là ở những bệnh nhân bị tắc các đường bài tiết và ở những bệnh nhân bị di căn cột sống (xem Tác dụng ngoại ý). Tương tự, cần phải cân nhắc kỹ khi điều trị cho những bệnh nhân có các dấu hiệu báo hiệu bị chèn ép tủy.

Phụ nữ không có khả năng thụ thai :

Việc tăng số lượng nang tuyến do tiêm triptoréline, khi có phối hợp với các gonadotrophine, có thể trở nên đáng kể ở một số bệnh nhân có bẩm chất khó thụ thai và đặc biệt trong trường hợp bị đa u nang buồng trứng. Đáp ứng của buồng trứng đối với phối hợp triptoréline- gonadotrophine có thể thay đổi với cùng một liều lượng ở bệnh nhân này so với bệnh nhân khác, và trong một số trường hợp có sự đáp ứng khác nhau giữa những chu kỳ kinh khi dùng trên cùng một bệnh nhân.

Thận trọng lúc dùng: Ung thư tuyến tiền liệt :

Nên theo dõi định kỳ nồng độ testost rone trong máu không được vượt quá 1 ng/ml.

Việc đáp ứng với điều trị có thể được đánh giá trên xương bằng xét nghiệm chụp lấp lánh và/hoặc chụp cắt lớp điện toán ; ở tuyến tiền liệt, việc đáp ứng sẽ được đánh giá (ngoài các kiểm tra lâm sàng và khám qua trực tràng) bằng siêu âm và/hoặc phương pháp chụp cắt lớp điện toán.

Phụ nữ không có khả năng thụ thai :

Việc gây rụng trứng phải được thực hiện dưới sự theo dõi y khoa chặt chẽ và kiểm tra sinh học và lâm sàng nghiêm ngặt và thường xuyên: định lượng nhanh nồng độ estrogène trong huyết tương, chụp siêu âm (xem mục Tác dụng không mong muốn).

Trường hợp có đáp ứng quá mức ở buồng trứng, nên ngưng chu kỳ điều trị bằng cách ngừng tiêm gonadotrophine nhưng vẫn tiếp tục tiêm triptor line trong 2 đến 3 ngày để tránh tạo trở lại tạm thời đỉnh của LH.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Lúc thai :

  • Ở động vật, các thử nghiệm không cho thấy thuốc có tác dụng gây quái Do không có tác dụng gây quái thai trên động vật, người ta không nghĩ rằng thuốc có thể có nguy cơ gây dị dạng trên người. Thực tế cho đến nay, các chất thuốc gây dị dạng trên người đều có gây quái thai trên động vật trên các nghiên cứu được thực hiện trên cả động vật và người.
  • Trên lâm sàng, dùng các chất giống GnRH trên số giới hạn phụ nữ có thai không thấy có tác dụng gây dị dạng nào hay độc tính đặc biệt trên phôi được ghi nhận cho đến Tuy nhiên, cần phải thực hiện thêm nhiều nghiên cứu bổ sung để xác định các hậu quả có thể xảy ra trong thời gian có thai.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Ung thư tuyến tiền liệt :

  • Khởi đầu điều trị (xem mục Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng): đôi khi có thể làm nặng lên các dấu hiệu lâm sàng và các triệu chứng (đặc biệt là đau xương). Một vài trường hợp làm nặng lên chứng huyết niệu đã bị trước đó, hoặc gây tắc đường tiểu, cảm giác yếu ớt hoặc gây dị cảm các chi dưới đã được ghi nhận đối với một số chất tương tự GnRH khác.

Các biểu hiện này thường là thoáng qua, sẽ tự khỏi sau 1 đến 2 tuần vẫn tiếp tục điều trị. Tuy nhiên, khả năng xảy ra cơn kịch phát tạm thời các triệu chứng kéo dài trong các tuần lễ điều trị đầu cần phải được thận trọng lưu ý ở những bệnh nhân bị đe dọa xảy ra rối loạn thần kinh hay ở những người bị tắc nghẽn đường tiểu.

  • Trong thời gian điều trị: các tác dụng ngoại ý sau đây được ghi nhận: bốc hỏa (khoảng 35%), đau tại nơi tiêm (khoảng 2%), bất lực (khoảng 6%), cơn cao huyết áp thoáng qua (dưới 3%).

Với các chất tương tự GnRH khác, một số tác dụng ngoại ý sau được ghi nhận: sốt, buồn nôn, ói mửa, phát ban ở da, ngứa (khoảng 3 đến 4%) ; yếu ớt ở các chi dưới, chóng mặt, khó thở (dưới 2%) ; nhức đầu, đánh trống ngực, tiêu chảy, táo bón, rối loạn thị giác, trầm cảm, chán ăn, ra mồ hôi ban đêm, mồ hôi lạnh, rụng tóc, ngủ gật (dưới 1%).

Phụ nữ không có khả năng thụ thai: Hiếm gặp: bốc hỏa, suy nhược.

Nếu dùng phối hợp với các gonadotrophine có thể gây tăng kích thích buồng trứng. Quá dưỡng buồng trứng, đau vùng khung chậu và/hoặc đau bụng có thể được ghi nhận (xem mục Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng).

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Ung thư tuyến tiền liệt :

Tiêm mỗi ngày 0,1 mg triptoréline bằng đường dưới da từ ngày 1 đến ngày thứ 7 trước khi chuyển sang dùng dạng có tác dụng kéo dài.

Phụ nữ không có khả năng thụ thai :

Điều trị phối hợp với gonadotrophine, tiêm dưới da 1 lọ/ngày từ ngày thứ hai của chu kỳ kinh nguyệt (phối hợp với việc kích thích buồng trứng ở giai đoạn đầu) cho đến hôm trước của ngày được ấn định để phát động việc rụng trứng, ước tính trung bình khoảng 10 đến 12 ngày.

Đa Xơ Cứng – Biểu hiện, điều trị

Đặc trưng bởi viêm mạn tính và phát huỷ có chọn lọc myelin hệ thần kinh trung ương; suy yếu hệ thần kinh ngoại biên. Sinh bệnh học, tổn thương sẹo đa ổ của Đa Xơ Cứng (MS) được gọi là mảng. Nguyên nhân được nghĩ là do tự miễn, có tính nhạy cảm được xác định bởi yếu tố di truyền và môi trường. Đa Xơ Cứng ảnh hưởng đến 350,000 người MỸ; khởi phát thường ở giai đoạn đầu tới giữa tuổi trưởng thành, phụ nữ gấp ba lần nam giới.

ĐẶC TRƯNG LÂM SÀNG

Khởi phát đột ngột hay âm ỉ. Vài bệnh nhân có triệu chứng bình thường mà họ không tìm đến chăm sóc trong vài tháng đến vài nằm. Phổ biến nhất là các đợt tái phát rối loạn thần kinh khu trú, điển hình kéo dài nhiều tháng đến nhiều năm, và sau đó hồi phục biến đổi; vài bệnh nhân biểu hiện ban đầu suy giảm thần kinh tiến triển chậm. Triệu chứng trầm trọng thoáng qua với mệt mỏi, stress, thể lực hay nhiệt. Biểu hiện của Đa Xơ Cứng là hay thay đổi nhưng chủ yếu gồm yếu và/hoặc triệu chứng cảm giác gồm chi, khó khăn thị giác, bất thường dáng điệu và phối hợp vận động, bất thường đường niệu và mệt mỏi. Tổn thương vận động có thể biểu hiện nặng, cứng, yếu, hay vụng về chị. Ngứa khu trú, kim châm, và cảm giác chết thường phổ biến.

Viêm thần kinh thị có thể dẫn đến nhìn mờ, đặc biệt ở thị trường trung tâm, thường có liên quan đau sau ổ mắt, mạnh hơn khi cử động mắt. Tổn thương thân não dẫn đến song thị, rung giật nhãn cầu, chóng mặt, tê, yếu, co giật một bên, hay rung cơ cục bộ. Thất điều, rung, và loạn vận ngôn có thể phản ánh bệnh con đường tiểu não. Dấu Lhermitte, shock điện nhất thời giống cảm giác được gợi lên khi gấp cổ, cho biết bệnh ở cột sống cổ. Điều kiện chẩn đoán được trình bày ở Bảng 202-1; giống Đa Xơ Cứng được tóm tắt ở Bảng 202-2.

KHÁM LÂM SÀNG

Triệu chứng bất thường thường rộng hơn mong đợi từ bệnh sử. Kiểm tra bất thường thị trường, mất thị lực, rối loạn cảm nhận màu, viêm gai thị, khiếm khuyết co dãn đồng tử, rung giật nhãn cầu, liệt thần kinh mắt trong nhân (chậm hay mất sự khép một mắt với rung giật nhãn cẫu ở mắt mở khi liếc bên), tê mặt hay yếu, rối loạn vận ngôn, yếu và co cứng, tăng phản xạ, clonus cổ chân, thất điều, cảm giác bất thường, co ngón chân.

QUÁ TRÌNH BỆNH

Bốn loại tổng quát:

  • Đa Xơ Cứng tái phát-thuyên giảm (RRMS) đặc trưng bởi những đợt tái phát của rối loạn chức năng thần kinh có/không phục hồi; giữa các đợt, không ghi nhận tiến triển của suy giảm thầ kinh. Chiếm khoảng 95% trường hợp mới mắc.
  • Đa Xơ Cứng tiến triển thứ phát (SPMS) luôn biểu hiện ban đầu như RRMS nhưng tiến triển dần dần. Đa số RRMS tiến triển cuối cùng thành SPMS (~2% mỗi năm).
  • Đa Xơ Cứng tiến triển nguyên phát (PPMS) đặc trưng bởi mất chức năng tiến triển dần dần sau khi khởi phát không liên quan với các đợt cấp; 15% trường hợp mới mắc.
  • Đa Xơ Cứng tiến triển tái phát (PRMS) là thể hiếm gặp, lành tính với quá trình diễn tiến nguyên phát, nhưng sau này tỉ lệ tái phát cao.

Đa Xơ Cứng là bệnh lý mạn tính; 15 năm sau chẩn đoán, chỉ 20% bệnh nhân không giớ hạn chức năng; một phần ba tới một nửa sẽ tiến triển tới SPMS và cần hỗ trợ đi lại.

CẬN LÂM SÀNG

MRI cho thấy nhiều vùng sáng trên trình tự T2 điều chỉnh ở hơn 95% bệnh nhân, thường xung quanh não thất; gadolin chỉ ra tổn thương cấp với vỡ hàng rào máu não (Hình 202-1). MRI cũng giúp ích loại trừ tổn thương giống Đa Xơ Cứng, mặc dù dấu chứng của Đa Xơ Cứng thì không hoàn toàn đặc hiệu cho rối loạn. Dấu chứng dịch não tuỷ gồm tăng vừa lympho dịch não tuỷ (5–75 tế bào trong 25%), dải đơn dòng (75–90%), tăng IgG (80%), và nồng độ tổng protein bình thường. Kiểm tra thị giác, thính giác, và đáp ứng cảm giác bản thể có thể xác định tổn thương mà im lặng trên lâm sàng; một hay nhiều kiểm tra đáp ứng bất thường gặp trong 80–90% bệnh nhân. Những nghiên cứu niệu động học trợ giúp trong quản lí các triệu chứng bàng quang.

BẢNG 202-1 ĐIỀU KIỆN CHẨN ĐOÁN MS

Biểu hiện lâm sàng Dữ liệu khác cần cho chẩn đoán Đa Xơ Cứng
2 hay nhiều đợt; bằng chứng lâm sàng khách quan của 2 hay nhiều tổn thương hay nhiều tổn thương hay bằng chứng lâm sàng khách quan của 1 tổn thương với tiền sử của đợt trước Không
2 hay nhiều đợt; bằng chứng lâm sàng khách quan của 1 tổn thương Phân bố không gian, xác định bằng:
≥1 tổn thương T2 trên MRI ở ít nhất 2 trên 4 vùng Đa Xơ Cứng điển hình của CNS (quanh não thất, gần vỏ não, dưới lều, tuỷ sống) hay
Đợi đợt lâm sàng khác ảnh hưởng vị trí CNS khác
1 đợt; bằng chứng lâm sàng khách quan của 2 hay nhiều tổn thương Phân bố thời gian, xác định bằng:
Biểu hiện đồng thời tổn thương có/ không gadolin không triệu chứng bất kỳ thời điểm nào.
hay
Tổn thương T2 mới và/hoặc có gadolin trên MRI theo dõi, không phụ thuộc thời gian với tham chiếu trên nền cơ bản
hay
Đợi đợt lâm sàng thứ hai
1 đợt; bằng chứng lâm sàng khách quan của 1 tổn thương (hội chứng lâm sàng đơn độc) Phân bố không gian và thời gian, xác định bằng:
Với phân bố không gian
≥1 tổn thương T2 trên MRI ở ít nhất 2 trên 4 vùng Đa Xơ Cứng điển hình của CNS (quanh não thất, gần vỏ não, dưới lều, tuỷ sống)
hay
Đợi đợt lâm sàng khác ảnh hưởng vị trí CNS khác

Với phân bố thời gian
Biểu hiện đồng thời tổn thương có/ không gadolin không triệu chứng bất kỳ thời điểm nào.
hay
Tổn thương T2 mới và/hoặc có gadolin trên MRI theo dõi, không phụ thuộc thời gian với tham chiếu trên nền cơ bản
hay
Đợi đợt lâm sàng thứ hai
Tiến triển thần kinh âm ỉ gợi ý Đa Xơ Cứng (PPMS) Diễn tiến 1 năm (hồi cứu hoặc tiến cứu
cộng
2 trong 3 tiêu chuẩn sau:
Bằng chứng phân bố không gian ở não dựa trên ≥ 1 tổn thương T2+ ở vùng Đa Xơ Cứng đặc trưng: quanh não thất, gần vỏ não, dưới lều.
Bằng chứng phân bố không gian của tuỷ sống dựa trên ≥2 tổn thương T2+ ở tuỷ CSF dương (bằng chứng đẳng điện tập trung của các dải đơn độc và/hoặc tăng chỉ số IgG)

BẢNG 202-2 RỐI LOẠN GIỐNG MS

Viêm não tuỷ rải rác cấp (ADEM)
Hội chứng kháng thể kháng phospholipid
Bệnh Behçet
Bệnh động mạch di truyền trội nhiễm sắc thể kèm nhồi máu dưới vỏ và bệnh não chất trắng
Loạn dưỡng chất trắng não bẩm sinh (vd adrenoleukodystrophy,
loạn dưỡng chất trắng nhược sắc)
Nhiễm HIV
Bệnh thần kinh thị giác thiếu máu (do động mạch hoặc không)
Bệnh Lyme
Bệnh não ty thể với toan chuyển hoá lactic và đột quỵ (MELAS)
Ung thư (vd lymphoma, u thần kinh đệm, u màng não)
Sarcoid
Hội chứng Sjögren
Đột quỵ và thiếu máu não
Giang mai
Lupus ban đỏ hệ thống với rối loạn collagen mạch máu liên quan)
Liệt chi dưới co cứng nhiệt đới (nhiễm HTLV I/II)
Dị dạng mạch máu (đặc biệt rò AV màng cứng tuỷ)
Viêm mạch máu (CNS nguyên phát hay khác)
Thiếu Vitamin B 12


Viết tắt: AV, động tĩnh mạch; CNS, hệ thần kinh trung ương; HTLV, human T cell lymphotropic virus.

Dấu hiệu Đa xơ cứng trên MRI

HÌNH 202-1 Dấu hiệu Đa Xơ Cứng trên MRI A. Hình ảnh ngang echo đầu tiên từ trình tự T2 điều chỉnh thể hiện nhiều tín hiệu sáng bất thường ở chất trắng, điển hình cho Đa Xơ Cứng B. Hình ảnh đứng dọc T2 điều chỉnh FLAIR mà tín hiệu sáng của CSF bị giảm bớt. CSF xuất hiện tối, trong khi vùng phù não hay thoái hoá myelin xuất hiện sáng được thể hiện ở thể chai (mũi tên). Tổn thương phía trước thể chai thường gặp ở Đa Xơ Cứng và hiếm gặp trong bệnh mạch máu C. Hình ảnh đốt sống ngực đứng dọc T2 điều chỉnh spin echo nhanh thể hiện tổn thương hình thoi tăng
đậm độ ở tuỷ sống ngực giữa D. Hình ảnh T1 điều chỉnh có được sau tiêm gadolin DPTA cho thấy vùng vỡ hàng rào máu não khu trú, xác định vùng tăng đậm độ (mũi tên).

ĐIỀU TRỊ Đa Xơ Cứng (Xem Hình 202-2)

LIỆU PHÁP CẢI THIỆN BỆNH CHO THỂ MS TÁI PHÁT (RRMS, ĐỢT CẤP SPMS)

Có 7 cách chữa trị ở Mỹ: interferon (IFN)-β1a (Avonex; 30 μg IM 1 lần/ tuần), IFN-β1a (Rebif; 44 μg SC 3 lần/tuần), IFN-β1b (Betaseron; 250 μg SC mỗi ngày), glatiramer acetate (Copaxone; 12 mg/ngày dưới da),  natalizumab (Tysabri; 300 mg IV mỗi 4 tuần), fingolimod (Gilenya; 0.5 mg PO mỗi ngày), và mitoxantrone (Novantrone; 12 mg/m2 IV mỗi 3 tháng). Thứ tám, cladribine (Leustatin; 3.5 mg/kg PO mỗi năm), không được chấp nhận bởi FDA và cơ quan y tế Châu Âu nhưng được sử dụng ở một số vùng trên thế giới. Một trong bốn phương pháp đầu tiên giảm những đợt cấp hàng năm ~30% và cũng giảm những tổn thương mới trên MRI.

Chuẩn bị IFN được sử dụng nhiều lần trong tuần (vd Rebif hay Betaseron) có hiệu quả hơn so với thuốc mỗi tuần một lần (vd Avonex), nhưng cũng có nhiều khả năng tạo ra kháng thể trung hoà, mà làm giảm hiệu quả lâm sàng.

Fingolimod nhìn chung thì dung nạp tốt, thời gian biểu đường uống rất tiện lợi cho bệnh nhân; tuy nhiên, như với bất kỳ liệu pháp mới nào, an toàn lâu dài vẫn còn đang nghiên cứu. Block tim độ 1 và nhịp tim chậm có thể xảy ra với fingolimod, đòi hỏi quan sát lâu dài (6h) với những bệnh nhân sử dụng liều đầu tiên.

Natalizumab là thuốc điều trị Đa Xơ Cứng hiệu quả nhất. Nó giảm đáng kể tỉ lệ đợt cấp và cải thiện có ý nghĩa mức độ trầm trọng của Đa Xơ Cứng; tuy nhiên vì bệnh não chất trắng đa ổ tiến triển phát triển trong 0.2% bệnh nhân điều trị trong hơn 2 năm, nó hiện được điều trị cho bệnh nhân mà thất bại những liệu pháp khác hay biểu hiện dữ dội. Gần đây, xét nghiệm máu phát hiện kháng thể kháng virus PML (JC) cho thấy triển vọng biết được cá nhân có nguy cơ mắc bệnh.

Đa số bệnh nhân với thể tái phát Đa Xơ Cứng nhận (IFN)-β hay glatiramer acetate khi điều trị đầu tiên. Dù được chấp nhận hàng đầu, vai tro của fingolimod trong tình huống này không được xác định. Bất kể thuốc là lựa chọn đầu tiên, điều trị có thể được thay đổi ở bệnh nhân tiếp tục có những đợt tái phát thường xuyên (Hình 202-2).

 

 điều trị đa xơ cứng

Tác dụng phụ của IFN gồm triệu chứng giống cúm, phản ứng tại vị trí tiêm, bất thường nhẹ trong đánh giá xét nghiệm thông thường (vd tăng men gan hay giảm lympho bào). Hiếm gặp, độc gan nặng hơn có thể xảy ra. Tác dụng phụ của IFN thường giảm dần theo thời gian. Phản ứng tại vị trí tiêm cũng xuất hiện với glatiramer acetate nhưng không trầm trọng bằng IFN. Xấp xỉ 15% bệnh nhên sử dụng glatiramer acetate trải qua một hay nhiều đợt tức ngực, khó thở, lo lắng, mệt mỏi.

Vài nghiên cứu gần đây gợi ý những thuốc này có thể cải thiện kết quả lâu dài của Đa Xơ Cứng. Vì thế, điều trị sớm với thuốc cải thiện bệnh thì thích hợp cho nhiều bệnh nhân. Có lý do để trì hoãn liệu pháp đầu tiên ở bệnh nhân có (1) khám thần kinh bình thường, (2) đợi cấp đơn lẻ hay tần số tái phát ít, và (3) bệnh không nặng kèm theo được đánh giá bằng MRI não.
Những bệnh nhân không được điều trị cần được theo dõi kỹ bằng MRI não định kỳ; cần điều trị được đánh giá lại nếu hình ảnh có bằng chứng của bệnh đang tiến triển.

TÁI PHÁT CẤP

Tái phát cấp mà có suy giảm chức năng có thể được điều trị thời gian ngắn với tiêm methylprednisoline (1 g IV mỗi sáng × 3–5 ngày) sau đó dùng prednisone đường uống (60 mg mỗi sáng × 4; 40 mg mỗi sáng × 4; 20 mg mỗi sáng × 3). Phát đồ giảm nhẹ mức độ trầm trọng và rút ngắn thời gian đợt cấp.

Thay huyết tương (7 lần: 40–60 mL/kg, mỗi ngày trong 14 ngày) có thể mang lại hiệu quả cho bệnh nhân với đợt bùng phát thoát hoá myelin (không chỉ Đa Xơ Cứng) mà không đáp ứng với glucocorticoid; chi phí cao và thiếu bằng chứng thuyết phục cho hiệu quả điều trị.

TRIỆU CHỨNG TIẾN TRIỂN

Đối với bệnh nhân Đa Xơ Cứng tiến triển thứ phát mà tiếp tục có những đợi tái phát, điều trị với một trong những IFN là hợp lý; tuy nhiên, IFN không hiệu quả với triệu chứng Đa Xơ Cứng tiến triển thuần tuý.

Thuốc ức chế miễn dịch/điều biến miễn dịch mitoxantrone được chấp nhận ở Mỹ để điều trị Đa Xơ Cứng tiến triển thứ phát; tuy nhiên bằng chứng hiệu quả tương đối yếu, độc tim do liều là vấn đề quan trọng.

Methotrexate (7.5–20 mg uống một lần mỗi tuần) hay azathioprine (2–3 mg/kg uống mỗi ngày) thì đôi khi được thử, nhưng hiệu quả kém.

Liệu pháp nhịp với cyclophosphamide được sử dụng trong một số trung tâm cho thanh niên có Đa Xơ Cứng ở trạng thái dữ dội.

Những nghiên cứu nhỏ hơn khác khám nhịp tiêm immunoglobulin (IVIg) hằng tháng hay tiêm methylprednisolone.

Với bệnh nhân PPMS, điều trị triệu chứng chỉ được khuyến cáo, mặc dù phân tích thứ phát của thử nghiệm rituximab âm tính đầy hứa hẹn và thử nghiệm tiếp sau với thuốc có liên quan đang được tiến hành.

ĐIỀU TRỊ TRIỆU CHỨNG

Cứng cơ đáp ứng với vật lý trị liệu, baclofen (20–120 mg/ngày), diazepam (2–40 mg/ngày), tizanidine (8–32 mg/ngày), dantrolene (25– 400 mg/ngày), và cyclobenzaprine hydrochloride (10–60 mg/ngày).

Loạn cảm đáp ứng với carbamazepine (100–1000 mg/ngày chia nhiều liều), phenytoin (300–600 mg/ngày), gabapentin (300–3600 mg/ ngày), pregabalin (50–300 mg/ngày), hay amitriptyline (25–150 mg/ ngày).

Điều trị triệu chứng bàng quang dựa vào kiểm tra sinh lý bệnh tiềm ẩn với test niệu động học: tăng phản xạ bàng quang được điều trị bằng giới hạn dịch buổi tối; nếu điều đó thất bại, kháng cholinergics như oxybutynin (5–15 mg/ngày) có thể được dùng thử; giảm phản xạ được điều trị với thuốc cholinergic bethanechol (30– 150 mg mỗi ngày), và rối loạn phối hợp cơ do mất khả năng phối hợp cử động giữa thành bàng quang và cơ vòng, được điều trị với kháng cholinergics và đặt ống thông liên tục.

Trầm cảm nên được điều trị tích cực

ĐA DẠNG LÂM SÀNG CỦA MS

Viêm tuỷ sống-thần kinh thị giác (NMO), hay hội chứng Devic, gồm những đợt đơn lẻ viêm thần kinh thị cấp (một/hai bên) và viêm tuỷ sống. Đối lập với Đa Xơ Cứng, MRI não điển hình bình thương, dù không luôn luôn. Vùng tăng cường độ khu trú của sưng và rỗng, rộng trên ba hay nhiều khoang tuỷ, là đặc trưng được thấy trên MRI tuỷ sống. Tự kháng thể đặc hiệu cao trực tiếp chống lại kênh nước aquaporin-4 hiện diện trong huyết thanh của hơn một nữa bệnh nhân có chẩn đoán lâm sàng NMO. Đợt cấp thường được điều trị với liều cao glucocorticoid như đợt cấp Đa Xơ Cứng. Thay huyết tương cũng được dùng theo kinh nghiệm trong đợt cấp mà không đáp ứng với glucocorticoid. Dự phòng tái phát có thể đạt được với mycophenolate mofetil, rituximab, hay kết hợp glucocorticoids với azathioprine. Đa Xơ Cứng cấp (biến thể Marburg) là một quá trình thoái hoá myelin tối cấp mà chết trong 1-2 năm. Không thử nghiệm kiểm soát điều trị nào tồn tại; liều cao glucocortiocid, thay huyết tương, và cyclophosphamide được dùng thử, với hiệu quả không chắc chắn.

VIÊM NÃO TUỶ RẢI RÁC CẤP (ADEM)

Bệnh thoái hoá myelin tối cấp, thường tàn phá, có quá trình một pha và có thể liên quan đến tiêm chủng trước đó hay nhiễm trùng. Triệu chứng thực thể của bệnh thần kinh rải rác biểu hiện liên tục (vd liệt nửa người hay liệt tứ chi, phản ứng cơ duỗi-gan bàn chân, mất hoặc tăng hoạt hoá phản xạ gân, mất cảm giác, tổn thương thân não. Sốt, nhức đầu, dấu kích thích màng não, ngủ lịm diễn tiến tới hôn, và co giật có thể xảy ra. Tăng lympho dịch não tuỷ, nhìn chung 200 tế bào/μL, thì phổ biến. MRI có thể thấy tăng gadolin mở rộng ở chất trắng não và tuỷ sống. Điều trị ban đầu là với glucocorticoid liều cao. Bệnh nhận không đáp ứng thì có thể thay huyết tương hay IVIg.

Viêm đại tràng cấp tính

Căn nguyên

Những bệnh viêm có căn nguyên ẩn: viêm trực-đại tràng loét xuất huyết, bệnh Crohn, bệnh to đại tràng nhiễm độc.

Viêm do nhiễm vi khuẩn, ký sinh trùng, virus: bệnh do amip (lỵ amip), do Shighella, Salmonella, Yersinia, Campylobacter jejuni, Clostridium difficile, hoặc do nhiễm virus cự bào.

Căn nguyên mạch máu: viêm đại tràng do thiếu máu cục bộ (đại tràng không được cung cấp đủ máu).

Tác dụng phụ của thuốc: muối vàng, thuốc an thần kinh, thuốc kìm hãm phân bào (ức chế tế bào phân chia hoặc sinh sản).

Những tiêu chuẩn đánh giá độ nặng của viêm đại tràng cấp tính:

Những dấu hiệu chức năng\sốt trên 38,5°c, nhịp tim nhanh trên 100- 120/phút, hạ huyết áp, đau bụng (dấu hiệu này kém tin cậy), mất nước do ỉa chảy và/hoặc mất máu (khó đánh giá), gầy mòn nhanh.

Xét nghiệm cận lâm sàng:tăng bạch cầu trong máu, tốc độ máu lắng cao, rối loạn chất điện giải còn tranh cãi và kém đặc hiệu.

Thiếu máu với hàm lượng hemoglobin thấp dưới 8-10 g Hb/100 ml, dù truyền máu cũng không tăng, là một dấu hiệu thật sự trầm trọng.

Những dấu hiệu X quang:chụp X quang bụng không chuẩn bị đơn thuần thường cho những tiêu chuẩn đáng tin cậy hơn về mức độ bệnh nặng:

+ Giãn đại tràng toàn bộ (chứng giãn đại tràng) hoặc từng đoạn với đường kính lớn hơn 7 cm.

+ Bò (đường viền) của đại tràng không đều đặn, trong đó thấy các hình ảnh có hơi (khí) có đường viền kép.

+ Giãn tiểu tràng ở phía trên với hình ảnh mức nước mức hơi.

VIÊM ĐẠI TRÀNG NHIỄM ĐỘC

Trong bệnh viêm đại tràng nhiễm độc, đại tràng bị mất trương lực cơ và ngày càng giãn rộng thêm ra (nên còn gọi là bệnh to đại tràng nhiễm độc).

Đại tràng mất trương lực cơ nếu bị giãn cấp tính có thể dẫn tới thủng, viêm phúc mạc và sốc nhiễm khuẩn.

Hội chứng này gặp trong bệnh viêm trực-đại tràng loét xuất huyết và trong bệnh Crohn tuy hiếm hơn.

Viêm đại tràng nhiễm độc cũng có thể dẫn đến biến chứng viêm đại tràng nhiễm khuẩn và nhiễm ký sinh trùng, nhất là bệnh do amip.

Thụt baryt và các khâu chuẩn bị thụt, sử dụng thuốc chống ỉa chảy hoặc thuốc chống tiết cholin có thể làm cho đại tràng giãn to nhanh hơn.

Ngộ độc Arsen (Hoặc Asen) và xử trí

Căn nguyên

Arsen (nói chung dưới dạng anhydrid arsen) và những muối vô cơ và hữu cơ của nguyên tố này (vô cơ: arseniat, arsenit; hữu cơ: acetarson, arsphenamin, acid dimethylarsinic) được sử dụng trong công nghệ thuốc nhuộm, công nghiệp thuỷ tinh, giấy, sơn, đồ gốm. Các muối này cũng được dùng làm thuốc diệt côn trùng, thuốc diệt thực vật ký sinh cho cây, và thuốc diệt ký sinh trùng cho động vật. Độc tính của arsen là do tác động ức chế enzym, nhất là những enzym ATP-ase, ALA-synthetase và arylesterase. Đường xâm nhập: tiêu hoá đôl với ngộ độc cấp tính. Tiêu hoá và hô hấp đôl với ngộ độc mạn tính.

Độc tính: anhydrid arsen là bột mầu trắng, được sử dụng trong những trường hợp phạm tội đầu độc, gây tử vong bắt đầu từ liều 120 mg. Những muối arsen hữu cơ kém độc hơn. Những muối arsen hoá trị 5 được bài-tiết nhanh hơn và kém độc hơn so với muối arsen hoá trị 3.

Triệu chứng

Ngộ độc cấp tính: co thắt hầu (họng), khó nuốt, nôn, ỉa chảy giống bệnh tả, ban đỏ ở da, nhịp tim nhanh, hạ huyết áp, thiểu-vô niệu (hoại tử ống thận), co giật và hôn mê. Tiếp sau đó là thiếu máu tan huyết, rối loạn cầm máu, vàng da do tan tế bào gan, bệnh não và viêm đa dây thần kinh muộn. Trong trường hợp ngộ độc do nuốt một lượng lớn arsen thì chụp X quang bụng thấy những đám mờ cản quang. Chẩn đoán được xác định bởi nồng độ arsen cao trong nước tiểu (xét nghiệm hàng đầu, vì phần lớn arsen được bài tiết qua nước tiểu). Tử vong xảy ra bắt đầu từ nồng độ arsen trong huyết tương là 1 mg/1 (13,3 μmol/l); arsen hết nhanh trong huyết thanh chỉ sau một vài giờ, do đó cần lấy máu sớm vào những giờ ngay sau khi bị ngộ độc để định lượng. Chẩn đoán muộn (chẩn đoán sau tử vong trong pháp y) bằng định lượng arsen trong tóc và móng. Ngộ độc mạn tính: gây ra viêm đa dây thần kinh typ cảm giác-vận động, khởi phát ở các chi, chứng mất khứu giác, viêm dây thần kinh thị giác (viêm thị thần kinh), rối loạn tâm thần, hội chứng Korsakoff. Viêm da sẩn-mụn nước, chứng đỏ da, rụng tóc (hói), rối loạn tăng trưởng các bộ phận phụ của da (trên móng xuất hiện các đường thẳng Aldrich-Mees), chứng tăng sừng hoá. Đau bụng, ỉa chảy, xơ gan. Thiếu máu, giảm bạch cầu. Chứng tím tái các cực, suy tim. Tăng bài tiết arsen trong nước tiểu, hàm lượng arsen tăng lên trong móng chân tay và trong tóc. Ngộ độc mạn tính có thể có biểu hiện giống với suy vỏ tuyến thượng thận mạn tính và nằm trong chẩn đoán căn nguyên của viêm đa dây thần kinh.

Điều trị

Ngộ độc cấp tính

  • Nếu bệnh nhân còn tỉnh táo thì rửa dạ dày, cho than hoạt, rồi tẩy ruột bằng thuốc tẩy loại có muối. Phục hồi nước và kiềm hoá. Cho sorbitol hoặc thuốc tẩy ruột loại có muối.
  • Dimercaprol (BAL) hoặc penicillamin: tiếp tục cho tới khi nào bài tiết nước tiểu trỏ lại bình thường hoặc gần bình thường (bài tiết arsen 50 μg/24 giờ).
  • Thẩm phân máu sau điều trị bằng dimercaprol trong những thể nặng hoặc trong trường hợp suy thận.

Ngộ độc mạn tính: dimercaprol (BAL) hoặc penicillamin. Phải nhiều tháng thì mới hết được các triệu chứng và những triệu chứng thần kinh cũng có thể không hết hoàn toàn. Ngô đôc do hít phải hơi arsen: truyền-thay máu.

Các thuốc gây tê tại chỗ dùng chữa bệnh mắt – Nhãn khoa

Các thuốc tê sử dụng trong nhãn khoa là các amin bậc ba được gắn bằng cầu nối ester hoặc amid với một nhân thơm và được sử dụng dưới dạng muối hydroclorua. Ở pH 7,4 của tổ chức, 5-20% lượng thuốc sẽ chuyển thành dạng unprotonated phụ thuộc vào pKa của thuốc (8,0-9,0). Dạng unprotonated hoà tan trong lipid tốt hơn sẽ đi qua vỏ myelin và màng tế bào của sợi trục thần kinh có chứa nhiều lipid. Khi đã đi qua các màng này, đa số các phân tử thuốc sẽ chuyển thành dạng protonated để đi đến các kênh chuyển natri ở thành trong tế bào chặn dòng natri tại các kênh này làm tăng ngưỡng kích thích xung điện thần kinh. Khi các kênh natri bị chặn lại, nhiều xung động thần kinh sẽ bị ngăn chặn.

Khi sử dụng các thuốc tê, các sợi thần kinh nhỏ và không có myelin sẽ bị chặn sớm nhất do sự dẫn truyền có thể bị chặn trên một đoạn dây thần kinh ngắn.

Trên lâm sàng, thuốc tê trước hết sẽ có tác dụng trên các sợi thần kinh phó giao cảm ít myélin gây giãn đồng tử và các sợi thần kinh giao cảm gây giãn mạch, sau đó đến các sợi thần kinh cảm giác với đau và nóng, cuối cùng là các sợi thần kinh vận động lớn có nhiều myelin gây bất động cơ. Dây thần kinh thị giác được bọc trong lớp vỏ màng não dày thường không bị phong bế khi tiêm tê hậu nhãn cầu.

Các thuốc tê gốc amid thường hay được sử dụng để tiêm tê hậu nhãn cầu do có tác dụng dài hơn và ít gây độc tính toàn thân hơn. Tuy nhiên thời gian của thuốc bị ảnh hưởng khi thuốc khuếch tán khỏi vùng tiêm do thuốc bị chuyển hóa và mất tác dụng khi qua gan.

Các thuốc tê gốc ester thì trái lại có thể bị phân huỷ bởi men cholinesterase trong máu hoặc tại gan.

Các biểu hiện nhiễm độc toàn thân thuốc tê thường phụ thuộc vào liều sử dụng, các bệnh nhân có bệnh gan thường bị ngộ độc ở liều thấp hơn. Biểu hiện gồm run, co giật, suy hô hấp và suy cơ tim. Các biểu hiện kích thích thần kinh có thể được xử trí bằng Seduxen tiêm tĩnh mạch, còn suy hô hấp cần được điều trị suy hô hấp nhân tạo.

Do các thuốc tê tại chỗ thường làm mất trương lực thần kinh giao cảm gây giãn mạch nên thường được phối hợp với epinephrin 1/200000 để làm co mạch kéo dài tác dụng của thuốc.

Các thuốc tra mắt làm phá vỡ các liên kết giữa các tế bào biểu mô giác mạc làm tăng tính thấm của giác mạc với các thuốc tra và ảnh hưởng tới quá trình chuyển hóa và sửa chữa biểu mô giác mạc, vì thế không được dùng để làm thuốc giảm đau kéo dài.

Lidocain (xylocain) là thuốc gây tê tại chỗ gốc amid được sử dụng với nồng độ 1-4% để tiêm hoặc 2-4% để vô cảm bề mặt niêm mạc. Thuốc gây ra phong bế thần kinh nhanh khi tiêm hậu nhãn cầu (5 phút sau khi tiêm) và tác dụng kéo dài l-2giò. Dung dịch gây tê bể mặt khi áp vào kết mạc 1-2 phút sẽ làm giảm đau khi tiêm hoặc lấy bệnh phẩm kết mạc, đặc biệt trong sinh thiết kết mạc lidocain được ưa dùng hơn do thuốc ít gây biến đổi hình thái tế bào biểu mô. Liều tối đa khi sử dụng thuốc tiêm nồng độ 2% là 15 ml ở người lớn. Tác dụng phụ thường gặp là gây buồn ngủ.

Mepivacain (Carbocain) là thuốc gốc amid được sử dụng với nồng độ 1-3% (có hoặc không kèm theo thuốc co mạch), thuốc có tác dụng nhanh và kéo dài trong 2-3 giờ. Liều tối đa là 15 ml dung dịch 2%.

Bupivacain (Marcain) là thuốc gốc amid có thời gian bắt đầu tác dụng chậm hơn lidocain. Nó có tác dụng bất động cơ kém hơn, nhưng có ưu điểm là thời gian tác dụng dài hơn đến 8 giờ. Nồng độ thường dùng là 0,25-0,75% và thường được pha kèm với lidocain hoặc mepivacain để có tác dụng gây tê nhanh và kéo dài. Liều tối đa là 25ml dung dịch 0,75%.

Etidocain (Duranest) là một chế phẩm từ lidocain có tác dụng nhanh sau 5 phút và kéo dài trên 5 giờ thường được sử dụng ở nồng độ 0,5-1,5% có hoặc không kèm theo với epinephrin. Thuốc thường có tác dụng trên thần kinh vận động trước khi tác dụng trên thần kinh cảm giác, liều tối đa là 30ml dung dịch 1%.

Các thuốc sau thường được sử dụng để gây tê bề mặt tại mắt, chúng có khả năng hoà tan trong lipid cao hơn nên có tác dụng nhanh hơn, do đó thời gian khó chịu khi tra thuốc được rút ngắn.

Proparacain là thuốc gây tê bề mặt thường dùng ở nồng độ 0,5%. Thuốc ít gây kích thích kết mạc nhất, tác dụng sau 15 giây và kéo dài 20 phút.

Benoxinat là thuốc tê bề mặt gốc ester nồng độ 0,4% kết hợp với íluoreseein để đo nhãn áp với nhãn áp kế Goldmann. Nó có thời gian tác dụng giống với proparacain.

Tretracain là thuốc bề mặt gốc ester nồng độ 0,5% có thời gian tác động lâu hơn và dài hơn, cũng gây độc với tế bào biểu mô giác mạc hơn.

  • Gây tê bề mặt trong phẫu thuật phần trước mắt.

Các thuốc gây tê bề mặt thường được dùng là benoxinat 0,4%, tetracain 0,5-1%, proparacain 0,5% các thuốc trên có tác dụng ngắn khoảng 20 phút và ít độc đối với biểu mô giác mạc. Lidocain 4% và bupivacain 0,5-0,75% có tác dụng kéo dài hơn nhưng cũng độc hơn đối với biểu mô giác mạc.

  • Bơm lidocain nội nhãn.

Lidocain được dùng để vô cảm trong phẫu thuật bằng 0,3ml dung dịch 1% không có chất bảo quản, đẳng trương được bơm vào tiền phòng. Hiện chưa có tác dụng phụ của thuốc khi dùng theo cách này, trừ độc tính thoáng qua với võng mạc khi bơm vào hậu phòng không có bao sau thể thủy tinh. Tác dụng vô cảm thường đạt được sau 10 giây.

Phác đồ điều trị mụn trứng cá

I- Đại cương :

Mụn trứng cá là bệnh tổn thương nang lông xuất hiện ở tuổi thanh niên có liên quan đến tăng tiết bã nhờn và hình thành nhân chúng cá.

Bệnh rất phổ biến, gặp 90% ở thanh niên với mức độ nặng nhẹ khác nhau.

II- Lâm sàng :

1.  Mụn trứng thông thường :

Lâm sàng :

  • Phát ban đa dạng gồm : nhân trứng cá, nang nhỏ, sẩn, mụn mủ, nốt, sẹo
  • Vị trí : Vùng tiết bã nhờn nhiều như :

+ Mặt : nhiều nhất 2 bên má.

+ Mũi, trán, cằm ít bị hơn.

+ Tai : nang ở dái tai.

+ Ở nam giới : vai, vùng trước ngực, lưng có thể bị.

  • Thương tổn da : Có 2 loại thương tổn là viêm và không viêm

+ Thương tổn viêm :

  • Sẩn nhỏ có quầng viêm xung
  • Nốt: cục sưng, mềm, lớ Một vài nốt tạo thành nang ở sâu. Các cục sâu này có thể hóa mềm tạo ra áp-xe, sau đó để lại sẹo rất xấu.

+ Thương tổn không viêm :

  • Nhân trứng ca mở hay mụn đầu đen : tương ứng với sự tích tụ chất sừng bên Những điểm đen do sự hiên diện của các hạt sắt tố trên bề mặt.
  • Nhân chứng cá đóng hay mụn đầu trắng hay nang nhỏ : là những chấm nhỏ màu trắng ngà, dưới da, đường kính vài mm

Yếu tố bộc phát :

  • Thức ăn nhiều mỡ đôi khi gây thành đợt viêm nhiễm nặng
  • Nội tiết : mụn trứng cá trước kỳ kinh thường gặp ở phụ nữ.
  • Thần kinh : căng thẳng tinh thần, lo lắng quá mức
  • Hóa chất : dầu khoáng chất, iode, brôm,

Diễn biến :

Có nhiều cơn bộc phát kéo dài nhiều năm. Bệnh lành tính nhưng gây sẹo, mất thẩm mỹ.

2.  Một vài dạng lâm sàng khác :

  • Mụn trứng cá cục
  • Mụn trứng cá kết cục
  • Mụn trứng cá do thuốc hay phát ban dạng trứng cá.
  • Mụn trứng cá đỏ.

III. Điều trị :

1. Trường hợp nhẹ : vài cho đến nhiều

  • Benxoyl peroxide : thoa ngày 2 lần
  • Kháng sinh tại chỗ :

+ Clindamycine phosphate 1%.

+ Erythromycine : hiệu quả, ít gây kích ứng.

2. Trường hợp trung bình : từ vài đến nhiều comedon, vài sẩn, mụn mủ.

  • Benzoyl peroxide gel bôi ngày 2 lần
  • Kết hợp Tretinoin kiềm khuẩn :

+ Tối bôi Tretinoin.

+ Sáng bôi benzoyl peroxide

  • Adapalen (Diffirin 0,1% gel).

3. Trường hợp nặng : sẩn viêm, mụn mủ, nang, áp-xe.

Dùng các thuốc bôi như trình bày ở trên, kết hợp với kháng sinh.

Cyclines :

  • Tetracyline là kháng sinh được chọn lựa đầu tiên, có vài tác dụng phụ, dung nạp tốt, thích hợp cho việc sử dụng lâu dài. Tetracyline có hiệu quả ở liều thấp vì nhiệt độ tập trung cao trong nang lông tuyến bã nhất là khi có viêm.

Không dùng cho trẻ dưới 12 tuổi, phụ nữ có thai. Thời gian điều trị từ 2 tuần đến 10 tháng.

Liều khởi đầu 1g/ngày uống khi bụng đói cho đến khi hết mụn. Nếu thương tổn viêm không giảm sau 4 đến 6 tuần thì tăng liều lên 1,5g/ngày trong nhiều tuần, khi bệnh giảm thì giảm liều xuống mức thấp (0,25mg/ngày).

  • Cycline thế hệ thứ 2 : Liều 100 – 200 mg/ngày.

+ Minocyclin thường được dùng (nhưng đắt tiền) đối với những bệnh nhân không đáp ứng với các kháng sinh khác. Thuốc hấp thu tốt ngay cả khi uống trong bữa ăn.

+ Doxycycline : người bệnh càn được khuyên tránh nắng vì da dễ bị nhạy cảm với ánh sáng.

Kháng sinh khác :

  • Erythromycine : 1,5 – 2g/ngày. Dùng cho phụ nữ có thai, trẻ

Trong khi điều trị thường làm men gan tăng cao nhưng đây là nhiễm độ gan hồi phục được.

  • Clindamycine : 300 – 600 mg/ngày.
  • Trimethoprim – Sulfamethoxazola : 960 mg x 2 lần/ngày.
  • Azithomycin 250 mg (1 – 2 viên ngày uống 3 lần/tuần).

4. Trường hợp đặc biệt :

  • Trứng cá cum :

+ DDS 50 -100 mg/ngày (1 – 2 mg/kg/ngày)

+ Isotretinone.

  • Trứng cá ác tính : Corticoides toàn thân sau đó
  • Trứng cá xảy ra trong thai kỳ : CCĐ các trị liệu trên. Gluconate de zine 2000 mg/ngày.

5. Các phương pháp điều tr khác :

Các thuốc tác dụng trên sự tăng tiết bã nhờn :

  • Estrgen :

+ Ethinyl estradiol 50 – 70 mg.

+ Kháng androgen : Diane 35.

  • Retinoic Acid 13 – cis :

+ Liều tiến công : 0,5 mg/kg/ngày.

+ Liều duy trì : 0,2 – 0,3 mg/kg/ngày.

  • Spironolactone :

+ Liều tiến công : 200 mg/ngày.

+ Liều duy trì : 50 – 175 mg/ngày.

Phẩu thuật (nốt, u nang, lồi, cụm, …). Bào da

Tâm lý liệu pháp : tranh lo âu, stress …

Cách chữa đau lưng cấp tính tại nhà

Bệnh này là do tổ chức phần mềm bị tổn thương, thường do tư thế không đúng, dùng sức quá mạnh hoặc do bên ngoài va đập gây nên. Cơ lưng sau khi bị thương, một bên hoặc 2 bên lập tức bị đau; có khi bị thương sau nửa ngày hoặc cách một đêm mới cảm thấy đau, hoạt động của lưng có hạn, khi không hoạt động thì đau nhẹ, khi hoạt động hoặc lúc ho thì đau nặng. Khi kiểm tra thì thấy một bộ phận cơ bị căng ra hoặc dồn lại gây đau rõ rệt, nhưng không có hiện tượng sưng tấy (không kể sự va đập bên ngoài).

Nội dung chữa đau lưng cấp tính

  1. Lập tức nằm ngửa, chân tay thả lỏng, thở sâu, sau đó chườm nóng hoặc xoa bóp, nếu đau đớn quá hoặc như kiểu điện giật phải đưa đi bệnh viện cấp cứu.
  2. Phải chú ý giữ ấm và nghỉ ngơi.
  3. Người bệnh nên nằm trên phản gỗ có đệm bông, gối đầu tốt nhất giữa thấp hai bên cao.

Phương pháp chữa đau lưng cấp tính

Phương thuốc hiệu nghiệm

  1. Gián đất, giun đất, mỗi thứ 15 gam, nghiền thành bột, mỗi ngày uống 2 lần vào buổi sáng và tối.
  2. Bạch thược 30 gam, cam thảo, đương quy, đan sâm, mỗi thứ 15 gam, sắc uống ngày một thang.
  3. Tầm gửi cây dâu 24 gam, đỗ trọng, xuyên đoạn, ngưu tất, kê huyết đằng mỗi thứ 15 gam, sắc uống, ngày 1 thang.

    Đỗ trọng
    Đỗ trọng

Phương pháp ăn uống.

  1. Cật lợn 1 quả, trần bì 12 gam, đem cật lợn rửa sạch thái miếng, nấu với trần bì, cho thêm gia vị để ăn
  1. Thịt nạc lợn 100 gam, đơn sâm 20 gam, nấu chín ăn.

Chữa bệnh bên ngoài

  1. Đắp thuốc, dán cao.
  • Cẩu bì cao hoặc xạ hương chỉ thống cao dán vào chỗ đau, từ 3 – 5 ngày thay 1 lần, nếu đỏ hoặc ngứa từng bộ phận thì ngừng ngay để khỏi bị dị ứng.
  • Hồng hoa 15 gam, sữa đun sôi mỗi thứ 15 gam, nghiền thành bột, quấy với rượu thành hồ đắp vào chỗ đau.
  • Một ít bồ công anh, sinh địa, sắc uống nước đặc, cho thêm băng phiến làm thành cao dán vào chỗ đau 3 ngày thay thuốc 1 lần.
  1. Xoa bóp.

Bệnh nhân nằm sấp, người nhà đứng bên cạnh dùng 2 ngón tay cái hoặc cùi tay, xoa 2 bên sống lưng theo hình trôn ốc từ lưng xuống tới mông, làm đi làm lại từ 3- 5 lần.

  1. Bôi thuốc.

1 ) Dùng giải kinh trấu thống đinh xoa vào lưng.

2) Dùng dầu hồng hoa xoa lưng.

  1. Xông rửa.

Độc hoạt, tần giao, ngưu tất, diên hồ sách, xuyên khung mỗi thứ 10 gam, tế tân 5 gam, đem nước xông và rửa chỗ đau.

Những việc cần lưu ý.

  1. Vì coi thường nghỉ ngơi và giữ gìn lưng, chữa bệnh không đúng, nên bệnh chuyển thành mạn tính.
  2. Sau khi bị đau, cố lôi kéo hoặc tin vào y thuật của kẻ giang hồ, có thể gây hậu quả xấu.

Stugeron Richter

Thuốc Stugeron Richter
Thuốc Stugeron Richter

STUGERON – RICHTER

GEDEON RICHTER

viên nén 25 mg: vỉ 25 viên, hộp 2 vỉ.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Cinnarizine 25 mg

MÔ TẢ

Cinnarizine là một chất chẹn calcium chọn lọc, thuộc nhóm IV các chất đối kháng calcium (theo sự phân loại của WHO).

Cinnarizine là thuốc kháng histamine H1.

DƯỢC LỰC

Cinnarizine ức chế sự co thắt các tế bào cơ trơn của mạch máu bằng cách chẹn các dòng calcium. Ngoài sự đối kháng trực tiếp calcium này cinnarizine làm giảm hoạt tính gây co mạch của các chất gây co mạch, như serotonin và epinephrine, bằng cách chẹn dòng calcium. Sự phong bế dòng calcium qua tế bào có tính chọn lọc ở mô, và kết quả là làm cho cinnarizine có đặc tính chống co thắt mạch mà không ảnh hưởng đến huyết áp và nhịp tim.

Hơn nữa, cinnarizine còn có thể cải thiện sự suy giảm của vi tuần hoàn bằng cách tăng khả năng biến dạng của hồng cầu và giảm độ nhớt của máu. Sức kháng của tế bào với tình trạng giảm oxi không khí thở vào tăng lên.

Stugeron ức chế sự kích thích hệ thống tiền đình, dẫn đến kết quả ngăn chặn chứng giật nhãn cầu và các rối loạn giao cảm khác.

Cinnarizine có thể làm chấm dứt hoặc phòng ngừa triệu chứng chóng mặt cấp tính.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Nồng độ huyết tương tối đa của cinnarizine đạt được từ 1-3 giờ sau khi dùng thuốc. Chu kỳ bán hủy của cinnarizine là 4 giờ. Cinnarizine được chuyển hóa hoàn toàn. Nó được loại thải 1/3 qua nước tiểu và 2/3 qua phân.

Tỷ lệ gắn kết với protein trong huyết thanh của cinnarizine là 91%.

CHỈ ĐỊNH

Các rối loạn tuần hoàn não:
– Điều trị duy trì đối với các triệu chứng rối loạn mê đạo, kể cả chóng mặt, choáng váng, ù tai, giật cầu mắt, buồn nôn và nôn mửa.
– Phòng say tàu xe.
– Phòng nhức nửa đầu.
– Điều trị duy trì đối với các triệu chứng có nguồn gốc từ mạch não, như choáng váng, ù tai, nhức đầu có nguyên nhân mạch, tư cách không phù hợp với xã hội, dễ bị kích thích, mất trí nhớ và thiếu tập trung.
– Điều trị duy trì đối với các rối loạn tuần hoàn ngoại biên, như hiện tượng Raynaud, chứng tập tễnh cách hồi, chứng xanh tím đầu chi, rối loạn dinh dưỡng, loét do giãn tĩnh mạch và loét do dinh dưỡng, dị cảm, chứng chuột rút ban đêm, lạnh các chi.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Stugeron chống chỉ định đối với những bệnh nhân nhạy cảm với thuốc.

Mang thai và cho con bú. Mặc dù trong các thử nghiệm trên động vật, Stugeron không gây quái thai, nhưng cũng như với tất cả các dược phẩm khác, Stugeron chỉ nên sử dụng trong thời kỳ có thai khi lợi ích của việc điều trị thuốc lớn hơn cả nguy cơ đối với bào thai.

Chưa có số liệu cho thấy sự bài tiết của Stugeron qua sữa mẹ: nên ngừng cho bú khi người mẹ sử dụng Stugeron.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Giống như những thuốc kháng histamine khác, Stugeron cũng gây các khó chịu ở dạ dày, vì thế tốt nhất là uống thuốc sau bữa ăn.

Đối với những bệnh nhân bị bệnh Parkinson, Stugeron chỉ nên dùng nếu như lợi ích của việc dùng thuốc lớn hơn những nguy cơ làm trầm trọng thêm bệnh.

Trong thời kỳ đầu dùng thuốc, Stugeron có thể gây buồn ngủ, vì thế cần thận trọng khi dùng cùng lúc với rượu hoặc các thuốc ức chế thần kinh trung ương.

Ảnh hưởng đối với khả năng lái xe và điều khiển máy móc: Do thuốc có thể gây buồn ngủ, đặc biệt khi bắt đầu dùng, cần thận trọng trong khi lái xe và điều khiển các máy móc.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Khi dùng đồng thời với:

  • rượu,
  • thuốc ức chế thần kinh trung ương,
  • thuốc chống trầm cảm 3 vòng,

tác dụng an thần của các thuốc này hoặc của Stugeron có thể tăng.

Can thiệp vào chẩn đoán bệnh: do tác dụng kháng histamin, Stugeron có thể ngăn những chỉ thị phản ứng da dương tính nếu dùng Stugeron 4 ngày trước thử nghiệm.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Buồn ngủ và rối loạn tiêu hóa có thể xảy ra. Những rối loạn này thường chỉ là tạm thời và thường tránh được khi tăng liều dần dần đến liều tối ưu.

Trong một số ít trường hợp có thể thấy đau đầu, khô miệng, tăng cân, ra mồ hôi và dị ứng. Tương tự, rất hiếm khi xuất hiện liken phẳng và các triệu chứng giống lupus.

Đối với những người lớn tuổi, khi điều trị lâu dài, ở một số trường hợp bệnh ngoài bó tháp bị trầm trọng thêm hoặc bắt đầu xuất hiện, thường kèm theo trầm cảm. Nên ngừng điều trị trong những trường hợp như vậy.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Rối loạn tuần hoàn não: 3 x 1 viên/ngày

Rối loạn tuần hoàn ngoại biên: 3 x 2-3 viên/ngày Chóng mặt: 1 x 3 viên/ngày

Say tàu, xe:

  • Người lớn: uống 1 viên nửa giờ trước chuyến đi, sau đó nhắc lại cứ mỗi 6 giờ một lần.
  • Trẻ em: dùng nửa liều của người lớ Stugeron nên dùng sau bữa ăn.

Liều tối đa hàng ngày không vượt quá 225 mg (9 viên).

Vì tác dụng của Stugeron đối với bệnh chóng mặt phụ thuộc vào liều lượng thuốc, nên liều có thể được nâng lên một cách từ từ.

QUÁ LIỀU

Một trường hợp cá biệt, một bé 4 tuổi dùng thuốc quá liều cấp tính (2100 mg), người ta đã thấy các biểu hiện sau đây: nôn mửa, buồn ngủ, hôn mê, run rẩy, giảm huyết áp. Sự hồi phục đã yên ổn.

Không có thuốc giải độc đặc trị, nhưng trong trường hợp dùng quá liều, nên rửa dạ dày và dùng than hoạt.

BẢO QUẢN

Để chỗ khô, giữ ở nhiệt độ khoảng 15-25oC. Tránh ánh sáng.

Chẩn đoán Chứng Huyết táo (Nội táo) trong Đông y

Khái niệm

Huyết táo còn gọi là Nội táo, là tên gọi chung cho biểu hiện lâm sàng tinh huyết trong cơ thể bị suy sụp làm cho cơ thể không được tư nhuận, phần nhiều do bị mất huyết quá nhiều hoặc ở giai đoạn cuối của Ôn bệnh, ốm lâu bên trong bị mất tinh huyết, tuổi cao tinh huyết giảm xút, hoặc do thổ tả, ra nhiều mồ hôi, tân dịch hao tổn ảnh hưởng tới huyết, hoặc ứ Huyết bị nghẽn ở trong, huyết mới không sinh ra gây nên bệnh.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là miệng ráo họng khô, da dẻ nhăn nheo khô ráp, lông tóc phờ phạc không nhuận, cơ bắp gầy còm, đại tiện bí kết, tiểu tiện sẻn ít, ngoài da ngứa tróc vảy, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi khô, mạch Huyền Tế Sác.

Chứng Huyết táo thường gặp trong các bệnh ế cách, tích tụ Hư lao, tiện bí, bế kinh, thấp chẩn, bạch biến v.v…

Cần chẩn đoán phân biệt với các “chứng Âm hư”, “chứng Huyết hư”, “chứng Huyết nhiệt”.

Phân tích

Chứng Huyết táo có thể xuất hiện nhiều trong loại tật bệnh nhất là hay gặp ở thời kỳ cuối của những bệnh mạn tính, biểu hiện lâm sàng có đặc điểm riêng và phép chữa cũng không hoàn toàn giống nhau.

– Chứng Huyết táo xuất hiện trong bệnh Hư lao, phần nhiều có đặc điểm biểu hiện suy hư cực độ. Bụng đầy không ăn được, da dẻ nhăn nheo tróc vẩy, hai mắt mờ tối thuộc loại”huyết khô” kết ở trong. Đây là do hư lao lâu ngày lại do ưu uất khí trệ mà tích huyết đọng lại ở trong, huyết mới không sinh ra cơ thê không được tư nhuận gây nên. Phép chữa đầu tiên nên trừ ứ sinh huyết mới, cho uống bài Đại hoàng giá trùng hoàn (Kim Quỹ yếu lược): sau khi đã trừ được huyết ứ, tiếp theo nên dưỡng huyết ích khí, cho uống Bát trân thang (Chính thể loại yếu).

– Chứng Huyết táo xuất hiện trong bệnh Ế cách có đặc điểm lâm sàng là đau vùng hung cách, họng khô vướng mắc, đồ ăn uống không trôi, ăn vào lại mửa ra thậm chí nước cũng khó nuốt, đại tiện táo như phân dê, thể trạng gầy còm, da dẻ khô ráo, lưỡi đỏ ít tân dịch hoặc tía tối, mạch Tế sắc, đây là ứ huyết hóa táo làm nghẽn trở thực đạo, hóa nguyên bị khô kiệt, tân huyết suy kém mất sự nhu dưỡng gây nên. Chu Chấn Hanh nói: “Tích mà lâu ngày, huyết dịch đều bị hao tổn, Vị quản khô khan”(Cục phương phát huy), điều trị theo phép tư âm dưỡng huyết, phá kết tiêu ứ, dùng bài Thông u thang (Lan thất bí tàng).

– Trong bệnh Tích tụ xuất hiện chứng Huyết táo, biểu hiện lâm sàng có đặc điểm là tích khối cứng rắn, đau khá dữ dội, sắc mặt úa vàng hoặc đen sạm, da dẻ khô ráp tróc vẩy, cơ bắp khô gầy, kém ăn, chất lưỡi tía nhạt hoặc có điểm ứ huyết, rêu lưỡi màu tro mà xốp, mạch Huyền Sác. Đây là chứng ứ kết do chính khí hư, vì ứ tích lâu ngày, Huyết lạc bị nghẽn trở, huyết mới không sinh ra, âm dịch tổn thương gây nên; Điều trị theo phép Tư âm dưỡng huyết, hóa ứ tiêu tích, cho uống Tứ vật thang, hợp với Hóa tích toàn (Tạp bệnh nguyên lưu tê chúc) gia giảm. Trong bệnh Tiện bí xuất hiện chứng Huyết táo, đặc điểm lâm sàng có chứng trạng đại tiện bí kết, môi miệng khô ráo, tiểu tiện ít, thể trạng yếu ớt mệt mỏi, gầy còm. Đây là do ốm lâu tinh huyết cạn kiệt từ bên trong, tuổi cao sức yếu, tinh huyết sút kém hoặc là hãn, thổ hạ thái quá, mất tân dịch và huyết đến nỗi tân dịch và huyết thiếu thốn, Vị Trường không nhu nhuận gây nên; điều trị nên dưỡng huyết tư âm, nhuận trường thông tiện, cho uống Tứ vật thang (Thái bình huệ dân hòa tễ cục phương) hợp với Ngũ nhân hoàn (Thế y đặc hiệu phương).

– Trong những bệnh ngoài da mạn tính như Thấp chẩn, Vẩy nến xuất hiện chứng huyết táo có đặc trưng lâm sàng da dẻ khô ráo, tróc vẩy, ngứa ngáy… Có thể có kiêm các chứng chóng mặt hoa mắt, sắc mặt trắng xanh, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Huyền hoặc là tình tự giao động thất thường, da bị xước gây nên ngứa dữ dội, có kiêm các chứng trạng tâm phiền dễ cáu giận, miệng đắng họng khô, mạch Huyền Sác v.v… Đây là do Tỳ hư huyết thiếu, cơ bắp không được nuôi dưỡng, sinh phong hóa táo gây nên; Điều trị nên dưỡng huyết nhuận táo; nếu là Thấp chẩn cho uống Tứ vật tiêu phong ẩm (Y tông kim giảm) gia giảm. Nếu là Bạch biến, cho uống Sinh huyết nhuận phu ẩm (Y học chính truyền).

Chứng Huyết táo phần nhiều phát sinh ở người cao tuổi thể trạng yếu, có liên quan tới tuổi cao tinh huyết suy kém, lâm sàng thường thấy tinh thần ủy mị, sắc mặt kém tươi, chóng mặt hoa mắt, tai ù, tai điếc, da dẻ khô ráp không mịn, đại tiện bí kết. Phụ nữ bị chứng huyết táo, biểu hiện – chủ yếu là huyết khô kinh bế, gầy còm, da dẻ tróc vẩy, mặt mắt đen sạm và táo bón v.v…

Trong quá trình diễn biến bệnh cơ của chứng Huyết táo thường kèm theo chứng hậu huyết táo sinh phong; lại vì huyết không nuôi Can, Can phong nội động, xuất hiện các chứng chóng mặt, run rẩy hoặc co giật, thậm chí hôn mê ngã lăn; Điều trị theo phép tư âm tiềm dương, dưỡng huyết dẹp phong.

Chẩn đoán phân biệt

– Chứng Huyết hư với chứng Huyết táo cả hai đều là bệnh chứng xuất hiện huyết dịch suy hao. Vì vậy đối với nguyên nhân bệnh và cơ chế bệnh, phương diện biểu hiện lâm sàng gần giống nhau, nhưng cũng có phân biệt nhất định. Chứng Huyết táo là vì tinh thiếu huyết khô, môi miệng, da dẻ cơ bắp không được tân dịch huyết dịch làm nhu nhuận và tư dưỡng đầy đủ cho nên có các chứng trạng môi lưỡi khô ráo, khát nước, da dẻ khô khan tróc vẩy, cơ bắp teo gầy, lông tóc khô khan không nhuận, tiểu tiện sẻn ít, táo bón. Còn chứng Huyết hư thường là mất huyết quá nhiều hoặc Tỳ Vị hư yếu, nguồn sinh hóa bất túc cho đến tình chí bị tổn thương, hóa hỏa thương âm gây nên; biểu hiện lâm sàng chủ yếu là sắc mặt trắng xanh hoặc vàng bủng, môi nhợt, váng đầu hoa mắt, hồi hộp mất ngủ, chân tay tê dại, chất lưỡi nhợt, mạch Tế vô lực. Huyết táo không chỉ là huyết dịch bất túc mà còn là huyết thiếu, tân dịch cạn mà táo hóa, biểu hiện lâm sàng ngoài chứng trạhuộc về huyết hư còn có cả chứng trạng về Táo; rõ ràng là khác với chứng Huyết hư, có thể phân biệt được.

– Chứng Âm hư với chứng Huyết táo, cả hai đều là chứng bệnh do âm dịch trong cơ thể suy hao gây nên. Chứng Âm hư đa số do ốm lâu, âm phận bất túc hoặc bệnh nhiệt làm hao thương tân dịch, hoặc hãn, thổ, hạ thái quá, thương âm cạn dịch gây nên, trên lâm sàng, ngoài những triệu chứng về âm dịch bất túc như thể trạng gầy còm, miệng ráo họng khô, chóng mặt mất ngủ, mạch Tế, lưỡi sáng không rêu v.v… Còn có nhứng chứng hậu do âm không chế dương, hư nhiệt từ trong sinh ra như ngũ tâm phiền nhiệt, triều nhiệt, ra mồ hôi trộm, lưỡi đỏ tía, mạch Sác v.v… Mà chứng huyết táo thường từ cơ sở của chứng âm hư, huyết hư tiến thêm bước nữa là hóa táo gây nên bệnh, cho nên trên lâm sàng ngoài những triệu chứng thuộc âm hư, còn có thêm các hiện tượng táo khác nhu da dẻ tróc vẩy, lông tóc sơ xác không nhuận, đại tiện táo bón v.v… phân biệt giữa hai chứng không khó khăn.

– Chứng Huyết nhiệt với chứng Huyết táo, tham khảo chẩn đoán phân biệt ở chứng Huyết nhiệt.

Trích dẫn y văn

Táo nhiệt gây bệnh giống với Nhiệt chứng. Vì khí không lưu thông bên trong thiếu tân dịch nên khô cạn, muốn có nước để tự cứu chứ không phải là khát đó là khô miệng. Lưỡi tuy khô mà gốc lưỡi lại nhuận, muốn uống lại không uống được nhiều, mạch tuy Đại mà vô lực. Nếu táo nặng sẽ sinh chứng nói lắp bắp chứ không phải là nói sảng, đây là triệu chứng huyết khô (Nhiệt thử táo – Thận Trai di thư).

– Hoặc do ốm nặng dùng thuốc khắc phạt thái quá; Hoặc do thổ, ỉa chảy đến nỗi tân dịch bị cạn ở trong; hoặc sai lầm uống các loại khóang vật; Hoặc phòng lao nỗi hư yếu, lại dùng thuốc khô ráo bổ dưỡng, cay nóng quá nhiều… đều có thể làm cho cái hỏa vô dụng quấy phá làm hao tổn chân âm. Trong âm có phục hoả, nung nấu dần dần, huyết dịch suy hao khiến cho táo nhiệt càng nặng hơn mà sinh ra nhiều tật bệnh. Bên ngoài thì da dẻ nhăn nheo, bên trên thì mũi họng khô khan; ở giữa thì thủy dịch quá ít mà gây nên khát; ở dưới thì Trường Vị khô cạn, tân dịch không nhuận mà đại tiện khó, ở chân tay thì mềm yếu vô lực; ở mạch thì Tế sắc mà Vi… Đó đều do Âm huyết bị hỏa nhiệt làm hại, phép chữa nên dùng những thang thuốc cam hàn tư nhuận (Trương thị y thông – Quyển 2).

– Phong táo, do Can huyết không làm gàn tươi tốt, cho nên gân đau mà các móng chân tay ròn nứt; Hỏa táo, do Tỳ có phục hoả, cho nên môi khô mà táo bón, Huyết táo, do tâm huyết phân tán, cho nên trên đầu có nhiều gầu trắng, râu tóc rụng; Hư táo, do Thận âm hư cạn, cho nên tiểu tiện nhiều lần, họng khô và sưng. Đó đều là những nguyên nhân ban đầu của Táo, làm cho nhu nhuận thì tự khỏi. Nếu không chăm sóc tích cực, khiến cho chân thủy khô cạn, sẽ là Tiêu khát Ế cách, sẽ là bại liệt bế kinh, sẽ là ho khan khàn tiếng, cân mạch co cứng, miệng không nói được, gân nhão raòn đàn hồi, trăm bệnh nẩy sinh khác gì cháy rừng không dập tắt nổi (Táo chứng – Chứng trị vâng bổ).