Tăng sản thượng thận bẩm sinh (CAH) bao gồm một nhóm các rối loạn di truyền thể lặn có đặc điểm là bất thường chức năng của enzym sinh tổng hợp steroid của thượng thận, dẫn tới giảm sinh tổng hợp cx)rtisol. Để đáp ứng với nồng độ cortisol thấp, ACTH (adrenocorticotropic hormon) sẽ tăng tiết bù. Nồng độ ACTH cao sẽ làm tăng sản mô thượng thận bất thường chức năng và làm táng sản xuất các steroid gây nam hóa mà chỉ làm tăng nhẹ hoặc không tăng sản xuất cortisol. Trong rất nhiều các khiếm khuyết gen gây tăng sản thượng thận bẩm sinh, chỉ có 2 loại gây nam hóa. 95% các trường hợp là do thiếu hụt 21-hydroxylase vào thiếu hụt 5% 11-hydroxylase. Tỷ lệ thiếu hụt 21-hydroxylase kinh điển được cho là 1 trong 14.000 lần sinh. Phần lớn các trường hợp tăng sản thượng thận bẩm sinh kinh điển được phát hiện vào thời thơ ấu, tuy nhiên những hiểu biết sâu hơn về di truyền và sinh lý bệnh của tăng sản thượng thận bẩm sinh đã dẫn đến phát hiện thường xuyên nhẹ hơn và không điển hình ở giai đoạn trưởng thành. Tỷ lệ mắc chung của tăng sản thượng thận bẩm sinh không có thống kê nhưng vào khoảng 1 % đến 6% ở thiếu niên và người trưởng thành mắc triệu chứng cường androgen. Thiếu hụt 11-hydroxylase xuất hiện ở 1 trong 100.000 lần sinh. Liệu pháp cho mọi thể tăng sản thượng thận bẩm sinh bao gồm cân bằng giữa điều tn thay thế đủ glucocorticoid đề ÍPC chế sản xuất quá mức androgen và ngăn ngừa cơn suy thượng thận, trong khi tránh các biến chứng do thừa glucocorticoid. Bàn luận về tăng sản thượng thận bẩm sinh trong chương này chỉ giới hạn ờ thiếu hụt 21-hydroxylase.
Thiếu hụt sản xuất cortisol là bất thường chính trong tăng sản thượng thận bẩm sinh và nắm vững con đường sinh tổng hợp steroid của thượng thận là thiết yếu để hiểu được sinh bệnh học và cơ sở của điều trị (Hình 12-1).
Các đột biến khác nhau xuất hiện ở gen mã hóa 21-hydroxylase ảnh hưởng đến mức độ nặng và biểu hiện của bệnh. Đột biến đi kèm với giảm hoạt tính của enzym dẫn tới các thiếu hụt nặng của aldosteron và cortisol. Trong khi đó, các đột biến đi kèm với giảm hoạt tính enzym nhẹ hơn dẫn tới các bất thường hormon nhẹ hơn và diễn biến không điển hình. Một số bệnh nhân tăng sản thượng thận bẩm sinh không điền hình ró một allel của gen 21-hydroxylase đột biến “nặng” vá một allel đột biến “nhẹ”. Do vậy, độ nặng của phenotyp trong các dị hợp tử kép được xác định dựa vào đột biến nhẹ hơn. Nồng độ cortisol giảm sẽ kích thích tuyến yên tiết ACTH, từ đó gây ra tăng sản xuất các tiền chất của cortisol như progesteron và 17-OH progesteron (17-OHP) – có thể sẽ chuyển hóa thành tiền chất của androgen (xem hình 12-1).
Ba phần tư bệnh nhân tăng sản thượng thận bẩm sinh điển hình “khát muối“ do không có hoạt tính của 21-hydroxylase và không sản xuất đủ aldosteron để giữ natri. Một phần tư số bệnh nhân còn lại tuy hoạt tính enzym thấp nhưng vẫn đủ khả năng để tạo aldosteron nên dù nam hóa nhưng không thiếu muối và được coi là “nam hóa đơn thuần“. Những bệnh nhân còn 20% đến 60% hoạt tính enzym thể hiện điển hình ở tuổi trưởng thành với các thể kín đáo và không điển hình hơn. Tất cả các bệnh nhân có thiếu hụt 21 -hydroxylase điển hình có nguy cơ cao tiến triển đến suy thượng thận nếu không được điều trị bằng glucocorticoid ngoại sinh nhưng cơn suy thượng thận cấp ít gặp ở các thể không điển hình.
Con đường sinh tổng hợp steroid thượng thận DHEA
Hình 12-1. Con đường sinh tổng hợp steroid thượng thận DHEA,dehydroepiandrosterone
BIỂU HIỆN
Bệnh sử
Thiếu hụt 21-hydroxylase điển hình biểu hiện ngay hoặc trong vài tuần sau sinh với hạ huyết áp do suy thượng thận và nam hóa cơ quan sinh dục ngoài của nữ (lỗ đái thấp, tinh hoàn ẩn, phì đại âm vật) do thừa androgen thượng thận của thai. Triệu chứng của thể không điển hình có thể mơ hồ hoặc không có (tăng sản thượng thận bẩm sinh thể ẩn), ở phụ nữ có thể giống như với hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) bởi các triệu chứng mụn trứng cá, rậm lông, vô sinh và chu kỳ kinh không đều. Rụng tóc kiểu nam hiếm gặp hơn. Nam giới có tăng sản thượng thận bẩm sinh không điển hình có thể vô sinh và nhiều mụn trứng cá. Trẻ em ở cả hai giới mắc tăng sản thượng thận bẩm sinh không điển hình có thể được chẩn đoán khi tìm nguyên nhân mọc lông mu sớm hoặc tăng trưởng nhanh với tuổi xương cao.
Tăng sản thượng thận bẩm sinh thể không điển hình ở người trưởng thành không cần chẩn đoán phân biệt với nhiều bệnh nhưng cần lưu ý hội chứng buồng trứng đa nang, u thượng thận nam hóa hoặc u buồng trứng và sử dụng steroid đồng hóa ngoại sinh.
Khám bệnh
Triệu chứng nổi trội khi khám thực thể là cường androgen với rụng tóc vùng thái dương, rậm lông và mụn. Bệnh nhân mắc tăng sản thượng thận bẩm sinh điển hình có thể bị giảm chiều cao do thừa androgen trong thời kỳ dậy thì hoặc do điều trị glucocorticoid thay thế quá mức hoặc cả hai.
Tuy nhiên, với các phác đồ thay thế hormon mới, hầu hết bệnh nhân đạt được chiều cao dự kiến khi trưởng thành hợp với chiều cao của cha mẹ. ở thể tăng sản thượng thận bẩm sinh không điển hình, chiều cao cuối cùng khi trưởng thành có thể giảm do cốt hóa sớm các đầu xương.
XỬ TRÍ
Xét nghiệm chẩn đoán
Thiếu hụt 21-hydroxylase điển hình được đặc điểm là nồng độ 17-OHP tăng có ý nghĩa trong thời thơ ấu, với các mức độ nam hóa có thể chưa lộ rõ cho tới cuối tuổi nhi đồng. 17-OHP ở thể không điển hình có thể ở ranh giới hoặc bình thường. Lý tưởng nhất là định lượng được 17-OHP lúc 8 giờ sáng ở giai đoạn nang của nữ. Kết quả 17-OHP < 2 ng/mL có thể không rõ là tăng sản thượng thận bẩm sinh và giá trị 17-OHP > 4 ng/mL đã được báo cáo là có độ đặc hiệu 100%, độ nhạy 90% trong chẩn đoán. Giá trị nằm trong khoảng 2 – 4 ng/mL cần làm test kích thích ACTH bằng 250 meg ACTH tổng hợp tiêm tĩnh mạch và định lượng 17-OHP trước và 60 phút sau tiêm. Kết quả có thể so sánh với đường cong chuẩn, dễ dàng nhận thấy được. Nếu nồng độ cortisol sau tiêm ACTH < 20 mcg/mL, bệnh nhân cần nhận thức được phải sử dụng thêm glucocorticoid trong các giai đoạn stress sinh lý. Cần lưu ý là trong y văn chưa thấy có báo cáo nào tử vong do suy thượng thận vì tăng sản thượng thận bẩm sinh thể không điển hình. Các thành viên của thế hệ thứ nhất trong gia đỉnh bệnh nhân nên được sàng lọc tăng sản thượng thận bẩm sinh vì có khả năng không có dấu hiệu lâm sàng và có nguy cơ cao nếu bệnh nhân không được điều trị.
Điều trị
Điều trị tăng sản thượng thận bẩm sinh thể không điển hình ở người trưởng thành bao gồm sử dụng liều glucocorticoid thay thế thấp nhất để ức chế sản xuất androgen quá mức. Dexamethason (Decadron) uống vào buổi tối thường được coi là điều trị hiệu quả nhất ở người trưởng thành mặc dù có tăng nguy cơ do điều trị quá mức. Hydrocortison được lựa chọn điều trị ở trẻ em vì làm cải thiện các kết cục lâm sàng liên quan đến chiều cao khi trưởng thành. Liều glucocorticoid thay thế điển hình là 0,25 – 0,75 mg dexamethason uống hàng ngày hoặc 10 đến 25 mg/m2 hydrocortison uống chia 2 hoặc 3 lần. Liều hydrocortison buổi tối có hiệu quả ức chế ACTH hiệu quả nhất. Chiều cao khi trưởng thành có thể được cải thiện ở trẻ có tuổi xương cao, dự đoán ít nhất là một độ lệch chuẩn dưới chiều cao mục tiêu trung bình của bố mẹ, với việc sử dụng hormon tăng trưởng (GH) và chất chủ vận hormon giải phóng LH (leuprolid). Người trưởng thành có tăng sản thượng thận bẩm sinh điển hình, “khát muối” cần thay thế cả glucocorticoid và mineralcorticoid. Nhìn chung, chỉ cần liều nhỏ 0,1 mg fludrocortison là đủ.
Theo dõi các tác dụng của thay thế steroid là yếu tố quyết định. Nồng độ 17- OHP kháng tương đối với ức chế bằng glucocorticoid nên giá trị này bình thường thường phản ánh điều trị quá mức. Nồng độ 17-OHP nên duy trì ở mức cao của bình thường cho tới trên bình thường chút ít. Nồng độ androstenedion nhạy hơn khi bị ức chế và có thể là dấu hiệu chỉ điểm tốt hơn của liều thay thế với mục tiêu giữ mức androstenedion một phần ba trên của giá trị bình thường. Thay thế mineralcorticoid có thể theo dõi bằng nồng độ kali. Tăng nồng độ renin hoặc hạ huyết áp có thể là dấu hiệu cho thấy chưa bù đủ mineralcorticoid.
Cơn suy thượng thận cấp ở bệnh nhân tăng sản thượng thận bẩm sinh được điều trị bằng thay thế glucocorticoid và bù dịch như mô tả ở chưcyng 11.
Thai kỳ trong tăng sản thượng thận bẩm sinh thể điển hình cần được quản lý bởi bác sĩ chuyên khoa nội tiết có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Phụ nữ mắc tăng sản thượng thận bẩm sinh không điển hình nhìn chung không cần điều trị glucocorticoid trong thai kỳ trừ khi đánh giá trước sinh gợi ý đến tăng nguy cơ nam hóa của bào thai nữ (như khi mẹ là dị hợp tử kép có đột biến nặng và cha là người mang dị hợp tử). Bàn luận về tư vấn trước sinh, chẩn đoán và điều trị ở bệnh nhân tăng sản thượng thận bẩm sinh nằm ngoài phạm vi của chương này và người đọc có thể tham khảo bài viết gần đây của Nimkarn và New (xem đầy đủ trong phần Tài liệu tham khảo).
NHỮNG ĐIỂM QUAN TRỌNG CẦN GHI NHỚ
Tăng sản thượng thận bẩm sinh điển hình biểu hiện tìr khi sinh, nhưng các triệu chứng của tăng sản thượng thận bẩm sinh thể không điển hình có thể xuất hiện muộn hơn.
Có thể cần định lượng nồng độ 17-OH progesteron kích thích ACTH ở những bệnh nhân có nồng độ 17-OH progesteron nghi ngờ và các triệu chứng gợi ý đến tăng sản thượng thận bẩm sinh không điển hình.
Nên sử dụng liều steroid thấp nhất có hiệu quả để làm giảm tác dụng không mong muốn của glucocorticoid lên mật độ xương.
Thai phụ cỏ tăng sản thượng thận bẩm sinh cần được theo dõi bởi một bác sĩ chuyên khoa nội tiết có kinh nghiệm.
Bạn có bị đau họng do cảm lạnh, viêm họng liên cầu hay viêm amidan không? Có nhiều cách để phân biệt điều này.
Đau họng thường là dấu hiệu đầu tiên của cảm lạnh. Tuy nhiên, đau họng do cảm lạnh thường sẽ cải thiện sau vài ngày. Viêm họng liên cầu là một nguyên nhân khác gây đau họng và viêm amidan. Với viêm họng liên cầu, đau họng thường nghiêm trọng hơn và kéo dài. Viêm amidan là tình trạng viêm hoặc nhiễm trùng đau đớn của amidan, các mô nằm ở phía sau cổ họng.
Sự khác biệt giữa cảm lạnh, viêm họng liên cầu và viêm amidan là gì?
Đau họng thường là dấu hiệu đầu tiên của cảm lạnh. Tuy nhiên, đau họng do cảm lạnh thường sẽ cải thiện hoặc biến mất sau một hoặc hai ngày. Các triệu chứng cảm lạnh khác như chảy nước mũi và nghẹt mũi có thể xuất hiện sau cơn đau họng.
Viêm họng liên cầu, là một nhiễm trùng do vi khuẩn streptococcus, là một nguyên nhân khác gây đau họng và viêm amidan. Với viêm họng liên cầu, đau họng thường nghiêm trọng hơn và kéo dài lâu hơn.
Đôi khi, đau họng là do viêm amidan, một tình trạng viêm hoặc nhiễm trùng của amidan, là các mô nằm ở phía sau cổ họng. Viêm amidan có thể do virus hoặc vi khuẩn gây ra. Trong khi vai trò của amidan là giúp chống lại nhiễm trùng, chính amidan cũng có thể bị nhiễm trùng. Khi điều này xảy ra, kết quả là viêm amidan và cơn đau họng rất nghiêm trọng.
Cổ họng đau do cảm lạnh
Cảm lạnh, viêm họng liên cầu và viêm amidan gây ra đau họng như thế nào?
Nếu bạn có đau họng, có thể đó là triệu chứng của viêm họng liên cầu, cảm lạnh và viêm amidan. Đau họng xảy ra do sự sưng lên ở phía sau cổ họng.
Viêm họng liên cầu có thể khiến cổ họng và amidan đỏ, đau, sưng và có mảng trắng hoặc mủ, khiến cổ họng cảm thấy đau.
Virus gây viêm mũi và cổ họng là nguyên nhân gây cảm lạnh. Mặc dù có hơn 200 loại virus có thể gây cảm lạnh, nhưng phần lớn thời gian, nguyên nhân là do nhiễm virus rhinovirus. Khi cổ họng bị viêm, nó sẽ sưng lên và đau, gây ra đau họng. Đó là lý do tại sao một nửa số người bị cảm lạnh cảm thấy đau họng trước tiên.
Viêm amidan xảy ra với amidan sưng, gây ra đau họng.
Các nguyên nhân khác gây đau họng bao gồm:
Hút thuốc
Các chất kích thích trong không khí
Dị ứng
Không khí khô
Thở bằng miệng
Căng thẳng cổ họng do la hét, chẳng hạn
Triệu chứng của cảm lạnh, viêm amidan và viêm họng liên cầu
Đau họng là triệu chứng phổ biến của cảm lạnh, viêm amidan và viêm họng liên cầu, vì tất cả đều ảnh hưởng đến cổ họng. Tuy nhiên, bạn có thể nhận thấy các triệu chứng khác ngoài đau họng khi mắc các tình trạng này.
Triệu chứng cảm lạnh:
Hắt hơi
Chảy nước mũi
Nghẹt mũi
Đau đầu
Sốt
Đau cơ
Cảm thấy mệt mỏi
Ho
Triệu chứng viêm amidan:
Amidan sưng và đỏ
Khó nuốt
Mệt mỏi
Hạch bạch huyết sưng và đau ở cổ
Sốt
Đau đầu
Mất cảm giác thèm ăn
Hơi thở hôi
Triệu chứng viêm họng liên cầu:
Sốt
Amidan đỏ và sưng
Hạch bạch huyết sưng ở cổ
Đau khi nuốt
Những đốm nhỏ đỏ trên vòm miệng
Mảng trắng trên amidan
Dải mủ trên amidan
Đau đầu
Buồn nôn
Nôn
Phát ban
Đau bụng
Cách phân biệt triệu chứng của viêm họng liên cầu và cảm lạnh
Triệu chứng viêm họng liên cầu thường nghiêm trọng hơn triệu chứng đau họng do cảm lạnh và có thể bao gồm:
Đau họng đột ngột
Mất cảm giác thèm ăn
Khó nuốt đau
Amidan đỏ với những đốm trắng
Sốt
Cách phân biệt triệu chứng của viêm amidan và cảm lạnh
Ngoài đau họng, cảm lạnh thường gây ra các triệu chứng mũi, chẳng hạn như chảy nước mũi hoặc nghẹt mũi.
Với viêm amidan, amidan của bạn trở nên sưng và có thể có những đốm trắng hoặc vàng đặc trưng. Các triệu chứng khác của viêm amidan bao gồm:
Hơi thở hôi
Sốt
Thay đổi giọng nói do sưng
Khó nuốt đau
Hạch bạch huyết sưng ở cổ
Cách chẩn đoán đau họng
Ngoài việc kiểm tra cổ họng và lưỡi của bạn, bác sĩ có thể hỏi về các triệu chứng khác của bạn và thực hiện các xét nghiệm để xác định chính xác nguyên nhân gây đau họng.
Xét nghiệm viêm họng liên cầu
Một xét nghiệm nhanh viêm họng liên cầu kiểm tra nhiễm trùng vi khuẩn streptococcus trong cổ họng. Xét nghiệm này không đau và mất rất ít thời gian.
Đầu của một bông gòn được sử dụng để lau sạch phía sau cổ họng. Sau đó, bông gòn được kiểm tra ngay lập tức. Nếu xét nghiệm viêm họng liên cầu dương tính, bạn bị viêm họng liên cầu. Nếu xét nghiệm viêm họng liên cầu âm tính, bạn có khả năng không bị viêm họng liên cầu.
Tuy nhiên, nếu có những dấu hiệu mạnh mẽ của viêm họng liên cầu, nhà cung cấp dịch vụ y tế của bạn có thể thực hiện một xét nghiệm bông gòn họng khác, được gửi đến phòng thí nghiệm để xem liệu vi khuẩn streptococcus có thể được nuôi cấy từ mẫu hay không. Một xét nghiệm nuôi cấy họng mất vài ngày để có kết quả.
Xét nghiệm cho cảm lạnh
Bác sĩ của bạn có thể bắt đầu bằng cách hỏi về các triệu chứng của bạn. Họ có thể lấy một mẫu mũi hoặc họng để xác nhận rằng các triệu chứng của bạn không phải do nguyên nhân khác.
Bạn cũng có thể có một xét nghiệm chụp X-quang ngực chỉ trong trường hợp một tình trạng phổi gây ra các triệu chứng của bạn.
Chẩn đoán viêm amidan
Bác sĩ của bạn sẽ hỏi về các triệu chứng và tiền sử bệnh của bạn. Họ cũng sẽ kiểm tra cổ họng và cổ của bạn để tìm các dấu hiệu như amidan đỏ, sưng với những đốm trắng và hạch bạch huyết sưng.
Bạn cũng có thể thực hiện xét nghiệm viêm họng liên cầu để loại trừ vi khuẩn streptococcus là nguyên nhân. Hoặc làm xét nghiệm máu nếu xét nghiệm viêm họng liên cầu là âm tính.
Điều trị đau họng do viêm họng liên cầu, viêm amidan và cảm lạnh Cách điều trị đau họng do cảm lạnh là gì?
Mặc dù không có phương pháp chữa trị nào cho viêm họng do virus cảm lạnh gây ra, nhưng có những cách để giúp bạn cảm thấy thoải mái hơn, bao gồm:
Uống các loại đồ uống ấm
Súc miệng bằng nước muối ấm
Ngậm đá viên, kem que hoặc viên ngậm
Sử dụng thuốc không cần kê đơn có thể làm giảm các triệu chứng đau hoặc sốt
Khi bạn bị cảm lạnh, việc nghỉ ngơi đầy đủ, ăn một chế độ ăn uống lành mạnh và uống nhiều chất lỏng là rất quan trọng cho quá trình hồi phục.
Các loại thuốc cảm lạnh không cần kê đơn có thể giúp giảm triệu chứng cảm lạnh và viêm họng. Tuy nhiên, lợi ích của những loại thuốc này là tối thiểu. Một số loại thuốc cảm lạnh bao gồm:
Thuốc giảm đau, như acetaminophen, ibuprofen và naproxen, có thể giúp giảm đau nhức và khó chịu do cảm lạnh và viêm họng. (Không cho trẻ em uống aspirin. Nó liên quan đến hội chứng Reye, một rối loạn có thể gây tổn thương não và tử vong.)
Xịt và viên ngậm cho viêm họng giúp làm dịu cổ họng và tạm thời làm tê đau họng. (Không cho trẻ em ngậm viên ngậm vì có thể gây nghẹn.)
Xịt mũi giảm nghẹt để làm giảm viêm họng do nước mũi chảy xuống — dịch mũi chảy xuống cổ họng của bạn. (Hãy chắc chắn ngừng sử dụng xịt mũi giảm nghẹt sau 3 ngày, nếu không bạn có thể bị tăng nghẹt mũi khi ngừng sử dụng.)
Không dùng kháng sinh vì chúng không thể điều trị virus cảm lạnh và viêm họng do virus. Kháng sinh chỉ có tác dụng đối với vi khuẩn.
Viêm họng do liên cầu được điều trị như thế nào?
Viêm họng do liên cầu được điều trị bằng kháng sinh, tiêu diệt vi khuẩn gây ra nhiễm trùng. Kháng sinh thường được uống dưới dạng viên hoặc tiêm.
Penicillin và amoxicillin là những kháng sinh phổ biến được sử dụng để điều trị viêm họng liên cầu. Đối với những người dị ứng với penicillin, sẽ có những kháng sinh khác được chỉ định.
Hãy làm theo hướng dẫn của nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về việc sử dụng kháng sinh. Uống hết thuốc, ngay cả khi bạn cảm thấy tốt hơn. Bạn nên cảm thấy tốt hơn trong vòng một hoặc hai ngày. Một người mắc viêm họng do liên cầu nên ở nhà cho đến 24 giờ sau khi bắt đầu dùng kháng sinh.
Viêm họng do viêm amidan được điều trị như thế nào?
Nếu nhiễm trùng viêm amidan là do vi khuẩn giống như viêm họng liên cầu, thì sẽ được kê kháng sinh. Nếu nhiễm trùng viêm amidan là do virus, kháng sinh sẽ không có tác dụng. Virus phải tự hồi phục để viêm họng khỏi.
Nếu nhiễm trùng amidan xảy ra lặp đi lặp lại, hoặc nếu amidan của bạn ảnh hưởng đến giấc ngủ và hô hấp, bác sĩ có thể đề nghị phẫu thuật cắt amidan, là việc loại bỏ amidan bằng phẫu thuật.
Mẹo chăm sóc tại nhà
Bạn có thể quản lý cơn đau họng tại nhà bằng những mẹo sau:
Nghỉ ngơi đầy đủ.
Uống nhiều chất lỏng.
Ăn các món ăn mềm, dễ tiêu hóa như thạch, kem, sinh tố, món tráng miệng đông lạnh và súp.
Tránh thức ăn giòn hoặc cay.
Sử dụng máy tạo ẩm hơi lạnh hoặc máy tạo ẩm không khí lạnh để tăng độ ẩm trong không khí và làm dịu cơn đau họng.
Uống thuốc giảm đau không cần kê đơn như acetaminophen, naproxen hoặc ibuprofen. Nhưng không cho trẻ em uống aspirin.
Súc miệng bằng nước muối ấm để làm dịu cơn khó chịu trong họng.
Ngậm viên ngậm để làm dịu cổ họng.
Giữ không gian của bạn sạch sẽ, không có các chất gây kích ứng như khói thuốc và sản phẩm tẩy rửa.
Viêm họng do liên cầu có nghiêm trọng hơn cảm lạnh không?
Viêm họng do liên cầu có thể gây ra những bệnh nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như sốt thấp khớp, có thể gây hại cho van tim. Đó là lý do tại sao việc nhận được điều trị y tế phù hợp là quan trọng, có thể chữa khỏi viêm họng do liên cầu trong vòng 10 ngày.
Cảm lạnh có thể khiến bạn cảm thấy không khỏe, nhưng bạn sẽ cảm thấy tốt hơn trong vòng một tuần. Mặc dù bạn có thể vẫn có triệu chứng, nhưng chúng sẽ biến mất trong khoảng 18 ngày. Trẻ em có thể mất đến 3 tuần để hồi phục hoàn toàn.
Đôi khi, cảm lạnh có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như hen suyễn, nhiễm trùng tai hoặc nhiễm trùng xoang.
Viêm amidan có nghiêm trọng hơn cảm lạnh không?
Thường thì, viêm amidan sẽ khỏi nhanh hơn cảm lạnh. Nó sẽ tự khỏi trong vài ngày khi bạn nghỉ ngơi và giữ đủ nước mà không gây ra vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
Hãy gặp bác sĩ nếu triệu chứng của bạn kéo dài hơn 4 ngày. Họ có thể cho bạn biết lý do điều này có thể xảy ra và đề xuất phương pháp điều trị.
Trong một số trường hợp hiếm hoi, viêm amidan có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe như áp-xe, sốt thấp khớp, sốt đỏ và viêm thận.
Khi nào nên liên hệ với bác sĩ về cơn đau họng
Nếu viêm họng do liên cầu của bạn không cải thiện, hãy thông báo ngay cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn.
Không ngừng sử dụng thuốc theo chỉ định trừ khi nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn yêu cầu bạn làm như vậy.
Hãy gọi cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nếu bạn có các triệu chứng sau:
Sốt sau 1 hoặc 2 ngày cảm thấy tốt hơn
Buồn nôn hoặc nôn
Đau tai
Đau đầu
Cứng cổ
Phát ban da
Ho
Sưng tuyến
Đau khớp
Khó thở
Nước tiểu tối, phát ban hoặc đau ngực (có thể xảy ra sau 3-4 tuần)
Cách phòng ngừa viêm họng
Vì cảm lạnh là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra viêm họng, nên cách tốt nhất để ngăn ngừa viêm họng là thực hiện các biện pháp giảm nguy cơ mắc hoặc lây lan cảm lạnh.
Tiêm vaccine cúm mỗi năm.
Che miệng và mũi khi bạn ho hoặc hắt hơi để ngăn ngừa việc lây lan vi khuẩn cho người khác.
Duy trì khoảng cách vật lý giữa bạn và những người bị cảm lạnh để giảm nguy cơ virus lây lan sang bạn.
Rửa tay thường xuyên bằng xà phòng và nước. Nếu không có xà phòng và nước, hãy sử dụng nước rửa tay chứa cồn.
Tránh chạm tay vào mắt, mũi hoặc miệng để tránh lây nhiễm vi khuẩn cho bản thân.
Bạn có thể làm sạch không gian trong nhà để giảm sự lây lan của virus bằng cách mở cửa sổ để cho không khí vào hoặc sử dụng máy lọc không khí.
Dọn dẹp và khử trùng các bề mặt mà bạn thường xuyên chạm vào trong không gian của mình, như bàn, tay vịn và nắm cửa, để ngăn ngừa sự lây lan của vi khuẩn.
Chăm sóc bản thân bằng cách ngủ đủ giấc, ăn uống cân bằng, giữ đủ nước và coi trọng việc nghỉ ngơi.
Tóm tắt
Viêm họng thường là triệu chứng đầu tiên của cảm lạnh, viêm họng do liên cầu hoặc viêm amidan. Nó sẽ tự khỏi nếu do cảm lạnh. Bạn cần nghỉ ngơi, ăn uống lành mạnh và uống nhiều chất lỏng. Nếu do nhiễm khuẩn như viêm họng do liên cầu hoặc viêm amidan, bạn sẽ cần gặp bác sĩ để có thể kê kháng sinh. Bạn sẽ cảm thấy tốt hơn trong vài ngày với viêm họng. Nhưng nếu triệu chứng của bạn không biến mất sau khoảng một tuần hoặc bạn cảm thấy tệ hơn, hãy gặp bác sĩ.
Câu hỏi thường gặp về viêm họng
Viêm họng do liên cầu có tồi tệ hơn viêm amidan không?
Viêm họng do liên cầu và viêm amidan thường gây ra các triệu chứng tương tự và sẽ biến mất trong khoảng một tuần. Trong những trường hợp hiếm, chúng gây ra các biến chứng tương tự như sốt thấp khớp.
Tôi có cần kháng sinh cho viêm họng do liên cầu không?
Có, bạn cần kháng sinh để điều trị viêm họng do liên cầu.
Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bạn bỏ qua viêm họng do liên cầu?
Bỏ qua viêm họng do liên cầu có thể gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng như viêm thận hoặc sốt thấp khớp.
Viêm họng do liên cầu có thể lây sang phổi không?
Có, vi khuẩn gây viêm họng do liên cầu có thể lây sang phổi, gây ra các vấn đề như viêm phổi hoặc viêm xoang.
Nguyên nhân nào gây ra viêm họng chỉ ở một bên?
Viêm họng một bên có thể là triệu chứng của nhiều tình trạng khác nhau, bao gồm viêm họng do liên cầu, viêm amidan và cảm lạnh. Nó cũng có thể xảy ra khi dịch nhầy chảy xuống phía sau cổ họng của bạn
Phiên Vị còn gọi là “Vị phản” chỉ chứng trạng đồ ăn vào Vị đọng lại không tiêu hóa cuối cùng lại lộn trở ra, biểu hiện hoặc là sáng ăn tối mửa, hoặc tối ăn sáng mửa hoặc ăn vào một hai giờ sau thì mửa hoặc tích đọng qua một ngày đêm thì mửa ra.
Sách Nội kinh chưa có tên Phiên Vị, nhưng trong những giới thiệu về tật bệnh có các chứng hữu quan như Ẩu, Thổ, uế, Cách tức là bao quát cả chứng Phiên Vị, như “ăn uổng vào lại lộn trở ra”, “ăn vào được một thời gian lại mửa ra” (Linh khu – Thượng Cách) “đầy tràn mà nghịch lên” (Tố vấn – Mạch giải thiên). Sách Kim quỹ yếu lược đầu tiên nêu tên “ Phiên Vị”, về sau, y như nhiều đời gọi Phản Vị hoặc Phiên Vị, tên gọi dẫu khác, thực ra chỉ là một.
Phân biệt
Chứng hậu thường gặp
Phiên Vị do Tỳ Vị hư lạnh: Có chứng ăn vào lại lộn ra,sáng ăn tối mửa hoặc tối ăn sáng mửa, mửa ra toàn đồ ăn không tiêu, bụng trướng đầy, kém ăn đại tiện nhão, mỏi mệt yếu sức, tay chân không ấm, đoản hơi biếng nói, sắc mặt trắng nhợt, lưỡi nhợt rêu lưỡi trắng nhuận, mạch tượng Phù Sắc hoặc Hư hoãn vô lực.
Phiên Vị do Mệnh môn hoả suy: Có chứng sáng ăn tối mửa, thậm chí đã ăn qua một ngày vẫn mửa ra nguyên đồ ăn không tiêu, ăn uống không xuống, ứa mửa ra dãi trong, trong vắt và lạnh, cơ thể sợ lạnh, lưng gối lạnh đau, mặt phù chân thũng bụng trướng ỉa lỏng, dương nuy, tiểu tiện nhiều lần thậm chí nhị tiện không thông, tinh thần mỏi mệt muốn ngủ, sắc mặt nhợt nhạt, mạch Vi Tế Trầm Trì, lưỡi nhợt rêu trơn.
Phiên Vị do hàn ẩm đọng ờ trong: Có chứng phiên Vị mửa ra đồ ăn cách đêm và đờm dãi nước trong, hoặc mửa ra nước bọt, bụng bĩ đầy kém ăn, hồi hộp đầu choáng hoặc suyễn khái khí nghịch, rêu lưỡi trắng trơn nhớt, mạch Huyền Hoạt.
Phiên Vị do đờm với khí ngăn trở: Có chứng Phiên Vị mửa ra đồ ăn và đờm dãi, hung cách bĩ đầy, phiền muộn khó chịu, bụng trướng đầy, đại tiện khó khăn, ợ hơi và nấc, phiền táo hay giận rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Trầm Huyền.
Phiên Vị do tửu tích thấp nhiệt: Có chứng trong Tâm cồn cào mà nóng, lờm lợm buồn nôn, phiên Vị mửa ra đô ăn cách đêm hôi chua, đâu nặng thân thể bứt dứt, ngực bụng bĩ đầy, miệng khô mà khát, tiểu tiện vàng đỏ, rêu lưỡi vàng dày mà nhớt,mạch Hoạt Sác hoặc Nhu Sác.
Phiên Vị do ứ huyết lưu trệ: Có chứng ăn vào bị ngăn cách không tiêu hóa mà lộn trở ra, ngực bụng nhói đau cự án, nơi đau cố định, nặng hơn thì thổ huyết, đại tiện phân đen, đại tiện kết trệ khó đi, miệng khô họng ráo khát, chất lưỡi tía tối hoặc có nốt ứ huyết, mạch Huyền sắc.
Phiên Vị do âm hư huyết ráo: Có chứng ăn nuốt khó khăn, thời gian lâu lại mửa ra, miệng khô Tâm phiền, hồi hộp ít ngủ, đầu choáng mắt hoa, lưng mỏi, ù tai, thể trạng gầy còm, da dẻ khô ráo, xương nóng âm ỉ, mồ hôi trộm, sắc mặt không tươi, đại tiện khô kết, lưỡi đỏ ít rêu mạch Tế Sác.
Phiên vị do khí âm đều hư: Có chứng ăn vào lại mửa ra, kém ăn, đại tiện khô kết, hồi hộp tự ra mồ hôi, chân tay nóng rát, đoản hơi mệt mỏi, môi khô miệng ráo, lưỡi đỏ không có rêu hoặc rêu lưỡi tróc mảng, mạch Hư Tế mà Sác.
Phiên Vị do trùng tích: Có chứng Phiên Vị mà Tâm phiền không yên lúc phát lúc ngưng, ăn vào thì mửa ra giun, nặng hơn thì phát sinh quyết nghịch đau do giun, mặt có dấu ban ký sinh trùng, lưỡi có nốt đỏ lớn, mạch chợt Đại chợt Tiểu.
Phân tích
Chứng Phiên vị do Tỳ Vị hư lạnh với chứng Phiên Vị do Mệnh môn hoả suy: cả hai đều thuộc dương hư gây bệnh, nhưng loại trên thì trách cứ vào Trung tiêu Tỳ Vị, loại sau thì quy kết vào Hạ tiêu Mệnh môn. Bị chứng Phiên Vị do Tỳ Vị hư lạnh là do sinh hoạt chăm sóc không cẩn thận, hoặc lo nghĩ mệt nhọc, hoặc dùng nhầm các loại thuốc hãn hạ, làm tổn hại dương khí của Tỳ Vị, dẫn đến trong VỊ hư lạnh, vận hóa chậm chạp, thủy cốc lưu đọng, không tiêu hóa chứa tích thành đầy nghịch lên làm mửa, cho nên yếu điểm biện chứng là sáng ăn tôi mửa hoặc tối ăn sáng mửa, mửa được ra đồ ăn tích chứa thì dễ chịu, lại kiêm các chứng bụng đầy tức, kém ăn đại tiện nhão, sắc mặt nhợt, mệt mỏi yếu sức, chân tay không ấm. Lưỡi nhợt rêu lưỡi trắng nhuận, mạch Phù Sác hoặc Hư Hoãn vô lực, cũng thuộc hiện tượng Trung khí hư hàn: điều trị nên ôn trung kiện Tỳ, hòa Vị giáng nghịch, dùng phương Bổ khí kiện vận thang, phiên Vị do Mệnh môn hoả suy phần nhiều do tuổi cao dương suy hoặc ôTn lâu không phục hồi. Tỳ Thận dương hư gây nên. Mệnh môn chân hoả là nguồn khí hóa của Tam tiêu, cho nên Mệnh môn hoả suy vi, tất nhiên tác dụng sinh hóa sưởi ấm bất cập là chủ đạo của cơ chế bệnh. Đáy nồi không có củi, gạo nước không biến hóa được, lâu lâu lại mửa ra, thậm chí ăn vào cách cả ngày đêm cũng mửa ra, vật mửa ra trong vắt và lạnh. Dương suy thì âm thịnh, cho nên có kiêm chứng cơ thể lạnh sợ lạnh, lưng gối lạnh đau, mặt và chân phù thũng, hoặc ỉa cháy đái nhiều lần hoặc nhị tiện không thông.v.v.. tinh thần mệt mỏi muốn ngủ, mạch Vi Tế Trầm Trì, lưỡi nhạt rêu trơn, cũng thuộc đặc trưng của dương hư âm thịnh; bệnh trách cứ vào Thận dương hư suy, điều trị nên bổ hoả để sinh thổ, ôn dương để giúp sự kiện vận dùng phương Lục vị hồi dương ẩm hoặc Kim quỹ Thận khí hoàn.
Chứng Phiên Vị do Tỳ Vị hư hàn với chứng Phiên Vị do Mệnh môn hoả suy: Đều thuộc chứng hư hàn; nhưng so sánh hai chứng này, loại trên bệnh khá nông mà trách cứ ở Trung dương không mạnh. Loại saù bệnh sâu hơn mà chú trọng vào Mệnh môn hoả suy, cho nên mục Phiên Vị sách Cảnh nhạc toàn thư có viết: “Hư ở Hạ tiêu mà sáng ăn tối mửa hoặc ăn vào thời gian lâu lại lộn trở ra, trách cứ ở phần âm, không bổ Mệnh môn để giúp đỡ cho mẹ của Tỳ thổ thì hoả không thể hóa được, cuối cùng không giúp đỡ được gì”.
Phiên Vị do hàn ẩm đọng ở trong với Phiên Vị do đờm và khí ngăn trở: cả hai đều do đàm ẩm gây bệnh, nhưng loại trên bệnh bắt đầu do dương không hoá thủy mà tân ứ đọng thành ẩm. Loại sau cơ chế bệnh do khí uất không lưu hành mà dịch ngưng lại làm đàm; Hàn ẩm đọng ở trong, quấy rối trung dương, thủy ccíc không chuyển vận, bụng bĩ đầy kém ăn, Vị phiên mà mửa ra cơm gạo tích đọng và đờm dãi; ẩm tà nghẽn ở trong, xung kích nghịch lên cho nên có những kiêm chứng như đầu choáng, hồi hộp và suyễn nghịch, ẩm là tà khí vẩn đục cho nên rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Huyền hoạt. Điều trị tuân theo phép ở Kim quỹ yếu lược: “Bệnh đàm ẩm, nên dùng thuốc ấm mà hòa”, chọn dùng phương Phục linh trạch tả thang gia giảm.
Phiên VỊ do đàm và khí ngăn trở, bệnh do uất giận không thoải mái, khí cơ bị uất trệ, dịch ngưng tụ thành đàm, đàm và khí câu kết, úng tắc trung đạo gây nên bệnh. Yếu điểm biện chứng là mửa ra thủy cốc ứ đọng và đờm dãi, hung cách bĩ đầy, nấc và ợ hơi đại tiện không dễ chịu, mạch Trầm Huyền, rêu lưỡi trắng nhớt hoặc Hoạt. Đàm với Khí ngăn trở, khí uất là bản, cho nên lâm sàng thường thấy xuất hiện các đặc điểm là tình chí được thoải mái thì các chứng giảm nhẹ, trái lại lo nghĩ cáu giận thì bệnh nặng thêm; điều trị dùng phép giải uất hóa đàm, chọn dùng phương Hương sa khoan trung hoàn.
– Chứng Phiên Vị do tửu tích thấp nhiệt với chứng Phiên Vị do ứ huyết lưu trệ: Cả hai đều thuộc thực chứng.
Phiên Vị do tửu tích thấp nhiệt là do uống rượu vô độ, thấp trọc từ trong sinh ra, uất kết hóa nhiệt, lấn át trung tiêu, thấp trọc hun đốt nghịch lên gây nên, có đặc điểm là mửa ra đồ ăn tích chứa qua đêm hôi chua; thấp nhiệt nung nấu ở trong, Vị mất hòa giáng cho nên có kiêm chứng trong Tâm cồn cào mà nóng, miệng khô khát tiểu tiện vàng đỏ, ngực bụng bĩ đầy, đầu nặng thân thể khốn đốn, lưỡi đỏ rêu vàng nhớt, mạch Huyền Sác là những đặc trưng trọng yếu do thấp nhiệt gây bệnh, phép chữa phải thanh nhiệt lợi thấp giải tửu hòa Vị, dùng Cát hoa giải tình thang gia giảm.
Cái gốc của Phiên Vị do ứ huyết có những đặc điểm ngực bụng bị ứ nghẽn, nghẽn tắc cơ năng hòa giáng, ăn vào không tiêu hóa, Phiên Vị mửa ra, nặng hơn thì thổ huyết, tiện huyết, ứ huyết lưu trệ cho nên có đặc điểm ngực bụng nhói đau cự án. gặp ấm thì dịu, gặp lạnh bệnh tăng. Âm huyết không dồi dào, tân dịch không dâng lên cho nên họng khô miệng ráo mà khát hoặc chỉ muốn ngậm nước mà không muốn nuốt. Huyết ứ ruột khô, truyền đạo không lợi cho nên đại tiện khô ráo sáp trệ; chất lưỡi tía tối hoặc có nốt ứ huyết, mạch Huyền sắc là đặc trưng trong yếu của chứng ứ huyết. Điều trị theo phép hoạt huyết hóa ứ, hành khí giáng nghịch, thường chọn dùng Đào hạch Thừa khí thang làm hoàn với Phỉ chấp cho uống.
– Chứng Phiên Vị do âm hư huyết táo với chứng Phiên Vị do khí âm đều ĩuí: cả hai đều thuộc chứng hư nhiệt, là chứng Phiên Vị rất nặng. Phiên Vị do âm hư huyết táo, vị trí bệnh ở Hạ tiêu Can Thận, phần nhiều do phòng lao hư kiệt hoặc ăn bừa các món có mùi vị gay gắt, hoặc ưu tư uất giận đến nỗi tinh huyết khô cạn, cốc đạo không đều ăn vào không tiêu hóa đến nỗi Phiên Vi, đặc điểm chứng trạng chủ yếu là ăn nuốt sáp trệ, lâu thời gian lại lộn mửa ra, lại có kiêm các chứng trạng âm huyết hư tổn như đầu choáng mắt hoa, miệng khố Tâm phiền, hồi hộp ít ngủ, thể trạng gày còm, da dẻ khô khan, đại tiện táo kết… âm huyết khuy thì nhiệt từ trong sinh ra cho nên lưỡi đỏ tía ít rêu, mạch Tế Sác. Biện chứng điều trị trong lâm sàng cần phải nắm đặc điểm bệnh chứng nguyên nhân, cơ chế bệnh gây nên âm huyết khô cạn, khô rít cơ thịt, mà điều trị ở chỗ tươi nhuận hay khô khan, thường dùng bài Thông u thang.
– Phiên Vị do khí âm đều hư: Phần nhiều do sau khi bị nhiệt bệnh hoặc mửa kéo dài không khỏi, hoặc uống nhầm các loại thuốc ấm nóng táo gắt làm hại Phế VỊ, hao tổn khí âm gây nên. Vị dịch bất túc không có nước trong trong nồi, khó mà ngấu,nhừ đồ ăn, cho nên ăn vào lại lộn ra và kém ăn. Khí âm đều hư, khí không hóa dịch, cho nên kiêm các chứng môi khô miệng ráo, đại tiện táo kết, đoản hơi tự ra mồ hôi, hồi hộp ít ngủ, lưỡi đỏ ít rêu hoặc rêu lưỡi tróc mảng, mạch Hư Tế mà Sác điều trị theo phép ích khí dưỡng âm, giáng nghịch chống nôn, dùng phương Đại Bán hạ thang.
– Chứng Phiên Vị do trùng tích: Trùng ở trong thân thể, do hàn xâm lấn hỏa thúc bách nên không ở yên chốn, dãy dụa khuấy rối lên trên, Vị mất hòa giáng, ăn vào lại nôn ra, thậm chí mửa ra giun, Tâm phiền cồn cào lúc phát lúc ngưng thậm chí sinh chứng Quyết vì giun làm đau, mục Phiên Vị sách Trương thị y thông viết: Phiên Vị mà trong ngực cồn cào không yên, lúc phát lúc ngưng, người bệnh ảo não mà trên mặt có ban trắng, điều trị theo bệnh Trùng tích”, thường chọn dùng Liên mai an hồi thang hoặc Ô mai hoàn.
Ba chứng Phiên Vị, Ẩu thổ, Ế cách đều có chứng trạng mửa ra thực vật, cần chẩn đoán phân biệt.
Phiên Vị phần nhiều thuộc dương hư nhiễm lạnh, ăn uống không biến hóa, đặc điểm chứng trạng chủ yếu là ăn còn vào được mà thời gian lâu lại lộn mửa ra, sáng ăn tối mửa hoặc tối ăn sáng mửa. Ê cách phần nhiều thuộc loại kết khí không thư thái, âm hư huyết táo đặc điểm chứng trạng ở chỗ nuốt khó khăn, đồ ăn khó xuống, ăn vào mửa theo ngay hoặc sau khi ăn vào từ từ mửa ra. Điều trị Phiên Vị có thể bổ có thân nhiệt, còn dễ chữa, chứng Ê cách điều trị khó hơn. Nôn mửa thì bệnh ở thượng quản trách cứ vào Vị không thu nhận. Phiên Vị bệnh ở Hạ quản, trách cứ vào Tỳ không nghiền tan biến hóa. Chứng Âu thổ, phần nhiều là thực chứng, phát bệnh gấp và dữ dội, ăn vào thì mửa. Chứng Phiên Vị chủ yếu là hư hàn, bệnh phần nhiều dằng dai.
Trích dẫn y văn
Mạch thốn khẩn xích sắc, người bệnh ngực đầy không ăn được mà mửa, vật mửa ra ở phía dưới cho nên ăn không được, nếu như bệnh không dứt đó là Phiên Vị cho nên xích mới hay sắc (Bị cấp Thiên kim yếu phương – Phiên Vị).
Ản uống không điều độ, thức lạnh hại Tỳ, Vị tuy thu nạp mà Tỳ không chịu chuyển vận cho nên mửa… Nếu tổn thương nặng lại thêm tổn hại do lục dục thất tình, thì chất ẩm tích chứa ở Trung tiêu khiến người ta sáng ăn tối mửa gọi là Phiên VỊ. Đó là Tỳ khí quá hư không khả năng kiện vận (Biển Thước Tâm thư – Ẩu thổ Phiên Vị).
Chứng Phiên Vị gốc ở Vị… phần nhiều do Vị khí nghịch từ trước uống rượu quá mức bị tổn hại, hoặc tích chứa phong hàn, hoặc do ưu tư chuốc vạ, hoặc do tức giận ức uất, túc trệ cố kết, tích tụ lãnh đàm quấy rối Tỳ VỊ, Vị yếu không tiêu mòn đồ ăn, nên biến thành chứng này (Kỳ hiệu lương phương – Phiên Vị môn).
GAN TO: gan to ở người bị bệnh tim là do huyết áp tĩnh mạch tăng cao. Máu ứ lại ở gan và làm gan nở ra. Gan có thể to lên rất nhanh trong suy tim phải cấp.
Trong suy tim mạn tính cũng như trong viêm màng ngoài tim co thắt, gan có thể to lên rất từ từ.
Gan ứ máu cấp có thể rất đau lúc bình thường cũng như lúc khám và cần phải chẩn đoán phân biệt với bệnh của túi mật.
Gan ứ máu mạn tính: rắn chắc, đều, không đau tự nhiên và khi khám. Bệnh nhân có cảm giác vướng víu, nặng. Đôi khi đau khi gắng sức hoặc sau bữa ăn.
Gan đập lan ra mọi phía là triệu chứng hiếm gặp, được mô tả trong bệnh nặng về van ba lá. cần phân biệt với các nhát đập của động mạch chủ được truyền ra do gan to chạm trực tiếp vào động mạch chủ bụng.
SỜ THẤY MỘT KHỐI ĐẬP: ở người gày, đôi khi có thể nhìn và sờ thấy động mạch chủ đập ở vùng thượng vị. Khi sờ phình động mạch chủ bụng thấy một khối chắc, tròn, đôi khi không đều và đập ở mọi hướng.
Một khối u bụng tiếp xúc với động mạch chủ cũng có thể truyền cú đập nhưng chỉ theo một hướng. Tại các trung tâm chuyên khoa, chụp siêu âm ổ bụng, chụp cắt lớp hay chụp động mạch cho phép có chẩn đoán chính xác.
LÁCH TO: lách có thể to vừa phải trong viêm màng trong tim nhiễm khuẩn, viêm màng ngoài tim co thắt, suy tim mạn tính.
CỔ TRƯỚNG: thường gặp trong suy tim nặng, suy tim mạn tính cũng như trong viêm màng ngoài tim co thắt.
Sốt ban là một bệnh nhiễm khuẩn cấp tính của người, có kèm theo phát ban, do rận truyền.
Sốt ban lưu hành đã được biết từ lâu đời. Các cuộc chiến tranh, nạn đói đều có kèm theo những dịch sốt ban. Fracastoro ở thế kỷ XVI, đã mô tả bệnh này lần đầu tiên.
Các thí nghiệm và công trình nghiên cứu của Ricketts và Powazek trong năm 1910-1915 đã chứng tỏ rằng tác nhân gây bệnh sốt ban là một vi thể rất nhỏ, ký sinh trong tế bào. Đó là Rickettsia prowazeki thuộc nhóm Rickettsia. Rickettsia là một nhóm vi sinh vật trung gian giữa vi khuẩn và virut. Rickettsia giống vi khuẩn vì còn có thể thấy được ở kính hiển vi thường (trực khuẩn lp), giống virut vì chỉ ở thể nuôi cấy trên tế bào sống.
R.prowazeki có thể gây bệnh thực nghiệm cho chuột lang (bệnh điển hình, bệnh nhẹ hoặc nhiễm khuẩn không triệu chứng). Trong huyết thanh có kháng thế có thể ngưng kết cả Proteus OX-19.
R.prowazeki sống lâu ở ngoài cơ thể người, nhưng bị tiêu diệt trong vòng 10 phút bởi ánh nắng, nhiệt độ 35° và các chất tẩy uế ở đậm độ quy định. Tuy nhiên chúng có thể tồn tại từ vài tuần đến vài tháng trong phân khô của chấy rận.
Bệnh sinh: Rickettsia prowazeki vào cơ thể người qua da, và đôi khi qua niêm mạc. Trong khi hút máu, rận bài xuất ra phân chứa rất nhiều Rickettsia. Khi gãi, chỗ bị cắn bị nhiễm khuẩn. Thậm chí, phân rận đã khô trên quần áo, sau 2-3 tháng vẫn làm lây bệnh. Người có thể lây bệnh sốt ban qua niêm mạc mũi họng và giác mạc mắt trong các phòng thí nghiệm.
Khi vào máu Rickettsia sinh sản ở thành mao mạch não và các nội tạng. Sau một thời gian ủ bệnh là 11-14 ngày, bệnh tiến triển bằng sốt ban. Thời kỳ sốt kéo dài 7-14 ngày ; sau đó là thời kỳ hồi phục. Khi hết sốt, tác nhân gây bệnh bị loại ra khỏi máu. Người ta đã thử tiêm Rickettsia prowazeki trong máu những người trước kia đã thực sự bị sốt ban, nhưng tìm tòi này đều không có kết quả.
Chẩn đoán:
Người ta chẩn đoán sốt ban bằng các triệu chứng lâm sàng (sốt đột ngột, li bì, ban không mọc ở mặt, cổ và gan bàn chân, bàn tay) và chủ yếu bằng xét nghiệm.
Thường làm phản ứng huyết thanh ngưng kết với Rickettsia sẽ cho kết quả chính xác nhất,, kết quả kém hơn nếu làm phản ứng ngưng kết với Proteus OX-19 (có cấu trúc kháng nguyên giống Rickettsia). Phản ứng ngưng kết chỉ dương tính kể từ ngày thứ bảy.
Cho nên có thể lấy máu trong tuần lễ đầu để gây bệnh thực nghiệm cho chuột lang.
QUÁ TRÌNH DỊCH
Nguồn truyền bệnh:
Nguồn truyền nhiễm duy nhất là người bệnh. Người mắc bệnh thể điển hình có thề là nguồn truyền nhiễm đôi với những người xung quanh trong hai ngày cuối của thời kỳ ủ bệnh, trong suốt thời kỳ sốt (7-14 ngày) và trong hai ngày sau khi hết sốt.
Người mắc bệnh nhẹ chỉ truyền nhiễm trong 2-3 ngày
Vai trò dịch tễ học của người lành mang vi khuẩn (nhiễm khuẩn không triệu chứng) không có những số liệu thực tế để làm cơ sở.
– Gần đây, người ta thấy nhiều trường hợp bệnh sốt cũ tái phát đôi khi cách một khoảng thời gian nhiều năm. Qua điều tra dịch tễ, vẫn không xác định được nguồn truyền nhiễm và không thấy được sự có mặt của chấy rận. Jinsser cho rằng một số người trước đã mắc sốt ban vẫn còn chứa Rickettsia trong cơ thể trong vài năm. Dưới ảnh hưởng của những điều kiện khó khăn (như đói quá, mệt nhọc, bức xạ ánh sáng mặt trời mạnh) làm giảm sức đề kháng của cơ thể, nhiễm khuẩn ngấm ngầm có thể lại gây bệnh. Những trường hợp sốt ban tái phát (gọi là bệnh Brill) thường diễn biến nhẹ hơn, nhưng về mặt lâm sàng giống bệnh sốt ban thông thường. Price đã phân lập được Rickettsia từ hạch bạch huyết của những người mắc bệnh Brill, nghĩa là những người đã bị bệnh sốt ban trước đây. Điều này chứng minh là có tình trạng mang khuẩn lâu dài và có khả năng tái phát.
Nhưng trong suốt 10 năm sau, cả Price và bất cứ ai khác đều không thể tách được Rickettsia một lần thứ hai.
Đường truyền nhiễm:
Môi giới truyền bệnh sốt ban là chấy rận. Trong 3 loại chấy rận ký sinh trên người ; rận (Pédiculus vestimentis) là môi giới chính giữ vai trò chủ yếu trong việc truyền bệnh, chấy (P.capitis) dóng vai trò kém hơn tuy có thể truyền bệnh, còn rận lông bẹn (Phthirius pubis) không phải là môi giới truyền bệnh.
Rận bị nhiễm khuẩn khi hút máu người bệnh Rickettsia vào ruột, sinh sản ở các tế bào của ruột. Rận chỉ có khả năng lây truyền bệnh một tuần (5-6 ngày) sau khi bị nhiễm khuẩn. Đôi khi, thời hạn này có thể kéo dài đến 10 ngày. Mức độ rận bị lây bệnh tuỳ thuộc vào thời gian của bệnh và bệnh nặng hay nhẹ. Trong số rận hút máu người bệnh thì tỷ lệ rận bị lây là:
42% ở tuần đầu tiên của bệnh
34% ở tuần thứ hai
26% ở tuần thứ ba
Nếu bệnh nặng thì chỉ sau một lần hút máu ở tuần đầu tiên đã có 60-80% rận bị lây bệnh. Rận hút máu 2-3 lần một ngày, có thể nhịn ăn 1-2 ngày ở 36° và 11 ngày 0 nhiệt độ trong phòng.
Cùng với máu của người bệnh, Rickettsia vào trong ruột của rận, xâm nhập vào các tế bào biểu mô của thành ruột, ở đó chúng sinh sản, tích luỹ đến mức phá vỡ những mô ấy và tràn vào ruột. Kết quả là trong phân rận có một lượng lớn Rickettsia, ở những bộ phận khác của thân rận, cả trong tuyến nước bọt và bộ máy hút máu đều không thấy có Rickettsia. Điều này có nghĩa là người không thể bị lây bệnh sốt ban khi bị rận cắn ; cơ chế lây bệnh rõ ràng là phải khác.
Khi rận bắt đầu hút máu, thì ruột nó dần dần đầy máu. Khi đó rận bài xuất ra phân chứa nhiều Rickettsia. Khi gãi chỗ bị cắn, người đưa vật dụng bị nhiễm khuẩn vào chỗ sây sát ở da. Phân rận đã khô trên quần áo sau 2-3 tháng vẫn làm lây bệnh.
Chấy rận chỉ truyền bệnh một tuần sau khi bị nhiễm khuẩn và có khả năng truyền bệnh suốt đời. Rận đáng lẽ sống được 6-8 tuần, nhưng sau khi bị nhiễm khuẩn chỉ sống được 3-4 tuần rồi chết vì bị thủng ruột. Rận không truyền Rickettsia cho thế hệ sau
Ngoài vết sây sát ở da, người còn có thể bị nhiễm khuẩn qua niêm mạc mắt nếu dụi tay bẩn vào mắt và qua đường hô hấp khi hít phải bụi có Rickettsia. Những trường hợp nhiễm khuẩn như thế có thể xảy ra ở các trạm tẩy uế, các phòng thí nghiệm (khi bơm Rickettsia vào mũi chuột bạch để chế vacxin). Bọn đế quốc hiếu chiến có thể sử dụng phương thức truyền nhiễm này khi chúng tấn công bằng vũ khí vi khuẩn.
Tính cảm thụ và tính miễn dịch:
Tất cả mọi người đều cảm thụ bệnh sốt ban lưu hành. Trước đây, người ta cho rằng những người đã bị nhiễm khuẩn có miễn dịch lâu bền. Quan niệm này hiện nay đang được nghiên cứu lại, vì người ta thấy có những trường hợp sốt ban tái phát. Đó là những người khỏi bệnh mà vẫn còn mang tác nhân gây bệnh trong cơ thể, trong diều kiện không thuận lợi bệnh lại có thể tái phát.
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ
Sốt ban lưu hành được biết từ thời thượng cổ. Chiến tranh, mất mùa và các biến cố xã hội khác, cộng với chấy rận thường gây ra những vụ dịch sốt ban. Dưới chế độ tư bản, sốt ban hoành hành chủ yếu ở tầng lớp nhân dân nghèo sống chen chúc và thiếu điều kiện vệ sinh.
Trong lịch sử chiến tranh, đã có nhiều vụ dịch lớn làm chết hàng triệu người. Trong 3 năm bị phát xít Đức tạm chiếm ở nước Ucraina mức độ mắc bệnh sốt ban tăng 26 lần, ở Beloruxia tăng 44 lần. nguyên nhân là bọn chiếm đóng cướp bóc nhân dân, bắt hàng loạt người di chuyển hết làng này sang làng khác, nạn đói. ở một sô làng trong thời gian tạm chiếm có tới 73% dân chúng bị sốt ban. Đã có những trường hợp những người chạy khỏi trại tù binh Đức về hậu phương đã mang bệnh sốt ban đến nhiều làng mạc.
Tính theo mùa là đặc trưng của bệnh sốt ban. Những vụ dịch thường xảy ra trong mùa đông là mùa có nhiều rận. sống chật chội, không sử dụng được sông hồ để tắm trong mùa rét, đó là những nguyên nhân làm tăng chấy rận và làm phát triển bệnh sốt ban.
Tất cả mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh, trẻ em mắc bệnh nhẹ hơn người lớn. Trường học cũng tham gia vào việc làm hình thành những đợt dịch sốt ban, có tính chất bùng nổ đặc biệt. Những trường hợp sốt ban đầu tiên là ở trong gia đình học sinh, những học sinh đó mang chấy rận nhiễm khuẩn đến trường, ở trường sự tiếp xúc trong lớp học cũng như ở trong phòng treo quần áo sẽ làm phát sinh ra bệnh ở từng nhóm học sinh. Các học sinh đó lại mang bệnh về gia đình, ỏ nông thôn, những đợt dịch lớn thường phát sinh trong những điều kiện như vậy.
Ớ một số ngành nghề, mức độ mắc bệnh cao hơn. Công nhân ở các nhà ga, phòng tắm, hiệu cắt tóc mắc nhiều hơn các ngành khác 2,5 đến 6,5 lần. Hiện nay, những vụ dịch sốt ban đã bị dập tắt và bệnh chỉ có tính chất tản phát. Trong thời gian đó, Rickettsia chỉ gây nhiễm khuẩn không có triệu chứng và những thể bệnh nhẹ.
CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ CHỐNG BỆNH
Các biện pháp chống bệnh:
Khi có một trường hợp sốt ban cũng phải khai báo ngay cho trạm vệ sinh phòng dịch
Người bệnh là nguồn truyền nhiễm duy nhất, cho nên phải cách ly triệt để ở bệnh viện lây. Chấy rận đã bị lây từ người ốm chỉ có khả năng truyền bệnh sau 5 ngày kể từ khi chúng bị lây, cho nên phải đưa người bệnh vào bệnh viện trước ngày thứ năm, kể từ lúc bắt đầu bị bệnh, ở bệnh viện, người bệnh phải cắt tóc, tắm xà phòng và thay quần áo trước khi vào buồng bệnh cần diệt chấy rận và tẩy uế quần áo người bệnh. Nên hấp hoặc sấy quần áo để triệt rận và Rickettsia cùng một lúc.
Những người tiếp xúc phải được diệt chấy rận ngay, phải cắt cụt móng tay và tránh gãi. cần theo dõi trong 44 ngày hoặc 22 ngày tuỳ theo đã có diệt rận hay không.
Mỗi khu vực tập trung dân được chia ra từng khu vực nhỏ (hay 10 hộ ở nông thôn) có một cán bộ vệ sinh phụ trách, nhiệm vụ là hàng ngày đến theo dõi sức khoẻ mọi người, theo dõi việc thực hiện các biện pháp phòng dịch và đo nhiệt độ. Nhiệt độ tăng được coi là triệu chứng báo hiệu và cần tạm thời cho vào bệnh viện những người bị sốt quá 3-5 ngày. Số lượng người bị lây trong khu vực phụ thuộc vào thời hạn cách ly người bệnh.
Những người được cách
Những người bị lây
Khu vực ở ổ dịch
ly trong 3 ngày đầu của
trong tổng số những
bệnh (%)
người tiếp xúc (%)
Khu vực 1
48,0
4
Khu vực 2
20 0
25,0
Số người bị lây trong khu vực 2, nhiều gấp 6 lần so với khu vực 1 nói lên hiệu quả của việc đưa người bệnh vào bệnh viện kịp thời.
Quản lý sốt ban:
Việc nâng cao mức sống của nhân dân, việc phát triển nhà tắm và nhà giặt công cộng là những phương tiện cơ bản để quản lý sốt ban.
Biện pháp phòng bệnh đặc hiệu:
Chỉ tiêm vacxin sốt ban trong tình trạng dịch đặc biệt nguy hiểm và cho những người tiếp xúc với nguồn truyền nhiễm (như nhân viên nhà tắm, nhà giặt, trạm tẩy uế, phòng thí nghiệm)
Người ta dùng 2 loại vacxin: vacxin sống chế với R. mooseri và vacxin chết chế với Rickettsia Prowazeki
Vacxin chết thường dùng là vacxin Durand-Giroud chế từ Rickettsia Prowazeki mọc trên phôi chuột bạch và giết bằng focmol ; và vacxin Cox chế từ Rickettsia Prowazeki mọc trên phôi gà và giết bằng Tiêm dưới da 2 lần, mỗi lần lml cách nhau 2 tuần.
Vacxin sống chế với Rickettsia Thông dụng nhất là vacxin Blanc chế bằng phân khô bọ chét bị nhiễm khuẩn và pha trong nước muối có mật bò trước khi tiêm (1 lần) và vacxin Laigret chế bằng não khô chuột bạch bị nhiễm khuẩn trộn với lòng đỏ trứng (tiêm dưới da 2 lần cách nhau một tuần hoặc chủng như chủng đậu).
Vacxin sống gây miễn dịch sớm và lâu dài (1-2 năm). Vacxin này có thể gây phản ứng ở những người chưa bao giờ bị nhiễm khuẩn cho nên chỉ dùng ở những nơi có sốt ban tiềm tàng. Ngoài ra, đôi khi có thể gây sốt ban địa phương (10%) và chỉ gây miễn dịch ở 60-70% người được tiêm.
Vacxin chết gây miễn dịch chậm và tương đối ngắn (6-12 tháng) nhưng gây miễn dịch cho 99-100% người được tiêm và không gây phản ứng toàn thân, cho nên có thể dùng ở khắp mọi nơi.
BIỆN PHÁP KIỂM DỊCH QUỐC TẾ
Sốt ban là một bệnh đại lưu hành, đòi hỏi những biện pháp xử lý trên phạm vi quốc tế. Các biện pháp đó bao gồm thông báo cấp tốc và áp dụng những luật lệ đặc biệt đối với những tầu biển từ những nơi có bệnh đến.
Thời gian ủ bệnh được quy định là 12 ngày. Không phân loại các tầu thành tầu bị nhiễm khuẩn, tầu khả nghi.
Các biện pháp phòng dịch gồm cách ly người bệnh ở bệnh viện, tẩy uế và diệt rận ở quần áo.
Diệt rận và theo dõi sức khoẻ những người tiếp xúc ở trạm vệ sinh phòng dịch nơi đến 12 ngày, kể từ khi diệt chấy rận. Không áp dụng những biện pháp trên đối với những người đã được tiêm vacxin phòng sốt ban chưa quá một năm.
Cefazolin Sodium vô khuẩn là kháng sinh nhóm cephalosporin bán tổng hợp dùng đường tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch. Tên hóa học 5-Thia-1-azbicyclo[4,2,0]oct-2-ene-2-carboxylic acid, 3- [[(5-methyl-1,3,4-thiadiazol-2yl)thio]methyl]-8-oxo-7-[[1H-tetrazol-1-yl)acetyl]amino]-muối monosodium (6R-trans). Hàm lượng Natri là 48,3 mg trong 1 g cefazolin sodium. Công thức phân tử C14H14N8O4S3. Trọng lượng phân tử là 476,5. pH của dung dịch đã pha từ 4,5-6.
Các thử nghiệm in vitro cho thấy cephalosporin có tác động diệt khuẩn do ức chế sự tổng hợp thành tế bào. Cefazolin có hiệu quả trên các vi khuẩn sau cả trên in vitro và trên nhiễm khuẩn lâm sàng:
Staphylococcus aureus (kể cả các chủng tiết men penicillinase), Staphylococcus epidermidis,
Staphylococci kháng methicillin (Meti-R) cũng kháng với cefazolin, Streptococcus beta tán huyết nhóm A và các chủng streptococci khác (đa số các chủng Enterococci đều đề kháng),
Hầu hết các chủng Proteus Indole dương tính (Proteus vulgaris), Enterobacter cloacae, Morganella morganii, và Providencia rettgeri đều đề kháng. Serratia, Pseudomonas, và Acinetobacter calcoaceticus (trước kia là Mima và Herellea sp) hầu như kháng cefazolin. Kháng sinh đồ:
Các phương pháp định lượng đòi hỏi cần phải đo đường kính vòng vô khuẩn, phương pháp này cho phép ước lượng chính xác nhất tính nhạy cảm của vi khuẩn với các kháng sinh. Phương pháp dùng đĩa kháng sinh đã được đề nghị để thử tính nhạy cảm của vi khuẩn đối với cefazolin. Với phương pháp này, báo cáo từ phòng thí nghiệm cho kết quả “Nhạy cảm” có ý nghĩa các vi khuẩn gây bệnh sẽ đáp ứng với sự trị liệu. “Đề kháng” có nghĩa vi khuẩn không đáp ứng với sự trị liệu. “Nhạy cảm trung gian” có ý nghĩa các vi khuẩn gây bệnh sẽ nhạy cảm nếu dùng kháng sinh liều cao hoặc nếu nhiễm khuẩn xảy ra ở các mô và dịch (như nước tiểu), những nơi mà nồng độ kháng sinh đạt được ở mức cao.
Đối với các vi khuẩn gram dương phân lập được, khi được thử với đĩa kháng sinh nhóm cephalosporin (30 mg cephalothin) hoặc với đĩa cefazolin (30 mg cefazolin), kết quả vòng vô khuẩn đường kính 18 mm cho biết vi khuẩn nhạy cảm với cefazolin.
Đối với vi khuẩn gram âm, nên thử với đĩa cefazolin (dùng các tiêu chuẩn như đã nêu trên) vì qua thử nghiệm in vitro cho thấy một số chủng Enterobacteriaceae nhạy cảm với cefazolin nhưng lại cho kết quả đề kháng khi thử với đĩa kháng sinh cephalothin. Khi dùng đĩa cephalothin các vi khuẩn gram âm có đường kính vòng vô khuẩn >= 18 mm có thể coi là nhạy cảm với cefazolin. Tuy nhiên, các vi khuẩn cho đường kính vòng vô khuẩn nhỏ hơn 18 mm ở đĩa cephalothin không nhất thiết là đề kháng hoặc nhạy cảm trung gian đối với cefazolin.
Không nên dùng đĩa cefazolin để thử tính nhạy cảm của các cephalosporin khác. Các phương pháp pha loãng:
Mẫu vi khuẩn phân lập được xem như nhạy cảm nếu nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) cefazolin nhỏ hơn hoặc bằng 16 mg/mL. Các vi khuẩn xem như đề kháng nếu MIC lớn hơn hoặc bằng 64 mg/mL.
DƯỢC ĐỘNG HỌC
Dược lý học trên người: Bảng 1 biểu diễn thời gian và nồng độ cefazolin tương ứng đạt được trong máu khi tiêm bắp.
Bảng 1. Nồng độ trong huyết thanh sau khi tiêm bắp
Nồng độ
Nồng độ thuốc trong huyết thanh (mg/mL)
1/2 giờ
1 giờ
2 giờ
4 giờ
6 giờ
8 giờ
250 mg
15,5
17
13
5,1
2,5
3
500 mg
36,2
36,8
37,9
15,5
6,3
7,1
1 g*
60,1
63,8
54,3
29,3
13,2
* Trị số trung bình của 2 nghiên cứu
Các nghiên cứu về dược lý học lâm sàng cho thấy nồng độ đỉnh trung bình của cefazolin trong huyết thanh ở bệnh nhân nhập viện do nhiễm khuẩn và ở người tình nguyện bình thường tương đương nhau.
Trong một nghiên cứu (ở người bình thường), tiêm truyền nhỏ giọt tĩnh mạch liên tục liều 3,5 mg/kg trong 1 giờ (khoảng 250 mg) và 1,5 mg/kg trong 2 giờ tiếp theo (khoảng 100mg), nồng độ cefazolin trong huyết thanh ổn định ở giờ thứ 3 khoảng 28 mg/ml. Bảng 2 biểu diễn nồng độ trung bình trong huyết thanh sau khi tiêm tĩnh mạch một liều duy nhất 1 g; thời gian bán hủy trung bình 1,4 giờ.
Bảng 2. Nồng độ trong huyết thanh sau liều tiêm tĩnh mạch 1 g
Nồng độ thuốc trong huyết thanh (mg/mL)
5 phút
15 phút
30 phút
1 giờ
2 giờ
4 giờ
188,4
135,8
106,8
73,7
45,6
16,5
Trong các nghiên cứu có kiểm soát ở người lớn bình thường sử dụng liều 1 g, 4 lần 1 ngày, trong 10 ngày, không thấy có những sự thay đổi rõ rệt về mặt lâm sàng do cefazolin gây ra thông qua việc giám sát các trị số CBC, SGOT, SGPT, bilirubin, phosphatase kiềm, BUN, creatinine và phân tích nước tiểu.
Cefazolin được thải trừ ở dạng không đổi trong nước tiểu, phần lớn qua sự lọc cầu thận và một phần nhỏ do sự bài tiết ở ống thận. Tiêm bắp liều 500 mg, khoảng 56% đến 89% liều sử dụng được phát hiện trong nước tiểu trong 6 giờ và từ 80% đến gần 100% trong 24 giờ. Với liều tiêm bắp 500 mg và 1 g, cefazolin đạt được nồng độ đỉnh trong nước tiểu cao hơn 1.000 mg/mL và 4.000 mg/mL.
Đối với bệnh nhân có thẩm phân phúc mạc (2 L/giờ), sau 24 giờ nồng độ trung bình trong huyết thanh khoảng 10 mg/mL và 30 mg/mL tương ứng với dung dịch thẩm phân chứa 50 mg/mL và 150 mg/mL. Nồng độ đỉnh trung bình trong huyết thanh là 29 mg/mL (từ 13 đến 44 mg/mL) với 50 mg/mL (3 bệnh nhân) và 72 mg/mL (từ 26 đến 142 mg/mL) với 150 mg/mL (6 bệnh nhân). Cefazolin được dung nạp tốt khi sử dụng bằng đường tiêm qua màng bụng.
Khi sử dụng cefazolin cho những bệnh nhân không bị tắc nghẽn đường mật, nồng độ Cefazolin ở mô túi mật và mật cao hơn hẳn nồng độ trong huyết thanh. Tuy nhiên khi ống mật bị tắc nghẽn, nồng độ kháng sinh trong mật thấp hơn đáng kể so với nồng độ trong huyết thanh.
Cefazolin thấm qua màng hoạt dịch bị viêm và nồng độ kháng sinh đạt được ở khớp có thể tương đương với nồng độ trong huyết thanh.
Cefazolin dễ dàng qua hàng rào nhau thai để đi vào dây rốn và dịch ối. Cefazolin có nồng độ rất thấp trong sữa mẹ.
CHỈ ĐỊNH
Cefazolin được chỉ định trong điều trị các nhiễm khuẩn do các vi khuẩn nhạy cảm sau:
Nhiễm khuẩn đường hô hấp do pneumoniae, Klebsiella sp, H. influenzae, S. aureus (kể cả các chủng tiết men penicillinase), và các streptococci beta tán huyết nhóm A.
Penicillin G benzathine dạng tiêm được xem là thuốc được chọn lựa để điều trị và phòng ngừa nhiễm khuẩn do Streptococcus bao gồm phòng ngừa sốt thấp khớp.
Cefazolin có hiệu quả diệt các streptococci ở mũi hầu, tuy nhiên cho đến nay chưa có các dữ kiện cho biết tính hiệu quả của cefazolin trong ngăn ngừa sốt thấp khớp.
Nhiễm khuẩn tiết niệu sinh dục do coli, P. mirabilis, Klebsiella sp, và vài chủng Enterobacter và Enterococci.
Nhiễm khuẩn da và cấu trúc da do aureus (kể cả các chủng tiết men penicillinase) và streptococci beta tán huyết nhóm A và các chủng streptoccoci khác.
Nhiễm khuẩn đường mật do E. coli, các chủng streptococci, mirabilis, Klebsiella sp và S. aureus.
Nhiễm khuẩn xương và khớp do aureus.
Nhiễm khuẩn huyết do pneumoniae, S. aureus (cả chủng nhạy cảm với penicillin và kháng penicillin), P. mirabilis, E. coli và Klebsiella sp.
Viêm nội tâm mạc do aureus (cả chủng nhạy với penicillin và kháng penicillin), và streptocci beta tán huyết nhóm A.
Nên có các môi trường nuôi cấy thích hợp và thực hiện các thử nghiệm về tính nhạy cảm để xác định tính nhạy cảm của vi khuẩn gây bệnh đối với cefazolin.
Dự phòng trong phẫu thuật: Sử dụng cefazolin trước, trong và sau phẫu thuật có thể làm giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn hậu phẫu ở những bệnh nhân phải trải qua những phẫu thuật được xếp loại phẫu thuật sạch hoặc sạch nhiễm có nguy cơ nhiễm cao (thí dụ mổ cắt tử cung qua đường âm đạo hoặc cắt túi mật ở các bệnh nhân có nguy cơ cao như trên 70 tuổi bị viêm túi mật cấp, vàng da do tắc mật hoặc sỏi ở ống mật chủ).
Cefazolin có hiệu quả khi dùng trong các phẫu thuật mà nhiễm khuẩn tại nơi mổ có thể gây ra các nguy cơ trầm trọng (thí dụ mổ tim hở và lắp bộ phận giả để tạo hình khớp).
Sử dụng cefazolin trong chỉ định phòng ngừa nên ngưng trong vòng 24 giờ sau phẫu thuật. Đối với phẫu thuật đặc biệt có nguy cơ nhiễm khuẩn (như mổ tim hở và tạo hình khớp giả), nên tiếp tục sử dụng cefazolin thêm trong 3 đến 5 ngày sau khi phẫu thuật hoàn tất. Trường hợp xảy ra nhiễm khuẩn, lấy bệnh phẩm nuôi cấy để xác định vi khuẩn gây bệnh và trị liệu bằng kháng sinh thích hợp (xem Liều lượng và Cách dùng).
CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Cefazolin chống chỉ định đối với bệnh nhân có tiền sử dị ứng với kháng sinh nhóm cephalosporin.
CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG
Nếu có phản dị ứng với cefazolin, nên ngưng thuốc và bệnh nhân cần được xử trí bằng các thuốc thích hợp (như epinephrine hoặc các amines co mạch, kháng histamine, hoặc corticosteroid).
Sử dụng cefazolin dài ngày có thể làm phát triển quá mức các vi khuẩn không nhạy cảm. Cần theo dõi trên lâm sàng cẩn thận. Nếu bội nhiễm trong khi điều trị, cần có những biện pháp thích hợp.
Khi dùng cefazolin cho bệnh nhân suy chức năng thận có lượng nước tiểu ít, cần giảm liều (xem Liều lượng và Cách dùng).
Kefzol không chỉ định dùng qua đường tiêm vào dịch não tủy. Thật vậy, có những báo cáo về biểu hiện độc tính nặng trên thần kinh trung ương gồm co giật khi tiêm cefazolin bằng đường này.
Tính gây ung thư, Đột biến gen, Ảnh hưởng khả năng sinh sản: Chưa thực hiện các nghiên cứu về tính đột biến gen và các nghiên cứu lâu dài ở động vật để xác định khả năng gây ung thư của cefazolin.
THẬN TRỌNG LÚC DÙNG
Trước khi trị liệu bằng cefazolin, cần hỏi xem trước đây bệnh nhân đã có phản ứng quá mẫn đối với cephalosporin và penicillin chưa. Cẩn thận khi dùng thuốc cho bệnh nhân nhạy cảm penicillin. Các phản ứng quá mẫn cấp tính, nghiêm trọng có thể cần dùng đến epinephrine và các biện pháp cấp cứu khác.
Vài dấu hiệu trên lâm sàng và cận lâm sàng cho thấy có dị ứng chéo một phần giữa penicillin và cephalosporin. Đã có báo cáo bệnh nhân có những phản ứng trầm trọng (gồm choáng phản vệ) đối với cả hai loại thuốc.
Các kháng sinh, bao gồm cefazolin, nên được sử dụng thận trọng đối với bệnh nhân có biểu hiện dị ứng, đặc biệt là dị ứng đối với thuốc.
Viêm kết tràng giả mạc đã được báo cáo xảy ra với hầu hết các kháng sinh phổ rộng (bao gồm các macrolide, penicillin bán tổng hợp và cephalosporin). Vì vậy cần lưu ý đến chẩn đoán này nếu bệnh nhân bị chứng tiêu chảy khi đang sử dụng kháng sinh. Những chứng viêm kết tràng như vậy có thể xảy ra từ nhẹ đến nặng nguy hiểm đến tính mạng, cần xử trí bằng các biện pháp thích hợp.
Sử dụng ở trẻ em: Sự an toàn đối với trẻ thiếu tháng và trẻ dưới 1 tháng tuổi chưa được xác định.
LÚC CÓ THAI
Các nghiên cứu về khả năng sinh sản được thực hiện trên chuột với liều 500 mg hoặc 1 g cefazolin/kg, không thấy dấu hiệu tổn thương khả năng sinh sản hoặc có hại cho bào thai do cefazolin. Tuy nhiên chưa có những nghiên cứu đầy đủ và kiểm soát chặt chẽ trên các phụ nữ có thai. Vì các nghiên cứu trên súc vật không phải luôn luôn tiên đoán đáp ứng của người, nên thuốc này chỉ nên dùng cho phụ nữ mang thai khi thật cần thiết.
Tiêm cefazolin trước khi phẫu thuật césar (mổ lấy thai qua đường bụng), nồng độ thuốc trong máu dây rốn đo được khoảng 1/4 đến 1/3 so với nồng độ thuốc trong máu người mẹ. Thuốc hiện hữu không gây phản ứng độc hại cho thai nhi.
LÚC NUÔI CON BÚ
Nồng độ cefazolin rất thấp trong sữa mẹ nhưng cũng nên thận trọng khi sử dụng cefazolin cho các bà mẹ đang cho con bú.
TƯƠNG TÁC THUỐC
Dùng chung cefazolin với probenecid làm giảm sự bài tiết của cephalosporin qua ống thận, kết quả gây tăng và kéo dài nồng độ cephalosporin trong máu hơn.
Tương tác của thuốc với các xét nghiệm tại phòng thí nghiệm: Có thể có phản ứng dương tính giả trong xét nghiệm tìm glucose nước tiểu đối với dung dịch thử Benedict, dung dịch Fehling hoặc viên Clinitest, nhưng sẽ không có dương tính giả khi sử dụng các phương pháp dùng enzyme như Clinistix và Tes-Tape (Thử nghiệm Glucose Enzymatic Strip, USP, Lilly).
Các thử nghiệm tìm antiglobulin (Coombs) trực tiếp hoặc gián tiếp, dương tính có thể xảy ra ở trẻ sơ sinh nếu người mẹ đã dùng cefazolin trước khi sanh.
Cần thận trọng khi kê toa các kháng sinh phổ rộng cho các bệnh nhân có tiền sử đau dạ dày, ruột, nhất là viêm kết tràng.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN
Các phản ứng phụ sau đây đã được ghi nhận:
Phản ứng quá mẫn: Sốt do thuốc, nổi mẩn đỏ trên da, ngứa âm hộ, tăng bạch cầu ái toan và choáng phản vệ.
Máu: Giảm bạch cầu trung tính, giảm bạch cầu, tăng tiểu cầu, phản ứng Coombs trực tiếp hoặc gián tiếp dương tính.
Thận: Nồng độ BUN tăng tạm thời nhưng không thấy biểu hiện lâm sàng của suy thận. Viêm thận kẽ và các rối loạn chức năng thận hiếm khi xảy ra. Hầu hết những bệnh nhân có phản ứng này đều ở tình trạng bệnh nặng trầm trọng và đang sử dụng nhiều loại thuốc trong điều trị. Vai trò của cefazolin trong việc phát sinh các bệnh lý trên thận còn chưa được xác định.
Gan: Tăng tạm thời men SGOT, SGPT và phosphatase kiềm rất hiếm xảy ra. Cũng như penicillin, và vài cephalosporin khác, viêm gan tạm thời và vàng da ứ mật hiếm khi được ghi nhận.
Dạ dày, ruột: Những triệu chứng viêm kết tràng giả mạc có thể xảy ra trong hoặc sau khi trị liệu bằng kháng sinh. Buồn nôn và ói mửa hiếm khi xảy ra. Biếng ăn, tiêu chảy và bệnh nấm candida (bệnh tưa miệng) đã được ghi nhận.
Những phản ứng phụ khác: Hiếm khi gây đau tại nơi tiêm bắp. Viêm tĩnh mạch nơi tiêm được ghi nhận. Các phản ứng khác bao gồm ngứa vùng hậu môn, âm hộ, bệnh do nấm Candida và viêm âm đạo.
LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG
Cefazolin dùng tiêm bắp hoặc tĩnh mạch. Tổng liều dùng hàng ngày giống nhau đối với tiêm bắp hoặc tĩnh mạch. Tiêm Kefzol vào khung nhện chưa được chấp thuận. Đã có những báo cáo về Kefzol gây độc tính trên hệ thần kinh trung ương, bao gồm co giật khi cefazolin sử dụng theo cách này.
Tiêmbắp: Pha thuốc theo hướng dẫn ở Bảng 3 với dung dịch tiêm NaCl 0,9%, hoặc các loại
nước vô khuẩn dùng để pha tiêm. Lắc mạnh đến khi hòa tan. Cefazolin nên được tiêm sâu trong bắp thịt ở khối cơ lớn. Đau tại nơi tiêm thỉnh thoảng có thể xảy ra.
Bảng 3. Bảng pha loãng
Quycáchlọ
Dungmôithêm vào
Thể tích phỏng đo|n
Nồngđộ trung bình phỏng đo|n
250 mg
2 mL
2 mL
125 mg/mL
500 mg
2 mL
2,2 mL
225 mg/mL
1 g*
2,5 mL
3 mL
330 mg/mL
* Chỉ nên pha lọ 1g với các loại nước vô khuẩn pha tiêm
Tiêm tĩnh mạch: Cefazolin có thể được tiêm tĩnh mạch hoặc truyền tĩnh mạch liên tục hay ngắt quãng.
Truyền tĩnh mạch ngắt quãng: Cefazolin có thể được đưa vào một chai dịch đang truyền có sẵn hoặc qua một chai riêng biệt. Lọ cefazolin 500 mg hoặc 1 g pha với 50 đến 100 ml một trong những dung dịch pha tiêm sau: NaCl 0,9%, Dextrose 5% hoặc 10%, Dextrose 5% trong Ringer Lactate, Dextrose 5% và NaCl 0,9% (cũng có thể dùng Dextrose 5% và NaCl 0,45% hay 0,2%), Ringer Lactate, Đường chuyển 5% hay 10% trong nước cất pha tiêm, dung dịch Ringer tiêm, Normosol-M trong D5-W, Ionosol B với Dextrose 5% hoặc Plasma -Lyte với Dextrose 5%.
Tiêm tĩnh mạch (Dung dịch được tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch hoặc qua dây truyền dịch): Cefazolin 500 mg hoặc 1 g đã được pha theo hướng dẫn ở Bảng 3, được pha loãng tiếp tục với tối thiểu 10 ml nước cất pha tiêm. Tiêm chậm từ 3 đến 5 phút. Không tiêm nhanh hơn 3 phút.
Liều dùng
Liều thông thường dành cho người lớn ghi trong Bảng 4.
Bảng 4. Liều dùng thông thường cho người lớn
Loại nhiễm khuẩn
Liềulượng
Sốlần tiêm
Viêm phổi do phế cầu
500mg
12
giờ/lần
Nhiễm khuẩn nhẹ do cầu khuẩn gram dương nhạy cảm
250 đến
500 mg
8
giờ/lần
Nhiễm khuẩn đường tiểu cấp tính, không biến chứng
1 g
12
giờ/lần
Nhiễm khuẩn ở mức độ vừa đến nặng
500 mg
đến 1 g
6-8
giờ/lần
Nhiễm khuẩn nặng đe doạ đến tính mạng (viêm nội tâm mạc, nhiễm khuẩn máu)*
1 g đến
1,5 g
6
giờ/lần
* Trong trường hợp rất hiếm, liều sử dụng lên đến 12 g Cefazolin/1 ngày.
Điều chỉnhliều đối với bệnh nhân bị suy giảm chức năng thận: Cefazolin có thể được sử dụng cho bệnh nhân bị suy giảm chức năng thận, nhưng cần điều chỉnh liều lượng. Nếu độ thanh thải creatinine lớn hơn hoặc bằng 55 ml/phút hoặc creatinine huyết thanh nhỏ hơn hoặc bằng 1,5 mg% có thể không cần chỉnh liều. Bệnh nhân có độ thanh thải creatinine 35 – 54 ml/phút hoặc creatinine huyết thanh 1,6 – 3 mg% cũng có thể không cần chỉnh liều, nhưng thời gian giữa 2 liều dùng phải cách nhau ít nhất 8 giờ. Bệnh nhân có mức độ thanh thải creatinine từ 11 tới 34 ml/phút hay creatinine huyết thanh từ 3,1 đến 4,5mg% nên dùng 1/2 liều bình thường với khoảng cách 12 giờ/1 lần. Bệnh nhân có độ thanh thải creatinine nhỏ hơn hay bằng 10 ml/phút hoặc creatinine huyết thanh lớn hay bằng 4,6 mg% nên dùng 1/2 liều bình thường với khoảng cách 18 đến 24 giờ/1 lần. Những khuyến cáo giảm liều này áp dụng sau liều tấn công đầu tiên phù hợp với mức độ trầm trọng của nhiễm khuẩn. Thông tin về thẩm phân phúc mạc, xin xem ở phần dược lý học.
Phòngngừanhiễmkhuẩn sauphẫu thuật: Để phòng ngừa nhiễm khuẩn sau phẫu thuật ở các phẫu thuật sạch hoặc sạch nhiễm có nguy cơ nhiễm cao, liều khuyên dùng là:
Tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp liều 1g, từ 1/2 đến 1 giờ trước khi bắt đầu phẫu thuật.
Đối với phẫu thuật kéo dài (thí dụ 2 giờ hoặc lâu hơn), tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp 0,5 g – 1 g trong khi phẫu thuật (liều thoặc đổi tùy theo thời gian phẫu thuật).
Tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp liều 0,5 – 1g, cách 6 – 8 giờ/1 lần trong 24 giờ sau phẫu thuật. Điều quan trọng là (1) liều trước phẫu thuật cần tiêm (1/2 giờ đến 1 giờ) trước khi khởi đầu phẫu thuật để có được nồng độ kháng sinh đầy đủ trong huyết thanh và mô tại thời điểm bắt đầu rạch da và (2) nếu trong trường hợp nghi có nhiễm, nên tiêm cefazolin với khoảng cách thích hợp ngay trong thời gian phẫu thuật để nồng độ kháng sinh luôn đạt được ở mức cần thiết.
Với loại phẫu thuật mà nếu nhiễm khuẩn xảy ra thì sẽ gây hậu quả vô cùng nghiêm trọng lan rộng (như mổ tim hở và phẫu thuật chỉnh hình khớp), kháng sinh cefazolin dự phòng được dùng liên tục trong 3 đến 5 ngày sau khi phẫu thuật hoàn tất.
Ở trẻ em, đối với các nhiễm khuẩn từ nhẹ đến trung bình liều dùng tổng cộng hàng ngày từ 25 đến 50mg/kg thể trọng (khoảng 10 – 20 mg/lb), chia đều 3 hoặc 4 liều bằng nhau (Bảng 5). Đối với nhiễm khuẩn nặng, liều tổng cộng hàng ngày có thể lên đến 100 mg/kg thể trọng (45 mg/lb).
Bảng5. Hướng dẫn liều dùng trong nhi khoa
Trọnglượng
25mg/kg/ngày.Chia làm 3 liều
250mg/kg/ngày.Chia làm 4 liều
lb
kg
Liều tiêm mỗi lần (mg, 8 giờ/lần)
Thể tích (mL) cần thiết để có độ pha loãng 125 mg/mL
Liều tiêm mỗi lần (mg, 6 giờ/lần)
Thể tích (mL) cần thiết để có độ pha loãng 125 mg/mL
10
4,5
40 mg
0,35 mL
30 mg
0,25 mL
20
9
75 mg
0,60 mL
55 mg
0,45 mL
30
13,6
115 mg
0,90 mL
85 mg
0,70 mL
40
18,1
150 mg
1,20 mL
115 mg
0,90 mL
50
22,7
190 mg
1,50 mL
140 mg
1,10 mL
Trọnglượng
50mg/kg/ngày. Chia làm 3 liều
50mg/kg/ngày. Chia làm 4 liều
lb
kg
Liều tiêm mỗi lần (mg, 8 giờ/lần)
Thể tích (mL) cần thiết để có độ pha loãng 225 mg/mL
Liều tiêm mỗi lần (mg, 6 giờ/lần)
Thể tích (mL) cần thiết để có độ pha loãng 225 mg/mL
10
4,5
75 mg
0,35 mL
55 mg
0,25 mL
20
9
150 mg
0,70 mL
110 mg
0,50 mL
30
13,6
225 mg
1,00 mL
170 mg
0,75 mL
40
18,1
300 mg
1,35 mL
225 mg
1,00 mL
50
22,7
375 mg
1,70 mL
285 mg
1,25 mL
Ghi chú: lb = pao (pound) ~ 450 g
Ở trẻ em suy thận nhẹ đến trung bình (độ thanh thải creatinine từ 70 đến 40 mL/phút), liều hữu hiệu bằng 60% liều bình thường hàng ngày tiêm cách nhau 12 giờ/lần. Trẻ em bị suy thận trung bình (độ thanh thải creatinine từ 40 đến 20 mL/phút), liều hữu hiệu bằng 25% liều bình thường hàng ngày, tiêm cách nhau 12 giờ/1 lần. Trẻ em bị suy thận nặng (độ thanh thải creatinine từ 20 đến 5 mL/phút), liều hữu hiệu bằng 10% liều dùng hàng ngày bình thường, tiêm cách nhau 24 giờ/lần. Những liều khuyến cáo trên nên áp dụng sau khi đã tiêm liều tấn công đầu tiên.
Tính an toàn của thuốc đối với trẻ sinh non và trẻ dưới một tháng tuổi chưa được nghiên cứu nên không khuyến cáo sử dụng cefazolin trên những bệnh nhân này.
Tính ổn định
Trường hợp thuốc đã pha nhưng chưa sử dụng ngay cho bệnh nhân, có thể bảo quản trong những điều kiện sau:
Lọ cefazolin: Cefazolin đã được pha vào ngay lọ đựng bột thuốc trong nước cất pha tiêm, Dextrose tiêm 5%, NaCl tiêm 0,9%, nước vô khuẩn dùng để pha tiêm, ổn định được trong 24 giờ ở nhiệt độ phòng và trong 10 ngày nếu bảo quản trong tủ lạnh, 2oC – 8oC (36oF tới 46oF).
Nếu dung dịch cefazolin pha trong nước cất pha tiêm, Dextrose 5% hoặc NaCl 0,9% và được cất vào tủ đông ngay sau khi pha, dung dịch này sẽ bền vững trong 12 tuần nếu bảo quản ở -20oC. Một khi được làm tan, dung dịch này ổn định trong 24 giờ ở nhiệt độ phòng hoặc trong 10 ngày nếu để trong tủ lạnh 2oC – 8oC (36oF tới 46oF). Khi làm ấm thuốc trở lại, không được để thuốc chỗ nóng sau khi thuốc đã tan hoàn toàn. Một khi đã làm tan, thuốc không nên làm đông trở lại.
Pha loãng tiếp vào chai thứ hai: Các dung dịch cefazolin để tiêm truyền pha trong Dextrose 10%, Dextrose 5% trong Ringer Lactate, Dextrose 5% và NaCl 0,9% (cũng có thể dùng Dextrose 5% và NaCl 0,45% hoặc 0,2%), Ringer Lactate, Đường chuyển 5% hay 10% trong dung dịch nước cất pha tiêm, dung dịch tiêm Ringer, Normosol-M trong D5-W, Ionosol-B với Dextrose 5% hay Plasma-Lyte với Dextrose 5%, nên sử dụng trong 24 giờ sau khi pha loãng nếu bảo quản ở nhiệt độ phòng hoặc trong vòng 96 giờ nếu bảo quản trong tủ lạnh, 2oC – 8oC (36oF tới 46oF) (Không làm đông lạnh cefazolin đã pha loãng bằng các dung môi trên).
Trước khi tiêm, các chế phẩm thuốc tiêm nên được kiểm tra bằng mắt để phát hiện xem có những vấn đề gì bất thường hoặc đổi màu hay không.
QUÁ LIỀU
Các dấu hiệu và triệu chứng: Các dấu hiệu và triệu chứng ngộ độc khi quá liều cefazolin bao gồm đau, sưng và viêm tĩnh mạch nơi tiêm.
Sử dụng các liều lượng lớn không thích hợp cephalosporin tiêm tĩnh mạch có thể gây chóng mặt, chứng dị cảm và nhức đầu. Vài cephalosporin khi dùng quá liều có thể gây co giật, đặc biệt ở những bệnh nhân bị suy thận, có thể do sự tích lũy thuốc.
Những bất thường trong xét nghiệm cận lâm sàng liên quan sử dụng quá liều thuốc bao gồm tăng creatinine, BUN, các men gan và bilirubin, thử nghiệm Coombs dương tính, tăng tiểu cầu, giảm lượng tiểu cầu, tăng bạch cầu ái toan, giảm bạch cầu và thời gian prothrombin kéo dài.
Điều trị: Xử trí quá liều cần cân nhắc đến khả năng quá liều của nhiều loại thuốc, sự tương tác thuốc và dược động học bất thường của bệnh nhân.
Trường hợp bệnh nhân bị co giật, nên ngưng thuốc ngay lập tức. Điều trị chống co giật nếu có chỉ định trên lâm sàng. Bảo vệ đường hô hấp của bệnh nhân, hỗ trợ thông khí và truyền dịch. Theo dõi cẩn thận và duy trì trong phạm vi cho phép các dấu hiệu sinh tồn của bệnh nhân, khí máu, điện giải trong huyết thanh…
Trường hợp quá liều trầm trọng đặc biệt ở bệnh nhân có suy thận, có thể phối hợp lọc máu và truyền máu nếu điều trị bảo tồn thất bại. Tuy nhiên, chưa có những dữ kiện hỗ trợ cho cách điều trị trên
Chăm sóc tòan diện :Hiện nay chăm sóc toàn diện người nhiễm HIV bao gồm các lãnh vực : chăm sóc thể chất, chăm sóc tâm lý, chăm sóc tâm linh, chăm sóc xã hội và phòng bệnh.
Về thể chất
Khám sức khỏe định kỳ cho bệnh nhân và bất kỳ lúc nào có bệnh. Mục đích theo dõi gồm có : phát hiện bệnh cơ hội và điều trị sớm. Xác định tình trạng miễn dịch của bệnh nhân (lý tưởng là đếm số lượng tế bào TCD4+), tình trạng virus (nếu có điều kiện) để khẳng định hiệu quả của thuốc kháng HIV nếu đang dùng. Khi bệnh nhân sắp rơi vào giai đọan AIDS, có thể xử dụng thuốc phòng một số bệnh cơ hội như Bactrim (phòng viêm phổi do P. carinii, Toxoplasma..), các thuốc kháng nấm phòng một số bệnh về nấm..Vấn đề tiêm vắc xanh phòng một số bệnh như nhiễm phế cầu, cúm, H. influenza.. cho bệnh nhân HIV ở nước ta chưa được bàn đến.
Nếu có chỉ định dùng thuốc ARV, cần tư vấn kỹ và thành lập hợp đồng chặt chẽ với bệnh nhân, người giám hộ và tổ chức mạng lưới cấp thuốc cho bệnh nhân. Tránh tình trạng uống thuốc ARV không đều đặn và không đúng giờ, không đủ liều, tự ý ngưng thuốc vì không ích lợi gì cho bệnh nhân mà còn có thể chọn lọc ra các chủng HIV kháng thuốc. Lưu ý đến các tác dụng phụ của các thuốc xử dụng cho bệnh nhân để có thể điều trị kịp thời
Chăm sóc tâm lý
Bệnh nhân phải được tư vấn, tránh khủng hoảng tâm lý vào lúc phát hiện nhiễm HIV. Tránh các phản ứng tiêu cực nguy hiểm cho bản thân (tự tử) hay xã hội (trả thù bằng cách cố ý gây lây nhiễm cho người khác).
Nếu có các biểu hiện trầm cảm nguy hiểm, có thể hội chẩn thêm với chuyên khoa tâm thần để hổ trợ, thậm chí điều trị bệnh nhân bằng thuốc.
Khi tạm ổn định về tâm lý giai đoạn đầu, cần giúp bệnh nhân vượt qua các kỳ thị và phân biệt đối xử co xã hội còn hiểu lầm mang lại, giúp họ vươt qua để có một cụôc sống tự tin và hữu ích hơn.
Chăm sóc tâm linh
Đứng trước bệnh không chữa được và dễ bị kỳ thị, ban đầu và nhất là lúc sắp tử vong, bệnh nhân thường lo lắng, suy nghĩ về những vấn đề triết học (dù tự giác hay không tự giác) như “ Chết là gì? Sau khi chết ta đi về đâu? Có thiên đường, địa ngục không? Có kiếp sau không? Tôi muốn sám hối, cầu nguyện thì làm thế nào ?”…
Chăm sóc tâm linh giúp người bệnh chấp nhận một cách an bình những đau đớn về tinh thần và thể xác họ đang chịu đựng khi y học không giúp được, giúp họ tha thứ hay bình tâm với người thân, người đã gây đau khổ cho họ…
Tùy theo tôn giáo của bệnh nhân (hay không theo tôn giáo nào), tạo điều kiện cho bệnh nhân gặp gỡ các chức sắc tôn giáo khi họ có yêu cầu, tôn trọng những niềm tin và cầu nguyện của họ ngay cả khi đang ở Bệnh viện, nhưng không để bệnh nhân sa vào mê tín dị đoan và vi phạm nội quy điều trị. Cũng không truyền giáo theo tôn giáo mình đang theo cho bệnh nhân.
Chăm sóc xã hội
Tạo điều kiện cho bệnh nhân ổn định cuộc sống. Giữ bí mật cá nhân cho bệnh nhân. Động viên bệnh nhân có ý thức giữ gìn cho bạn tình, các người khác không bị lây nhiễm. (Xin tham khảo thêm về kỹ thuật tư vấn). Giải thích cho thân nhân và những người liên quan đã biết bệnh nhân nhiễm HIV để đối xử hợp lý với bệnh nhân, không xa lánh, cách ly không cần thiết. Không phân biệt đối xử. Giúp bệnh nhân dành lại một số quyền lợi chính đáng theo quy định của pháp luật mà người nhiễm có thể bị tước đoạt do kỳ thị (quyền thừa kế, di chúc…)
Phòng bệnh :
Người săn sóc và thân nhân có thể sinh hoạt với bệnh nhân bình thường, ngoại trừ quan hệ tình dục không bảo vệ. Đồng thời phải biết một số đường lây do vô tình (dùng chung dao cạo râu, bàn chải đánh răng), biết cách phòng hộ cho cá nhân khi phải săn sóc bệnh nhân ở giai đọan cuối (xử lý bệnh phẩm, áo quần, chăn màn có dính máu, dịch của bệnh nhân..). chú ý phòng lây lao phổi nếu bệnh nhân có nhiễm lao như mọi trường hợp nhiễm lao phổi không nhiễm HIV khác
Sốt hồi quy do ve là những bệnh có tính tản phát và địa phương. Mỗi bệnh khu trú ở một nơi nhất định, nhưng đều có tính chất chung về tác nhân gây bệnh, biểu hiện lâm sàng, nguồn truyền nhiễm và môi giới truyền nhiễm.
Tác nhân gây bệnh là các loại xoắn khuẩn
Chúng ký sinh đầu tiên ở súc vật gậm nhấm, nhưng sau này phải thích ứng với các loại môi giới khác nhau, cho nên cấu trúc kháng nguyên khác nhau. Thời kỳ ủ bệnh là 6-10 ngày. Đợt sốt đột ngột kéo dài vài ngày, kèm theo rối loạn tiêu hoá, đôi khi vàng da. Rồi đến đợt không sốt. Các đợt sốt cách nhau khá lâu.
Nguồn truyền nhiễm:
là các loại gậm nhấm ở rừng, chúng là ổ chứa vi khuẩn rất lâu, dưới hình thái xoắn khuẩn hoặc hình thái ở trong não.
Môi giới truyền bệnh giữa súc vật và từ súc vật sang người là loại ve Ornithodorus. Chúng cũng là nguồn truyền nhiễm vì chứa xoắn khuẩn rất lâu và truyền cho thế hệ sau. Ornithodorus hút máu và sống ở hang súc vật gậm nhấm, bụi rậm, đất cát và những túp lều ở lụp xụp.
Các loại sốt hồi quy địa phương:
Căn cứ vào loại xoắn khuẩn gây bệnh, loại tiết túc môi giới và nơi gây bệnh khu trú, người ta phân biệt các loại sốt hồi quy sau đây:
Sốt hồi quy Phi Châu: thấy ở Côngô, Angôla, Uganda, Etiopia, Sômali, Madagasca. Tác nhân gây bệnh là Spirocheta Duttoni. Nguồn truyền nhiễm là người và súc vật gậm nhấm ở rừng. Môi giới truyền nhiễm là Ornithodorus moubata, chỉ có khả năng truyền bệnh 10 ngày sau khi hút máu. Xoắn khuẩn được tìm thấy không những ở khoang bụng mà cả ở trong phân. Ve sống ở nền lều và ở chiếu
Sốt hồi quy Tây Ban Nha và Phi Châu: Thấy ở Tây Ban Nha và cả ở Bắc Phi. Tác nhân gây bệnh là Sp.hispanica. Nguồn truyền nhiễm là súc vật gậm nhấm: dim, cáo ; đôi khi là người. Môi giới truyền nhiễm là o.erraticus.
Sốt hồi quy ở Ba Tư: thấy ở Ba Tư và các nước lân cận. Tác nhân gây bệnh là Sp.persica. Nguồn truyền nhiễm là súc vật gặm nhấm và gia súc. Môi giới truyền nhiễm là o.
Sốt hồi quy Mỹ Châu: thấy ở Panama, Tác nhân gây bệnh là Sp.Venezuelensis. Nguồn truyền nhiễm là một vài loại thú rừng. Môi giới truyền nhiễm là o .Venezuela.
Loại sốt hồi quy
Tác nhân gây bệnh
Môi giới truyền nhiễm
Sốt hổi quy Phi châu Sốt hổi quy Tây Ban Nha Sốt hồi quy Ba Tư Sốt hối quy Mỹ Châu
Sp.duttoni Sp.hispanica Sp.persica Sp.Venezuela
O.moubata
o.erraticus
O.tholozani
o.venezuelensis
PHÒNG VÀ CHỐNG BỆNH
Biện pháp chống bệnh:
Sốt hồi quy địa phương là bệnh bắt buộc phải khai báo. Phải cách ly người bệnh và tiêu diệt xoắn khuẩn ở người bệnh bằng penixilin.
Biện pháp phòng bệnh:
Ở những nơi có bệnh tiềm tàng, việc phòng bệnh sốt hồi quy địa phương khó hơn sốt hồi quy lưu hành, vì nguồn truyền nhiễm là các súc vật gậm nhấm ở rừng.
Tính chất: đây là những thuốc làm giảm ăn ngon, tác dụng có thể ở vùng dưới đồi, và có tác dụng kích thích thần kinh trung ương, sử dụng điều trị các dẫn chất amphetamine chỉ xác đáng để điều trị cơn ngủ kịch phát và các chứng bệnh hiếm gặp ở hệ thần kinh trẻ em.
Chỉ định
Thuốc bổ trợ dùng đợt ngắn (tối đa 3 tháng) các chế độ ăn giảm năng lượng trong thời gian điều trị các trường hợp tăng cân quan trọng (chỉ số khối lượng cơ thể > 30kg/ m2). Hiệu lực có tác dụng ngắn (4 – 6 tuần) và lượng giảm trọng lượng gây ra ít quan trọng.
Các vận động viên: một số thuốc này ở trong danh sách các chất bị cấm gây doping và cho phản ứng dương tính khi kiểm tra chống doping.
Chống chỉ định
Cao huyết áp, suy mạch vành, bệnh tim.
Tiền sử động kinh, loạn tâm thần, biếng ăn do tâm thần.
Cường năng giáp.
Tiền sử nghiện rượu và thuốc hướng tâm thần.
Trẻ em dưới 12 tuổi.
Phụ nữ có thai, nuôi con bú.
Phối hợp với một thuốc chống trầm cảm.
Tác dụng phụ
Thần kinh dễ bị kích thích, mất ngủ, kích động.
Rối loạn cư xử (cần thông báo cho những người vận hành máy hoặc lái xe).
Đã bị rút ra khỏi thị trường. Fenfluramin (tăng tiết serotonin) Pondéral ® (Biopharma).
Đã bị rút ra khỏi thị trường. Fenproporex
Fenproporex (Théranol – Deglaude).
Liều dùng: 20 mg/ ngày dùng 1 lần vào buổi sáng.
Mefenorex
Incital ® (P. Fabre).
Liều dùng: 40 mg/ ngày dùng 1 lần buổi sáng.
DẪN CHẤT AMPHETAMIN KÍCH THÍCH TÂM THẦN
Fenozolon
Ordinator ® (Synthélabo).
Dẫn chất amphetamin kích thích sự chú ý, đề nghị dùng trị chứng lao lực trí óc và thể xác; thuốc dùng phải rất thận trọng vì gây nguy cơ nghiện thuốc và các rối loạn thiếu hụt về hoạt động trí óc và thụ cảm; không được dùng cho trẻ em.
Liều dùng: 10 – 30 mg/ ngày chia 2 lần buổi sáng, từng đợt gian đoạn.
Cũng gây tác dụng phụ như các thuốc gây chán àn.
CÁC THUỐC KÍCH THÍCH TÂM THẦN KHÁC
Modafinil
Modioral ® (Lafon).
Chỉ định: cơn buồn ngủ kịch phát, chứng ngủ lịm tự phát.
Liều dùng: 200 – 400 mg/ ngày chia 2 lần. Thuốc dành dùng trong các bệnh viện.
Methylphenidat
Ritaline ® (Novartis).
Chỉ định: rối loạn thiếu hụt về sự chú ý kèm chứng tăng động ở trẻ em trên 6 tuổi.
Virut hợp bào đường hô hấp là siêu vi trùng gây bệnh thường thấy nhất viêm phổi virut ở trẻ em. Trên lâm sàng có hai loại: một loại biểu hiện viêm phế quản mao mạch, còn một loại biểu hiện viêm phổi chất giữa phổi. Phần lớn xảy ra ở trẻ thơ, nam nhiều hơn nữ, tỉ lệ là 1,5 – 2:1.
Đặc điểm lâm sàng
Biểu hiện người viêm phế quản mao mạch, 2 đến 3 ngày trước khi phát bệnh có thể thấy ngạt mũi, ho, triệu chứng cảm nhiễm đường hô hấp trên, sau đó ho khan kéo dài, và lên từng cơn thở dốc, khó thở. nhiệt độ vừa và thấp. Khi lên cơn nghẹt thở, trẻ bứt rứt, khó chịu, cánh mũi phập phồng, nghe âm thanh hô hấp thấp xuống, hoặc có lúc rồ to lên, ở đáy phổi nghe âm thanh có (bóng) bọt nước nhỏ. Người cảm nặng có thể xảy ra tâm lực suy kiệt.
Kiểm tra
Biểu hiện là viêm phổi virut hợp bào đường hô hấp. ngoài phần phổi bị những điểm đen thấm dần ra, thường khó phân biệt với viêm phế quản mao mạch. Ngoài biểu hiện lâm sàng viêm phế quản mao mạch ra, nếu bệnh tình nghiêm trọng, triệu chứng trúng độc toàn thân tương đối nặng, hô hấp khó khăn rõ rệt, phôi xuất hiện dãn phế quản tương đối sớm.
Kiểm tra X quang: phần lớn có vùng đen nhỏ, khoảng’ 1/3 số trẻ bị dãn phế quản ở mức độ khác nhau.
Kiểm tra máu: tổng số bạch cầu bình thường hoặc có chiều giảm.
Chữa trị
Chữa trị: chú ý cách li, cố gắng ngăn chặn vi khuẩn tiếp tục phát triển hoặc bội nhiễm các virut khác. Nói chung cách chữa trị và chăm sóc thì tham khảo viêm phổi phế quản và viêm phổi virut tuyến. Thuốc chống virut có thể dùng Triazonucleoside 10- 15mg/kg/ngày, cho vào trong đường glucose 5% – 10% truyền nhỏ giọt vào tĩnh mạch, cũng có thể dùng song hoàng liên 60mg/kg/ngày, cho thêm thể lỏng từng ít một, đây là thuốc tiêm chống virut của Đông y. Nếu tiếp tục nhiễm virut thì có thể dùng thêm thuốc kháng sinh.
Kê Chuân Bì, Kê Hoàng Bì, Kê Tố Tử (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Màng Mề Gà (Dược Liệu Việt Nam).
Tên Khoa Học:
Corium stomachichum Galli.
Họ Khoa Học:
Họ Chim Trĩ (Phasianidae).
Mô Tả:
Màng màu vàng cam hoặc nâu, trên mặt có các lớp nhăn dọc. Khi khô thì giòn, dễ gãy vụn, vết bẻ có cạnh bóng, dài khoảng 3,5cm, rộng 3cm, dày chừng 5mm. Sấy lửa thì phồng lên.
Bộ Phận Dùng:
Lớp màu vàng phủ mặt trong của mề gà (Gallus domesticus). Lựa loại khô, sạch tạp chất, nguyên cái hoặc bổ đôi không vụn nát. Không nên dùng màng mề vịt màu xanh, ít nếp nhăn.
Sơ Chế:
Khi mổ gà, bóc ngay lấy màng mề gà, rửa sạch, phơi hoặc sấy. Khi dùng đem sấy với cát cho phồng lên.
Bào Chế:
+ Mổ ra, gạt bỏ hết chất bẩn, rửa qua nhanh tay, bóc lấy màng vàng, phơi khô (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
+ Dùng sống hoặc sao lên, nướng lên dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Bảo Quản:
Dễ bị mọt và dòn, vụn nát. Để nơi khô ráo, kín, tránh đè nặng làm vỡ nát.
Thành Phần Hóa Học:
+Trong Kê nội kim có Ventriculin, Keratin, Bilatriene, Vitamin B1 và B12, Pepsin (lượng rất nhỏ), 17 loại Amino acid, Ammonium Chloratum (Trung Dược Học).
+ Ventriculin, Keratin, Pepsin, Diastase (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển, Bắc Kinh 1990: 162).
+ Bilatriene (Henrik Dam và cộng sự, C A 1959, 53: 10450b).
Tác Dụng Trên Vị Trường: Kê nội kim có tác dụng trợ tiêu hóa, biểu hiện dịch vị tăng, độ acid tăng, nhu động bao tử tăng (thời gian k o dài, sóng nhu động cao, tốc độ tống thức ăn nhanh hơn). Khả năng tiêu hóa tăng chậm nhưng k o dài. Tác dụng của thuốc là do vị kích thích tố tăng tiết dịch vị hoặc do thuốc thông qua yếu tố thể dịch làm hưng phấn thần kinh cơ của thành dạ dày (Trung Dược Học).
Kê nội kim có tác dụng gia tăng bài tiết chất phóng xạ do thuốc có thành phần Ammonium Chloratum có tác dụng này (Trung Dược Học).
Tính Vị:
+ Tính hơi hàn (Biệt Lục).
+ Tính bình, không độc (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).
+ Vị ngọt, tính bình, sáp (Bản Thảo Bị Yếu).
+ Vị ngọt, tính bình, sáp (Trung Dược Học).
+ Vị ngọt, tính bình (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy Kinh:
Vào kinh Đại trường, Bàng quang (Bản Thảo Kinh Sơ).
Vào kinh tỳ, Vị (Bản Thảo Tái Tân).
Vào kinh tỳ, Vị, Tiểu trường, Bàng quang (Trung Dược Học).
Vào kinh tỳ, Vị (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tác Dụng:
+ Khoan trung, kiện tỳ, tiêu thực, an Vị (Trấn Nam Bản Thảo).
+ Tiêu thức ăn, giúp cho Vị dung nạp thức ăn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Chủ Trị:
Trị tiêu chảy, lỵ (Bản Kinh).
Trị tiểu nhiều, trừ nhiệt làm cho bứt rứt ở trên (Biệt Lục).
Trị sữa tích trệ, cam tích (Trấn Nam Bản Thảo).
Trị họng sưng đau, nhũ nga *amidal+, miệng lở (Bản Thảo Cương Mục).
Trị huyền tích, trưng hà, báng, tích tụ, bế kinh (Y Học Trung Trung Tham tây Lục).
Trị tiêu hóa rối loạn, thực tích, cam tích, đái dầm, di tinh (Trung Dược Học).
Trị ăn uống tích trệ ở trong, trẻ nhỏ bị cam tích, nôn mửa, bụng trướng, tiêu chảy, lỵ (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Liều Dùng: 6 – 12g. Thuốc sao lên tán bột uống tốt hơn là cho vào thuốc thang (Trung Dược Học).
Kiêng Kỵ:
Đơn Thuốc Kinh Nghiệm:
+Trị sau khi sinh xong bị đái dầm: Kê nội kim, liều lượng tùy dùng, tán nhỏ, uống với rượu ấm (Kê Nội Kim Tán Chứng Trị Chuẩn Thằng).
+Trị cam tích, bụng đầy, ăn ít: Kê nội kim (sao) 60g. Tán bột. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 4 – 6g với nước cơm hoặc nước sôi ấm (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+Trị cam tích, bụng to: Kê nội kim 12g, Miết giáp (nướng) 30g, Xuyên sơn giáp đều 8g. Tán bột. Mỗi ngày uống 1 lần, mỗi lần 1,5 – 3g (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+Trị đại trường viêm mạn: Kê nội kim (sao) 10g, Bạch truật 10g. Tán bột, trộn đều. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 4 – 6g (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+Trị tiêu chảy kéo dài do Tỳ hư: Kê nội kim, Bạch truật, Can khương đều 60g, Đại táo nhục 240g (chưng chín). Tất cả sao chín, tán bột, trộn với Táo nhục gĩa nát, trộn đều làm thành bánh, sấy khô. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 10g (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+Trị sỏi mật, sỏi đường tiểu: Kê nội kim 12g, Kim tiền thảo 15g, Uất kim 10g, Hồ đào 15g, Hải kim sa 15g. Sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+Trị sỏi tiết niệu: Lục Nhất Tán (Cam Thảo, Hoạt thạch) 30g, Hỏa tiêu 10g, Kê nội kim 10g. Tán bột. Ngày 2 lần mỗi lần 2 – 6g (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+Trị nốt ruồi: Kê nội kim sống 20g, thêm 200ml nước, ngâm 2 – 3 ngày rồi bôi vào nốt ruồi. Mỗi ngày 5 – 6 lần, liên tục 10 ngày. Đã theo dõi 10 cas có kết quả tốt (Trần Trường Giang, Triết Giang Trung Y Tạp Chí 1987, 1: 45).
+Trị miệng lở loét, amidal viêm, lợi răng viêm: Kê nội kim, đốt tồn tính. Tán nhuyễn, thổi vào nơi bị loét hoặc bôi vào, có thể trộn với dầu Mù u bôi vào vết thương (Kinh Nghiệm Dân Gian).
Tham Khảo:
‘Kê nội kim là màng vàng trong mề của con gà. Sức tiêu hóa của mề gà rất mạnh vì vậy có thể giúp đỡ được sự tiêu hóa của con người” (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Nhiều nam giới gặp phải vấn đề trong khi quan hệ tình dục. Các bác sĩ gọi đây là rối loạn tình dục. Sức khỏe của bạn, căng thẳng, các mối quan hệ và những vấn đề khác có thể dẫn đến những khó khăn này.
Khoảng 31% nam giới và 43% nữ giới gặp khó khăn nào đó trong khi quan hệ tình dục. Nhưng nhiều loại vấn đề tình dục có thể được điều trị hoặc cải thiện. Nhờ vào các nghiên cứu liên tục, các bác sĩ hiện hiểu biết hơn bao giờ hết về chúng.
Bạn có thể gặp vấn đề ở những giai đoạn khác nhau trong quan hệ tình dục. Nam giới có thể trải qua:
Thiếu ham muốn tình dục
Không thể có hoặc giữ được sự cương cứng
Đạt cực khoái quá chậm hoặc quá nhanh
Không thể đạt cực khoái
Một số vấn đề khác có thể gặp phải là:
Dị tật của dương vật. Một loại là bệnh Peyronie, trong đó sự tích tụ collagen hoặc mô sẹo khiến dương vật bị cong.
Xuất tinh ngược, khi tinh dịch bị đẩy ngược vào bàng quang thay vì ra khỏi dương vật. Điều này có thể xảy ra ở nam giới bị tổn thương thần kinh do tiểu đường, hoặc sau phẫu thuật bàng quang hoặc tuyến tiền liệt.
Tình dục và lão hóa
Một số thay đổi về ham muốn tình dục và hiệu suất tình dục là điều bình thường khi bạn già đi. Bạn có thể cần nhiều màn dạo đầu hơn trước khi quan hệ, hoặc cần nhiều kích thích hơn để có và giữ được sự cương cứng. Ngoài ra, có thể mất nhiều thời gian hơn để có sự cương cứng sau khi đạt cực khoái.
Tuy nhiên, những thay đổi lớn có thể là dấu hiệu của một vấn đề nghiêm trọng hơn. Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn nếu điều này xảy ra.
Vấn đề sức khỏe
Sức khỏe tổng thể của bạn và bất kỳ tình trạng y tế nào bạn có cũng ảnh hưởng đến đời sống tình dục của bạn. Các tình trạng có thể ảnh hưởng đến khả năng tình dục hoặc ham muốn tình dục bao gồm:
Bệnh tim và bệnh mạch máu
Tiểu đường
Mất cân bằng hormone
Các rối loạn hệ thần kinh như xơ cứng nhiều đám (multiple sclerosis) và bệnh Parkinson
Béo phì
Huyết áp cao
Cholesterol cao
Những thay đổi đột ngột trong ham muốn tình dục hoặc khả năng quan hệ tình dục có thể là dấu hiệu bạn có một tình trạng y tế nào đó. Hãy cho bác sĩ biết nếu bạn nhận thấy chúng.
Các loại thuốc, chẳng hạn như thuốc chống trầm cảm và thuốc huyết áp cao, cũng có thể ảnh hưởng đến tình dục. Nếu bạn nhận thấy vấn đề sau khi bắt đầu một loại thuốc mới, hãy hỏi bác sĩ cách quản lý tác dụng phụ hoặc liệu họ có thể đổi toa thuốc của bạn.
Hút thuốc, uống nhiều rượu, và các thói quen không lành mạnh khác cũng có thể làm hại chức năng tình dục của bạn. Ngược lại, tập thể dục đều đặn, giảm cân, và quản lý căng thẳng có thể cải thiện đời sống tình dục của bạn.
Vấn đề tâm lý và cảm xúc
Căng thẳng, lo âu, trầm cảm, và các vấn đề tâm lý và cảm xúc khác có thể có tác động lớn đến đời sống tình dục của bạn. Chỉ cần lo lắng về cách bạn sẽ hoạt động trong quan hệ tình dục có thể giữ bạn không tận hưởng được sự gần gũi tình dục. Cảm giác tội lỗi về tình dục, sợ mang thai, hoặc ký ức về một trải nghiệm tình dục đau thương cũng có thể gây cản trở.
Những lo lắng về mối quan hệ của bạn cũng có thể dẫn đến vấn đề tình dục. Sự tức giận với đối tác, sự nhàm chán với mối quan hệ, và những vấn đề kéo dài khác có thể ảnh hưởng đến bạn về mặt tình dục.
Nhận sự giúp đỡ
Bạn có thể cảm thấy lo lắng hoặc ngại ngùng khi nói chuyện với bác sĩ về các vấn đề tình dục của mình. Nhưng việc mở lòng về những lo lắng của bạn là bước đầu tiên để nhận được sự giúp đỡ.
Bác sĩ của bạn sẽ đặt câu hỏi về những gì đang xảy ra. Họ có thể tiến hành khám sức khỏe và yêu cầu các xét nghiệm khác (như xét nghiệm máu) để xác định liệu có bất kỳ vấn đề sức khỏe tiềm ẩn nào là nguyên nhân gây ra khó khăn tình dục của bạn hay không.
Các lựa chọn điều trị
Nếu một tình trạng y tế như bệnh tim, tiểu đường, béo phì, hoặc trầm cảm đang ảnh hưởng đến đời sống tình dục của bạn, bác sĩ của bạn có thể cần giải quyết nó trước tiên.
Bác sĩ có thể gợi ý thay đổi các thói quen không lành mạnh, chẳng hạn như hút thuốc hoặc uống quá nhiều rượu, và khuyến khích bạn tập thể dục. Những điều này có thể cải thiện sức khỏe tổng thể của bạn cũng như khả năng quan hệ tình dục của bạn.
Các lựa chọn điều trị khác bao gồm:
Tư vấn để giúp bạn quản lý căng thẳng, lo âu, sợ hãi, hoặc tội lỗi, hoặc để giải quyết trầm cảm hoặc các vấn đề sức khỏe tâm thần khác.
Thuốc cho các vấn đề cương dương mà bạn uống dưới dạng viên, như Cialis, Levitra, Stendra, hoặc Viagra.
Thuốc cho các vấn đề cương dương mà bạn tiêm, như alprostadil.
Liệu pháp thay thế testosterone và các liệu pháp hormone khác cho sự mất cân bằng hormone.
Thiết bị y tế, như thiết bị cương dương chân không, giúp bạn có được sự cương cứng.
Phẫu thuật cấy ghép dương vật.
Phẫu thuật để sửa chữa các dị tật của dương vật.
Liệu pháp kéo dương vật, trong đó bạn đeo một thiết bị lên dương vật để sửa chữa các dị tật
Cortex Mori Albae Radicis Họ khoa học: Dâu tằm (Moraceae)
Tên tiếng trung: 桑 白 皮
Tên thường gọi:
Các bộ phận của cây dâu tằm đều có thể làm thuốc, Mạy môn (dân tộc Thổ); Dâu cang (dân tộc Mèo); Nằn phong (Dao); Tầm tang
Lá dâu non
Cây Dâu tằm được trồng khắp nước ta để nuôi tằm và làm thuốc.
Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại:
Thuốc có tác dụng giảm ho nhẹ, lợi niệu và gây tiêu chảy.
Thuốc sắc và chiết xuất của thuốc trong nhiều loại dung môi khác nhau đều có tác dụng hạ áp.
Thuốc có tác dụng an thần, giảm đau, hạ nhiệt và chống co giật nhẹ.
Thuốc sắc có tác dụng ức chế tụ cầu vàng, trực khuẩn thương hàn, trực khuẩn lî Flexner và nấm tóc. Thuốc chiết xuất nước nóng có tác dụng ức chế (in vitro) chủng JTC-28 tế bào ung thư tử cung khoảng 70%.
Liều thường dùng và chú ý:
Liều: 10 – 15g. Chích Tang bì nhuận phế.
Chế biến:
Vị thuốc Tang bạch bì
Đào lấy rễ dâu cạo bỏ rễ thô nâu bên ngoài bóc lấy vỏ trắng rửa sạch phơi hay sấy khô làm thuốc.
Khí vị:
Vị ngọt có cả cay, khí hàn, không độc, vào kinh Thủ thái âm, Tục đoạn, Quế tâm, Ma tử làm sứ, kỵ sắt và Chì.
Chủ dụng:
Vị ngọt giúp cho nguyên khí, cay thì tả hỏa tà mà ngăn ho suyễn, nhổ ra máu mủ, lợi thủy, tiêu sưng, giải khát, trục đờm. Có người cho rằng Tang bì là khí dược của Phế, Tử uyển là huyết dược của Phế (đó là lấy màu sắc của nó để điều với thuốc)
Cấm kỵ:
Đại khái tả cái quá thừa là sở trường của nó mà bổ chỗ không đủ là sở đoản của nó, do đó không nên uống nhiều, tạng Phế hư mà tiểu tiện lợi càng nên kiêng kỵ
Cách chế:
Nên lấy rễ ở phía mặt trời mọc, ăn sâu dưới đất thì tốt, thứ rễ trồi trên đất có độc không nên dùng. Cho vào thuốc thanh nhiệt sơ tán thì nên để sống, cho vào thuốc bổ Phế thì tẩm nước và Mật, sao dùng.
Nhận xét:
Tang bạch bì cảm tinh khí của cây Dâu để sống, cho nên vị nó đắng, khí hòa bình, không độc, do đó có thể dùng chữa mọi chứng thấp tê, trừ ho, an thai, hậu sản, thêm huyết, hòa huyết.
Phụ:
TANG DIỆP
Lá dâu đã qua tiết sương dùng để rửa mắt thì trừ được chứng chảy nước mắt phong rất hay, giã với Muối đắp chữa rắn cắn, chưng lên rồi giã với Muối dấp lên chỗ ứ huyết do vấp ngã, nấu uống thay nước chè chữa thủy thũng sưng chân, hạ khí xuống làm cho khớp xương đỡ đau, nghiền làm thuốc tán làm ra mồ hôi.
TANG CHI
Thường nấu nước uống thì tai mắt thông sáng, trừ cước khí tay chân co quắp, chữa phong lở, da dẻ khô khan, thông niệu quản, thông tiểu tiện, chữa chóng mặt, thông lợi khí nghịch ho suyễn, tiêu độc nhọt sưng rát.
TANG THẦM TỬ
Quả dâu là tinh ba của cây Dâu kết lại, vị ngọt, khí hàn, là thuốc để thêm huyết, trừ nhiệt, dưỡng âm, phơi khô, thêm Mật hoàn, uống có tác dụng thông lợi các khiếu, lợi khớp xương, giữ yên định thần phách, thông sáng tai mắt.
TANG KY SINH
Chữa độc lở ngứa, trừ phong thấp, chữa xương khớp cứng đau, an thai, thông sữa, chữa băng huyết khi có thai, di chứng hậu sản, làm mạnh gân xương, đầy da thịt, bổ ích khí huyết, là thuốc hay để chữa phong thấp co quắp.
GIỚI THIỆU THAM KHẢO
“Ôn bệnh điều biện”
Đài Tang hạnh thang
Tang diệp, Đạm đậu xị, Hạnh nhân, Tượng bối mẫu, Sơn chi bì, vỏ Lê đều 8-12g, Sa sâm 12-16g. sắc, chia uống 2 lần trong ngày.
Có tác dụng sơ phong, nhuận táo, thanh Phế, chỉ khái.
Trị Phế âm bị tổn thương do ngoại cảm ôn táo, triệu chứng thường có sốt, đau đầu, khát nước, ho khan, ít đờm, lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng mỏng. mạch phù sác.
Trên lâm sàng bài này thường dùng trị viêm đường hô hấp trên, có triệu chứng táo nhiệt. Họng khô, đau thêm Ngưu bàng tử, Bàng đại hải để thanh lợi yết hầu; chảy máu cam thêm Mao căn, Hạn liên thảo để cầm máu; ho đờm vàng đặc thêm Qua lâu căn, Thiên hoa phấn để thanh nhiệt trừ đờm.
“Ôn bệnh điều biện” Bài Tang cúc ẩm
Bài Tang cúc ẩm
Tang diệp 12g, Hạnh nhân 8-12g, Bạc hà 2-4g, Cúc hoa 12g, Cát cánh 8g, Liên kiều 6-12g, Lô căn 8-12g, Cam thảo 4g.
Sắc, mỗi ngày uống 1-2 thang.
Có tác dụng sơ phong, thanh nhiệt, tuyên Phế, chỉ khái.
Trị phong ôn giai đoạn đầu, biểu hiện ho, sốt không nhất định, miệng hơi khát, rêu lưỡi vàng nhat, mạch phù sác.
Ho nhiều mà khí lại nghịch có thể thêm Tiền hồ, Tô tử, Tượng bối, Ngưu bàng để tăng thêm tác dụng thông Phế, giáng nghịch. Ho nhiều đờm, rêu lưỡi trắng nhờn có thể thêm Trần bì, Bán hạ, Bạch linh, Chỉ xác để thông hóa thấp đờm.
Cần thiết có thể gia thêm Hoàng cầm, Đông qua nhân, Mao căn…
“Chứng trị vâng bổ”
Bài Thanh phế ẩm
Bạch linh 12g, Hoàng cầm 12g, Tang bạch bì 12g, Mộc thông 10g, Mạch môn đông 10g, Xa tiền tử 10g, Sơn chi tử 10g, Trạch tả 12g.
Sắc, chia uống 3 lần trong ngày.
Có tác dụng thanh nhiệt, lợi thủy.
Chữa Phế, Tỳ khí táo dẫn đến chứng lâm.
“Thống chỉ phương”
Bài Thanh kim hóa đờm thang
Hoàng cầm 5g, Sơn chi tử 4g, Cát cánh 6g, Tri mẫu 4g, Quất hồng 10g, Bạch linh 10g, Mạch môn 10g, Bối mẫu 10g, Qua lâu nhân 5g, Tang bạch bì 4g, Cam thảo 2g.
Sắc, chia uống vài lần trong ngày.
Có tác dụng thanh nhiệt, trừ đờm, chỉ huyết nhiệt.
Chữa khái thấu, đờm sắc vàng, huyết lạc bị ứ trệ, hơi thở nóng, họng khô, đau và các chứng đàm trệ.
Hỏi bệnh: Bệnh nhân khi khám họng có nhiều lý do: có thể bị đau họng, nuốt vướng hoặc khàn tiếng, khó thở, ho…
Để biết rõ về bệnh: thời gian khởi phát, diễn biến và hiện trạng của bệnh, đã điều trị thuốc gì? chủ yếu là của các chứng đưa người bệnh đến khám, ngoài ra còn cần hỏi tình trạng nghề nghiệp và gia đình để thấy được các nguyên nhân, liên quan gây bệnh.
Các triệu chứng chính cần lưu ý:
Đau họng: là triệu chứng chính của họng, thời gian và mức độ đau có liên quan đến thời tiết.
Khàn tiếng: những biến đổi về khàn tiếng, về âm lượng, âm sắc liên quan tới nghề nghiệp (đối với những người phải sử dụng giọng nói nhiều như giáo viên, nhân viên bán hàng, ca sĩ…)
Nuốt vướng.
Khám họng, thanh quản.
Dụng cụ:
Đèn Clar, gương trán.
Đè lưỡi
Gương soi vòm, soi thanh quản.
Thuốc tê
2.1. Khám họng:
Khám họng gồm 3 bước: khám miệng, khám họng không có dụng cụ, khám họng có dụng cụ.
Khám miệng: miệng và họng có quan hệ chặt chẽ với nhau không thể khám họng mà không khám miệng. Dùng đè lưỡi vén má ra để xem răng, lợi và mặt trong của má xem hàm ếch và màn hầu có giá trị trong chẩn đoán bảo bệnh nhân cong lưỡi lên xem sàn miệng và mặt dưới lưỡi.
Khám họng không có dụng cụ: bảo bệnh nhân há miệng, thè lưỡi và kêu ê ê…, lưỡi gà sẽ kéo lên và amiđan sẽ xuất hiện trong tư thế bình thường. Cách khám này bệnh nhân không buồn nôn.
Khám họng có dụng cụ:
Khám họng bằng đè lưỡi:
Muốn khám tốt nên gây tê tại chỗ để tránh phản xạ nôn. Bảo bệnh nhân há miệng không thè lưỡi thở nhẹ nhàng.
Thầy thuốc đặt nhẹ đè lưỡi lên 2/3 trước lưỡi sau đó ấn lưỡi từ từ xuống, không nên để lâu quá.
Chúng ta cần xem được: màn hầu, lưỡi gà, trụ trước, trụ sau, amiđan và thành sau họng, muốn thấy rõ amiđan ta có dùng cái vén trụ trước sang bên, chú ý xem sự vận động của màn hầu, lưỡi gà.
Hình ảnh bình thường: màn hầu cân đối, lưỡi gà không lệch, amiđan kích thước vừa phải không có chấm mủ, niêm mạc hồng hào. Trụ trước, trụ sau bình thường không xung huyết đỏ, thành sau họng sạch nhẵn.
Cách khám họng Hình ảnh họng miệng
cách khám thanh quản
Cách khám thanh quản
hình ảnh thanh quản
Hình ảnh thanh quản
Hình ảnh bệnh lý thường gặp: lưỡi gà bị lệch, amiđan nhiều chấm mủ, tổ chức lympho quá phát ở thành sau họng.
Khám họng bằng que trâm: dùng que trâm quấn bông chọc nhẹ vào màn hầu, nền lưỡi, thành sau họng xem bệnh nhân có phản xạ nôn không? nếu không có phản xạ tức là mất cảm giác của dây V dây IX và dây X.
Khám vòm họng bằng gương: trong khám mũi sau tay trái cầm đè lưỡi tay phải cầm cán gương soi lỗ nhỏ luồn ra phía sau màn hầu. Trong khi đó bệnh nhân thở bằng mũi. Chúng ta quan sát được cửa mũi sau, nóc vòm, vòi Esutachi. Xem được có u sùi không? có viêm loét ở vòm họng không? có polyp cửa mũi sau không?
2.2. Khám thanh quản:
Bằng gương (gián tiếp):
Bệnh nhân ngồi ngay ngắn, thầy thuốc tay trái cầm gạc k o lưỡi bệnh nhân, tay phải cầm cán gương soi thanh quản (tùy tuổi mà dùng các cỡ khác nhau), tốt nhất là gây tê trước khi soi.
Sau khi hơ nóng trên đèn cồn, tay trái k o lưỡi tay phải luồn gương qua màn hầu bảo bệnh nhân kêu ê. ê. để thấy được sự di động của dây thanh.
Cần quan sát: xem có u vùng tiền đình thanh quản không? dây thanh (màu sắc, có hạt không? khép có kín không?), xoang lê có sạch không?
Bằng ống soi Chevalier – Jackson (trực tiếp): với phương pháp này chúng ta nhìn rõ hơn vùng thanh quản.
Chính sự tiến triển tương đối chậm của suy giảm chức năng thận trong bệnh thận đái tháo đường và thực tế là chỉ một phần người bệnh đái tháo đường tiến triển đến bệnh thận do đái tháo đường; đã dẫn đến các nghiên cứu về cấu trúc thận để xem liệu điều này có thể cung cấp đầu mối về cơ chế bệnh sinh và sự tiến hóa của bệnh?
Diện tích lọc bề mặt của mao mạch cầu thận là yếu tố cấu trúc chủ yếu quyết định mức lọc cầu thận. Các nghiên cứu cắt ngang ở người bệnh đái tháo đường typ 1 thấy rằng thể tích gian mạch có tương quan nghịch, còn thể tích cầu thận có tương quan thuận với diện tích bề mặt của màng đáy cầu thận và mức lọc cầu thận. Hơn nữa, trong bệnh thận ở giai đoạn nặng, số lượng cầu thận xơ hóa toàn bộ có tương quan âm tính với mức lọc cầu thận (số lượng cầu thận/1 thận là từ 0,3 – 1,4. 106 ở người bình thường). Như vậy các yếu tố quyết định của mức lọc cầu thận là:
Diện tích lọc bề mặt của mao mạch, diện tích này phụ thuộc vào thể tích cầu thận và mức độ nở rộng của gian mạch.
Số lượng cầu thận có hoạt động chức năng phụ thuộc vào số lượng ban đầu trừ đi số cầu thận bị xơ hóa toàn bộ.
Thể tích cầu thận tăng lên lúc xuất hiện đái tháo đường và có thể trở về bình thường nhờ điều trị insulin ở những động vật đái tháo đường thực nghiệm, vẫn có những tranh luận nghi ngờ rằng liệu sự tăng kích thước cầu thận có phải là yếu tố nguy cơ đối với sự phát triển bệnh thận sau này hay không?. Các nghiên cứu trên cầu thận được phân lập đã chứng minh rằng thể tích cầu thận có thể thay đổi đột ngột khi có những thay đổi về áp lực tưới máu.
Mặc dù có những bất cập đó, hiện tượng tăng kích thước cầu thận thấy trong giai đoạn sớm của đái tháo đường vẫn đáng được chú ý và hầu như chắc chắn đây là bằng chứng phản ánh của sự có mặt của tăng áp lực nội cầu thận và tăng lọc.
ở giai đoạn bệnh thận lâm sàng nặng, tăng kích thước cầu thận là một đáp ứng thích nghi với quá trình giãn nở của gian mạch và xơ cầu thận. Trong hoàn cảnh này, tăng kích thước là để bảo tồn mức lọc cầu thận. Qua nghiên cứu mô bệnh học còn cho thấy người bệnh đái tháo đường typ 2 có bệnh thận lâm sàng có các cầu thận lớn hơn rất nhiều so với người mắc bệnh đái tháo đường typ 1, mặc dù ở họ có cùng một mức lọc cầu thận. Có thể vì nhiều người bệnh mắc đái tháo đường typ 2 có tăng huyết áp trước khi bệnh thận nặng phát triển (khác hoàn toàn với đái tháo đường typ 1), cũng có thể là áp lực nội cầu thận có thể thấp hơn ở những người có tăng huyết áp như một kết quả của bệnh cầu thận. Người không mắc đái tháo đường có tăng huyết áp vô căn thì áp lực mao mạch nội cầu thận bình thường. Như thế, bất kỳ tác động cơ học nào lên gian mạch sẽ được giảm đi bởi sản xuất chất nền ít hơn, cầu thận ít cứng hơn và như thế cho phép sự tăng kích thước thích nghi lớn hơn đối với sự giảm diện tích bề mặt lọc.
Những thay đổi về thể tích kẽ cũng có liên quan đến mức lọc cầu thận. Kết luận này được rút ra từ cả trong các nghiên cứu sinh thiết cắt ngang và nghiên cứu tiến cứu quá trình tiến triển của bệnh. Tuy nhiên sự tương quan nói chung yếu hơn so với thể tích gian mạch. Ở những người mắc bệnh đái tháo đường typ 2, những thay đổi này thường chiếm ưu thế và rõ rệt hơn so với đái tháo đường typ 1. ớ mức độ nặng, các tổn thương kẽ liên quan chặt chẽ với mức lọc cầu thận, nhưng chúng không tương quan chặt với sự giãn nở gian mạch. Như thế những thay đổi cấu trúc này có thể có những tác động khác nhau lên quá trình tiến triển của bệnh thận ở các giai đoạn khác nhau dẫn đến những sự khác biệt giữa đái tháo đường typ 1 và typ 2.
Cấu trúc thận và tốc độ bài xuất albumin
Tăng tốc độ bài xuất albumin (AER) trong đái tháo đường có thể liên quan đến những thay đổi nhẹ trong thành phần và cấu trúc của màng đáy cầu thận. Những thay đổi này khó quan sát thấy. Có khả năng là sự giảm hoặc pha loãng heparan sulfat proteoglycan liên quan đến tích tĩnh điện dương làm tăng nhẹ AER, làm xuất hiện microalbumin niệu. Bằng phương pháp nhuộm “cuprolinic blue”, người ta đã phát hiện ra sự phân tán và mất các vị trí tích anion trên màng đáy cầu thận của những người bệnh đái tháo đường có microalbumin niệu.
Khi AER tăng đến mức có biểu hiện bệnh thận lâm sàng, sự phát triển của các mạch nối tắt (shunt) dẫn đến giảm chức năng màng đáy cầu thận về khả năng chọn lọc kích thước của các đại phân tử lưu hành trong tuần hoàn. Cấu trúc tương ứng của các shunt này chưa được rõ. Có nhiều giả thuyết về sự hình thành các shunt này. Ví dụ:
Nó có thể là sự thoát quản toàn thể của màng đáy cầu thận ngoại vi, hậu quả của sự phá vỡ hàng rào collagen do sự tích luỹ chất nền.
Nó cũng có thể là kết quả của sự tăng sinh các mạch máu mới hoặc sự phát triển của màng đáy cầu thận mỏng.
Nó cũng có thể thậm chí xuất phát từ giao diện của hệ thống gian mạch-niệu mà phát triển tăng lên, khi bệnh cầu thận đã rõ ràng, đặc biệt ở những người bệnh đái tháo đường typ 1.
Các nghiên cứu cắt ngang ở cả 2 typ của đái tháo đường phát hiện thấy mối tương quan dương tính giữa bể rộng của màng đáy cầu thận và AER. Trong một nghiên cứu dọc trên những người bệnh đái tháo đường typ 1, thấy có sự thay đổi của bề rộng màng đáy cầu thận tương quan với thay đổi về AER trong 2-3 năm; người ta cũng thấy rằng bề rộng màng đáy cầu thận lúc ban đầu có giá trị như một yếu tố dự báo tiên lượng của AER tới 6 năm sau.
Nghiên cứu siêu cấu trúc chi tiết hơn cho thấy rằng những thay đổi về bề rộng của các mấu chân biểu mô cũng tương quan với AER. Điều này được cho là một đáp ứng thích nghi trong nỗ lực làm hẹp và ngắn khe lọc giữa các mấu chân tiếp giáp. Gần đây hơn, một sự giảm số lượng các tế bào có chân (thượng bào) đã được tìm thấy ở những người bệnh đái tháo đường typ 1 và typ 2 có bệnh thận lâm sàng, nhưng những phát hiện này lại không thấy ở những người bệnh đái tháo đường typ 1 có microalbumin niệu. Có những vấn đề lớn về phương pháp, liên quan đến đánh giá số lượng các thượng bào ở người, những thay đổi về số lượng và chức năng thượng bào hiện đang là đôi tượng của những nghiên cứu sâu hơn. Hy vọng khi có kết quả của những nghiên cứu này vai trò của các thượng bào trong sinh bệnh học thận sẽ trở lên rõ ràng hơn trong tương lai.
Các nghiên cứu cắt ngang trên một thuần tập lớn người bệnh đái tháo đường typ 1 đang tiếp tục cho thấy có sự chồng chéo về bệnh cầu thận giữa những người có AER bình thường, người có microalbumin niệu và người có bệnh thận lâm sàng. Trong khi nhóm sau cùng này hầu như luôn tìm được các tổn thương gian mạch rõ ràng, thì một số người dù có bệnh cầu thận nặng nhưng chức năng thận về AER lại bình thường. Những người có microalbumin niệu nói chung có tăng thể tích gian mạch, đặc biệt nếu họ có tăng huyết áp.
Những kết quả này gây ra sự tranh luận sôi nổi về tầm quan trọng của các tổn thương cầu thận đối với sự phát triển và tiến triển của bệnh thận. Một trường phái đề xuất rằng các tổn thương này là kết quả không tránh khỏi của chính đái tháo đường- như vậy các tổn thương về cấu trúc là không quan trọng? Quan điểm đối kháng cho rằng vì một số người có microalbumin niệu thoái triển về mức bình thường; có nghĩa là suy thận phải là kết quả không tránh khỏi của mất nephron, nên sự tiến triển về cấu trúc phải là rất quan trọng. Những thay đổi bệnh học như dày màng đáy cầu thận, tăng nhẹ chất nền của gian mạch có thể là hậu quả của tác động lâu dài của tăng đường máu. Đây có thể xem là đặc điểm sớm cho những người sẽ tiến triển đến suy thận. Vì sinh thiết thận vẫn chủ yếu là một thủ thuật thực nghiệm trong chăm sóc đái tháo đường thường quy, vì thế định lượng AER vẫn là chỉ số đánh giá tiến triển lâm sàng quan trọng nhất.
Những thay đổi ống-kẽ thận cũng tương quan với AER và có thể là hậu quả của tăng lạm dụng protein ở những người có bệnh thận nặng.
Béo phì là vấn đề sức khoẻ cộng đồng, mọi người đều phải quan tâm. Đề phòng chống bệnh thừa cân, béo phì có hiệu quả buộc phải có những chương trình quốc gia để quản lý, giám sát (bảng 17.5).
Tựu chung lại, phòng chống bệnh béo phì có 3 mục tiêu tiếp cận với 3 mục đích khác nhau:
Phòng bệnh chung (mức cộng đồng).
Phòng bệnh chọn lọc: tập trung vào nhóm người có yếu tố nguy cơ.
Phòng bệnh với những mục tiêu cụ thể, chọn lọc từ nhóm trên, để lấy ra những người được xem là có những yếu tố nguy cơ nổi trội nhất, đặt ra những mục tiêu cụ thể buộc phải được hoàn thành trong những giai đoạn nhất định.
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam, nơi đang có những thay đổi nhanh chóng về môi trường sống về lối sống, đang có sự thay đổi đáng kể về mô hình bệnh tật. Cho tới nay nhiều chuyên gia cho rằng ở khu vực này, nguyên nhân gây bệnh do các các yếu tố môi trường, ngoại lai nhiều hơn là những khiếm khuyết trong chuyển hóa – vốn được coi là nguyên nhân chính trong bệnh căn “của bệnh béo phì”.
Phòng bệnh ở cộng đồng
Chủ yếu là bằng tuyên truyền, giáo dục để làm giảm cân nặng bằng cách:
Thay đổi lối sống.
Tăng hoạt động thể lực.
Giảm và bỏ hẳn thuốc lá.
Hạn chế rượu, bia và các thói quen có hại khác trong sinh hoạt.
Phòng bệnh có chọn lọc
Tập trung vào nhóm người có yếu tố nguy cơ dễ mắc bệnh béo phì. Đôi tượng nên tập trung vào những người có yếu tố gia đình, người lao động tĩnh tại, làm việc nhiều với máy vi tính, người quá cân .v.v.
ở Singapore lại tập trung can thiệp vào lứa tuổi học sinh và đã giảm được tỷ lệ bệnh từ 15% xuống còn 12% sau 5 năm thực hiện chiến lược phòng bệnh.
Phòng bệnh có mục đích cụ thể
Tập trung vào một mục đích là chống tăng cân và những vấn đề có liên quan do tăng cân nặng gây ra. Thường những đối tượng này lại rất dễ mắc những bệnh như bệnh mạch vành, đái tháo đường typ 2, nhưng họ lại chưa đủ tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì theo các tiêu chuẩn của WHO.
Bảng 17.5: Tóm tắt các nhóm can thiệp đối với béo phì.
Béo phì Đái tháo đường typ 2 Tăng huyết áp Rối loạn Lipid máu
– Thói quen hút thuốc lá
– Cân nặng khl sinh thấp
– Nghề nghiệp tĩnh tại
– Các nhóm người đặc biệt*.
Ngăn chặn có chủ đích (nhấn vào những cá nhân cụ thể)
BMI > 25 châu Á BMI > 30 châu Âu BMI > 32 (một số đảo Thái bình dương
– Vòng eo >90 nam
> 80 nữ (châu Á)
– Vòng eo > 94(nam)
> 80 (nữ) – châu Âu
Đái tháo đường typ 2
* Ví dụ: Người châu Á gốc Ấn, người Austrlia bản xứ, một số các dân tộc ít người khác.
CHI PHÍ CHO ĐIỀU TRỊ BÉO PHÌ
Người ta đã ước tính chi phí cho điều trị béo phì là rất tốn kém, tuy nhiên nếu xét về mục dích dự phòng đái tháo đường typ 2 thì còn rẻ hơn nhiều. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, nếu năm 1997 chi phí cho điều trị bệnh đái tháo đường mất 98,2 tỷ đôla thì béo phì chỉ mất có 47,6 tỷ.
Có thể tham khảo chi phí điều trị cho bệnh béo phì ở một số quốc gia:
Tên
Năm
Số dân (triệu)
Chi phí
Newzealand
1996
3,6
135 triệu đôla NZ
Australia
1994
18,4
464 triệu AUD
Netherlands
1995
15,7
1,0 tỷ NG
Pháp
1995
58,0
12 tỷ Fran
Mỹ
1998
274,0
51,6 tỷ USD
ĐIỀU TRỊ
Cho đến nay điều trị béo phì chủ yếu vẫn là thực hiện chế độ ăn, chế độ luyện tập; những can thiệp y tế chỉ được đặt ra khi các biện pháp can thiệp trên không có kết quả (xem các bảng 17.6 và 17.7).
Thay đổi về lối sống
Nhiều công trình khoa học đã chứng minh thay đổi lối sống bao gồm thực hiện hành vi ăn, uống hợp lý; tăng hoạt động thể lực sẽ cải thiện được tình trạng thừa cân. Nhiều quốc gia đã có chương trình hành động cụ thể và đã thu được kết quả tốt đẹp.
Bảng 17.6: Những tiêu chuẩn đánh giá sự thành công của điều trị – Tiêu chuẩn WHO (2000).
Tiêu chuẩn
Điều trị thành công
Giảm cân nặng dư thừa Duy trì BMI
Áp lực máu (huyết áp) Đường máu HbA1C
Các yếu tố nguy cơ khác
5-6 kg hay 10% trọng lượng cơ thể
< 23kg/m2
Giảm
Giảm
Tốt lên
Giảm
* BMI này giành cho các dân tộc châu Á. Các vùng khác có thể cao hơn (châu Âu hoặc một số dân tộc khác có BMI tăng cao hơn)
Chế độ ăn
Nguyên tắc:
Chọn những thực phẩm phổ biến, tiện lợi vốn rất nhiều ở nước ta.
Phân bố bữa ăn thích hợp.
Số lượng thực phẩm cho một bữa ăn phù hợp, cố gắng không cần đến các bữa phụ.
Tỷ lệ dầu và mỡ chứa dưới 20-30% . Việt;Nam đề nghị 15%.
Tỷ lệ Carbohydrate 55-65%. Việt Nam để nghị 60-65%.
Protein < 15%.
Hoa quả tươi, rau tươi và các thức ăn tự nhiên phải được tăng cường.
Hạn chế uống rượu, bia.
Trong thực tế nhiều quốc gia có hướng dẫn chế độ ăn dựa trên thói quen của dân tộc, nhiều quốc gia châu Á có chế độ ăn trong đó tỷ lệ carbohydrate và mỡ cao, tỷ lệ protein thấp.
Trong chiến lược phòng chống bệnh béo phì thì công tác giáo dục cho người dân ý thức và kiến thức đế họ tự lưạ chọn thực phẩm là yếu tố quyết định sự thành bại.
Các “chất ngọt không năng lượng” cũng nên được sử dụng, các thực phẩm thay thế chất béo nên được khuyến khích.
Tăng hoạt động thể lực
Là yêu tố quan trọng đảm bảo sự thành công. Tăng hoạt động thể lực nhưng phải phối hợp với thực hiện chế độ ăn. Nếu áp dụng riêng rẽ từng biện pháp người ta chỉ hạ được cân nặng từ 4-5 kg/>3 tháng.
Kê hoạch tăng cường hoạt động thể lực còn phải dựa vào tuổi, vào những ham muôn và sở thích cá nhân, dựa trên cơ sở thói quen tập tục văn hoá của từng dân tộc.
Singapore có phong trào Trim and Fit (TAF) nhằm vào đối tượng từ học sinh phổ thông cơ sở đến sinh viên đại học. Chương trình này chủ yếu nhằm thay đổi lối sống luyện tập thể lực và ăn uống hợp lý; năm 2002 cho kết quả hạ tỷ lệ béo phì trong học sinh trung học xuống còn 9,8%.
Bảng 17.7: Chọn phương pháp điều trị béo phì.
Chế độ ăn
Luyện
tập
Thuốc
Chế dộ ăn calo rất thấp
Ngoại
khoa
* BMI 23-25kg/m2
– Không có yếu tố nguy cơ
+
+
–
–
–
– Vòng eo quá giới hạn
+
+
–
–
–
– DM/CHD/HT/HL
+
+
+
* BMI 25-30
– Không có yếu tố nguy cơ
+
+
±
– Vòng eo quá giới hạn
+
+
±
– DM/CHD/HT/HL
+
+
+
* BMI> 30
– Không yếu tố nguy cơ
+
+
±
±
±
– Vòng eo quá giới hạn
+
+
+
±
±
– DM/CHD/HT/HL
+(tc)
+(tc)
+
+(béo)
+(béo)
Giải thích:
+: Chỉ định; ±: Cân nhắc ; -: Chống chỉ định.
DM: đái tháo đường ; CHD: Bệnh mạch vành ; HT tăng huyết áp. HL: Tăng Lipid máu; tc = tích cực.
Thuốc
Thuốc chỉ nên dùng trong những trường hợp bắt buộc, phải xem thuốc là phương tiện trợ giúp cho chế độ ăn uống và luyện tập. về sử dụng thuốc nên được cân nhắc khi:
Ăn nhiều hoặc luôn có cảm giác đói là nguyên nhân chính gây tăng cân.
Nhiều yếu tố nguy cơ cùng xuất hiện như: rối loạn dung nạp glucose, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu.
Nhiều biến chứng do béo phì đã xuất hiện như : viêm xương khớp, cơn ngừng thở khi ngủ, bệnh lý thực quản…
Các thuốc chống béo phì có thể chia ra 2 nhóm lớn
Thuốc tác dụng lên hệ thống thần kinh trung ương
Thuốc tác dụng theo con đường serotoninergic (5HT):
Fenfluramin và Dexfenfluramin: Ngày nay ít dùng và thuốc có tác dụng gây tăng áp động mạch phổi và gây tổn thương phì đại các van tim.
Fluoxiten: Là một thuốc chống trầm cảm loại serotoninergic tác dụng làm chán ăn, gây giảm cân nặng.
Thuốc tác dụng lên con đường noradrenergic:
Ephedrin và caffein
Phentermin và Diethylproprion: Là những amphetamin có tác dụng gây chán ăn, giảm cân; đây là những thuốc có tác dụng lên hệ thống thần kinh trung ương, chỉ nên dùng trong vòng 3 tháng.
Thuốc đồng thời tác dụng lên hệ serotoninergic và noradrenergic:
Sibutramin: Thuốc ức chế tái tiếp nhận serotomin và noradrenalin, do vậy làm tăng cảm giác chán ăn sau ăn tăng tỷ lệ chuyển hóa, tăng tiêu hao năng lượng.
Các thử nghiệm lâm sàng cho thấy sibutramin trong 6 tháng có thể làm giảm 4,4 – 6,3kg.
Tác dụng không mong muốn là làm tăng huyết áp và làm tăng nhịp tim, nhưng chỉ xảy ra ở một số trường hợp.
Thuốc tác dụng lên hệ tiêu hoá
Metformin
Được khuyến cáo cẩn thận khi quyết định sử dụng với mục đích giảm cân, vì dễ thuốc có nhiều tác dụng không mong muốn. Đặc biệt là gây nhiễm toan lactic.
Orlistat
ức chế lipase của tuỵ, nhưng thuốc cũng gây suy giảm khả năng hấp thụ các vitamin tan trong mỡ vì thế có nhiều người khuyên khi dùng orlistat phải tăng chế độ ăn giàu vitamin như rau tươi, hoa quả.
Cũng có ý kiến cảnh báo rằng dùng orlistat có tỷ lệ ung thư vú cao hơn bình thường. Tuy nhiên đây mới chỉ là nhận xét ban đầu, để có kết luận chính xác, cần có các nghiên cứu sâu hơn nữa.
Các thuốc không phù hợp để điều trị béo phì
Các lợi tiểu, an thần, HCG (human chorionic gonadotrophin) không nên dùng
Các thuốc amphetamin, dexamphetamin và thyroxin có thể nguy hiểm mà không thể đạt được mục đích giảm cân nặng
Các thuốc chống béo phì fenluramine và D-fenfluramin từ 1997 đã bị cấm sau khi có đủ bằng chứng cho thấy có mối liên quan giữa việc sử dụng thuốc với các rối loạn hoạt động của van tim
Chống chỉ định của thuốc chống béo phì
Những đối tượng sau không sử dụng thuốc chống béo phì:
Trẻ em (dưới 16 tuổi).
Người bệnh bị dị ứng với thuốc hoặc không dung nạp thuốc đã từng bị những tác dụng phụ nặng nề.
Phụ nữ có thai và cho con bú.
Người đã dùng thuốc ức chế tái tiếp nhận serotonin chọn lọc khác (SSRIs).
Các thuốc ức chế monoamin oxidase.
Chế độ ăn có hàm lượng calo thấp
Người ta coi chế độ ăn có hàm lượng calo thấp (VLCD = very low calories diets ) khi lượng calo từ 400-800calori/24 giờ, với lượng calo này sẽ giảm được l-l,5kg/tuần.
Để thực hiện được chế độ VLCL đòi hỏi người thực hiện phải rất quyết tâm; vì nếu có đạt được mục tiêu giảm cân ban đầu mà sau đó người bệnh lại ăn như cũ thì cân nặng lại sẽ tăng lên nhanh chóng. Những yêu cầu khác cũng cần được thực hiện là; phải tôn trọng thói quen ăn uống của đối tượng và họ buộc phải tăng cường hoạt động thế lực trước khi thực hiện chế độ VLCD.VLCDs là phương pháp điều trị có thể áp dụng ở nhiều đối tượng, thậm chí cả những người mắc bệnh béo phì nặng; những đối tượng này thường cần thời gian tới 12 tháng.
Điều trị phẫu thuật
Phẫu thuật cắt dạ dày được chỉ định cho những đối tượng có BMI > 40kg/m2.
Quản lý trẻ em béo phì
Đây là vấn đề phức tạp, vì điều chỉnh chế độ ăn cho trẻ em, là điều chỉnh chế độ ăn cho cả gia đình. Cho tới nay phương pháp có giá trị nhất là tăng cường các hoạt động thể lực và thói quen ăn uống hợp lý.
Chế độ ăn của trẻ cũng là điểu cần hết sức quan tâm vì ở lứa tuỏi này còn đang trong giai đoạn hoàn thiện của cơ thể. Nhiều tác giả khuyên không dùng chế độ VLCDs cho trẻ em dưới 18 tuổi.
Người ta cũng chú ý đến việc luyện tập ở trường của các học sinh thừa cân, béo phì. Thời gian xem tivi, chơi trò điện tử trên máy vi tính với thời gian dài đều là nguyên nhân hạn chế thời gian luyện tập của trẻ.
Việc dùng thuốc cần hạn chế đến mức tối đa, nhất là với những trẻ em <18 tuổi.
Cùng với thụ thể CD4, HIV cần phải có thêm các đồng thụ thể để xâm nhập vào tế bào đích. Hai loại đồng thụ thể quan trọng nhất là CXCR4 và CCR5 được phát hiện ra từ giữa thập kỷ 90. Có khoảng trên 200 thụ thể loại này, chúng được đặt tên theo các chemokin tự nhiên thường gắn với chúng. Danh pháp của chúng căn cứ vào giải mã trình tự amino acid. Thụ thể CCR5 là “CC-chemokine” MIP và RANTES, với thụ thể CXCR4 thì là “CXC-chemokine” SDF-1.
Các biến chủng HIV khác nhau sẽ sử dụng receptor CCR5 hoặc CXCR4 để xâm nhập vào tế bào đích. Dựa theo ái tính với các receptor, HIV được đặt tên là R5 nếu nó dùng coreceptor CCR5 trong khi những virus có ái tính với CXCR4 thì được đặt tên là virus X4. Virus R5 chủ yếu gây nhiễm đại thực bào (trước gọi là virus “M-trope” ); virus X4 chủ yếu gây nhiễm tế bào T (trước đây gọi là virus “T-trope”). Các virus “ái tính kép” có thể sử dụng cả hai thụ thể và còn có hỗn hợp các virus R5 và X4. Ở hầu hết bệnh nhân, virus R5 tìm thấy trong giai đoạn sớm của bệnh; virus X4 có độc lực cao hơn và có khả năng gây nhiễm nhiều loại tế bào và ở giai đoạn bệnh muộn hơn. Sự thay đổi ái tính của virus thường xảy ra như một hậu quả của quá trình tiến triển bệnh (Connor 1997, Scarkatti 1997). Hiện vẫn còn chưa rõ vì sao điều này xảy ra sau một số năm nhiễm bệnh mặc dù sự thay đổi ái lực chỉ cần vài đột biến nhỏ. Có lẽ là virus R5 nhìn chung là kém thích nghi hơn xét về loại tế bào và bởi vậy hệ thống miễn dịch của cơ thể nhận biết khó khăn hơn. Virus X4 có tính thích nghi cao hơn hẳn bởi lẽ mức glycosyl hóa của chúng thấp, nhưng khả năng kích thích miễn dịch cao hơn. Chúng dễ bị trung hòa bởi hệ thống miễn dịch hơn và bởi thế chúng chỉ trở nên lộ mặt khi có sự suy giảm miễn dịch rõ ràng.
Trong những nghiên cứu thuần tập lớn, khoảng 80 % của tất cả các virus bộc lộ ái lực với CCR5 (tức là virus R5 ). Ái lực với các receptor liên quan chặt chẽ với giai đoạn của bệnh. Nếu CD4 càng cao và tải lượng virus càng thấp thì càng hiện diện virus R5 nhiều hơn (Moyle 2005, Brumme 2005). Ngược lại, virus X4 hầu như chỉ tìm thấy ở những trường hợp bệnh nhân trong giai đoạn nặng của bệnh: khi CD4 > 500/µl, người ta chỉ thấy trong 6 % trường hợp; với T- CD4< 25 TB/µl, thấy ở 50 % số bệnh nhân (Brumme 2005). X4 cũng có nhiều hơn ở bệnh nhân đã từng điều trị (Demarest 2004). Hơn nữa, virus X4 hầu như xuất hiện trong quần thể có cả X4 và R5, còn trường hợp có chỉ riêng X4 là rất hiếm.
Thuốc đối kháng CCR5 và CXCR4 có thể được phân biệt nhờ vào tính đặc hiệu. Nó phong tỏa từng coreceptor tương ứng tương tự như các chemokine tự nhiên mà nó có tương đồng một phần về mặt hóa học. Sự phát triển các thuốc đối kháng CCR5 (một số trong đó có đuôi “-viroc” trong tên của chúng) đạt nhiều thành tựu hơn so với các thuốc đối kháng CXCR4. Lý do chủ yếu là việc phong tỏa các receptor CCR5 ít gây hậu quả về lâm sàng hơn (ít nhất là về mặt lý thuyết). Đặc biệt là các trường hợp thiếu hụt receptor CCR5 bẩm sinh vẫn khỏe mạnh. Với CXCR4 thì điều này là không chắc chắn. Tình trạng thiếu hụt CXCR4 bẩm sinh mà vẫn vô hại ở người chưa từng được biết đến, còn theo các thử nghiệm trên súc vật, việc phong tỏa CXCR4 lâu dài đã gây các hậu quả lâm sàng.
Trong quá trình chế tạo thuốc đối kháng CCR5, phải vượt qua một số trở ngại. Theo lẽ thường, càng học được nhiều thứ từ nhóm thuốc này thì càng có nhiều câu hỏi xuất hiện. Những câu hỏi quan trọng nhất là:
Liệuthuốcđối kháng R5 có gây độc tính với gan? Vào tháng 10 năm 2005, aplaviroc – một loại đối kháng R5 – đã phải ngừng chế tạo bởi một số bệnh nhân xuất hiện nhiễm độc gan trầm trọng (Steel 2005). Từ đó, tất cả các thuốc đối kháng CCR5 đã bị đặt dưới chế độ theo dõi nghiêm ngặt về các độc tính với gan. Tiếp đó không có một dữ liệu tiêu cực nào được báo cáo với vicriviroc, nhưng đến tháng 11 năm 2005 Pfizer lại thông báo 1 ca suy gan sau đó phải thay gan ở bệnh nhân điều trị maraviroc. Tuy vậy bệnh nhân này đến từ Thái Lan và cũng được dùng thuốc có thể gây suy gan isoniazid trước đó và toàn bộ quá trình theo dõi tại bệnh viện của bệnh nhân này có nhiều điểm rất đáng ngờ. Tạm thời kết quả là: chưa có bằng chứng rõ ràng rằng thuốc đối kháng CCR5 gây nhiễm độc gan, nhưng sự đề phòng là cần thiết.
Bệnhnhânnào sẽ thích hợp để uống thuốc đối kháng CCR5 ? Ban đầu có vẻ như chỉ những bệnh nhân mang virus có ái lực với R5 mới thích hợp. Mặc dù những nghiên cứu trước đây cho rằng tỷ lệ virus có ái lực với X4 là khoảng 20% trong tổng số (Brumme 2005, Moyle 2005), nhưng có vẻ những bệnh nhân nhiễm HIV giai đoạn nặng và đã điều trị nhiều trước đó khó có được ích lợi thực sự từ thuốc này. Nghiên cứu Phase IIb ACTG 5211 về vicriviroc ở 368 bệnh nhân đã có điều trị ARV trước đó thấy chỉ 48 % bệnh nhân mang virus có ái tính cao với R5, 48 % bệnh nhân có cả X4 và R5, và 4 % mang virus có ái tính cao với X4 (Wilkin 2006). Điều đó có nghĩa là thuốc đối kháng CCR5 không phù hợp cho trường hợp điều trị cứu cánh ở nhiều bệnh nhân. Vai trò của chúng có lẽ là thay thế ARV truyền thống nếu muốn giảm độc tính ty thể?
LiệusựchuyểnđổisangX4cógây hại cho bệnh nhân? Chúng ta đã biết rằng virus X4 đi kèm với việc sụt giảm mau chóng số lượng CD4 và sự tiến triển của bệnh (Connor 2997, Scarkatti 1997). Khi điều trị thuốc đối kháng R5, sự chuyển đổi sang X4 là dễ hiểu do áp lực chọn lọc và điều này đã được chứng minh ở một số bệnh nhân. Mặc dù nhiều nghiên cứu cây di truyền đã chứng minh rằng virus ái tính với X4 được bộc lộ ra sau liệu trình điều trị bằng thuốc đối kháng CCR5 là do chúng được lựa chọn ra từ ổ chứa tiềm tàng chứ không phải là do sự dịch chuyển receptor (Westby 2006), mức độ ảnh hưởng của việc chọn lọc X4 đối với bệnh nhân hiện còn chưa sáng tỏ. Một nghiên cứu mới đây đã được công bố, trong đó bệnh nhân mang hỗn hợp R5/X4 được điều trị bằng maraviroc. Sau 24 tuần, CD4 tăng lên rõ so với nhóm giả dược (Mayer 2006) – tiến triển nặng của HIV khi điều trị thuốc đối kháng R5 có vẻ ít xảy ra trong thời gian ngắn.
Thuốc đối kháng CCR5 còn gây hậu quả gì nữa? Bệnh nhân có thiếu hụt coreceptor bẩm sinh vẫn có thể khỏe mạnh. Tuy nhiên điều đáng lo là phong tỏa các receptor này có thể gây các hiệu ứng tiêu cực. Hơn nữa tổng hợp các tác động trên những receptor này có thể gây ra phản ứng tự miễn. Cho đến bây giờ cả hai vấn đề này đều chưa thấy xuất hiện ở mô hình thí nghiệm trên khỉ (Peters 2005). Khi phân tích kết quả của các nghiên cứu pha I và II đã hoàn thành về maraviroc, không thấy có tác dụng bất lợi nào trên chức năng miễn dịch (Ayoub 2007). Ngược lại, các thông báo về các ung thư (đặc biệt là u lympho ác tính) trong một nghiên cứu về vicriviroc lại gây ra cảm giác bất an (Gulick 2006). Chưa có giải thích thích đáng cho trường hợp này vì các bệnh nhân HIV không có thụ thể R5 bẩm sinh rất hiếm mắc u lympho (Rabkin 1999). Đồng thời kết quả này cũng chưa gặp ở các nghiên cứu khác
Cócầnxác định chủng ái lực ở mỗi bệnh nhân trước khi tiến hành điều trị? Vấn đề quan trọng là xác định chủng ái lực của virus như thế nào. Cho dù việc dùng thuốc đối kháng R5 có vẻ không gây tác hại ngay cả khi có hỗn hợp X4/R5 (xem trên), vẫn cần xét nghiệm trước điều trị để đánh giá liệu dùng thuốc kháng R5 có hợp lý hay không. Chỉ có một vài phòng xét nghiệm có thể thực hiện xét nghiệm xác định ái tính bởi xét nghiệm này rất phức tạp và đòi hỏi tế bào sống. Do đó, người ta đang cố gắng xác định ái tính bằng di truyền, và có thể thiết kế các xét nghiệm đơn giản và nhanh hơn. Nghiên cứu hiện nay đang tập trung vào vòng V3 của protein vỏ gp120, do HIV gắn với vùng này trên đồng thụ thể (Jensen 2003, Briz 2006). Tuy nhiên, ái tính không chỉ được xác định đơn thuần bằng vòng V3 – virus có các vòng V3 giống hệt nhau vẫn có thể mang ái tính khác nhau (Huang 2006). Điều này có nghĩa là sẽ phải đợi một thời gian mới có được một xét nghiệm ái tính đơn giản. Cũng còn chưa rõ liệu ai sẽ chi trả cho xét nghiệm này trước khi điều trị bằng thuốc kháng R5. Bảo hiểm y tế sẽ không đảm bảo chi trả, và có lẽ sẽ phải là trách nhiệm của nhà sản xuất thuốc.
Vấnđềkhángthuốc? Bởi vì các thuốc đối kháng đồng thụ thể gắn tương tự nhau vào các thụ thể, nên về mặt lý thuyết là có nguy cơ dễ dàng kháng chéo. Dù rằng theo một số nghiên cứu in vitro thì vấn đề này là có (Mosley 2006, Westby 2006), vẫn chưa có các bằng chứng in vivo. Cũng có khả năng các thuốc có tác động hợp đồng như một nghiên cứu gần đây đã cho kết quả (Murga 2006). Phối hợp các thuốc đối kháng R5 là hoàn toàn có thể về mặt lý thuyết. Cơ chế gây kháng thuốc vẫn chưa được xác định rõ và xét nghiệm kháng thuốc vẫn là một vấn đề (Pugach 2006). Tuy nhiên, kháng thuốc không có nghĩa là có sự chuyển đổi từ R5 sang X4. Virus có thể kháng thuốc đối kháng R5 nhưng vẫn mang ái tính R5.
Maraviroc(UK 427,857, Celsentri™, Selzentry™) của Pfizer là thuốc hứa hẹn nhất trong số những thuốc đối kháng R5. Trong nghiên cứu ngẫu nhiên mù kép, 63 bệnh nhân mang virus ái tính R5 được nhận các liều maraviroc khác nhau. Sau 10-15 ngày thì tải lượng virus giảm đi 1,6 log ở nhóm bệnh nhân được dùng liều 100 mg x 2 lần/ngày (Fätkenheuer 2005). Ba nghiên cứu pha II/III lớn tiến hành trên virus R5 đang được tiến hành ở bệnh nhân chưa từng điều trị (nghiên cứu 1026) cũng như bệnh nhân đã từng điều trị ARV kháng cả 3 nhóm (MOTIVATE-1 và 2). Trong nhóm điều trị maraviroc của các nghiên cứu MOTIVATE, VL thấp hơn 1 log so với giả dược sau 24 tuần (cả hai nhóm đều được dùng ARV tối ưu). Trong nhóm điều trị maraviroc liều ngày 2 lần, 45% bệnh nhân đạt được VL dưới 50 bản sao/ml so với 23% ở nhóm giả dược (Nelson 2007, Lalezari 2007). Đối với các bệnh nhân không có thuốc nào còn hiệu lực trong phác đồ nền (theo xét nghiệm gen kháng thuốc), 41% đạt VL dưới 400 bản sao/ml so với 6% ở nhóm giả dược (FDA Briefing Document Maraviroc).
Tác động của thuốc ra sao với chủng virus không phải R5? Trong một nghiên cứu pha II ngẫu nhiên mù đôi nhỏ trên 113 bệnh nhân đã từng điều trị nhiều thuốc và mang virus X4, không thấy có khác biệt rõ rệt về lượng giảm VL. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là CD4 tăng rõ (Mayer 2006). Trong nghiên cứu 1026, 917 bệnh nhân chưa từng điều trị đã được nhận AZT+3TC kèm theo efavirenz, maraviroc 300 mg ngày 2 lần hoặc 300 mg ngày 1 lần. Đầu năm 2006, nhóm maraviroc ngày 1 lần đã bị ngừng lại do hiệu quả kém hơn so với nhóm efavirenz. Nhóm maraviroc ngày 2 lần vẫn được tiếp tục và kết quả sẽ được công bố khoảng giữa năm 2007.
Dữ liệu kháng thuốc đầu tiên cũng đã được công bố: đột biến ở codon A316T và I323V ở vòng V3 của protein vỏ cùng nhau gây kháng maraviroc (Mosley 2006).
Cần lưu ý tương tác thuốc khi kê đơn. Maraviroc bản thân nó không ảnh hưởng tới nồng độ các thuốc khác nhưng lại chịu ảnh hưởng của các PI (trừ tipranavir/r) và efavirenz, tương tự như các dẫn chất CYP3A4. Liều maraviroc phải được giảm một nửa khi dùng cùng với PI (trừ tipranavir) và tăng gấp đôi khi dùng cùng efavirenz (nếu không thêm PI nào khác) (Abel 2005, Abel 2006).
Khả năng dung nạp thuốc trong các nghiên cứu trên là tuyệt vời khi so với giả dược. Tác dụng phụ đặc hiệu duy nhất là giảm huyết áp tư thế đứng, tuy nhiên rất hiếm xảy ra với liều thông thường.
Maraviroc là một thuốc rất tốt cho bệnh nhân mang virus R5 đã kháng các ARV khác và có thể giúp giảm độc tính của HAART. Dữ liệu trên bệnh nhân chưa từng điều trị sẽ sớm được công bố. Chương trình tiếp cận mở rộng ở 30 quốc gia đã bắt đầu tháng 5/2007 và thuốc sẽ sớm được cấp phép.
Vicriviroc(SCH-D, or417690) là một thuốc đối kháng CCR5 của Schering-Plough, có độ khả dụng sinh học cao khi dùng đường uống. Nó có ái tính với CCR5 coreceptor cao hơn nhiều so với tiền chất của nó là SCH-C (Stritzki 2005). Vicriviroc đang trong giai đoạn nghiên cứu pha II. Trong nghiên cứu pha I, liều dùng cao nhất là 50mg mỗi ngày làm giảm tải lượng virus trung bình xuống 1,62 log (Schürmann 2004). Chất này cùng được dung nạp tốt. Không thấy tác dụng phụ gây loạn nhịp tim (QT kéo dài) là một tác dụng phụ đã gặp với tiền chất của nó là SCH-C (Sansone 2005). Dữ liệu từ nghiên cứu pha II trên những bệnh nhân chưa từng được điều trị ARV đã đưa ra những hồ nghi về tác động lâu dài của vicriviroc (Greaves 2006). Trong thử nghiệm này, vicriviroc với những liều khác nhau được so sánh với efavirenz (tất cả các bệnh nhân nghiên cứu vẫn được dùng đồng thời AZT và 3TC). Sau một giai đoạn theo dõi trung bình là 32 tuần, nghiên cứu đã bị ngừng sớm vì tỷ lệ điều trị thất bại (> 50 bản sao/ml) của nhóm nghiên cứu sau liệu trình là 8 % đối với efavirenz, và 57 % đối với nhóm dùng 25 mg vicriviroc, và 45 % ở nhóm dùng 50 mg vicriviroc, và 22 % ở nhóm dùng 75 mg vicriviroc. Theo dõi thấy rằng tỷ lệ điều trị thất bại ở nhóm dùng liều cao hơn thì giảm đi một cách tương ứng, điều này dẫn đến hy vọng rằng thất bại điều trị phụ thuộc liều dùng. Nghiên cứu ACTG 5211 trên những bệnh nhân đã từng được điều trị ARV ủng hộ giả thuyết này (Gulick 2006). Sau 24 tuần dùng vicriviroc với liều 5, 10, và 15 mg (có tăng cường bằng ritonavir), VL giảm đáng kể tới 1 log so với nhóm giả dược. Kết quả này cho thấy vicriviroc có lẽ phải được tăng cường bẳng ritonavir. Tuy nhiên có 4/118 bệnh nhân mắc u lympho, một tỷ lệ không bình thường ngay cả ở nhóm bệnh nhân giai đoạn muộn này. Từ đó cũng chưa có thêm ca ung thư mới nào nên vicriviroc vẫn đang được tiếp tục.
TAK-652 là thuốc đối kháng CCR5 của công ty Nhật Takeda. Nó hấp thu tốt qua đường tiêu hóa (Baba 2005). Trên in vitro nó có tác dụng đồng vận với T-20 (Tremblay 2005). Các kết quả từ phòng xét nghiệm cho thấy để kháng hoàn toàn thuốc này phải có vài đột biến cùng lúc ở vòng V3 và gen env. Ái tính không thay đổi khi có đột biến (Baba 2006).
INCB9471 cũng là một thuốc đối kháng R5 dùng đường uống của công ty Incyte. Thử nghiệm pha I trên người khỏe mạnh đã được thực hiện vào năm 2006. Kết quả chưa được công bố và những nghiên cứu đầu tiên trên bệnh nhân HIV đã được tiến hành cuối năm 2006.
Pro-140 là thuốc đối kháng CCR5 của Progenics, tác động như một kháng thể đơn dòng (Trkola 2001). Nó không phải là một dẫn chất chemokine như maraviroc và vicriviroc và thậm chí còn có tác dụng hiệp đồng với các thuốc đó (Murga 2006). Pro-140 phải dùng đường tĩnh mạch. Nghiên cứu trên động vật (mô hình tác động trên chuột SCID) thấy dùng liều đơn thuốc này đem lại tác dụng giảm tải lượng virus, tác dụng này phụ thuộc vào liều dùng và không có bằng chứng về hiện tượng bùng phát lại (rebound) sau điều trị (Franti 2002). Chức năng bình thường của CCR5 có vẻ như không bị rối loạn, ít nhất là tại các liều đủ để ức chế virus nhân bản (Gardner 2003). Những dữ liệu lâm sàng đầu tiên trên 20 người tình nguyện khỏe mạnh được dùng 1 liều duy nhất tiêm tĩnh mạch đã được công bố vào mùa hè năm 2005 cho thấy kháng thể này dung nạp tốt và nồng độ đo được phụ thuốc vào liều dùng (Olson 2005). Tác dụng kéo dài của pro-140 là đáng kinh ngạc. Ở một số ca, receptor CCR5 bị phong bế trong hơn 60 ngày. Cho dù dung nạp tốt, nhà sản xuất vẫn quyết định theo dõi những người tham gia thử nghiệm lâu hơn so với kế hoạch ban đầu (Olson 2006). Vào tháng 12/2006, một nghiên cứu trên 39 bệnh nhân HIV với liều duy nhất 0.5, 2 hoặc 5 mg/kg đã được tiến hành và kết quả sẽ sớm được công bố.
CCR5mAb004 của Human Genome Sciences cũng là một kháng thể đơn dòng đang trong nghiên cứu pha I. Hàng rào kháng thuốc rất cao in vitro (Giguel 2006).
Aprepitant(Emend™) là một chất đối vận thụ thể neurokine-1 được cấp phép điều trị chống nôn trong hóa trị liệu. Thuốc có tác dụng rõ rệt trên virus R5 bằng cách điều hòa ngược thụ thể CCR5. Các dữ kiện trong phòng xét nghiệm cho thấy tác động lên khả năng nhân bản của HIV rất rõ rệt và phụ thuộc liều (Wang 2006).
AMD11070 là thuốc đối kháng CXCR4 của AnorMED. Trong 2 nghiên cứu thử nghiệm (Moyle 2007, Saag 2007), hiệu quả trên bệnh nhân mang chủng virus hỗn hợp đã được chứng minh. Sau 10 ngày đơn trị, VL giảm ít nhất 1 log ở tương ứng 4/9 và 3/6 bệnh nhân. Tuy nhiên thuốc đã bị ngừng chế tạo do độc gan. Vị trí gắn với thụ thể X4 khác với vị trí của tiền chất AMD 3100 khiến chúng ta có thể hy vọng vẫn chế tạo được các thuốc kháng X4 mới, hiệu quả và ít độc gan hơn (Wong 2007), AMD 11070 ít nhất cũng là một sự khởi đầu.
KRH-3955 và KRH-3140 là 2 loại thuốc đối kháng CXCR4 có thể hiện tác dụng, ít nhất là trên chuột (Tanaka 2006).
Calcium carbonate là gì? Tại sao nó lại được sử dụng?
Hầu hết mọi người đều biết rằng canxi là cần thiết cho xương chắc khỏe, nhưng canxi cũng cần thiết để giúp các mạch máu và cơ bắp co bóp và giãn nở, gửi thông điệp qua hệ thống thần kinh và tiết ra hormone và enzyme. Đây là khoáng chất phong phú nhất trong cơ thể bạn, chiếm khoảng 1%-2% trọng lượng cơ thể người trưởng thành. Hơn 99% canxi được lưu trữ trong xương và răng, phần còn lại được lưu trữ trong máu, cơ bắp và các mô khác.
Xương là mô sống, luôn bị phân hủy và xây dựng lại. Cho đến khoảng 30 tuổi, việc tiêu thụ đủ lượng canxi cùng với hoạt động thể chất hợp lý đảm bảo rằng cơ thể bạn tạo ra nhiều xương hơn là phá hủy. Hầu hết khối lượng xương của người trưởng thành được hình thành khi 18 tuổi đối với nữ và 20 tuổi đối với nam. Sau đó, quá trình phá vỡ xương thường vượt quá lượng xương được tạo ra. Vì lý do này, việc tối đa hóa lượng canxi trong xương là điều cần thiết khi còn có thể. Lượng canxi bạn mất đi sau tuổi 30 sẽ bị ảnh hưởng bởi di truyền, dân tộc, mức độ hoạt động thể chất, mức độ hormone giới tính, chế độ ăn uống và giới tính. Bạn có thể thay thế lượng canxi mất đi qua chế độ ăn và mức độ hoạt động, nhưng không thể tăng lượng canxi lưu trữ trong cơ thể. Khi khối lượng xương giảm và mô xương bị suy thoái, bệnh loãng xương có thể xảy ra, khiến xương dễ bị gãy. Tùy vào mức độ nghiêm trọng của tổn thương, xương có thể gãy từ một cú ngã nhẹ, hoặc trong những trường hợp nghiêm trọng, chỉ từ một cơn hắt hơi.
Tên thương hiệu có sẵn của calcium carbonate là gì?
Caltrate 600, Os-Cal 500, Tums Extra, Tums Chewy Delight và nhiều thương hiệu khác cùng với các thuốc generic.
Calcium carbonate có sẵn dưới dạng thuốc generic không?
Có.
Tôi có cần đơn thuốc để mua calcium carbonate không?
Không.
Tác dụng phụ của calcium carbonate là gì?
Sản phẩm canxi hiếm khi gây đau dạ dày. Các tác dụng phụ phổ biến do dùng quá liều và mức canxi trong máu tăng cao (tăng canxi máu) bao gồm:
Buồn nôn
Nôn mửa
Giảm cảm giác thèm ăn
Đau bụng
Miệng khô và
Khát nước.
Các tác dụng phụ khác do tăng canxi máu nghiêm trọng có thể bao gồm:
Mất phương hướng
Mê sảng
Lú lẫn, và
Hôn mê.
Bổ sung canxi có thể gây ra hiện tượng axit dạ dày tăng trở lại.
Liều dùng của calcium carbonate là gì?
Liều khuyến cáo thông thường của việc bổ sung canxi là 1 đến 1,2 g mỗi ngày, chia làm 2 hoặc 4 liều nhỏ với bữa ăn.
Liều dùng cho mục đích làm thuốc chống axit là 2 đến 4 viên mỗi 24 giờ, không vượt quá 7 g mỗi ngày.
Các thuốc hoặc thực phẩm bổ sung nào tương tác với calcium carbonate?
Calcium có thể làm giảm khả năng hấp thụ một số thuốc. Sản phẩm canxi liên kết với các loại kháng sinh quinolone (ví dụ như ciprofloxacin) và tetracycline (ví dụ như Sumycin) trong ruột, và có thể ngăn cản sự hấp thụ của chúng vào cơ thể. Để tránh tương tác này, cần phải chia nhỏ liều của các loại kháng sinh quinolone và tetracycline ra ít nhất ba giờ sau khi dùng canxi.
Sản phẩm chứa calcium carbonate làm giảm độ axit trong dạ dày, và sự giảm axit này sẽ làm giảm sự hấp thụ sắt từ ruột. Do đó, liều canxi và sắt nên được tách rời nhau ít nhất vài giờ.
Các sản phẩm canxi cũng liên kết với sodium polystyrene sulfonate (Kayexalate, một loại thuốc dùng để điều trị nồng độ kali cao) trong ruột, và do đó có thể làm giảm hiệu quả của Kayexalate. Liều dùng Kayexalate và sản phẩm canxi cũng cần được tách biệt vài giờ.
Calcium carbonate có an toàn khi tôi mang thai hoặc cho con bú không?
Việc sử dụng bổ sung canxi trong thai kỳ dường như là an toàn, nhưng nên sử dụng dưới sự giám sát của chuyên gia y tế.
Canxi có trong sữa mẹ nhưng được coi là an toàn khi cho con bú.
Bổ sung canxi là an toàn khi được sử dụng bởi các bà mẹ đang cho con bú.
Những điều khác tôi cần biết về calcium carbonate là gì?
Các dạng của calcium carbonate có sẵn là gì?
Viên nén nhai: 500, 750, 1000, 1177 mg.
Cách bảo quản calcium carbonate như thế nào?
Viên nén cần được bảo quản ở nhiệt độ phòng, từ 2°C đến 25°C (36°F đến 77°F).
Tóm tắt
Calcium carbonate (Caltrate 600, Os-Cal 500, Tums Extra, Tums Chewy Delight và nhiều thương hiệu khác) là một loại thuốc không cần đơn dùng trong chế độ điều trị và phòng ngừa loãng xương ở những người có mức canxi thấp trong chế độ ăn uống và cũng được sử dụng như một thuốc chống axit cho những người bị đau dạ dày nhẹ. Trước khi sử dụng bất kỳ loại thuốc nào, cần phải xem xét tác dụng phụ, tương tác thuốc, liều dùng, cách bảo quản và các thông tin an toàn cho bệnh nhân.