Blog Trang 562

Thiếu máu do thiếu vitamin B12: Triệu chứng và Rủi ro

Thiếu máu do thiếu vitamin B12 là gì?

Loại thiếu máu này có nghĩa là cơ thể bạn không có đủ tế bào hồng cầu khỏe mạnh vì bạn thiếu vitamin B12. Những tế bào này vận chuyển oxy khắp cơ thể bạn. Bạn cần sắt và vitamin—bao gồm cả B12—để sản xuất tế bào hồng cầu.

Thiếu máu do số lượng tế bào hồng cầu thấp.

Khi bạn không có đủ tế bào hồng cầu, cơ thể bạn không nhận được oxy cần thiết để hoạt động đúng cách. Thiếu máu có thể khiến bạn cảm thấy mệt mỏi, yếu ớt và khó thở.

Nguyên nhân gây thiếu máu do thiếu vitamin B12

Bạn có thể bị thiếu máu do thiếu vitamin B12 nếu bạn không nhận đủ vitamin B12 từ chế độ ăn uống, chẳng hạn như từ sữa, trứng và thịt, hoặc nếu cơ thể bạn không thể hấp thụ B12 do một vấn đề sức khỏe. Ruột của bạn hấp thụ B12 từ thực phẩm. Dưới đây là một số nguyên nhân phổ biến nhất gây thiếu vitamin B12:

Thiếu máu ác tính

Đây là nguyên nhân phổ biến nhất gây thiếu vitamin B12 trên toàn cầu và chủ yếu ảnh hưởng đến những người có tổ tiên Bắc Âu. “Ác tính” có nghĩa là “có hại” hoặc “phá hủy.” Loại thiếu máu do thiếu B12 này có thể ảnh hưởng đến nhiều hệ thống trong cơ thể và gây ra các vấn đề trong đường ruột, tim và cơ bắp. Bạn có thể mắc thiếu máu ác tính nếu:

  • Bạn có một bệnh tự miễn khiến hệ miễn dịch tấn công các tế bào trong dạ dày sản xuất yếu tố nội (intrinsic factor), một protein giúp cơ thể hấp thụ B12.
  • Bạn bị viêm niêm mạc dạ dày (atrophic gastritis), một tình trạng viêm niêm mạc dạ dày. Điều này làm giảm sản xuất yếu tố nội và tiết axit hydrochloric trong dạ dày, hai điều ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ B12 của cơ thể. (Axit hydrochloric tách B12 khỏi protein mà nó liên kết trong thực phẩm; B12 tự do kết hợp với yếu tố nội để cơ thể có thể hấp thụ vitamin này).
  • Bạn có tiền sử gia đình mắc bệnh (hiếm gặp).

Chế độ ăn hạn chế

Vitamin B12 chỉ có trong các sản phẩm động vật như thịt, trứng và sữa. Vì vậy, nếu bạn ăn chay hoặc chế độ ăn thuần chay mà không ăn thực phẩm từ động vật, bạn có nguy cơ thiếu B12.

Một số tình trạng sức khỏe nhất định

Nếu bạn có một bệnh về dạ dày hoặc ruột non như bệnh celiac hoặc bệnh Crohn, bạn có thể không hấp thụ đủ vitamin B12 từ thực phẩm.

Các tình trạng sức khỏe liên quan:
Các tình trạng sức khỏe như HIV, tiểu đường và rối loạn sử dụng rượu (nghiện rượu) làm tăng nguy cơ thiếu vitamin B12. Một nguyên nhân hiếm gặp là thiếu transcobalamin II, một tình trạng di truyền mà cơ thể bạn không thể vận chuyển B12 (còn được gọi là cobalamin).

Một số loại thuốc nhất định

Các loại thuốc sau có thể làm giảm mức vitamin B12 trong cơ thể bạn:

  • Kháng sinh—sử dụng lâu dài có thể làm giảm mức vitamin B nói chung
  • Thuốc chống co giật
  • Thuốc hóa trị, đặc biệt là methotrexate
  • Các loại thuốc được sử dụng để giảm axit dạ dày, như H2 blockers (Pepcid AC, Tagamet, Zantac) và inhibitors bơm proton (Nexium, Prevacid, Prilosec)
  • Metformin (Glucophage)—được sử dụng cho tiểu đường
  • Colchicine—được sử dụng cho bệnh gout
  • Một số loại thuốc giảm cholesterol

Nguyên nhân khác

  • Bạn trên 65 tuổi. Người cao tuổi có nguy cơ cao bị thiếu vitamin B12 hơn vì họ có xu hướng không có đủ axit hydrochloric trong dạ dày. Điều này có nghĩa là họ không thể hấp thụ B12 từ thực phẩm, mặc dù họ có thể từ một thực phẩm bổ sung. Họ cũng có nguy cơ cao bị viêm niêm mạc dạ dày. Khoảng 8-9% người trên 65 tuổi bị viêm niêm mạc dạ dày so với 2% của dân số chung.
  • Bạn đã thực hiện phẫu thuật bypass để giảm cân, điều này loại bỏ một phần dạ dày của bạn. Điều này cũng gây mất tế bào sản xuất yếu tố nội và tiết axit hydrochloric.
  • Bạn có một số loại vi khuẩn xấu trong ruột.
  • Bạn bị nhiễm sán dây. Sán dây ăn vitamin B12.
  • Bạn lạm dụng nitrous oxide (khí cười). Nitrous oxide ngăn cơ thể bạn hấp thụ B12.

Triệu chứng của thiếu máu do thiếu vitamin B12

Cơ thể bạn lưu trữ từ 1.000 đến 2.000 lần lượng vitamin B12 mà bạn ăn trong một ngày. Vì vậy, có thể mất từ 2-5 năm trước khi bạn thấy các dấu hiệu của thiếu vitamin B12. Một số người mắc tình trạng này không có triệu chứng, ít nhất là lúc đầu. Dưới đây là những dấu hiệu phổ biến nhất của sự thiếu hụt B12:

Triệu chứng thể chất

  • Bạn cảm thấy mệt mỏi và thiếu năng lượng.
  • Da bạn có màu nhợt nhạt hoặc vàng.
  • Bạn cảm thấy buồn nôn, nôn mửa hoặc tiêu chảy.
  • Bạn cảm thấy choáng váng.
  • Bạn không có cảm giác thèm ăn.
  • Bạn đã giảm cân mà không có lý do.
  • Nhịp tim của bạn quá nhanh hoặc bạn bị đau ngực.
  • Cơ bắp của bạn cảm thấy yếu.

Triệu chứng thần kinh (triệu chứng của các vấn đề ở não, tủy sống hoặc các dây thần kinh khác)

  • Tay và chân của bạn cảm thấy tê hoặc ngứa.
  • Bạn gặp vấn đề về thị giác.
  • Bạn cảm thấy bối rối hoặc hay quên.
  • Bạn gặp khó khăn trong việc đi lại hoặc nói chuyện như trước đây.
    Các vấn đề thần kinh do thiếu B12 có thể là vĩnh viễn.

Triệu chứng tâm lý

  • Bạn thường có thay đổi tâm trạng.
  • Bạn cảm thấy trầm cảm.
  • Bạn cảm thấy cáu kỉnh.

Sự khác biệt giữa triệu chứng thiếu máu ác tính và thiếu máu do thiếu vitamin B12
Sự khác biệt chính giữa hai tình trạng này là thiếu máu ác tính do cơ thể bạn không thể hấp thụ B12, trong khi các loại thiếu máu do B12 khác có thể là do bạn không có đủ vitamin trong chế độ ăn uống. Nhưng triệu chứng là giống nhau cho cả hai.

Có thể mất đến 5 năm trước khi bạn bắt đầu thấy triệu chứng của thiếu máu ác tính. Thông thường, bạn sẽ có các triệu chứng thần kinh hoặc tâm lý trước khi có triệu chứng thiếu máu (số lượng tế bào hồng cầu thấp). Điều này có nghĩa là có một khả năng lớn bị chẩn đoán sai, vì nhiều tình trạng khác cũng có các triệu chứng này.

Chẩn đoán thiếu máu do thiếu vitamin B12

Bác sĩ của bạn sẽ tiến hành khám sức khỏe và có thể yêu cầu một hoặc nhiều xét nghiệm sau đây:

  • Xét nghiệm công thức máu toàn bộ. Xét nghiệm này kiểm tra kích thước và số lượng tế bào hồng cầu của bạn. Nếu bạn thiếu vitamin B12, tế bào hồng cầu của bạn sẽ không có hình dạng bình thường. Chúng sẽ lớn hơn nhiều và có hình dạng khác với những tế bào hồng cầu khỏe mạnh.
  • Hemoglobin là một loại protein trong tế bào hồng cầu. Mức hemoglobin của bạn nên đạt 13 g/dL (gam mỗi decilit) hoặc cao hơn đối với nam giới, và 12 g/dL hoặc cao hơn đối với phụ nữ. Nếu mức của bạn là 12 g/dL hoặc thấp hơn đối với nam giới và 11 g/dL hoặc thấp hơn đối với phụ nữ, bạn sẽ được chẩn đoán là thiếu máu.
  • Mức vitamin B12. Xét nghiệm này kiểm tra xem bạn có đủ vitamin B12 trong máu hay không. Nếu mức B12 của bạn dưới 200 pg/mL (picogram mỗi mililit), bạn được coi là thiếu hụt. Mức bình thường là 400 pg/mL hoặc cao hơn.
  • Kháng thể yếu tố nội sinh. Những protein này báo hiệu hệ miễn dịch của bạn tấn công yếu tố nội sinh. Nếu bạn bị thiếu máu ác tính, bạn sẽ có những kháng thể này trong máu.
  • Xét nghiệm Schilling. Xét nghiệm này sử dụng một dạng B12 phóng xạ để xem cơ thể bạn có đủ yếu tố nội sinh hay không.
  • Mức acid methylmalonic (MMA). Xét nghiệm này đo lượng MMA trong máu của bạn. Khi mức vitamin B12 của bạn thấp, mức MMA sẽ tăng.

Bác sĩ của bạn cũng nên ghi lại một lịch sử y tế chi tiết, hỏi bạn về các triệu chứng và liệu bạn đã từng mắc các bệnh như bệnh celiac hoặc bệnh Crohn; chế độ ăn uống của bạn như thế nào; và bạn đã từng phẫu thuật nào. Bởi vì các triệu chứng của thiếu B12 có thể giống với triệu chứng của các bệnh khác, việc chẩn đoán thiếu hụt B12 có thể khá khó khăn.

Điều trị thiếu máu do thiếu vitamin B12

Thông thường, thiếu máu do thiếu vitamin B12 dễ dàng điều trị bằng chế độ ăn uống và bổ sung vitamin. Để tăng lượng vitamin B12 trong chế độ ăn uống của bạn, hãy ăn nhiều thực phẩm chứa vitamin B12 hơn, chẳng hạn như:

  • Thịt bò, gan và thịt gà
  • Cá và hải sản như cá hồi, cá ngừ và ngao
  • Ngũ cốc ăn sáng bổ sung
  • Sữa ít béo, sữa chua và phô mai
  • Trứng

Bác sĩ của bạn cũng có thể khuyên bạn nên uống bổ sung vitamin B12. Nó có dạng viên uống hoặc xịt mũi. Nếu bạn bị thiếu B12 nghiêm trọng, bạn có thể nhận được các mũi tiêm vitamin B12 liều cao. Bạn có thể cần phải bổ sung vitamin B12 suốt đời, đặc biệt nếu bạn có triệu chứng thần kinh. Bạn cũng có thể cần điều trị cho tình trạng gây ra thiếu máu của bạn. Ví dụ, bạn có thể cần kháng sinh nếu thiếu máu của bạn do vi khuẩn có hại.

Hiếm khi, bạn có thể cần truyền máu cùng với điều trị vitamin B12. Nhưng điều này chỉ xảy ra nếu bạn có nguy cơ gặp phải một số vấn đề tim nghiêm trọng hoặc tình huống khẩn cấp, chứ không chỉ vì mức hemoglobin thấp.

Rủi ro của thiếu máu do thiếu vitamin B12 không được điều trị

Tăng cường mức vitamin B12 của bạn là điều rất quan trọng. Nếu bạn để tình trạng này kéo dài quá lâu, nó có thể gây ra các vấn đề cho hệ thần kinh của bạn như:

  • Vấn đề về thị lực
  • Mất trí nhớ
  • Cảm giác châm chích hoặc tê
  • Khó nói hoặc đi lại do mất phối hợp (ataxia)
  • Tổn thương cho các chi (tay, chân, cánh tay, v.v.), đặc biệt là chân

Các vấn đề khác có thể bao gồm:

  • Vô sinh (điều này sẽ biến mất khi điều trị bằng B12)
  • Ung thư dạ dày
  • Chảy máu và nhiễm trùng
  • Tổn thương cho tim, não, xương và các cơ quan khác trong cơ thể bạn

Nếu bạn đang mang thai và không nhận đủ vitamin B12, em bé của bạn có nguy cơ mắc một dị tật bẩm sinh nghiêm trọng gọi là dị tật ống thần kinh. Ống thần kinh là một kênh hẹp mà cuối cùng sẽ hình thành não và tủy sống. Nếu nó bị khuyết tật, em bé của bạn có thể không phát triển đúng cách về cột sống hoặc não.

Tốt nhất là bạn nên được điều trị tình trạng thiếu máu do thiếu B12 và tránh bất kỳ vấn đề lâu dài nào.

Cách ngăn ngừa thiếu máu do thiếu vitamin B12

Bạn có thể ngăn ngừa tình trạng thiếu hụt B12 bằng cách:

  • Ăn thực phẩm từ động vật, như thịt, cá, trứng và sữa.
  • Tìm các thực phẩm bổ sung vitamin B12. Đây có thể là ngũ cốc ăn sáng và bánh mì, men dinh dưỡng, hoặc sữa từ thực vật. Kiểm tra nhãn để đảm bảo có chứa B12.
  • Uống bổ sung vitamin B12. B12 có thể là một phần của một loại vitamin tổng hợp hoặc là một sản phẩm riêng lẻ. Kiểm tra nhãn.
  • Giảm hoặc loại bỏ rượu. Uống quá nhiều rượu có thể làm hỏng hệ tiêu hóa của bạn, khiến cơ thể khó hấp thụ B12.
  • Không lạm dụng khí nitrous oxide.

Kết luận

Có thể mất nhiều năm để thấy ảnh hưởng của thiếu máu do thiếu vitamin B12. Triệu chứng phổ biến nhất là cảm thấy mệt mỏi và yếu. Bạn có thể bị chẩn đoán sai vì các triệu chứng (mệt mỏi, chóng mặt, tê ở tay và chân) cũng có thể là triệu chứng của các bệnh khác. Điều trị và phòng ngừa bao gồm việc ăn thịt, cá và các sản phẩm từ sữa hoặc thực phẩm bổ sung vitamin B12, như một số ngũ cốc ăn sáng và bánh mì. Bạn cũng có thể uống bổ sung vitamin B12. Trong những trường hợp nghiêm trọng hơn, bạn có thể cần tiêm B12.

Các câu hỏi thường gặp về thiếu máu do thiếu vitamin B12

Tại sao người ăn chay lại có nguy cơ cao hơn về thiếu vitamin B12?

Vitamin B12 chỉ có từ sản phẩm động vật. Nếu bạn là người ăn chay mà vẫn ăn các sản phẩm từ sữa, bạn có thể đủ B12 từ trứng, sữa và các sản phẩm từ sữa khác. Nếu bạn là một người ăn chay nghiêm ngặt hoặc thuần chay, bạn có nguy cơ cao hơn về thiếu hụt B12 vì thực phẩm từ thực vật không tự nhiên có vitamin B12. Nhưng bạn có thể nhận được B12 từ sữa thực vật bổ sung, ngũ cốc ăn sáng và các thực phẩm khác (kiểm tra nhãn để đảm bảo có chứa B12). Hoặc bạn có thể cần uống bổ sung vitamin B12.

Hoa Hồng và tác dụng chữa bệnh ít ai biết tới

Cây hoa hồng mọc thành bụi, được trồng làm cảnh. Hoa to, màu sắc tùy từng loài cho hoa trắng, hồng, đỏ, vàng. Hoa có mùi thơm, đẹp, nhiều nhị. Hoa hồng được dùng làm thuốc chữa bệnh.

Hoa hồng có tác dụng hoạt huyết, điều kinh, tiêu viêm
Hoa hồng có tác dụng hoạt huyết, điều kinh, tiêu viêm

Theo Đông y, hoa hồng có vị ngọt, tính ấm. Tác dụng hoạt huyết, điều kinh, tiêu viêm, tiêu sưng, chữa kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh, đinh nhọt, viêm mủ da, bệnh bạch hầu lao cổ, giúp cầm máu, chữa băng huyết, tiêu chảy. Không dùng cho phụ nữ có thai.

Các mẹo chữa bệnh hay từ Hoa hồng:

Hoa hồng vị ngọt, mùi thơm, tính ấm; có tác dụng hoạt huyết, tiêu sưng, ra da non. Cách sử dụng hoa hồng để chữa bệnh như sau:

  1. Chữa mụn nhọt, tràng nhạc, mụn lở chảy nước: Dùng cánh hoa hồng giã đắp.
  2. Chữa ho ở trẻ: Cánh hoa hồng bạch 4g, trộn với đường phèn 4g, cho vào chén, hấp trên nồi cơm, chưng ra nước, uống dần.
  3. Chữa miệng hôi: Hoa hồng 5g, hãm nước sôi để nguội ngậm, súc, rồi nhổ. Hoặc rửa sạch hoa hồng 5g nhai ngậm rồi nhổ.
  4. Chữa viêm sưng tuyến vú: Hoa hồng 7 bông, đinh hương 7 nụ, cho cả 2 vào một lượng rượu vừa đủ. Nấu lên rồi uống nước, bỏ cái. Uống lúc no.

Hoặc: Hoa hồng tươi 30 bông (bỏ nhụy cuống), đường phèn 500g. Cho vào 1 lít nước sắc 3 lần (như sắc thuốc thang) rồi dồn 3 nước lại còn 500 ml cho đường phèn khuấy cho tan đều, cô thành cao, để nguội cho vào bình đậy kín, bảo quản cẩn thận dùng dần. Mỗi lần 2-3 thìa cần cao hoa hồng. Ngày 3 lần với nước âm ấm.

  1. Chữa chán ăn và phàm ăn: Lấy một nắm to cánh hoa hồng đỏ, một nắm hoa cúc khô ngâm vào 2 lít nước sôi trong 25 phút rồi đem lọc lấy nước pha đường vừa đủ làm nước uống hoặc chế thành si-rô đựng trong chai để chỗ râm mát, uống dần. Chú ý dùng hoa hồng đỏ tốt hơn hồng trắng.
  2. Kinh nguyệt không đều: Hoa hồng 5g, hoa quế 3g, rượu 50ml. Chưng cách thủy hay hâp cơm, để nguội uống.
  3. Rong kinh, băng huyết: Ngâm 20 cánh hoa hồng trong 1 lít nước sôi trong 30 phút. Khi nước ngả màu đỏ thì cho thêm 50g đường, làm nước uống. Mỗi lần 200 ml.
  4. Kỳ kinh không đều (sớm hoặc muộn): Cánh hoa hồng 6-7g. Hãm nước sôi uống thay trà.

Bài Thuốc chữa bệnh từ Hoa hồng:

Bài 1. Thuốc chữa bệnh kinh nguyệt không đều

+ Hoa hồng 8g
+ ích mẫu 10g
+ Hương phụ (chế) 5g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 400ml nước, đun sôi kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh uống ngày 3 lần, trước bữa ăn, mỗi lần uống 60ml nước thuốc, cần uống 5 thang trước kỳ kinh 7 ngày.

Bài 2. Thuốc chữa bệnh đau bụng kinh

+ Hoa hồng 8g
+ Ngải cứu 10g
+ ích mẫu 10g
+ Nghệ vàng 8g

Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 400ml nước, đun sôi kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh chia làm 3 lần uống trước khi ăn. cần uống liền 3-5 ngày trước kỳ kinh.

Bài 3. Thuốc chữa bệnh lở mồm

+ Bột hoa hồng 30g

+ Rượu 50ml

+ Mật ong 30ml

Cho bột hoa hồng vào rượu đun sôi đến khi hơi đặc, cho mật ong vào trộn đều, để nguội, bôi vào chỗ đau. Ngày bôi 3 lần. Bôi liền 3-4 ngày.

Bài 4. Thuốc chữa bệnh ho ở trẻ em

+ Hoa hồng trắng 2 bông to

+ Đường phèn 15g

+ Lá húng chanh 10g

Tất cả rửa sạch cho vào nồi hấp cách thủy; sau 10-15 phút, chắt lấy nước chia 3 lần cho trẻ uống trong ngày trước khi ăn.

Cần uống 2-3 ngày.

Bài 5. Thuốc chữa bệnh băng huyết

+ Hoa hồng 15g

+ Ngải cứu (sao cháy) 40g

+ Tầm gửi cây dâu 30g

+ Đường đỏ 15g

Các vị thuốc tán bột mịn, mỗi lần uống 15g với nước pha đường đỏ, cần uống mỗi lần cách nhau 2 tiếng (120 phút). Ngày uống 2 lần, trước khi ăn.

BỆNH UỐN VÁN

BỆNH UỐN VÁN

Uốn ván (Tetanus, Tetanos) là một rối loạn thần kinh, đặc trưng bởi tăng trương lực cơ và các cơn co giật, gây nên bởi độc tố Tetanospasmin. Bệnh uốn ván có nhiều dạng, bao gồm uốn ván toàn thân, uốn ván cục bộ, uốn ván sơ sinh.

I. NGUYÊN NHÂN

Vi khuẩn gây bệnh là Clostridium tetani, kỵ khí, Gram(+), thường tồn tại khắp nơi quanh chúng ta dưới dạng bào tử, rất khó tiêu diệt. Bào tử có thể tồn tại nhiều năm trong nhiều môi trường, bền vững với nhiều loại thuốc diệt khuẩn và đun sôi dưới 20 phút. Khi nhiễm vào cơ thể và có điều kiện thuận lợi, bào tử chuyển thành dạng hoạt động, tiết ra độc tố Hemolysin và Tetanospasmin gây bệnh.

  • Hemolysin ít quan trọng trên lâm sàng
  • Tetanospasmin gây ra các triệu chứng của bệnh uốn ván. Tetanospasmin là một chuỗi polypeptide đơn, bao gồm 1 chuỗi nặng (100 kDt) và 1 chuỗi nhẹ (50 kDt). Chuỗi nặng gắn vào thụ thể tế bào thần kinh và thâm nhập vào trong tế bào còn chuỗi nhẹ ức chế sự phóng thích các chất dẫn truyền thần kinh.
  • Trực khuẩn uốn ván được tìm thấy trong lớp nông của đất, trong đất giàu chất hữu cơ và trong phân một vài động vật như trâu , bò, ngựa.., gặp ở vùng khí hậu nóng và ẩm,.
  • Bệnh không gây dịch mà là bệnh lưu hành địa phương, do nhiễm bào tử uốn ván qua vết thương ngoài da hoặc niêm mạc.
  • Bệnh phổ biến trên toàn thế giới, chủ yếu ở các nước nghèo, y tế lạc hậu, không tiêm phòng uốn ván cho toàn dân. Năm 2000 toàn thế giới có 766.000 trường hợp uốn ván, trong đó có 309.000 tử vong (theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới ).
  • Nước ta chưa có thống kê đầy đủ trên phạm vi toàn quốc nhưng nhờ chương trình tiêm chủng mở rộng và phát triển mạng lưới hộ sinh, tỷ lệ uốn ván rốn giảm rõ rệt. Tuy nhiên, tỷ lệ ở người lớn vẫn còn Ở BVTƯ Huế, số bệnh nhân uốn ván trong những năm 1996- 2005 khoảng 12-15 người/ năm, chiếm 0,3-0,6% bệnh nhân Khoa Truyền Nhiễm.

II.  DỊCH TỄ HỌC

III.   SINH LÝ BỆNH

Đa số vết thương đều có nhiễm bào tử uốn ván. Tuy nhiên chỉ khi có điều kiện thuận lợi, thiếu Oxy, bào tử mới chuyển thành dạng vi khuẩn hoạt động.

Vi khuẩn uốn ván không gây phản ứng viêm. Chúng sản xuất ngoại độc tố Tetanospasmin, độc tố này theo máu đến các đầu mút thần kinh ở đĩa vận động. Độc tố không trực tiếp vào hệ thần kinh trung ương vì không thấm qua hàng rào mạch máu não. Từ đĩa vận động, độc tôï ngược dòng thần kinh vận động vào trung ương, đến phong tỏa các synap có chứa GABA (gamma amino butyric acid) và  Glycin là các chất dẫn truyền thần kinh. Sự co cứng cơ toàn thân xuất hiện khi mất sự ức chế của luồng thần kinh từ trung ương đến ngoại vi.

Độc tố uốn ván cũng có tác động lên hệ thần kinh giao cảm, tạo nên một hội chứng cường giao cảm, làm tăng lượng catecholamin, gây nên tăng huyết áp mạnh, mạch nhanh, sốt cao, vã nhiều mồ hôi, tăng tiết đờm dãi..

Biểu hiện lâm sàng là tình trạng co cứng các cơ quá mức, tăng trương lực cơ thường xuyên, rối loạn thần kinh thực vật và một số trường hợp liệt vận động các dây sọ não. Cơ nhai có dây vận động ngắn nhất, nên độc tố vào sớm nhất . Vì vậy bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng đầu tiên là cứng hàm.

Miễn dịch không đầy đủ, độc tố chỉ được trung hòa một số nơi, gây nên thể cục bộ.

Độc tố Tetanospasmin rất độc, chỉ một lượng rất nhỏ đã gây bệnh , nhưng không đủ kích thích cơ thể tạo miễn dịch. Vì thế, người bệnh không có miễn dịch mà phải chủng ngừa như người chưa mắc bệnh.

IV.     LÂM SÀNG

  1. Thể toàn thân điển hình

-Ủ bệnh: trung bình 7-10 ngày; có 15% trường hợp < 3 ngày và 10% trường hợp > 14 ngày. Thời gian ủ bệnh càng ngắn, tiên lượng càng nặng.

-Khởi phát: từ khi cứng hàm (trismus) đến khi co cứng toàn thân, thời gian từ vài giờ đến vài ngày, trung bình 48 g. Mức độ cứng hàm tăng dần đêïn khi khít hàm, lan ra các cơ vùng mặt , vùng hầu họng, vùng cổ làm bệnh nhân khó nhai, khó nói, khó nuốt. Bệnh nhân có vẻ mặt đau khổ (risus sardonicu ): trán nhăn, lông mày xếch lên, khóe miệng bị kéo trễ ra ngoài cả hai bên.

-Toàn phát: cứng cơ lan đến các cơ cổ, cơ lưng, cơ bụng rồi tứ chi. Trương lực cơ tăng thường xuyên. Có khi co thắt đột ngột gây ngạt, gây tử vong bất ngờ. Bệnh nhân thường tăng phản xạ quả mức. Các cơ cổ, cơ lưng co cứng gây nên tình trạng co cứng toàn thân điển hình của uốn ván: bệnh nhân ưỡn cong người, lưng rời khỏi giường, tay co rút, các cơ chân duỗi ra (opisthotonos).

Các kích thích nhẹ như ánh sáng, tiếng động, sờ, tiêm thuốc, hoặc những kích thích từ bên trong cơ thể như bàng quang căng đầy nước tiểu, phân ứ đọng do táo bón đều có thể gây những cơn co giật kịch phát trên nền co cứng ấy, gây đau đớn nhiều cho bệnh nhân. Nếu cơn kéo dài, bệnh nhân có thể ngạt thở vì các cơ hô hấp co cứng kéo dài.

Những trường hợp bệnh nặng có rối loạn thần kinh thực vật kèm theo.Biểu hiện nhẹ: vã mồ hôi, sốt (không có bội nhiễm kèm theo ), nặng hơn : tăng hay hạ huyết áp kéo dài hoặc xen kẽ, nhịp tim nhanh hoặc loạn nhịp, đôi khi ngừng tim đột ngột.

Bệnh uốn ván diễn tiến kéo dài vì độc tố gắn vào thần kinh rất bền, trung bình 4-6 tuần. Nếu nguồn nhiễm được giải quyết, bệnh nhân hồi phục nhanh hơn. Các cơn co giảm tần số. Hàm há to dần. Bệnh nhân có thể uống được rồi ăn trở lại và lành bệnh. Trong giai đoạn toàn phát có thể xảy ra nhiều biến chứng.

  1. Uốn ván sơ sinh

Đa số do nhiễm khuẩn rốn. Xảy ra ở trẻ sơ sinh và mẹ không có miễn dịch chống uốn ván. Bệnh khởi phát khoảng hai tuần sau sinh. Triệu chứng ban đầu là khó bú, miệng chúm lại rồi không bú được. Sau đó bệnh nhân co cứng, lên cơn co giật toàn thân và thường dẫn đến tử vong do suy hô hấp. Tỷ lệ tử vong rất cao, từ 70-80%.

  1. Uốn ván cục bộ

Chỉ biểu hiện co cứng ở một số cơ, khu trú ở vị trí tương ứng với nơi xâm nhập của vi khuẩn uốn ván. Bệnh thường gặp ở người đã có miễn dịch một phần với Tetanospasmin. Tiên lượng thường nhẹ, tuy nhiên cũng có một số trường hợp tiến triển thành thể toàn thân.

  1. Uốn ván thể đầu

Là một thể đặc biệt của uốn ván cục bộ. Thường do vết thương ở vùng mặt cổ. Biểu hiện gồm cứng hàm, liệt một số dây thần kinh sọ não, thường là dây VII. Có thể chuyển qua thể toàn thân.

  1. Phân độ uốn ván

Dựa vào mức độ nặng của bệnh, người ta chia làm 4 độ :

  • Độ 1 (nhẹ): cứng hàm nhẹ đến vừa phải, co cứng toàn thân, không có cơn co giật, không rối loạn hô hấp.
  • Độ 2 ( trung bình ): cứng hàm vừa phải, cơn giật nhẹ đến trung bình nhưng ngắn, khó nuốt nhẹ, suy hô hấp ( tần số thở 30-35 lần/ phút ).
  • Độ 3 ( nặng ): cứng hàm nặng, co cứng toàn thân, cơn giật xuất hiện tự nhiên và kéo dài, khó nuốt, suy hô hấp ( thở 35-40 lần/ phút ), nhịp tim nhanh > 120 lần/ phút.
  • Độ 4 ( rất nặng ): bệnh cảnh lâm sàng như Độ 3 kèm rối loạn thần kinh thực vật: huyết áp cao và mạch nhanh xen kẽ với huyết áp thấp và mạch chậm, huyết áp cao kéo dài ( HA tâm trương > 110 mm Hg ) hoặc huyết áp thấp kéo dài ( HA tâm thu < 90 mmHg ).

V.    CHẨN ĐOÁN

  1. Chẩn đoán xác định

Chủ yếu dựa vào lâm sàng với các dấu chứng :

  • Cứng hàm, không kèm theo đau ở vùng mặt cổ
  • Dấu tăng trương lực cơ toàn thân liên tục
  • Các cơn co giật điển hình từng đợt
  • Trong một số trường hợp có thể phát hiện đường xâm nhập của vi khuẩn, thường gặp nhất là vết thương ở chân, .

Trong trường hợp uốn ván cục bộ, thể đầu, dấu hiệu cứng hàm giúp ta nghĩ đến bệnh uốn ván. Nếu miệng vẫn há to được nhưng khó khăn khi nhai, nuốt, tăng phản xạ cắn cũng giúp chẩn đoán.

Các xét nghiệm cận lâm sàng chỉ có giá trị chỉ điểm các biến chứng ( bạch cầu tăng trong bội nhiễm, giảm PaO2 trong suy hô hấp …)

  1. Chẩn đoán gián biệt
    • Chỉ có triệu chứng cứng hàm : Phân biệt với cứng hàm do bệnh nhân đau không dám há miệng trong các bệnh viêm khớp thái dương- hàm, viêm amidal, áp-xe quanh amidal, tai biến răng khôn. Thường có thêm các triệu chứng khác kèm theo ( sốt trong áp-xe, cứng hàm buổi sáng trong thấp khớp …). Dùng đè lưỡi làm há miệng dễ dàng.
    • Cứng cổ và cứng lưng : Cần gián biệt với viêm màng não và viêm não.
    • Cơn co giật toàn thân : gián biệt với bệnh dại ( có biểu hiện sợ gió, sợ nước …), tình trạng tetani ( thường không cứng hàm, calci hoặc magne máu thấp hoặc có dấu hiệu kiềm hô hấp ), ngộ độc Strychnin ( tiến triển rất nhanh, tiền sử uống thuốc, tìm thấy chất độc trong dạ dày và nước tiểu…), ngộ độc Phenothiazine hoặc Metoclopramide( cứng hàm kèm theo rung các .) và với Hysteria.
  2. Do độc tố uốn ván gây co giật
    • suy hô hấp cấp ( co thắt thanh hầu, cơn co kéo quá dài gây ngạt )
    • ngưng tim đột ngột ( hiếm ), tăng hay giảm huyết áp nghiêm trọng
    • gãy xương, nhất là xương sống ở trẻ nhỏ, rách cơ, đứt dây chằng, tụ máu trong bao cơ (do co cứng cơ quá mức)
  3. Do nằm lâu
    • thuyên tắc động mạch phổi, xẹp phổi
    • bội nhiễm: viêm phổi thuỳ hoặc viêm phế quản-phổi, viêm bàng quang, nhiễm trùng huyết ( dùng catheter kéo dài )
    • loét dạ dày tá tràng
  4. Các tai biến do điều trị

VI.     BIẾN CHỨNG

  • tai biến huyết thanh (dùng SAT ngựa)
  • tai biến do mở khí quản : hẹp khí quản, nụ thịt khí quản, sẹo lồi, tràn khí dưới da, tràn khí trung thất
  • ngộ độc các thuốc an thần vì dùng quá liều
  • tai biến do thở máy kéo dài.

VII.     TIÊN LƢỢNG

Trước đây tiên lượng dựa vào:

  • Thời gian ủ bệnh (từ khi vi khuẩn xâm nhập đến triệu chứng đầu tiên): càng ngắn càng nặng. Thời gian ủ bệnh < 3 ngày : uốn ván tối cấp, 3-7 ngày : uốn ván cấp.
  • Thời gian khởi bệnh (từ khi cứng hàm đến khi co cứng toàn thân): càng ngắn càng nặng. Nếu dưới 24 giờ: rất nặng. Trên 5 ngày : tương đối nhẹ.
  • Đường vào và ổ vi khuẩn: Nếu tìm được và giải quyết triệt để, tiên lượng tốt. Nếu không tìm thấy đường vào hay ổ nhiễm khó can thiệp ( sâu, nhiều ngóc ngách, ở nội tạng ) : tiên lượng xấu
  • Tần số cơn co giật: càng dày càng xấu, nếu hơn 4 cơn/ giờ kèm co thắt họng, thanh quản gây ngạt, khó thở thì tiên lượng rất nặng.
  • Rối loạn thần kinh thực vật: sốt > 40C, mạch nhanh > 120 lần/ ph, vã nhiều mồ hôi, tăng tiết đờm dãi : tiên lượng nặng.

Hiện nay, tiên lượng còn phải căn cứ vào tuổi (tuổi > 50 nặng hơn người trẻ), tình trạng sức khỏe (có bệnh lý mạn tính kèm theo như suy thận, xơ gan, bệnh tim, nghiện rượu…bệnh càng nặng),tình trạng miễn dịch của bệnh nhân, chất lượng điều trị…Trong đó chất lượng điều trị là quan trọng nhất.

Tỷ lệ tử vong do uốn ván ở người lớn khoảng 10-20%, riêng ở Khoa Truyền nhiễm (người lớn), Bệnh viện TƯ Huế, trong các năm 1996-2005 khoảng 12-15%.

VIII.      ĐIỀU TRỊ

  1. Kiểm soát các cơn co giật

Thuốc tốt nhất là Diazepam ( SEDUXEN, VALIUM ), đường tĩnh mạch. Liều dùng: khởi đầu 1-2 ống 10 mg cho người lớn, sau đó nếu cần tiêm lặp lại. Liều tối ưu được xác định khi khống chế được các cơn co giật toàn thân mà bệnh nhân vẫn còn tỉnh. Lượng thuốc thay đổi tùy theo từng bệnh nhân và tùy theo diễn biến lâm sàng, nhưng không quá 7 mg/ kg/ ngày. Khi không có Diazepam hay đã dùng liều khá cao mà không chế ngự được cơn giật,

có thể đổi hay phối hợp thêm với Phenobarbital. Tuy nhiên, lưu ý dùng Phenobarbital có ức chế hô hấp. Các thuốc khống chế cơn co giật khác như Chlopromazine, Pancuronium chỉ được dùng ở các trung tâm lớn, bảo đảm được hô hấp hỗ trợ.

  1. Diệt vi khuẩn

+ Penicilline, 3 – 5 triệu đơn vị /ngày, tiêm tĩnh mạch x 10 ngày.

+ Metronidazole 1 – 2 g/ ngày x 10 ngày, truyền tĩnh mạch, có ưu điểm hơn về mặt lý thuyết (không đối kháng với GABA như Penicilline ) lẫn thực hành, nhưng giá thành đắt hơn. Có thể dùng riêng lẻ hay phối hợp cả hai kháng sinh trên.

+ Nếu tìm được đường vào, phải mở rộng, dẫn lưu, lấy các dị vật, các mô hoại tử và rửa bằng Oxy già. Dùng thêm các kháng sinh khác nếu có bội nhiễm.

  1. Trung hòa độc tố

+ Globulin miễn dịch uốn ván từ người (HTIG : Human tetanus immunoglobulin): Không gây sốc phản vệ và bệnh huyết thanh, bảo vệ được 8 -14 tuần. Liều dùng : 500 đv tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch có hiệu quả tương đương với liều cao hơn (3000-5000 đv).

+ SAT: Ở nước ta hiện nay chưa có kháng huyết thanh người, chỉ có SAT nguồn gốc từ ngựa. Tuy giá thành rẻ hơn, nhưng SAT ngựa dễ gây phản ứng, bệnh huyết thanh và thời gian kháng thể tồn tại trong người ngắn (chỉ 1 tuần). Liều dùng: 10.000-50.000 đv tiêm bắp. Phải thử phản ứng trước khi dùng. Nếu có dị ứng, phải giải mẫn cảm bằng cách tiêm từng liều nhỏ tăng dần (phương pháp Besredka). Tuy nhiên, dù test thử âm tính vẫn có thể xảy ra phản ứng thuốc.

  1. Săn sóc bệnh nhân

+ Nuôi dưỡng hoặc bằng đường tĩnh mạch, hoặc nếu có thể đặt ống thông dạ dày.

+ Bảo đảm nhu cầu calo, nước, điện giải, protide, lipide, vitamin và muối khoáng cho bệnh nhân.

+  Xoay trở để chống loét. Ở giai đoạn hồi phục, tập và xoa bóp các cơ, phòng cứng cơ và khớp về sau.

+ Có thể dùng thuốc chống đông phòng thuyên tắc.

  1. Theo dõi và xử trí các biến chứng

+ Quan trọng nhất là nguy cơ ngạt thở do co thắt thanh môn và suy hô hấp do các cơ hô hấp co cứng kéo dài . Khi không khống chế được cơn co: mở khí quản cấp cứu và hô hấp hỗ trợ (thở máy). Một số tác giả có chỉ định mở khí quản sớm, nhưng phải đủ điều kiện vô trùng và săn sóc bệnh nhân tích cực.

+ Biến chứng ngừng tim thường đột ngột và khó xử trí. Kích thích điện hay cơ học kèm theo xoa bóp tim ngoài lồng ngực có thể cứu được bệnh nhân.

+ Hạ huyết áp : truyền dịch và dùng các thuốc vận mạch

+ Tăng huyết áp : dùng thuốc chẹn alpha – beta như Labetalol

+ Theo dõi các chức năng thận , bàng quang, ruột. Đề phòng loét, chảy máu tiêu hóa

+ Phát hiện và điều trị bội nhiễm.

IX.     PHÒNG BỆNH

  1. Tiêm phòng

+ Ở nước ta, tiêm phòng uốn ván được triển khai trong chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ dưới 1 tuổi. Thường phối hợp với vaccine ho gà và bạch hầu (DPT). Tiêm từ tháng thứ 2 trở đi, ba lần liên tiếp, cách nhau 1 tháng. Tuy nhiên, lần tiêm nhắc lại sau 3-5 năm chưa được chú trọng.

+ Phụ nữ có thai được tiêm phòng 2 lần vào quý cuối và 1-2 tuần trước khi sinh.

+ Hữu hiệu nhất là tiêm phòng cho toàn dân. Tiêm liên tiếp 3 mũi, cách nhau một tháng, 5 năm rồi 10 năm tiếp theo, tiêm nhắc lại mỗi lần một mũi, có tác dụng phòng bệnh gần như suốt đời. Bệnh nhân sau khi khỏi uốn ván cũng phải tiêm phòng.

+ Cải thiện chất lượng các nhà hộ sinh cơ sở, nâng cao kiến thức vệ sinh cho nhân dân cũng làm giảm tỷ lệ uốn ván sơ sinh đáng kể, nhất là những vùng chưa tiêm phòng rộng rãi được.

  1. Xử lý vết thương có nguy cơ uốn ván

Rửa sạch vết thương bằng nước ấm vô trùng. Lấy sạch các dị vật, các mô hoại tử. Phá bỏ các ngách, dẫn lưu, sát trùng bằng Oxy già, để hở vết thương, kháng sinh.

Trong trường hợp không xử lý triệt để được, bên cạnh kháng sinh có thể dùng SAT (1500-3000 đv, tiêm bắp ), sau đó tiêm phòng uốn ván ( 0.5ml Anatoxin, tiêm bắp, tiêm nhắc lại sau 1 tháng và 6 tháng ).

 

Rối loạn phản xạ – Triệu chứng thần kinh

ĐẠI CƯƠNG

Định nghĩa

Phản xạ là sự đáp ứng của cơ thể đối với các kích thích từ bên trong hoặc bên ngoài cơ thể.

Có thể nói chức năng cơ sở của hệ thần kinh là hoạt động phản xạ. Cơ sở sinh lý của chức năng tủy sống và thân não là cung phản xạ tương ứng và các hoạt động điều tiết của não bộ. Hầu hết các khâu của hoạt động phản xạ (cảm thụ, dẫn truyền hướng tâm, xử lý tại trung khu, dẫn truyền ly tâm tới cơ quan đáp ứng) được thực hiện bởi hệ thần kinh, vì vậy, thông qua chức năng phản xạ ta có thể đánh giá được cấu trúc thần kinh tương ứng có hoàn thiện hay không.

Phân loại phản xạ

Trong thực tế có nhiều loại phản xạ và có nhiều cách phân loại khác nhau.

  • Căn cứ vào phương thức hình thành người ta phân chia thành hai loại: phản xạ không điều kiện và có điều kiện, hai loại đó có mối liên hệ phụ thuộc, liên quan đến sự phát triển của hệ thần kinh.

+ Phản xạ không điều kiện, có tính chất bẩm sinh và vĩnh viễn, thường được thực hiện tại khoanh đoạn tuỷ sống hoặc thân não như phản xạ gân xương, phản xạ da – niêm mạc…

+ Phản xạ có điều kiện được thành lập trên cơ sở những phản xạ không điều kiện và được hình thành ở vỏ não.

  • Căn cứ vào chức năng của cơ quan đáp ứng, các phản xạ được chia thành phản xạ vận

động (có sự tham gia của cơ vân) và phản xạ thực vật (bài tiết, dinh dưỡng, vận mạch, hô hấp, dạ dày – ruột, thần kinh nội tiết……………………………………… ).

  • Tuỳ thuộc vào vị trí của các các thụ cảm thể có thể phân loại phản xạ nông (phản xạ da – niêm mạc) và sâu (phản xạ gân – xương).

+ Phản xạ sâu (hay còn gọi là phản xạ riêng của cơ vì cơ quan cảm thụ và cơ quan đáp ứng chỉ là một): là phản xạ đơn si – náp do kích thích các thụ thể nằm trong các gân, màng xương, khớp, bản thân các cơ và làm co cơ.

+ Phản xạ nông (còn gọi là phản xạ xa, ở đây cơ quan cảm thụ và cơ quan đáp ứng là hai cơ quan khác nhau): là phản xạ đa si – náp; kích thích bằng cách dùng kim vạch, châm, hay dùng nhiệt độ kích thích trên da.

  • Trong lâm sàng cách phân loại phản xạ hợp lý nhất là phản xạ sinh lý và phản xạ bệnh lý.

Khi thăm khám hệ thần kinh, việc khám và đánh giá chức năng các phản xạ rất quan trọng, vì nó có tính chất khách quan hơn so với chức năng cảm giác.

Một số phản xạ tủy sống

Phản xạ gân – xương và phản xạ da là một trong những chức năng khoanh đoạn của tủy hoặc thân não. Mỗi khoanh đoạn phụ trách một hoặc nhiều phản xạ, bảng 3.6 trình bày một số phản xạ tủy sống quan trọng trên lâm sàng.

Bảng 3.6. Một số phản xạ tuỷ sống

Tên phản xạ Khoanh đoạn tuỷ
Phản xạ gân cơ nhị đầu cánh tay C5-C6
Phản xạ gân cơ tam đầu cánh tay C7-C8
Phản xạ trâm quay C5-C8
Phản xạ gân cơ delta C5
Phản xạ sườn – bụng D8-D9
Phản xạ xương mu L2-L3
Phản xạ gân gối L3
Phản xạ gân gót S1
Phản xạ da bụng trên D7- D8
Phản xạ da bụng giữa D9-D10
Phản xạ da bụng dưới D11 – D12
Phản xạ da đùi – bìu L1 – L2
Phản xạ hậu môn S4-S5
Phản xạ gan bàn chân L5-S1

Triệu chứng rối loạn phản xạ

Giảm (hyporeỳỉexỉe) hay mất phản xạ (arẹ/ỉexxie)

Tổn thương bất kỳ một khâụ nào đó của cung phản xạ sẽ gây giảm hoặc mất phản xạ. Ví dụ: tổn thương sừng trước tuỷ sống, các rễ và dây thần kinh trong liệt ngoại vi, có thể cả trong choáng tủy. Trong các trường hợp này, ở giai đoạn đầu thường là liệt mềm, mất phản xạ gân xương kèm theo rối loạn cơ vòng… sau một thời gian chuyển sang liệt cứng. Mỗi cung phản xạ bao giờ cũng liên quan chặt chẽ với một khoanh đoạn tương ứng của tủy sống, vì vậy, tổn thương cung phản xạ có giá trị định khu chính xác.

Các phản xạ da bụng giảm hoặc mất bởi hai nguyên nhân: một là khoanh đoạn tủy tương ứng (D7 – D12) bị tổn thương, hai là đường tháp bị tổn thương.

Đường tháp ức chế các phản xạ gân xương và hoạt hóa các phản xạ nông (da, niêm mạc).

Tăng phản xạ (hyperreýlexie)

Các neuron vận động của cung phản xạ hoạt động dưới sự kiểm soát của thần kinh trung ương, sự kiểm soát này thường theo hướng ức chế. Khi các đường dẫn truyền thần kinh trung ương (bó tháp) bị gián đoạn thì chức năng phản xạ sẽ được giải phóng, do đó phản xạ tăng cả về biên độ và độ nhậy. Sự tăng đối xứng các phản xạ mà không kèm theo dấu hiệu bệnh lý nào khác không phải bao giờ cũng là có bệnh thực thể, phản xạ tăng có thể thấy ở người bình thường, người bệnh suy nhược thần kinh…

Tăng phản xạ gân xương biểu hiện bởi các yếu tố:

  • Tăng biên độ đáp ứng.
  • Lan toả (gõ không đúng vị trí và kích thích bình thường cũng có đáp ứng phản xạ).
  • Đa động: kích thích một lần, đáp ứng phản xạ nhiều lần.
  • Biểu hiện tăng phản xạ gân xương ở mức cực đại là hiện tượng rung giật (clonus). Thực chất rung giật là một chuỗi các đáp ứng phản xạ gân xương liên tiếp nhau. Hay gặp nhất là rung giật bánh chè và bàn chân.

+ Rung giật bánh chè: xuất hiện trong trường hợp phản xạ gối tăng rất mạnh, sự co duỗi cơ tứ đầu đùi không ngừng gây cử động nhịp nhàng xương bánh chè khi ta đẩy mạnh xương bánh chè xuống phía dưới.

+ Rung giật bàn chân: xuất hiện trong trường hợp phản xạ gót rất tăng, bằng động tác làm căng gân Achill sẽ gây nên những vận động nhịp nhàng gấp – duỗi bàn chân.

Cũng như tăng đáp ứng phản xạ, hiện tượng rung giật có thể gặp trong tổn thương thực thể cũng như trong rối loạn thần kinh chức năng, song nó không bền vững.

Giá trị chẩn đoán của triệu chứng tăng phản xạ: tăng phản xạ kèm theo liệt chắc chắn có tổn thương bố tháp, thường tăng phản xạ kèm theo cả tăng trương lực cơ; có khi trương lực cơ chưa tăng mà phản xạ gân xương đã tăng, chứng tỏ giai đoạn liệt mềm đã chuyển sang liệt cứng.

Chênh lệch phản xạ giữa hai bên cơ thể

Nếu như giảm hoặc tăng phản xạ đối xứng không phải bao giờ cũng là dấu hiệu tổn thương thần kinh thực thể thì phản xạ không cân đối giữa hai bên cơ thể luôn là bằng chứng của một tình trạng bệnh lý của hệ thần kinh. Phản xạ không đều xuất hiện do giảm một bên (tổn thương một bên trong cung phản xạ) hoặc tăng phản xạ bên kia (tổn thương bó tháp).

Phản xạ đảo ngược

Hiện tượng này gặp khi có một phản xạ bị mất, kích thích lan toả tới các cơ đối vận, làm xuất hiện đáp ứng phản xạ tại các cơ đó, chứng tỏ có một tăng phản xạ quá mức bệnh lý kết hợp với mất phản xạ cục bộ.

Các phản xạ bệnh lý

Phản xạ bệnh lý bó tháp

Nhóm phản xạ bệnh lý bó tháp, trong đó cơ bản là dấu hiệu Babinski (nhóm duỗi) và Rosolimo (nhóm gấp). Các phản xạ bệnh lý này đặc trưng cho tổn thương hệ thống tháp. Bình thường những phản xạ này thấy ở trẻ nhỏ, trước tuổi hình thành tư thế đứng thẳng và chức năng đi. Trong bại và liệt kiểu trung ương, dấu hiệu Babinski xuất hiện sớm nhất, biểu hiện thương tổn sự nguyên vẹn bó tháp ở não hoặc tuỷ sống, bên trên các khoanh của cung phản xạ gan bàn chân (L5 – S1).

Ở chi dưới

  • Nhóm duỗi (phản xạ Babinski);

+ Phản xạ dương tính điển hình biểu hiện ở hai yếu tố:

  • Ngón chân cái gấp từ từ về phía mu.

. Các ngón khác duỗi và xoè nan quạt.

+ Phản xạ Babinski: điển hình là phản xạ đặc trưng của tổn thương bó tháp. Có phản xạ Babinski là chắc chắn có tổn thương bó tháp.

+ Có thể có Babinski giả, biểu hiện như sau:

. Ngón cái duỗi quá nhanh.

  • Ngón cái gấp lại sau đó mới duỗi.

. Trường hợp ngón chân cái đứng yên (còn gọi là ngón chân cái không trả lời) cũng có thể nghi ngờ là bệnh lý.

. Để xác định có phải là dấu hiệu Babinski giả hay không cần phải khám nhiều lần trong ngày và vào nhiều ngày khác nhau; hơn nữa cần phải kết hợp với những triệu chứng kèm theo khác.

+ Các phản xạ bệnh lý bó tháp nhóm duỗi khác: chỉ khác Babinski ở cách kích thích gây phản xạ còn đáp ứng phản xạ như nhau. Phương thức kích thích của từng phản xạ như sau:

. Phản xạ Oppenheim: kích thích bằng cách dùng hai ngón tay miết trên mặt trước xương chày.

. Phản xạ Gordon: bóp mạnh vào khối cơ dép ở cẳng chân.

. Phản xạ Schaeffer: bóp mạnh vào gân gót của bệnh nhân.

. Phản xạ Schaddock: vạch kim xung quanh mắt cá ngoài của bệnh nhân.

  • Nhóm gấp:

+ Phản xạ Rossolimo.

+ Các phản xạ bệnh lý bó tháp nhóm gấp khác: các phản xạ này chỉ khác phản xạ Rossolimo về cách kích thích, còn đáp ứng giống nhau.

  • Phản xạ Bechterew – Mendel: gõ búa vào xương hộp trước ngoài mu bàn chân.

. Phản xạ Giucopski: gõ búa phản xạ vào giữa gan bàn chân.

. Phản xạ Puxep: dạng ngón chân 5 khi vạch dọc bờ ngoài mu bàn chân.

. Triệu chứng Hirschberg: gấp và xoay bàn chân vào trong khi vạch dọc mặt trong bàn chân của bệnh nhân.

Ở chi trên

Gồm có các phản xạ nhóm gấp sau:

  • Phản xạ Rossolimo.
  • Phản xạ

Phản xạ tự động tủy (còn gọi là phản xạ tự vệ)

Phản xạ ba co, phản xạ duỗi dài là một trong những triệu chứng biểu hiện tổn thương bó tháp. Cơ chế xuất hiện củạ phản xạ cũng được giải thích bằng cung phản xạ ở tủy sống thoát khỏi sự ức chế của các cấu trúc thần kinh ờ cao hơn trong hệ thần kinh trung ương. Những phản xạ này đặc biệt rõ nét trong tổn thương mặt cắt ngang tuỷ sống, hay gặp trong các trường hợp liệt cứng hai chi dưới do chèn ép tuỷ. Phản xạ nàỵ rát có ý nghĩa trong chẩn đoán định khu tổn thương tuỷ sống: kích thích từ bàn chân trở lên đến chỗ nào không thây hiện tượng ba co nữa thỡ đó là giới hạn giữa tủy bị chèn ép và tủy lành.

  • Phản xạ ba co:

+ Đáp ứng: chân bệnh nhân co lại ở ba mức (bàn chân gấp vào cẳng chân, cẳng chân gấp vào đùi và đùi gấp vào bụng). Phản xạ dương tính khi:

. Đáp ứng 1 thì: bệnh nhân chỉ co chân lại mà sau đó không duỗi ra, gặp trong tổn thương tủy hoàn toàn.

. Đáp ứng 2 thì: bệnh nhân co chân lại khi bị kích thích, sau đó lại duỗi hai chân thẳng ra, gặp trong tổn thương tủy không hoàn toàn.

  • Phản xạ ba duỗi: đáp ứng ngược với phản xạ ba co khi có kích thích tương ứng.
  • Hiện tượng duỗi chéo: gặp trong tổn thương tủy sống không hoàn toàn.

Phản xạ nắm (grasping ReJIex)

Dùng ngón tay của thầy thuốc hoặc cán búa phản xạ vuốt qua lòng bàn tay bệnh nhân, bệnh nhân nắm chặt lấy cán búa phản xạ hoặc ngón tay thầy thuốc và không buông ra.

Ở trẻ nhỏ đây là phản xạ sinh lý, ở người lớn phản xạ nắm biểu hiện tổn thương ở thuỳ trán.

Các phản xạ bệnh lý ỏ miệng (các phản xạ trục hay các phản xạ thân não)

Sự xuất hiện các phản xạ miệng đặc trưng cho hội chứng liệt giả hành não, do các trung tâm phản xạ tự động ở bộ máy khoanh đoạn thân não được giải phóng khỏi sự ức chế của vỏ não.

Các phản xạ này có thể thấy ở trẻ em và người già khoẻ mạnh, ở người trưởng thành phản xạ biểu hiện trong liệt giả hành não, hội chứng Parkinson.

  • Phản xạ mũi – môi: gõ nhẹ búa phản xạ trên sống mũi bệnh nhân, bệnh nhân co cơ vòng miệng làm cử động dẩu môi.
  • Phản xạ vòi: dùng búa phản xạ gõ nhẹ vào môi bệnh nhân, bệnh nhân dẩu môi như đáp ứng của phản xạ mũi – môi.
  • Phản xạ tự động miệng từ xa: thầy thuốc thực hiện thao tác gõ vào mỗi bệnh nhân nhưng dừng lại từ xa mà không chạm vào môi, bệnh nhân đáp ứng bằng co cơ vòng miệng, dẩu môi.
  • Phản xạ mút: thầy thuốc gõ hoặc vạch nhẹ vào môi bệnh nhân, bệnh nhân thực hiện cử động mút.
  • Phản xạ da gan bàn tay – cằm (phản xạ Marinesco): dùng kim đầu tù vạch chậm, dứt khoát vào lòng bàn tay bệnh nhân, cơ cằm của bệnh nhân cùng bên bàn tay bị kích thích co nhẹ.

 

12 bài thuốc nam ngâm rượu bồi bổ cơ thể

  1. Rượu Ý dĩ chữa phong thấp, khỏe tỳ vị, thêm tinh tủy, mạnh gân xương
  • Bột Ý dĩ nhân tốt đựng vào túi ngâm rượu uống.
  1. Rượu Ngưu tất khỏe gân cốt, khỏi tê bại hư tổn, trừ bệnh ngã nước, sốt rét
  • Ngưu tất thái miếng đựng vào túi. Ngâm rượu mà uống.
  1. Rượu Đương quy, hòa huyết mạch, bền gân cốt, điều hòa kinh nguyệt
  • Ngâm như rượu Ngưu tất.

    Vị thuốc Ngưu tất
    Vị thuốc Ngưu tất
  1. Rượu Câu kỷ, bổ hư huyết, ích tinh khí, chữa phong lạnh, cường dương, khỏi chảy nước mắt, khỏe lưng chân
  2. Rượu Sơn dược, chữa mọi chứng phong choáng váng, thêm tinh tủy, khỏe tỳ vị
  • Sơn dược cùng nâu với Sơn thù, Ngũ vị, Nhân sâm, ngâm rượu mà uống càng tốt.
  1. Rượu Cúc hoa, chữa chứng đầu phong, sáng tai mắt, khỏi tê liệt trừ năm chứng bệnh
  • Cúc hoa, Địa hoàng, Đương quy, Câu kỷ, ngâm rượu uống.
  1. Rượu Hồi hương, chữa thận khí đau, thiên trụy đau lan đến tâm phúc
  • Tiểu Hồi hương ngâm rượu uống.
  1. Rượu Sa nhân, tiêu thức ăn, hòa trung khí, hạ khí, khỏi đau bụng
  • Sa nhân sao nghiền, tẩm với rượu, nấu mà uống.
  1. Rượu Bách bộ chữa các bệnh ho đã lâu hay mới
  • Củ Bách bộ thái, sao, ngâm rượu mà uống.
  1. Rượu Lộc nhung chữa các chứng hư, liệt dương, tiểu tiện đi luôn và lao tổn
  • Lộc nhung và Sơn dược ngâm rượu mà uống.
  1. Thuốc ngâm rượu chữa các loại bệnh phong, đau nhức
  • Nam Bạch chỉ 100g (thái mông)
  • Củ Xương bồ 100g (làm sạch lông cắt ngắn)

Cả 2 thứ cho vào cái lọ sành hoặc thủy tinh đổ 3 lít rượu trắng vào ngâm 7 ngày đêm, đem ra uống trước bữa ăn ngày 2 lần, mỗi lần 1-3 chén mắt trâu, không nên uống quá say.

  1. Rượu Ngũ gia bì, chữa nhiều chứng phong thấp, tê bại làm khỏe gân xương, bổ tinh tủy
  • Ngũ gia bì, rửa bỏ hết gân lá, thái nhỏ, gia Đương qui, Ngưu tất lấy túi đựng, ngâm vào rượu uống.

Các bệnh nội tiết gây bệnh ở mắt

  1. Bệnh Tétani

Bệnh phát ra do tụyến cận giáp trạng hoạt động kém gây ra hạ calci trong máu. ở mắt bệnh nhân hay bị đục thể thủy tinh thể bụi.

Điều trị đục thể thủy tinh do Tetani: mổ đục thể thủy tinh khi cần, sau khi đã cho calci để phòng cơn Tetani.

  1. Bệnh Basedow

Có ba loại biến chứng về mắt: lồi mắt ác tính, loét giác mạc và liệt các cơ vận nhãn.

  • Lồi mắt ác tính: thoạt đầu bệnh nhân bị chảy nước mắt, sợ ánh sáng, có cảm giác rát trong mắt, nhãn áp tăng cao, lồi mắt thẳng trục, thường là cả hai bên, đẩy vào nhãn cầu không thụt vào được. Phù mi lan nhanh lên cả phía trán, phía thái dương và phía má. Kết mạc mắt cương tụ dữ dội.
  • Loét giác mạc: phù nề sau nhãn cầu làm bệnh nhân nhức mắt, mắt không nhắm kín được, nếu mắt lồi nhiều thì giác mạc sẽ bị loét, thủng giác mạc, nhiễm khuẩn nhãn cầu. Thị lực của người bệnh giảm dần rồi đến mù loà.
  • Liệt các cơ vận nhãn: làm cho cử động của nhãn cầu bị hạn chế, do đó người bệnh bị song thị (nhìn một hoá hai).

Điều trị: dùng méthylthio – uracil (MTU) viên 25 mg, 50mg, uống 200 – 400 mg/ngày, chia làm 3 lần. Uống trong thời gian từ 1-3 tháng.

  1. Bệnh đái tháo đường

Thường do tuyến tuy bị thương tổn. Có thể gây nhiều tổn hại ở mắt.

Rối loạn mạch máu ở mống mắt: xuất hiện nhiều tân mạch làm cho mống mắt có màu đỏ. Dấu hiệu Iridis Rubeosis – có thể gây xuất huyết tiền phòng,tăng nhãn áp.

Rối loạn mạch máu ở võng mạc, xuất huyết tân mạch ở võng mạc: trên các mao mạch của võng mạc xuất hiện những phình mạch li ti. Phình mạch vỡ có thể gây xuất huyết dịch kính, võng mạc. Di chứng là viêm võng mạc phồn thịnh, bong võng mạc do co kéo dịch kính.

Đục thể thủy tinh thường bị cả hai mắt. Đục hình đĩa ở cực sau.

Cơ địa đái tháo đường rất thuận lợi cho các nhọt, lẹo tái phát.

Điều trị: nếu có máu nội nhãn tiêm hyasa lmg, 1 ống/ngày, tiêm sau nhãn cầu (mắt bị xuất huyết). Uống rutin 0,5g X 6 viên/ngày. Nếu bị đục thể thủy tinh do đái tháo đường, cần mổ sau khi đề phòng các biến chứng xuất huyết, hôn mê v.v…

Điều trị đái tháo đường: tiêm insulin 40UI, tiêm dưới da. Ớ người lớn, liều trung bình 2 lần/ngày 20 UI.

Ỉa chảy (tiết tả) Đông y và pháp, phương thuốc điều trị

ỉa chảy (tiết tả) là ỉa ra phân lỏng, có thể phân toàn nước, số lần ỉa đi trong ngày nhiều hơn bình thường.

Thường là do bệnh lý ở tỳ vị, tiểu trường, đại trường, do các nguyên nhân thời khí như thấp hàn, phong, hỏa nhiệt hoặc ăn uống không cẩn thận (thức ăn sống lạnh, ôi thiu, bẩn), hoặc do tỳ vị đương hư (tỳ vị hư hàn) hoặc do mệnh môn hỏa suy, hoặc do tình chí không điều hòa.

Người ta đặt những tên khác nhau cho chứng này như thấp tiết, hàn tiết, nhiệt tiết, phạn tiết, thủy tiết, đờm tiết, tỳ tiết, thận tiết, hoạt tiết, ngũ canh tiết. Hải thượng lãn ông cho là “do nước ở tiểu trường mà sinh ra đi tả, và lúc đó tiểu tiện không lợi (do tiểu trường không phân được thanh trọc). Thường chia ra phòng, thử, táo, thấp, hỏa, hàn, nhiệt, đờm, thực, về cách chữa chỉ cần thảm thấp táo tỳ làm chủ, dùng Tứ linh, Ngũ linh, ỉa chảy nhiều giá Kha tử, Đậu khấu. Ngoài ra còn ba chứng hư là “do nội thương ẩm thực là tỳ hư, do sắc dục là thận hư, do hay cáu giận là can hư”.

Như vậy có thể thấy ỉa chảy (tiết tả) có thể do ngoại tà tác động, do ăn uống không điều hòa, do tạng phủ suy yếu và chức năng của tạng phủ bị rối loạn. Biểụ hiện lâm sàng chủ yếu là thấp thắng và chức năng vận hóa của tỳ vị bị trở ngại.Bệnh được thể hiện ở cả trạng thái cấp tính và trạng thái mạn tính.

Các rối loạn chức năng hoặc tổn thương thực thể của dạ dày, ruột, gan tụy gây nên ỉa chảy như viêm ruột cấp tính, mạn tính, lỵ, lao ruột v.v… thuộc phạm vi tiết tả.

Tùy theo nguyên nhân bệnh và trạng thái của tạng phủ người ta có thể chia thành các thể bệnh chính như sau:

ỉa chảy cấp tính:

ỉa chảy do cảm phải ngoại tà:

Thường thấy là yếu tố thấp, và nó thường phối hợp với hàn (hàn thấp) hoặc phối hợp với nhiệt (thấp nhiệt).

Cảm phải hàn thấp:

Triệu chứng: Đau bụng sôi bụng, ỉa chảy nhiều nước trong loãng, người nặng nề, mỏi mệt, không muốn ăn, không khát, rêu lưỡi trắng, mạch nhu hoãn (thấp nhiều) hoặc đau quặn, thích nóng, người lạnh, chân tay lạnh, không khát, mạch trầm trì (hàn nhiều).

Phép điều trị:

  • Nếu thấp nhiều: ôn trung, phân thanh trọc, lợi thủy thấp.

Phương thuốc: Vị linh tán: (Bình vị tán 1 đ.c Ngũ linh tán 1  đồng cân) (Đan khê tâm pháp)

Bình vị tán:

Thương truật                                 5 cân

Hậu phác                       3 cân 2lạng

Trần bì                           3 cân 2lạng

Cam thảo                      1 cân 4 lạng

Ngũ linh tán:

Trư linh              2/3 lạng              Quế chi           1/2 lạng

Trạch tả              2/3 lạng              Bạch truật 2/3 lạng

Phục linh 2/3 lạng Tán mịn.

Cách dùng: sắc với Táo 4 quả, Gừng 2 lát, chắt lấy nước uống. Lãn Ông thêm Bào khương, Nhục quế.

Ý nghĩa: Ngũ linh để hành khí lợi thủy, Bình vị để khử thấp hòa vị.

Vị thuốc Thương truật
Vị thuốc Thương truật
  • Nếu hàn nhiều: Ôn trung khứ hàn.

Phương thuốc: Lý trung thang (Thương hàn luận)

Đảng sâm                  3 đồng cân   Bạch truật               3 đồng cân

Can khương              3 đồng cân   Cam thảo                 3 đồng cân

Sắc uống.

Ý nghĩa: Can khương để ôn trung tiêu khu lý hàn, Sâm để bổ khí giúp vận hóa, Bạch truật để kiện tỳ táo thấp. Cam thảo để ích khí hòa trung.

  • Nếu nặng, phương thuốc trên thêm Phụ tử để tăng ôn dương khu hàn.

Hoặc Can khương nướng tán nhỏ 2  đồng cân, uống với nước cháo (Nam dược thần hiệu) để ôn trung trừ hàn.

  • Nếu cả hàn và thấp:

Phép điều trị: Tán hàn trừ thấp chỉ tả. (Trích từ Thuốc nam châm cứu).

Phương thuốc:

Củ riềng thái mỏng sao vàng 40g.

Vỏ ổi rộp sao     80g.

Tán mịn. Mỗi lần uống 6 – 8g với nước sôi để nguội (bỏ cặn).

Ý nghĩa: Riềng cay thơm ấm để ôn trung tiêu thực, vỏ ổi rộp đắng chát ấm để ôn trung sáp tràng chỉ tả.

  • Nếu thêm nôn:

Phương thuốc: Ôn trung tán hàn chỉ tả tán (Thuốc nam châm cứu).

Can khương              12g              vỏ quýt                   12g

Hạt đậu ván              40g              Sa nhân sao             20g

Hoắc hương sao 20g

Tán mịn, mỗi lần uống 2-6 g hòa với nước sôi (bỏ cặn).

Ý nghĩa: Can khương để ôn trung tiêu khu lý hàn. Bạch biển đậu để bổ tỳ, trừ thấp lợi tiểu giải độc. Hoắc hương để chỉ tả chỉ nôn tán phong hàn hóa trọc, vỏ quýt để lý khí hòa vị, hợp với Hoắc hương để chỉ nôn, Sa nhân để hành khí tỉnh tỳ chỉ nôn giảm đau.

Phương thuốc: Hoắc hương chính khí tán (Cục phương).

Đại phúc bì 1 lạng Bạch chỉ 1 lạng
Tử tô 1 lạng Phục linh 1 lạng
Bán hạ 2 lạng Bạch truật 2 lạng
Trần bì 2 lạng Hậu phác 2 lạng
Cát cánh 2 lạng Hoắc hương 3 lạng
Cam thảo 2,5 lạng

Tán mịn. Mỗi lần dùng 2  đồng cân sắc với Gừng 3 lát, Đại táo 1 quả, chắt nước bỏ bã, uống lúc nóng

Ý nghĩa: Hoắc hương để chỉ nôn ỉa, tán phong hàn, hóa trọc. Tô diệp, Bạch chỉ để phát tán giúp Hoắc hương giải phong hàn ở ngoài, hóa thấp trọc ở trong. Bán hạ, Trần bì để táo thấp vận thấp chỉ tả. Hậu phác, Đại phúc bì để hành khí hóa thấp thông trung tiện, trừ đầy, Cát cánh để tuyên phế lợi hoành vừa giải biểu, vừa hóa thấp ở lý, Sinh khương, Đại táo, Cam thảo để điều hóa tỳ vị. Nếu thấp nhiều gia Thương truật, Trạch tả.

Cảm phải thấp nhiệt:

Triệu chứng: Hễ đau bụng là đi ỉa ngay, phân vàng, khắm, nát lỏng, hậu môn hóng, nước đái ít đỏ, khát nước, nóng, tâm phiền, rêu lưỡi vàng bẩn, mạch nhu sác.

Phép điều trị: Thanh nhiệt lợi thấp chỉ tả.

Phương thuốc: (Hướng dẫn thực hành điều trị)

Hoàng bá                125g                Ngũ bội tử            37,5g

Ngũ vi tử                42,5g               Phèn phi                2,5g

Tán mịn làm viên 0,5 g.

Dưới 4 tuổi dùng 4 viên/ ngày chia 2 lần. Cứ thêm í tuổi thì thêm 2 viên/ngày tối đa không quá 12 viên/ngày, dùng 7 ngày.

Phương thuốc (Hướng dẫn thực hành điều trị)

Búp sim, Mộc hương, Mã đề, Xuyên tâm liên lượng bằng nhau.

Tán bột, đóng gói hoặc viên 0,5g. Cách dùng như bài trên.

Phép điều trị: Thanh nhiệt lợi thấp chỉ tả

Phương thuốc: Cát cări mã đề thang (Thuốc nam châm cứu).

Củ sắn dây (cát căn) 30g               Rau má cả củ             40g

Lá và bông mã đề          20g          Cam thảo dây            12g

Sắc uống.

Ý nghĩa: củ sắn dây để thanh nhiệt (lý) giải cơ (biểu). Rau má, Hoàng bá, Xụyên tâm liên đắng mát để thanh nhiệt tiêu độc lợi tiểu. Mã đề ngọt lạnh để thanh nhiệt lợi thủy trừ thấp. Cam thảo dây ngọt bình trừ nhiệt giải độc, Ngũ bội tử, Ngũ vị tử, Phèn chi để liễm khí sáp tràng, tiêu độc. Nhiệt thanh, thấp trừ thì hết ỉa.

Phương thuốc: Cát căn cầm liên thang (Thương hàn luận) gia Thược dược cam thảo thang.

Cát căn                   15 g Cam thảo 5g

Hoàng cầm 09 g Hoàng liên 9 g

Thêm thược dược                          12 g.

Ý nghĩa: Cát căn để giải biểu, thanh nhiệt, nâng khí dương của tỳ để chỉ tả, hợp với Hoàng cầm, Hoàng liên khổ hàn để thanh nhiệt táo thấp ở trường vị, Cam thảo để hòa trung, Thược dược để hành khí hòa huyết chỉ đau.

Phương thuốc: (Nam dược thần hiệu),

Lá mã đề giã vắt lấy nước cốt hòa với 1 chén mật ong, sắc nóng lên cho uống,

Hoặc hạt Mã đề tán nhỏ mỗi lần 2  đồng cân với nước cơm chữa nhiệt tả.

ỉa chảy do thương thực:

Triệu chứng: Đau bụng là ỉa, ỉa rồi đau giảm, phân thường loãng hoặc có hòn nhỏ hôi thối (như trứng ung), bụng đầy cứng, ợ khan có mùi hôi thức ăn, trung tiện nhiều, không muôn ăn, rêu dày, mạch hoạt sắc.

Phép điều trị: Tiêu thực đạo trệ.

Phương thuốc: vỏ rụt vỏ quýt tán (Thuốc nam châm cứu).

Vỏ rụt (sao vàng)           40g          vỏ với (sao vàng) 20g

Vỏ quýt (sao vàng)        20g          củ sả (sao vàng)         20g

Củ gấu giã dập (sao vàng) 40g.

Tán mịn – Mỗi lần dùng 6-8 g với nước đun sôi để nguội.

Ý nghĩa: vỏ rụt đắng hàn, củ sả cay ấm để tả trung tiêu thực, thông kinh, chỉ nôn… vỏ quýt cay ấm để kiện tỳ  lý khí, Vỏ với đắng ấm, Củ gấu đắng bình đều là thuốc thơm để hóa trọc tăng tác dụng tiêu thực, giảm tích trệ.

Phương thuốc: Bảo hòa hoàn (Đan khê tâm pháp)

Sơn tra 6 lạng Thần khúc 2 lạng
Phục linh 3 lạng Bán hạ 3 lạng
Trần bì 1 lạng Liên kiều 1 lạng
La bặc tử 1 lạng.

Mỗi lần uống 3  đồng cân với nước ấm.

Tán mịn làm hoàn nước.

Ý nghĩa: Sơn tra để tiêu các loại thức ăn tích trệ, nhất là thịt mỡ. Thần khúc để tiêu thức ăn, kiện tỳ nhất là thức ăn ôi, La bặc tử để hạ khí tiêu thức ăn nhất là ngũ cốc. Bán hạ, Trần bì để hành khí, hóa trệ, hòa vị chỉ nôn. Phục linh để kiện tỳ chỉ tả, Liên kiều để thanh nhiệt và tán kết do thực tích.

Tác dụng chính là tiêu thực hòa vị.

Phương thuốc: Bình vị tán gia Sơn tra, Thần khúc.

Thương truật        5 lạng              Hậu phác        3,2 lạng

Trần bì                  3,2 lạng           Cam thảo        l,llạng

Mỗi lần 2  đồng cân sắc với 3 lát gừng, 1 quả táo.

Ý nghĩa: Bình vị để trừ thấp hòa vị, Thần khúc, Sơn tra để tiêu thực. Tác dụng chính là tiêu đạo vận hóa.

ỉa chảy mạn tính:

ỉa chảy do tỳ vị hư hàn.

Triệu chứng: ỉa chảy thức ăn chưa tiêu hết, hay tái phát nhất là khi ăn thức ăn sống lạnh, dầu mỡ, số lần đi ỉa sẽ tăng, trong bụng khó chịu, sắc mặt nhợt, mệt mỏi, kém ăn, chân tay mát lạnh, lưỡi bệch rêu trắng, mạch hoãn nhược.

Phép điều trị: Ôn bổ tỳ vị chỉ tả.

Phương thuốc: Ôn trung chỉ tả tán (Thuốc nam châm cứu)

Sa nhân 16g                      Bố chính sâm sao gừng     20g

Vỏ quýt (sao)16g             vỏ rụt (sao)                               20g

Củ mài (sao)16g               Can khương                              16g

Gạo tẻ lâu năm rang cháy       30g

Tán mịn. Mỗi lần uông 6-8g hòa với nước đun sôi. Ngày 3 lần.

Phương thuốc: Cốm bổ tỳ (Viện đông y)

Đảng sâm 8g Biển đậu 8g
Trần bì 4g Liên nhục 8g
Hoài sơn 8g Nhục đậu khấu 6g
Cốc nha 8g Ý dĩ 8g
Sa nhân 4g

Ý nghĩa: Sâm, củ mài, Biển đậu, ý dĩ, Gạo để bổ trung kiện vận, Can khương để ôn trung, Trần bì để lý khí, kiện tỳ, Sa nhân, Đậu khấu để tỉnh tỳ chỉ thông hành khí tiêu thực, Cốc nha, vỏ rụt để thông kinh tiêu thực.

Phương thuốc: Sâm linh Bạch truật tán (Cục phương)

Liên nhục  1 cân

Ý dĩ     1 cân

Sa nhân   1 cân

Cát cánh  1 cân

Biển đậu 0.5 cân

Bạch linh 2 cân

Bạch truật 2 cân

Sơn dược 2 cân

Cam thảo 2 cân

Nhân sâm 2 cân.

– Tán mịn: mỗi lần dùng 2 đồng cân với nước sắc Đại táo, hoặc sắc uống.

Ý nghĩa: Sâm linh, Truật Thảo để bổ khí của tỳ vị, Ý dĩ, Hoài sơn, Liên tử bổ trợ để Bạch truật vừa kiện tỳ, vừa giảm thấp chỉ tả. Sa nhân để chỉ thống, hành khí tiêu thực tỉnh tỳ, Cát cánh nhằm ích phế khí. Phương này chủ yếu để ích khí kiện tỳ, thảm thấp chỉ tả.

Phương thuốc: Lý trung thang (Thương hàn luận).

Đảng sâm              3 lạng                Can khương      3 lạng

Cam thảo              3 lạng                Bạch truật          3 lạng

Tán mịn làm hoàn mật 9g/viên.

Ngày uống 3 lần, đêm 2 lần, mỗi lần 1 viên với nước ấm.

Ý nghĩa: Can khương để ôn trung khu hàn. Sâm để bổ khí. Truật để kiện tỳ, táo thấp, Thảo để ích khí, hòa trung.

Phương thuốc này chủ yếu là để ôn trung khu hàn, bổ khí kiện tỳ để chỉ tả. Nếu lý hàn nặng thêm Phụ tử để ôn dương.

Nếu ỉa loãng nếu có sa dom thêm Thăng ma, Sài hồ để thặng đề.

ỉa chảy do thận dương suy hư không ôn được tỳ.

Triệu chứng: ỉa chảy lúc rạng động (canh năm), đau quanh rốn, sôi bụng rồi ỉa, ỉa xong do phủ khí thông nên đau giảm. Bụng dưới lạnh, chân tay người lạnh, lưỡi nhợt, mạch trầm tế.

Phép điều trị: Ôn thận trợ tỳ dương, chỉ tả.

Phương thuốc: Tứ thần hoàn (Chính trị chuẩn thằng).

Nhục đậu khấu 2 lạng                    Phá cố chỉ          4 lạng

Ngũ vị tử               2 lạng               Ngô thù du        1 lạng

Sinh khương 8 lạng                       Đại táo 100 quả

Tán mịn 4 vị đầu. Luộc gừng, táo: lấy thịt táo trộn với bột làm hoàn 3g, uống lúc đói hoặc trước bữa ăn với nước, mỗi lần 6-9g, ngày 1-2 lần.

Ý nghĩa: Phá cố chỉ để bổ mệnh môn, ích thổ. Nhục đậu khấu để ôn tỳ thận, sáp trường chỉ tả. Ngô thù du để ôn tỳ tán hàn trừ thấp. Ngũ vị tử để ôn sáp. Sinh khương để tán hàn hành thủy. Táo để dưỡng tỳ vị.

Nếu khí hư hạ hãm ỉa không cần thêm: Nhân sâm, Hoàng kỳ, Bạch truật, Thăng ma, để ích khí thăng đề.

ỉa chảy do can khí thừa tỳ.

Triệu chứng: Thường có sườn đầy, căng, ợ hơi, ăn kém, khi cảm xúc mạnh thì gây đau bụng ỉa lỏng, rêu lưỡi mỏng, mạch huyền.

Phép điều trị: ức mộc, phù trung, chỉ tả,

Phương thuốc: Thống tả yếu phương (Cảnh nhạc toàn thư)

Phòng phòng         2 lạng               Bạch thược 3 lạng

Bạch truật             3 lạng               Trần bì              l,51ạng

Ý nghĩa: Phòng phong để tán can sơ tỳ, Bạch thược để dưỡng huyết tả can. Bạch truật để táo thấp kiện tỳ, Trần bì để lý khí tỉnh tỳ.

Một số phương thuốc chữa ỉa chảy khác:

Hành trắng giã nát sao nóng chườm ở rôn, lại dùng 21 tép hành giã nát xào với rượu cho uông để hồi dương, chữa thổ thả thoát dương nguy cấp, chân tay lạnh giá bất tỉnh (Nam dược thần hiệu)

Hạt sen già bóc vỏ tím sao vàng tán nhỏ, dùng 2 đồng cân nấu với gạo cũ cho uông lúc đói bụng, chữa tỳ hư ỉa chảy lâu năm (Nam dược thần hiệu).

ích trí nhân 2 lạng sắc đặc cho uống chữa bỗng nhiên đi ỉa bụng trướng, ỉa ngày đêm không cầm do khí thoát (Nam dược thần hiệu).

Tác dụng phụ của các Thuốc Chống Lao lên hệ thần kinh

Các Thuốc Chống Lao (tuberculostatica)

Đại cương

Từ khi phổ cập ứng dụng lâm sàng các thuốc điều trị lao, dù tác dụng ngắn hay dài, đã có rất nhiều kinh nghiệm được đúc kết. về tác dụng không mong muốn của thuốc trên hệ thần kinh, cơ bản chỉ thấy ở nhóm Streptomycin, isoniazid và ethambutol.

Có nhiều loại tổn thương thần kinh do các thuốc chống lao gây nên: ở hệ thần kinh trung ương có thể thấy rối loạn tâm thần, rối loạn hành vi và nhân cách; ở hệ thần kinh ngoại vi có thể thấy tổn thương các dây thần kinh sọ não và dây thần kinh tủy sống.

Tác dụng phụ của từng nhóm thuốc lên hệ thần kinh

Nhóm Streptomycin

Dùng theo đường dịch não tủy

Do hòa tan kém, đặc biệt là khả năng ngấm qua hàng rào máu-não rất kém nên tác dụng phụ của thuốc qua đường dịch não – tủy rất nặng nề và nặng hơn các con đường khác.

  • Liều cao (30 – 40mg ở người lớn), tiêm nhanh: gây kích thích tại chỗ và kích thích màng não.
  • Ngoài ra còn các biểu hiện do bản thân hoạt chất gây nên: rối loạn thị lực, thính lực, co giật, rối loạn ý thức cũng có những trường hợp tử vong. Tuy nhiên, ngày nay, trọng những trường hợp ngoại lệ (như viêm màng não không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác) có lúc vẫn phải cho chỉ định dùng Streptomycin đường dịch não tủy qua chọc sốncj thắt lưng hoặc chọc dưới chẩm, tuy nhiên, liều dùng lúc đó phải thấp (10 – 25mg) và tiêm rât chậm thì hầu như không thấy tác dụng phụ của thuốc nữa, thỉnh thoảng mới thấy tăng nhẹ số lượng tế bào và hàm lượng protein trong dịch não – tủy nhưng không có ý nghĩa quan trọng.

Dùng theo đường uống

  • Các biểu hiện độc thần kinh: đau đầu, giảm trí nhớ, rối loạn thị lực nhẹ, thất điều, hiếm khi thấy loạn thần, rối loạn khứu giác. Các triệu chứng này nhẹ, ít có ý nghĩa lâm sàng và thường thuyên giảm nhanh chóng khi cắt thuốc

Đáng lưu ý là bệnh nhân động kinh lâm sàng có thể nặng lẽn. Xuất hiện bệnh não với các biểu hiện múa vờn, múa giật, muộn hơn là co giật, tăng thân nhiệt, nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, rối loạn nhịp thở có thể rối loạn nhịp Cheyne – Stokes và hôn mê.

  • Gây tổn thương dây thần kinh số VIII: là tác dụng không mong muốn quan trọng nhất của streptomycin. Du có dùng thận trọng, thăm dò liều cẩn thận, nhiều trường hợp cũng không thể tránh nổi tổn thương này. Tổn thương cả 2 phần (thính lực và tiền đình) của dây VIII; dùng liều càng cao, thời gian dùng càng lâu tổn thương càng nặng nề. Mức độ tổn thương còn phụ thuộc vào cơ địa của từng người.

+ Tác dụng trên bộ máy tiền đình:

  • Là tổn thương hay gặp nhất, xảy ra ở 2/3 số bệnh nhân có dùng thuốc, 3/4 trong số đó băt buộc phải căt thuốc. Đối với dihydrostreptomycin tác dụng này ít hơn hẳn.
  • Nguyên nhân: tổn thương của bản thân bộ máy tiền đình chứ không phải tổn thương nhân tiên đình của dây VIII, biểu hiện là thoái hóa các tế bào cảm giác ở crista ampullaris và của macula sacculi.
  • Lâm sàng: tiến triển tăng dần, thường sau 1 – 3 tuần thấy chóng mặt, thất điều, hiếm hơn là rung giật nhãn cầu (rung giật nhãn cầu tự phát không có vì tổn thương ở cả hai bên), nghiệm pháp nhiệt khám tiền đình thấy dương tính sau 8 -14 ngày điều trị, nghiệm pháp Romberg thường dương tính không rõ ràng.
  • Tiên lượng: tổn thương nhẹ có thể phục hồi. Tổn thương nặng nề hoàn toàn có thể sẽ vĩnh viễn, tuy nhiên, lâu dài có thể được bù trừ rất tốt qua hệ thống thị lực và cảm giác sâu, nhiều năm sau đó có thể bình thường, khi đó chỉ thấy bệnh lý khi trời chập choạng tối hay ở môi trường ánh sáng quá chói.

+ Tác động trên bộ máy thính lực:

  • Tổn thương thính lực do streptomycin hiếm gặp hơn và ít hơn so với tổn thương cơ quan tiền đình (tỷ lệ 1 : 5).

Ngược lại, nếu dùng dihỵdrostreptomycin thì tổn thương thính lực lại hay gặp hơn (15 – 85%, trong khi tổn thưcmg tiền đình chỉ có 1 – 28% số bệnh nhân) và nặng nề hơn là tổn thương tiền đình.

  • Lâm sàng: ù tai, giảm thính lực tăng dần, các triệu chứng thính lực xuất hiện muộn hơn các triệu chứng tiền đình, nhiều trường hợp xuất hiện rất muộn, thậm chí sau 5-6 tháng vào giai đoạn cuối của đợt điều trị..
  • Nguyên nhân: do tổn thương cơ bản ở ốc tai dưới dạng thoái hóa biểu mô, tiếp theolà thoái hóa các sợi thần kinh, các nhân và các hạch trong ốc tai.
  • Tiên lượng: không thuận lợi, tổn thương thường không hồi phục. Chỉ có các tổn thương rất nhẹ mới có khả năng hồi phục dần.
  • Tổn thương trong tử cung: một phần streptomycin đi được vào máu củạ thai nhi và vào được nước ối, tuy nhiên, thế cũng đã đủ để gây tổn hại đến thai nhi nhất là khi liều thuốc cho mẹ cao và mẹ có rối loạn đào thải làm cho ứ đọng thuốc trong máu của người mẹ. Tuy nhiên, nếu kiểm soát tốt thì tổn thương thai nhi ở các bà mẹ bị lao có dùng streptomycin cũng rất ít ỏi.

Phòng ngừa tổn thương do streptomycin

  • Tránh dùng liều cao kéo dài (trừ trường hợp ngoại lệ phải dùng liều 2 – 3g/ngày trong vòng 3-4 ngày, các tường hợp khác không nên vượt quá 15 – 17mg/kg cân nặng, tương ứng với 1g/ ngày dành cho người lớn).
  • Trong điều trị lao, sau 1-2 tháng cần cắt streptomycin (như vậy tổng liều khoảng 30 – 40g), không nên dùng dihydrostreptomycin, nếu bắt buộc phải dùng thì không nên dùng quá 8 -10 ngày.
  • Cần dùng thêm vitamin hỗ trợ (vitamin A, B1, D và K).
  • Kiểm tra chặt chẽ chức năng thận, các trường hợp thai nghén tránh tích lũy thuốc.
  • Thận trọng khi sử dụng cho các bệnh nhân khiếm thính, bệnh nhân cao tuổi, xơ não tủy rải rác…
  • Kiểm tra thường xuyên (4-6 tuần một lần) chức năng thính lực và tiền đình ở bệnh nhân.

Điều trị

  • Cắt ngay thuốc khi đã xác định có tổn thương tiền đình, thính lực.
  • Chỉ định liệu pháp sinh tố (vitamin A, B1, D, B12, K).
  • Điều trị chống độc bằng acid pantothenic.
  • Thẩm phân máu (hemodialyse) nhằm loại bỏ nhanh streptimycin ra khỏi máu, chỉ định điều trị cấp cứu.

Nhóm streptomyces tuberculostatica hàng thứ hai

  • Đặc điểm chung

Cần lưu ý rằng, ngày này với sự ra đời của các thuốc kháng lao mới, rất giá trị như ethambutol, rifampicin… các thuốc kháng lao hàng thứ hai này ngày càng mất ý nghĩa trên lâm sàng.

Cũng như streptomycin và dihydrostreptomycin, các thuốc khác được sản xuất từ dòng nấm streptomyces (neomycin, kanamycin, yiomycin, capreọmycin) cũng có những độc tính nhât định đối với hệ thần kinh và rất chọn lọc đội với đôi dây thần kinh sọ não số VIII, trừ cycloserin có tác dụng không mong muốn lên hệ thần kinh là khác các thuốc khác. Các biện pháp dự phòng và điều trị các dụng không mong muộn của nhóm này cúng giống như đối với nhóm streptomycin và dihydrostreptomycin. ở đây cần lưu ý một số điểm sau:

Dù tổn thương tiền đình hay thính lực đều là tổn thương không hồi phục (trừ các trường hợp nhẹ), tổn thương thính lực đáng lo ngại hơn vì nó không như bộ máy tiền đình còn có các cơ quan khác tham gia bù trừ.

Trước khi điều trị bằng các thuốc nhóm này cần khám tiền đình và thính lực, trong khi điều trị cần kiểm tra chức năng đều đặn vài tuần một lần các chức năng trên.

Liều thuốc cần điều chính cho phù hợp với tuổi và trong lượng cơ thể.

Trước và trong khi điều trị cần lưu ý nhất là theo dõi chức năng thận kỹ càng tránh tình trạng tích lũy thuốc do chức năng thận kém. Đối với nhỏm thuốc streptomyces tuberculostatica hàng thứ hai không nên dùng cho người mang thai.

Không nên dùng cho người khiếm thính, cỏ vữa xơ động mạch, tuổi cao…

Tác dụng kháng độc của các chất nhóm acid pantothenic không được chứng minh rõ ràng.

Không nên dùng kết hợp các thuốc trong nhóm này với nhau hoặc với

  • Viomycin

Tổn thương dây thần kinh số VIII ở khoảng 10 – 15% số người dùng thuốc. Tổn thương tiền đình của viomycin sớm và nặng hơn so với của streptomycin, tổn thương thính lực của hai loại như nhau. Ngoài ra, viomycin còn gây đau đầu, mờ mắt. Nếu dùng acid pantothenic, đau đầu sẽ hiếm gặp hơn..

  • Neomycin

Tác dụng độc đối với dây VIII lớn nhất trong nhóm và không còn được dùng theo đường uống nữa vì độc tính của nó.

  • Kanamycin

Tổn thương ưu thế thính lực hơn là tiền đình, tác dụng điều trị của acid pantothenic không rõ ràng. Ngoài rạ, kanamycin còn gây đau đầu, bồn chồn, dị cảm, tổn thương dây thiệt – hâu (dây số IX) và hiếm hơn là thất điều kéo dài nhiều tháng.

  • Capreomycin

Thuốc này ít gây độc với thần kinh nhất, tác dụng trên thính lực chỉ là cảm giác ve kêu trong tai, không có giảm thính lực, tổn thương tiền đình gặp nhiều hơn chút ít, cả hai loại tổn thương đều phục hồi tốt.

  • Cycloserine

Được sản xuất từ nhiều dòng nấm khác nhau.

Không cộ độc tính chọn lọc VỚI đôi dây thần kinh sọ não số VIII, nhưng có tác dụng độc nhất đối với thần kinh – tâm thần.

  • Lâm sàng:

+ Triệu chứng thần kinh: đau đầu dữ dội, chóng mặt, mệt mỏi, giảm khả nănci tập trung tư tưởng, rôi loạn trí nhớ, có thể cộ lú lẫn nhẹ. Các triệu chứng xuất hiện tương đoi sớm vào giai đoạn đầu khi mới sử dụng thuốc và thuyên giảm khi giảm liều thuốc, vì vậy, ít khi phải cắt thuốc vì tác dụng phụ. Tuy nhiên, cũng có khi tác dụng không mong muốn rất nặng nề như co giật, rôi loạn ý thức nặng, dị cảm, giật sợi cơ, run khi nghỉ, co giật động kinh; hiếm hơn là rối loạn ngôn ngữ, liệt nửa người.

+ Triệu chứng tâm thần: nói tháo lời, kích thích, bồn chồn, mất tự chủ, cười nói vô cớ, vô tổ chức, hận thù, hung hãn, trầm cảm, hoang tưởng, ảo giác và có ý tưởng tự sát.

+ Các triệu chứng thuyên giảm sau khi cắt thuốc vài tuần lễ.

  • Dự phòng:

+ Khi bệnh nhân có các triệu chứng thần kinh, tâm thần như trên là chống chỉ đinh sử dụng cycloserin.

+ Thận trọng khi sử dụng thuốc cho người nghiện rượu, tuổi cao, xơ vữa động mạch, phụ nữ giai đoạn mận kinh, bệnh thận, phụ nữ mang thai, cần cho thuốc tăng và giảm dần liều, kết hợp thuốc an thần chống co giật.

  • Điều trị: đơn thuần triệu chứng, cần cho các thuốc an thần, chống động kinh, vitamin đặc biệt là vitamin B6.

Isoniazid

Đặc điểm chung của các tác dụng không mong muốn

Ở người lớn với liều 3 – 5mg/kg cân nặng/ngày sệ không cỏ tác dụng không mong muộn hoặc nếu có cũng rất nhẹ (táo bon, tăng kích thích, mất ngủ…) và thường tự thuyên giam. Nếu tăng liệu lên tới 8 – 10mg/kg cân nặng/ngày sẽ thấy tác dụng không mong muốn ở khoảng 5 – 10% sô bệnh nhân được dùng thuốc, trong đó có khoảng 1% phải cắt thuốc; với liều cao hơn tình trạng sẽ xấu hơn, các biểu hiện lâm sàng chính là rối loạn tâm thần và viêm đa dây thần kinh.

Ngộ độc INH cấp tính

  • Liều INH có thể gây ngộ độc là 2,5 – 3g, thời gian tiềm tàng có thể dài ngắn khác nhau. Các yếu tố làm tăng nặng là liều thuốc cao, tuổi cao, toàn trạng kém, dùng INH kéo dài, tâm lý không ổn định, nghiện rượu và nhất là ờ bệnh nhân có tiền sử động kinh.
  • Lâm sàng:

+ Các trường hợp nhẹ: thất điều, nói ngọng, viêm đa dây thần kinh với các biểu hiện như đau nông ngoài da, giảm (mất) phản xạ gân xương và phản xạ da.

+ Các trường hợp nặng: đầu tiên là biểu hiện run, nhìn mờ, lú lẫn, ảo giác, mất ý thức; sau đó hay gặp nhất là các cơn dạng động kinh (có thể khu trú hoặc lan tỏa), dãn đồng tử, rung giật nhãn cầu, rối loạn cơ vòng, tăng thân nhiệt (tới 40°C), rối loạn hô hấp, tím tái và có thể tử vong.

  • Tiến triển: ngộ độc với liều cho tới 10mg có thể sống sót dễ dàng, với liều cao hơn (đặc biệt trên 20g) tình trạng khó qua khỏi. Các biểu hiện tổn thương thần kinh ngoại vi cũng như trung ương khác có thể kéo dài hàng tháng. Những trường hợp tử vong thường do phù não lan tỏa, rôi loạn tính thấm màng, thoái hóa và phân rã tế bào và những thay đổi về mạch máu.
  • Điều trị:

+ Rửa dạ dày.

+ Duy trì đảm bảo chức năng sống (quy tắc A, B, C).

+ Điều trị triệu chứng: chống co giật, trợ tim – mạch, bổ sung magnesium sulíat đề phòng cơn hạ magiê.

+ Chống toan chuyển hóa: truyền nhiều dung dịch NaHC03 đẳng trương (1,4%).

+ Lợi tiểu: các trường hợp suy thận cần lọc máu nhân tạo.

+ Chỉ định cho vitamin: vitamin B6, cho ngay, liều cao (1g hoặc có thể cao hơn) trong những ngày đầu sau đó duy trì ở liều 300mg/ngày trong vài tuần lễ, vitamin c cho sớm.

Ngộ độc mạn tính

Gặp ở các bệnh nhân dùng thuốc dài ngày.

  • Tổn thương thần kinh trung ương:

+ Lâm sàng: rất hiếm gặp biến chứng trung ương thần kinh nặng nề, tuy nhiên, có thể thấy các biểu hiện lâm sàng khác nhau như sau:

  • Tăng kích thích, mệt mỏi, lo lắng, sợ sệt vô cớ, các phản ứng phân liệt, tăng hưng phấn (euphorie), hay khóc và trầm cảm. Nếu cắt thuốc các triệu chứng nhanh chóng thuyên giảm và mất hoàn toàn trong vài ngày hoặc vài tuần.

. Nếu không cắt thuốc sẽ thấy lâm sàng tăng nặng: tăng hưng phấn, hoang tưởng, ảo giác, mất trương lực, chụột rút hoặc co giật (có thể tới mức trạng thái động kinh), rối loạn cơ vòng, hiếm hơn là thất điều, liệt nửa người, có thể kèm theo lú lẫn hoặc mất ý thức.

+ Điều trị:

. Cắt thuốc INH khi thấy những biểu hiện đầu tiên cùa tác dụng không mong muốn.

. Điều trị triệu chứng, an thần, vitamin nhóm B (nhất là B6), vitamin c, acid glutamic.

  • Tổn thương thần kinh ngoại vi:

+ Đặc điểm chung của các tác dụng không mong muốn: với các liều thông thường thì ít có biểu hiện tác dụng không mong muốn, nếu có thì hay gặp nhất là các triệu chứng vô hại như rối loạn cảm giác nhẹ, hiếm hơn nữa là các triệu chứng rối loạn vận động; với liều từ 4 – 8mg/kg cân nặng/ ngày thì sẽ có 1,6% số bệnh nhân có biểu hiện viêm đa dây thần kinh.

Nhưng nếu dùng liều cao hơn, tới 20mg/kg cân nặng/ngày (liều này ngày nay rất hiếm khi dùng) thì có tới 35,29% số bệnh nhân sẽ bị viêm đa dây thần kinh.

Với liều 4 – 10mg/kg cân nặng/ngày thì hiếm khi phải cắt thuốc vì lý do tác dụng không mong muốn.

+ Lâm sàng:

  • Các triệu chứng thường gặp ở chi dưới sớm và nặng hơn chi trên, ngọn chi sớm và nặng hơn gốc chi. Cũng có khi ngực và thân bị ảnh hưởng theo.

. Đầu tiên là các triệu chứng rối loạn cảm giác chủ quan (đaụ) và dị cảm (nóng, lạnh, kim châm, bỏng rát ở ngoài da hay cảm giác bị cấu xé, co thắt các bắp cơ), cảm giác nặng chân. Rối loạn cảm giác thường nặng nề về ban đêm, khó chịu nhất là cảm giác đau vùng ngực do đau cơ và đau dây thần kinh liên sườn.

  • Các dây thần kinh chi trên hay bị tổn thương nhất là dây trụ và dây giữa. Rối loạn cảm giác nặng nề hơn rối loạn vận động, liệt và teo từng nhóm cơ (hay gặp nhất là các cơ liên cốt sau đó là các cơ ngón tay), mất các phản xạ gân xương (trừ phản xạ gân cơ tứ đầu đùi).

+ Điều trị: khi cắt thuốc các triệu chứng sẽ tự phục hồi và phục hồi hoàn toàn cần phải nhiều tháng. Các triệu chứng đáp ứng tốt với vitamin B6 liều cao; tuy nhiên, ngay cả với vitamin B6, các triệu chứng cũng chỉ thuyên giảm từ từ tới hết, kể cả các thể viêm đa dây thần kinh nặng nề cũng không để lại di chứng.

+ Dự phòng: khi điều trị lâu dài bằng INH cần cho thêm vitamin B6 (300mg/ngày hoặc cao hơn).

Các thuốc chống lao khác

  • PAS và thiocarbanilid: hầu như không có tác dụng phụ, thường chỉ có biểu hiện váng đầu hoặc chóng mặt thoáng qua.
  • Pyrazinamid và morfazinamid: cũng có các triệu chứng tương tự, đôi khi còn có tăng kích thích và mất ngủ.
  • Riíamycin: hầu như không thấy có tổn thương thần kinh trung ương. Đôi khi có thể có cảm giác chóng mặt, u ám hay lú lẫn, trầm cảm và giảm khả năng dung nạp rượu.
  • Thioacetazon: hiện nay hiếm sử dụng vì các tác dụng không mong muốn. Hay gặp các triệu chứng thần kinh trung ương với liều thông thường và với các biểu hiện đau đầu, bồn chồn, chóng mặt, lú lẫn.
  • Ethionamid và prothionamid:

+ Tác dụng không mong muốn trên hệ thần kinh trung ương: khi điều trị dài ngày bằng ethionamid có khoảng 15% bệnh nhân với các triệu chứng (như gặp ở INH) chóng mặt, đau đầu, rối loạn thị lực, thất điều và chuột rút. Khi điều trị bằng prothionamid cũng thấy các triệu chứng tương tự như gặp ở thionamid: chóng mặt đau đầu, ngất, nhìn, mờ.

+ Ngoài ra còn có các biểu hiện rối loạn tâm thần: trầm cảm, tăng kích thích, sa sút trí tuệ, ý tưởng tự sát, các triệu chứng tâm thần vận động, mệt mỏi, chán chường, hoang tưởng, áp đặt.

+ Tác dụng không mong muốn trên hệ thần kinh ngoại vi: giống như gặp trong INH, đó là viêm đa dây thần kinh.

+ Điều trị: cắt thuốc ngay khi có biểu hiện tổn thương thần kinh trung ương. Điều trị triệu chứng và cho vitamin.

Viêm thần kinh hậu nhãn cầu do nhiễm độc ethambutol: ngoài các triệu chứng như rối loạn cảm giác hai chân (với liều bình thường, dưới 1% số bệnh nhân mắc), đau đầu, chòng mặt, viêm đa dây thần kinh và co giật chi trên… thì còn khoảng 2,6% số bệnh nhân khi dùng ethambutol lâu dài sẽ thấy xuất hiện rối loạn thị lực do tổn thương dây thần kinh thị giác. Độc thị giác biểu hiện ở 2 typ:

+ Thể trung tâm (Central) hay thể trục (axial typ): tổn thương cơ bản ở các bó tủy gai gây nhìn mờ, đôi khi có ám điểm trung tâm, rối loạn nhìn màu (màu xanh lá cây thành màu xám, màu đỏ thành màu hồng, cũng có khi bệnh nhân chỉ còn nhìn thấy màu nâu với các mức độ sáng tối khác nhau).

+ Thể quanh trục hay ngoài trục (periaxial typ): hầu như không ảnh hưởng hoặc ảnh hường nhẹ đến thị lực, trong hầu hết các trường hợp chỉ có ám điểm ngoại vi, triệu chứng rối loạn nhìn màu cũng nhẹ nhàng.

 

Bạch cầu cấp thể Lympho/U Lympho

BẠCH CẦU CẤP NGUYÊN BÀO LYMPHO VÀ U NGUYÊN ÀO LYMPHO

Hay gặp ở trẻ em hơn người lớn (~6000 tổng số ca/năm).

Phần lớn các trường hợp có tế bào u có nguồn gốc từ tuyến ức và bệnh nhân có khối u trung thất. Triệu chứng khởi phát ban đầu thường là các biểu hiện suy tủy (xanh xao, mệt mỏi, xuất huyết, sốt, nhiễm trùng). Hay gặp gan lách to và viêm hạch. Nam giới có thể có tinh hoàn to phản ánh thâm nhiễm bạch cầu. Thâm nhiễm màng não có thể xuất hiện ở thời điểm chẩn đoán hoặc muộn hơn. Có thể tăng LDH, hạ natri máu và hạ kali máu bên cạnh thiếu máu, giảm tiểu cầu và số lượng blast ngoại vi cao. Tế bào bạch cầu type L2 theo FAB hay gặp ở người lớn hơn, ở trẻ em L1 chiếm ưu thế. Chẩn đoán bệnh bạch cầu đòi hỏi ít nhất 20% nguyên bào lympho trong tủy xương. Tiên lượng xấu khi có số lượng bạch cầu cao, tuổi >35 và có chuyển đoạn t(9;22), t(1;19) và t(4;11).Có HOX11 là dưới nhóm tiên lượng tốt của bạch cầu cấp nguyên bào lympho T.

Điều trị Bạch cầu cấp nguyên bào lympho và u nguyên bào lympho

Điều trị thành công đòi hỏi giai đoạn cảm ứng mạnh, dự phòng hệ thần kinh trung ương và điều trị duy trì trong vòng 2 năm.

Vincristine, L-asparaginase, cytarabine, daunorubicin và prednisone là các tác nhân đặc biệt hiệu quả. Dự phòng hệ thần kinh trung ương bằng tiêm methotrexate nội tủy sống hoặc đường toàn thân liều cao. Có thể đạt thời gian sống thêm kéo dài ở 60–65% bệnh nhân. Vai trò và thời gian ghép tủy trong liệu pháp chính còn tranh cãi nhưng có đến 30% bệnh nhân tái phát được chữa khỏi bằng cấy ghép bổ trợ.

U LYMPHO/BỆNH BẠCH CẦU BURKITT

Hay gặp ở trẻ em. Liên quan đến chuyển đoạn giữa gen c-myc trên nhiễm sắc thể số 8 với gen tổng hợp globulin miễn dịch chuỗi nặng hoặc nhẹ. Bệnh nhân thường có bệnh lan tỏa với khối u bụng lớn, gan to và viêm hạch. Nếu hình ảnh bạch cầu chiếm ưu thế, nó được phân loại là FAB L3.

Điều trị Bệnh bạch cầu/u lympho Burkitt

Cắt bỏ khối u bụng lớn làm cải thiện kết quả điều trị. Phác đồ điều trị tích cực bệnh bạch cầu bao gồm vincristine, cyclophos-phamide, 6mercaptopurine, doxorubicin và prednisone có hiệu quả. Phác đồ CODOX-M và BFM là các phác đồ hiệu quả nhất. Có thể chữa khỏi ở khoảng 50–60%. Sự cần thiết của điều trị duy trì chưa rõ. Dự phòng hội chứng ly giải u rất quan trọng.

BỆNH BẠCH CẦU/U LYMPHO TẾ BÀO T TRƯỞNG THÀNH (ATL)

Rất hiếm; chỉ một phần nhỏ (~2%) bệnh nhân nhiễm HTLV-I tiến triển thành bệnh. Một số bệnh nhân nhiễm HTLV-I phát triển thành liệt cứng hai chân do tổn thương tủy mà không phát triển thành ung thư. Hội chứng lâm sàng đặc trưng của ATL gồm tăng bạch cầu mà không kèm theo thiếu máu nặng hoặc giảm tiểu cầu, thâm nhiễm da, gan to, thâm nhiễm phổi, tổn thương màng não và nhiễm trùng cơ hội. Các tế bào u là tế bào T CD4+ có nhân hình móng chẻ đôi hoặc hình hoa. Canxi máu cao gặp ở hầu hết các bệnh nhân và liên quan đến các cytokine sản xuất từ các tế bào u.

Điều trị Bệnh bạch cầu/u lympho tế bào T trưởng thành

Điều trị tích cực gắn với độc tính cao liên quan đến nền suy giảm miễn dịch. Glucocorticoid làm giảm tình trạng tăng canxi máu. Khối u có đáp ứng với điều trị nhưng thường trong thời gian ngắn. Zidovudine và IFN có thể giảm nhẹ ở một số bệnh nhân.

Thăm dò chức năng tuyến cận giáp trong chẩn đoán và điều trị

HORMON TUYẾN CẬN GIÁP

TÊN KHÁC: tiếng Anh: Parathyroid Hormone – PTH

NGUỔN GÔC: các tế bào màu sáng của tuyến.

TÁC DỤNG VÀ ĐIỂU HOÀ

  • Hormon tuyến cận giáp có tác dụng kích thích quá trình tiêu xương và huy động calci vào máu, làm tăng calci huyết và làm giảm phospho huyết. Tác động gây phosphat niệu là do hormon tuyến cận giáp ức chế tái hấp thu phosphat ở các ống thận.
  • Hormon tuyến cận giáp kích thích sản xuất 1,25 dihydroxycholecalciferol (là sản phẩm chuyển hoá hoạt tác của vitamin D). Hormon tuyến cận giáp và vitamin D là hai chất điều hoà calci huyết chủ vếu.
  • Hormon tuyến cận giáp kích thích hấp thu calci ở ruột non.
  • Giảm calci huyết có tác dụng kích thích bài tiết hormon tuyến cận giáp, ngược lại tăng calci huyết ức chế bài tiết hormon này. Giảm calci huyết mạn tính gây ra tăng sản tế bào tuyến cận giáp trạng (ưu năng tuyến cận giáp thứ phát).

HÀM LƯỢNG HORMON TUYẾN CẬN GIÁP TRONG HUYẾT TƯƠNG: thuyết minh các kết quả xét nghiệm phải căn cứ theo mức calci huyết.

GIẢM BÀI TIẾT: nhược năng tuyến cận giáp (nếu là thể cấp tính thì gây ra co cứng cơ do thiếu hormon tuyến cận giáp).

TĂNG BÀI TIẾT: ưu năng tuyến cận giáp (tăng hormon không cân xứng với calci huyết). Trong trường hợp giả ưu năng tuyến cận giáp, hàm lượng hormon tuyến cận giáp vẫn duy trì ở mức bình thường hoặc chỉ hơi tăng, nhưng lại đi kèm giảm calci huyết.

CALCI HUYÊT: những biến động về calci huyết có thế gây ra bởi những bệnh của tuyến cận giáp, nhưng cũng có thể do nhiều nguyên nhân khác nữa. (xem: calci huyết).

PHOSPHO HUYÊT: liên quan nghịch chiều với hàm lượng hormon tuyến cận giáp, phospho huyết tăng lên trong trường hợp suy thận và trong trường hợp nhược năng tuyến cận giáp. (Về chi tiết, xem: phospho huyết).

TEST PHOSPHAT NIỆU (định lượng phosphat trong nước tiểu sau khi cho người thử sử dụng hormon tuyến cận giáp): ví dụ test Ellsworth-Ellis hoặc Ellsworth-Howarđ. Những test này không đáng tin cậy lắm và thường được thay thế bởi những test dưới đây.

ĐỊNH LƯỢNG ADENOSIN-MONOPHOSPHAT VÒNG (AMPC) TRONG NƯỚC TIỂU: chất này được bài tiết ra nước tiểu (bình thường là 3-8 pmol/ngày) với 50% do lọc qua tiểu cầu thận và 50% do các tế bào ống thận bài tiết ra và phụ thuộc vào sự kiểm soát của hormon tuyến cận giáp.

Nếu cho người thử sử dụng hormon tuyến cận giáp, thì sẽ làm tăng bài tiết AMP vòng theo nước tiểu trong trường hợp bệnh nhân bị nhược năng tuyến cận giáp, nhưng lại không gây ra hiệu quả nào trong trường hợp nhược năng tuyến cận giáp, vì trong trường hợp này thì các tế bào ống thận không nhạy cảm với tác động của hormon tuyến cận giáp.

HÀM LƯỢNG PHOSPHO TÁI HẤP THU Ở Ống THẬN: tỷ lệ giữa thanh thải phospho và thanh thải creatinin giảm xuống trong trường hợp ưu năng tuyến cận giáp (cũng như trong trường hợp các bệnh ở ống lượn gần và tăng calci huyết).

Phân biệt các loại bệnh sởi

Trong thời gian vừa qua bệnh rubella (bệnh sởi Đức) có dấu hiệu bùng phát tại một số tỉnh phía Nam, đồng thời ở một số tỉnh miền núi phía Bắc cũng xuất hiện một dịch sốt phát ban nghi sởi mà các nhà chuyên môn chưa loại trừ là bệnh rubella. Bệnh rubella cũng là một dạng sởi, vì vậy chúng tôi giới thiệu dưới đây những đặc điểm giống và khác bệnh sởi thông thường, tác hại và nguyên tắc dự phòng bệnh rubella để bạn đọc tham khảo.

Những đặc điểm giống với bệnh sởi thường gặp

Là bệnh nhiễm virus cấp tính chỉ xảy ra ở người có tính lây truyền cao và có tính miễn dịch quần thể. Bệnh chủ yếu lây truyền qua đường hô hấp qua những hạt dịch tiết của hầu họng. Phải đặt vấn đề nghi ngờ khi người bệnh có tiếp xúc với người mắc bệnh sởi hoặc trong vùng có nhiều người mắc bệnh.

Phân loại các loại bệnh sởi
Phân loại các loại bệnh sởi

Người bệnh thường bắt đầu bằng sốt nhẹ hoặc có khi sốt cao 41° – 42°c. Viêm long đường hô hấp là triệu chứng hầu như không bao giờ thiếu với các biểu hiện: hắt hơi, sổ mũi, chảy nước mắt, viêm kết mạc mắt, dử mắt, phù mi nhẹ. Đôi khi có thể thấy viêm long đường ruột gây tiêu chảy. Dấu hiệu dễ nhận thấy là xuất hiện ban toàn thân.

Những đặc điểm riêng biệt của bệnh rubella:

Một số đặc điểm lâm sàng của bệnh: Trước khi có vaccin, bệnh rubella thường xuất hiện thành dịch theo chu kỳ từ 6 – 9 năm. Bệnh diễn biến trong một thời gian ngắn hơn so với bệnh sởi thông thường. Mặc dù bệnh cũng khởi đầu bằng triệu chứng viêm long đường hô hấp nhưng các biểu hiện thường nhẹ và không rõ dấu hiệu nhiễm độc. Nếu như dấu Koplik (những chấm nhỏ, kích thước khoảng 1mm, màu đỏ, sung huyết nổi lên trên niêm mạc má ở những vị trí ngang với răng hàm thứ nhất) là dấu hiệu đặc hiệu có tính chất chỉ điểm cho bệnh sởi thông thường, thì không thấy trong bệnh rubella.

Ban trong bệnh rubella thường mọc ngay từ ngày thứ 1 – 2, ban mọc ngay toàn thân, có kích thước nhỏ và mọc thưa (ban sởi thông thường bắt đầu mọc từ sau tai, lan dần hai bên má, cô ngực, tay, sau lưng, chân và toàn thân. Ban dày có xu hướng kết lại thành từng đám xen giữa những khoảng da lành). Một điều khác biệt trong bệnh rubella thường xuất hiện hạch: Hạch mọc ở vùng tai, chẩm và sưng đau. Đau khớp thường xuất hiện ở phụ nữ trưởng thành với các mức độ khác nhau, thường là ở các khớp gối, mắt cá, cổ tay, ngón tay, kéo dài vài ba ngày đến 1 tháng nhưng không để lại di chứng.

Biến chứng và tác hại của bệnh

Ở bệnh sởi thông thường các biến chứng thường gặp hàng đầu là viêm phổi, tiếp đến có thể gặp viêm tai giữa, viêm thanh quản, viêm não (hiếm gặp) và một số biến chứng khác như nhiễm trùng hoại tử răng miệng, niêm mạc môi, má (thường gọi là “cam tẩu mã”), loét giác mạc, viêm ruột kéo dài, suy dinh dưỡng. Đối với bệnh rubella, tác hại được nói đến nhiều nhất là các tổn thương bẩm sinh do thai nhi bị nhiễm rubella từ mẹ qua đường rau thai. Khi bị nhiễm bệnh thường dẫn đến sảy thai, đẻ non và các dị tật bẩm sinh. Các biểu hiện của rubella ngay sau sinh thường là nhẹ cân, ban xuất huyết, gan to, lách to, thiếu máu. Các tổn thương bẩm sinh được đề cập là tổn thương mắt, điếc, tổn thương thần kinh trung ương, tiểu đường (thường xuất hiện muộn). Không phải rubella bẩm sinh nào cũng xuất hiện ngay sau sinh mà có thể xuất hiện sau nhiều năm, do đó phải theo dõi bệnh nhân trong một thời gian dài để đánh giá tình hình diễn biến của bệnh.

Điều trị

Rubella cũng không có thuốc điều trị đặc hiệu. Điều trị triệu chứng chủ yếu là hạ sốt, vệ sinh toàn thân, răng, miệng, mắt, da, tăng cường dinh dưỡng: Ăn thực phẩm dễ tiêu, giàu dinh dưỡng. Điều trị các biến chứng nếu có.

Phòng bệnh

Hiện nay ở nước ta đã có vaccin phòng bệnh rubella nhưng chưa được đưa vào chương trình tiêm chủng mở rộng. Để người dân được tiếp cận tích cực với vaccin là một cách phòng bệnh có hiệu quả. Khi có bệnh nhân mới (nhất là giai đoạn viêm long đường hô hấp) cần có các biện pháp cách ly để ngăn chặn sự lây truyền và làm bệnh bùng phát (khoảng 7 ngày kể từ thời điểm xuất hiện ban). Hiện tại không có chỉ định sử dụng vaccin rubella cho phụ nữ có thai. Trong điều kiện hiện tại, phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ cần thiết phải nắm được biểu hiện, đường lây truyền và tác hại của bệnh để có được biện pháp phòng bệnh hữu hiệu nhất.

Bệnh vảy nến – triệu chứng, điều trị

  1. ĐẠI CƯƠNG

Vảy nến là bệnh mạn tính, tiến triển từng đợt, dai dẳng, căn nguyên của bệnh chưa rõ. Bệnh thường gặp ở Việt Nam và các nước trên thế giới. Tỷ lệ bệnh vảy nến chiếm khoảng 2-3% dân số tùy theo từng khu vực. Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê tại Bệnh viện Da liễu Trung ương năm 2010, tỷ lệ bệnh nhân vảy nến chiếm khoảng 2,2% tổng số bệnh nhân đến khám bệnh.

Hình thái lâm sàng của bệnh vảy nến đa dạng, ngoài thương tổn da còn có thương tổn niêm mạc, móng và khớp xương. Do ảnh hưởng của thuốc điều trị, hình ảnh lâm sàng của bệnh thay đổi, nhiều trường hợp khó chẩn đoán.

  1. CĂN NGUYÊN

Căn nguyên của bệnh vảy nến chưa rõ. Người ta cho rằng bệnh vảy nến có liên quan đến rối loạn miễn dịch và yếu tố di truyền, thương tổn bùng phát khi gặp những yếu tố thuận lợi.

– Yếu tố di truyền: bệnh vảy nến thường gặp ở những người có HLA-B13, B17, BW57 và CW6. Đặc biệt gen HLA-CW6 gặp ở 87% bệnh nhân vảy nến.

–   Cơ chế miễn dịch: người ta nhận thấy có sự thay đổi miễn dịch ở bệnh vảy nến. Các tế bào miễn dịch được hoạt hoá tiết các hoạt chất sinh học có tác dụng thúc đẩy tăng sinh, làm rối loạn quá trình biệt hoá tế bào sừng.

–  Các yếu tố thuận lợi như stress ảnh hưởng đến thể chất và tinh thần; tiền sử bệnh nhân mắc các bệnh mạn tính, bị chấn thương, nhiễm khuẩn hoặc sử dụng thuốc. Đặc biệt là đối với các bệnh nhân đã dùng corticoid, các đông, nam dược không rõ nguồn gốc, không rõ thành phần và chưa được đánh giá hiệu quả trong điều trị bệnh; bệnh nhân có tiền sử rối loạn nội tiết, rối loạn chuyển hóa hoặc nghiện rượu.

  1. CHẨN ĐOÁN

a) Lâm sàng

Thương tổn da: điển hình là những dát đỏ, giới hạn rõ với da lành, trên dát phủ vảy da dễ bong. Đặc điểm của dát thường có màu đỏ hoặc hồng, số lượng thay đổi, kích thước khác nhau, ranh giới rõ với da lành, hình tròn hoặc bầu dục, hoặc hình nhiều vòng cung, ấn kính mất màu, sờ mềm, không thâm nhiễm, không đau. Vị trí thương tổn thường ở chỗ tỳ đè, vùng hay bị cọ sát như khuỷu tay, đầu gối, mấu chuyển, mặt duỗi các chi, chỗ bị sang chấn hay vết bỏng, sẹo, vết cào gãi gọi là dấu hiệu Koebner. Thương tổn có khuynh hướng đối xứng. Đặc điểm của vảy da là khô, gồm nhiều lớp xếp chồng lên nhau, độ dầy không đều, dễ bong, màu trắng đục như xà cừ, phủ kín toàn bộ dát đỏ hoặc phủ một phần, thường để lại vùng ngoại vi.

Cạo vảy theo phương pháp của Brocq: dùng thìa nạo cùn (curette) cạo trên thương tổn vảy nến từ vài chục đến hàng trăm lần thì thấy đầu tiên là vảy da bong thành lát mỏng có màu trắng đục. Tiếp tục cạo sẽ thấy một màng mỏng bong ra (gọi là màng bong). Dưới lớp màng bong bề mặt đỏ, nhẵn, bóng, có những điểm rớm máu gọi là hạt sương máu (dấu hiệu Auspitz).

Thương tổn móng: chiếm khoảng 30-50% tổng số bệnh nhân vảy nến, thường kèm với thương tổn da ở đầu ngón hoặc rải rác ở toàn thân. Nếu chỉ có thương tổn móng đơn thuần thì khó chẩn đoán, phải sinh thiết móng. Thương tổn móng có thể là những chấm lõm ở mặt móng (dạng cái đê khâu) hoặc những vân ngang; móng mất trong, có những đốm trắng hoặc thành viền màu vàng đồng; bong móng ở bờ tự do; dày sừng dưới móng cùng với dầy móng và mủn; có thể biến mất toàn bộ móng để lại giường móng bong vảy sừng. Ở vảy nến thể mủ thấy các mụn mủ dưới móng hoặc xung quanh móng.

Thương tổn khớp: chiếm khoảng 10-20% tổng số bệnh nhân vảy nến. Biểu hiện là đau các khớp; hạn chế và viêm một khớp; viêm đa khớp vảy nến, hình ảnh lâm sàng giống viêm đa khớp dạng thấp; viêm khớp cột sống vảy nến hiếm gặp hơn so với viêm đa khớp. Thể này rất khó phân biệt với viêm cột sống dính khớp. Hình ảnh X-quang thấy hiện tượng mất vôi ở đầu xương, hủy hoại sụn, xương, dính khớp.

Thương tổn niêm mạc: thường gặp ở niêm mạc qui đầu. Đó là những vết màu hồng, không thâm nhiễm, giới hạn rõ, ít hoặc không có vảy, tiến triển mạn tính. Ở lưỡi thương tổn giống viêm lưỡi hình bản đồ hoặc viêm lưỡi phì đại tróc vảy; ở mắt biểu hiện viêm kết mạc, viêm giác mạc, viêm mí mắt.

b) Xét nghiệm

Hình ảnh mô bệnh học đặc trưng là á sừng, mất lớp hạt, tăng gai và thâm nhiễm viêm. Lớp sừng có dày sừng và á sừng (những tế bào sừng vẫn còn nhân tụ tập lại thành lá mỏng, không đều nhau và nằm ngang); mất lớp hạt; lớp gai quá sản, độ dày tuỳ theo vị trí, ở trên nhú trung bì thì mỏng, chỉ có 2-3 hàng tế bào, ở giữa các nhú trung bì tăng gai mạnh làm mào thượng bì kéo dài xuống, phần dưới phình to như dùi trống, đôi khi chia nhánh và có thể được nối lại với nhau, làm mào liên nhú dài ra; có vi áp xe của Munro trong lớp gai; lớp đáy tăng sinh, có thể đến 3 hàng tế bào.

Xét nghiệm sinh hóa máu, đặc biệt là định lượng can-xi máu trong trường hợp vảy nến thể mủ.

Xét nghiệm ASLO hay nuôi cấy vi khuẩn (ngoáy họng) đối với bệnh nhân mắc vảy nến thể giọt.

c) Chẩn đoán xác định dựa vào:

– Thương tổn da: dát đỏ giới hạn rõ với da lành, trên dát phủ vảy trắng dễ bong.

–  Cạo vảy theo phương pháp Brocq dương tính.

–  Hình ảnh mô bệnh học (khi thương tổn lâm sàng không điển hình).

d) Phân thể

–   Thể thông thường: theo kích thước thương tổn có vảy nến thể chấm hoặc thể giọt (dưới 1 cm), thể đồng tiền (từ 1-3 cm), thể mảng (từ 5-10cm). Theo vị trí giải phẫu có vảy nến ở các nếp gấp (vảy nến đảo ngược); vảy nến ở da đầu và ở mặt; vảy nến lòng bàn tay, lòng bàn chân; vảy nến thể móng.

–  Thể đặc biệt:

Vảy nến thể mủ khu trú của Barber gặp ở lòng bàn tay, lòng bàn chân.

Viêm da đầu chi liên tục của Hallopeau: thương tổn khu trú ở các đầu ngón tay, ngón chân.

Vảy nến thể mủ lan toả điển hình là thể của Zumbusch, bắt đầu xảy ra đột ngột, sốt 40oC, xuất hiện những mảng dát đỏ trên da lành hoặc chuyển dạng từ những mảng vảy nến cũ. kích thước lớn, đôi khi lan toả, màu đỏ tươi, căng phù nhẹ, ít hoặc không có vảy, tạo hình ảnh đỏ da toàn thân. Trên những mảng dát đỏ xuất hiện mụn mủ nhỏ bằng đầu đinh ghim, trắng đục, ở nông dưới lớp sừng, dẹt, hiếm khi đứng riêng rẽ, thường nhóm lại, cấy mủ không thấy vi khuẩn. Ba giai đoạn dát đỏ, mụn mủ và bong vảy da xuất hiện xen kẽ trên cùng một bệnh nhân do các đợt phát bệnh xảy ra liên tiếp.

Vảy nến đỏ da toàn thân: thường là biến chứng của vảy nến thể thông thường hoặc do dùng corticoid toàn thân, đôi khi là biểu hiện đầu tiên của bệnh vảy nến.

e) Chẩn đoán phân biệt

–   Giang mai thời kỳ thứ II: thương tổn cơ bản là các sẩn màu hồng, thâm nhiễm, xung quanh có vảy trắng, cạo vảy theo phương pháp Brocq âm tính. Xét nghiệm tìm xoắn trùng tại thương tổn, phản ứng huyết thanh giang mai dương tính.

–  Lupus đỏ kinh: thương tổn cơ bản là dát đỏ, teo da, vảy da dính khó bong.

–  Á vảy nến: thương tổn cơ bản là các sẩn, mảng màu hồng có vảy trắng, cạo vảy có dấu hiệu “gắn xi”.

–   Vảy phấn hồng Gibert: thương tổn cơ bản là mảng da đỏ hình tròn hoặc hình bầu dục, có vảy phấn nổi cao so với trung tâm, rải rác toàn thân. Các vùng đầu, mặt và bàn tay, bàn chân thường không có thương tổn. Bệnh tiến triển tự khỏi trong vòng 4 đến 8 tuần.

–   Vảy phấn đỏ nang lông: thương tổn là các sẩn hình chóp màu hồng có vảy phấn, khu trú ở nang lông. Vị trí hay gặp nhất là ở mặt duỗi đốt 2 đốt 3 ngón tay và ngón chân, bụng, chi dưới.

  1. ĐIỀU TRỊ

a) Chiến lược

Điều trị vảy nến gồm hai giai đoạn:

Giai đoạn tấn công có thể lựa chọn các phương pháp điều trị tại chỗ, toàn thân hoặc phối hợp các phương pháp điều trị nhằm xoá sạch thương tổn.

Giai đoạn duy trì sự ổn định, giữ cho bệnh không bùng phát. Tư vấn cho bệnh nhân hiểu rõ về bệnh vảy nến, phối hợp với thầy thuốc khi điều trị cũng như dự phòng bệnh bùng phát.

Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu để chữa khỏi hoàn toàn bệnh vảy nến. Nếu vận dụng và phối hơp tốt các phương pháp điều trị có thể duy trì được sự ổn định của bệnh, hạn chế được các đợt bùng phát, cải thiện được chất lượng cuộc sống người bệnh.

b) Các thuốc điều trị tại chỗ

– Lựa chọn trong số các loại thuốc bôi sau:

Dithranol, anthralin: bôi ngày 1 lần, điều trị tấn công hoặc điều trị củng cố, rất có hiệu quả đối với bệnh vảy nến thể mảng, đặc biệt ở những trường hợp chỉ có một vài mảng thương tổn lớn. Chống chỉ định với những trường hợp đỏ da toàn thân, vảy nến thể mủ. Tránh để thuốc dây vào da bình thường, rửa tay sau khi dùng thuốc. Tác dụng không mong muốn gặp ở một vài trường hợp, chủ yếu là gây kích ứng da.

Salicylic axit đơn thuần hay được sử dụng ở Việt Nam, thuốc có tác dụng bạt sừng, bong vảy, bôi ngày 1-2 lần; không bôi toàn thân vì có thể gây độc, tăng men gan. Salicylic axit kết hợp với corticoid vừa có tác dụng bạt sừng vừa chống viêm, bôi ngày 2 lần.

Calcipotriol là một dẫn chất của vitamin D3, dạng thuốc mỡ, điều trị bệnh vảy nến thể thông thường, bôi ngày 2 lần, liều tối đa không quá 100mg/tuần, bôi dưới 40% diện tích da cơ thể.

Calcipotriol kết hợp với corticoid, bôi ngày 1 lần, dùng điều trị tấn công, dạng gel dùng điều trị vảy nến da đầu, dạng mỡ dùng điều trị vảy nến ở thân mình.

Vitamin A axít dùng tại chỗ, dạng đơn thuần hoặc dạng kết hợp với corticoid. Trong điều trị vảy nến thể mảng, thuốc được bôi ngày 1 lần. Có thể có các tác dụng phụ như kích ứng, đỏ da, bong da nhẹ.

Kẽm oxýt tác dụng làm dịu da, giảm kích ứng, sử dụng kết hợp với các thuốc bạt sừng bong vảy mạnh.

Corticoid tại chỗ được bôi ngày 1 đến 2 lần, dùng điều trị tấn công, tác dụng điều trị nhanh nhưng dễ tái phát sau ngừng thuốc, dùng kéo dài có thể gặp các tác dụng không mong muốn, cần phải giảm liều.

– Quang trị liệu (phototherapy)

+ UVA (320-400nm), tuần chiếu 3 lần hoặc 2 ngày chiếu 1 lần.

+ UVB (290-320nm) ngày nay ít sử dụng, được thay thế dần bằng UVB dải hẹp (UVB-311nm, UVB-Narrow Band), có hiệu quả điều trị hơn và hạn chế được tác dụng không mong muốn.

+ PUVA (Psoralen phối hợp UVA): meladinin 0,6 mg/kg uống 2 giờ trước

khi chiếu UVA, liều UVA tăng dần từ 0,5 đến 1 J/cm2.

c) Toàn thân

–   Methotrexat: tác dụng chống chuyển hóa do ức chế quá trình khử axit folic cần thiết cho tổng hợp axít nucleic và axít amin ở tế bào, điều trị đỏ da toàn thân do vảy nến, vảy nến thể mủ toàn thân, vảy nến thể mảng lan rộng. Liều mỗi tuần 7,5mg uống chia làm 3 lần cách nhau 12 giờ hoặc tiêm bắp thịt 1 lần 10mg/tuần. Cần theo dõi chức năng gan khi dùng thuốc kéo dài.

–  Acitretin, dẫn chất của vitamin A axít, tác dụng điều hòa quá trình sừng hóa, điều trị các thể vảy nến nặng. Người lớn dùng liều khởi đầu 25 mg/ngày, sau 1-2 tuần, tùy theo kết quả và dung nạp thuốc sẽ điều chỉnh (tăng hoặc giảm liều) cho phù hợp.

–   Cyclosporin: tác dụng ức chế miễn dịch, điều trị những thể vảy nến nặng, liều khởi đầu 2,5-5 mg/kg/ngày chia làm 2 lần, sau 1 tháng có thể tăng liều nhưng không quá 5mg/kg/ngày. Sau 6 tuần dùng liều cao mà không thấy hiệu quả thì ngừng thuốc.

Các thuốc trên có nhiều tác dụng phụ như gây quái thai, rối loạn chức năng gan, thận, giảm bạch cầu, …Vì vậy, phải thận trọng khi chỉ định và phải theo dõi nghiêm ngặt trong quá trình điều trị.

–  Corticoid: sử dụng khi thật sự cần thiết và phải cân nhắc lợi, hại. Không nên lạm dụng và dùng kéo dài vì sẽ gây nhiều biến chứng nguy hiểm, đặc biệt gây đỏ da toàn thân, vảy nến thể mủ.

–     Sinh học trị liệu (biotherapy) điều trị bệnh vảy nến hiệu quả như: ustekinumab ức chế IL-12, IL-23; secukinumab ức chế IL17 do Th17 tiết ra; etanercept; alefacept; infliximab.

– Nâng cao thể trạng: các vitamin B12, C, …

  1. TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG

a) Tiến triển

Bệnh tiến triển từng đợt, xen kẽ những đợt bùng phát là thời kỳ tạm lắng. Khi thương tổn biến mất hoàn toàn gọi là “vảy nến yên lặng”. Khi chỉ còn một vài mảng thương tổn khu trú ở vị trí nào đó, tồn tại dai dẳng trong nhiều tháng, nhiều năm gọi là “vảy nến ổn định ”. Vì vậy, khi sạch thương tổn da cũng không thể coi là bệnh đã khỏi hoàn toàn.

b) Biến chứng

–   Bệnh diễn biến lâu ngày có thể gây chàm hóa, lichen hoá, bội nhiễm. Ung

thư da hiếm gặp.

–  Đỏ da toàn thân.

–  Vảy nến thể khớp có thể làm biến dạng khớp, cứng khớp, nhất là cột sống.

  1. DỰ PHÒNG

Hiện nay chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu nào chữa khỏi hoàn toàn bệnh vảy nến.

Nếu vận dụng và phối hơp các phương pháp điều trị một cách hợp lý, tư vấn cho người bệnh hiểu về bệnh vảy nến để tuân thủ các chỉ định điều trị của thầy thuốc và thực hiện chế độ sinh hoạt điều độ, tránh những yếu tố khởi động thì có thể duy trì được sự ổn định của bệnh, hạn chế được các đợt bùng phát, cải thiện được chất lượng cuộc sống.

Zeffix

Thuốc Zeffix - tác dụng, cách dùng, điều trị viêm gan siêu vi B
Thuốc Zeffix

ZEFFIX

GLAXOWELLCOME

viên nén 100 mg: hộp 28 viên, 84 viên – Bảng A.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Lamivudine 100 mg

TÍNH CHẤT

Zeffix là chất đồng đẳng nucleoside (-)-2,3-dideoxy-3-thiacytidine có hoạt tính kháng virus đặc hiệu trên virus viêm gan B (HBV). Thuốc làm giảm sự sao chép HBV một cách nhanh chóng và mạnh mẽ qua sự ức chế tổng hợp DNA virus.

DƯỢC LỰC

Zeffix là một chất đồng đẳng deoxycytidine ở dạng (-)-enantiomere tinh khiết, nghĩa là nó hiện diện ở dạng cấu hình ngược lại với nucleoside tự nhiên. Các protein ở người tương tác với các nucleoside thường có tính chọn lọc cao đối với cấu hình (+) và do đó có thể không tương tác với Zeffix. Đây là đặc điểm quan trọng do nó làm giảm khả năng gây độc của Zeffix.

Cơ chế tác động: Cơ chế tác động chủ yếu của Zeffix bao gồm sự ức chế tổng hợp DNA virus. Tác động này xảy ra chủ yếu qua sự kết hợp vào HBV DNA vừa mới tổng hợp, gây kết thúc chuỗi tiến trình tổng hợp. Sự ức chế tương tranh trên DNA polymerase mã hóa DHBV cũng đã được chứng minh. Zeffix là một chất ức chế cạnh tranh yếu trên DNA polymerase của tế bào người bệnh và không làm kết thúc chuỗi tổng hợp DNA của tế bào người bệnh. Zeffix không ức chế trực tiếp sự tổng hợp protein của virus, tuy nhiên việc giảm tổng hợp protein virus là hậu quả của sự ức chế tổng hợp DNA virus. Nhất quán với cơ chế này, việc giảm HBeAg và HBsAg trong huyết thanh ở bệnh nhân xảy ra chậm hơn nhiều so với giảm virus trong máu.

Zeffix cần có sự phosphoryl hóa nội bào để thể hiện tác động kháng virus. Vì vậy, khả năng kháng virus của nó liên hệ chặt chẽ với hàm lượng Zeffix triphosphate sản sinh trong tế bào nhiễm HBV. Khi ở trong các lympho bào máu ngoại vi, Zeffix được phosphoryl hóa thành dẫn xuất 5′-triphosphate ở các tế bào 2.2.15.

Virus học: In vitro Zeffix có hoạt tính kháng virus mạnh trên HBV và virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV). Zeffix không có hoạt tính trên các tác nhân gây bệnh khác ở người bao gồm các virus gây viêm gan khác, virus gây bệnh đường hô hấp, herpes virus, vi khuẩn và nấm. Tính chọn lọc này của Zeffix có thể do phương thức tác động chủ yếu của nó là tương tác với men DNA polymerase phụ thuộc RNA mã hóa virus (reverse transcriptase – men sao mã ngược).

Reverse transcriptase cần thiết cho sự nhân đôi của cả HBV và HIV nhưng không cần thiết cho các vi sinh vật gây nhiễm khác hay cho người.

Hoạt tính kháng HBV của Zeffix in vitro: Zeffix ức chế mạnh sự sao chép HBV in vitro, cho giá trị IC50 (IC50 là nồng độ thuốc làm giảm 50% sự nhân đôi) là 0,008 – 0,032 mM trong tế bào khối u ở gan bị HBV (tế bào 2.2.15). Trong các thí nghiệm này, lamivudine mạnh hơn nhiều so với các chất đồng đẳng nucleoside được tìm thấy trước đó như ara-AMP hay ganciclovir. Zeffix cũng có tính chọn lọc cao: Sự ức chế phân chia tế bào trong mẫu cấy mô đã chỉ được quan sát ở nồng độ cao hơn ít nhất 10 000 lần giá trị IC50 trên virus.

Hoạt tính kháng HBV của Zeffix in vivo: Ngoài loài người, HBV chỉ nhiễm trên tinh tinh và một vài loài linh trưởng cao cấp hơn. Do đó, tinh tinh được sử dụng như một phương tiện đánh giá hoạt tính kháng virus in vivo của Zeffix trên HBV người. Hiện nay người ta biết được rất ít biến thể của HBV trên thú, như virus viêm gan siêu vi B ở vịt (DHBV). Giống như HBV ở người, các virus này có tính đặc hiệu loài cao nhưng mặt khác lại tương tự về mặt sinh học với virus ở người. Hai nghiên cứu ở tinh tinh bị nhiễm virus mãn tính đã xác định rằng Zeffix có hoạt tính kháng virus mạnh trên HBV in vivo. Tương tự, các nghiên cứu đã cho thấy rằng Zeffix làm giảm DHBV ở vịt Bắc kinh bị nhiễm virus mãn tính. Tuy nhiên, trong tất cả các nghiên cứu này, hàm lượng HBV DNA huyết thanh đã trở về tình trạng như trước khi điều trị vài tuần sau khi chấm dứt trị liệu.

Điều trị kết hợp: Zeffix với IFN-a: Hai nghiên cứu lâm sàng ở pha III (B3010, AB3011) khảo sát hiệu quả của Zeffix dùng kết hợp với IFN-a trong điều trị viêm gan siêu vi B. Cơ sở hợp lý cho các nghiên cứu này dựa trên các phương thức tác động khác nhau của IFN-a và Zeffix và khả năng tương tác hiệp đồng của chúng. Các nghiên cứu này được thiết kế để đánh giá ảnh hưởng của việc cộng thêm Zeffix vào một đợt điều trị tiêu chuẩn với IFN-a.

Nghiên cứu B3010 so sánh đơn trị liệu Zeffix với đơn trị liệu IFN-a với trị liệu kết hợp Zeffix/IFN- a ở những bệnh nhân chưa được điều trị với interferon trước đó. Nghiên cứu AB3011 so sánh đơn trị liệu Zeffix và trị liệu kết hợp Zeffix/IFN-a với placebo ở bệnh nhân không có đáp ứng với IFN-a trước đó.

Đáp ứng kháng thể HbeAg trong huyết thanh: Điều trị Zeffix trong 1 năm dẫn đến việc biến mất HBeAg và tỷ lệ đáp ứng kháng thể HBeAg cũng tương tự như tỷ lệ thu được với điều trị tiêu chuẩn với IFN-a (B3010) và cao hơn so với tỷ lệ thu được từ điều trị placebo (AB3011). Tỷ lệ đáp ứng kháng thể trong huyết thanh cho điều trị kết hợp Zeffix/IFN-a cao hơn so với đơn trị liệu Zeffix hoặc IFN-a ở bệnh nhân chưa được điều trị trước đó (B3010). Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê trong phân tích ban đầu. Điều trị kết hợp không có ích lợi gì hơn so với đơn trị liệu Zeffix ở những người không có đáp ứng với interferon (AB3011).

Trong các thử nghiệm lâm sàng với Zeffix, đơn trị liệu với Zeffix hay IFN-a làm biến mất HBeAg và tỷ lệ đáp ứng kháng thể cũng tương tự như tỷ lệ được báo cáo trong phân tích meta thống kê từ các số liệu của 15 nghiên cứu độc lập với nhau về tác dụng của IFN-a trên viêm gan B.

Trong nghiên cứu A3010, HBeAg biến mất xảy ra với tỷ lệ 32% và 11% bệnh nhân được điều trị tương ứng với Zeffix hay placebo. Trong nghiên cứu B3010, HBeAg biến mất xảy ra với tỷ lệ 22% trong cả hai nhóm dùng Zeffix và IFN-a. Trong một phân tích meta, sự biến mất HBeAg xảy ra ở 33% bệnh nhân dùng IFN-a và 12% bệnh nhân không được điều trị.

Mô học của gan: Ở những người không đáp ứng với IFN-a (AB3011), bệnh nhân dùng Zeffix cho thấy có kết quả xét nghiệm mô học của gan có cải thiện nhiều hơn so với placebo (p=0,002). Ở những bệnh nhân chưa được điều trị (B3010), có một tỷ lệ hơi cao hơn bệnh nhân sử dụng Zeffix cho cải thiện mô học của gan vào tuần thứ 52 so với bệnh nhân sử dụng IFN-a hay kết hợp Zeffix/IFN-a. Zeffix cũng cho thấy tỷ lệ đáp ứng về mô học cao hơn ở những bệnh nhân này so với điều trị kết hợp Zeffix/IFN-a ; tuy nhiên, các sai biệt sau cùng này không có ý nghĩa thống kê.

Trong xếp loại không phân biệt các mẫu sinh thiết gan trước và sau điều trị, chứng xơ hoá tiến triển nặng hơn xuất hiện ít hơn ở bệnh nhân dùng Zeffix so với bệnh nhân dùng IFN-a (B3010: p=0,051) hay điều trị kết hợp Zeffix/IFN-a (AB3011: p=0,027).

Bình thường hóa ALT: Sự bình thường hóa ALT trong huyết thanh kéo dài xảy ra ở bệnh nhân dùng Zeffix nhiều hơn đáng kể so với IFN-a, kết hợp Zeffix/IFN-a hay placebo.

Tái phát HBV sau khi gh  p gan: Khi không điều trị, viêm gan siêu vi B ở những người được ghép gan có liên quan đến một tỷ lệ cao đào thải phần ghép và có khả năng đe dọa đến tính mạng.

Việc sử dụng Zeffix để điều trị hay dự phòng tái phát sau khi gh p đã được khảo sát trong các nghiên cứu mở. Nhìn chung, những bệnh nhân này cho đáp ứng virus học tương tự như những đáp ứng quan sát được ở các bệnh nhân mắc bệnh nhẹ hơn, và nói chung ổn định bệnh và thời gian sống có thể kéo dài hơn.

Đáp ứng với Zeffix đã được khảo sát ở những bệnh nhân tái phát HBV sau ghép gan. Phân tích 52 bệnh nhân tham gia nghiên cứu đã hoàn tất điều trị 52 tuần với Zeffix cho thấy rằng 60% có DNA HBV không thể phát hiện được qua sự lai giống phân tán (solution hybridisation), 31% bệnh nhân có xét nghiệm dương tính ban đầu đã không còn HBeAg và ALT huyết thanh trở về bình thường ở 29% bệnh nhân. Sau 6 tháng điều trị đầu tiên, 52% bệnh nhân được đánh giá là có hoạt tính hoại tử viêm của gan có cải thiện qua đánh giá xếp loại mù, và điểm số HAI cải thiện từ trị trung bình là 10 xuống đến 6,5 (p=0,003).

Một nghiên cứu thứ nhì (A2006) khảo sát xem điều trị với Zeffix có ngăn ngừa được tái phát HBV sau khi cấy ghép hay không. Một phân tích trung gian xem xét các đáp ứng của 78 bệnh nhân có HBsAg dương tính đang chờ cấy gh  p gan đã dùng Zeffix trước phẫu thuật với 38 người chuẩn bị ghép gan. 38 người được gh p đã dùng Zeffix 100 mg mỗi ngày một lần trong khoảng thời gian trung bình là 32 ngày trước khi ghép và ít nhất 6 tháng sau khi gh p. Zeffix được dung nạp tốt với rất ít tác dụng ngoại ý được xem là có thể hay có khả năng liên quan đến thuốc nghiên cứu.

Sáu tháng sau phẫu thuật, tỷ lệ dương tính HBeAg giảm từ 49% đến 6% ; và tỷ lệ dương tính HBV DNA (bằng cách lai giống phân tán) giảm từ 29% đến 0%. Yếu tố đánh dấu virus giảm trên hầu hết các bệnh nhân có số liệu trong 1 năm sau khi phẫu thuật. Thêm vào đó, bilirubin huyết thanh trung bình, có giá trị là 4,8 mg/dl vào lúc xét nghiệm, đã cải thiện đến 0,9 mg/dl 6 tháng sau khi cấy ghép và vẫn duy trì thấp trong một năm sau.

Zeffix dùng kết hợp với globulin miễn dịch viêm gan B (HBIg) cũng cho thấy làm ngăn ngừa hay làm chậm tái phát HBV sau khi ghép gan trong một nghiên cứu trên 14 bệnh nhân được điều trị cả trước và sau khi gh  p gan, HBV không được phát hiện bằng PCR ở 13 bệnh nhân còn sống sót (1 bệnh nhân đã chết do các nguyên nhân không có liên quan) trong khoảng thời gian trung  bình là 346 ngày sau khi ghép. Trung bình 394 ngày sau khi ghép, các giá trị AST, ALT, bilirubin  và alkaline phosphatase vẫn trong mức giới hạn bình thường cho 13 người sống sót.

Không phải tất cả bệnh nhân bị bệnh gan tiến triển đều có lợi trong việc điều trị với Zeffix. Trong một vài trường hợp bệnh tiến triển trước khi điều trị, bệnh gan tiến triển không hồi phục đến tình trạng cuối cùng hay các bệnh mắc đồng thời khác ngăn chặn không cho cải thiện trên lâm sàng.

Các nhiễm virus đồng thời: Điều trị lamivudine ở bệnh nhân ở bệnh nhân nhiễm đồng thời HIV và HBV đã được nghiên cứu trong các thử nghiệm điều trị HIV. Các thử nghiệm này đã nghiên cứu ảnh hưởng của Epivir (lamivudine 150 mg hai lần mỗi ngày cho điều trị HIV) hơn là của Zeffix (lamivudine 100 mg mỗi ngày một lần cho điều trị viêm gan B).

Một nhóm bệnh nhân nhiễm đồng thời HIV/HBV đã dùng Epivir hai lần mỗi ngày (97 bệnh nhân) hay placebo (25 bệnh nhân) trong 52 tuần. Một vài bệnh nhân trong nhóm điều trị Epivir cũng dùng loviride, một chất ức chế reverse transcriptase non-nucleotide ; tuy nhiên, các số liệu từ tất cả các bệnh nhân dùng Epivir đều đã được tồn trữ để so sánh với placebo, do loviride không có hoạt tính trên HBV in vitro.

Vào cuối giai đoạn điều trị 52 tuần, các bệnh nhân được điều trị với Epivir giảm 2,7 log trên nồng độ HBV DNA huyết thanh trung bình, so với không thay đổi gì ở nhóm dùng placebo. Nồng độ ALT huyết thanh trung bình có cải thiện từ 74,7 đến 54,7 đơn vị/l trong nhóm Epivir, và có rất ít thay đổi trong nhóm placebo (68,2 – 74,9 đơn vị/l). Thêm vào đó, 22% bệnh nhân trong nhóm Epivir và không có người nào trong nhóm dùng placebo không còn phát hiện được HBeAg.

Các kết quả này cũng tương tự như kết quả được báo cáo ở nơi khác và gợi ý rằng hoạt tính kháng HBV của lamivudine ở bệnh nhân nhiễm đồng thời HIV cũng tương tự như ở bệnh nhân chỉ nhiễm HBV. Tuy nhiên, cần có nghiên cứu sâu hơn để xác định xem việc giảm virus có dẫn đến sự cải thiện bệnh gan do HBV hay không.

Chưa xác định được hiệu quả của Zeffix trong điều trị bệnh nhân viêm gan siêu vi B mãn tính nhiễm đồng thời HCV hay HDV.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Trong các tế bào 2.2.15, Zeffix triphosphate có thời gian bán hủy là 17 – 19 giờ, lâu hơn khoảng 3 giờ so với thời gian bán hủy trong huyết thanh của Zeffix tự do ở người. Sự hiện diện lâu  trong tế bào này của Zeffix là do quá trình phosphoryl hóa ngăn chận sự lan tỏa tự do của thuốc ra ngoài tế bào, và có thể có liên quan đến tác dụng kháng virus mạnh tương tự thấy được ở người sau liều mỗi ngày một lần so với mỗi ngày hai lần.

Zeffix được hấp thu tốt và có độ khả dụng sinh học tuyệt đối cho tất cả các dạng uống khoảng 80 – 85%. Điều chỉnh liều chỉ cần thiết cho bệnh nhi và những bệnh nhân bị suy thận trung bình đến nặng.

Độc tính: Zeffix được dung nạp tốt trong tất cả các nhóm bệnh nhân được nghiên cứu. Trong thử nghiệm lâm sàng pha II và III, không có sự gia tăng tỷ lệ hay thay đổi về bản chất các tác dụng ngoại ý do gia tăng liều lượng hay thời gian điều trị. Trong các thử nghiệm lâm sàng, rất hiếm khi phải ngưng điều trị Zeffix do tác dụng không mong muốn.

Tính an toàn tiền lâm sàng: Số liệu tiền lâm sàng thu được từ một dãy các test in vitro và trên thú đã xác định tính an toàn tốt của Zeffix trước khi sử dụng trên người. Zeffix được dung nạp tốt trong các nghiên cứu độc tính cấp và độc tính với liều lặp lại ở loài gặm nhấm, chó và khỉ đuôi sóc, ở nồng độ trong huyết tương cao hơn đáng kể so với các liều được sử dụng sau đó trên lâm sàng. Trong các nghiên cứu ở thú vật này, các tác dụng có liên quan đến điều trị được giới hạn ở những thay đổi về huyết học (giảm số lượng hồng cầu và bạch cầu trung tính), hóa học lâm sàng và phân tích nước tiểu.

Zeffix không cho thấy bằng chứng kích ứng mắt và da, hay khả năng nhạy cảm do tiếp xúc trong các khảo sát về tính an toàn ở thú vật. Hơn nữa, với các liều cao hơn nhiều so với liều cần thiết cho hoạt tính kháng virus trên lâm sàng, Zeffix không ảnh hưởng đáng kể đến hệ thống thần kinh trung ương hay thần kinh tự động cũng như hệ tim mạch hay hô hấp ở chuột cống, mèo hoặc chó.

Tính an toàn trên lâm sàng: Trong các nghiên cứu pha I, tính an toàn và dung nạp cấp tính đã được khảo sát sau khi dùng thuốc theo đường uống và tiêm tĩnh mạch liều đơn Zeffix (đến 4 mg/kg) hay liều lặp lại (đến 8 mg/kg/ngày). Chỉ quan sát được các tác dụng không mong muốn nhẹ như nhức đầu và buồn nôn, và khó xác định được mối liên quan nhân quả đối với thuốc do không có số liệu trên placebo. Không có tác dụng huyết động học nào có ý nghĩa trên lâm sàng (huyết áp, nhịp tim), thay đổi trên điện tâm đồ (EKG), hay thay đổi trên các số liệu về tính an toàn trong phòng thí nghiệm. Các liều đơn Zeffix đã được dung nạp rất tốt ở những bệnh nhân suy gan hay suy thận.

Trong các nghiên cứu lâm sàng pha III, tỷ lệ tác dụng ngoại ý trong quá trình điều trị cũng tương tự nhau cho các bệnh nhân dùng Zeffix và placebo, và hầu hết đều nhẹ và không được xem là có liên quan đến Zeffix. Phân tích các phân nhóm tác dụng ngoại ý được xem là có thể liên quan đến thuốc nghiên cứu hay do mối liên hệ không xác định được thấy rằng tần số xuất hiện các tác dụng này là tương tự như nhau ở bệnh nhân dùng Zeffix và placebo.

Tỷ lệ tác dụng ngoại ý trong quá trình điều trị ở các nghiên cứu pha III cao hơn đáng kể trên các nhóm điều trị có dùng IFN-a. Tác dụng không mong muốn ở các bệnh nhân dùng IFN-a so với điều trị kết hợp Zeffix/IFN-a cũng tương tự nhau.

Các bất thường xét nghiệm: Bảng sau cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có các bất thường xét nghiệm đặc hiệu tương ứng với điểm độc tính 3 và 4, theo tiêu chuẩn bổ sung của Tổ Chức Y Tế Thế Giới. Trong quá trình điều trị, tỷ lệ bệnh nhân bị các tác dụng ngoại ý này là tương tự nhau cho cả hai nhóm Zeffix và placebo.

Tác dụng không mong muốn trong các nghiên cứu lâm sàng Pha III của Zeffix: Các tác dụng có tỷ lệ >=10% trong quá trình điều trị trong mọi nhóm điều trị*.
Tác dụng không mong muốn Tỷ lệ tác dụng không mong muốn (% bệnh nhân)
Placebo (n=200) Zeffix (n=416) IFN-a (n=70) Zeffix + IFN-a (n=139)
Khó ở và mệt mỏi 28 26 70 66
Nhức đầu 21 22 47 63
Nhiễm virus đường hô hấp 17 19 37 29
Buồn nôn và nôn mửa 17 16 34 35
Khó chịu và đau ở bụng 17 15 23 13
Nhiễm khuẩn tai mũi họng 12 14 3 5
Tiêu chảy 12 14 16 16
Nhiễm virus tai mũi họng 11 11 6 7
Đau họng và amiđan 8 11 7 6
Ho 9 10 13 9
Đau cơ xương 10 8 11 17
Đau cơ 9 8 40 34
Sốt 9 7 43 54
Chóng mặt 7 7 19 9
Rối loạn giấc ngủ 6 7 6 11
Nồng độ enzyme bất thường 6 7 13 6
Bất thường xét nghiệm chức năng gan 6 6 14 9
Đau cơ và thấp khớp 5 6 23 14
Nổi ban da 5 5 10 6
Rối loạn trầm cảm 5 4 13 11
Có vấn đề về ăn uống 5 3 33 27
Rụng lông tóc 3 3 23 29
Có vấn đề về thể trọng 2 2 16 6
Giảm bạch cầu < 1 1 26 17
Thiếu hụt lượng tiểu cầu < 1 < 1 13 5
  • Số liệu của IFN-a và kết hợp IFN-a/Zeffix lấy từ nghiên cứu 24 tuần B3010 và AB3011 trong thời gian đó điều trị đã kết thúc cho các nhóm này.Số liệu của Zeffix và placebo lấy từ giai đoạn 52 đến 68 tuần điều trị Zeffix của nghiên cứu B3009, A3010, B3010 và AB3011.

Gia tăng ALT sau điều trị: Sự sao chép HBV và ALT trong huyết thanh thường trở về mức độ trước khi điều trị nếu ngưng dùng Zeffix trước khi có đáp ứng kháng thể HBeAg. Ít khi bệnh nhân ngưng Zeffix bị tăng ALT huyết thanh sau điều trị với mức độ vượt quá nồng độ trước khi điều trị.

Tỷ lệ gia tăng ALT sau khi điều trị >=2 x giá trị bắt đầu cũng tương tự nhau trong số những bệnh nhân dùng Zeffix, IFN-a hay kết hợp IFN-a/Zeffix và chỉ hơi cao hơn so với ở những bệnh nhân dùng placebo. Điều này gợi ý rằng nhiều sự gia tăng nhẹ ALT sau điều trị thấy được trong các nghiên cứu này có thể liên quan đến tình trạng dao động bệnh tự nhiên hơn là do điều trị được nhận.

So với những bệnh nhân được điều trị placebo, những bệnh nhân dùng Zeffix có tỷ lệ hơi cao hơn về tăng ALT =3 x giá trị bắt đầu (tương ứng với 3 điểm độc tính) và các trường hợp tăng ALT =2 x giá trị bắt đầu, gắn liền với giá trị ALT tuyệt đối > 500 IU/l. Tuy nhiên, có các tỷ lệ thấp hơn tương tự bệnh nhân đã dùng Zeffix hay placebo bị tăng ALT sau điều trị đi kèm với các tác dụng không mong muốn lâm sàng trầm trọng, tăng bilirubin hay các dấu hiệu khác của suy gan. Trong thực tế, việc kiểm soát ALT có thể giúp phát hiện dễ dàng hơn các phản ứng này nếu Zeffix được ngưng dùng trước khi có đáp ứng kháng thể HBeAg ; việc kiểm tra này có thể đặc biệt có giá trị đối với những bệnh nhân bị viêm gan tiến triển có dự trữ gan giảm.

Các dân số bệnh nhân đặc biệt: Tính an toàn của Zeffix đã được xem xét trên vài tiểu nhóm dân số bệnh nhân bị viêm gan siêu vi B mãn tính, bao gồm những bệnh nhi và những người bị xơ gan, bệnh gan mất bù và nhiễm HBV đột biến. Tỷ lệ toàn phần tác dụng không mong muốn có thể quy cho Zeffix cũng tương tự nhau cho tất cả các nhóm. Do đó, không có bằng chứng lo ngại về tính an toàn của Zeffix đặc hiệu cho các phân nhóm bệnh nhân này.

CHỈ ĐỊNH

Điều trị viêm gan siêu vi B mạn tính ở bệnh nhân có bằng chứng sao chép HBV.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Quá mẫn với thuốc.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Sau khi ngưng dùng lamivudine, bệnh nhân có thể bị tái phát viêm gan siêu vi B mãn tính, điều này có thể gây hậu quả nghiêm trọng hơn ở bệnh nhân bị bệnh gan mất bù. Nên theo dõi định kỳ trên lâm sàng và đánh giá thử nghiệm chức năng gan trong huyết thanh (nồng độ ALT và bilirubin) trong tối thiểu 4 tháng để tìm bằng chứng viêm gan siêu vi tái phát. Nên duy trì liều lamivudine 150 mg x 2 lần/ngày ở bệnh nhân nhiễm HIV đồng thời, đang dùng hay có kế hoạch dùng Epivir (lamivudine) hay Combivir (lamivudine/zidovudine). Nên thận trọng cho phụ nữ có thai và nuôi con bú.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Zeffix được đào thải qua thận bởi sự tiết cation hữu cơ hoạt động. Các thuốc được đào thải qua đường này, đặc biệt là những trường hợp có chỉ số điều trị thấp, có thể bị tương tác thuốc với Zeffix.

Trimethoprime, một thành phần của cotrimoxazole làm tăng 40% nồng độ lamivudine huyết tương. Tuy nhiên, điều này được xem là không có ý nghĩa trên lâm sàng và không cần phải chỉnh liều trừ phi bệnh nhân đã có suy thận.

Không quan sát được tương tác dược động đáng kể nào với zidovudine hay IFN-a.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Khó ở, mệt mỏi, nhiễm trùng đường hô hấp, nhức đầu, khó chịu và đau ở bụng, buồn nôn, nôn, tiêu chảy. Các trường hợp nhiễm acid lactic thường liên quan đến chứng gan to và thoái hóa mỡ tại gan được báo cáo là có liên quan đến việc dùng phối hợp điều trị nucleoside đồng đẳng ở bệnh nhân nhiễm HIV.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Người lớn và trẻ em trên 12 tuổi:

Liều khuyến cáo: 100 mg, mỗi ngày một lần. Nên ngưng dùng Zeffix ở bệnh nhân có đáp ứng miễn dịch bình thường khi xảy ra đáp ứng chuyển huyết thanh HBeAg và/hoặc HBsAg (seroconvertion).

Trẻ em dưới 12 tuổi:

3 mg/kg, mỗi ngày một lần (tối đa 100 mg/ngày). Bệnh nhân suy thận < 50 ml/phút: giảm liều.

Chân tay quyết lạnh – Triệu chứng bệnh Đông y

Khái niệm

Chứng chân tay quyết lạnh còn gọi là Quyết nghịch, đây là bệnh có chứng trạng giá lạnh từ chân đến gối, từ tay đến khuỷu . Nói chung là lạnh đến cổ tay cổ chân thì gọi là chứng Chân tay quyết lạnh. Nếu lạnh đến khuỷu và gối là chứng chân tay quyết nghịch. Chứng chân tay quyết lạnh trong sách Nội kinh gọi là “Hàn quyết”, “Tứ quyết” . Quyết nghịch với Quyết có 3 hàm nghĩa: Một là chỉ chân tay quyết lạnh, hai là chỉ hôn mê ngã lăn đột ngột, bất tỉnh nhân sự hình thành chứng Quyết, ba là chỉ chứng hậu lục kinh bất hòa. Đến khi sách Thương hàn luận ra đời lần đầu tiên nói có tên chứng “chứng chân tay quyết lạnh” Đồng nghĩa với chứng chân tay quyết lạnh còn có các bệnh danh khác như: chân tay quyết lạnh, chân tay Quyết hàn, Tứ nghịch quyết, Quyết lạnh, Thủ túc hàn… “Đối với chứng Quyết vì khí của âm dương không thuận tiếp biến thành Quyết, Quyết có nghĩa là chân tay nghịch lanh”. Đây là khái quát về cơ địa phát sinh chân tay quyết lạnh của Trương Trọng cảnh, Các y gia đời sau đối với chứng Chân tay quyết lạnh đều căn cứ vào những lời bàn trong Thương hàn luận để tiếng hành biện chứng. Chứng Chân tay quyết lạnh loại nhẹ thì gọi là chân tay mát lạnh hoặc chân tay không ấm.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

Chân tay quyết lạnh do dương khí suy vì: Gọi tắt là chứng “Hàn quyết” có những chứng trạng: chân tay quyết lạnh, nặng hơn thì quyết nghịch, cơ thể lạnh nằm co, sắc mặt trắng xanh, tinh thần ủy mị hoặc ỉa chẩy ra nguyên đồ ăn, hoặc khớp xương đau nhức, chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng mà nhuận, mạch Vi Tế muốn tuyệt.

Chân tay quyết lạnh do nhiệt tà nội uất: Gọi tắt là chứng “Nhiệt quyết” Có chứng: Chân tay quyết lạnh, không mồ hôi , sốt cao, mặt đỏ Tâm phiền, khát nước, thần chí không yên, đại tiện bí kết, tiểu tiện sẻn đỏ, chất lưỡi đỏ tía, rêu lưỡi vàng dầy khô ráo, mạch Trầm Sác hoặc Hoạt Sác.

Chân tay quyết lạnh do dương khí uất nghẽn: Có chứng Chân tay quyết lạnh và kiêm chứng ngực sườn đầy tức, Ợ hơi khó chịu, nôn mửa hoặc đau bụng, hoặc ho, hoặc hồi hộp hoặc tiểu tiện không lợi, rêu lưỡi trắng mỏng mạch Huyền.

Chân tay quyết lạnh do huyết hư nhiễm lạnh: Chứng này là một loại trong chứng: “Hàn quyết”, Chân tay quyết lạnh, tứ chi mát, cơ thể lạnh, toàn thân đau, sắc da xanh nhợt hoặc vùng bụng lạnh đau, chất lưỡi đỏ nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng trơn nhuận, mạch Trầm Tế.

Chân tay quyết lạnh do đờm trọc bị nghẽn ở trong: Gọi tắt là chứng “Đờm quyết”: Chân tay quyết lạnh, ngực sườn đầy tức trong họng có tiếng đờm sùng sục hoặc nôn mửa ra đờm dãi, đói mà không muốn ăn, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Trầm Hoạt có lực hoặc đôi khi kiêm Khẩn.

Chân tay quyết lạnh do giun đũa len lỏi quấy nhiễu: Gọi tắt là chứng “Hồi Quyết”; Chân tay quyết lạnh, bụng trên đau từng cơn, nôn mửa ra nước trong hoặc mửa ra giun đũa hoặc có lúc phiền khát, chất lưỡi nhợt hoặc tôi, rêu lưỡi mỏng nhuận, mạch Trầm Tế hoặc Trầm Huyền.

Phân tích

– Chứng Chân tay quyết lạnh do dương khí suy vi: Còn gọi là “ÂM quyết”, lâm sàng có 3 loại chứng hậu rất dễ lẫn lộn cần phân biệt: Một loại là Tỳ Thận dương suy, âm hàn thịnh ở trong nên xuất hiện chứng Chân tay quyết lạnh, loại thứ hai là Âm thịnh ở trong cách dương ra bên ngoài nên xuất hiện chứng Chân tay quyết lạnh. Lại còn loại thứ ba là Âm thịnh ở dưới cách dương lên trên xuất hiện chứng Chân tay quyết lạnh. Tuy nhiên ba loại Chân tay quyết lạnh này đều do dương khí suy vi không ấm áp vận chuyển ra tay chân gây nên bệnh, nhưng vì mức độ dương suy khác nhau cho nên biểu hiện lâm sàng và phương pháp điều trị cũng không giống nhau. Thấy triệu chứng Chân tay quyết lạnh, ố hàn nằm co, ỉa chẩy ra nguyên đồ ăn, mạch Vi muốn Tuyệt thì đó là Tỳ Thận dương hư âm hàn thịnh ở trong gây nên, điều trị nên hồi dương cứu nghịch cho uống Tứ nghịch thang, Nếu kiêm chứng mình lạnh không ố hàn sắc mặt đỏ hoặc nôn khan hoặc đau họng đó là âm thịnh ở trong cách dương ra ngoài hình thành chứng “Cách dương” cũng tức là chứng lý chân hàn mà ngoài giả nhiệt, so với chứng Tứ nghịch thang nặng hơn, điều trị theo phép trục âm hồi dương cứu nghịch cho uống Thông mạch Tứ nghịch thang, Nếu “ thiếu âm bệnh ỉa chầy mạch Vi cho uống Bạch Thông thang” Sau khi uống Bạch thông thang, ỉa chẩy không dứt, chân tay càng lạnh thêm, mạch tượng ẩn náu không xuất hiện đồng thời lại thấy nôn khan Tâm phiền đó là âm thịnh ở dưới cách dương lên trên, thuộc chứng Đới dương chọn dùng phương thuốc Bạch thông thang gia Trư đởm chấp thang mà điều trị tức là trong Bạch thông thang gia vị thuốc đắng lạnh làm phản tá là Trư đởm chấp và Nhân niệu hồi dương cứu nghịch nhanh chóng, Phương pháp điều trị này tức là theo ý trong Nội kinh “Nhiệt nhân hàn dụng” “Thậm giả tòng chi”.

Còn có một loại Chân tay quyết lạnh thuộc chứng Thiếu âm bệnh dương hư lý hàn vì dương hư không đạt ra tứ chi, hàn thấp ngưng trệ cho nên xuất hiện chứng trạng chân tay mát đau mình, đau khớp xương, mạch Trầm mà không Phù. Điều trị trước có thể dùng phép cứu, ví dụ cứu các huyệt Quan nguyên, Đại trùy để trợ dương tiêu âm rồi sau cho uống Phụ tử thang để ôn dương ích khí tán hàn hóa thấp.

– Chứng Chân tay quyết lạnh do nhiệt tà uất ở trong với chứng Chân tay quyết lạnh do dương khí suy vi: Loại Chân tay quyết lạnh ở trên là do ngoại tà hóa nhiệt từ biểu truyền vào lý, lý nhiệt quá thịnh dương khí bị uất bế không dạt ra tay chân. Sách Thương hàn luận có nói “Quyết sâu nhiệt cũng sâu, quyết nhẹ nhiệt cũng nhẹ”, Tức là chỉ về chứng này, Yếu điểm biện chứng là chân tay quyết lạnh với hiện tượng nhiệt toàn thân đồng thời xuất hiện như mình nặng ố nhiệt, miệng khô lưỡi ráo, phiền khát, bí kết, mạch Sác có lực, rêu lưỡi vàng khô ráo… so với Chân tay quyết lạnh do dương khí suy vi toàn thân đều có hiện tượng hàn không giống nhau. Tuy nhiên chứng Cách dương do dương khí suy vi với chứng Đới dương bên ngoài có hiện tượng nhiệt nhưng mặt đỏ như thoa mỡ khác với loại mặt đỏ do nhiệt tà nội uất ở trong, nôn khan mà phiền, miệng không khát, cũng khác với chứng khát nước do nhiệt tà uất ở trong. Đặc biệt là nhiệt tà nội uất có mạch Sác có lực, lưỡi đỏ rêu vàng ráo ít tân dịch đối với các chứng Cách dương, chứng Đới dương có mạch Vi Tế lưỡi trắng rêu mỏng nhuận cũng khác nhau rất xa. Vì vậy điều trị chứng Chân tay quyết lạnh do nhiệt tà uất ở trong rất nên dùng phép thanh nhiệt tiết hỏa hoặc thông phủ tả hạ cho uống Bạch hổ thang hoặc Đại Thừa khí thang.

– Chứng Chân tay quyết lạnh do dương khí uất nghẽn với chứng Chân tay quyết lạnh do nhiệt tà uất ở trong: về bệnh cơ phát sinh do hai loại Chân tay quyết lạnh này đều liên quan đến khí cơ bị uất nghẽn nhưng loại trên là chính khí (dương) bị uất nghẽn mà loại sau là tà khí (Nhiệt) làm uất nghẽn. Dương khí bị uất nghẽn là do khí cơ không tuyên thông, dương uất ở trong lý không đạt ra tứ chi gây nên bệnh phần nhiều gặp ở bệnh ngoại cảm ở giai đoạn chuyển hóa từ biểu truyền vào lý, có điều Chân tay lạnh không quá khuỷu tay đầu gối vì dương khí bị uất không quá khuỷu tay đầu gối vì dương khí bị uất, sự sơ tiết không điều hòa cho nên nói xuất hiện các chứng về mộc uất vũ thổ như: ngực sườn đầy tức, ợ hơi khó chịu, nôn mửa ỉa chầy, mạch Huyền… Còn nhiệt tà uất ở trong phần nhiều gặp ở giai đoạn cực kỳ của bệnh nhiệt tính, nhiệt tà càng ẩn vào sâu thì mức độ chân tay quyết lạnh càng nặng có đầy đủ hàng loạt chứng trạng thực nhiệt cho nên chẩn đoán phân biệt chứng Chân tay quyết lạnh dó dương khí uất nghẽn không khó khăn, về điều trị Chân tay quyết lạnh do dương khí uất nghẽn nên theo phép sơ uất thông dương tuyên đạt khí cơ cho uống Tứ nghịch tán.

– Chứng Chân tay quyết lạnh do huyết hư nhiễm lạnh: Bệnh do thể trạng huyết hư lại cảm nhiễm hàn tà đến nỗi huyết mạch vận hành không thông lợi, hàn tà ngưng tụ ở tứ chi gây nên. Yếu điểm biện chứng là: Thể trạng vốn huyết hư (sắc mặt vàng bủng môi lưỡi nhợt, mạch Trầm Tế) với loại cảm nhiễm ngoại hàn (phần nhiều phát sinh vào mùa Đông Xuân hoặc gặp thời tiết âm u mưa gió thì nặng thêm), khá là đột xuất. Chứng này cũng thuộc phạm vi hàn quyết nhưng so với loại Chân tay quyết lạnh do dương khí suy vi thì nhẹ hơn. Chứng kia phần nhiều gặp ở loại tật bệnh đến thời kỳ nghiêm trọng, vị trí bệnh ở tạng, còn chứng này thì do khí ôn đột ngột hạ thấp, có quan hệ rõ rệt vị trí bệnh ở đường kinh. Chứng quyết lạnh kia tuy được ấm áp cũng không khỏi, còn chứng quyết lạnh này được ấm áp thì dễ chịu, về điều trị chứng kia coi trọng về hồi dương, chứng này coi trọng về ôn kinh, cho nên điều trị chứng này chọn dùng phương Tứ nghịch thang để ôn dưỡng huyết mạch trừ hàn hòa doanh, nếu bên trong bị lạnh kéo dài lại kiêm các chứng thiếu phúc lạnh đau, hoặc nôn khan mửa ra bọt dãi, có thể gia Ngô thù du, Sinh khương để làm ấm áp Can Vị, tán hàn giải nghịch tức là dùng Đương quy Tứ nghịch gia Ngô thù du Sinh khương thang.

– Chứng Chân tay quyết lạnh do đờm trọc nghẽn ở trong: Thuộc loại đàm thấp vốn thịnh, hung dương không được tuyên phát gây nên. Yếu điểm biến chứng là bệnh nhân vốn có chứng ngực bụng bĩ đầy, họng có tiếng đờm khò khè, miệng dấp dính hoặc nôn mửa ra đờm dãi, rêu lưỡi trắng nhớt thường do phong hàn dẫn động hoặc cáu giận xuất hiện triệu chứng chân tay quyết lạnh. Nếu đờm trọc che lấp ở trên còn kèm theo các chứng đầu choáng tinh thần hôn mê hoặc cuồng táo không yến. Nếu không có nguyên nhân bên ngoài quấy rối thì thường thấy chân tay không ấm, chưa đến nỗi quyết lạnh. Điều trị nên hành khí, giải uất quét đờm cho uống Đạo đờm thang. Nếu có chứng thần chí hôn mê có thể dùng Qua đế tán làm cho mửa, khi đàm đã rút và dễ thở thì tinh thần tỉnh táo và hết quyết lạnh.

– Chứng Chân tay quyết lạnh do giun đũa len lỏi quấy rối: Chứng này do giun đũa len lỏi quấy rối, khí cơ nghịch loạn gây nên. Giun đũa ẩn náu ở trong, Tỳ Vị hư yếu thường có các chứng vùng bụng đau âm ỉ, chân tay không ấm. Nếu giun đũa ngoi lên trên khấy động Tỳ VỊ khí cơ bị nghẽn trệ khiến cho trung dương không đạt ra tay chân sẽ thấy chân tay quyết lạnh, thậm chí lạnh vượt quá khuỷu tay đầu gói. Yếu điểm biện chứng là: Chân tay quyết lạnh thường xuất hiện với chứng bụng trên đau kịch liệt kiêm chứng nôn mửa ra nước trong hoặc nước mật, thậm chí mửa ra giun đũa, sắc mặt tái xanh vã mồ hôi, mạch Trầm Tế hoặc như có như không, chân tay quyết lạnh thường tùy theo mức độ giảm đau bụng mà ấm dần, Chứng này thường gặp nhiều ở trẻ em, người lớn đôi khi cũng có. Điều trị nên ấm tạng yên giun, cho uống Ô mai hoàn.

Chân tay quyết lạnh là một trong những lý chứng, nói chung chia làm hai loại lớn là Nhiệt quyết và Hàn quyết. So sánh hai loại thì quyết lạnh của chứng Hàn quyết có mức độ nặng nhẹ khác nhau có thể từ tay chân vươn tới khuỷu tay và đầu gối. Còn chứng Nhiệt quyết thời không vượt qua các khớp cổ tay, cổ chân. Ngoài mức độ quyết lạnh khác nhau, sự nóng và lạnh ở vùng ngực bụng đại tiện bí kết hay ỉa chẩy, mạch tượng Vi hay Sáp, rêu lưỡi vàng hay trắng đều có chỗ khác nhau rất rõ.

Trích dẫn y văn

– Chứng Dương quyết tay chân tuy lạnh nhưng còn có lúc ấm, lòng bàn chân tay tất phải ấm, mạch tuy Trầm Phục nhưng án vào thì Hoạt, về triệu chứng hoặc là SỢ nóng, hoặc khát muốn uống nước, hoặc dang tay chân, phiền táo không ngủ được, đại tiện bí, tiểu tiện đỏ, đó là chứng Nhiệt quyết…. người xưa bảo “Dương cực phát quyết là như thế, về điều trị cho uống bốn phương: Bạch hổ thang, Đại thừa khí thang, Song giải tán, Lương cách tán…

Chứng Âm quyết chân tay lạnh, mình không nóng, buồn nôn, nằm co chân hoặc tự kéo chăn áo mà đắp, không khát hoặc ỉa chầy hoặc đại tiện như thường mạch Trầm Vi không Sác, hoặc tuy Trầm Thực nhưng ấn vào lại Trì Nhược tên bệnh này là Lãnh quyết. Điều trị dùng các phương Thông mạch Tứ nghịch thang hoặc Đương quy Tứ nghịch thang hoặc Bạch thông gia Trư đởm chấp thang (Vệ sinh bảo giám – Quyết nghịch).

– Khí từ dưới nghịch lên, chân tay lạnh là Quyết. Quyết là cuối cùng, là dấu hiệu nguy. Kinh nói: “Dưới hư thì Quyết cho nên dương suy ở dưới thì thành Hàn quyết, âm suy ở dưới thì thành Nhiệt quyết. Khí của âm dương không cùng thuận tiếp thì thành bệnh Quyết nghịch… Hàn quyết thì mình lạnh, mặt xanh, tứ chi quyết lạnh, móng tay chân lạnh, nằm co, không khát, ỉa chầy mạch Vi Trì đó là bệnh Âm quyết. Chứng Nhiệt quyết thì mình nóng mặt đỏ chân tay quyết nghịch, móng chân tay ấm, phiền khát hôn mê bức bối, tiểu tiện sẻn rít, mạch Hoạt Sác đó là chứng Dương quyết (Loại chứng trị tài – Quyết chứng).

Chứng tý Đông y và pháp, phương thuốc điều trị

Tý là bế tắc, chứng tý là chứng kinh mạch bị ngoại tà vào làm bế tắc dẫn đến khí huyết vận hành bị trở ngại gây nên bì phu cân cốt cơ nhục khớp xương đau tức ê ẩm tê bì, nặng thì khớp sưng lên co duỗi khó khăn.

Hai nguyên nhân phối hợp với nhau gây nên bệnh: Một là nguyên khí hư yếu, hai là phong hàn thấp ba loại tà khí thừa hư cùng xâm nhập vào kinh lạc, làm bế tắc kinh lạc, hoặc là phong hàn thấp tà uất lâu hóa nhiệt, hoặc là kinh lạc có tích nhiệt, nay lại có phong hàn thấp tà xâm nhập.

Nội kinh chia làm 5 chứng tý: Cân tý, Cốt tý, Cơ nhục tý, Mạch tý và Bì tý.

Mùa đông bị bệnh là cốt tý, mùa xuân bị bệnh là cân tý, mùa hạ bị bệnh là mạch tý, mùa trưởng hạ bị bệnh là cơ tý, mùa thu bị bệnh là bì tý.

Nếu cốt tý không khỏi lại cảm phải phục tà thì sẽ vào thận.

Nếu cân tý không khỏi lại cảm phải phục tà thì sẽ vào can.

Nếu mạch tý không khỏi lại cảm phải phục tà thì sẽ vào tâm.

Nếu nhục tý không khỏi lại cảm phải phục tà thì sẽ vào tỳ.

Nếu bì tý không khỏi lại cảm phải phục tà thì sẽ vào phế.

Phế tý thì phiền mãn, khó thở và mửa; tâm tý thì mạch không thông, phiền thì tâm hạ nổi lên, khí bạo thượng gây khó thỏ, ợ khan, quyết khí thượng lên thì sỢ hãi; can tý đêm ngủ giật mình, uống nhiều, đái nhiều ở trên như có cục; thận tý thì trướng, vùng cùng cụt sưng, cột sống, đầu sưng; tỳ tý thì chân tay rã rời, ho, nôn, ở trên rất lạnh.

Cũng có phân loại một cách tổng quát theo nguyên nhân gây bệnh, và thường chỉa làm 2 loại: phong hàn thấp tý và nhiệt tý cũng gọi là phong thấp nhiệt tý.

Tuy là tà khí cùng tác động trong phong hàn thấp tý, song có lúc phong là yếu tố trội (phong thắng) có tên là hành tý, có lúc hàn là yếu tố trội (hàn thắng) tên là thống tý, có lúc thấp là yếu tố trội (thấp thắng) có tên là trước tý. ở phong hàn thấp tý gặp lạnh thì cấp, gặp nóng thì hoãn.

Tuệ Tĩnh cho là phát bệnh ở buổi sáng là do khí trệ dương hư, vào buổi chiều là huyết nhiệt âm tổn Trong điều trị, Lãn ông đề ra “chữa phong nên bổ huyết, chữa hàn nên bổ hỏa, chữa thấp nên kiện tỳ, tuy dùng thuốc phong thấp nhưng cần dùng thuốc bổ khí huyết để khống chế không cho bệnh tà chủ yếu vào hai kinh can thận, bổ nguồn gốc của tinh huyết để tác dụng đến gân xương, vì đó là bên trong có hư mà gây nên”. Các thầy thuốc nói chung còn quan tâm đến cả khu phong, trừ thấp tán hàn, thông kinh hoạt lạc. Các bệnh thấp khớp cấp, viêm khớp dạng thấp, thông phong, viêm cột sống dính khớp, đau nhức cơ khớp nằm trong phạm vi chứng tý.

Tuy chia 5 chứng tý ở cân, cốt, mạch, cơ nhục, bì và chú ý đến tý lâu có thể vào can thận tâm tỳ phế, song trong lâm sàng cụ thể thường chữa theo nguyên nhân gây bệnh, và đã phân thể theo cách đó.

Phong hàn thấp tý.

Triệu chứng: Đau ê ẩm thân thể nhất là ở các khớp cổ tay, chân, bàn ngón tay chân, khuỷu, khi vận động thường gây đau tăng, song không sưng nóng đỏ đau.

Có người có sợ gió với đau có di chuyển (phong thắng)

Có người thấy đau tại chỗ, sợ thấp lạnh, gặp nóng thì dễ chịu (hàn thắng).

Có người thấy thân thể nặng nề (thấp thắng).

Lưỡi nói chung thay đổi không rõ. Mạch có thể huyền (đau nhiều) hoặc khẩn (lạnh nhiều) song không sác.

Phép điều trị: Khu phong tán hàn trừ thấp thông lạc.

Phương thuốc: Quyên tý thang gia giảm (Bách nhất tuyển phương)

Khương hoạt 1,5 lạng Khương hoàng 1,5 lạng
Đương quy 1,5 lạng Hoàng kỳ 1,5 lạng
Xích thược 1,5 lạng Phòng phong 1,5 lạng
Cam thảo 0,5 lạng Gừng 5 lát
Đại táo 2 quả
Khương hoạt
Khương hoạt

Quyên tý thang (Y học tâm ngộ)

Khương hoạt 1 đồng cân Độc hoạt 1 đồng cân
Quế tâm 0,5 đồng cân Cam thảo 0,5 đồng cân
Đương quy 3 đồng cân Xuyên khung 0,7 đồng cân
Hải phong đằng 2 đồng cân Tang chi 3 đồng cân
Nhũ hương 0,8 đồng cân Mộc hương 0,8 đồng cân
Tần giao 1 đồng cân Kê huyết đằng 5 đồng cân

Ý nghĩa: Khương hoạt, Độc hoạt, Quế, Tần giao, Hải phong đằng, Tang chi để khu phong tán hàn hóa thấp thông lạc, Đương quy, Xuyên khung, Nhũ hương, Mộc hương để hoạt huyết lý khí, chỉ thông, Cam thảo để điều hòa các vị thuốc.

Nếu phong thắrig thêm Phòng phong, tăng Khương hoạt, để tăng khu phong.

Nếu hàn thắng thêm Chế xuyên ô, Tế tân để tăng tán hàn.

Nếu thấp thắng thêm Phòng kỷ, Ý dĩ nhân để tăng trừ thấp.

Nếu bệnh lâu dinh vệ đều hư, tự hãn ố phong thêm Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch thược, Sinh khương, Đại táo (để bổ dinh vệ) và giảm bớt thuốc khu phong Khương Độc hoạt, Tần giao.

Nếu thêm can thận hư có lưng đau, gối đau, co duỗi khó thêm Đỗ trọng, Ngưu tất, Tang ký sinh.

Phương thuốc: Thấp khớp II (Viện đông y)

Xấu hổ 16g Thổ phục 12g
Dây đau xương 12g Dây gắm 12g
Thiên niên kiện 12g Kê huyết đằng 12g
Hy thiêm 12g Ngưu tất 12g

Nếu phong thắng thêm Ngân hoa, Vòi voi, Kinh giới Nếu hàn nhiều thêm Quế tiêm, Can khương Nếu thấp nhiều thêm Tỳ giải, tăng Thổ phục linh Nếu có nhiệt thêm Thạch cao, Tri mẫu.

Phương thuốc: (Hướng dẫn Thuốc nam châm cứu)

Thổ phục linh 200g Ngưu tất 100g Cà gai leo 100g

  • Phương thuốc riêng cho các thể Hành tý, Thông tý, Trước tý.
Phòng phong 1 đồng cân Cát căn 2 đồng cân
Khương hoạt 0,8 đồng cân Tần giao 2 đồng cân
Quế chi 0,5 đồng cân Cam thảo 1 đồng cân
Đương quy 1 đồng cân Hạnh nhân 1 đồng cân
Gừng 3-51át Xích linh 1 đồng cân

Rượu nửa bát sắc với nước. Uống xa bữa ăn.

Vị thuốc Phòng phong
Vị thuốc Phòng phong

Thông tý: Ngũ tích tán (Cục phương) gia giảm:

Bạch chỉ 3 lạng Xuyên khung 3 lạng
Chích thảo 3 lạng Phục linh 3 lạng
Đương quy 3 lạng Quế chi 3 lạng
Xích thược 3 lạng Bán hạ 3 lạng
Trần bì 6 lạng Chỉ xác 6 lạng
Ma hoàng 6 lạng Thương truật 14 lạng
Can khương 4lạng Cát cánh 12 lạng
Hậu phác 4 lạng

Cách làm: Hậu phác, Quế tán thô để riêng. Các vị khác tán thô, sao nhỏ lửa đến hơi vàng, để nguội, cho bột Quế, Hậu phác vào rồi trộn đều. Mỗi lần dùng 3 đồng cân sắc với nửa bát nước, 3 lát gừng, uông lúc còn nóng.

Ý nghĩa: Ma hoàng, Bạch chỉ để phát hãn giải biểu, Can khương, Nhục quế để ôn tý trừ hàn, Thương truật, Hậu phác để táo thấp kiện tỳ, Trần bì, Bán hạ, Phục linh để lý khí hóa đờm. Đương quy, Xuyên khung, Xích thược để hoạt huyết chỉ đau. Cát cánh để điều hòa khí cơ. Cam thảo để điều hòa các vị thuốc.

Phương thuốc: Hoạt lạc đơn (Cục phương)

Xuyên ô                6 lạng              Thảo     ô           6 lạng

Địa long                6 lạng              Nam     tinh       6 lạng

Nhũ hương          2,2 lạng           Một dược      2,2 lạng

Làm hoàn mật nặng 9g/hoàn, ngày lần, mỗi lần 1 hoàn uống với rượu hoặc nước ấm.

Ý nghĩa: Xuyên thảo ô cay nhiều để khu phong trừ thấp thông lạc chỉ đau, Nam tinh để hóa đờm ở kinh lạc. Nhũ hương, Một dược để hành khí hoạt huyết chỉ đau. Địa long để thông kinh hoạt lạc.

Trước tý: Trừ thấp quyên tý thang. (Trích từ Lổại chứng trị tài – chứng tí)

Thương truật 2 đồng cân Bạch truật 1 đồng cân
Phục linh 1 đồng cân Khương hoạt 1 đồng cân
Trạch tả 1 đồng cân Trần bì 1 đồng cân
Cam thảo 0,5 đồng cân Nước gừng 3 thìa
Trúc lịch 3 thìa

Sắc uống.

Có thể thêm Tầm sa, Phòng kỷ, Ý dĩ.

Nếu bệnh lâu năm có thể dùng:

Phương thuốc: Hoàng kỳ quế chi ngũ vật thang (Kim quỹ yếu lược).

Hoàng kỳ              3 lạng              Thược dược         3 lạng

Quế chi                  3 lạng              Sinh khương        6 lạng

Táo                        12 quả

tìăc uống. Có thể có tác dụng tốt với chứng cơ nhục tê dại cảm giác kém.

  • Nếu phong hàn thấp tý thêm huyết hư.

Phép điều trị: ích can thận, khu phong tán hàn trừ thấp, thông kinh hoạt lạc.

Phương thuốc: Độc hoạt ký sinh thang (Bị cấp thiên kim yếu phương)

Độc hoạt 2 lạng Ký sinh 2 lạng
Đỗ trọng 2 lạng Ngưu tất 2 lạng
Tế tân 2 lạng Tần giao 2 lạng
Phục linh 2 lạng Nhục quế 2 lạng
Phòng phong 2 lạng Xuyên khung 2 lạng
Nhân sâm 2 lạng Cam thảo 2 lạng
Đương quy 2 lạng Thược dược 2 lạng
Can địa hoàng 2 lạng.

Phương thuốc:

Độc hoạt phong thấp hoàn (Viện đông y)

Độc hoạt 12g Hy thiêm 12g
Thổ phục linh 12g Đương quy 12g
Xuyên khung 8g Hà thủ ô 12g
Thục địa 12g Cốt toái bổ 12g
Kê huyết đằng 12g Đảng sâm 12g
Quế chi 8g Can khương 4g
Đỗ trọng 12g Ngưu tất 8g
Cam thảo 4g Kim ngân 6g

Nếu phong hàn thấp kiêm khí huyết đều hư dùng phương trên thêm Hoàng kỳ hoặc Phương thuốc: Tam tý thang. (Phụ nhân lương phương)

Tục đoạn 5phân Đỗ trọng 5phân
Phòng phong 5phân Quế 5phân
Tế tân 5phân Nhân sâm 5phân
Bạch linh 5phân Đương quy 5phân
Bạch thược 5phân Hoàng kỳ 5phân
Ngưu tất 5phân Cam thảo 5phân
Tần giao 3phân Sinh địa 3phân
Xuyên khung 3phân Độc hoạt 3phân

Gừng sắc uống.

Ý nghĩa: Độc hoạt khu phong hàn thấp ở hạ tiêu và cân cốt, Tế tân trừ phong thấp ở cân cốt, Phòng phong, Tần giao để khu phong thắng thấp thư cân. Tục đoạn, Ký sinh, Đỗ trọng, Ngưu tất để khu phong thấp bổ can thận. Xuyên khung, Đương quy, Thục địa, Bạch thược để dưỡng huyết, Sâm, Phục Linh để bổ khí kiện tỳ, Nhục quế để thông mạch, Cam thảo để điều hòa các vị thuốc.

Vị thuốc Độc hoạt
Vị thuốc Độc hoạt
  • Nếu khớp sưng dần, rêu lưỡi chuyển sang vàng cáu. Đó là tà đã hóa nhiệt. Cần phải chữa cả hàn và nhiệt

Phép điều trị: Giải biểu hàn thanh lý nhiệt, thông kinh lạc.

Phương thuốc: Quế chi Thược dược Tri mẫu (Kim quỹ yếu lược)

Quế chi                         8g              Thược dược              6g

Cam thảo 4g Ma hoàng 4g
Bạch truật 10g Tri mẫu 8g
Phòng phong 10g Phụ tử 8g
Sinh khương 10g

Ý nghĩa: Quế chi, Thược dược, Ma hoàng, Phòng phong, Phụ tử, Sinh khương để khu phong tán hàn trừ thấp thông kinh lạc. Tri mẫu để thanh nhiệt tư âm. Cam thảo để điều hòa các vị thuốc.

Nhiệt tý hoặc phong thấp nhiệt tý:

Triệu chứng: Một hoặc nhiều khớp có sưng, nóng, đỏ, đau, sờ càng đau, vận động càng đau, gặp lạnh thì dễ chịu. Còn có các chứng nóng sốt, khát, bồn chồn không yên, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác.

Phép điều trị: Thanh nhiệt giải độc, sơ phong thông lạc. Phương thuốc: (Hướng dẫn thuốc nam và châm cứu Bộ y tế)

Hy thiêm                   50g               Thổ phục linh 20g

Ngưu tất                    20g               Lá lốt             20g

Làm hoàn. Bột Hoài sơn làm áo, bột áo nhuộm bằng nước Chi tử. Lá lốt để tán hàn. Ngưu tất để dẫn thuốc hành huyết. Có thể thêm Cà gai leo 20g. Cây xấu hổ, Ngải cứu 12g.

Phương thuốc: Bạch hổ gia Quế chi thang (Kim quỹ yếu lược).

Tri mẫu 6 lạng (9g)                         Cam thảo 2 lạng (3g)

Thạch cao 16 lạng (30g)                 Ngạnh mễ 2 hộp (6g)

Quế chi 3 lạng (5-9g)

Ý nghĩa: Thạch cao để thanh nhiệt sinh tân. Tri mẫu để tư âm thanh nhiệt. Cam thảo, Ngạnh mễ để ích vị bảo vệ âm, Quế chi để thông kinh lạc sơ phong.

Thêm Ngân hoa, Uy linh tiên, Hoàng bá, Đơn bì, Tang chi để tăng tác dụng thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết thông lạc. Nếu nhiệt thịnh thêm Hoàng cầm, Chi tử, có táo bón thêm Đại hoàng.

Nếu tân dịch bị hao tổn thêm Sinh địa, Huyền sâm, Mạch môn. Nếu vị âm kém thêm Thạch hộc, Thiên hoa phấn, Mạch môn, Tri mẫu. Nếu thấp nhiệt hạ trú, thêm Thương truật, Hoàng bá.

Thuốc chườm tại chỗ:

Lưu hoàng                60g                Bạch    chỉ              30g

Xuyên khung            30g                Nhũ    hương         10g

Mộc dược                 10g.

Tán mịn, cho vào túi vải dàn mỏng đều dày 0,3cm, sát gừng tươi vào chỗ đau, sau đó đặt thuốc chườm lên. Mỗi ngày làm 1 lần, mỗi lần dùng xong bảo quản kín. Có thể dùng được 2 tuần.

Tothema

Tothema Điều trị thiếu máu thiếu sắt
Tothema Điều trị thiếu máu thiếu sắt

TOT’HEMA

INNOTECH c/o ZUELLIG

dung dịch uống: ống 10 ml, hộp 20 ống.

THÀNH PHẦN

cho 1 ống
Gluconate ferreux tính theo Fe 50 mg
Manganèse gluconate tính theo Mn 1,33 mg
Cuivre gluconate tính theo Cu 0,70 mg
(Saccharose)
(Glucose)

DƯỢC LỰC

Cung cấp chất sắt dưới dạng muối ferreux (50 mg nguyên tố sắt cho mỗi ống thuốc).

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Muối ferreux thường được hấp thu yếu (10-20% liều uống vào). Sự hấp thu này tăng lên khi mà nguồn dự trữ chất sắt trong cơ thể giảm.

Quá trình hấp thu diễn ra phần lớn ở tá tràng và phần gần hỗng tràng.

CHỈ ĐỊNH

Điều trị thiếu máu thiếu sắt.

Dự phòng thiếu chất sắt ở phụ nữ có thai, trẻ còn bú sinh thiếu tháng, trẻ sinh đôi hoặc có mẹ bị thiếu chất sắt, khi nguồn cung cấp chất sắt từ thức ăn không đủ đảm bảo cung cấp chất sắt.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Quá tải chất sắt, đặc biệt là trong thiếu máu thông thường hoặc tăng chất sắt trong máu như trong bệnh thiếu máu vùng biển (bệnh Thalassémie), thiếu máu do suy tủy.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG

  • Dùng thuốc không có hiệu quả trường hợp giảm chất sắt trong máu có phối hợp với hội chứng viêm.
  • Trong chừng mực có thể, nên phối hợp điều trị bổ sung chất sắt với điều trị nguồn gốc bệnh.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

– Uống nhiều trà sẽ giảm hấp thu chất sắt.
– Trường hợp bệnh nhân đang theo chế độ ăn kiêng hydrate carbone, cần lưu ý rằng mỗi ống thuốc có chứa 3 g saccharose.
– Để tránh khả năng răng bị nhuộm đen (sẽ tự khỏi sau đó), tránh ngậm lâu dung dịch thuốc trong miệng.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Không nên phối hợp:

  • Sắt (dạng muối ; đường tiêm): xỉu, thậm chí sốc do giải phóng nhanh sắt từ dạng phức hợp và do bão hòa sidérophiline.

Thận trọng khi phối hợp:

  • Ciprofloxacine: giảm sinh khả dụng của ciprofloxacine do tạo chelate và do một tác dụng không chuyên biệt trên khả năng hấp thu của ống tiêu hóa. Dùng các thuốc này cách xa nhau (trên 2 giờ nếu có thể).
  • Cycline (đường uống): giảm hấp thu của cycline ở đường tiêu hóa (do hình thành phức chất). Dùng các thuốc này cách xa nhau (2 giờ chẳng hạn).
  • Muối, oxyde, hydroxyde của Mg, Al và Ca (phủ niêm mạc dạ dày-ruột): giảm hấp thu đường tiêu hóa của muối sắ Dùng các thuốc này cách xa nhau (2 giờ chẳng hạn).
  • Diphosphonate (đường uống): giảm hấp thu các Dùng các thuốc này cách xa nhau (2 giờ chẳng hạn).

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Rối loạn tiêu hóa: buồn nôn, nóng rát dạ dày, táo bón hoặc tiêu chảy. Phân có màu đen là bình thường.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Pha loãng ống thuốc trong nước (có đường hoặc không), uống trước các bữa ăn, chia làm nhiều lần trong ngày.

Điều trị:

  • Người lớn: 100 đến 200 mg Fe/ngày.
  • Trẻ em/Trẻ nhũ nhi: 5 đến 10 mg Fe/kg/ngày. Dự phòng:
  • Phụ nữ mang thai: 50 mg Fe/ngày, trong 2 quý sau của thai kỳ (hoặc từ tháng thứ tư). Thời gian điều trị:

Thời gian điều trị phải đủ để điều chỉnh sự thiếu máu và hồi phục lại nguồn dự trữ chất sắt, ở người lớn là 600 mg ở phụ nữ và 1200 mg ở nam giới.

Thiếu máu thiếu sắt: 3 đến 6 tháng tùy theo mức độ hao hụt nguồn dự trữ, có thể lâu hơn nếu nguyên nhân gây thiếu máu không được kiểm soát.

QUÁ LIỀU

Sau khi uống một lượng lớn thuốc, những trường hợp quá liều muối sắt đã được ghi nhận, đặc biệt ở trẻ dưới 2 tuổi: các triệu chứng bao gồm bị kích ứng và hoại tử dạ dày-ruột, đa số trường hợp có kèm theo nôn, mửa và tình trạng sốc.

Cần điều trị càng sớm càng tốt, tiến hành rửa dạ dày với dung dịch natri bicarbonate 1%.

Sử dụng các chất tạo phức chelate rất có hiệu quả, nhất là khi dùng déféroxamine, chủ yếu khi nồng độ chất sắt trong máu trên 5 mg/ml. Tình trạng sốc, mất nước và bất thường acide-base được điều trị bằng các phương pháp cổ điển.

Trẻ bị đầy hơi – Nguyên nhân, Hướng xử lý

Đầy hơi là một triệu chứng hay gặp ở các vấn đề về ruột, nhưng hiếm khi là dấu hiệu cho một vấn đề nghiêm trọng. Trẻ nhỏ háu ăn thường nuốt cả không khí, lượng khí này tích tụ thành chướng khí trong ruột trẻ. Nhiều bác sĩ nhi tin rằng cảm giác khó chịu do đầy hơi đó là một trong những yếu tố làm cho cơn đau bụng thêm trầm trọng.

Chắc chắn rằng đầy hơi thường được sản sinh ra trong quá trình tiêu hóa thức ăn; tuy nhiên, trẻ em cũng như người lớn thường có lượng khí thừa vì chế độ ăn có quá nhiều những loại chất xơ không hoà tan được và chúng lên men trong ruột. Nhiều trẻ sơ sinh và trẻ tập đi cũng nuốt không khí khi khóc hoặc thở bằng miệng vì bị ngạt mũi. Trẻ lớn hơn nuốt không khí khi ăn hay nhai kẹo cao su. Các thức uống có ga cũng có thể là một yếu tố. Một số trẻ lớn hơn 4 tuổi bị đầy hơi vì theo thời gian các bé mất dần khả năng tiêu hóa đường trong sữa.

Gọi bác sĩ nhi nếu con bạn bị đầy hơi trong dạ dày hoặc ruột cùng với:

  • Đau bụng trầm trọng
  • Buồn nôn và nôn kéo hài 12 tiếng hoặc hơn
  • Tiêu chảy không dứt trong hơn 3 ngày
  • Phân lớn và có mùi hôi bất thường.

CẢNH BÁO!

Đừng trị chứng đầy hơi của bé bằng các phương thuốc khó tiêu không được kÊ đơn. Nếu đầy hơi gây khó chịu kéo dài, hãy xin lời khuyên của bác sĩ nhi.

MỐI BẬN TÂM CỦA BẠN NGUYÊN NHÂN CÓ THỂ CÓ HÀNH ĐỘNG CẦN THỰC HIỆN
Con bạn là trẻ sơ sinh và xì hơi rất nhiều trong những cơn khóc do đau bụng. Bé thường có xu hướng nuốt vội khi ăn. Chứng nuốt hơi khi ăn. Cho bé nghỉ ợ hơi thường xuyên trong mỗi lần ăn và sau đó. Với bé bú bình, hãy cho bé bú bằng loại đầu vú chảy chậm phù hợp với tuổi.
Con bạn ở tuổi mẫu giáo hoặc lớn hơn bị đáy hai kèm với cảm, sụt sịt và ngạt mũi thường xuyên. Nuốt khi khi thở bằng miệng. Nói chuyện với bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho bé và khuyên cách điều trị nếu cần.
Con bạn ở tuổi đi học và có tiền sử bị đầy hơi kèm tiêu chảy, chướng bụng và khó chịu. Không chịu được đường lactose hoặc thức ăn lạ.

Bệnh Celiac (nhạy cảm với gluten).

Một vấn đề hấp thu kém khác.

Dị ứng thức ăn (hiếm).

Hội chứng ruột kích thích.

Nói chuyện với bác sĩ nhi, họ có thể khuyến nghị rằng bạn nên giữ một cuốn nhật ký đồ ăn để lần theo các triệu chứng và các thức ăn bé tiêu thụ hàng ngày. Bác sĩ nhi cũng có thể gợi ý một chế độ ăn loại trừ để xác định các thức ăn nghi ngờ. Nếu bé nghĩ là có một loại thức ăn nào đó làm bé khó chịu, hãy loại bỏ nó khỏi chế độ ăn của bé trong khoảng 1 hay 2 tuần và cho ăn trở lại để xem các triệu chứng có tái xuất hiện hay không.
Con bạn đột nhiên bị chướng bụng, vọp bẻ và tiêu chảy kèm đầy hơi. Tiêu chảy do lây nhiễm.

Nhiễm ký sinh trùng như trùng roi.

Nói chuyện với bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho bé và khuyến nghị cách điều trị, tuỳ thuộc vào nguyên nhân tiêu chảy.
Con bạn bị đầy hơi và dạ dày bị khó chịu từ khi uống một loại thuốc kháng sinh hoặc loại thuốc khác. Tác dụng phụ của thuốc. Gọi bác sĩ nhi, họ có thể thay thế đơn thuốc khác hoặc khuyến nghị các phương pháp tối thiểu hóa tác dụng phụ, như uống thuốc vào giờ ăn chẳng hạn.
Con bạn ợ và xì hơi lớn tiếng và thường xuyên. Chế độ ăn nhiều xơ.

Đồ uống có ga.

Hành vi tìm kiếm sự chú ý Nhìn chung, lượng chất xơ tiêu thụ hàng này của bé nên bằng tuổi bé cộng 5g (ví dụ, trẻ 8 tuổi sử dụng 8t + 5g = 13g.

Giảm lượng cám và chất xơ khó tan trong chế độ ăn, thêm nhiều chất xơ có thể hoà tan từ các loại hoa quả và rau. Loại bỏ đồ uống có ga. Khuyến khích vận động vừa phải, nhất là sau các bữa ăn. Nếu xì hơi là cách bé thu hút sự chú ý, hãy cho bé biết hành vi đó là không thể chấp nhận được (nhưng hãy cẩn thận đừng để sự không tán thành của bạn khích lệ bé).

BIOCALYPTOL

Thuốc ho, được chỉ định trong các chứng ho khan, ho do kích ứng.

THUỐC BIOCALYPTOL

LAPHAL

Sirô : chai 60 ml.

THÀNH PHẦN

cho 1 muỗng café
Pholcodine 6,55 mg
Cinéole 9,17 mg
Gaiacol 0,99 mg
(Alcool) (24,6 mg)
(Saccharose) (4,2 g)
cho 1 muỗng canh
Pholcodine 19,65 mg
Cinéole 27,51 mg
Gaiacol 2,97 mg
(Alcool) (73,8 mg)
(Saccharose) (12,6 g)

DƯỢC LỰC

Thuốc ho có opium.

  • Pholcodine : dẫn xuất của morphine, chống ho có tác động trên thần kinh trung ương, ít gây suy hô hấp hơn so với codéine.
  • Cin ole (hay eucalyptol) : sát trùng đường hô hấp.
  • Gaiacol : long đàm.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Pholcodine được hấp thu hoàn toàn sau khi uống thuốc.

Pholcodine được đào thải chủ yếu qua đường tiểu và có khoảng 30 đến 50% liều sử dụng được tìm thấy dưới dạng không đổi.

Cin ole được hấp thu ở niêm mạc dạ dày-ruột. Cin ole được đào thải chủ yếu qua đường tiểu và đường hô hấp.

CHỈ ĐỊNH

Thuốc ho, được chỉ định trong các chứng ho khan, ho do kích ứng.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Tuyệt đối :

  • Suy hô hấp.
  • Ho suyễn.
  • Có tiền sử dị ứng với một trong các thành phần của thuốc.
  • Phụ nữ có thai : xem Lúc có thai và Lúc nuôi con bú.

Tương đối :

  • Acool : xem Tương tác thuốc.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Chú ý đề phòng :

  • Biệt dược này có chứa cinéol (dẫn xuất của terpène), khi dùng liều cao có thể gây các tai biến trên thần kinh kiểu gây co giật ở nhũ nhi và trẻ
  • Trường hợp ho có đàm cần phải để tự nhiên vì là yếu tố cơ bản bảo vệ phổi-phế quản.
  • Không hợp lý khi phối hợp thuốc long đàm hoặc thuốc tan đàm với thuốc
  • Trước khi kê toa thuốc chống ho, cần tìm nguyên nhân gây ho để có điều trị đặc hiệu.
  • Nếu ho vẫn dai dẳng sau khi đã điều trị với một loại thuốc ho ở liều thông thường, không nên tăng liều mà cần khám lại tình trạng lâm sàng của bệnh nhân.
  • Nên tôn trọng liều lượng và thời gian điều trị khuyến cáo.

Thận trọng lúc dùng :

Không nên uống rượu và các thuốc có chứa alcool (xem Tương tác thuốc) trong thời gian điều trị.

Nếu bệnh nhân có tiền sử bị động kinh, cần lưu ý sự hiện diện của cinéole trong thành phần của thuốc.

Lái xe và sử dụng máy móc : cần lưu ý các đối tượng này về khả năng có thể bị buồn ngủ sau khi uống thuốc.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Lúc thai :

Không có số liệu về khả năng gây quái thai của thuốc trên động vật.

Trên lâm sàng, cho đến nay không ghi nhận có trường hợp nào bị dị dạng hoặc độc tính trên bào thai do dùng thuốc. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên phụ nữ có thai chưa đủ để có kết luận thật chính xác.

Trong 3 tháng cuối thai kỳ, nếu sản phụ dùng pholcodine dài hạn có thể gây hội chứng cai nghiện cho trẻ sơ sinh sau này.

Vào cuối thai kỳ, dùng liều lượng cao dù đợt điều trị ngắn cũng có thể gây ức chế hô hấp ở trẻ sơ sinh.

Do đó, vì lý do thận trọng, không nên chỉ định thuốc có chứa pholcodine cho phụ nữ mang thai.

Lúc nuôi con bú :

Pholcodine được bài tiết qua sữa mẹ ; với codéine, một vài trường hợp bị giảm trương lực và ngưng thở đã được mô tả ở nhũ nhi sau khi bú mẹ mà người mẹ lại uống codéine quá liều điều trị. Do suy luận từ codéine, chống chỉ định pholcodine cho phụ nữ nuôi con bú.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Không nên phối hợp :

  • Alcool : làm tăng tác dụng an thần của thuốc ho có tác động trên thần kinh trung ương.

Tránh uống rượu và các thuốc có chứa alcool trong thời gian điều trị. Lưu ý khi phối hợp :

  • Các thuốc gây ức chế hệ thần kinh trung ương khác (thuốc giảm đau và trị ho dẫn xuất morphine, một vài thuốc chống trầm cảm, thuốc kháng histamine H1 gây buồn ngủ, nhóm barbiturate, benzodiazépine, clonidine và các thuốc cùng họ, thuốc ngủ, thuốc an thần kinh, thuốc giải lo âu không thuộc nhóm benzodiaz pine) : tăng tác động gây ức chế hệ thần kinh trung ương.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Liên quan đến pholcodine : Có thể gây táo bón, buồn ngủ.

Hiếm gặp : chóng mặt, nôn, mửa, co thắt phế quản, phản ứng dị ứng ở da. Liên quan đến cinéole :

Có thể gây kích động hoặc lú lẫn ở người già trong trường hợp không chấp hành liều lượng khuyến cáo, có thể gây co giật ở trẻ em.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Điều trị triệu chứng phải ngắn hạn (vài ngày) và dùng trong những thời điểm xảy ra cơn ho. Trường hợp không dùng một thuốc nào khác có chứa pholcodine hoặc tất cả các thuốc ho khác có tác động lên thần kinh trung ương, liều hàng ngày của pholcodine không được vượt quá 90 mg ở người lớn và 1 mg/kg ở trẻ em.

  • Trẻ em từ 30 tháng đến 6 tuổi : 0,5 mg pholcodine/kg/24 giờ, tương ứng với nửa muỗng café xirô/6 kg thể trọng/ngày.
  • Trẻ em từ 6 đến 15 tuổi : 1 mg pholcodine/kg/24 giờ, tương ứng với 1 muỗng café xirô/6 kg thể trọng/ngày.
  • Người lớn : 90 mg pholcodine/24 giờ, tương ứng 4 muỗng canh/ngày. Nên chia liều thành 4 hoặc 6 lần/ngày, cách nhau tối thiểu 4 giờ.
  • Người già hoặc suy gan : khởi đầu nên uống nửa liều người lớn, sau đó có thể tăng liều tùy theo mức độ dung nạp và nhu cầu.

QUÁ LIỀU

Liên quan đến pholcodine :

Dấu hiệu sau khi dùng liều rất cao : hôn mê, suy hô hấp, co giật. Điều trị triệu chứng :

  • gây ói,
  • trường hợp bị suy hô hấp : dùng naloxone, trợ hô hấp,
  • trường hợp bị co giật : dùng benzodiazépine. Liên quan đến cinéole :

Các dấu hiệu ngộ độc gồm nóng rát thượng vị, nôn, ói, choáng váng, yếu cơ, nhịp tim nhanh và cảm giác ngạt thở.