Căn nguyên
Arsen (nói chung dưới dạng anhydrid arsen) và những muối vô cơ và hữu cơ của nguyên tố này (vô cơ: arseniat, arsenit; hữu cơ: acetarson, arsphenamin, acid dimethylarsinic) được sử dụng trong công nghệ thuốc nhuộm, công nghiệp thuỷ tinh, giấy, sơn, đồ gốm. Các muối này cũng được dùng làm thuốc diệt côn trùng, thuốc diệt thực vật ký sinh cho cây, và thuốc diệt ký sinh trùng cho động vật. Độc tính của arsen là do tác động ức chế enzym, nhất là những enzym ATP-ase, ALA-synthetase và arylesterase. Đường xâm nhập: tiêu hoá đôl với ngộ độc cấp tính. Tiêu hoá và hô hấp đôl với ngộ độc mạn tính.
Độc tính: anhydrid arsen là bột mầu trắng, được sử dụng trong những trường hợp phạm tội đầu độc, gây tử vong bắt đầu từ liều 120 mg. Những muối arsen hữu cơ kém độc hơn. Những muối arsen hoá trị 5 được bài-tiết nhanh hơn và kém độc hơn so với muối arsen hoá trị 3.
Triệu chứng
Ngộ độc cấp tính: co thắt hầu (họng), khó nuốt, nôn, ỉa chảy giống bệnh tả, ban đỏ ở da, nhịp tim nhanh, hạ huyết áp, thiểu-vô niệu (hoại tử ống thận), co giật và hôn mê. Tiếp sau đó là thiếu máu tan huyết, rối loạn cầm máu, vàng da do tan tế bào gan, bệnh não và viêm đa dây thần kinh muộn. Trong trường hợp ngộ độc do nuốt một lượng lớn arsen thì chụp X quang bụng thấy những đám mờ cản quang. Chẩn đoán được xác định bởi nồng độ arsen cao trong nước tiểu (xét nghiệm hàng đầu, vì phần lớn arsen được bài tiết qua nước tiểu). Tử vong xảy ra bắt đầu từ nồng độ arsen trong huyết tương là 1 mg/1 (13,3 μmol/l); arsen hết nhanh trong huyết thanh chỉ sau một vài giờ, do đó cần lấy máu sớm vào những giờ ngay sau khi bị ngộ độc để định lượng. Chẩn đoán muộn (chẩn đoán sau tử vong trong pháp y) bằng định lượng arsen trong tóc và móng. Ngộ độc mạn tính: gây ra viêm đa dây thần kinh typ cảm giác-vận động, khởi phát ở các chi, chứng mất khứu giác, viêm dây thần kinh thị giác (viêm thị thần kinh), rối loạn tâm thần, hội chứng Korsakoff. Viêm da sẩn-mụn nước, chứng đỏ da, rụng tóc (hói), rối loạn tăng trưởng các bộ phận phụ của da (trên móng xuất hiện các đường thẳng Aldrich-Mees), chứng tăng sừng hoá. Đau bụng, ỉa chảy, xơ gan. Thiếu máu, giảm bạch cầu. Chứng tím tái các cực, suy tim. Tăng bài tiết arsen trong nước tiểu, hàm lượng arsen tăng lên trong móng chân tay và trong tóc. Ngộ độc mạn tính có thể có biểu hiện giống với suy vỏ tuyến thượng thận mạn tính và nằm trong chẩn đoán căn nguyên của viêm đa dây thần kinh.
Điều trị
Ngộ độc cấp tính
- Nếu bệnh nhân còn tỉnh táo thì rửa dạ dày, cho than hoạt, rồi tẩy ruột bằng thuốc tẩy loại có muối. Phục hồi nước và kiềm hoá. Cho sorbitol hoặc thuốc tẩy ruột loại có muối.
- Dimercaprol (BAL) hoặc penicillamin: tiếp tục cho tới khi nào bài tiết nước tiểu trỏ lại bình thường hoặc gần bình thường (bài tiết arsen 50 μg/24 giờ).
- Thẩm phân máu sau điều trị bằng dimercaprol trong những thể nặng hoặc trong trường hợp suy thận.
Ngộ độc mạn tính: dimercaprol (BAL) hoặc penicillamin. Phải nhiều tháng thì mới hết được các triệu chứng và những triệu chứng thần kinh cũng có thể không hết hoàn toàn. Ngô đôc do hít phải hơi arsen: truyền-thay máu.