Những bệnh nhân tai biến khi qua giai đoạn cấp thì theo dõi, chăm sóc, nuôi dưỡng, vận động phục hồi chức năng cho bệnh nhân rất quan trọng, giúp bệnh nhân sớm hồi phục và sớm hòa nhập với cuộc sống. Chúng ta cần nắm rõ những điều cần lưu ý trên để chăm sóc bệnh nhân tốt nhất. Sau đây chúng tôi sẽ hướng dẫn người nhà bệnh nhân chăm sóc cho bệnh nhân tai biến mạch máu não.
– Chăm sóc da: Thay đồ, lau chùi cơ thể, bộ phận sinh dục ít nhất 1 lần/ngày
– Chăm sóc mắt: Thường xuyên rửa mắt băng nước muối, băng mắt và dán mi nếu bệnh nhân không nhắm mắt được
– Vệ sinh răng miệng: Ít nhất 2 lần/ ngày đánh răng hoặc lau miệng bằng gạc hoặc vải ướt sạch (đối với bệnh nhân không tự vệ sinh được).
– Chăm sóc về tiết niệu
Những ngày đầu khi bệnh nhân có rối loạn cơ tròn đái ỉa không tự chủ phải chú ý chăm sóc phòng ngừa nhiễm trùng tiết niệu
+ Bệnh nhân có đặt sonde tiểu phải đảm bảo nguyên tắc vô khuẩn, túi đựng nước tiểu phải kín, đặt túi nước tiểu phải thấp hơn giường nằm của người bệnh. Kiểm tra thường xuyên để đảm bảo sonde không bị tắc, bị tuột.
Đối với trường hợp lưu sonde, kẹp sonde 4h tháo kẹp 1 lần tránh hội chứng bàng quang bé, mất phản xạ đi tiểu tiện sau này.
+ Đổ túi đựng nước tiểu và rửa sạch hàng ngày
+ Theo dõi lượng nước tiểu từng giờ hoặc 24h (Theo y lệnh)
+ Bệnh nhân đóng bỉm : Chú ý thay bỉm và vệ sinh sạch sẽ sau mỗi lần bệnh nhân đại tiểu tiện, ít nhất thay bỉm và vệ sinh 3 lần/ngày
– Chăm sóc về tiêu hoá
+ Theo dõi tính chất phân: Táo bón, tiêu chảy hay phân bình thường
+ Nếu táo bón thì chăm sóc: xoa bụng, uống nhiều nước. Nếu không hiệu quả báo bác sỹ sử dụng thuốc thụt tháo cho bệnh nhân
+ Nếu tiêu chảy, báo bác sỹ, bù đủ nước, ăn đủ dinh dưỡng, vệ sinh sạch sẽ sau tiêu chảy….
bệnh nhân tai biến mạch máu não
– Đảm bảo dinh dưỡng
+ Chế độ ăn: Đủ lượng calo phù hợp với từng người bệnh như gầy, béo, các bệnh mạn tính đã có từ trước khi bị tai biến mạch máu não (như tiểu đường, tim mạch, thận…)
Nhưng mỗi bệnh nhân cần đảm bảo 2500-3500 kcalo/ngày chia thành 6-8 lần/ngày
+ Đối với bệnh nhân ăn qua sonde cần ăn nhiều bữa một ngày mỗi lần ăn không quá 300ml và cách nhau 3- 4h. Bơm từ từ tránh nôn, sặc, thức ăn dễ tiêu hoá, dễ hấp thu nhiều chất dinh dưỡng, trước khi ăn cần hút dịch dạ dày kiểm tra tình trạng tiêu hóa của người bệnh
+ Tăng cường thêm các loại vitamin nhóm A,B,C bằng bơm nước hoa quả
+ Ăn nhạt nếu tăng huyết áp, suy tim, suy thận…
+ Đảm bảo đủ nước: lượng nước đưa vào cơ thể (uống, truyền) ước tính bằng số lượng nước tiểu của người bệnh có trong 24h + (300-500ml). Nếu người bệnh có sốt, ra nhiều mồ hôi, thở máy cần cho thêm 500ml
+ Nếu người bệnh nhẹ, không rối loạn chức năng nuốt thì động viên bênh nhân ăn từ từ, ăn ít một, vừa ăn vừa theo dõi nếu có dấu hiệu sặc báo ngay bác sỹ.
– Phòng chống loét
+ Thay đổi tư thế cho người bệnh ít nhất 2h/1 lần
+ Người bệnh bị tai biến mạch máu não phải nằm đệm chống loét (đệm hơi, đệm nước , phao chống loét…) tuyệt đối không để da bị xây xước mất sự toàn vẹn của da.
+ Chăm sóc da thật cẩn thận, sạch sẽ nhất là vùng tỳ đè để ngăn ngừa loét, nhiễm khuẩn. Hàng ngày rửa da thật sạch, nhẹ nhàng bằng xà phòng, lau da thật khô bằng khăn mềm và chất ngăn ngừa nhiễm khuẩn
+ Xoa bóp, xoa bột talc vào các điểm tỳ đè để máu đến nuôi dưỡng các tổ chức để phòng loét. Bôi thuốc nước Sanyrene xịt ngày 1 lần vào chỗ da tỳ đè phỏng rộp nhưng không được bôi thuốc vào vết loét sau khi xịt cần xoa nhẹ
+ Nếu người bệnh đã có vết loét: Cần cắt lọc tổ chức hoại tử, rửa sạch, thay băng vết loét khi thấm dịch. Có thể đắp đường, đắp muối 10% vào vết loét.
+ Dinh dưỡng thật đầy đủ (đặc biệt không thể thiếu Protid), ăn nhiều đạm, Vitamin giúp cho việc phục hồi làm lành vết thương nếu đã bị loét hoặc phòng loét do thiếu dinh dưỡng.
Khai thông đường thở là một thủ thuật cấp cứu rất quan trong đối với các thầy thuốc cấp cứu nhằm đảm bảo ô xy và thông khí đầy đủ cho bệnh nhân. Các điểm chính của chăm sóc đường thở là bảo vệ đường thở, giải phóng tắc nghẽn, và kỹ thuật hút đờm dãi.
Các thủ thuật khai thông đường thở có thể rất đơn giản như thay đổi tư thế đầu bệnh nhân (kỹ thuật ngửa đầu nâng cằm, ấn giữ hàm). Khai thông đường thở là một ưu tiên đầu tiên. Sau đó tiến hành thông khí miệng – miệng, miệng – mask, hoặc bóng ambu. Cuối cùng là các biện pháp bảo vệ đường thở như canuyn họng miệng, đặt nội khí quản, hoặc mở khí quản
Các kỹ thuật đặt nội khí quản (đường mũi, đường miệng), nội khí quản theo trình tự nhanh, mở khí quản qua màng nhẫn giáp, mở khí quản qua da được trình bày chi tiết trong các bài riêng
2. Nguyên nhân gây tắc nghẽn đường thở
2.1. Nguyên nhân nội sinh
Do sập các tổ chức phần mềm vùng họng miệng (giảm trương lực cơ, gẫy xương hàm)
Dị ứng gây phù niêm mạc họng và khí quản, thường do phản ứng dị ứng khi bị ong đốt, kháng sinh hoặc các thuốc hạ huyết áp (ức chế men chuyển)
Chấn thương thanh quản, khối u thanh quản
2.2. Nguyên nhân ngoại sinh
Phù thanh quản
Ổ mủ vùng hầu họng
Khối máu tụ (do rối loạn đông máu, chấn thương, phẫu thuật)
U tuyến giáp
U hạch
U hoặc dị vật thực quản
2.3. Di vật
Thức ăn
Đồ chơi với trẻ em hoặc bất kì đồ vật gì với các người bệnh sa sút trí tuệ hoặc người bệnh tâm thần
3. Các kỹ thuật khai thông đường thở
3.1. Tư thế bệnh nhân
* Khi bệnh nhân trong tình trạng không đáp ứng (bao gồm ngừng tuần hoàn)
Nhanh chóng phát hiện chấn thương cổ hoặc mặt nếu có chấn thương cột sống cổ để cổ ở tư thế ngửa trung gian.
Nếu bệnh nhân đang nằm nghiêng hoặc sấp thì dùng kỹ thuật “lật khúc gỗ” (lật đồng thời cả đầu, thân và chân tay cùng lúc) để đưa bệnh nhân về tư thế nằm ngửa
Mở đường thở bằng một trong hai cách: ngửa đầu / nhấc cằm nếu không nghi ngờ có chấn thương cột sống cổ hoặc ấn giữ hàm: chủ yếu do nhân viên y tế được huấn luyện thực hiện (nếu nghi ngờ có chấn thương cột sống cổ).
Một nguyên nhân thường gặp nhất gây tắc nghẽn đường thở là tụt lưỡi, chỉ áp dụng một trong hai cách trên có thể đã đủ kéo lưỡi về phía trước và mở thông đường thở (Hình 4).
Hình 4. Kỹ thuật ngửa đầu nhấc cằm: (A) Tắc nghẽn đường thở do tụt lưỡi; (B) Đường thở thông khi thực hiện kỹ thuật.
Hình 5. Kỹ thuật ấn giữ hàm
* Các trường hợp khác: Bệnh nhân suy hô hấp, phù não, TBMN: tư thế fowler. Bệnh nhân phù phổi cấp : ngồi thõng chân
3.2. Xử trí tắc nghẽn đường thở
Việc phát hiện sớm tắc nghẽn đường thở có tính quyết định. Các dị vật có thể gây tắc nghẽn đường thở một phần hoặc hoàn toàn :
– Tắc nghẽn một phần:
+ Trao đổi khí có thể gần bình thường, bệnh nhân vẫn tỉnh và ho được, cần động viên bệnh nhân tự làm sạch đường thở bằng cách ho.
+ Nếu vẫn còn tắc nghẽn, trao đổi khí xấu đi, bệnh nhân ho không hiệu quả khó thở tăng lên, tím thì cần can thiệp gấp.
– Tắc nghẽn hoàn toàn :
+ Bệnh nhân không thể nói, ho, thở ; hôn mê và cần được cấp cứu ngay.
Nếu các cố gắng điều chỉnh tư thế bệnh nhân thất bại hoặc thấy có dị vật ở miệng, hầu thì áp dụng các biện pháp sau :
Hình 6. Dấuhiệukinhđiểncủadị vật đường thở
Épbụng (nghiệm pháp Heimlich)
Ép vào vùng thượng vị nhanh làm đẩy cơ hoành lên trên gây tăng áp lực lồng ngực và tạo một luồng khí mạnh tống dị vật ra khỏi đường thở, tương tự như ho:
Nếu bệnh nhân đang ngồi hoặc đứng : Đứng sau bệnh nhân và dùng cánh tay ôm eo bệnh nhân, một bàn tay nắm lại, ngón cái ở trên đường giữa, đặt lên bụng hơi trên rốn, dưới mũi ức. Bàn tay kia ôm lên bàn tay đã nắm và dùng động tác giật (để ép) lên trên và ra sau một cách thật nhanh và dứt khoát lặp lại động tác tới khi giải phóng được tắc nghẽn hoặc tri giác bệnh nhân xấu đi.
Khi bệnh nhân hôn mê: đặt bệnh nhân nằm ngửa, mặt ngửa lên trên, nếu nôn để đầu bệnh nhân nghiêng một bên và lau miệng. Người cấp cứu quỳ gối ở hai bên hông bệnh nhân, đặt một cùi bàn tay lên bụng ở giữa rốn và mũi ức, bàn tay kia úp lên trên, đưa người ra phía trước ép nhanh lên phía trên, làm lại nếu cần
Khi chỉ một người cấp cứu và phải ép tim, hô hấp nhân tạo thì quỳ gối ở một bên cạnh hông bệnh nhân để dễ di chuyển và dùng tay ép như trên. Nếu có 2 người một người hô hấp nhân tạo và ép tim, một người làm nghiệm pháp.
Nếu chỉ có một mình nạn nhân: Tự ép bụng bằng cách ấn nắm tay lên bụng hoặc ép bụng vào các bề mặt chắc như bồn rửa, lưng ghế, mặt bàn, v…
Hình 7. Thủ thuật Heimlich khi bệnh nhân tỉnh
Hình 8. Thủ thuật Heimlich khi bệnh nhân hôn mê
Sau mỗi đợt ép bụng : Dùng 2 đến 3 ngón tay để móc khoang miệng kiểm tra. Sau khi lấy được dị vật hô hấp lại cho bệnh nhân, nếu có kết quả đánh giá hô hấp, tuần hoàn và thực hiện các can thiệp thích hợp. Nếu không thể hô hấp được cho bệnh nhân lập lại quá trình: Ép bụng, kiểm tra đường thở và hô hấp nhân tạo, nhắc lại tới khi giải phóng được đường thở và hô hấp nhân tạo được
Hình 9: Kỹ thuật lấy bỏ dị vật
3.2.2.Vỗlưng và ép ngực: Vì nghiệm pháp Heimlich có thể dễ dàng gây chấn thương bụng khi dùng cho trẻ nhỏ, kết hợp vỗ lưng và ép ngực ở các đối tượng này để loại trừ dị vật. Chỉ động tác vỗ lưng đã có thể tống được dị vật, nếu không có hiệu quả thì nối tiếp bằng ép ngực, sau đó kiểm tra đường thở.
Đặt trẻ nhỏ nằm trên tay tư thế sấp dọc theo trục của tay và đầu trẻ ở thấp
Dùng phần phẳng của bàn tay vỗ nhẹ và nhanh 5 cái lên vùng giữa hai xương bả vai
Nếu vỗ lưng không đẩy được dị vật ra, lật trẻ nằm ngửa và ép ngực 5 cái.
Vị trí và cách ép như với ép tim nhưng với nhịp độ chậm hơn.
Làm sạch đường thở giữa các lần vỗ lưng – ép ngực, quan sát khoang miệng dùng tay lấy bất cứ dị vật nào nếu nhìn thấy, không dùng ngón tay đưa sâu để lấy dị vật
Hình 10. Kỹthuậtvỗ lưng (A) ép ngực (B) ở trẻ nhỏ
* Đánh giá hiệu quả:
Sau mỗi động tác làm sạch đường thở, xác định theo dị vật đã được tống ra chưa và đường thở đã được giải phóng chưa, nếu chưa được lặp lại trình tự các động tác thích hợp tới khi thành công.
Loại trừ dị vật thành công khi thấy : (1) thấy chắc chắn dị vật được tống ra (2) Bệnh nhân thở rõ và nói được (3) Bệnh nhân tỉnh hơn (4) màu da bệnh nhân trở về bình thường
Nếu các động tác này được làm liên tục không có hiệu quả thì thực hiện các biện pháp khác mạnh mẽ hơn nếu có: Dùng đèn soi thanh quản và lấy dị vật bằng kẹp Margill, mở khí quản qua màng nhẫn giáp, mở khí quản qua Các kỹ thuật này là nâng cao, đòi hỏi các nhân viên được đào tạo đặc biệt tiến hành.
4. Các kỹ thuật bảo vệ đường thở
4.1. Đặt Canuyn hầu
* Mục đích :
Giúp duy trì sự thông thoáng của đường thở và thông khí đầy đủ, đặt biệt khi dùng bóng Ambu và Canuyn đặt đúng cũng giúp hút đờm dãi dễ dàng hơn.
Chỉ nên được thực hiện khi các biện pháp cơ bản hỗ trợ các chức năng sống đã được thực hiện
Dụng cụ này làm thông thoáng đường thở bằng cách tách lưỡi ra khỏi thành họ nhau.
* Dụng cụ :
Canuyn: có 2 loại : canuyn miệng hầu và canuyn mũi hầu
Đè lưỡi
Chất bôi trơn
Canuynmiệng hầu: có loại Guedel và Berman với các cỡ khác
Chọn cỡ thích hợp bằng cách đặt đầu ngoài của canuyn ở ngang góc miệng bệnh nhân, nếu đầu trong canuyn tới góc hàm là phù hợp.
Canuyn đặt đúng khi: Đầu trong nằm ở góc lưỡi và trên nắp thanh môn, mép ở đầu ngoài của canun ở bên ngoài cung răng. Có 2 kỹ thuật đặt:
+ Nhấc hàm để làm tách lưỡi ra khỏi thành sau họng, xoay canuyn 1800 trước khi đặt, khi đầu canuyn chạm hàm ếch cứng thì xoay trở lại 1800 làm cho bề cong của canun xếp theo khoang miệng.
+ Dùng đè lưỡi để ấn lưỡi, canuyn được trượt trên lưỡi theo độ cong của vòm miệng.
Nếu đặt canuyn sai vị trí làm đẩy lưỡi ra sau gây tắc nghẽn thêm do đó người đặt cần được huấn luyện trước
Chống chỉ định : Bệnh nhân tỉnh hoặc bán mê (có thể gây khạc, nôn, co thắt thanh quản), chấn thương khoang miệng, chấn thương xương hàm dưới hoặc phần hộp sọ thuộc xương hàm trên, tổn thương choán chỗ hoặc dị vật ở miệng họng
4.1.2. Canuyn mũi hầu
Giống Canuyn miệng họng ở chỗ tách lưỡi ra khỏi thành sau họng nhưng khác là canuyn này được đặt qua mũi tạo một con đường từ lỗ mũi ngoài đến gốc lưỡi
Chỉ định khi không đặt được canuyn miệng hầu, chống chỉ định khi có chấn thương hoặc tổn thương choán chỗ, dị vật ở vùng mũi, trẻ nhỏ (do lỗ mũi nhỏ).
Có nhiều cỡ khác nhau nhưng quan trọng là chiều dài của canuyn
Chiều dài thích hợp tương xứng với khoảng cách từ dái tai tới chân cánh mũi.
Cách đặt: Ngửa nhẹ đầu về phía sau, bôi trơn canuyn, đưa canuyn thẳng góc với bình diện của mặt bệnh nhân, từ từ tiến canuyn qua cửa mũi, đảm bảo mặt vát của canuyn hướng về phía vách mũi, nếu thấy đưa vào khó có thể xoay nhẹ, nếu vẫn khó rất có thể do vẹo vách mũi thì đặt lỗ mũi bên kia hoặc dùng canun cỡ nhỏ hơn. Đặt xong có thể kiểm tra vị trí bằng cách dùng đè lưỡi để nhìn. không cần cố định canuyn thêm.
4.2. Mặt nạ thanh quản
Mặt nạ thanh quản là một loại đường thở cố định vừng chắc hơn so với mặt nạ mũi miệng nhưng kém hơn so với nội khí quản
Mặt nạ thanh quản thường được sản xuất dưới dạng ống silicon (hoặc nhựa). Phần cuff (mặt nạ thanh quản) được nối với bóng Nếu đặt đúng vị trí thì 3 lỗ mở sẽ hướng thẳng vào thanh quản. Đối với người lớn thường dùng cỡ số 4, số 1 cho trẻ sơ sinh hoặc trẻ < 6,5 kg; số 2 cho trẻ từ 6,5-20 kg; số 3 cho trẻ > 30 kg.
Nên dùng mặt nạ thanh quản cho các bệnh nhân hôn mê. Tư thế đầu ngửa. Cho bệnh nhân há miệng và đầu của cuff ép sát vào vòm họng. Đẩy mặt nạ vào sâu cho đến khi thấy cảm giác vướng. Mặt nạ được đặt đúng khi sau khi bơm cuff thấy luồng hơi thở của bệnh nhân phụt lên.
Chống chỉ định: chấn thương cột sống cổ nên bệnh nhân không ưỡn được cổ, bệnh nhân không há được miệng, chấn thương hầu họng, những bệnh nhân có nguy cơ sặc cao, và khi cần phải duy trì đường thở kéo dài.
Cácbiện pháp khác: Đặt nội khí quản, mở khí quản, chọc, mở màng nhẫn giáp.
Nhưng với sự điều trị và hỗ trợ phù hợp, điều đó là có thể. Bạn có thể đã đến gặp bác sĩ thường của mình, nhưng cũng có những chuyên gia chuyên điều trị đau có thể hợp tác với bác sĩ và bạn để giúp bạn tìm được sự giảm đau.
Họ điều trị gì? Nhiều loại đau khác nhau, bao gồm đau do phẫu thuật, chấn thương, tổn thương dây thần kinh và các tình trạng như tiểu đường. Họ cũng điều trị các cơn đau không rõ nguyên nhân. Họ sử dụng các loại thuốc uống hoặc tiêm nhắm mục tiêu.
Chuyên gia và bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình
Họ điều trị gì? Chấn thương và bệnh ảnh hưởng đến hệ cơ xương, bao gồm xương, khớp, dây chằng, gân và cơ bắp. Nhiều người chuyên về các bộ phận cụ thể của cơ thể như hông, đầu gối và vai. Sau khi chẩn đoán thương tích hoặc rối loạn của bạn, họ sẽ lập ra kế hoạch điều trị có thể bao gồm thuốc. Họ cũng có thể khuyến nghị các bài tập (hoặc giới thiệu bạn đến một chuyên viên vật lý trị liệu) để giúp khôi phục chuyển động, sức mạnh và chức năng cho cơ thể của bạn, đồng thời dạy bạn cách ngăn ngừa các vấn đề thêm. Họ được đào tạo như bác sĩ phẫu thuật, vì vậy nếu cần phẫu thuật, họ có thể thực hiện.
Bác sĩ nắn xương
Họ điều trị gì? Mặc dù họ tương tự như bác sĩ y khoa (họ cũng đã học trường y, nhưng có DO sau tên của họ thay vì MD), các bác sĩ nắn xương nhận được thêm đào tạo về hệ cơ xương, bao gồm các dây thần kinh, cơ bắp và xương.
Bác sĩ thấp khớp
Họ điều trị gì? Các bệnh thấp khớp, bao gồm viêm khớp, viêm xương khớp, viêm khớp dạng thấp, gút và viêm gân, có thể gây đau, sưng và cứng khớp, cơ và xương. Các phương pháp điều trị có thể bao gồm thuốc hoặc tiêm chống viêm hoặc giảm đau vào gân hoặc khớp của bạn.
Bác sĩ vật lý trị liệu hoặc bác sĩ phục hồi chức năng
Họ điều trị gì? Các chấn thương và tình trạng ảnh hưởng đến cách bạn di chuyển. Họ chẩn đoán và điều trị đau liên quan đến dây thần kinh, cơ bắp và xương bao gồm hội chứng ống cổ tay, đau cổ và lưng, chấn thương thể thao và công việc, thoát vị đĩa đệm, viêm khớp, dây thần kinh bị chèn ép và chấn thương sọ não mà không cần phẫu thuật. Những bác sĩ này cũng điều trị đau sau phẫu thuật.
Chuyên viên vật lý trị liệu và chuyên viên trị liệu nghề nghiệp
Họ điều trị gì? Những chuyên gia này làm việc với những người đang phục hồi sau chấn thương hoặc phẫu thuật. Chuyên viên vật lý trị liệu có thể sử dụng massage, kéo giãn, nhiệt, đá lạnh và các bài tập để giúp giảm đau và tăng khả năng vận động của bạn. Họ thường thực hiện theo các chỉ định của bác sĩ phục hồi chức năng.
Chuyên viên châm cứu
Họ điều trị gì? Chuyên viên châm cứu được đào tạo để làm việc với nhiều loại tình trạng gây đau, bao gồm đau đầu, đau đầu gối, đau lưng dưới, đau cổ, đau thần kinh tọa, bong gân và viêm xương khớp. Họ sử dụng kim rất mỏng để châm vào các điểm cụ thể trên cơ thể, được cho là giúp thúc đẩy quá trình chữa lành. Mặc dù kim có thể khiến bạn lo lắng, hầu hết mọi người đều cảm thấy ít hoặc không có sự khó chịu.
Châm cứu chữa đau lưng
Bác sĩ chuyên khoa chỉnh hình
Họ điều trị gì? Đau lưng là lý do phổ biến khiến mọi người tìm đến bác sĩ chỉnh hình, nhưng các chuyên gia này điều trị đau từ nhiều loại tình trạng, chấn thương và tai nạn – thậm chí cả đau đầu mãn tính. Họ không kê đơn thuốc mà sử dụng các kỹ thuật thủ công để giảm đau.
Cách chọn chuyên gia điều trị đau
Bác sĩ của bạn có thể cho bạn biết loại chuyên gia nào bạn cần và có thể giới thiệu bạn. Khi chọn nhà cung cấp, bạn nên tìm hiểu về cách tiếp cận của họ đối với việc quản lý đau và cách họ sẽ điều trị cho bạn cụ thể. Chọn một bác sĩ có:
Đào tạo và kinh nghiệm trong việc điều trị loại đau cụ thể của bạn. Hầu hết sẽ đã hoàn thành chương trình đào tạo nâng cao về y học đau, vượt xa đào tạo chuyên ngành của bác sĩ.
Có chứng chỉ chuyên môn, nghĩa là họ đã vượt qua các bài kiểm tra chuyên sâu trong các lĩnh vực như gây mê, thần kinh học hoặc y học phục hồi chức năng.
Sữa non (Colostrum) thường có màu vàng vàng, giống như lòng đỏ trứng. Loại sữa đặc này đôi khi được gọi là “vàng lỏng” vì màu sắc và giá trị dinh dưỡng cao của nó đối với trẻ sơ sinh. Màu vàng của sữa non đến từ các sắc tố màu tan trong chất béo gọi là carotenoids, đóng vai trò như một chất chống oxy hóa.
Sữa non của bạn cũng có thể xuất hiện trong suốt, trắng hoặc kem trong một số trường hợp. Nó có độ đặc dính hơn sữa mẹ bình thường hoặc sữa bò và thậm chí có thể chứa những dấu vết máu mờ nhạt. Điều này là bình thường và không đáng lo ngại trừ khi có chảy máu mạnh.
Khi Nào Sữa Non Bắt Đầu?
Các hormone thai kỳ (như progesterone) được sản xuất bởi nhau thai khiến cơ thể bạn bắt đầu tạo ra sữa non từ khoảng 12 đến 18 tuần thai. Từ tam cá nguyệt thứ hai trở đi, vú của bạn có thể rỉ ra sữa non thỉnh thoảng. Trừ khi được bác sĩ khuyến cáo, đừng cố gắng nặn ra để giảm nguy cơ sinh non.
Ngay sau khi bạn sinh con, nhau thai sẽ tách ra khỏi tử cung và được đẩy ra ngoài. Khi không có nhau thai, mức progesterone giảm đáng kể, điều này gửi tín hiệu cho vú của bạn để sản xuất sữa.
Bất kỳ lúc nào từ ngay lập tức đến trong vòng 24 giờ sau khi sinh, bạn nên có thể bắt đầu cho con bú. Nó thường ra từng giọt do có độ đặc, nhưng đủ cho trẻ sơ sinh. Trong trường hợp con bạn gặp khó khăn khi cho bú, bạn có thể dùng tay để vắt sữa non và hỗ trợ cho trẻ. Máy bơm sữa có thể không hoạt động hiệu quả với loại sữa đặc như vậy.
Nếu bạn không chắc chắn rằng con bạn đang nhận được sữa non, hãy quan sát sức khỏe của chúng để xem có dấu hiệu như đi tiểu đều đặn và duy trì hoặc không mất quá nhiều cân nặng hay không.
Sữa Non Chứa Gì?
Trẻ sơ sinh dễ bị nhiễm trùng từ môi trường xung quanh vì hệ thống miễn dịch của chúng chưa phát triển hoàn chỉnh. Sữa non cung cấp sức mạnh cho hệ thống miễn dịch của trẻ và đóng vai trò là hàng rào phòng thủ đầu tiên chống lại các vi sinh vật có hại.
Sữa non chứa các tế bào bạch cầu (leukocytes), sản xuất kháng thể (immunoglobulin A) có thể bảo vệ chống lại nhiễm trùng. Khi trẻ tiêu thụ sữa, chúng nhận được những kháng thể này, giúp củng cố hệ thống miễn dịch của mình.
Sữa non giàu protein và có hàm lượng chất béo và đường thấp. Điều này bao gồm các protein như lactoferrin, có tác dụng bảo vệ chống lại nhiễm trùng, và yếu tố tăng trưởng biểu bì, thúc đẩy sự phát triển tế bào.
Nó cũng chứa một số vitamin quan trọng, như vitamin A, và khoáng chất như magiê, đồng, và kẽm. Vitamin A cần thiết cho thị lực, hệ miễn dịch và sức khỏe da của trẻ. Magiê rất cần thiết cho sự phát triển tim và xương của trẻ.
Đồng và kẽm cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ hệ miễn dịch của trẻ. Thực tế, sữa non có gấp bốn lần lượng kẽm và gấp hai lần lượng đồng so với sữa mẹ thông thường.
Mặc dù đặc hơn, sữa non vẫn dễ tiêu hóa hơn sữa mẹ bình thường do hàm lượng chất béo và đường thấp. Vì nó rất giàu dinh dưỡng, trẻ cần ít sữa non hơn để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của mình. Khoảng 1 đến 4 muỗng cà phê mỗi ngày là đủ, vì dạ dày của trẻ sơ sinh chỉ bằng kích thước của viên bi.
Khi Nào Sữa Non Chuyển Đổi Sang Sữa?
Ba giai đoạn của việc tiết sữa mẹ bao gồm:
Sữa non. Đây là loại sữa đầu tiên được tiết ra sau khi sinh. Cơ thể bạn thường sản xuất sữa non trong vòng hai đến năm ngày, sau đó thành phần sữa bắt đầu có những thay đổi.
Sữa chuyển tiếp. Loại sữa này chứa một hỗn hợp giữa sữa non và sữa trưởng thành hơn, thường được sản xuất từ năm ngày đến tối đa hai tuần sau khi sinh. Trong giai đoạn này, sản xuất sữa của bạn có khả năng tăng vọt để đáp ứng nhu cầu phát triển và dinh dưỡng của trẻ.
Sữa trưởng thành. Sau bốn đến sáu tuần sau khi sinh, quá trình chuyển tiếp hoàn tất, và tất cả sữa bạn sản xuất có thể được coi là trưởng thành, không còn dấu vết của sữa non. Loại sữa này mỏng hơn và trắng hơn, có hàm lượng chất béo và đường cao hơn.
Sữa Non Được Sử Dụng Để Làm Gì?
Sữa non có lợi cho trẻ sơ sinh theo những cách sau:
Cung cấp miễn dịch: Các kháng thể từ mẹ trong sữa non hoạt động như một loại kháng sinh tự nhiên cho trẻ sơ sinh.
Là nguồn dinh dưỡng phong phú: Sữa non chứa tất cả các chất dinh dưỡng cần thiết để trẻ sơ sinh phát triển an toàn và nhanh chóng.
Cải thiện sức khỏe đường ruột: Sữa non nhẹ nhàng với dạ dày của trẻ sơ sinh và bao phủ ruột của trẻ để ngăn chặn sự xâm nhập của các vi sinh vật gây hại.
Hoạt động như một loại thuốc nhuận tràng tự nhiên: Sữa non giúp làm sạch phân đầu tiên của trẻ (meconium), giảm nguy cơ trẻ bị vàng da.
Hỗ trợ trong việc điều chỉnh cơ thể: Sữa non giúp trẻ điều chỉnh nhiệt độ cơ thể, trao đổi chất, chức năng phổi và tuần hoàn, cũng như mức đường huyết để thích nghi với thế giới bên ngoài.
Thúc đẩy sự phát triển: Các yếu tố tăng trưởng trong sữa non giúp trẻ phát triển suôn sẻ và khỏe mạnh.
Những lợi ích đa dạng của sữa non thúc giục việc cho bú càng sớm càng tốt sau khi sinh.
Kết Luận
Cho bú có thể là bản năng, nhưng điều này không có nghĩa là mọi người đều thành thạo ngay lập tức. Đừng ngần ngại tìm kiếm lời khuyên từ bác sĩ nếu gặp khó khăn để đảm bảo trẻ không bị thiếu thốn sữa non, một loại thực phẩm siêu dinh dưỡng.
Xét nghiệm hoá sinh gan mật trong máu là những kết quả thăm dò chức năng của gan biểu hiện trong máu , trong các dịch của cơ thể giúp cho việc chẩn đoán các bệnh gan mật thêm chính xác và một mặt nào đó có giá trị chẩn đoán sớm bệnh gan .
2/ Các chức năng của gan có thể thăm dò được là :
– Chức năng tạo mật :
+ Định lượng Bilirubin máu .
+ Định lượng Urobilin trong nước tiểu .
+ Định lượng Strercobilin trong phân .
+ Nghiệm pháp hút dịch mật thường , định phút .
– Thăm dò chức năng chống độc , thải độc :
+ Định lượng NH3 .
+ Nghiệm pháp bài tiết axít hipuric.
+ Nghiệm pháp BSB ( Bromo – sunfo – phtalein )
Chức năng chuyển hoá đạm :
+ Định lượng protein toàn phần và điện di protein .
Khám X quang sự chuyển vận của baryt (thuốc cản quang cho uống rồi soi hoặc chụp X quang).
Đo áp lực trong thực quản (xem kĩ thuật này).
Chụp nhấp nháy thực quản: cho bệnh nhân ucíng nước hoặc ăn bữa ăn đánh dấu bằng technetium phóng xạ.
CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG CỦA DẠ DÀY:
Chụp nhấp nháy dạ dày:cho phép đo tốc độ ra khỏi dạ dày của các sợi thức ăn và những thức ăn khác của bữa ăn chuẩn.
X quang: những phim X quang bụng chụp tiếp nối nhau sau khi cho bệnh nhân ăn bữa ăn chứa các hạt cản quang cho phép đo tốc độ tông đẩy thức ăn ra khỏi dạ dày.
CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG CỦA RUỘT:
Đo thời gian chuyển vận tổng thể:sử dụng test với carmin để xác định thời gian xuất hiện chất mầu này trong phân (bình thường là từ 12 đến 14 giờ sau khi ăn), hoặc test với các hạt cản quang: cho bệnh nhân ăn kẹo chứa các hạt cản quang. Sau đó đo độ phóng xạ của phân qua những khoảng thời gian nhất định và chụp bụng để đo thời gian chuyển vận tống thể của đại tràng.
Đo thời gian chuyển vận của ruột non:
+ Chuyển vận baryt: đo rất ước chừng.
+ Test hô hấp với lactulose: đo thời gian xuất hiện khí hydro trong hơi thở bệnh nhân do lactulose bị lên men trong đại tràng.
+ Chụp nhấp nháy ruột: đo thời gian chuyển vận thức ăn miệng-manh tràng của một bữa ăn có chất đồng vị phóng xạ (đo thời gian từ lúc ăn tới khi thức ăn xuống tới manh tràng).
Đo thời gian chuyển vận của đại tràng:cho đôi tượng nuốt những nang chứa các hạt cản quang. Sau đó mỗi ngày chụp một phim bụng cho tới khi không còn hình ảnh của các hạt phóng xạ. Trên mỗi phim lại chia ra 4 vùng (tương ứng với đại tràng phải, trái, đại tràng sigma và trực tràng), đếm số hạt có hình ảnh chụp được trong các vùng này.
ĐO ÁP LỰC HẬU MÔN-TRỰC TRÀNG: sử dụng một ống thăm dò có 4 kênh trang bị bởi những bóng nhỏ cho phép làm căng phồng bóng trực tràng và từ đó đo áp lực của trực tràng ở các phần bóng, phần trên và phần dưới ống hậu môn.
Benzonatate là một loại thuốc được uống để ức chế cơn ho. Nó có tác dụng gây tê (tê liệt) tương tự như benzocaine và làm tê các cảm biến giãn nở trong phổi. Chính việc căng giãn các cảm biến này khi thở gây ra cơn ho. Benzonatate bắt đầu phát huy tác dụng trong khoảng 15 đến 20 phút, và hiệu quả của nó kéo dài khoảng 3 đến 8 giờ.
Benzonatate không liên quan đến các loại thuốc gây nghiện như codeine thường được sử dụng để ức chế ho. (Một loại thuốc giảm ho khác thường được sử dụng, dextromethorphan, có trong nhiều loại thuốc ho và cảm lạnh không kê đơn, là một dẫn xuất của các loại thuốc gây nghiện.)
Tác dụng phụ của benzonatate là gì?
Các phản ứng bất lợi thường gặp nhất của benzonatate bao gồm:
An thần
Đau đầu
Chóng mặt nhẹ
Táo bón
Buồn nôn
Nôn mửa
Những tác dụng phụ khác đã được báo cáo bao gồm:
Nghẹt mũi
Ảo giác
Ngứa da
Phát ban
Khó tiêu
Nhầm lẫn
Tê ở ngực
Các phản ứng dị ứng nghiêm trọng (bao gồm co thắt đường hô hấp và suy tuần hoàn) có thể xảy ra nếu nuốt hoặc nhai viên nang thay vì nuốt nguyên viên.
Benzonatate không nên được sử dụng cho trẻ em dưới 10 tuổi vì đã có báo cáo về quá liều vô tình và tử vong trong độ tuổi này.
Liều dùng cho benzonatate là gì?
Liều thông thường của benzonatate là 100-200 mg ba lần mỗi ngày khi cần thiết để giảm ho.
Liều tối đa được khuyến cáo bởi nhà sản xuất là 600 mg (3-6 viên nang tùy thuộc vào độ mạnh của viên nang) mỗi ngày.
Viên nang nên được nuốt nguyên và không nên ngậm, nghiền nát hoặc nhai.
Thuốc nào tương tác với benzonatate?
Hiện không có tương tác thuốc nào được biết đến với benzonatate.
Benzonatate có an toàn để sử dụng khi tôi đang mang thai hoặc cho con bú không?
Có rất ít thông tin về tác động của benzonatate đối với thai nhi. Các bác sĩ có thể sử dụng nó trong thời gian mang thai nếu lợi ích của nó được coi là vượt trội so với các rủi ro tiềm ẩn nhưng chưa biết.
Chưa rõ liệu benzonatate có được tiết vào sữa mẹ hay không.
Còn điều gì khác tôi nên biết về benzonatate?
Tôi có cần đơn thuốc để mua benzonatate không?
Có.
Các dạng bào chế của benzonatate có sẵn là gì?
Viên nang: 100, 150, và 200 mg.
Tôi nên bảo quản benzonatate như thế nào?
Viên nang nên được bảo quản ở nhiệt độ phòng, trong khoảng 15°C đến 30°C (59°F đến 86°F).
Tóm tắt
Benzonatate là một loại thuốc uống được kê đơn để ức chế ho. Benzonatate bắt đầu tác dụng ức chế cơn ho của người dùng trong vòng 15 đến 20 phút. Các phản ứng bất lợi thường gặp nhất của benzonatate bao gồm an thần, đau đầu, chóng mặt nhẹ, táo bón, buồn nôn và nôn mửa. Trẻ em nên được đánh giá cơn ho của mình và không nên sử dụng loại thuốc này cho trẻ em.
“Không ai hỏi tôi khi tôi 20 tuổi tôi muốn trở thành gì hay tôi muốn có cuộc sống như thế nào khi tôi 60 tuổi, bởi vì người ta không mong tôi sẽ sống,” Vince Crisostomo, một người ủng hộ HIV, cho biết.
Crisostomo, hiện đã bước sang tuổi 60, phát hiện ra mình mắc HIV vào năm 1989, hai năm sau khi bị nhiễm. “Mọi người liên tưởng nhiều đến sự mất mát với HIV và AIDS, đặc biệt là thế hệ của tôi,” ông nói. “Tôi đã may mắn.”
Trong những năm 1980 và đầu những năm 1990, nhiều người mắc HIV chỉ sống được 1-2 năm sau khi được chẩn đoán. Nhưng với các phương pháp điều trị mới và hiểu biết tốt hơn về virus, nhiều người, như Crisostomo, đang sống cuộc sống dài và khỏe mạnh.
Những tiến bộ trong điều trị HIV
Thuốc điều trị HIV đã phát triển rất nhiều kể từ khi FDA lần đầu tiên phê duyệt việc sử dụng các liệu pháp kháng retrovirus (ART) cho virus này. Điều trị trước đây bao gồm nhiều viên thuốc, liều lượng khó khăn, tương tác giữa thực phẩm và thuốc, và các triệu chứng khó chịu khác.
“Ngày đầu, chúng tôi đã phải thay đổi thuốc do tác dụng phụ,” Janessa Broussard, phó giám đốc phụ trách các vấn đề y tế của Quỹ AIDS San Francisco, cho biết. “Nhưng giờ đây, chúng tôi đã đạt đến một mức độ mà chúng tôi có những thuốc không có vấn đề mà khiến tôi lo lắng khi chuyển bệnh nhân sang một lựa chọn khác. Các quyết định mà chúng tôi đưa ra ngày nay liên quan đến sở thích của từng cá nhân.”
Điều trị HIV có thể vẫn có tác dụng phụ, nhưng ART hiện đại dễ quản lý hơn nhiều. Các phác đồ điều trị thành công đã cho phép tuổi thọ của những người sống với HIV trở nên tương đương với những người không có virus.
“Trước khi chúng ta có liệu pháp thích hợp, HIV là, như mọi người nói, một bản án tử hình,” Broussard nói. Điều đó đã thay đổi. “Đó là một cuộc trò chuyện hoàn toàn khác mà tôi có với bệnh nhân của mình, điều đó thật tuyệt vời. Tôi có thể nói rằng điều này thực sự sẽ không ảnh hưởng đến tuổi thọ của bạn. Bạn vẫn có thể sống một cuộc sống dài, hạnh phúc và khỏe mạnh.”
Các biến chứng liên quan đến tuổi tác của HIV
Vì mọi người sống lâu hơn với HIV, các vấn đề sức khỏe liên quan đến tuổi đã trở thành một thách thức mới. Trong khi các phương pháp điều trị HIV làm giảm nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến AIDS, một số bệnh không phải AIDS lại phổ biến hơn ở những người già đi cùng HIV. Một số bệnh trong số này bao gồm:
Bệnh phổi
Bệnh tim mạch (bệnh tim)
Một số loại ung thư, như lymphoma
Các rối loạn thần kinh nhận thức liên quan đến HIV (HAND)
Bệnh thận và gan
Loãng xương
Suy giảm nhận thức nhẹ
Tiểu đường type 2
Người mắc HIV cũng có thể nhận thấy những tình trạng này sớm hơn trong quá trình lão hóa so với những người không mắc HIV. Các nhà nghiên cứu không biết chính xác lý do tại sao điều này xảy ra nhưng cho rằng nó có liên quan đến những thay đổi trong hệ miễn dịch khiến các biến chứng liên quan đến tuổi xuất hiện sớm hơn.
Lão hóa và HIV cũng liên quan đến tình trạng viêm mãn tính, điều này có thể dẫn đến nhiều tình trạng sức khỏe.
Hơn nữa, ART kéo dài có thể gây ra các biến chứng như loãng xương, tăng nguy cơ gãy xương, rối loạn thận và chuyển hóa, bệnh gan, bệnh tim mạch và các rối loạn hệ thần kinh trung ương. Nhưng các chuyên gia thấy khó khăn trong việc xác định liệu ART có gây ra những tình trạng này trực tiếp hay không, hoặc nếu chúng là do sự kết hợp của ART lâu dài và các yếu tố khác.
Gen của một người, lối sống, thời gian từ khi nhiễm cho đến khi bắt đầu ART và các rào cản y tế khác cũng có thể ảnh hưởng đến nguy cơ gặp phải những vấn đề liên quan đến tuổi tác này.
“Khi già đi, nhiều người phát triển các tình trạng mãn tính đòi hỏi thuốc có tác dụng phụ,” Broussard nói. “Rất khó để nói một cách trực tiếp rằng thuốc kháng retrovirus lâu dài gây ra một tình trạng nào đó. Chúng có thể đã góp phần vào sự phát triển của một số tình trạng. Nhưng nếu bạn nhìn từ góc độ rủi ro/lợi ích, thuốc kháng retrovirus — ngay cả với các tác dụng phụ — thì vẫn tốt hơn rất nhiều so với tác động mà HIV có lên cơ thể khi không được điều trị.”
Già khỏe mạnh với HIV
Điều quan trọng là bắt đầu ART càng sớm càng tốt, ngay cả khi bạn được chẩn đoán muộn trong cuộc đời. Ngoài ra, có nhiều điều bạn có thể làm để sống một cuộc sống khỏe mạnh và dài lâu với HIV:
Tìm một bác sĩ phù hợp với nhu cầu của bạn. Nhà cung cấp dịch vụ y tế của bạn nên hiểu nhu cầu của người già đi cùng HIV. Các yêu cầu về thể chất, tinh thần và cảm xúc của bạn có thể khác với những người khác. Điều quan trọng là bác sĩ của bạn nhận ra những sự khác biệt tiềm ẩn này và được đào tạo để cung cấp sự chăm sóc mà bạn xứng đáng nhận được.
Hãy gặp bác sĩ thường xuyên. Hỏi bác sĩ của bạn rằng bạn nên kiểm tra sức khỏe định kỳ bao lâu một lần. Họ nên kiểm tra nước tiểu và máu của bạn để xem liệu có gì thay đổi hoặc nếu bạn có tải lượng virus không phát hiện được, có nghĩa là virus không ảnh hưởng nhiều đến cơ thể bạn. Như với bất kỳ tình trạng nào khác, việc theo dõi sức khỏe của bạn và cho bác sĩ biết nếu bạn nhận thấy bất kỳ thay đổi nào là một ý tưởng hay.
Đưa ra lựa chọn lối sống lành mạnh. Bạn có thể giảm nguy cơ mắc bệnh liên quan đến tuổi bằng cách không hút thuốc, hạn chế sử dụng rượu và tránh ma túy giải trí.
Ăn uống lành mạnh và tập thể dục. Giữ cân nặng khỏe mạnh cũng có thể giúp bạn tránh các biến chứng sức khỏe. Ăn uống cân bằng và tập thể dục thường xuyên để duy trì thể lực. Tập tạ cũng có thể giúp xương của bạn khỏe mạnh, giúp chống lại các tác dụng phụ của loãng xương.
Tìm kiếm sự hỗ trợ xã hội. Các nhóm hỗ trợ và cộng đồng có thể giúp bạn chia sẻ kinh nghiệm và kết nối với những người khác già đi cùng HIV. Bạn có thể tìm thấy các nhóm gặp gỡ trực tuyến hoặc trực tiếp. Ngoài ra, nói chuyện với những người thân yêu của bạn có thể giúp bạn thể hiện cảm xúc và cho họ hiểu được quan điểm của bạn.
Duy trì sức khỏe tâm thần. Nhu cầu về sức khỏe tâm thần của bạn thay đổi khi bạn già đi. Điều quan trọng là bạn phải tập trung vào sức khỏe tinh thần của mình, bên cạnh sức khỏe thể chất. Người cao tuổi mắc HIV có nguy cơ cao hơn về các vấn đề sức khỏe tâm thần và cô lập xã hội so với những người âm tính với HIV ở cùng độ tuổi. Điều này là do sự kỳ thị, mất đi bạn bè và người thân yêu, và các tác dụng phụ bình thường của HIV, ART và quá trình lão hóa.
Thịnh vượng khi bạn già đi
Ngày nay, Crisostomo đang làm việc để thay đổi tư duy của mình. “Tôi chưa bao giờ lên kế hoạch cho một chuyến đi trong cuộc sống trưởng thành của mình một năm trước. Tôi chưa bao giờ có mục tiêu, ngoại trừ chỉ cố gắng vượt qua ngày hoặc tháng. Tôi đang cố gắng thay đổi điều đó,” ông nói.
Giống như ông, nhiều người đang già đi cùng HIV và khám phá một chương cuộc sống mà họ nghĩ sẽ không bao giờ đến. “Mọi người có thể có các mối quan hệ, được yêu thương, có con cái sinh học liên quan đến họ,” Broussard nói. “Đó là một sự tương phản rõ rệt với cuộc sống mà những người sống với HIV đã sống trong những năm 80 và 90.”
Tên thương mại: Aimovig Tên hoạt chất: erenumab-aooe Lớp thuốc: Kháng thể đơn dòng CGRP
Aimovig là một loại thuốc theo toa được sử dụng để điều trị phòng ngừa cơn đau nửa đầu ở người lớn.
Chưa biết Aimovig có an toàn và hiệu quả cho trẻ em dưới 18 tuổi hay không.
Trước khi bắt đầu sử dụng Aimovig, hãy cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn biết về tất cả các tình trạng y tế của bạn, bao gồm cả việc bạn có bị:
Dị ứng với cao su hoặc latex không? Vỏ kim tiêm trong nắp trắng của thiết bị tiêm tự động SureClick® dùng một lần và nắp kim màu xám của ống tiêm dùng một lần chứa cao su tự nhiên khô.
Hãy cho dược sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn biết về tất cả các loại thuốc bạn đang dùng, bao gồm bất kỳ thuốc theo toa và thuốc không kê đơn nào, vitamin hoặc thực phẩm chức năng thảo dược.
Hãy dùng Aimovig đúng như hướng dẫn của nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn.
Trước khi tiêm, luôn kiểm tra nhãn của thiết bị tiêm tự động dùng một lần hoặc ống tiêm dùng một lần để đảm bảo bạn có đúng thuốc và đúng liều Aimovig.
Aimovig được tiêm dưới da (dưới da) 1 lần mỗi tháng.
Aimovig có 2 loại thiết bị khác nhau: thiết bị tiêm tự động dùng một lần (1 lần) đã được tiêm sẵn hoặc ống tiêm dùng một lần (1 lần) đã được tiêm sẵn. Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn sẽ kê đơn loại và liều lượng phù hợp nhất cho bạn.
Nếu nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn kê đơn liều 70 mg, hãy tiêm 1 mũi.
Nếu nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn kê đơn liều 140 mg, hãy tiêm 2 mũi riêng biệt, sử dụng một thiết bị tiêm tự động hoặc ống tiêm đã được tiêm sẵn khác cho mỗi lần tiêm.
Nếu bạn muốn sử dụng cùng một vị trí cơ thể cho hai lần tiêm riêng biệt, hãy đảm bảo rằng lần tiêm thứ hai không ở cùng một chỗ mà bạn đã sử dụng cho lần tiêm đầu tiên.
Nếu bạn quên dùng Aimovig hoặc không thể dùng liều vào thời gian quy định, hãy tiêm liều đã quên ngay khi bạn nhớ. Sau đó, bạn có thể tiếp tục dùng Aimovig 1 lần mỗi tháng từ ngày liều cuối cùng của bạn.
Aimovig có tương tác với thuốc nào không?
Không có thông tin cung cấp.
Aimovig có an toàn để sử dụng trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú không?
Trước khi bạn bắt đầu sử dụng Aimovig, hãy cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn biết về tất cả các tình trạng y tế của bạn, bao gồm cả việc bạn có đang:
Mang thai hoặc có kế hoạch mang thai. Chưa biết Aimovig có gây hại cho thai nhi của bạn hay không.
Cho con bú hoặc có kế hoạch cho con bú. Chưa biết Aimovig có đi vào sữa mẹ của bạn hay không. Bạn và nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nên quyết định xem bạn sẽ dùng Aimovig hay cho con bú.
Các phương pháp điều trị đau nửa đầu:
Bạn có những lựa chọn nào khác?
Tóm tắt
Aimovig (erenumab-aooe) là một loại thuốc kê toa điều trị đau nửa đầu dành cho người lớn. Các tác dụng phụ phổ biến của Aimovig bao gồm đau, đỏ hoặc sưng tại vị trí tiêm và táo bón. Thuốc tiêm điều trị đau nửa đầu được sử dụng với thiết bị tiêm tự động dùng một lần đã được tiêm sẵn hoặc ống tiêm dùng một lần đã được tiêm sẵn.
Một là bỏ trực tiếp các loại nguyên liệu vào cốc trà, đổ nước sôi vào hoặc nước đã đun sôi và đang giữ ở nhiệt độ nhất định, đậy nắp vào để trong 5-10 phút, thường xuyên uống. Những nguyên liệu có thể uống được trực tiếp đa phần đều là những thứ dễ chiết xuất như nhân sâm, hoa cúc, hạt ngũ vị dễ dàng hơn cho việc phát huy công dụng, cây thạch xương bồ, sơn tra nên chế biến thành dạng bột thô, lấy vải sạch bọc lại, sau đó đổ nước vào uống.
Hai là đem tất cả nguyên liệu vào một bình nước nóng, cho nước sôi vào, đậy chặt nắp lại, để từ 30-60 phút là có thể uống như trà. Khi dùng theo phương pháp này, do bình nước nóng có tính năng giữ nhiệt tốt, những thành phần thuốc có lợi càng dễ phân tách. Có thể cho 2-3 lượng vào một gói, sau đó phân ra số lần uống trong ngày.
Ba là đem tất cả vật liệu vào nồi, cho nước vào đun, chắt lấy nước rồi cho vào bình giữ nhiệt, uống nhiều lần như trà. Khi cho nước vào đun có thể cho nhiều nước, thậm chí có thể đun làm hai lần liên tiếp, sau đó lấy nước đã chắt của hai lần đun ấy cho cùng vào nhau, chia làm hai lần uống.
Bốn là nguyên liệu là phần thịt hạch đào, vừng là các loại thực phẩm có thể sử dụng trực tiếp, nên xát trước để tạo thành bột, sau đó cho thêm sữa, sữa đậu nành vào là có thể uống được. Nếu nguyên liệu là những loại hoa quả như cà rốt, táo có thể ép lấy nước, sau đó cho thêm sữa hoặc nước ép hoa quả vào là có thể uống được.
Khi pha trà để uống cần chú ý: ở cách đổ nước trực tiếp vào uống, khi uống hết 1/3 lượng nước, có thể cho thêm nước sôi vào, tùy theo cách uống mà cho thêm 3-5 lần, uống cho đến khi thấy vị nhạt thì thôi. ở cách uống nước ép hoa quả, nên làm tùy lúc và uống tùy lúc, tránh làm mất đi thành phần chất dinh dưỡng trong khi chế biến. Trong nước trà có nhân sâm, nhãn khô, vải, táo đỏ, khi uống đến lúc thấy vị nhạt nên lấy ra ăn. Khi chế biến có thể cho thêm đường, tuy nhiên cần biết điều tiết để có vị vừa phải, không nên cho quá nhiều. Không nên cho đường trắng mà nên dùng đường đen và đường kính.
Thân hành to, hình trứng thuôn, phủ bởi những vảy dày, màu trắng. Lá mọc thẳng từ thân hành, hình dải dài, mép nguyên, có bẹ to, gân song song, mặt trên nhẵn màu lục bóng, mặt dưới nhạt.
Hoa mọc thành tán giả trên một cán dài và dẹt, màu trắng pha hồng nhạt, bao hoa có 6 phiến bằng nhau, hàn liền ở phần dưới thành ống hẹp, các phiến quăn lại khi hoa nở, nhị 6, bầu hạ.
Quả rất ít gặp.
Mùa hoa quả: tháng 8 -9.
Trinh nữ hoàng cung
PHÂN BỐ, NƠI MỌC
Trinh nữ hoàng cung phân bố ở Ấn Độ, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.
ở Việt Nam, lúc đầu cây chỉ được trồng ở các tỉnh phía Nam từ Quảng Nam – Đà Nẵng trở vào, sau được phát triển ở các tỉnh phía Bắc.
Cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể hơi chịu bóng, sinh trưởng mạnh trong mùa xuân, hè.
BỘ PHẬN DÙNG, THU HÁI, CHẾ BIẾN
Lá, thu hái khi cần thiết, dùng tươi.
Thân hành, thu hái quanh năm, thường chỉ được dùng ngoài.
THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Trinh nữ hoàng cung chứa các alcaloid: Lycorin, crinafolin, latisolin, các acid amin (phenylalanin, 1- leucin); acid hữu cơ.
TÁC DỤNG DƯỢC LÝ
Lá trinh nữ hoàng cung là một thành phần của chế phẩm Panacrin được bào chế từ hỗn hợp 3 dược liệu là lá trinh nữ hoàng cung, tam thất và lá đu đủ đã được nghiên cứu chống ung thư. Kết quả là thuốc đã làm giảm sinh khối của u, đồng thời cũng làm giảm chỉ số gián phân của tế bào ung thư.
CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG
Trinh nữ hoàng cung được coi là cây thuốc quý ở Campuchia, Thái Lan để chữa bệnh phụ khoa cho chị em trong hoàng tộc. ở các tỉnh phía Nam Việt Nam, cây được dùng phổ biến chữa bệnh đường tiết niệu. Sau đó, nhiều người đã sử dụng trinh nữ hoàng cung để điều trị ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư dạ dày và ung thư gan với kết quả tốt. Chỉ cần 3 – 5 lá cho mỗi lần, thái nhỏ, sao vàng, sắc uống. Một đợt điều trị kéo dài từ 8 đến 15 ngày.
Gần đây, trinh nữ hoàng cung đã được đặc biệt nghiên cứu dược lý, ứng dụng lâm sàng và sản xuất biệt dược Crila để chữa ung thư tuyến tiền liệt. Thuốc đã có bán ở thị trường đông dược.
Dùng ngoài, lá và thân hành trinh nữ hoàng cung giã nát, hơ nóng đắp làm thuốc sung huyết da chữa tê thấp, đau nhức.
Chứng Khí hãm là tên gọi chung của các chứng trạng do tiên thiên bất túc, hậu thiên mất điều hoà tạo nên nguyên khí khuy tổn, sự thăng giáng của khí cơ thất thường, xuất hiện các đặc trưng trung khí hạ hãm, nâng lên yếu sức; nó là một loại hình bệnh biến thường gặp ở bệnh phần nhiều thấy trong nội thương tạp bệnh.
Biểu hiện chủ yếu trong lâm sàng là đoản hơi yếu sức, tinh thần mệt mỏi, ngại nói, vùng bụng trướng trệ, ỉa lỏng kéo dài, thoát giang, âm đĩnh, chất lưỡi nhạt bệu, mạch Tế Hoãn vô lực.
Chứng Khí hãm gặp trong các bệnh “Tiết tả”, “Vị quản thống”, Thoát giang”, “Âm đỉnh”.
Cần chẩn đóan phân biệt với các “chứng Khí thoát” “chứng thanh dương không thăng”, “chứng Khí hư” và “chứng Thận khí không bền”.
Phân tích
Chứng Khí hãm trên lâm sàng, vì nguyên nhân và bộ vị gây nên bệnh biến khác nhau cho nên biểu hiện cũng không giống nhau.
– Ví dụ như chứng này có thể gặp trong bệnh Tiết tả không ngừng dẫn đến bệnh “Cửu tiết” phần nhiều do ăn uống mệt nhọc nội thương Tỳ Vị, Vị hư thì không khả năng nấu nhừ đồ ăn, Tỳ hư thì không vận hóa được, bệnh lâu ngày nguyên khíkhuy tổn, trung khí hạ hãm, Đại trường mất chức năng truyền hóa và cũng mất khả năng cố sáp – xuất hiện triệu chứng đại tiện lỏng loãng, ỉa chảy lâu không ngừng, hạ lợi vô độ, đại tiện són ra mỗi khi trung tiện, kèm theo tinh thần mỏi mệt biếng ăn, bụng dưới trướng đầy, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng nhớt ; mạch Trầm mà Tế Nhu vô lực; điều trị theo phép ôn sáp cố thoát, bổ ích nguyên khí, chọn dùng bài Kha lê lặc tán (Kim Quỹ yếu lực) hoặc Chân nhân dưỡng tạng thang (Hoà tễ cục phương).
– Chứng khí hãm cũng gặp trong bệnh Vị quản thống thuộc Hư, phần nhiều do ăn uống không điều độ, tư lự thương Tỳ, Tỳ khí không thăng không còn khả năng vận hóa chất tinh vị của thủy cốc để nuôi Tạng Phủ, chân tay các khớp, sẽ dẫn đến Trung khí hạ hãm, có các chứng trạng thân thể gầy còm; Vị quản trướng đầy và đau mà chủ yếu là trướng, sau khi ăn thì khó chịu hơn, sa nội tạng, có thêm các chứng chóng mặt hoa mắt, tinh thần mỏi mệt, chất lưỡi nhạt, mạch Tế vô lực, điều trị theo phép ích khí kiện Tỳ, thăng đề trung khí, chọn dùng bài bổ trung ích khí thang (Tỳ Vị luận) gia giảm.
– Trong bệnh Thoát giang gặp chứng Khí hãm, phần nhiều do cao tuổi mà nguyên khí suy tổn, đại tiện khó phải cố sức rặn mà không co lên được hoặc ỉa chảy mà Đại trường nhão ra gây nên, có chứng trạng sau khi đại tiện thoát giang, không có sức tự co lên, ấn lên lại tụt xuống, mặt vàng mỏi mệt, lưỡi nhạt bệu, mạch Tế; Điều trị nên bổ ích nguyên khí, thăng đề hãm hạ, cho uống Bổ trung ích khí thang gia Sâm lô.
– Bệnh Âm đĩnh cũng do trung khí hạ hãm không thăng lên gây nên, phần nhiều gặp ở người thai sản quá nhiều, hoặc dùng sức mang vác nặng, mệt nhọc quá độ, từ đó mà nguyên khí bất túc, bào mạch bị tổn hại, tôn cân bị nhão, có chứng trạng bụng dưới nặng trệ, sa tử cung, sắc mặt úa vàng, mỏi mệt… điều trị nên ích khí bồi bổ, chân nguyên nâng bào cung lên, chọn dùng bài Bổ trung ích khí thang gia Thanh bì, Sơn chi.
Chứng Khí hãm là một biểu hiện lâm sàng trong quá trình bệnh biến của chứng Khí hư, thường gặp ở người thể trạng phú bẩm bất túc, hình thể cao gầy hoặc hàng ngày ăn uống không điều độ, phòng lao quá mức, số lần sinh đẻ quá nhiều, nói chung gặp nhiều ở lứa trung niên trở lên. Người phụ nữ nguyên khí bất túc thường ảnh hưởng tới Xung Nhâm; Xung là huyết hải, Nhâm chủ về bào thai. Nếu Xung Nhâm không được nuôi dưỡng, trung khí hạ hãm thì Bào mạch không có sự ràng buộc, không những chỉ thấy Âm đĩnh mà còn có thể thấy bụng dưới trướng trệ, thai động không yên, lậu thai và chứng hoạt thai. Trẻ em bị rất ít chứng Khí hãm, nhưng không tuyệt đối, lâm sàng cũng có thể thấy chứng khí hãm như Tỳ hư ỉa chảy kéo dài hoặc thóp mụ hãm xuống như hang hốc.
Biểu hiện chủ yếu của chứng Khí hãm là Tỳ khí không thăng, trung khí hạ hãm, cho nên có quan hệ với Tỳ Vị rất mật thiết. Nhưng khí thuộc Dương, Tỳ khí không thăng tiến thêm bước nữa sẽ tạo nên Tỳ dương không mạnh làm cho thủy thấp nghẽn lại, thấp tụ lại sinh ra đàm ẩm ứ đọng ở trong mà gây bệnh. Trung khí hạ hãm, tiến thêm bước nữa là từ Tỳ liên can tới Thận, hình thành các chứng Thận khí không bền mà xuất hiện đái sót đái dầm, hoặc tiểu tiện không tự chủ. Chứng này vì trung khí hạ hãm mà Tỳ hư mất sự vận chuyển, nguồn sinh hóa ở trung tiêu thiếu thốn, khí không sinh huyết dẫn đến huyết hư, xuất hiện chứng trạng khí huyết đều hư như chóng mật, hồi hộp. Đồng thời vì trung khí hạ hãm, nguyên khí bất túc sẽ tạo nên tình trạng khí không nhiếp huyết, phát sinh các chứng xuất huyết như đại tiện ra huyết, kinh nguyệt ra quá nhiều…
Chẩn đóan phân biệt
Chứng Khí thoát với chứng Khí hãm, cả hai đều do khí hư phát triển mà thành, cơ sở gây nên bệnh biến là “khí hư”. Chứng Khí thoát đa số gặp ở loại bệnh phát sinh đột ngột hoặc thời kỳ cuối ở bệnh mạn tính, do nguyên khí hư suy hoặc sau khi mất huyết quá nhiều, khí theo huyết thoát, là nhân tố phát bệnh, biểu hiện là mồ hôi ra đầm đìa, hoặc tinh thần ủy mị, hơi thở không tiếp nối, sắc mặt trắng bệch, chất lưỡi không thè ra được, đại tiểu tiện không tự chủ, mạch Vi Tế muốn tuyệt. Chứng Khí thoát là biểu hiện lâm sàng của các chứng bệnh khí hư ở giai đoạn nghiêm trọng, điểm chủ yếu đê phân biệt với chứng Khí hãm là:
Cơ sở tạo nên bệnh biến của hai chứng đều là khí hư nhưng chứng này chủ yếu gặp ở bệnh mạn tính, còn chứng khí thoát chỉ gặp ở thời kỳ cuối của bệnh mạn tính mà cũng gặp ở bệnh cấp tính, chứng khí theo huyết thoát khi bị mất nhiều máu, hoặc chứng Thoát trong bệnh biến của bệnh Trúng phong.
Cơ chế bệnh của chứng Khí thoát là nguyên khí suy thóai chính khí hư thoát, mà cơ chế bệnh của chứng Khí hãm là nguyên khí bất túc, Tỳ khí không thăng, trung khí hạ hãm.
Xu thế bệnh của chứng Khí thoát nguy cấp, bệnh tình nghiêm trọng, biểu hiện chủ yếu là chính khí toàn thân suy kiệt, có thể thấy chứng mồ hôi ra đầm đìa, sắc mặt trắng xanh, tinh thần ủy mị, miệng há tay xoè, đại tiểu tiện không tự chủ. Chứng Khí hãm thì xu thế bệnh từ từ, bệnh tình dằng dai, biểu hiện chủ yếu là sự thăng cử nguyên khí ở Trung Hạ tiêu vô lực, xuất hiện các chứng bụng trướng nặng trệ, thoát giang hạ lợi v.v…
Chứng Khí thoát cần dùng ngay phép ích khí cứu thoát, cứu vãn tình thế nguy ngập trong khoảnh khắc, nếu không kịp thời cấp cứu, tiên lượng rất xấu. Chứng Khí hãm thời nên nâng trung khí, điều trị từ từ.
– Chứng Thanh dương không thăng với chứng Khí hãm, cả hai đều là bệnh chứng khí cơ không bình thường, tùy đều biểu hiện cồng năng thăng cử của Khí giảm thóai, nhưng chứng Thanh dương không thăng chủ yếu là nói đối lập với trọc âm không giáng. Thanh dương với trọc âm là một cặp mâu thuẫn trong biến hóa bệnh lý, chúng thường có ảnh hưởng lẫn nhau. Chứng Thanh dương không thăng có các chứng trạng chủ yếu ở Thượng tiêu như hoa mắt chóng mặt, tai ù tai điếc; cũng có chứng trạng ở Trung, Hạ tiêu như vùng bụng trướng đầy, đại tiện lỏng loãng v.v. Chẳng qua chứng Thanh dương không thăng chủ yếu là lấy thanh dương không thăng, mà lấy trọc âm không giáng làm thứ yếu, cho nên lâm sàng phần nhiều thấy chứng trạng hư thực lẫn lộn. Cũng có thể do đàm trọc nghẽn ở trong, thanh dương bị chèn ép mà xuất hiện thực chứng như ngực bụng nghẽn đầy, nôn mửa, buồn nôn, chóng mặt hoa mắt. Chứng Khí hãm chủ yếu là Tỳ khí không thăng, Trung khí hạ hãm, lâm sàng có các chứng trạng chủ yếu ở Trung và Hạ tiêu, và hoàn cảnh thuộc Hư chứng.
– Chứng Khí hư với chứng Khí hãm, cả hai đều là Hư chứng, mà chứng Khí hãm phần nhiều từ chứng Khí hư biến hóa ra; cả hai có mối quan hệ nhân quả. Chứng Khí hư chủ yếu chỉ nguyên khí toàn thân bất túc, công năng của Tạng Phú suy thóai, có điều do bộ vị của tật bệnh khác nhau nên biểu hiện lâm sàng của nó cũng giống nhau.
Chứng Khí hãm tuy có thể có những chứng trạng của chứng Khí hư như tinh thần mỏi mệt yếu sức, thở đoản hơi thuộc nguyên khí bất túc, nhưng cái nổi bật nhất vẫn là trung khí hạ hãm, có những biểu hiện nguyên khí vô lực không nâng lên được, có chứng trạng bụng dưới nặng trệ, ỉa chảy thoát giang, sa dạ con v.v… Cho nên bộ vị bệnh biến chủ yếu ở Trung tiêu và Hạ tiêu. Đấy là cơ sở phân biệt của hai chứng khí hãm và chứng Khí hư.
– Chứng Thận khí không bền với chứng Khí hãm cũng đều là Hư chứng và có những chứng trạng ở Hạ tiêu như ỉa chảy, bụng dưới trướng.
Nhưng Thận khí không bền có thể do chứng Khí hãm phát triển nên, tức là do Tỳ khí hư mà liên luỵ đến Thận khí hư, xuất hiện chứng của Thận không bền thuộc Tỳ Thận Khí hư. Cơ chế bệnh của hai chứng này có mối quan hệ nhất định. Nhưng chứng cửa của Thận không bền có thể phản ánh ở chỗ Thận khí không sưởi ấm Tỳ thổ mà có chứng Ngũ canh tiết tả thuộc Tỳ Thận đều hư, có chỗ khác nhau với chứng đi tả lâu ngày của chứng Khí hãm. Lại có thể do Thận khí bất túc của bên dưới không bền, Bàng quang không co thắt, không chứa đựng được thủy dịch, không ngăn được nguồn nước nên tiểu tiện nên không tự chủ hoặc đi niệu và chứng ban đêm đi tiểu nhiều lần ở người cao tuổi. Cũng có thể biểu hiện nguyên nhân do phòng thất vô độ, tinh nguyên suy cạn, Thận khí hư làm cho cửa tinh không bền, gây nên di tinh, hoạt tinh, lâm trọc. Vì vậy điểm chủ yếu để phân biệt giữa hai chứng này: Một là bộ vị bệnh biến của chứng Thận khí không bền là ở tạng Thận hạ tiêu. Bộ vị bệnh biến của chứng khí hãm là ở Tỳ Vị Trung tiêu. Hai là biểu hiện lâm sàng của chứng Thận khí không bền chủ yếu là ở chỗ có những chứng trạng Thận khí mất khả năng sưởi ấm giúp cho sự vận chuyển, khí hóa mất chức năng, cửa phía dưới không bền và thường kiêm chứng lưng gối mỏi yếu. Chứng Khí hãm có chứng trạng chủ yếu Tỳ khí không thăng, trung khí hạ hãm, thường kiêm chứng tinh thần mỏi mệt, kém ăn.
Y văn trích dẫn
– Trung khí bất túc, biểu hiện biến đổi qua đường đại, tiểu tiện (Khẩu vấn – Linh Khu).
– Thoát giang hậu: Thoát giang là chỉ giang môn thoát ra ngoài, nguyên nhân phần nhiều do sau khi kiết lỵ kéo dài. Đại trường bị hư nhiễm lạnh gây nên. Giang môn là “hậu” của Đại trường, Đại trường hư mà bị hàn lỵ lại dùng sức rặn quá, khí sẽ dồn xuống làm giang môn thoát ra ngoài; gọi là Thoát giang (Lỵ bệnh chư hậu – Chư bệnh nguyên hậu luận).
– Âm đĩnh xuất hạ thoát hậu: Bào lạc bị thương tổn, dạ con hư lạnh, khí dồn xuống làm âm đĩnh thoát ra, gọi là Hạc thoát. Cũng có khi do lúc đẻ dùng sức dặn quá mức mà âm bộ thoát ra. Khám mạch Thiếu Âm thấy Phù và Động; Phù là Hư, Động là Quý (hồi hộp) cho nên Thoát (Phụ nhân tạp bệnh chư hậu – Chư bệnh nguyên hậu luận)
– Tiểu tiện nhỏ giọt trắng đục, đó là chứng trạng do Trung khí hạ hãm và Mệnh môn không bền (Lâm trọc – Cảnh Nhạc toàn thư).
– Bài Cử nguyên tiễn: Chữa khí hư hạ hãm, huyết băng, huyết thoát và vong dương sắp nguy hiểm (Tân phương bát trận Cảnh Nhạc toàn thư).
– Phụ nữ sau khi hành kinh, giỏ giọt không dứt gọi là Kinh lậu; Kinh nguyệt bỗng dưng ra ào ạt không dứt gọi là Kinh băng… càng có liên quan tới ưu tư thương Tỳ, Tỳ hư thì không nhiếp huyết, cũng có trường hợp do trung khí hạ hãm, không làm bền huyết. (Phụ khoa tâm pháp yếu quyết – Y tông Kim giám).
Tổn thương thận cấp tính (Acute kidney injury-AKI) khá thường gặp trong lâm sàng. Tùy thuộc vào định nghĩa được sử dụng và quần thể được tiến hành nghiên cứu mà tỷ lệ mắc trong những người bệnh bị bệnh nặng nhập viện là khoảng 1-25%. Có trên 35 định nghĩa về tổn thương thận cấp và nếu không có định nghĩa đồng thuận thì sẽ gây trở ngại cho sự tiến bộ của những nghiên cứu lâm sàng cũng như nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực này. Vì vậy định nghĩa chuẩn hóa được đồng thuận trong thời gian gần đây là căn cứ vào tiêu chuẩn RIFLE, tiêu chuẩn này dựa trên sự phân loại mức độ tăng nặng của yếu tố nguy cơ, tổn thương và suy thận cùng với hai hậu quả là suy giảm một phần chức năng thận và bệnh thận giai đoạn cuối (the increasing severity classes Risk, Injury, and Failure, and the two outcome classes Loss and End Stage Kidney Disease- RIFLE).
2. NGUYÊN NHÂN
Tổn thương thận cấp và sự phục hồi của thận sau tổn thương có cơ chế rất phức tạp và mỗi nhóm nguyên nhân có những đặc trưng riêng biệt. Một số yếu tố trọng tâm gây rối loạn chức năng thận cấp là do sự thiếu máu thận cục bộ và sự sản sinh của các chất độc với thận do hậu quả của sự co mạch, tổn thương nội mô và kích hoạt quá trình viêm. Tính nhạy cảm xuất phát từ mối liên quan của cấu trúc mạch máu và ống thận trong tủy thận dẫn đến tăng cường tính nhạy cảm để khắc phục lưu lượng máu đến thận. Thêm vào đó, vì ống thận cũng tập trung nhiều chất được tái hấp thu từ ống lumen, nồng độ của các chất này có thể đạt ngưỡng độc tính với tế bào biểu mô xung quanh. Chính sự tổn thương thận cấp thường xuyên có thể tích tụ tổn thương dẫn đến tiến triển thành bệnh thận mạn giai đoạn cuối.
Tương tác giữa tổn thương cấp và mạn tính trong bệnh thận cũng góp phần bởi cơ chế tự hồi phục mạnh mẽ của thận nhưng thường khả năng này không không giống nhau ở tất cả các người bệnh. Đã có nhiều nghiên cứu nhằm tìm hiểu rõ hơn về cách tạo điều kiện phục hồi cho tổn thương thận cấp được tiến hành nhằm tìm ra được làm cách nào để giúp cho thận thực hiện quá trình phục hồi tổn thương có hiệu quả nhất. Thực hiện điều này chính là nền tảng đã dẫn đến rất nhiều hứng thú trong lĩnh vực sinh học tế bào gốc liên quan đến việc giúp cho hồi phục những tổn thương thận cấp và mạn tính cho người bệnh[2].
3. CHẨN ĐOÁN
Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
* Triệu chứng lâm sàng:
Triệu chứng lâm sàng cơ bản của tổn thương thận cấp là sự giảm số lượng nước tiểu do suy giảm mức lọc cầu thận.
Ngoài ra người bệnh có các triệu chứng lâm sàng khác nhau tùy thuộc vào các nguyên nhân gây suy thận cấp do đó đòi hỏi phải khai thác tiền sử và khám lâm sàng để có chẩn đoán nguyên nhân gây ra tình trạng tổn thương thận cấp. Ví dụ:
Nhiễm khuẩn huyết: Người bệnh có thể đã tiến hành các thủ thuật xâm lấn trước đó, có dấu hiệu của các nhiễm trùng cục bộ là đường vào của nhiễm khuẩn huyế Biểu hiện sốt cao rét run…
Giảm thể tích tuần hoàn hiệu dụng: Biểu hiện bệnh tiêu hóa như xuất huyết, thận, tổn thương da như bỏng, sau phẫu thuật trong thời gian gần đây, nhiễm trùng huyết, sau chấn thương…
Tắc nghẽn đường niệu gây ứ nước bể thận niệu quản: Người bệnh có thể có tiền sử bệnh tiết niệu, sinh dục hoặc ung thư vùng chậu
Ngộ độc thuốc hoặc các chất khác:
Suy tim, suy gan, ung thư, bệnh mạch máu…
* Triệu chứng cận lâm sàng:
Xét nghiệm nước tiểu: nên được làm thường qui ở tất cả các người bệnh tổn thương thận cấp
Xét nghiệm huyết học như công thức máu, tỷ lệ Prothrombin, IRN… rất cần thiết trong tình trạng đánh giá tổn thương thận cấp có liên quan đến thiếu máu do xuất huyết hay tan huyết, các trường hợp xuất huyết do giảm tiểu cầu, huyết khối, viêm tắc mạch…
Xét nghiệm điện giải đồ trong đó đặc biệt chú ý tình trạng tăng Kali máu để có chỉ định điều trị kịp thời
Xét nghiệm các chỉ số amylase, b2-microglobulin… là những chỉ số theo dõi cho sự bài tiết nước tiểu của protein trọng lượng phân tử nhỏ mà có thể dễ dàng lọc bởi cầu thận và tái hấp thu của ống bình thườ Tăng bài tiết nước tiểu của các protein này có thể phản ánh tình trạng rối loạn chức năng ống thận và có thể là một dấu hiệu của tổn thương thận cấp.
Xét nghiệm hỗ trợ tiếp theo cho chẩn đoán tổn thương thận cấp được sử dụng rộng rãi là đo nồng độ natri hoặc sự bài tiết của natri trong nước tiểu.
Xét nghiệm ure, creatinin… có biểu hiện triệu chứng suy giảm chức năng thận tùy theo giai đoạn bệnh.
Chẩn đoán xác định
Chẩn đoán theo mức độ tăng nặng: nguy cơ, tổn thương và suy chức năng dẫn đến hai hậu quả là mất chức năng thận và bệnh thận giai đoạn cuối; tiêu chuẩn RIFLE (the increasing severity classes Risk, Injury, and Failure, and the two outcome classes Loss and End Stage Kidney Disease-RIFLE). ( (Xin xem biểu đồ chẩn đoán theo tiêu chuẩn RIFLE trình bày ở dưới).
Các xét nghiệm cận lâm sàng được chỉ định tùy theo nguyên nhân gây tổn thương thận cấp và giai đoạn bệnh.
Biểu đồ chẩn đoán theo tiêu chuẩn RIFLE:
4. ĐIỀU TRỊ
Đảm bảo thể tích tuần hoàn
Đặt catheter tĩnh mạch trung tâm để theo dõi việc đảm bảo đủ thể tích tuần hoàn. Sự thiếu hoặc thừa thể tích đều không có lợi cho thận. Xác định lượng cụ thể số lượng dịch cần bù và theo nguyên tắc bù những lượng dịch nhỏ của nhiều loại dịch khác nhau, không dùng duy nhất một loại dịch. Sử dụng lợi tiểu chỉ nên bắt đầu khi đã bù đủ thể tích tuần hoàn.
Điều trị rối loạn điện giải
Rối loạn điện giải rất thường xuyên gặp và quan trọng nhất của sự mất cân bằng bao gồm rối loạn natri, kali, canxi và phốt pho.
Hạ natri máu và tăng kali máu là phổ biến nhất và những rối loạn này luôn cần được chẩn đoán nhanh chóng và điều chỉnh về mức an toàn cho người bệnh trước khi chẩn đoán xác định được các bệnh cơ bản.
Sự nhấn mạnh về điều chỉnh điện giải là do những rối loạn ở người bệnh với hạ natri máu có nguy cơ cao gây phù não, và tăng kali máu có thể dẫn đến đe dọa tính mạng người bệnh do ảnh hưởng của rối loạn nhịp tim. Việc chẩn đoán nhanh chóng và xử trí hiệu quả những rối loạn này sẽ hạn chế nguy cơ đe dọa tính mạng người bệnh.
Sử dụng thuốc lợi tiểu
Thuốc lợi tiểu chỉ nên bắt đầu khi đã bù đủ thể tích tuần hoàn. Tổng quan phân tích gộp sáu nghiên cứu được sử dụng furosemide để điều trị tổn thương thận cấp với liều lượng khác nhau từ 600-3400mg/ngày không giảm đáng kể là về tử vong trong bệnh viện. Nghiên cứu nghiên cứu đơn lớn nhất về sử dụng furosemide trong điều trị tổn thương thận cấp được thực hiện bởi Cantarovich và cộng sự, người bệnh đã được chỉ định lọc máu được dùng ngẫu nhiên một trong 2 phác đồ sử dụng furosemide (25 mg/kg/ngày tiêm tĩnh mạch hoặc 35 mg/kg/ngày đường uống) hoặc giả dược. Mặc dù thời gian để đạt 2 lít/ngày của lợi tiểu furosemide ngắn hơn (5,7 ngày) so với giả dược (7,8 ngày) với p= 0,004. Tuy nhiên không có sự khác biệt cho thấy furosemide có thể giảm tỷ lệ tử vong ở người bệnh tổn thương thận cấp.
Điều trị bệnh chính gây tình trạng tổn thương thận cấp
Chỉ định điều trị thay thế thận
Chỉ định điều trị thay thế khi trong những trường hợp rối loạn điện giải nặng, toan hóa và suy giảm chức năng thận nặng. Nên sử dụng màng lọc sinh học tương thích cho lọc máu liên tục hoặc ngắt quãng (Intermittent hemodialysis-IHD và Continuous renal replacement therapy-CRRT).
Tại Việt Nam, sỏi đường tiết niệu là một bệnh phổ biến, đứng hàng đầu trong các bệnh chung về tiết niệu, trong đó sỏi thận chiếm một tỷ lệ khá cao (42% – Bệnh viện Việt Đức Hà Nội).
Sỏi thận cũng là một bệnh phổ biến trên thế giới: ở châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Inđônêsia…. Ngược lại ở châu Phi thì lại ít gặp.
Vị trí sỏi thận
Tần số bị sỏi ở nam giới gấp hai lần nữ giới. Lứa tuổi mắc bệnh trung bình từ 30 đến 50 tuổi.
Chế độ ăn, nước uống chứa nhiều calci, phosphats, oxalat được kể là những nguyên nhân thuận lợi gây sỏi thận. Khí hậu nóng khô, hạn chế khối lượng nước tiểu bài tiết cũng dễ gây bệnh sỏi. Sau cùng yếu tố di truyền cũng được nhắc đến trong một số bệnh cảnh về sỏi cystin, sỏi calci.
Sỏi thận gây ra nhiều biến chứng dẫn đến suy thận và có thể gây ra tử vong.
Những năm gần đây đã có nhiều tiến bộ trong hiểu biết mới và bệnh lý của sỏi, đồng thời đã xuất hiện những phương pháp chẩn đoán tinh vi, cũng như phương pháp điều trị nội khoa, ngoại khoa có hiệu lực và đầy hứa hẹn.
Việc hình thành sỏi thận do hai nguyên nhân chủ yếu:
Sỏi thứ phát
Là những viên sỏi được hình thành do nguyên nhân nước tiểu bị ứ trệ, hậu quả của các đoạn chít hẹp ở đài thận, ở khúc nôi bể thận – niệu quản trong các bệnh bẩm sinh hoặc mắc phải do viêm chít hẹp do lao, giang mai, bilharziose…
Nguyên nhân này rõ ràng và dễ dàng được chấp nhận.
Sỏi nguyên phát
Là những viên sỏi được hình thành tự nhiên theo một tỉ lệ nhất định giữa những người trong cộng đồng. Quá trình hình thành sỏi rất phức tạp.
Có nhiều nguyên nhân tạo nên sỏi thận. Tất cả những trường hợp sỏi thận nguyên phát đều do nguyên nhân toàn thân (rối loạn chuyển hoá) và nguyên nhân tại chỗ.
Thương tổn do viêm nhiễm ở thận, cần chú ý hai yếu tố:
Thành phần hoá học của sỏi thận
Tuy có khác nhau tuỳ theo từng vùng đại dư, nhưng trên cơ bản, sỏi calci (oxalat và phosphat) chiếm tỉ lệ cao nhất (khoang 80%) cystin (1%).
Sỏi oxalat calci có mầu nâu, nhiều gai rất rắn, cản quang, thường gặp ở nam giới.
Sỏi phosphat calci có màu trắng ngà, nhiều lớp đồng tâm, cản quang, gặp ở bệnh nhân nam cũng như ở bệnh nhân nữ nhưng sỏi phosphat aminiaco- magnesi thường gặp ở bệnh nhân nữ.
Sỏi acid uric có màu hung rắn, không cản quang, gặp ở châu Âu nhiều hơn ở châu Á.
Sỏi cystin có màu vàng nhạt, rắn, ít cản quang, xuất hiện ở bệnh nhân trẻ.
Trên thực tế, các thành phần này thường phối hợp với nhau để cấu tạo thành sỏi hỗn hợp.
Sỏi ở đài thận hình tròn hoặc có nhiều cạnh nếu có nhiều viên; số lượng sỏi từ một đến hàng chục viên, có khi hàng trăm viên.
Sỏi bể thận hình tam giác, ở trong xoang hay ngoài xoang thận, dễ biến thành sỏi san hô.
Lý thuyết về hình thành sỏi
Thành phần cấu tạo sỏi rất khác nhau và quá trình hình thành sỏi cũng rất phức tạp. Vì vậy, hiện nay chưa có một lý thuyết tổng quát về hình thành sỏi. Có hai hướng nghiên cứu về vấn đề này.
Trước hết, một số tác giả nêu lên việc hình thành sỏi trong nhu mô thận. Năm 1937 Randall đã mô tả những đám vôi ở vùng nhú thận, năm 1954, Carr đã phát hiện những tiểu thạch (microlithe) ở trong hệ thống bạch huyết của nhu mô thận.
Nhưng lý thuyết được công nhận rộng rãi nhất là lý thuyết về hình thành sỏi từ trong lòng của hệ tiết niệu. Sự hình thành sỏi phải trải qua nhiều giai đoạn: hình thành nhân sỏi, kết tụ các nhân sỏi, cố định sỏi được hình thành ở một vị trí nhất định, và từ đó sỏi cứ dần dần phát triển to lên. Theo lý thuyết này, quá trình bào hoà nước tiểu qua 3 vùng: vùng chưa bão hoà, ở đây sỏi không hình thành; vùng giới ẩn (metasble), ở đây sỏi chỉ hình thành khi có một nhân ngoại lai (tinh thể muco – protein); vùng không ổn định, ở đây sỏi có thể hình thành bằng kết tủa ngẫu phát, không cần đến sự có mặt của nhân ngoại lai. Như vậy vao trò của muco – protein làm khuôn mẫu (matrice) không phải là cần thiết, như Boyce đã nêu lên (1956).
Lý thuyết “kết tinh do tăng tiết” này của Vermeulen (1966) cần được bổ sung thêm bởi lý thuyết “ức chế của kết tinh”. Thực vật, nước tiểu bình thường có khả năng hoà tan tinh thể nhiều lần hơn nước, vì nước tiểu chứa những chất ức chế các tinh thể muối sinh sỏi. Những chất đó là những chất keo (Butt); muco – Polysaccharid (Robertson); pyrophosphat (Fleisch); magnesi (Howard).
Lý thuyết về hình thành sỏi được áp dụng cho tất cả các loại sỏi. Và đặc biệt đối với sỏi calci hay gặp nhất.
Sỏi calci
Dưới dạng oxlat calci hoặc dưới dạng phosphat calci: các hoàn cảnh bệnh lý của sỏi calci thường gặp là:
Tăng calci niệu: khi nước tiểu chứa trên 300 mg/24 giờ. Tăng calci niệu có nhiều nguyên nhân; do hấp thu, do rối loạn chức năng thận và do tiêu huy.
+ Nguyên nhân do hấp thu quan trọng nhất ở những bệnh nhân này, sự đáp ứng với vitamin D ở ruột bị rối loạn, nên có sự tăng cường hấp thu calci vào máu, song song với sự rối loạn chức năng tuyên cận giáp trạng. Kết quả là một khối lượng calci được thải qua thận.
+ Chức năng thận có thể bị rối loạn và không giữ được calci, thường xuyên bị thoát ra ngoài. Sự thoát calci gây kích thích tiết hormon cận giáp trạng, tăng cường tổng hợp vitamin D3 và tăng cường hấp thụ calci ở ruột.
+ Sau cùng, một số nguyên nhân làm tăng sự tiêu huỷ xương như cường cận giáp trạng, bệnh Cushin, cường giáp trạng, ung thư di căn, năm bất động lâu.
Rối loạn chuyển hoá: bệnh sarcoidose và toan ống thận (týp I) là những nguyên nhân được kể đến.
+ Tăng oxalat niệu: bình thường sự bài xuất oxalat niệu trong 24 giờ là 10 đến 50g, sự bài xuất oxalat niệu tăng lên một phần là do thức ăn, nhưng chủ yếu là do nguồn cung cấp nội tại.
Tăng oxalat niệu nguyên phát dẫn đến bệnh nhiễm calci thận và suy thận. Tăng oxalat niệu thứ phát hay gặp hơn và gây ra sỏi oxalat calci. Thông thường oxalat do thức ăn vào ruột kết hợp với calci để được bài xuất theo phân ra ngoài, do đó thành phần oxalat không kết hợp với calci sẽ được hấp thu lại và được bài tiết qua thận. Hơn nữa acid béo cũng làm thay đổi sự thấm của niêm mạc đại tràng, làm cho đại tràng cũng hấp thu một số lượng lớn oxalat.
Sỏi kết hợp với nhiễm khuẩn
Thành phần gồm phosphat amoniac magnesi (struvit), trên thực tế thường kết hợp với carbonat apatit hay gặp ở bệnh nhân nữ, dưới dạng sỏi san hô hai bên thận, để dẫn đến suy thận. Các vi khuẩn proteus, pseudmnas klebsiella, staphylococus tác động trên ure niệu, làm cho nước tiểu biến thành kiềm (pH) và làm tăng các thành phần bicarbonat và ion ammonium, gây ra sỏi struvit. Trong nhiễm khuẩn thứ phát lớp struvit bên ngoài bao bọc một nhân cystin hay oxalat calci.
Sỏi struvit thường gặp ở bệnh nhân đặt ống thông bàng quang lâu ngày, được dẫn lưu nước tiểu qua da, hoặc có chứng bàng quang thần kinh.
Sỏi acid uric
Acid uric được lọc qua cầu thận, rồi tái hấp thụ qua ống lượn xa, với số lượng 400mg/24 giờ. Acid uric được bài tiết qua nước tiểu dưới hai dạng: acid uric không hoà tan trong nước và muối urat dễ hoà tan trong nước hơn.
Ở pH — 5, nước tiểu bão hoà với 60 mg acid uric, ở pH = 6 nước tiểu bão hoà với 220 mg acid uric. Vì vậy ở pH thâp, dễ hình thành sỏi acid uric.
Có nhiều hoàn cảnh bệnh lý: acid uric máu không cao, acid uric máu cao hơn bình thường (lớn hơn 7mg); acid uric niệu cao (700 mg/24 giờ); tình trạng mất nước lâu ngày.
Sỏi Cystin
Do giảm tái hấp thụ các loại amino acid dibasic (cystin, lysin, ornithin, arginin).
ở pH từ 4,5 đến 7, có chừng 300mg cystin được hoà tan, và ở pH càng kiềm, mức độ hoà tăng lên. Người bình thường dễ bài xuất 100mg/24 giờ, trong khi người có sỏi cystin bài xuất từ 300 đến 100 mg/24 giờ.
GIẢI PHẪU BỆNH LÝ
Viên sỏi
Số luợng, khối lượng, số lượng viên sỏi thường chỉ có 1, có khi 2-3 hay hàng chục viên to nhỏ khác nhau, có viên nhỏ bằng hạt cát, có viên lớn hàng trăm gam, cá biệt có khi hàng kilogam.
Hình thể
Tuỳ theo sỏi nằm chỗ nào mà có hình thể khác nhau: sỏi nằm trong nhu mô thận có hình tròn nhẵn, nằm ở bể thận thì có hình tham giác, đa giác. Nếu nằm ở các đài thận hoặc ở giữa bể thận và niệu quản thì có hình bầu dục. sỏi uốn theo các đài và bể thận thì có hình san hô nhiều cạnh góc.
Vị trí của sỏi
Vị trí của sỏi khá quan trọng vì nó quyết định lâm sàng, biến chuyển và cách điều trị. Sỏi nằm trong nhu mô thận thường bé, cố định và ít phát triển.
Sỏi nằm trong đài thận hay gặp hơn, thường khu trú vào đài dưới, cố định, chỉ gây thương tổn ở một vùng thận, sỏi bể thận hay gặp nhất và nguy hiểm nhất ở bể thận nếu sỏi còn bé và đường niệu quản không có hiện tượng hẹp hoặc không dị dạng thì sỏi có thể xuống và ra được theo đường tự nhiên. Nhưng nếu không có những điều kiện nói trên thì sỏi nằm tại chỗ và phát triển ngày một to theo hình bê thận: tam giác hoặc đa giác.
Đặc biệt sỏi san hô nằm choán hết các đài và bể thận, chức năng thận bị phá hoại nghiêm trọng.
Thận có sỏi
Do có sỏi, đài bể thận bị giãn căng, nhu mô thận mỏng dày gây thận ứ nước hoặc ứ mủ
Do có sỏi, nước tiểu ứ trệ gây viêm nhiễm. Từ viêm thận cấp dẫn tới viêm thận kẽ rồi xơ hoá thận. Thận sẽ bị xơ teo nhỏ lại.
CÁC TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG
Triệu chứng cơ năng
Cơn đau quặn thận là triệu chứng điển hình sỏi thận
Cơn quặn đau thận
Thường hay gặp. Biểu hiện điển hình:
Đau lăn lộn dữ dội như dao đâm. cần chú ý có những bệnh nhân hoàn toàn không có cơn đau mà chỉ tình cơ phát hiện được nhân việc khi đi khám các bệnh khác.
Đau từ vùng thận bệnh, lan dọc theo đường đi của niệu quản xuống bàng quang và ra tận đầu ngoài của bộ phận sinh dục. Cũng có khi thương tổn ở bên này lại gây kích thích phản xạ đau ở phía bên kia hoặc cả hai bên.
Cơn đau thường xảy ra sau những cử động quá mạnh như lao động mệt nhọc quá sức, đi lại nhiều hoặc sau khi dùng thuốc lợi niệu quá mạnh.
Đái ra máu toàn bãi
Đái ra mủ toàn bãi
Có tiền sử đái ra sỏi
Hội chứng sau phúc mạc với những dấu hiệu ở bụng như nôn, bí trung đại tiện, trướng bụng do hiện tượng ngừng nhu động ruột. Đây là hội chứng tắc ruột giả. Đã có trường hợp mổ cấp cứu nhầm với chỉ định là tắc ruột.
Triệu chứng thực thể
Đau vùng thắt lưng khi thăm khám, sờ nắn, hoặc đấm nhẹ.
Nếu thận đã căng to, có thể sờ thấy qua dấu hiệu bập bềnh thận và chạm thắt lưng dương tính.
Triệu chứng toàn thân
Không có hiện tượng gì đặc biệt trừ những trường hợp có biến chứng nhiễm khuẩn và suy thận.
CHẨN ĐOÁN
Dựa vào các triệu chứng lâm sàng
Xét nghiệm
Có 3 loại xét nghiệm cần làm:
Những xét nghiệm thông thường với bất cứ bệnh nhân nào vào khám tại khoa ngoại như: nhóm máu, máu đông, máu chảy…
Nhũtig xét nghiệm để xác định các triệu chứng như hồng cầu, bạch cầu, các tinh thể và độ pH nước tiểu, các xét nghiệm và điện giải đồ, nhất là điện giải calci.
Những xét nghiệm để xác minh các biến chứng do sỏi như:
Vi khuẩn trong nước tiểu, tốc độ máu lắng để xác minh có nhiễm khuẩn Urê và creatinin máu để xác minh mức độ suy thận
Chẩn đoán bằng hình ảnh
Siêu âm: sẽ thấy
Hình ảnh cản âm của sỏi
Bề dày của nhu mô thận
Mức độ giãn của các đài thận và bể thận
X quang – rất quan trọng trong chẩn đoán sỏi
Chụp phim tiết niệu không chuẩn bị cho thấy hình cản quang của sỏi: theo mức độ cản quang giảm dần, sỏi phosphat calci, sỏi oxalat và sau cùng sỏi phosphat amoniac magnesi (struvit), soir cystin, sỏi uric và xanthin không cản quang. Còn loại các hình cản quang không thuộc sỏi thận như hạch vôi hoá, sỏi mật, tĩnh mạch vôi hoá, sỏi tụỵ, thoái hoá cột sống.
Chụp niệu đồ tĩnh mạch thấy hình dáng và chức năng thận. Thận có sỏi bài tiết chậm hơn, hình ảnh X quang rõ nét hơn (bóng thận, hình ảnh đài – bể thận), hoặc không bài xuất. Vì vậy phải chụp bằng những phim chậm sau 3,6,12 giờ. Trong những trường hợp khó xác định, cần chụp cắt lớp và chụp nhỏ giọt với liều lượng thuốc cản quang nhiều gấp 2,3 lần thông thường.
Chụp niệu quản bể thận ngược dòng để phát hiện sỏi không cản quang hiện nay ít được sử dụng rộng rãi trong trường hợp bệnh nhân có thai hoặc khi thận không ngấm thuốc cản quang.
Các phương pháp chụp cắt lớp tỉ trọng, chụp niệu đồ bằng đồng vị phóng xạ, cũng được sử dụng để bổ sung cho các phương pháp trên.
BIẾN CHỨNG
Do hòn sỏi gây tắc đường tiết niệu làm ứ trệ nước tiểu ở phía trên nên thường gây ra các biến chứng:
Tăng lipoprotein máu có thể được đặc trưng bởi tăng cholesterol máu, tăng triglyceride máu đơn thuần, hoặc cả hai Bảng 189-1. Đái tháo đường, béo phì, uống rượu, thuốc tránh thai, glucocorticoid, bệnh thận, bệnh gan, và tình trạng suy giáp có thể gây tăng lipoprotein máu thứ phát hoặc làm nặng thêm tình trạng tăng lipoprotein máu.
Phân tích lipoprotein bình thường bao gồm đánh giá cholesterol toàn phần, cholesterol HDL, triglyceride và với cách tính nồng độ cholesterol LDL bằng cách sử dụng phương trình sau: cholesterol LDL = cholesterol toàn phần – HDL cholesterol – (triglycerides / 5). Nồng độ cholesterol LDL có thể được ước tính sử dụng phương pháp này nếu triglycerides <4,0 mmol/L
(<350mg/dL). Cả nồng độ cholesterol LDL và HDL được giảm tạm thời trong vài tuần sau nhồi máu cơ tim hoặc tình trạng viêm cấp tính, nhưng có thể được đo chính xác nếu máu được lấy trong vòng 8h.
Tăng nồng độ cholesterol toàn phần huyết thanh lúc đói [> 5,2 mmol/L (> 200 mg/dL)] trong khi nồng độ triglyceride bình thường hầu như luôn gắn liền với tăng nồng độ cholesterol LDL huyết tương. Hiếm gặp người có hàm lượng cholesterol HDL tăng rõ rệt cũng có thể làm tăng nồng độ cholesterol toàn phần huyết thanh. Tăng nồng độ cholesterol LDL có thể do khiếm khuyết đơn gen, rối loạn đa gen, hoặc hậu quả thứ phát của các bệnh khác.
TĂNG CHOLESTEROL MÁU GIA ĐÌNH ( FH )
FH là một rối loạn di truyền đồng trội do đột biến ở gen cho các thụ thể LDL. Nồng độ LDL huyết thanh tăng lên khi sinh và tiếp tục duy trì trong suốt cuộc đời. Ở người lớn dị hợp tử không được điều trị, nồng độ cholesterol trong khoảng 7,1-12,9 mmol/L (275-500 mg/dL). Triglycerid huyết tương thường bình thường, và nồng độ cholesterol HDL bình thường hoặc giảm. Dị hợp tử, đặc biệt là nam giới, dễ bị xơ vữa động mạch tiến triển và bệnh mạch vành sớm (CAD). Bệnh u vàng ở gân (thường gặp nhất ở gân Achilles và các gân cơ duỗi các khớp ngón tay), bệnh u vàng thể củ (nhẹ hơn, các nốt đau trên mắt cá chân và mông), và bệnh u vàng mí mắt (lắng đọng trên mí mắt) là phổ biến. Ở dạng đồng hợp tử của nó, FH dẫn đến xơ vữa động mạch nghiêm trọng trong thời thơ ấu.
KHIẾM KHUYẾT APO B-100 CÓ TÍNH CHẤT GIA ĐÌNH
Rối loạn gen trội này trên NST thường làm suy yếu quá trình tổng hợp và / hoặc chức năng của apo B-100, do đó làm giảm ái lực với thụ thể LDL, làm LDL chậm dị hóa, và có biểu hiện tương tự FH.
BẢNG 189-1 ĐẶC ĐIỂM ĐIỂN HÌNH CỦA TĂNG LIPID MÁU
Lưu ý: Chol toàn phần, tổng cholesterol tự do và este hóa. Loại lipoprotein được phân loại theo Fredrickson
Viết tắt: IDL,lipoprotein tỷ trọng trung bình; LDL, lipoprotein tỷ trọng thấp; TG, triglycerides; VLDL, lipoprotein tỷ trọng rất thấp.
Nguồn: From HN Ginsberg, IJ Goldberg: HPIM-15, p. 2250.
TĂNG CHOLESTEROL MÁU ĐA GEN
Nhất là tăng cholesterol máu mức độ vừa [<9,1 mmol/L (<350 mg/dL)] hay phát sinh từ sự tương tác của các khiếm khuyết di truyền và yếu tố môi trường như chế độ ăn uống, tuổi tác, và tập thể dục. Nồng độ HDL và triglycerid huyết thanh là bình thường, và không có bệnh u vàng.
ĐIỀU TRỊ Tăng Cholesterol Máu Đơn Thuần
Sơ đồ đánh giá và điều trị tăng cholesterol máu được trình bày trong Hình. 189-1. Điều trị chung cho tất cả các rối loạn bao gồm hạn chế cholesterol và các chất ức chế HMG-CoA reductase (statins).
Các thuốc ức chế hấp thu cholesterol và các thuốc gắn acid mật hoặc acid nicotinic cũng có thể được yêu cầu (Bảng. 189-2)
TĂNG TRIGLYCERID MÁU ĐƠN THUẦN
Việc chẩn đoán tăng triglyceride máu được thực hiện bằng cách đo nồng độ lipid huyết tương sau khi nhịn ăn qua đêm (≥12 h). Tăng triglyceride máu ở người lớn được định nghĩa là nồng độ triglyceride > 2,3 mmol/L (> 200 mg/dL). Tăng triglycerid huyết tương đơn thuần biểu thị cho tăng chylomicrons và/hoặc lipoprotein tỷ trọng rất thấp (VLDL). Nhìn ở huyết tương thường rõ ràng khi nồng độ triglyceride là <4,5 mmol/L (<400 mg/dL) và lờ mờ khi nồng độ cao hơn do các hạt VLDL (và / hoặc chylomicron) đủ lớn để tán xạ ánh sáng. Khi chylomicrons có mặt,có lớp mỏng phía trên huyết tương sau khi làm lạnh trong vài giờ. Bệnh u vàng gân và u vàng mí mắt không xuất hiện ở bệnh tăng triglycerid máu gia đình, nhưng bệnh u vàng phát ban (sẩn nhỏ màu cam-màu đỏ) có thể xuất hiện trên thân mình và tứ chi và nhiễm lipid võng mạc (mạch máu võng mạc màu vàng cam) có thể nhìn thấy khi nồng độ triglycerid > 11,3mmol/L (>1000mg/dL). Viêm tụy xuất hiện khi nồng độ triglycerid cao.
TĂNG TRIGLYCERID MÁU GIA ĐÌNH
Trong các đột biến trội trên NST thường tương đối phổ biến này (~ 1/500), tăng VLDL huyết tương làm tăng nồng độ triglycerid huyết tương. Béo phì, tăng đường huyết, và tăng insulin máu là đặc trưng, và bệnh đái tháo đường, uống rượu, thuốc tránh thai, và suy giáp có thể làm nặng thêm tình trạng này. Chẩn đoán bao gồm 3 tiêu chuẩn tăng triglycerid huyết tương [2,8-11,3 mmol/L (250-1000 mg/dL)], chỉ tăng nhẹ nồng độ cholesterol hoặc bình thường [<6,5 mmol/L (<250 mg/dL)], và giảm HDL huyết tương. Tăng triglyceride máu thứ cấp do các bệnh nêu trên nên được loại trừ trước khi thực hiện việc chẩn đoán tăng triglyceride máu gia đình. Việc xác định người thân trong gia đình bị tăng triglyceride máu là hữu ích trong việc chẩn đoán. Rối loạn lipid máu gia đình và tăng lipid máu gia đình nên được loại trừ, vì chúng có liên quan đến xơ vữa động mạch tiến triển.
THIẾU LIPOPROTEIN LIPASE
Đây là đột biến lặn NST thường hiếm gặp do không có hay thiếu hụt của lipoprotein lipase, do đó làm giảm sự chuyển hóa chylomicrons. Tích lũy của chylomicrons trong huyết tương gây ra những cơn tái phát của viêm tụy, thường bắt đầu từ thời thơ ấu, và xuất hiện gan lách to. Xơ vữa động mạch tiến triển không phải là biểu hiện lâm sàng của bệnh.
HÌNH 189-1 Sơ đồ đánh giá và điều trị tăng cholesterol máu A và tăng triglycerid máu B. Statin, ức chế reductase HMG-CoA; Chol, cholesterol; HDL,lipoprotein tỷ trọng cao; LDL, lipoprotein tỷ trọng thấp; TG, triglyceride; TSH, hormon kích tuyến giáp; CHD, bệnh tim mạch vành.
BẢNG 189-2 CÁC THUỐC HẠ LIPID MÁU
Viết tắt: HDL, lipoprotein tỷ trọng cao; LDL, lipoprotein tỷ trọng thấp; LPL, lipoprotein lipase; TG, triglycerides; VLDL, lipoprotein tỷ trọng rất thấp.
THIẾU HỤT APO CII
Đột biến gen lặn trên NST thường hiếm gặp này là do sự vắng mặt của apo CII, một đồng yếu tố cần thiết cho lipoprotein lipase. Kết quả là, chylomicrons và triglycerides tích lũy và gây ra những biểu hiện tương tự như trong thiếu lipoprotein lipase.
ĐIỀU TRỊ Tăng Triglycerid Máu Đơn Thuần
Sơ đồ đánh giá và điều trị tăng triglyceride máu được trình bày trong hình. 189-1. Những bệnh nhân tăng triglyceride máu nặng nên có chế độ ăn uống không chất béo và bổ sung vitamin tan trong dầu. Những bệnh nhân tăng triglyceride máu vừa phải nên hạn chế chất béo, carbohydrate, và uống rượu. Những người có tăng triglyceride máu gia đình, các thuốc dẫn xuất của acid fibric nên được dùng nếu các biện pháp chế độ ăn uống thất bại (Bảng 189-2).
TĂNG CHOLESTEROL VÀ TRIGLYCERID MÁU
Nồng độ cả triglyceride và cholesterol cao là do nồng độ cả VLDL và LDL cao hoặc các hạt VLDL còn sót lại.
TĂNG LIPID MÁU HỖN HỢP CÓ TÍNH GIA ĐÌNH (FCHL)
Rối loạn có tính di truyền, tỷ lệ mắc là 1/200 người, có thể gây ra những bất thường lipoprotein khác nhau ở những người bị ảnh hưởng, bao gồm tăng cholesterol máu (tăng LDL), tăng triglyceride máu (tăng triglyceride máu và VLDL), hoặc cả hai. Kèm theo xơ vữa động mạch tiến triển. Rối loạn lipid máu hỗn hợp [triglycerid huyết tương 2,3-9,0 mmol/L (200-800
mg/dL), nồng độ cholesterol 5,2-10,3 mmol/L (200-400 mg/dL), và nồng độ HDL <10,3 mmol/L (<40 mg/dL) ở nam giới và <12,9 mmol/L (<50 mg/dL) ở nữ] và tiền sử gia đình bị tăng lipid máu và/hoặc bệnh tim mạch xuất hiện sớm gợi ý chẩn đoán FCHL. Nhiều người trong số đó còn bị hội chứng chuyển hóa (Chương. 127), và có thể sẽ khó khăn để phân biệt tăng lipid máu gia đình hay do nguyên nhân thứ phát. Tất cả các bệnh nhân nên hạn chế lượng cholesterol và chất béo và tránh uống rượu và thuốc tránh thai; những bệnh nhân bị bệnh tiểu đường nên được điều trị tích cực. Thuốc ức chế HMG-CoA reductase thường là cần thiết, và nhiều bệnh nhân phải cần loại thuốc thứ hai (ức chế hấp thu cholesterol, niacin, hoặc fibrat) để kiểm soát tối ưu.
RỐI LOẠN BETALIPOPROTEIN MÁU
Rối loạn di truyền hiếm gặp này kết hợp với dạng đồng hợp tử của biến thể apo-protein (apoE2) làm giảm ái lực với thụ thể LDL. Xuất hiện bệnh đòi hỏi phải có yếu tố môi trường bổ sung và/hoặc yếu tố di truyền. Cholesterol huyết tương [6,5-13,0 mmol/L (250-500 mg/dL)] và triglyceride [2,8-5,6 mmol/L (250-500 mg/dL)] tăng lên do tích lũy VLDL và các hạt chylomicron còn sót lại. Bệnh thường xuất hiện ở tuổi trưởng thành với bệnh u vàng và bệnh mạch vành và mạch máu ngoại vi sớm. Bệnh u vàng da là đặc biệt, xuất hiện ở lòng bàn tay và bệnh u vàng phát ban thể củ. Triglycerides và cholesterol đều tăng. Chẩn đoán dựa trên điện di lipoprotein (cho thấy dải beta rộng) hoặc tỷ lệ VLDL (bằng siêu ly tâm) để nồng độ triglyceride toàn phần huyết tương > 0,3. Các rối loạn có liên quan đến xơ vữa động mạch tiến triển. Lập kế hoạch thay đổi chế độ ăn uống, và HMG-CoA reductase, fibrate, và/hoặc niacin có thể cần thiết. Bệnh đi kèm, chẳng hạn như đái tháo đường, béo phì, hoặc nhược giáp, cần được điều trị và kiểm soát một cách tối ưu.
PHÒNG CÁC BIẾN CHỨNG XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH
Các hướng dẫn Chương trình giáo dục về cholesterol quốc gia (Hình. 189-1) dựa trên nồng độ LDL huyết tương và các yếu tố nguy cơ khác. Mục tiêu đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao nhất (được biết như bệnh tim mạch vành hoặc bệnh xơ vữa động mạch khác, nghiên cứu Framingham về bệnh tim mạch vành trong vòng 10 năm > 20%, hoặc đái tháo đường) là làm giảm LDL cholesterol <2,6 mmol/L (< 100 mg/dL). Những bệnh nhân nguy cơ rất cao, thử nghiệm lâm sàng cho thấy thêm những lợi ích khi giảm cholesterol LDL <1,8 mmol/L (<70 mg/dL). Mục tiêu là cholesterol LDL <3,4 mmol/L (<130 mg/dL) ở những bệnh nhân có hai hoặc nhiều yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim xơ vữa động mạch và nguy cơ tuyệt đối từ 10-20% trong 10 năm, mặc dù mục tiêu điều trị <2,6 mmol/L (<100 mg/dL) có thể được cân nhắc. Độ mạnh của thuốc điều trị hạ LDL ở bệnh nhân có nguy cơ cao và vừa phải đạt được ít nhất là giảm 30% nồng độ LDL. Yếu tố nguy cơ bao gồm (1)nam > 45 tuổi, nữ > 55 hoặc sau khi mãn kinh; (2) tiền sử gia đình bị bệnh động mạch vành sớm (bố mẹ của nam < 55 tuổi hay anh chị em ruột và bố mẹ của nữ < 65 tuổi hoặc anh chị em ruột); (3) tăng huyết áp (ngay cả khi nó được kiểm soát bằng thuốc); (4) hút thuốc lá (>10 điếu / ngày); và (5) cholesterol HDL <1,0 mmol/L(<40mg/dL). Điều trị bắt đầu với chế độ ăn uống ít chất béo và thay đổi lối sống, nhưng sự can thiệp bằng thuốc thường được yêu cầu (Bảng 189-2).
Tên khoa học: Mimosa pudica L., họ Trinh nữ (Mimosaceae).
Mô tả: Cây nhỏ, phân nhiều nhánh, mọc thành bụi, loà xoà trên mặt đất, cao độ 50cm, thân có nhiều gai hình móc. Lá kép lông chim chẵn, hai lần, cuống phụ xếp như hình chân vịt, khi dụng chạm nhẹ thì lá cụp xẹp lại, hoặc buổi tối cũng cụp lại. Lá chét nhỏ gồm 12-14 đôi. Hoa nhỏ, màu tím nhạt, tụ lại thành hình đầu. Quả giáp nhỏ, dài độ 2cm, rộng 2-3mm, tụ lại thành hình ngôi sao, có lông cứng-hạt nhỏ, dẹt dài độ 2mm, rộng 1-1,5mm.
Mùa hoa: tháng 6-8.
Cây xấu hổ mọc hoang nhiều nơi ở nước ta: ven đường, bờ ruộng, trên đồi.
Bộ phận dùng: Cành lá, rễ.
Phân bố: Cây mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta và nhiều nước khác.
Thu hái: Mùa hạ, khi cây đang phát triển xanh tốt, cắt lấy phần trên mặt đất, phơi khô là được (chú ý tránh làm rụng lá).
Tác dụng dược lý:
Hoạt tính chống nọc rắn độc: Khả năng trung hòa nọc rắn độc của mimosa được nghiên cứu khá sâu rộng tại Ấn Độ. Nghiên cứu tại ĐH Tezpur (Ấn Độ) năm 2001 ghi nhận các dịch chiết từ rễ khô mimosa pudica có khả năng ức chế các độc tính tác hại của nọc rắn hổ mang Naja kaouthia. Sự ức chế bao gồm các độc hại gây ra cho bắp thịt, cho các enzy mes. Dịch chiết bằng nước có tác dụng mạnh hơn dịch chiết bằng alcohol (Journal of Ethnopharmacology Số 75-2001). Nghiên cứu bổ túc tại ĐH Mysore, Manasa gangotry (Ấn Độ) chứng minh được dịch chiết từ rễ cây mắc cỡ ức chế được sự hoạt động của các men hyaluronidase và protease có trong nọc các rắn độc loại Naja naja, Vipera russelii và Echis carinatus (Fitoterapia Số 75-2004).
Hoạt tính chống co giật: Nghiên cứu tại Departement des Sciences Biologiques, Faculté des Sciences, Université de Ngaoundere (Cameroon) ghi nhận dịch chiết từ lá cây mắc cỡ khi chích qua màng phúc toan (IP) của chuột ở liều 1000 đến 4000 mg/ kg trọng lượng cơ thể bảo vệ được chuột chống lại sự co giật gây ra bởi pentylentetrazol và strychnin tuy nhiên dịch này lại không có ảnh hưởng đến co giật gây ra bởi picrotoxin, và có thêm tác dụng đối kháng với các phản ứng về tâm thần gây ra bởi N-methyl-D-as partate (Fitoterapia Số 75-2004).
Hoạt tính chống trầm cảm (antidepressant) Nghiên cứu tại ĐH Veracruỳ (Mexico) ghi nhận nước chiết từ lá khô Mimosa pudica có tác dụng chống trầm cảm khi thử trên chuột. Thử nghiệm cũng dùng clomipramine, desipramine để so sánh và đối chứng với placebo (nước muối 0,9 %). Liều sử dụng cũng được thay đổi (dùng 4 lượng khác nhau từ 2mg, 4mg, 6mg đến 8 mg/kg). Chuột được thử bằng test buộc phải bơi.
Hoạt tính chống âu lo được so sánh với diazepam, thử bằng test cho chuột chạy qua các đường đi phức tạp (maze). Kết quả ghi được: clomipramine (1,3 mg/kg, chích IP), desipramine (2.14mg/kg IP) và Mắc cở (6,0mg/kg và 8,0 mg/kg IP) làm giảm phản ứng bất động trong test bắt chuột phải bơi. M. pudica không tác dụng trên test về maze. Các nhà nghiên cứu cho rằng hoạt tính của Mắc cỡ có cơ chế tương tự như nhóm trị trầm cảm loại tricyclic (Phytomedicine Số 6-1999).
Tác dụng trên chu kỳ rụng trứng: Nghiên cứu tại ĐH Annamalai, Tamilnadu (Ấn Độ): Bột rễ mimosa pudica (150 mg/ kg trọng lượng cơ thể) khi cho uống qua đường bao tử, làm thay đổi chu kỳ oestrous nơi chuột cái Rattus norvegicus. Các tế bào loại có hạch (nucleated và cornified) đều không xuất hiện. Chất nhày chỉ có các leukocytes.. đồng thời số lượng trứng bình thường cũng giảm đi rất nhiều, trong khi đó số lượng trứng bị suy thoái lại gia tăng. (Phytotherapia Research Số 16-2002). Hoạt tính làm hạ đường trong máu: Dịch chiết từ lá mắc cỡ bằng ethanol, cho chuột uống, liều 250 mg/ kg cho thấy có tác dụng làm hạ đường trong máu khá rõ rệt (Fitoterapia Số 73-2002).
Thành phần hoá học: Alcaloid (mimosin C8H10O4N2.) và crocetin còn có flavonoid, các loại alcol, acid amin, acid hữu cơ. Hạt chứa chất nhầy, lá chiết ra một chất tương tự adrenalin. Trong lá và quả đều có selen.
Công năng: An thần, giảm đau, trừ phong thấp,
Công dụng: Cành, lá làm thuốc ngủ, an thần. Rễ chữa nhức xương, thấp khớp.
Cách dùng, liều lượng: Ngày 6-12g cành lá khô, sắc uống trước khi đi ngủ. Rễ cây thái mỏng, tẩm rượu sao vàng sắc uống ngày 100-120g.
Bài thuốc:
Suy nhược thần kinh, mất ngủ: Mắc cỡ 15g, dùng riêng hoặc phối hợp với Cúc bạc đầu Chua me đất 30g sắc uống hằng ngày vào buổi tối.
Viêm phế quản mạn tính: Mắc cỡ 30g, rễ lá Cẩm 16g sắc uống, chia làm hai lần trong ngày.
Ðau ngang thắt lưng, nhức mỏi gân xương: Rễ Mắc cỡ rang lên, tẩm rượu rồi lại sao vào 20-30g sắc uống, dùng riêng hay phối hợp với rễ Cúc tần và bưởi bung, mỗi vị 20g, rễ Ðinh lăng và Cam thảo dây, mỗi vị
Huyết áp cao (đơn thuốc có kinh nghiệm của lương y Ðỗ Văn Tranh): Hà thủ ô 8g, trắc bá diệp Bông sứ cùi 6g, Câu đằng 6g, Tang ký sinh 8g, Ðỗ trọng 6g, mắc cỡ gai 6g. Lá vông nem 6g, hạt Muồng ngủ 6g, Kiến cò 6g Ðịa long 4g sắc uống. Có thể tán bột, luyện thành viên uống hàng ngày.
Tên khoa học: Canarium album (Lour) Raensch, họ Trám (Burseraceae).
Mô tả: Cây gỗ to, cao khoảng 15 – 20m. Cành non màu nâu nhạt, có lông mềm. Lá kép lông chim, mọc so le, dài khoảng 30 – 40cm, gồm 7 – 11 lá chét. Lá gần gốc có đầu ngắn; lá ở giữa dài hơn, có đầu thuôn dài; lá tận cùng hình bầu dục. Lá chét dài 5 – 17cm, rộng 2 – 6cm, mép lá nguyên. Gân lá hơi rõ, mặt trên lá màu xanh nhạt, bóng; mặt dưới có lông mềm màu nâu bạc. Hoa mọc thành chùm kép ở đầu cành hay kẽ lá, tụ họp 2 – 3 hoa ở một mấu. Hoa hình cầu, màu trắng. Quả hình thoi, hai đầu tù, dài khoảng 45mm, rộng 20 – 25mm, khi chín có màu vàng nhạt, trong có hạch cứng nhẵn, hình thoi với 2 đầu nhọn, trong có 3 ngăn. Mùa ra hoa: tháng 6 – 7, mùa quả tháng 8 – 10. Ở nước ta còn có loài trám đen (Canarium nigrum Lour. Engl.), họ trám (Burseraceae). Là cây cao trung bình, lá kép hình lông chim, gồm 4 đôi lá ch t. Hoa mọc thành chuỳ mang những nhánh gồm nhiều chùm tán 6 – 10 hoa. Quả hình trứng, màu tím đen.
Bộ phận dùng: Quả (Fructus Canarii); nhựa.
Phân bố: Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi trong nước ta.
Thành phần hoá học: Quả chứa protein (1,2%); chất béo (1%); carbohydrat (12%)…Nhựa có 18-30% tinh dầu, thành phần chủ yếu của tinh dầu là sabinen (45%); terpinen (16,7%)…
Công năng: Thanh nhiệt sinh tân, giải độc.
Công dụng:
Quả Trám trắng chữa sưng đau cổ họng, ho nhiều đờm, sốt nóng, khát nước, ngộ độc cua cá.
Nhựa Trám dùng cất tinh dầu, làm chất thơm và chất định hương cao cấp
Bài thuốc:
Cháo trám vừng: Vừng đen 30g, trám quả 20g, bạch truật 15g, đào nhân 5g, mật ong 20g, gạo tẻ 60g. Đào nhân bóc bỏ vỏ và tâm. Đem bạch truật và trám nấu lấy nước. Lấy nước sắc được nấu cháo với gạo tẻ, vừng đen và đào nhân, khi cháo được cho thêm mật ong, khuấy đều. Ngày ăn 1 – 2 lần. Dùng mỗi đợt 7 – 20 ngày. Dùng cho các trường hợp viêm khí phế quản ho khan ít đờm, đau sưng họng.
Xi-rô trám củ cải: Trám 20g, củ cải 500g, rau mùi 30g. Củ cải thái lát thêm nước nấu với trám, sau thêm rau mùi, đường trắng (hoặc chút muối, khuấy đều, gạn lấy nước cho uống, Ngày sắc 1 lần, chia uống nhiều lần trong ngày. Dùng cho các trường hợp sởi, thủy đậu thời kỳ nổi ban, sốt phát ban….
Thanh quả lô căn ẩm: Quả trám 10g, rễ sậy (lô căn) 30g. Trám đập vụn cùng rễ sậy đem sắc trong 30 phút. Dùng cho các trường hợp cảm nóng, cảm nắng, sốt nóng đau đầu, đau sưng họng, ho khan ít đờm.
Nước sắc trám mạch môn: Trám 30g, mạch môn 10g, huyền sâm 15g, cam thảo 6g. Cả 4 vị thuốc đều thái vụn, chia nhiều ấm nhỏ hãm cho uống trong ngày. Dùng liên tục một đợt 7 – 20 ngày. Chữa trường hợp viêm họng, viêm khí phế quản mạn tính, ho có đờm, đau sưng họng.
Chữa ngộ độc do ăn phải cá độc: trám 3 – 5 quả, sắc lấy nước để uống.
Chữa viêm tắc mạch: Quả trám trắng 200g, luộc kỹ, ăn và uống cả nước. Dùng liền trong 50 ngày.
Cao trám: Quả trám tươi 500g, đường trắng 125g. Đập vỡ quả, nấu với nước nhiều lần, bỏ bã, lấy nước, cho 125g đường trắng, hoà tan, lọc và cô lại còn 250ml. Ngày uống 2 – 3lần, mỗi lần 8 – 15ml, uống với nước đun sôi để nguội. Chữa cổ họng sưng đau, miệng ráo, lưỡi khô, nhiều đờm.
Chữa đau răng, sâu răng: Quả trám đốt thành than, tán mịn, trộn với xạ hương. Bôi và xỉa vào chỗ đau.
Chữa lở sơn: Vỏ cây trám chặt nhỏ, nấu với nước để tắm.
Chữa nứt nẻ kẽ chân, gót chân khi trời rét: Hạt trám đốt thành than, tán mịn, thêm dầu lạc hay dầu vừng, trộn đều. Bôi hàng ngày.
Chữa tràng nhạc: Hạt trám, hạt gấc, vỏ quả mướp đắng đốt thành than, các vị liều lượng bằng nhau. Trộn đều, hoà với mỡ lợn, bôi vào chỗ sưng.
Quả trám tươi xanh có tác dụng giải độc rượu, chữa ngộ độc do cua cá. Quả chín có tác dụng an thần, chữa động kinh. Nhân hạt trị giun và chữa. Nhựa trám cất lấy tinh dầu, dùng trong kỹ nghệ nước hoa, colophan dùng trong kỹ nghệ vecni, xà phòng. Nhựa trám trộn với bột cây đậu tương, hương bài làm hương thơm. Do đó cây trám có nhiều tác dụng hữu ích trong phòng bệnh và chữa bệnh, cũng như kinh tế, dân sinh.