Blog Trang 565

Phương pháp hồi sức ép tim ngoài lồng ngực

Lưu thông, tuần hoàn, thở.

Áp dụng với những người ngừng thở.

1. Hãy đảm bảo chắc chắn rằng họ không ngủ – hãy kiểm tra trạng thái và ý thức của họ.

Phương pháp hồi sức ép tim ngoài lồng ngực
Phương pháp hồi sức ép tim ngoài lồng ngực

2. Bắt đầu ép tim ngoài lồng ngực.

Ép tim 30 lần với độ sâu 5 cm ở người lớn, tập trung ở giữa ngực, giữa núm vú.

Ép tim 30 lần với độ sâu bằng 1/3 độ sâu ngực của đứa trẻ, tập trung ở giữa ngực, giữa núm vú đối với trẻ em.

Đặt một bàn tay lên một bàn tay khác (lòng bàn tay của một bàn tay đặt trên đầu của bàn tay khác), có thể xen kẽ các ngón tay của bạn hoặc giữ cổ tay của bàn tay dưới (bằng bàn tay trên và ép xuống một cách nhanh chóng và mạnh mẽ trên ngực bằng cách sử dụng lòng bàn tay của bạn như là điểm áp lực).

3. Hãy đảm bảo nạn nhân có một đường thở thẳng (nghiêng đầu và nâng cằm).

4. Sơ cấp cứu bằng cách hà hơi thổi ngạt

Che miệng nạn nhân bằng một tấm chắn ở giữa miệng để tránh tiếp xúc với miệng của bạn.

Bóp chặt mũi.

Đặt tấm che chắn lên miệng của nạn nhân.

Hãy đảm bảo bạn có một vật để che chắn (vật che chắn bằng giấy bóng hoặc băng gạc/tấm vải) trước khi bạn tiếp xúc với nạn nhân nếu bạn không có vật để che chắn, thì bạn không nên tiến hành bằng phương pháp hà hơi thổi ngạt.

2 hơi thở chậm.

5. Lặp lại từ bước 2 đến bước 4 cho đến khi có được sự giúp đỡ y tế hoặc nạn nhân tỉnh táo và thở được.

6. Nếu nạn nhân bị nôn, vần nạn nhân nghiêng về một phía

  • Gập đầu gối nạn nhân gần phía người sơ cấp cứu lên và nhấc một cánh tay nạn nhân lên và vần nạn nhân ra phía xa bạn.
  • Sử dụng túi bóng để nạn nhân nôn vào.
  • Nếu nạn nhân ngừng nôn mửa nhưng vẫn không thở, thì vần nạn nhân trở về vị trí sơ cấp cứu ban đầu và tiếp tục làm từ bước 2 đến bước
  • Nếu nạn nhân ngừng nôn và đang thở, đặt nạn nhân ở vị trí sơ cấp cứu ban đầu và ở bên cạnh nạn nhân.

Thay đổi những thói quen nguy hại khi trẻ học tập

1/ Không nên để trẻ em dùng lưỡi liếm bút chì.

Có một số trẻ em trong khi làm bài thường hay dùng lưỡi để liếm bút chì, đó là một việc làm rất không vệ sinh , thầy cô giáo ở trường và các bậc phụ huynh ở nhà phải giáo dục các em không nên dùng lưỡi liếm bút chì.

Ruột bút chì không phải do chì làm ra, mà làm từ mực đá và đất sét, tuy không có chất độc, nhưng trong đó có những vi trùng, mầm bệnh và trứng ký sinh trùng mà mắt thường không trông thấy được, dùng lưỡi liếm bút chì có thể sinh bệnh. Bút chì có các loại màu sắc, nguyên liệu là sơn dầu, trong sơn dầu có chất chì, mà chì thì có chất độc. Đối với chất độc chì, trẻ em rất mẫn cảm, có thể tổn thương đến hệ thống thần kinh của các em, làm cho trí lực của các em bị suy giảm.

2/ Cặp sách của các em không nên nặng quá.

Bà Xchênôva, bác sĩ bảo vệ sức khoẻ trẻ em ở viện Y học Matxcơva liên-xô cũ đã tiến hành hàng loạt nghiên cứu đã chứng minh rằng : “Trọng lượng tối đa của cặp sách của trẻ em không được vượt quá l/10 trọng lượng thân thể của em đó. Được sự hỗ trợ cuả tổ chức bảo vệ sức khoẻ trẻ em và phụ nữ, bà Xchênôva đã tiến hành trắc nghiệm trên 6 vạn trẻ em ở các nước Liên-xô cũ, Dân chủ Đức cũ, Na-uy, Tiệp khắc v.v…, kết quả chứng minh : tất cả những em học sinh trung, tiểu học đeo cặp sách mà trọng lượng thường xuyên vượt quá 1/10 thể trọng em đó, do phải đeo quá nặng, nên cột sống thường bị nén và bị cong, ảnh hưởng xấu rõ rệt đến việc phát triển của em đó. Hiện nay trọng lượng cặp sách của trẻ em các nước trên thế giới đại đa số là vượt quá tiêu chuẩn này. Hiện nay trọng lượng cặp sách của không ít các em nặng trên l/8 thể trọng. Có em còn đeo chiếc cặp nặng bằng 1/4 thể trọng, điều này không thể cho phép được. Về vấn đề những chiếc cặp sách siêu trọng của trẻ em các nước trên thế giới, bà Xchênôva kêu gọi các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo và các giới trong xã hội cần chú ý. Bà kiến nghị : trẻ em nên dùng cặp đeo hai quai lên hai vai chứ không nên dùng loại cặp đeo một vai; đồng thời bà cũng kêu gọi nên thiết kế chế tạo cho trẻ em những loại dụng cụ học tập và sách vở nhẹ hơn, hãy cố gắng giảm bớt trọng lượng chiếc cặp sách cho các em trẻ em.Tình trạng mất khả năng học tập ở trẻ nhỏ

3/ Sáu điều không nên trong học tập của học sinh.

Đi học, cầu học quyết không phải là việc dễ, rất nhiều học sinh học ngày học đêm khổ sở mà thành tích vẫn không cao, chủ yếu là chưa có phương pháp học tập tốt. Tiến sĩ Cônitch, nhà tâm lý xã hội học nổi tiếng của nước Mỹ đề ra 6 điều không nên sau đây, nghe nói có thể tăng cường năng lực học tập của học sinh, các em học sinh các trường hãy thử làm xem sao :

– Tuyệt đối không nên ngồi đọc sách thời gian quá dài. Mỗi ngày ôn tập một đoạn, chỉ dùng một thời gian rất ngắn, chỉ cần tập trung tư tưởng, so với đọc một cách khổ sở một thời gian dài sẽ cólợi hơn nhiều. Ngồi đọc một thời gian dài quá cũng không có lợi cho sức khoẻ thân thể.

– Học tập hoặc ôn tập không nên nhiều mà loãng. Cố gắng mỗi lần học tập hoặc ôn tập một môn, ví dụ cần phải học thuộc lòng một bài thơ, tốt nhất là nên đọc cả bài chứ không nên học từng câu một hoặc từng đoạn một.

– Không nên học bài mới sau khi ăn no. Bởi vì sau khi ăn cơm, máu sẽ chảy vào dạ dày giúp cho việc tiêu hoá, máu đến não sẽ giảm đi, nếu lúc này mà cứ miễn cưỡng học tập, thì chỉ tổ váng đầu hoa mắt mà thôi.

– Không nên phản lại cái “Đồng hồ sinh vật” của mình. Có một số người thì buổi sáng tinh thần rất minh mẫn, nhưng có một số người lại chỉ tập trung tinh thần vào buổi tối, hãy chọn thời gian thích hợp để tập trung tinh thần ôn tập.

– Khi học nhất thiết không được ngồi gần cửa sổ quá, không nên nghe đài và xem ti-vi. Nhất định phải tạm thời “Cach biệt với thế giới bên ngoài”, cố gắng tìm lấy một chỗ thật yên tĩnh để ôn tập, nếu không thì rất dễ phân tán tư tưởng, việc học tập sẽ mất nhiều công sức hơn.

– Khi học tập bài mới không nên học thuộc lòng những danh từ chuyên môn trước. Cần phải cố gắng dùng năng lực hiểu biết và cách diễn dịch tri thức của mình để học tập bài mới, cho đến khi hoàn toàn hiểu và thuộc bài xong rồi mới học thuộc lòng những danh từ này.

4/ Không nên để cho các em vùi đầu vào đống sách.

Có một số cha mẹ thường đối lập việc trưởng thành về thân thể với việc tăng cường tri thức cuả các em học sinh, cho rằng các em tham gia luyện tập thể dục sẽ ảnh hưởng đến học tập. Kỳ thực nhìn nhận như vậy là phiến diện. Rèn luuyện thể dục một cách hợp lý, sẽ làm cho các em lớn lên một cách khoẻ mạnh, nâng cao thể chất. Từ quan điểm y học mà xét, thể chất có liên hệ mật thiết với trí lực, bởi vì mọi hoạt động tư duy trí lực đều là hoạt động cuả thần kinh trung khu đại não. Đại não cần ô-xy và đường huyết nhiều hơn bất cứ cơ quan nào khác, hầu như nó chiếm đến 1/5 toàn thân. Các cơ bắp có thể tạm thời thiếu ô-xy một thời gian ngắn vẫn duy trì hoạt động được, nhưng đại não thì không được, bởi vì nó là Bộ tổng tư lệnh chỉ huy toàn thân, nếu chẳng may thiếu chất dinh dưỡng và năng lượng, lập tức sẽ dẫn đến các tổ chức khí quan trong toàn thân thể bị suy kiệt. Thường xuyên tham gia rèn luyện thể dục, tuần hoàn toàn thân sẽ tăng nhanh, chất thay thế sẽ thịnh vượng, tất nhiên sẽ cải thiện cho thể chất rất nhiều. Lúc này, do đại não đã được cung cấp đầyđủ chất dinh dưỡng và năng lượng, người ta sẽ cảm thấy tinh lực dồi dào, lạc quan. Thực nghiệm trắc định đã chứng minh, năng lực tư duy và suy nghĩ của con người được nhanh chóng, ngoài nhân tố có liên quan đến di truyền ra, còn có liên quan đến việc thường xuyên tham gia rèn luyện thể dục nữa. Cho nên, để cho trẻ em tăng trưởng trí thức được tốt hơn, tuyệt đối không nên bắt trẻ em vùi đầu vào sách vở, mà cần phải để cho các em tham gia rèn luyện thân thể một cách thích đáng.

5/ Bốn điều kiêng kỵ trong việc bảo hộ thị lực cho trẻ em.

Điều kiêng kỵ thứ nhất là đọc sách và viết chữ ở dưới ánh nắng mặt trời và ở những chỗ quá tối.

Điều kiêng kỵ thứ hai là xem báo,đọc sách ở trên tàu xe hoặc vừa đi vừa xem hoặc nằm xem sách.

Điều kiêng kỵ thứ ba là xem ti-vi thời gian quá dài.

Điều kiêng kỵ thứ tư là viết chữ bằng bút chì mờ quá.

6/ Nhất thiết không nên vì tiết kiệm một chút điện mà làm hỏng đôi mắt của trẻ em.

Số học sinh trung, tiểu học bị cận thị ngày càng nhiều, khiến cha mẹ học sinh lo lắng, nhưng vẫn còn có một số gia đình vì tiết kiệm điện nên có thói quen dùng bóng đèn nhỏ, độ chiếu sáng thường xuyên không đủ, làm tổn hại rất nhiều đến thị lực của các em.

Sở giáo dục thành phố Thẩm Dương đã tiến hành điều tra độ chiếu sáng ở trong 302 hộ gia đình có học sinh tiểu học ở trong thành phố. Kết quả điều tra cho thấy chỉ có 60 hộ có đèn học ở trên bàn học sinh la đủ ánh sáng phù hợp với qui định của nhà nước, chiếm 19,86% tổng số điều tra. Còn 242 hộ không đủ tiêu chuẩn ánh sáng, chiếm 81,l3% tổng số. Có một gia đình học sinh tiểu học có 4 người ở trong một căn phòng rộng 13,5 m2 mà chỉ có một bóng đèn tròn 15 oát. Lại có một gia đình học sinh lớp 4, theo tiêu chuẩn ánh sáng trong nhà thì chỉ đạt 5%. Như vậy là thiếu 95% ánh sáng. Cho nên, đề nghị với các bậc cha mẹ hãy chú ý đến ánh sáng trong nhà, nên có đủ ánh sáng cho con trẻ.

Một căn phòng rộng 13 – 14 m2 cần phải có một ngọn đèn nê-ông 40 oát. Nếu bàn học cách xa ngọn đèn thì trên bàn học cần phải có một ngọn đèn nê-ông 8 oát nữa hoặc một bóng đèn tròn 25 oát. ánh sáng phải chiếu từ phía trước bên trái hoặc phía chếch bên trái, để tránh tay bị lấp bóng. Khi trời âm u thì dù là ban ngày cũng phải bật đèn. Tuyệt đối không nên vì tiết kiệm một chút tiền điện mà làm hại đôi mắt của con trẻ.

7/ Bảy điều kiêng kỵ về vệ sinh trong hoạt động trại hè.

Trong thời gian nghỉ hè, những hoạt động trại hè có sức quyến rũ mê hồn đã lôi cuốn hàng nghìn hàng vạn các bạn trẻ đến trại. Vậy thì trong những hoạt động này cần chú ý những điểm gì. Xin hãy chú ý bảy điểm sau đây :

  • Không nên đến những nơi đang có bệnh truyền nhiễm lưu hành. Trước khi đi phải tìm hiểu môi trường vệ sinh ở nơi mình sắp đến, cần phải chuẩn bị một túi thuốc nho nhỏ, trong đó có thuốc đỏ, bông băng, cồn, thuốc tím, tăm bông và thuốc cầm máu, lại còn phải mang thuốc hoàng liên, dầu hoắc hương cùng những loại thuốc thông thường nội khoa khác, và phải có một người chuyên phụ trách.
  • Không nên mặc áo ni-lông, đi dép hoặc đi giày da. Quần áo nên rộng rãi, thoáng khí, mũ phải có vành che nắng, phải đi giày đế bằng và nhẹ, có chất đàn hồi tốt. Tốt nhất là không nên đi dép nhựa, giày da v.v…những loại giày không có chất đàn hồi hoặc đế cứng. Nên căn cứ vào đặc điểm lứa tuổi, con trai hay con gái mà định hành trình mỗi ngày. Tốt nhất không nên hành quân đi bộ đường dài, vượt quá sức của các em.
  • Không nên ngủ ở ngoài trời. Địa điểm dựng lều phải chọn nơi cao, khô ráo, sạch sẽ, thuận tiện cho việc lấy nước. Thức ăn mang theo phải giàu chất dinh dưỡng, không ôi thiu, không nhiễm trùng. Mỗi ngày phải ngủ cho đủ. Các em dưới 14 tuổi, mỗi ngày ít nhất phải ngủ đủ 8 tiếng đồng hồ. Ban đêm tuyệt đối không được nằm trên cỏ lộ thiên mà ngủ, để tránh cảm lạnh hoặc bị muỗi đốt mà sinh bệnh.
  • Trong khi đang có mồ hôi, không được xuống sông tắm, bơi. Muốn bơi phải có người chuyên môn phụ trách an toàn.

Sau khi có những hoạt động mệt nhọc (như leo núi chẳng hạn) không được đọc sách hoặc chơi những trò chơi trí tuệ, để tránh gánh nặng cho tim và mắt.

  • Bạn nào có bệnh mãn tính hoặc cảm thấy người không khoẻ thì không nên ra ngoài.
  • Trong đội ngũ không nên thiếu một người lớn tuổi làm đội trưởng để khi gặp tình huống thì có thể giải quyết hoặc xử lý được.

8/ Không nên đọc sách dưới ánh nắng mặt trời.

Con người ta khi đọc sách hoặc làm việc, yêu cầu phải có ánh sáng thích hợp, chỉ có như vậy mới có thể xem được rõ và cảm thấy thoải mái. ánh sáng quá mạnh sẽ kích thích và làm phương hại đến mắt.

Nói chung, ánh sáng thích hợp nhất với con mắt của người ta là ánh sáng tự nhiên. Nhưng ánh sáng tự nhiên có hai loại, một loại gọi là tán xạ quang, một loại khác gọi là trực xạ quang. Đọc sách hay làm việc dưới ánh sáng tán xạ quang thì cảm thấy thoải mái nhất, đọc chữ rõ ràng nhất và không chóng mệt. Bởi vì tán xạ quang toả đều và nhu hoà. Còn trực xạ quang thì không như vậy, nó quá nóng, làm hoa mắt, khiến cho người ta cảm thấy rất không thoải mái, thậm chí sợ ánh sáng, nhức mắt.

Còn một loại ánh sáng nữa, tức là ánh sáng nhân tạo như đèn điện, đèn nê-ông, ánh sáng của nến, của đuốc, của dầu v.v… Chiếu sáng một cách chính xác, không những là độ sáng phải đầy đủ, mà hướng chiếu sáng tốt nhất là phải từ phía trước bên trái. Một phòng học tiêu chuẩn ( 50 m2 , cao 3,3 – 3,4 m ) cần phải có 6 bóng đèn tròn 100 oát hoặc 6 bóng đèn nê-ông 40 oát, treo cao khoảng 1,5 – 2 m, cự li giữa các đèn gấp đôi độ cao là vừa.

Những ánh sáng mạnh, ngoài ánh sáng màu trắng ra, nó bao hàm ánh sáng của bảy màu sắc như màu đỏ, vàng chanh, màu vàng, màu xanh lục, xanh lam, màu chàm và màu tím, còn có mấy loại ánh sáng nữa mà mắt thường ta không nhìn thấy được, đó là hồng ngoại tuyến và tử ngoại tuyến, nếu như mắt ta bị kích thích của tử ngoại tuyến nhiều quá, thời gian lại dài thì sữ phương hại đến tế bào tròng đen của mắt, hai mắt sẽ vô cùng nhức nhối, lập tức sẽ không nhìn rõ vật gì nữa vàphải sau vài ba ngày mới dần dần trở lại bình thường được.

Đã biết là ánh sáng quá mạnh rất nguy hại cho mắt, chúng ta cần phải chú ý bảo hộ con mắt. Tốt nhất là không nên làm những việc quá sức lực của mắt dưới ánh sáng quá mạnh, cũng không nên xem sách, đọc báo, viết lách dưới ánh sáng trực tiếp của mặt trời. Nếu mắt bị loá thì phải dùng kính thích hợp để điều chỉnh, nếu đọc sách, viết chữ quá lâu thì thỉnh thoảng nên cho mắt nghỉ ngơi, đi xem những cảnh vật ở xa để giải trừ sự mệt mỏi của mắt. Khi hoạt động dưới ánh sáng mạnh thì có thể đeo một loại kính râm để bảo vệ mắt khỏi bị tổn thương.

Ngoài những nguyên nhân kể trên ra, nếu người nào còn thấy mắt bị sưng, sợ ánh sáng, không đọc sách được lâu, nhìn thấy lờ mờ thì người đó bị loạn thị.

9/ Không nên nằm đọc sách.

Nằm đọc sách rất tổn hại đến thị lực, đó là điều mà mọi người đều đã biết. Song điều nguy hại của việc nằm đọc sách còn xa hơn thế nhiều.

Giường là nơi để cho con người nằm ngủ, nghỉ ngơi, hễ người ta nằm lên giường là người ta hưởng thụ diện tích dẫn lực của trái đất nhiều hơn, từ đó mà bình ổn tỉ lệ tiết tấu sinh lý vốn có của cơ thể con người, đó chính là báo hiệu con người đi vào giấc ngủ. Vậy mà nằm đọc sách khiến cho đại não liên tục bỏ đi những tín hiệu, cưỡng chế cơ thể phải thay đổi tỉ lệ tiết tấu sinh lý. Như vậy, nếu kéo dài sẽ làm cho sự tiết tấu sinh lý của cơ thể mất đi sự cân bằng, dẫn đến bệnh thần kinh suy nhược và bệnh tâm huyết quản.

Có một số người trường kỳ nằm đọc sách, do tiết tấu sinh lýmất đi sự cân bằng mà sinh ra các bệnh tâm thần hoảng loạn, đầu óc nặng nề, tiêu hoá không tốt v.v…Nếu cứ kéo dài thì còn có thể dẫn đến mắc các bệnh như bệnh dạ dày, bệnh thiếu máu v.v…

10/ Không nên ngồi đọc sách ở trên ghế sô-pha lâu quá.

Chỗ ngồi của ghế sô-pha rất thấp, lại có lò so rất mạnh, ngồi lên đó, mông sẽ bị lún xuống, cơ sau ở xương chậu bị căng ra. Lúc đó mà xem sách, nếu hai tay cầm sách nâng cao, tuy lưng, cổ và mắt có cảm thấy thoải mái, nhưng hai vai thì không chịu đựng được lâu, tất nhiên phải hạ thấp xuống để có chỗ dựa. Thế là hai mắt lại phải nhìn xuống, thời gian kéo dài sẽ làm cho cơ mắt phía dưới bị mệt mỏi. Nếu ưỡn thang người lên mà đầu cúi xuống để đọc sách, do tác dụng của trọng lực đầu khiến cho cơ lưng và cổ bị căng ra, phần gáy cũng lại bị căng ra, như vậy trong giải phẫu học người ta gọi là “bị động không đủ”, khiến cho người ta cảm thấy đau lưng mỏi cổ. Ngày tháng kéo dài dễ làm cho xương cổ bị đau. Cho nên nếu xem sách thời gian dài thì nên ngồi trên ghế dựa, tốt nhất là nên để sách ở trên bàn mà đọc. Nên ngồi trên ghế cứng thì tốt, độ cao của ghế nên vừa với tầm chân. Muốn ngồi được thoải mái thì có thể kê một miếng mút làm đệm. Với những người làm việc lâu dài ở bàn giấy thì không nên ngồi trên ghế sô pha, lý do thì như trên đã nói.

11/ Tuyệt đối không nên dùng ngón tay quệt vào lưỡi lấy nước bọt để giở trang sách và đếm tiền.

Tương truyền thời cổ đại, ở nước A có một vị đại tướng quân túc trí đa mưu, trong việc chỉ huy quân đội giao chiến với nước B, đã từng lập được nhiều chiến công, khiến cho quân đội nước B luôn luôn thua trận phải rút lui. Đúng lúc cuộc chiến đấu giữa hai nước đang kịch liệt thì vị tướng lĩnh quan trọng của nước A bị bệnh trong người. Bản thân vị tướng lĩnh này biết rằng mình chẳng còn sống được bao lâu nữa, và đã dự liệu sau khi ông chết thì vị đại tướng quân kia của nước B nhất định sẽ đem quân đến đánh và sẽ truy tìm thi thể và binh thư của ông. Làm thế nào để đối phó với ông ta bây giờ ? Vị tướng lĩnh của nước A này nắm được cái tập quán xấu của vị đại tướng quân nước B là thích dùng ngón tay cái bên phải quệt vào lưỡi lấy nước bọt để giở các trang sách, thế là ông ta bày ra một diệu kế. Quả nhiên, sau khi ông tướng lĩnh nước A chết được ít lâu, vị đại tướng quân nước B liền đem binh mã đến tìm được phần mộ của ông, đào lên tìm hài cốt và binh thư, ông ta không thể chờ đợi được lâu, liền lấy ngay quyển binh thư ra lật từng trang xem. Đúng lúc ông này đang tập trung tinh thần đọc cuốn sách thì bỗng nhiên cảm thấy mắt hoa đầu váng, tim đạp mạnh và buồn nôn, bụng đau dữ dội, chỉ một lát sau là hộc máu, ngã xuống đất và qua đời. Thì ra ông tướng nước A trước khi lâm chung đã để lại di chúc : Đem binh thư chỉnh lý thành sách, sau đó tẩm thuốc độc mạnh vào quyển sách rồi chôn cùng thi hài của ông, để cho đối phương cũng sẽ chết mà không biết hối. Nếu vị đại tướng quân nước B kia không có thói quen xấu là dùng tay quệt vào lưỡi để giở sách thì hoàn toàn có thể tránh được bi kịch này xảy ra.

Trong cuộc sống thường ngày, những người dùng ngón tay quệt lên lưỡi để giở trang sách hoặc đếm tiền, đếm tem phiếu v.v…không phải là ít, thực ra đó cũng là một thói quen xấu, mất vệ sinh. Những người có thói quen xấu này, đại đa số là vô tình đã đưa các loại chất độc và vi sinh vật gây bệnh trực tiếp vào trong mồm mình, dẫn đến trúng độc cấp tính và mắc các loại bệnh tật, nhẹ thì nguy hại đến sức khoẻ, nặng thì nguy cấp đến tính mệnh.

Qua sự nghiên cứu của y học hiện đại đã chứng minh, trên ngón tay một người bình thường, không những chứa đựng hàng triệu con vi trùng gây các loại bệnh mà còn có các loại tế khuẩn vi lượng và các chất độc hoá học Theo kiểm định thì cứ 10 mm2 trang báo thì có 837 – 900 con trực khuẩn đại tràng, trực khuẩn kiết lỵ và trực khuẩn thương hàn, có 2000 con trực khuẩn lao, vi trùng cảm cúm, vi trùng viêm gan v.v… Đặc biệt phát hiện trên các loại sách, báo, tạp chí ở trong thư viện, trong phòng đọc công cộng, do người đọc nhiều, truyền tay nhau nhiều nên ô nhiễm càng nghiêm trọng. Ngay những đồng tiền cũng không sạch sẽ gì, cũng rất không vệ sinh. Bình quân trên mỗi tờ giấy bạc có 18 triệu con vi trùng gây bệnh. Cho nên, sửa đổi ngay cái thói quen mất vệ sinh này đi là vô cùng cần thiết.

12/ Ba điều kiêng kỵ trong việc đọc sách.

Đọc sách là con đường quan trọng để tiếp thu tri thức. Song để thực sự đọc sách được tốt, có thể biến những tri thức trong sách thành chất bổ của mình, cần phải làm được “ba điều không nên” sau đây :

Một là không nên đọc sách kiểu “Chuồn chuồn đạp nước”, đọc láng tráng, nên hiểu biết rất hời hợt. Hai là không nên đọc sách kiểu “Kiến tha mồi”. Do vội vàng vận chuyển, tích trữ, đọc mà không suy nghĩ, ăn mà không tiêu, kết quả thu thập tuy nhiều, song chẳng qua cũng chỉ như lời Lỗ Tấn đã từng nói là “Hai chân tủ sách” mà thôi. Ba là không nên đọc sách kiểu “Bươm bướm hái hoa”, vừa không có mục đích rõ ràng, càng không có ý thức sáng tạo, đọc qua là xong, chẳng phát huy được tác dụng rõ ràng những điều sách viết. Pêken nói rất hay : Đọc sách “Phải như con ong mật, vừa thu thập, vừa chỉnh lý, như vậy mới có thể vắt ra được mật ong thơm ngon bổ ích.”

Bệnh học Viêm tụy cấp

I. Đại cương

Viêm tụy cấp là sự tổn thương tụy cấp tính chức năng có thể phục hồi trở lại bình thường. Viêm tụy cấp có thể tái phát nhiều lần mà không thành Viêm tụy mạn.

1.   Giải phẫu bệnh

Có 4 tổn thương cơ bản: phù nề, xung huyết, hoạt tử và xuất huyết, nhưng khái quát hoá thành 2 loại Viêm tụy cấp:

  • Viêm tụy cấp không hoại tử: hay gặp nhất, tổn thương chủ yếu: phù nề, nhìn tụy láng bóng, sưng to, cương tụ.
  • Viêm tụy cấp hoại tử: loại này nặng: tụy sưng, có nhiều đám xuất huyết, có khi hoại tử như một bọc máu Các tổn thương sau vài giờ lan sang phúc mạc. Sự hoại tử nến (Cystosteatonecrosis) tạo ra những vết màu trắng vàng nhạt như vết nến (thấy ở phúc mạc, quanh thận, lách, dạ dày, gan…)

2.   Các nguyên nhân thường gặp

  • Các tổn thương cơ giới, viêm nhiễm ở ống tụy, ống mật: sỏi mật, sỏi tụy, u gây chèn ép đường mật tụy, viêm bóng Vater, bệnh xơ tụy.
  • Các bệnh nhiễm khuẩn ổ bụng: viêm túi mật, viêm ruột thừa, thương hàn, leptospirose hoặc các bệnh virut (qua bị, viêm gan virut) giun đũa..
  • Do rượu (hay gặp ở các nước Âu, Mỹ).
  • Các chấn thương do chạm mạnh vào bụng, phẫu thuật, nội soi mật tụy.
  • Loét dạ dày, tá tràng ăn sâu vào tụy.
  • Một số thuốc: corticoit, lợi tiểu, thuốc miễn dịch (Azathioprin) thuốc chống thụ thai, các loại thuốc tiêm chủng…
  • Chuyển hoá và nội tiết: cường tuyến cận giáp tăng calci huyết, tăng lipit máu, béo phị, thai nghén, đái đường, xơ mỡ động mạch là những yếu tố thuận lợi
  • Viêm tụy cấp tự phát: chưa rõ nguyên nhân.

3. Cơ chế sinh bệnh

Thuyết được thừa nhận nhiều là: “tụy tạng tự tiêu huỷ”. Tụy là tạng chứa đựng nhiều Enzym tiêu protein ở dạng chưa hoạt động (Proenzym) như trypsinogene, proelastaza, prophospholipaza, Kalicreinogen, v.v… Bình thường chỉ khi dịch tụy vào tới tá tràng, trypsinogen được men Enterokinaza của ruột hoạt hoá thành trypsin và chất trypsin này gây hoạt hoá các proenzym khác. Nếu do những yếu tố điều kiện khác nhau làm cho dịch ruột và men Enterokinaza hồi lưu trong ống tụy hoặc các độc tố, tình trạng nhiễm virus, thiếu máu cục bộ, giảm oxy mô chấn thương trực tiếp vào tụy… trypsinogen và các proenzym khác dược hoạt hoá ngay trong mô tụy sẽ xây ra “tụy tạng tự tiêu hoá” (autodigestion) tức là Viêm tụy cấp. Các enzyn tụy được kích hoạt tiêu hoá các màng tế bào, thuỷ phân các protein, thương tổn mạch máu, phù nề chảy máu, hoại tử tế bào nhu mô tụy và hoại tử mỡ. Thêm vào đó là chất bradykinin và histamin được các tế bào giải phóng ra làm tăng thêm tính thấm mạch và phù nề. Các rối loạn này xảy ra dồn dập và tổng hợp lại quá mức sẽ dẫn đến viêm tụy cấp hoại tử.

Ngoài cơ chế sinh bệnh nêu trên, người ta còn nêu thêm các yếu tố: giải phẫu, vận mạch, rối loạn thần kinh thể dịch tụy, rối loạn chuyển hoá, dị ứng, nhiễm khuẩn…

II. Triệu chứng học

A. Triệu chứng lâm sàng

1. Cơ năng

Đau bụng

  • Vị trí: đau thượng vị.
  • Tính chất:

. Đau dữ dội đột ngột (sau bữa ăn thịnh soạn: 15 – 25 %) kéo dài, không dứt cơn.

. Có khi đau quặn như sỏi mật.

. Nôn cũng không hết đau.

. Đau lan ra sau lưng, lên ngực.

  • Kèm theo đau: vật vã, lăn lộn, vã mồ hôi…

(Vì sao đau: – Tổn thương viêm, xung huyết tác động vào lưới thần kinh thụ cảm của tụy. – Sự đè ép vào đám rối dương do tụy to, do phù nề. – Do tăng áp lực trong ống tụy và ống Wirsung. – Dịch tụy tràn ra gây tổn thương mạc nối lớn, bé, màng bụng, ống gan).

Nôn mửa (70%)

  • Xảy ra sau khi đau bụng.
  • Nôn dai dẳng, kịch liệt, khó cầm.
  • Nôn ra dịch mật, nôn ra máu (nôn ra máu là nặng).
  • Nôn gây ra mất nước và điện giải.
  • Không bao giờ nôn ra phân (phân biệt với tắc ruột).

Chướng bụng, bí trung đại tiện. Có khi ỉa lỏng 5% (Nayera et Brown).

2. Thực thể

Nghèo nàn kín đáo mâu thuẫn với dấu hiệu cơ năng.

  1. Bụng chướng nhẹ ấn đau, nhưng vẫn mềm, 40-50% có thấy phản ứng thành bụng nhẹ, ít co cứng thành bụng thực sự (10-20%) có điểm Mayo – Robson đau, hoặc hạ sườn trái đau (dấu hiệu Mallet Guy).
  2. Nhu động ruột thường giảm hoặc mất (do liệt ruột).
  3. Trường hợp Viêm tụy cấp hoại tử nặng có thể thấy dấu hiệu da đặc biệt:
  • Thấy các vết màu xanh nhạt quanh rốn (dấu hiệu Cullen).
  • Thấy vết da xanh tím, nâu xanh ở hai bên mạn sườn (dấu hiệu Tumer). Các vết da có màu do chảy máu và dị hoá hemoglobin trong ổ bụng.
  • Da mặt màu đỏ hoặc nâu xám (do Kalicrein tiết vào máu)
  • Có khi vàng da (do hoại tử gan, hoặc chèn ép ống mật)

3.  Dấu hiệu toàn thân (thường biểu hiện nặng)

Hoảng hốt lo sợ, có khi ngất do quá đau, có khi trạng thái tâm thần mê sảng (rối loạn não tủy) tiên lượng xấu.

Biểu hiện sốc mức độ vừa hoặc nặng:

  • Mặt tái, chân tay lạnh, toát mồ hôi.
  • Mạch yếu, nhanh, huyết áp tụt.
    1. Sốt 38oC, hoặc cao hơn (39 – 40oC).
    2. Một số trường hợp có biểu hiện thận (50%, Sernard).
  • Huyết áp cao tạm thời vài ngày đầu sau giảm dần.
  • Đái ít, vô niệu.
  • Xét nghiệm: có HC, BC, trụ hạt và protein niệu. Có thể có urê máu tăng.

(Sernard giải thích: do sốc, máu qua thận ít. Do trypsin vào máu đến thận làm tổn thương cầu thận).

B. Triệu chứng xét nghiệm

  1. Định lượng Amylaza máu và nước tiểu, tăng từ 5 – 200 lần bình thường Amylaza trở lại bình thường sau 4 – 8 ngày. Tăng Amylaza niệu chậm hơn nhưng kéo dài hơn tăng Amylaza máu. Amylaza cũng tăng trong dịch màng bụng, dịch phế mạc do Viêm tụy cấp gây

2.   Các xét nghiệm máu khác

  • Lipaza máu: tăng kéo dài vài ngày (gần giống Amylaza)
  • BC tăng nhất là BC đa nhân trung tính.
  • Đường máu tăng cao (tiên lượng nặng).
  • Lipit máu tăng (Bt 4 – 7g/l)
  • Canxi máu giảm (bình thường 2, 35 – 2,65 mmol/1, sau 48 giờ Ca giảm nặng (Ca++bị giữ ở các thương tổn làm cho Ca++ huyết hạ, hoại tử mỡ càng rộng thì Ca++ càng hạ thấp).
  • Xét nghiệm methhemoglobin trong huyết thanh tăng cao trên 5mg% là một dấu hiệu của thể hoại tử.
  • Urê máu tăng, Bilirubin, phosphataza kiềm, SGOT tăng tạm thời vài ngày.

3.   Nước tiểu

  • Có thể có đường niệu.
  • Amylaza tăng sau

– Có thể có HC, trụ hạt, protein niệu.

4. X – quang

  • Hai dấu hiệu (-):

. Không có liềm hơi.

. Không có mức nước, mức hơi.

  • Viêm tụy cấp có thể thấy: chướng hơi đại tràng, dạ dày tá tràng. Có thể thấy sỏi túi mật.
  • Chụp dạ dày có thuốc:

. Khung tá tràng dãn rộng

. Nếp niêm mạc thô dày. Dạ dày bị đẩy ra trước, có hình răng cưa.

5. Siêu âm: cho thấy tụy to, có tràn dịch quanh tụy, cho biết sỏi mật, tụy.

6.   Tính chỉ số

Clearance amylase = Amylase urin x Creatini serum x 100
Clearance creatinine Amylase serum Creatinin urin

Nếu lớn hơn 5% là Viêm tụy cấp

7.   Soi ổ bụng

  • Thấy dịch ổ bụng màu hồng.
  • Thấy các vết nến ở màng bụng, ruột.

III. Chẩn đoán

A.   Chẩn đoán xác định

  1. Đau bụng đột ngột (sau bữa ăn tươi), nôn không đỡ, chướng bụng, sốc.
  2. XQ: quai ruột đầy hơi, giãn Không liềm hơi, mức nước.
  3. Amylaza máu và nước tiểu tăng cao trên 5 lần mức thường. Tỷ số:
Clearance amylase = Amylase urin x Creatini serum x 100
Clearance creatinine Amylase serum Creatinin urin

Lớn hơn 5 %

  1. SOB: thấy vết nến.
  2. SA: Tụy to, nhu mô giảm âm.

B. Chẩn đoán phân biệt

  1. Thủng ổ loét dạ dày
  • Có tiền sử DD hoặc không.
  • Đau lăn lộn, không sốc.
  • Co cứng bụng, mất vùng đục trước
  • XQ: có liềm hơi.

(Khi thủng vào tụy tạng mổ ra mới biết được).

2.   Tắc ruột

  • Đau bụng, nôn (có thể nôn ra phân).
  • Có quai ruột nổi, bí trung đại tiện.
  • XQ: có mức nước, mức hơi.

3.   Cơn đau bụng gan

  • Có tam chứng Charcot (có khi không)
  • SOB: biết viêm ở đâu.
  • Siêu âm: phát hiện sỏi, u, áp

4.   Viêm phúc mạc

  • Có hội chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc.
  • Co cứng toàn bụng, khó thở.
  • Có phản ứng thành bụng.
  • Thăm trực tràng: Douglas đau.
    1. Nhồi máu trong ổ bụng: (hiếm).
  • Đau dữ dội đột ngột.
  • Trên người bệnh có hẹp lỗ van hai lá (RM).
  • Đau bụng từng cơn, có ỉa ra máu.
  • SOB, mổ thăm dò mới rõ được.

6.   Nhồi máu cơ tim

  • Đau thắt ngực điển hình.
  • ĐTĐ: có nhồi máu cơ tim (Q sâu, T dẹt)
  • Khi Viêm tụy cấp mà Ca++có hình ảnh QT dài, T thấp, dẹt.
  • Kết hợp khám tim và ĐTĐ để chẩn đoán.

C.   Chẩn đoán thể bệnh

  1. Viêm tụy cấp thể phù nề: hay gặp, thể nhẹ:
  • Đau bụng vừa phải, nằm yên tĩnh được.
  • Tình trạng chung ít thay đổi, không bị choáng.
  • Không nôn, không có phản ứng thành bụng.
  • Chẩn đoán nhờ: Amylaza máu cao trên 5 lần.

2.   Viêm tụy cấp thể hoại tử, xuất huyết

  • Tình trạng nặng, đau bụng dữ dội, sốc.
  • Bụng căng cứng, có phản ứng thành bụng, cắt cơn đau khó khăn.
  • Tử vong: 25 – 30%.
  • Chẩn đoán nhờ mổ, hoặc giải phẫu thi thể. (Đại thể: tụy hoại tử chảy máu nặng).

3.   Viêm tụy cấp nung mủ

  • Đau bụng, co cứng bụng, liệt ruột.
  • Hội chứng nhiễm trùng muộn hơn, sau vài ngày.
  • Chẩn đoán sau phẫu thuật.

(Đại thể: tụy có nhiều ổ mủ bằng đầu kim, trắng, vàng, khu trú vùng đầu tụy có khi gây áp xe dưới cơ hoành).

4.   Các thể lâm sàng theo tiến triển của bệnh

  • Thể tối cấp:

. Bệnh cảnh nặng ngay từ đầu: đau dữ dội, nôn nhiều.

. Sốc nặng, trụy tim mạch, tử vong sau 1 – 2 ngày.

  • Thể cấp tính:

. Các triệu chứng như Viêm tụy cấp mô tả ở trên.

. Trạng thái tốt dần, xét nghiệm trở lại bình thường dần.

. Sau 3 – 5 ngày khỏi hoàn toàn, có thể có biến chứng, tử vong 10%.

  • Thể tái diễn hay hồi qui (pancreatite aigue récurente):

. Có các cơn Viêm tụy cấp tái phát nhiều lần

. Điều trị khỏi, ít tử vong.

. Sau khi khỏi lại tái phát, thường nhẹ.

  • Thể không điển hình:

. Hay gặp.

. Đến khám bệnh vì:

  • Một cấp cứu nội khoa: đau thượng vị, sốc, li bì, vật vã.
  • Có hội chứng suy thận cấp: đái ít, vô niệu, Ure máu tăng.
  • Đau thắt ngực, rối loạn tiêu hoá, chướng bụng.
  • Một cấp cứu ngoại: tắc ruột, viêm phúc mạc, VRT, khi mổ mới rõ.

IV. Tiến triển, biến chứng

A. Tiến triển

  1. Viêm tụy cấp: Tuy có nhiều tiến bộ về hồi sức, song vẫn là một bệnh nặng trong những ngày đầu (tử vong 20 – 40% số ca).

– ở giai đoạn sớm:

. Viêm tụy cấp hoại tử xuất huyết: tử vong 60%.

. Viêm tụy cấp phù nề: tử vong 10%.

Lý do tử vong: sức nặng, chảy máu, suy thận, Ca++  máu hạ Amylae, Glucose tăng.

  • Giai đoạn muộn hơn: tử vong do bội nhiễm thêm.
  1. Sau vài ba ngày bệnh lui dần. Vẫn cần đề phòng tái phát.

B. Biến chứng

  1. Biến chứng tại chỗ: sau 2 – 3 tuần xuất hiện một đám viêm ổ bụng.
    1. Viêm tấy (phlegmon), áp xe hoặc u nang giả (pseudokyste) do dịch tụy chảy vào một ổ hoại tử nhu mô tụy.
    2. U nang giả không có bờ thành riêng, về sau bọc bởi vỏ xơ. Kích thước (có thể 20 – 24cm), nang nhỏ có thể mất đi (cần theo dõi bằng siêu âm).
    3. Có thể có cổ trướng do tụy, hoặc biến chứng ở một cơ quan lân cận với tụy như chảy máu nặng trong ổ bụng, huyết khối, tắc ruột, rò tụy.

2.   Biến chứng xa, hệ thống

  1. Suy thận cấp.
  2. Tràn dịch phế mạc, suy hô hấp cấp.
  3. Biến chứng tim mạch: tụt HA, ngừng tim đột ngột, thay đổi ST,
  4. Rối loạn tâm thần.
  5. Chảy máu đường tiêu hoá, đông máu rải rác trong lòng mạch…
  6. Mù đột ngột do tắc mạch võng mạc (bệnh võng mạc Purtshur).

V.  Điều trị

A. Nội khoa

  1. Nguyên tắc
    1. Điều trị sớm.
    2. Tích cực.
    3. Phải theo dõi chặt chẽ.

2.   Đơn cụ thể

a.   Chế độ nuôi dưỡng

  • Hạn chế ăn tuyệt đối (diète abselue):

. Hút dạ dày tá tràng chỉ áp dụng khi nôn nhiều, giãn dạ dày.

. Điều chỉnh thể dịch: nước (trung bình 2,51/24h), cân bằng điện giải (8 – 12g Clorua natri, 1 – 2g clorua kali, calci, ma giê), bảo đảm một phần năng lượng bằng THN ưu trương.

. Từ ngày 4 – 8 phải cho ăn uống trở lại một cách tuần tự tăng dần. ở các thể nặng có rò phải cho chế độ “ăn” dinh dưỡng cao bằng ngoài đường tiêu hoá.

b.   Chống đau và chống sốc

  • Chống đau.

Dolosal (viên 25mg, ống 2ml: 0,l0g). Uống: 1 lần 1 viên cho 1 – 3 lần/24h.

Tiêm bắp hoặc dưới da: 1 lần 1 – 2ml cho 1 – 3 lần/24h.

(Tác dụng giảm đau nhưng không gây ra co thắt cơ oddi. Biệt dược: Pethidin, Lidol, Dolsin, Dolcontral, Dolargan).

  • Procain hoặc Novocain (dd l%): 40 – l00ml pha với dung dịch tiêm truyền.
  • Phóng bế thần kinh tạng (infiltration splanchique) phía bên trái, hoặc cả hai bên thắt lưng: Novocain dd 0,25%: 50 -100 ml.

Các thuốc liệt hạch (Haxamethinium – largactil hoặc hỗn hợp gây liệt: Largactil – phenergan Dolosal), thận trọng vì hạ huyết áp.

  • Chống sốc:

. Duy trì khối lượng tuần hoàn: dịch truyền nước, điện giải truyền huyết tương, albumin, máu tươi.

. Cocticoid (methylprednisolon tiêm tĩnh mạch liều cao giảm dần ở các trường hợp nặng. Nếu Viêm tụy cấp không có sốc không được cho cocticoid).

  • Phối hợp: Isupreterenol (Isuprel: Mỹ), aleudrine (Pháp), Snoner (Nhật) tác dụng kích thích thụ cảm thể Bêta adrenengic cấp cứu trụy tim mạch, sốc (viên: 5 – 10 -20mg ) ống Chlohydrat, sulfat: lml: 0,2 – 0,5ml).

Hòa: 1 – 5 ống (0,2mg) với 500ml Nacl dd 0,9% hoặc HTN 5%. Liều dùng: từ 0,2mg – 4mg/24h.

Chống chỉ định suy mạch vành, bệnh cao huyết áp, xơ cứng mạch não…

  • Dùng Prednisolon: 30 – 40mg/24h, trong thời gian nhất định. Depersolon (ống lml chứa 30mg kèm l00mg Urethan trong dung dịch nước Propylenglycol): dùng chống sốc: 30 – 90mg (1 – 3 ống) nhỏ giọt tĩnh mạch. Qua giai đoạn cấp cho uống prednisolon liều giảm dần.

c.   Chống nhiễm khuẩn

  • Chloramphenycol (Chlorocide): 2g/24h chia nhiều lần uống.
  • Ampicilin 1 – 1,5/24h.
  • Methicilin: 4 – 3g/24h chia 4 – 6 lần tiêm bắp sâu. Tiêm tĩnh mạch: lg hòa 5ml nước cất hoặc HTL 5%, Nacl 0,9% 250ml nhỏ giọt tĩnh mạch.

d. ức chế tiết dịch tụy: ngoài nhịn ăn, hút dịch dạ dày có thể cho:

  • Bromatropin: l/4g x 1 – 2 ống tiêm dưới da/24h.
  • Cimetidin, acetazolanid, somatostatin (đắt tiền), ..

e.   Chống hoại tử tế bào tụy

  • Trasylol (Đức), hoặc Zymofren (Pháp): ống 2,5ml chứa 2500 KI (Kallicraein – Inactivator – Einheiten) hoặc l0 ml chứa 000 KI hoặc 5 ml: 5000KI. (Là một polypeptid gồm 58 acid min đặc hiệu có tác dụng làm mất hoạt tính Kallicrein, trypsin, chymotrypsin, fibrolysin, plasmin).
  • Viêm tụy hoại tử cấp tiêm tĩnh mạch chậm 000 – 800.000 U, tiếp tục như vậy 100 000 U trong 3 – 5 h. Các ngày sau cũng tiêm như trên cho tới khi có kết quả tốt.
  • Octreotide (Sandostatin): ống lml octreotide acétate: 50mcg hoặc 100 mcg/1 ống. Tác dụng ức chế bài tiết dịch tụy nội tiết isnulin, glucagon và polypeptide tụy, ức chế bài tiết dịch tụy ngoại. Dùng trong viêm tụy cấp và mạn.

Liều ngày tiêm dưới da 1 ống khi nào đỡ thì ngừng.

  • Chlortetracylin(Aureomycin của Pháp), Biomycin(Bun) viên 0,5-0,25. Liều dùng: 0, 1 – 0,2 mỗi lần, 5 – 6 lần cách đều /24h x 6 – 10 ngày. (Tác dụng vừa là KS vừa là ức chế men lipase).

B.   Ngoại khoa

Chỉ định:

  • Trường hợp chẩn đoán chưa chắc chắn viêm tụy cấp với một cấp cứu ngoại
  • Mổ để dẫn lưu dịch tụy khi đọng lại ở hậu cung mạc nối.
  • Nếu có sỏi giun trong ống mật chủ, mổ lấy sỏi, giun, dẫn lưu ống mật.
  • Nếu có giun trong ống wirsung mổ tá tràng lấy giun và dẫn lưu ống wirsung (dẫn lưu ống Wirsung ngay cả khi không có giun).
  • Điều trị biến chứng: khi có u nang.
  • Khi viêm tụy hoại tử mổ cắt tụy hoặc dẫn lưu.

Huyệt Du Phủ – vị trí, tác dụng, xác định ở đâu

Du Phủ

Tên Huyệt:

Thận khí từ dưới chân đi lên đến ngực thì tụ ở huyệt này, vì vậy gọi là Du Phủ (Trung Y Cương Mục).

Xuất Xứ:

Giáp Ất Kinh

Đặc Tính:

Huyệt thứ 27 của kinh Thận.

Huyệt nhận được 1 mạch phụ của Xung Mạch và phân nhánh chạy đến huyệt Liêm Tuyền (Nh.23).

Vị Trí huyệt:

Ở chỗ lõm giữa bờ dưới xương đòn và xương sườn 1, cách đường giữa ngực 2 thốn, ngang huyệt Toàn Cơ (Nh.21).

Giải Phẫu:

Dưới da là cơ bám da cổ, cơ ngực to, cơ dưới đòn, cơ ức – móng, cơ ức giáp, đỉnh phổi.

Thần kinh vận động cơ là các nhánh cơ bám da cổ của dây thần kinh mặt, dây ngực to và dây dưới đòn của đám rối thần kinh cánh tay, các nhánh của quai thần kinh sọ não số XII.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh C3.

Chủ Trị:

Trị ho suyễn, nôn mửa, ngực đầy tức.

Phối Huyệt:

1. Phối Linh Khư (Th.24) + Thần Khuyết (Nh.8) + Cự Khuyết (Nh.14) trị nôn mửa, ngực đầy (Thiên Kim Phương).

2. Phối Thần Khuyết (Nh.8) trị ho nghịch, suyễn (Thiên Kim Phương).

3. Phối Nhũ Căn (Vị 18) trị ho đờm, suyễn (Tư Sinh Kinh).

4. Phối Thần Tàng (Th.25) + Thiên Phủ (Phế 3) trị suyễn, khó thở (Tư Sinh Kinh).

5. Phối Đản Trung (Nh.17) + Phế Du (Bàng quang.13) + Thiên Đột (Nh.22) + Túc Tam Lý (Vị 36) trị ho, suyễn (Châm Cứu Đại Thành).

6. Phối Đản Trung (Nh.17) + Hợp Cốc (Đại trường.4) + Khuyết Bồn (Vị 12) + Liệt Khuyết (Phế 7) + Phù Đột (Đại trường.18) + Thập Tuyên + Thiên Đột (Nh.22) + Thiên Song (Tiểu trường.16) + Trung Phủ (Phế 1) trị 5 loại anh khí (Châm Cứu Đại Thành).

Cách châm Cứu:

Châm xiên 0, 3 0, 5 thốn. Cứu 3 – 5 tráng, Ôn cứu 5 – 10 phút.

Ghi Chú: Không châm sâu vì bên dưới là đỉnh phổi.

Tham Khảo:

“Nhũ ung: châm A Thị Huyệt + Du Phủ (Th.27) + Đại Lăng (Tâm bào.7) + Đản Trung (Nh.17) + Thiếu Trạch (Tiểu trường.1) + Ủy Trung (Bàng quang.40) ” (Châm Cứu Cứu Đại Thành).

Hướng dẫn cách sơ cứu đuối nước

Các Dấu Hiệu Đuối Nước

Một người đang đuối nước sẽ trông như thế nào? Họ có thể sẽ:

  • Im lặng: Không có hơi thở dư thừa để gọi giúp đỡ.
  • Nổi lên và chìm xuống: Miệng của họ có thể chìm dưới mặt nước, nổi lên đủ để thở, rồi lại chìm xuống.
  • Cánh tay cứng đơ: Thay vì vẫy tay để cầu cứu, người đang đuối nước có thể dang tay sang hai bên. Tay họ có thể đè xuống nước để nổi lên. Họ có thể không thể với tay để nắm lấy phao cứu sinh.
  • Bất động: Cơ thể họ có thể thẳng đứng, gần như như đang đứng trong nước. Bạn sẽ không thấy họ đá chân hay vung tay.

Một người đang đuối nước chỉ có thể giữ tư thế này trong khoảng 20-60 giây. Nếu bạn không đến kịp thời, họ sẽ bắt đầu chìm. Bạn có thể bỏ lỡ cơ hội cứu giúp nếu không biết điều gì đang xảy ra.

Biết bơi là rất quan trọng. Nhưng ngay cả những người bơi giỏi cũng có thể đuối nước, và điều đó có thể xảy ra rất nhanh. Không bao giờ rời mắt khỏi trẻ em khi chúng ở trong nước. Bạn phải theo dõi chúng mọi lúc. Và không chỉ ở những vùng nước lớn. Trẻ nhỏ có thể đuối nước trong bồn tắm nước nóng, bồn tắm, ao trang trí, xô, và thậm chí trong bồn cầu.

Phương pháp hồi sức ép tim ngoài lồng ngực
Phương pháp hồi sức ép tim ngoài lồng ngực

Gọi 115 Nếu:

  • Có người đang đuối nước.
  • Một đứa trẻ gặp vấn đề về hô hấp hoặc đã ngừng thở do ở dưới nước. (Hãy nhớ rằng trẻ em có thể đuối nước trong chỉ 1 inch nước.)
  • Một đứa trẻ đã trải qua một tình huống gần như đuối nước.

Sơ Cứu Đuối Nước

Nếu một người lớn đang gặp rắc rối, hãy làm theo các bước sau. Hãy nhớ rằng những hướng dẫn này không nhằm thay thế cho việc đào tạo CPR. Các lớp học luôn được tổ chức bởi Hội Chữ thập đỏ Mỹ, bệnh viện địa phương và các nhóm khác.

  1. Gọi giúp đỡ.
    Thông báo cho một nhân viên cứu hộ, nếu có. Nếu không, hãy yêu cầu ai đó gọi 115.
    Nếu bạn đang ở một mình, hãy làm theo các bước dưới đây.
  2. Di chuyển người đó.
    Nhanh chóng và an toàn đưa người đó ra khỏi nước.
  3. Kiểm tra xem họ có tỉnh táo không.
    Gọi lớn để nhận phản hồi. Gõ nhẹ vào vai họ. Gọi lớn thêm lần nữa.
  4. Nếu họ không phản ứng, hãy đặt họ nằm ngửa trên một bề mặt cứng.
  5. Bắt đầu CPR.
    Hướng dẫn CPR đã thay đổi trong những năm gần đây. Các chữ cái C-A-B (nén, đường thở, thở) có thể giúp bạn nhớ những gì cần làm. Bắt đầu nén ngực:
  • Quỳ bên cạnh cổ và vai của người đó.
  • Đặt gót bàn tay một tay lên giữa ngực họ tại đường núm vú. Đặt tay còn lại lên trên. Giữ thẳng cánh tay.
  • Ấn xuống mạnh, ít nhất 2 inch. Sử dụng toàn bộ trọng lượng cơ thể của bạn.
  • Thực hiện nén ngực với tốc độ 100-120 lần mỗi phút. (Hãy cố gắng theo nhịp bài hát “Staying Alive” của nhóm Bee Gees.) Để ngực họ tự hồi phục hoàn toàn giữa mỗi lần ấn.
  • Tiếp tục cho đến khi người đó bắt đầu cử động hoặc có sự trợ giúp đến. Hoặc, nếu bạn được đào tạo CPR, bạn có thể mở đường thở của họ và bắt đầu thở nhân tạo (miệng-to-miệng hoặc miệng-to-mũi) sau 30 lần nén.

Mở đường thở của họ:

  • Đặt một lòng bàn tay lên trán của người đó và nghiêng đầu họ ra phía sau.
  • Dùng tay kia để nhẹ nhàng nâng cằm của họ lên.

Thở cho họ:

  • Bịt mũi họ lại.
  • Đặt miệng bạn lên miệng họ. Tạo một độ kín chặt.
  • Thở vào miệng họ trong 1 giây. Quan sát xem ngực họ có nhô lên không.
  • Nếu ngực họ nhô lên, hãy thở thêm một lần nữa. Nếu không, hãy nghiêng đầu họ ra phía sau và nâng cằm họ lên một lần nữa. Sau đó, lặp lại hơi thở của bạn. Hãy cẩn thận không thở quá mạnh.
  • Tiếp tục với 30 lần nén ngực nữa, tiếp theo là 2 lần thở nhân tạo. Theo dõi mẫu này cho đến khi người đó bắt đầu cử động hoặc có sự trợ giúp đến.

Sơ Cứu Đuối Nước cho Trẻ Em và Bé Sơ Sinh

Đối với một đứa trẻ hoặc bé sơ sinh:

  • Cẩn thận đặt chúng nằm ngửa trên một bề mặt cứng.

Bắt đầu nén ngực:

  • Đối với một trẻ nhỏ, bạn có thể chỉ cần sử dụng một tay lên giữa ngực chúng tại đường núm vú. Đối với một bé sơ sinh, hãy đặt cả hai ngón tay cái, cạnh nhau, ở giữa ngực chúng. Đặt các ngón tay còn lại của bạn quanh lưng để hỗ trợ.
  • Giữ thẳng cánh tay.
  • Ấn xuống mạnh và nhanh – ít nhất 2 inch cho trẻ nhỏ và chỉ 1,5 inch cho bé sơ sinh.
  • Giữ nhịp độ khá nhanh, với tốc độ 100-120 lần mỗi phút (giống như đối với người lớn).
  • Bắt đầu thở nhân tạo sau 30 lần nén ngực.

Mở đường thở của họ:

  • Nghiêng đầu họ ra phía sau và nhẹ nhàng nâng cằm. Đối với một bé sơ sinh, hãy cẩn thận không nghiêng đầu quá xa ra sau.
  • Đối với một trẻ lớn hơn, bịt mũi lại và đặt miệng bạn lên miệng chúng, tạo thành một độ kín chặt. Đối với bé sơ sinh, hãy đặt miệng bạn lên cả mũi và miệng của chúng.
  • Thổi trong 1 giây. Hãy cẩn thận không thổi quá mạnh. Đối với bé sơ sinh, bạn nên thổi nhẹ nhàng, không thổi sâu.
  • Nếu ngực chúng nhô lên, hãy thổi lần thứ hai.
  • Nếu ngực không nhô lên, nghiêng đầu ra phía sau và nâng cằm một lần nữa. Sau đó, lặp lại lần thở thứ hai.
  • Như với người lớn, hãy thở 2 lần cho mỗi 30 lần nén ngực.
  • Tiếp tục cho đến khi có sự giúp đỡ đến hoặc trẻ em hoặc bé sơ sinh bắt đầu cử động.

Nếu có hai người có thể thực hiện CPR, hãy cho một đến hai lần thở nhân tạo sau 15 lần nén ngực. Sau đó, hãy thay phiên nhau.

Nếu bạn không cảm thấy thoải mái khi thực hiện thở nhân tạo, hãy chỉ thực hiện nén ngực cho đến khi có sự trợ giúp đến. Nếu bạn chưa được đào tạo CPR, bạn có thể lo lắng rằng bạn sẽ làm sai. Nhưng bất kỳ loại sự giúp đỡ nào cũng tốt hơn không có giúp đỡ.

Thuốc Bitolterol mesylate

Tên chung: bitolterol mesylate

Tên thương mại: Tornalate (đã ngừng sản xuất)

Nhóm thuốc: Agonist thụ thể beta-2-adrenergic

Bitolterol mesylate là gì và được sử dụng để làm gì?

Bitolterol là một thuốc giãn phế quản được sử dụng trong điều trị bệnh hen suyễn. Nó tương tự như albuterol (Ventolin).

Hen suyễn là một rối loạn về hô hấp trong đó có sự thu hẹp của các đường dẫn khí mang không khí đến phổi, bao gồm cả phế quản. Sự thu hẹp này do co thắt cơ và viêm trong các đường dẫn khí gây ra. Bitolterol giúp thư giãn các cơ trơn xung quanh các đường dẫn khí này, làm tăng đường kính và do đó làm dễ dàng hơn cho không khí lưu thông qua các đường dẫn khí.

Bitolterol có thể không ảnh hưởng đến tình trạng viêm trong phổi, dù là do hen suyễn hay các rối loạn viêm phổi khác như viêm phế quản. Tuy nhiên, nếu có co thắt các đường dẫn khí do viêm phế quản, bitolterol có thể là liệu pháp hữu ích cho thành phần hen suyễn của bệnh. Bitolterol đặc biệt ở chỗ nó là một “tiền thuốc.” Nó phải được cơ thể chuyển đổi thành dạng hoạt động của nó trước. Bitolterol có tác dụng nhanh (2-5 phút), và tác dụng của nó có thể kéo dài lên đến 6-8 giờ.

Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê duyệt bitolterol vào tháng 12 năm 1984.

Cảnh báo

Không được sử dụng bitolterol mesylate cho trẻ em, vì tính an toàn của thuốc này đối với trẻ em dưới 12 tuổi chưa được xác định.

Tác dụng phụ của bitolterol mesylate là gì?

Các tác dụng phụ của bitolterol bao gồm:

  • lo âu
  • run tay
  • đau đầu
  • hồi hộp
  • nhịp tim nhanh
  • huyết áp tăng
  • buồn nôn
  • chóng mặt
  • ợ nóng
  • chảy máu mũi

Các tác dụng phụ hiếm gặp của bitolterol bao gồm:

  • phản ứng dị ứng, có thể biểu hiện dưới dạng
    • phát ban
    • mề đay
    • sưng
    • sốc phản vệ
    • sốc

Sự trầm trọng của bệnh tiểu đường và hạ kali máu cũng đã được báo cáo. Trong một số bệnh nhân hiếm gặp, bitolterol dạng hít có thể gây ra co thắt phế quản đe dọa tính mạng một cách nghịch lý.

Liều lượng cho bitolterol mesylate là gì?

Liều khuyến nghị cho người lớn trong điều trị hen suyễn là 2 lần hít mỗi 8 giờ. Liều tối đa là 2 lần hít mỗi 4 giờ hoặc 3 lần hít mỗi 6 giờ. Thuốc này không được phê duyệt sử dụng cho trẻ em dưới 12 tuổi.

Các thuốc tương tác với bitolterol mesylate là gì?

Các thuốc chống trầm cảm ba vòng (ví dụ: amitriptyline [Elavil, Endep]), và các chất ức chế monoamine oxidase (ví dụ: tranylcypromine) không nên kết hợp với bitolterol do tác dụng cộng gộp của chúng lên hệ thống mạch máu (tăng huyết áp, nhịp tim, v.v.). Nên để trôi qua hai tuần giữa việc điều trị bằng bitolterol và thuốc chống trầm cảm ba vòng hoặc thuốc ức chế monoamine oxidase.

Việc sử dụng bitolterol với các thuốc kích thích khác không được khuyến khích do tác dụng cộng gộp của chúng lên nhịp tim, huyết áp, và nguy cơ gây đau ngực ở bệnh nhân có bệnh động mạch vành tiềm ẩn.

Các thuốc chẹn beta, chẳng hạn như propranolol (Inderal, Inderal LA), sẽ chặn tác dụng của bitolterol và có thể gây ra co thắt phế quản ở bệnh nhân hen suyễn. Bitolterol có thể gây hạ kali máu (mức kali thấp). Do đó, việc kết hợp bitolterol với các thuốc lợi tiểu quai, chẳng hạn như furosemide (Lasix), vốn làm giảm mức kali trong máu, có thể làm tăng khả năng hạ kali máu.

Mang thai và cho con bú

Chưa biết liệu bitolterol có được bài tiết trong sữa mẹ hay có bất kỳ rủi ro tiềm tàng nào cho thai nhi khi được sử dụng cho phụ nữ mang thai.

Tôi cần biết thêm điều gì về bitolterol mesylate?

Tôi có cần đơn thuốc để sử dụng bitolterol mesylate không?
Có.

Các dạng bào chế của bitolterol mesylate có sẵn là gì?

  • Bình xịt: 0.37 mg/mỗi lần hít;
  • Dung dịch để hít: 0.2%.

Tôi nên bảo quản bitolterol mesylate như thế nào?Bitolterol nên được bảo quản ở nhiệt độ phòng, từ 15°C đến 30°C (59°F đến 86°F).

Tóm tắt

Bitolterol mesylate là một loại thuốc được kê đơn để điều trị co thắt phế quản do hen suyễn và các bệnh hô hấp khác. Các tác dụng phụ của bitolterol bao gồm lo âu, run tay, đau đầu, hồi hộp, nhịp tim nhanh, huyết áp cao, buồn nôn, chóng mặt, ợ nóng và chảy máu mũi. Bitolterol mesylate không được sử dụng cho trẻ em dưới 12 tuổi. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Bệnh Ebstein

Định nghĩa

Bệnh tim bẩm sinh có đặc điếm là chỗ bám của van ba lá trong tâm thất phải không binh thường, ở vị trí thấp, thường có thông liên nhĩ kết hợp.

Triệu chứng

  • Dấu hiệu lâm sàng: tím tái kín đáo, khó thở, có các cơn nhịp nhanh trên thất, nghe thấy tiếng thổi tâm thu ở mỏm tim, cường độ tăng lên trong thì thở vào, tiếng ngựa phi đầu thì tâm trương và/hoặc trước thì tâm thu.
  • X quang: bóng mờ của tim rộng ra do tâm nhĩ phải phì đại rõ rệt. Giảm tuần hoàn phổi. Chụp mạch thấy tâm nhĩ phải rất to, và tâm thất phải nhỏ, kém cản quang.
  • Điện tâm đồ: ở các đạo trình ngoại vi, các sóng có hiệu điện thế thấp với bloc nhánh phải (phức hợp rsr’ ở đạo trình VI). Sóng p rộng và nhọn. Khoảng P- R dài ra hoặc ngược lại khoảng P-R ngắn lại với hội chứng Wolff-Parkinson-White. Điện tâm đồ ghi với điện cực ở trong tim cho thấy đường ghi nghịch thường typ tâm thất.
  • Siêu âm tim: có thể thấy chỗ bám không bình thường của van ba lá và các chuyển động của tâm thất phải có biên độ không bình thường.

Tiên lượng

Thời gian sống thêm hiếm khi vượt quá 40 tuổi.

Điều trị

Phẫu thuật hiệu chỉnh dị tật này còn đang trong giai đoạn thử nghiệm và có tỷ lệ tử vong cao.

Những kiêng kỵ về sinh hoạt của người già

Người già không nên dùng hố xí xổm.

Có rất nhiều người già hoặc người bị bệnh cao huyết áp, thường hay bị trúng gió ở trong nhà xí. Nhẹ thì hôn mê bất tỉnh, bị liệt nửa người, nặng thì dẫn đến tử vong. Nguyên nhân là do khi đại tiện ngồi xổm, huyết áp bỗng cao vọt lên gây ra.

Bởi vì người già khi ngồi xổm thì những động mạch quản ở thành bụng gấp khúc nhỏ hơn 400 , huyết quản ở chi dưới bị cong nghiêm trọng, việc lưu thông máu bị trở ngại, thêm vào đó lại phải rặn mạnh, sức ép ở bụng tăng cao, làm cho huyết áp tăng lên đột ngột, gây nên tình trạng huyết quản ở ngực bị đứt, từ đó mà xảy ra tai biến mạch máu não. Nếu khi đại tiện bằng xí bệt thì chân gấp khoảng 900 thì sẽ không gây trở ngại cho máu lưu thông, huyết áp sẽ không tăng cao, tâm thần yên ổn, mới không xảy ra tai biến mạch máu não.

Không nên đố kỵ người khác

Những người hay ghen tỵ người khác, đại bộ phận đều có hiện tượng khẩu vị không ngon, thực dục kém, tâm thần giảm sút, hiệu suất công tác kém, hay thở dài buồn bực v.v… thời gian kéo dài, sẽ sớm xuất hiện sự già yếu.

Bởi vì ghen tuông là một loại bệnh thái tâm lý. Nó không chỉ là biểu hiện của sự kém ăn, của bệnh trạng tâm thần mà trong cơ thể con người cũng có hàng loạt thay đổi về sinh lý bệnh lý. Hệ thống vành ngực khu dưới của người ta và những bộ phận lân cận tồn tại hai trung khu tinh thần là “khoái lạc” và “đau khổ”. Ghen tỵ sẽ kích thích trung khu “đau khổ”, sẽ dẫn đến việc tăng phân tiết tuyến thượng thận, mạch máu vành ngoài co hẹp lại, cơ bắp bị rệu rã, hoạt động của tuyến tiêu hoá giảm sút, số nhịp thở bị thay đổi v.v… Cho nên để đề phòng bệnh tật, đề phòng già yếu không nên ghen tỵ người khác. Trong việc sinh ra bách bệnh, thì việc ghen tỵ người khác lại là trừng phạt chính mình.

Mùa đông không nên mặc quần áo quá dày

Để đề phòng rét buốt và đề phòng bệnh tật, có một số người cho rằng mùa đông càng mặc áo dày càng tốt. Trên thực tế như vậy là có hại.

Bởi vì đối với sự thay đổi của môi trường, con người ta có một khả năng thích ứng nhất định, lợi dụng việc mặc áo cho ấm là để bổ sung cho sự thiếu hụt về khả năng thích ứng đó. Nếu lại mặc quá nhiều quần áo sẽ làm cho không khí trong cơ thể hình thành một vi tiểu khí hậu nhiệt độ cao, độ ẩm cao, trở lực toả nhiệt, toả hơi ẩm cuả cơ thể tăng lên, từ đó mà ảnh hưởng đến việc điều giải sự cân bằng nhiệt; khi mà độ dày của tầng không khí ở trong quần áo vượt quá 15 mm, thì không khí đối lưu sẽ tăng lên, việc toả nhiệt tăng cao, ngược lại tính giữ nhiệt sẽ bị giảm xuống; mặc quần áo quá dày sẽ ức chế cơ năng điều tiết nhiệt độ trong người, làm giảm sút khả năng chống rét của cơ thể. Ngoài ra mặc quần áo quá nhiều trông nó lụ khụ, cử động không thuận tiện, cũng tiêu hao thể lực nhiều hơn. Cho nên mùa đông không nên mặc quần áo quá dày.Tóc bạc

Người đứng tuổi không nên nghiện rượu và thuốc lá

Đại đa số những người mắc bệnh tâm huyết quản đều có liên quan đến hút thuốc lá.

Bởi vì trường kỳ uống rượu quá độ, lớp mỡ ở trong cơ tim tăng lên, công năng của buồng tim giảm sút, buồng tim trở nên to ra. Những người uống nhiều rượu bia càng dễ xuất hiện sự thay đổi buồng tim như thế này. Men rượu có thể ảnh hưởng đến sự chuyển hoá mỡ, thúc đẩy gan hoạt động, khiến cho khả năng thanh lọc mỡ ở trong máu của cơ thể bị giảm sút, tăng thêm việc xơ cứng động mạch và tạo cơ hội cho bệnh tim phát triển. Cho nên người đứng tuổi không nên uống rượu, hút thuốc lá đến trở thành nghiện ngập.

Người già không nên ăn chất có nhiều prôtêin

Nói chung, chất prôtêin rất có ích cho sức khỏe của con người. Nhưng, đối với người già mà nói, dùng nhiều chất prôtêin cao quá thì lại có hại cho sức khỏe.

Bởi vì ăn uống chất prôtêin cao có thể làm tăng việc bài tiết lượng canxi ở trong cơ thể, nhất là đối với những người già vốn đã thiếu chất canxi, vì tăng lượng bài tiết canxi nên rất dễ dẫn đến bệnh xốp xương. Người bị bệnh xốp xương thì cứ hơi hoạt động là đã cảm thấy đau lưng. Ngoài ra công năng thận của đa số người già thường bị suy yếu, khi chất prôtêin vào cơ thể quá nhiều thì buồng thận phải gánh vác quá nặng, dễ dẫn đến bị hư công năng thận. Cho nên, người già không nên ăn uống nhiều thực phẩm có chất prôtêin cao, mỗi ngày chỉ nên ăn khoảng 50 gam prôtêin là vừa.

Người đứng tuổi không nên ăn thức ăn tinh dài ngày

Người đứng tuổi mà không ăn những thức ăn thô, chỉ ăn toàn những gạo trắng, bột mì trắng là không thoả đáng.

Bởi vì trong lớp vỏ của hạt gạo (tức là cám) có rất nhiều nguyên tố vi lượng quan trọng và thực vật xen-luy-lô. Ví dụ như crôm và măng-gan, nếu sau khi gia công tinh chế thì chất lượng sẽ giảm đi rất nhiều. Nếu thiếu hai loại nguyên tố này thì sẽ dễ sinh ra xơ cứng động mạch. Thực vật xen-luy-lô sẽ tăng cường việc bài tiết chất cholestêrin, làm giảm bớt chất cholestêrin trong máu. Những thực vật tinh tế quá, chất xen-luy-lô ít quá thì ăn rồi vẫn cảm thấy không no bụng, cho nên thường hay ăn thêm, ăn thêm nữa, do đó mà sinh ra béo phì. Như vậy huyết quản sẽ sơ cứng, bệnh cao huyết áp sẽ phát triển nhiều hơn. Cho nên, những người đứng tuổi không nên ăn thức ăn tinh dài ngày.Dấu hiệu bệnh tim

Người đứng tuổi không nên khảnh ăn.

Người khảnh ăn thường không hấp thu đầy đủ chất dinh dưỡng cho cơ thể.

Nếu ăn ít rau xanh, thiếu chất lục diệp, sẽ sinh ra thiếu vitamin C. Vì vitamin C có thể làm giảm cholestêrin, giảm bớt hoặc phòng ngừa bệnh xơ cứng động mạch. Nếu ăn ít thực phẩm làm từ đậu đỗ thì không thể làm tăng sự bài tiết cholestêrôn ở trong phân ra được. Nếu thấy hành, tỏi có mùi hôi mà không ăn, thì chắc do không biết rằng hành tỏi có tác dụng giảm chất mỡ trong máu rất tốt. Cho nên con người ta đến tuổi trung niên thì không nên khảnh ăn.

Người đứng tuổi không nên ăn nhiều thức ăn béo và ngọt

Nếu ăn quá nhiều mỡ động vật và thịt mỡ hoặc những thực vật có chất cholestêrôn có thể gây ra hàng loạt bệnh như tăng chất mỡ ở trong máu chẳng hạn.

Vì thích ăn nhiều của ngọt, cơ thể hấp thu quá nhiều chất đường, phần dư thừa ấy sẽ chuyển hoá thành mỡ, mỡ trong máu cũng sẽ tăng lên, cơ hội tắc động mạch cũng nhiều hơn. Ngoài ra đường còn có tác dụng tăng cường sự hợp thành giữa buồng gan và mỡ. Bình thường người nào ăn nhiều đường thì sau 3 tuần lễ chất glyxêrin trong máu tăng lên gấp đôi. Cho nên , người đứng tuổi không nên ăn nhiều chất béo và ngọt.

Người già không nên quá trầm tư về dĩ vãng

Người già suốt ngày sống trong những kỷ niệm xưa cũ, thở vắn than dài thương cảm, tất nhiên sẽ tăng thêm cảm giác u tịch, cô đơn và tâm thần u uất.

Vì những trạng thái tâm lý tiêu cực như vậy sẽ tăng thêm gánh nặng cho đại não, dễ dẫn đến mệt mỏi về tâm lý rồi gây ra cảm giác chán chường, còn có thể dẫn đến tình trạng rối loạn công năng đại não hoặc công năng hệ thống thần kinh, từ đó mà xuất hiện tâm trạng lo âu, buồn rầu, tự ti, thậm chí còn có thể dẫn đến tâm trạng mất hết dũng khí và lòng tin vao cuộc sống. Đồng thời với tâm thái như vậy, các loại bệnh tật sẽ nhân cơ hội này mà xâm nhập vào cơ thể như các bệnh cao huyết áp, bệnh quán tâm, bệnh hen xuyễn, đái đường, bệnh xơ cứng động mạch, bệnh ung thư, thậm chí còn có thể gây ra bệnh trì độn ở người già. Cho nên người già không nên quá ư triền miên với dĩ vãng.

Người giảm béo không nên ăn bột hạt cải

Bột hạt cải là một loại gia vị có chất cay. Mùa hè làm món sa-lát mà cho một chút bột hạt cải vào thì sẽ thơm ngon hơn lên. Nhưng người muốn giảm béo mà ăn bột hạt cải thì không có lợi cho việc giảm béo.

Bởi vì trong bột hạt cải có một chất hoá học, có thể kích thích niêm mạc dạ dày, gây ra quá nhiều chất vị toan, làm cho người ta cảm thấy đói, luôn mồm thèm ăn. Kết quả là người đang muốn giảm bớt mức ăn thì ngược lại lại ăn nhiều hơn, việc giảm béo bị thất bại. Cho nên người muốn giảm béo thì không nên ăn bột hạt cải.

Chỉ mồ hôi ra nửa người – Triệu chứng bệnh Đông y

Khái niệm

Ra mồ hôi nửa người là chỉ chứng chỉ ra mồ hôi nửa người hoặc bên phải, hoặc bên trái.

Chứng này đầu tiên xuất xứ từ Nội kinh. Thiên Sinh khí thông thiên luận – Tố vấn có nói “Ra mồ hôi nửa người làm cho người ta thiên khố. Chứng này thường phát sinh ở tật bệnh Trúng phong hoặc cơ năng ở một tạng phủ nào đó bị giảm sút.

Mục này giới thiệu mồ hôi ra nửa người, còn trường hợp mồ hôi ra nửa phần trên hoặc nửa phần dưới cơ thể không nói ở mục này. Xin tham khảo ở các mục hữu quan.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Mồ hôi ra nửa người do khí huyết suy hư: Có chứng ra mồ hôi nửa người, biếng nói, hụt hơi, mệt mỏi vô lực, sắc mặt xanh nhợt không tươi, đầu choáng, mắt hoa, chân tay tê dại, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch Tế Nhược.
  • Mồ hôi ra nửa người do hàn thấp tê nghẽn: Cóchứng mồ hôi ra nửa người, gân mạch co rút vì đau, chântay co duỗi hạn chế, chân tay mình mẩy nặng nề, thậm chí khó xoay chuyển, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Nhu hoặc Trì.
  • Mồ hôi ra nửa người do Doanh Vệ bất hòa: chứng mồ hôi ra nửa người, phát sốt, đau đầu, ố phong, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch Hoãn Nhược.

Phân tích

  • Chứng mồ hôi ra nửa người do khí huyết suy hư: Phần nhiều do mệt nhọc tổn thương quá mức, ốm lâu không được nuôi dưỡng hoặc mất huyết qua nhiều là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khí huyết suy lớn và bất túc không chu lưu toàn thân, khi ra mồ hôi thường chỉ ra nửa người. Sách Trung y lâm chứng bị yếu có nói “Ra mồ hôi nửa người bên tả hoặc bên hữu phần nhiều do khí huyết không bền”. Yếu điểm biện chứng là: ngoài triệu chứng ra mồ hôi nửa người còn thêm các chứng trạng khí huyết bất túc như sắc mặt không tươi, mệt mỏi vô lực, chân tay tê dại, mạch Tế Nhược. Điều trị theo phép bổ cả khí và huyêt chọn dùng phương Nhân sâm dưỡng vinh thang.
  • Chứng mồ hôi ra nửa người do hàn thấp tê nghẽn:

Phần nhiều do hàn thấp xâm phạm tê nghẽn một bên kinh lạc, khí huyết vận hành bị trở ngại, sự mở đóng của tấu lý không điều hòa, bên mắc bệnh ra mồ hôi. Yếu điểm biện chứng là: ra mồ hôi nửa người, gân mạch đau và co rút, chân tay co duỗi hạn chế, chân tay mình mẩy nặng nề, rêu lưỡi trắng nhớt. Điều trị theo phép ôn tán hàn thấp, hoạt huyết thông lạc, chọn dùng phương Quyên tý thang gia Tế tân, chế Xuyên ô hoặc dùng Tiểu Hoạt lạc đan cho nuốt.

  • Chứng mồ hôi ra nửa người do Doanh Vệ bất hòa:

Nguyên nhân của chứng này hoặc là do cảm nhiễm phong tà, hoặc là do mệt nhọc nội thương khí huyết không điều dẫn đến Doanh Vệ không hòa, tự ra mồ hôi. Loại trên thường gặp nhiều hơn cả, lâm sàng biện chứng cụ thể là: Do ngoại cảm gây bệnh thường kiêm các triệu chứng phát sốt, đau đầu, Ố phong. Do nội thương gây nên không nhất thiết phải phát sốt nhưng mồ hôi ra nửa người, gân mạch toàn thân khó chịu, hoạt động hạn chế. Nguyên tắc điều trị là điều hòa Doanh Vệ mà đại biểu là bài Quế chi thang.

Chứng mồ hôi ra nửa người nguyên nhân chung là do sự vận hành khí huyết của hai bên cơ thể không tương xứng gây nên cơ chế bệnh hoặc là do tà khí nghẽn trở hoặc là do khí huyết bê tắc. Ba chứng giới thiệu trên đây qua đặc điểm cơ chế bệnh biểu hiện lâm sàng có thể phân biệt được. Điều cần phải chỉ ra là lứa tuổi 50 trở lên mà xuất hiện chứng ra mồ hôi nửa người cần phải điều trị kịp thời để tránh cảm nhiễm phong tà, chú ý làm lụng nghỉ ngơi thích đáng ngăn chặn phát sinh Trúng phong.

Trích dẫn y văn

Mùa Hạ chỉ ra mồ hôi nửa người đều do khí huyết không đầy đủ, bên trong lại có hàn ẩm gây nên, đó là dấu hiệu báo trước sẽ bị thiên khô hoặc tuổi trời không thọ nên dùng Thập toàn đại bổ liều cao hoặc các phương Nhân sâm dưỡng vinh, Đại Kiến trung thang gia thêm các vị thông kinh tiêu đờm mà điều trị. Nếu nguyên khí tạm thời ổn định thì dùng gián tiếp một thang Tiểu Tục mệnh thang để khai phát phần biểu hoặc là dùng Phòng kỷ Hoàng kỳ thang gia Xuyên khung để tan bỏ thấp tà. Chứng này tuy thuộc huyết hư nhưng phải cẩn thận không được dùng Tứ vật là thuốc âm để tránh tình trạng làm vít lấp kinh lạc xảy ra sự cố khác (Trương thị ỵ thông – Quyển 9).

Thuốc chống trầm cảm Bupropion/naltrexone

Tên chung: bupropion/naltrexone

Tên thương hiệu: Contrave

Nhóm thuốc: Thuốc chống trầm cảm, Chất ức chế tái hấp thu dopamine; Chất đối kháng opioid

Bupropion/naltrexone là gì và được sử dụng để làm gì?

Bupropion/naltrexone là một loại thuốc kết hợp được sử dụng để quản lý cân nặng mãn tính ở người lớn thừa cân và béo phì, cùng với việc tăng cường hoạt động thể chất và chế độ ăn giảm calo. Bupropion và naltrexone được sử dụng riêng lẻ để điều trị các tình trạng khác, nhưng khi kết hợp lại thì dùng trong quản lý cân nặng để giảm cảm giác thèm ăn và tăng tiêu hao năng lượng. Bupropion là thuốc chống trầm cảm được dùng để điều trị trầm cảm và hỗ trợ cai thuốc lá, trong khi naltrexone là chất đối kháng opioid được sử dụng để điều trị sự phụ thuộc vào opioid và rượu.

Bupropion và naltrexone có tác động lên các vùng não điều chỉnh cảm giác thèm ăn và tiêu hao năng lượng, cũng như hệ thống khen thưởng củng cố những hành vi mang lại khoái cảm.

Bupropion là chất ức chế tái hấp thu dopamine, làm tăng mức dopamine và norepinephrine trong não, hai chất hóa học (chất dẫn truyền thần kinh) liên quan đến điều hòa cảm giác thèm ăn và tiêu hao năng lượng, ngoài nhiều chức năng khác. Naltrexone liên kết với các thụ thể opioid và ngăn chặn phản hồi từ hệ thống khen thưởng củng cố hành vi ăn uống quá mức.

Bupropion làm tăng mức dopamine và norepinephrine trong não bằng cách ngăn chặn sự tái hấp thu của chúng, một quá trình bình thường trong não. Dopamine kích thích các tế bào thần kinh (nơron) gọi là nơron pro-opiomelanocortin (POMC) trong vùng dưới đồi, giúp giảm cảm giác thèm ăn và tăng tốc độ trao đổi chất cũng như tiêu hao năng lượng. Naltrexone liên kết với các thụ thể opioid trong nơron POMC, ngăn chặn sự ức chế phản hồi của các nơron này và tăng cường thêm hoạt động của chúng.

Bupropion/naltrexone được FDA phê duyệt là thuốc hỗ trợ cho chế độ ăn giảm calo và tăng cường hoạt động thể chất để quản lý cân nặng mãn tính ở người lớn có chỉ số khối cơ thể (BMI) ban đầu là:

  • 30 kg/m² trở lên (béo phì) hoặc
  • 27 kg/m² trở lên (thừa cân) cùng với ít nhất một bệnh lý liên quan đến thừa cân như tăng huyết áp, tiểu đường type 2 hoặc rối loạn mỡ máu.

Cảnh báo

Không sử dụng bupropion/naltrexone cho bệnh nhân có bất kỳ tình trạng nào sau đây:

  • Huyết áp cao không kiểm soát (tăng huyết áp)
  • Rối loạn co giật hoặc tiền sử co giật
  • Rối loạn ăn uống như chán ăn tâm thần hoặc ăn uống vô độ, vì có thể làm tăng nguy cơ co giật
  • Không sử dụng bupropion/naltrexone cho bệnh nhân bị dị ứng đã biết với bupropion, naltrexone hoặc bất kỳ thành phần nào của thuốc. Có báo cáo về phản ứng dị ứng nghiêm trọng (phản vệ/phản vệ kiểu anaphylactoid) và phản ứng da đe dọa tính mạng như hội chứng Stevens-Johnson khi sử dụng bupropion. Khuyên bệnh nhân ngừng điều trị và báo cáo nếu họ phát triển bất kỳ phản ứng quá mẫn nào.
  • Không sử dụng bupropion/naltrexone cho phụ nữ mang thai. Cảnh báo phụ nữ về nguy cơ giảm cân của mẹ đối với thai nhi nếu thuốc được sử dụng trong thai kỳ hoặc phụ nữ mang thai trong khi sử dụng thuốc này.
  • Không sử dụng bupropion/naltrexone đồng thời với các sản phẩm khác có chứa bupropion.
  • Không sử dụng bupropion/naltrexone cho bệnh nhân sử dụng opioid mãn tính, chất chủ vận opioid, hoặc chất chủ vận một phần opioid, hoặc những người đang trong quá trình cai nghiện opioid cấp tính.
  • Không sử dụng bupropion/naltrexone đồng thời hoặc trong vòng 14 ngày sau khi điều trị bằng thuốc chống trầm cảm thuộc nhóm ức chế monoamine oxidase (MAOI) hoặc các MAOI có thể đảo ngược khác như linezolid hoặc methylene blue tiêm tĩnh mạch, vì có thể làm tăng nguy cơ các cơn tăng huyết áp.
  • Không sử dụng bupropion/naltrexone cho bệnh nhân ngừng đột ngột rượu, benzodiazepine, barbiturate hoặc thuốc chống động kinh.
  • Bupropion là thuốc chống trầm cảm và các thuốc chống trầm cảm, bao gồm bupropion, được biết là làm tăng nguy cơ suy nghĩ và hành vi tự tử, đặc biệt là ở trẻ em và thanh niên được điều trị cho chứng rối loạn trầm cảm chính.
  • Sự kết hợp bupropion/naltrexone không được phê duyệt để điều trị rối loạn trầm cảm hoặc các rối loạn tâm thần khác.
  • Bupropion/naltrexone không được phê duyệt cho bệnh nhân nhi.
  • Kê đơn số lượng nhỏ nhất để giảm nguy cơ quá liều và tự tử.
  • Theo dõi tất cả bệnh nhân chặt chẽ về sự xuất hiện của các ý nghĩ hoặc hành vi tự tử, đặc biệt trong giai đoạn đầu của điều trị và trong các thay đổi liều.
  • Cảnh báo bệnh nhân và gia đình/care givers về nguy cơ tự tử. Khuyên gia đình và caregivers theo dõi bệnh nhân về sự xuất hiện của lo lắng, kích động, cáu kỉnh hoặc bất kỳ thay đổi bất thường nào trong hành vi và báo cáo ngay lập tức.
  • Các triệu chứng tâm thần kinh nghiêm trọng bao gồm trầm cảm và hưng cảm, loạn thần, ảo giác, hoang tưởng, ảo tưởng, thù địch, kích động, hung hăng, ý tưởng giết người, lo âu, hoảng loạn và ý tưởng hoặc hành vi tự tử đã được báo cáo với việc sử dụng bupropion như một chất hỗ trợ cai thuốc lá.
  • Bupropion/naltrexone không được phê duyệt để sử dụng như một chất hỗ trợ cai thuốc lá.
  • Theo dõi bệnh nhân về phản ứng tâm thần kinh và khuyên họ báo cáo các triệu chứng này ngay lập tức.
  • Tự tử và trầm cảm đã được báo cáo với việc sử dụng naltrexone trong điều trị sự phụ thuộc vào opioid, mặc dù chưa thiết lập được mối quan hệ nhân quả.

Việc sử dụng bupropion có nguy cơ gây co giật liên quan đến liều lượng. Xem xét các yếu tố nguy cơ co giật của bệnh nhân trước khi bắt đầu điều trị bằng bupropion/naltrexone. Tuân thủ nghiêm ngặt các khuyến nghị về liều dùng để giảm nguy cơ co giật. Ngừng bupropion/naltrexone nếu bệnh nhân bị co giật trong quá trình điều trị.

Sử dụng bupropion/naltrexone thận trọng ở bệnh nhân có các tình trạng làm tăng nguy cơ co giật, bao gồm:

  • Tiền sử chấn thương đầu hoặc co giật trước đó, đột quỵ nặng, dị dạng động tĩnh mạch, khối u hoặc nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương, hoặc các rối loạn chuyển hóa như hạ đường huyết, hạ natri máu, suy gan nặng, và thiếu oxy.
  • Lạm dụng rượu hoặc thuốc an thần quá mức, nghiện cocaine hoặc các chất kích thích, hoặc cai nghiện thuốc an thần.
  • Bệnh nhân tiểu đường được điều trị bằng insulin và/hoặc các thuốc tiểu đường uống (sulfonylurea và meglitinide) có thể gây hạ đường huyết.
  • Sử dụng đồng thời các loại thuốc có thể làm giảm ngưỡng co giật, bao gồm các sản phẩm bupropion khác, thuốc chống loạn thần, thuốc chống trầm cảm ba vòng, theophylline, và corticosteroid toàn thân.

Không sử dụng bupropion/naltrexone cho bệnh nhân đang điều trị opioid dài hạn vì naltrexone là chất đối kháng opioid. Nếu cần điều trị opioid mãn tính, hãy ngừng bupropion/naltrexone. Nếu cần điều trị opioid ngắt quãng, hãy tạm thời ngừng bupropion/naltrexone. Có thể cần liều opioid thấp hơn, vì bệnh nhân có thể nhạy cảm hơn với opioid ngay cả ở liều thấp, sau khi ngừng naltrexone.

Cảnh báo bệnh nhân không nên cố gắng vượt qua sự chặn opioid của naltrexone bằng cách sử dụng liều lớn opioid vì điều này có thể dẫn đến quá liều đe dọa tính mạng hoặc gây tử vong. Bệnh nhân phụ thuộc opioid nên ngừng sử dụng opioid ít nhất 7 đến 10 ngày đối với opioid tác dụng ngắn (bao gồm tramadol) và ít nhất 2 tuần nếu chuyển từ buprenorphine hoặc methadone.

Bupropion/naltrexone có thể làm tăng nhịp tim lúc nghỉ và huyết áp. Đánh giá nhịp tim và huyết áp trước khi bắt đầu điều trị và tránh kê đơn cho bệnh nhân có huyết áp cao không kiểm soát được. Ở bệnh nhân có huyết áp cao được kiểm soát, cần theo dõi huyết áp và nhịp tim thường xuyên trong suốt quá trình điều trị.

Naltrexone có liên quan đến tổn thương gan và viêm gan. Đánh giá bệnh nhân có triệu chứng tổn thương gan và ngừng bupropion/naltrexone trong trường hợp viêm gan cấp tính. Khuyên bệnh nhân báo cáo kịp thời bất kỳ triệu chứng liên quan đến gan nào.

Bupropion, giống như các loại thuốc chống trầm cảm khác, có thể gây ra các giai đoạn hưng cảm, hỗn hợp hoặc hưng cảm nhẹ, và nguy cơ cao hơn ở bệnh nhân mắc rối loạn lưỡng cực hoặc có nguy cơ mắc rối loạn lưỡng cực. Sàng lọc bệnh nhân có tiền sử rối loạn lưỡng cực và các yếu tố nguy cơ liên quan. Bupropion/naltrexone không được phê duyệt để điều trị trầm cảm lưỡng cực.

Sử dụng thận trọng ở bệnh nhân có góc hẹp trong mắt, làm chậm quá trình thoát dịch. Việc sử dụng bupropion có thể gây giãn đồng tử, có thể kích hoạt cơn đóng góc.

Giảm cân có thể làm tăng nguy cơ hạ đường huyết nguy hiểm ở bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường type 2 được điều trị bằng insulin và/hoặc các thuốc kích thích tiết insulin như sulfonylurea. Đánh giá mức đường huyết ở bệnh nhân tiểu đường trước khi bắt đầu điều trị với bupropion/naltrexone, theo dõi trong quá trình điều trị và điều chỉnh liều thuốc chống tiểu đường khi cần thiết.

Các tác dụng phụ của bupropion/naltrexone bao gồm:

Tác dụng phụ thường gặp:

  • Buồn nôn
  • Nôn mửa
  • Táo bón
  • Khô miệng
  • Tiêu chảy
  • Đau bụng trên
  • Viêm dạ dày ruột do virus
  • Đau bụng
  • Rối loạn vị giác (dysgeusia)
  • Đau đầu
  • Chóng mặt
  • Mất ngủ
  • Lo âu
  • Cáu kỉnh
  • Cơn nóng bừng
  • Ra mồ hôi nhiều (hyperhidrosis)
  • Mệt mỏi
  • Run rẩy
  • Cúm
  • Nhiễm trùng đường tiểu
  • Ù tai (tinnitus)
  • Tăng nhịp tim
  • Tăng huyết áp
  • Huyết áp quá cao (tăng huyết áp)
  • Hồi hộp
  • Phát ban
  • Căng cơ

Tác dụng phụ ít gặp:

  • Nhịp tim nhanh (tachycardia)
  • Nhồi máu cơ tim
  • Đau bụng dưới
  • Ợ hơi
  • Thoát vị
  • Máu trong phân (hematochezia)
  • Sưng môi
  • Viêm túi mật (cholecystitis)
  • Nhiễm trùng tụ cầu khuẩn
  • Viêm phổi
  • Nhiễm trùng thận
  • Tiểu gấp
  • Mất nước
  • Khát nước
  • Cảm giác nóng
  • Tăng mức creatinine trong máu
  • Tăng men gan
  • Giảm hematocrit
  • Đau hàm
  • Thoát vị đĩa đệm
  • Say xe
  • Chóng mặt
  • Lethargy (uể oải)
  • Yếu (asthenia)
  • Run khi cố ý
  • Rối loạn thăng bằng
  • Cảm giác chóng mặt (presyncope)
  • Ngất (syncope)
  • Rối loạn chú ý
  • Suy giảm trí nhớ
  • Mất trí nhớ (amnesia)
  • Suy giảm tinh thần
  • Cảm giác bồn chồn
  • Cảm giác bất thường
  • Lo lắng
  • Căng thẳng
  • Kích động
  • Tâm trạng thay đổi
  • Giấc mơ bất thường
  • Tình trạng mất kết nối với thực tại (dissociation)
  • Lo âu
  • Trầm cảm
  • Rối loạn giấc ngủ
  • Rụng tóc (alopecia)
  • Kinh nguyệt không đều
  • Chảy máu âm đạo
  • Khô âm đạo
  • Rối loạn cương dương
  • Ý tưởng và hành vi tự tử
  • Co giật
  • Phản ứng quá mẫn, bao gồm:
    • Phản ứng dị ứng hoặc phản ứng kiểu dị ứng nghiêm trọng (phản ứng phản vệ)
    • Phản ứng da nghiêm trọng (hội chứng Stevens-Johnson)
    • Tăng nhãn áp góc đóng ở bệnh nhân có góc hẹp trong mắt

Gọi bác sĩ ngay lập tức nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng nào sau đây trong quá trình sử dụng thuốc này:

  • Các triệu chứng tim nghiêm trọng bao gồm tim đập nhanh hoặc mạnh, cảm giác rung trong lồng ngực, khó thở, và chóng mặt đột ngột;
  • Đau đầu dữ dội, lú lẫn, nói ngọng, yếu nghiêm trọng, nôn mửa, mất phối hợp, cảm giác không vững vàng;
  • Phản ứng nghiêm trọng của hệ thần kinh với các triệu chứng như cơ bắp rất cứng, sốt cao, đổ mồ hôi, lú lẫn, nhịp tim nhanh hoặc không đều, run rẩy, cảm giác có thể ngất xỉu;
  • Các triệu chứng mắt nghiêm trọng bao gồm mờ mắt, thị giác ống, đau hoặc sưng mắt, hoặc nhìn thấy quầng sáng quanh đèn.

Đây không phải là danh sách đầy đủ về tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra khi sử dụng thuốc này. Hãy gọi cho bác sĩ của bạn để được tư vấn y tế về các tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc phản ứng bất lợi.

Liều dùng của bupropion/naltrexone

Viên nén giải phóng kéo dài

  • 90 mg/8 mg

Người lớn:

Dùng trong điều trị béo phì
Chỉ định làm hỗ trợ cho chế độ ăn giảm calo và tăng cường hoạt động thể chất trong quản lý cân nặng mãn tính ở người lớn, dựa trên chỉ số khối cơ thể (BMI) ban đầu và các yếu tố nguy cơ:

  • BMI 30 kg/m² trở lên (béo phì), hoặc
  • BMI 27 kg/m² trở lên (thừa cân) kèm theo ít nhất một bệnh lý liên quan đến cân nặng (ví dụ: tăng huyết áp, tiểu đường type 2, rối loạn lipid máu)

Tăng liều:

  • Tuần 1: 1 viên uống vào mỗi buổi sáng
  • Tuần 2: 1 viên vào mỗi buổi sáng và 1 viên vào mỗi buổi tối
  • Tuần 3: 2 viên vào mỗi buổi sáng và 1 viên vào mỗi buổi tối
  • Tuần 4 trở đi: 2 viên vào mỗi buổi sáng và 2 viên vào mỗi buổi tối
  • Không vượt quá tổng liều hàng ngày là 360 mg bupropion/32 mg naltrexone (tức là 2 viên 2 lần mỗi ngày)

Điều chỉnh liều:

  • Kết hợp với các chất ức chế CYP2B6 (ví dụ: ticlopidine hoặc clopidogrel): Không vượt quá 1 viên hai lần mỗi ngày
  • Suy gan:
    • Nhẹ đến vừa: 2 viên (1 viên mỗi buổi sáng và tối)
    • Suy gan nặng: Không khuyến cáo
  • Suy thận:
    • Nhẹ: Chưa nghiên cứu
    • Vừa đến nặng: Không vượt quá 1 viên hai lần mỗi ngày
    • Bệnh thận giai đoạn cuối: Không khuyến cáo

Cân nhắc về liều:

  • Cần theo dõi đáp ứng lâm sàng trong 3 tháng điều trị.
  • Ngừng điều trị nếu không có giảm cân có ý nghĩa lâm sàng (5% trở lên) sau 3 tháng; các chiến lược quản lý cân nặng khác cần được xem xét.
  • Hiệu quả trên bệnh lý tim mạch chưa được xác định.
  • An toàn và hiệu quả khi sử dụng kết hợp với các sản phẩm giảm cân khác, bao gồm thuốc không kê đơn và các chế phẩm thảo dược, chưa được xác định.
  • Không sử dụng trong vòng 14 ngày sau khi dùng thuốc ức chế monoamine oxidase (MAOI) cho bệnh trầm cảm.

Khuyến cáo giảm nguy cơ co giật:

  • Thành phần bupropion có thể làm tăng nguy cơ co giật.
  • Không vượt quá 360 mg bupropion (4 viên mỗi ngày).
  • Chia liều hàng ngày thành 2 lần.
  • Tăng liều dần dần.
  • Không uống quá 2 viên cùng một lúc.
  • Tránh uống với các bữa ăn nhiều chất béo.
  • Nếu bỏ lỡ liều, đợi đến liều kế tiếp để tiếp tục uống thuốc theo lịch trình bình thường.

Trẻ em:

  • An toàn và hiệu quả chưa được xác định.

Quá liều

Chưa có kinh nghiệm lâm sàng về quá liều bupropion/naltrexone.

Tác dụng phụ nghiêm trọng từ quá liều bupropion/naltrexone có thể liên quan đến quá liều bupropion.

Các triệu chứng quá liều bupropion có thể bao gồm co giật, ảo giác, mất ý thức, nhịp tim nhanh (tachycardia), thay đổi điện tâm đồ (ECG) như rối loạn dẫn truyền điện, hoặc nhịp tim không đều.

Quá liều nghiêm trọng có thể gây ra nhiều cơn co giật không kiểm soát, nhịp tim chậm (bradycardia), suy tim và ngừng tim, dẫn đến tử vong.

Khi bupropion là một phần của các trường hợp quá liều đa thuốc, các triệu chứng có thể bao gồm sốt, cứng cơ, phân hủy cơ (rhabdomyolysis), huyết áp thấp (hypotension), ngất, hôn mê, và suy hô hấp.

Naltrexone quá liều: Một nghiên cứu nhỏ với liều hàng ngày 800 mg naltrexone (gấp 25 lần liều khuyến cáo) trong 1 tuần không cho thấy dấu hiệu độc tính.

Các nghiên cứu động vật với liều cao của naltrexone gây ra triệu chứng như chảy dãi, trầm cảm/giảm hoạt động, run rẩy, và co giật.

Không có thuốc giải độc cho quá liều bupropion/naltrexone. Quá liều có thể được điều trị bằng cách hỗ trợ và chăm sóc triệu chứng, bao gồm duy trì đường thở, oxy hóa và thông khí, và theo dõi dấu hiệu sinh tồn và nhịp tim.

Tương tác thuốc với bupropion/naltrexone

Hãy thông báo cho bác sĩ về tất cả các thuốc bạn đang sử dụng, để bác sĩ có thể tư vấn cho bạn về các tương tác thuốc có thể xảy ra. Không bao giờ bắt đầu, ngừng hoặc thay đổi liều của bất kỳ thuốc nào mà không có sự chỉ định của bác sĩ.

Tương tác nghiêm trọng với bupropion/naltrexone gồm:

  • Eliglustat
  • Isocarboxazid
  • Phenelzine
  • Pimozide
  • Rasagiline
  • Selegiline
  • Selegiline dạng miếng dán
  • Tranylcypromine

Bupropion/naltrexone có ít nhất 20 loại tương tác nghiêm trọng với các thuốc khác.

Bupropion/naltrexone có ít nhất 66 loại tương tác vừa phải với các thuốc khác.

Bupropion/naltrexone có ít nhất 19 loại tương tác nhẹ với các thuốc khác.

Các tương tác thuốc nêu trên không phải là tất cả các tương tác có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin, hãy tham khảo công cụ Kiểm tra Tương tác Thuốc trên RxList.

Hãy luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ, hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về tất cả các thuốc kê đơn và thuốc không kê đơn bạn đang sử dụng, cũng như liều dùng của từng loại, và giữ một danh sách thông tin này. Hỏi ý kiến bác sĩ nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về thuốc.

Mang thai và cho con bú

Chưa có nghiên cứu đầy đủ và kiểm soát tốt về việc sử dụng bupropion/naltrexone ở phụ nữ mang thai. Bupropion/naltrexone không nên được sử dụng trong thai kỳ, vì giảm cân không mang lại lợi ích cho phụ nữ mang thai và có thể gây hại cho thai nhi. Hiện nay, việc tăng cân tối thiểu và không giảm cân được khuyến nghị cho tất cả phụ nữ mang thai, bao gồm cả những người thừa cân hoặc béo phì.

Bupropion và các chất chuyển hóa của nó, cùng với naltrexone và chất chuyển hóa chính 6-beta-naltrexol có trong sữa mẹ. Bupropion/naltrexone không nên được sử dụng bởi các bà mẹ đang cho con bú.

Những điều khác bạn cần biết về bupropion/naltrexone

  • Uống bupropion/naltrexone chính xác theo chỉ dẫn của bác sĩ.
  • Không uống các thuốc chứa bupropion khác trong khi đang sử dụng bupropion/naltrexone.
  • Bupropion có thể gây thay đổi tâm trạng, trầm cảm và hưng cảm, ảo giác, hoang tưởng, loạn thần, ảo tưởng, thù địch, kích động, bạo lực, ý nghĩ tự sát và hành vi tự sát. Nếu có các triệu chứng này, hãy báo ngay cho bác sĩ điều trị. Nếu bạn là người chăm sóc bệnh nhân, hãy theo dõi và báo cáo bất kỳ hành vi bất thường nào cho bác sĩ điều trị.
  • Trong quá trình điều trị bupropion/naltrexone, hãy tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức nếu bạn gặp phải:
    • Phản ứng dị ứng nghiêm trọng hoặc phản ứng da
    • Các triệu chứng liên quan đến gan
    • Co giật
    • Tăng nhịp tim hoặc/ và huyết áp
    • Vấn đề về mắt
    • Mức đường huyết thấp, nếu bạn bị tiểu đường và đang dùng thuốc điều trị tiểu đường
  • Không dùng thuốc opioid khi đang điều trị với bupropion/naltrexone, vì có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng và có thể gây tử vong. Bạn phải ngừng sử dụng thuốc opioid ít nhất 7 đến 10 ngày trước khi bắt đầu điều trị với bupropion/naltrexone. Không dùng bupropion/naltrexone nếu bạn có triệu chứng cai opioid.
  • Tránh hoặc giảm thiểu việc sử dụng rượu trong quá trình điều trị bupropion/naltrexone.
  • Lưu trữ bupropion/naltrexone ở nơi an toàn, xa tầm tay trẻ em.
  • Trong trường hợp quá liều, hãy tìm kiếm sự trợ giúp y tế ngay lập tức hoặc liên hệ với Trung tâm Chống độc.

Tóm tắt

Bupropion/naltrexone là một thuốc kết hợp được sử dụng trong quản lý cân nặng mãn tính cho người lớn thừa cân và béo phì, kết hợp với việc tăng cường hoạt động thể chất và chế độ ăn giảm calo. Các tác dụng phụ phổ biến của bupropion/naltrexone bao gồm buồn nôn, nôn mửa, táo bón, khô miệng, tiêu chảy, đau bụng trên, viêm dạ dày ruột do virus, đau bụng, rối loạn vị giác (dysgeusia), đau đầu, chóng mặt, mất ngủ, lo âu, dễ cáu giận, bốc hỏa, đổ mồ hôi nhiều (hyperhidrosis), và các tác dụng phụ khác.

Nguyên nhân và cơ chế gây bệnh loãng xương

Trong những năm gần đây, loãng xương và gãy xương do loãng xương đã trở thành vấn đề quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng, đặc biệt ở các nước phát triển và các nước đang phát triển, ở nước ta, với xu thế tuổi thọ ngày càng tăng, loãng xương cũng sẽ trở thành một vấn đề sức khỏe quan trọng của xã hội vì những phí tổn trong điều trị.

Hiện nay trên thế giới có khoảng 200 triệu người bị loãng xương và mỗi năm có thêm khoảng 25 triệu người, trong đó 80% là phụ nữ. Trong số những phụ nữ bị loãng xương có khoảng 80% người trên 65 tuổi. Khoảng 1/4 số phụ nữ ngoài 60 tuổi bị gãy xương do loãng xương. Mặc dù loãng xương chủ yếu xảy ra ở phụ nữ nhưng cũng có khoảng 1,5 triệu nam giới mắc bệnh này và có khoảng 3,5 triệu người có nguy cơ cao. Nguy cơ loãng xương tăng cao ở người cao tuổi.

Ở Mỹ năm 2000 có hơn 8 triệu người bị loãng xương và 17 triệu người bị giảm khối xương, có thể xếp vào loại có nguy cơ cao sẽ bị loãng xương.

Tại Australia, 100% phụ nữ và 1/3 nam giới trên 60 tuổi bị loãng xương. Loãng xương và gãy xương là những nguyên nhân chính gây thương tích, tật nguyền lâu dài và thậm chí gây tử vong ở người cao tuổi. 1/5 những người bị gãy xương sẽ bị tử vong trong vòng 6 tháng nếu không được chăm sóc y tế đầy đủ. Trong số những người không bị tử vong do gãy xương thì có tới 50% không di chuyển được hoặc phải nằm liệt giường nếu không có trợ giúp y tế thường xuyên.

Theo GS. TS. Trần Ngọc Ân, chủ tịch hội Thấp khớp học Việt Nam, cuối những năm 80 của thế kỷ XX, người Việt Nam không biết nhiều về loãng xương. Nhưng giờ đây, loãng xương đang là một căn bệnh khá phổ biến ở nhiều độ tuổi khác nhau và nguy cơ của nó cần phải được nhận thức ngay từ khi còn trẻ.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, đến năm 2050, số người bị gãy xương do loãng xương của châu Á (trong đó có Việt Nam) có thể sẽ chiếm tới 50% so với thế giới. Vì vậy, phòng chống loãng xương trong cộng đồng là hoạt động cần thiết.

Loãng xương có thể gặp ở cả hai giới nhưng phụ nữ dễ bị loãng xương hơn nam giới 8 lần. Loãng xương thường gặp ở phụ nữ sau 50 tuổi. Đây là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở phụ nữ lớn tuổi.

Loãng xương thuộc phạm vi các chứng: “yêu thống” , “cốt khô”, “cốt thống” của y học cổ truyền.

KHÁI NIỆM LOÃNG XƯƠNG

Khái niệm loãng xương đã được nhắc đến ở nửa đầu thế kỷ XIX do Jean Georges Chrétien Federic Martin Lostein (1777—1835) nêu lên. Ban đầu, mọi người đều cho rằng sự giảm chất xương của toàn bộ xương trong cơ thể là loãng xương.

Tháng 10 năm 1990, một Hội nghị của châu Âu về loãng xương đã thống nhất định nghĩa: “Loãng xương là một bệnh được đặc trưng bởi một khối lượng xương thấp tới mức làm cho xương trở nên giòn và dẫn tới gãy xương”.

Tổ chức Y tế Thế giới năm 1994 định nghĩa loãng xương dựa trên mật độ chất khóang của xương (Bone Minerai Density – BMD) theo chỉ số T (T score) như sau: “T score của một cá thể là chỉ số về mật độ xương BMD của cá thể đó so với BMD của nhóm người trẻ tuổi làm chứng”. Trên cơ sở đó, có các giá trị BMD như sau:

  • BMD bình thường: T score > -1
  • Thiểu xương (nhuyễn xương): -2,5 < T score < -1
  • Loãng xương: T score < -2,5
  • Loãng xương nặng: T score < -2,5 và có một hoặc nhiều gãy xương

    Loãng xương là bệnh lý xương khớp có tính chất toàn thân do chất lượng xương bị giảm
    Loãng xương có tính chất toàn thân do chất lượng xương bị giảm

Như vậy, loãng xương là bệnh lý xương khớp có tính chất toàn thân do chất lượng xương bị giảm, thóai hóa kết cấu vi thể xương làm xương giòn, dễ phát sinh gãy xương.

NGUYÊN NHÂN VÀ CƠ CHẾ BỆNH SINH

Chuyển hóa calci và điều hóa chuyển hóa calci trong cơ thể

  • Chuyển hóa calci: 40% calci từ thức ăn được hấp thu ở ruột qua một hệ thống đặc biệt phụ thuộc vào vitamin Calci được thải ra theo đường tiểu tiện và đường tiêu hóa. Lượng calci trong nước tiểu được quyết định bởi sự tái hấp thu chủ động tại ống thận dưới ảnh hưởng của hormon tuyến cận giáp, do đó chỉ một phần rất nhỏ calci bị thải ra ngoài. Lượng calci trong nước tiểu liên quan chặt chẽ với calci máu. Chỉ một thay đổi nhỏ về nồng độ calci máu củng có thể gây nên thay đổi lớn ở calci niệu. Vì vậy, thận được coi là có vai trò chính trong điều hòa calci máu.
  • Điều hòa chuyển hóa calci: có ba hormon chủ yếu liên quan đến điều hòa chuyển hóa chất khóang ở xương: hormon tuyến cận giáp (TH), calcitonin và vitamin Ngoài ra còn có estrogen và testosteron.

+ Hormon tuyến cận giáp (PTH):

  • Tại xương: PTH tác động lên các tế bào xương và tế bào tạo xương, hoạt hóa bơm calci có ở những màng tế bào này và giải phóng calci từ dịch xương vào máu. Ngoài ra, PTH còn tác dụng lên tế bào hủy xương thông qua các “tín hiệu” chuyển đến từ tế bào xương và tế bào tạo xương để làm tăng quá trình hủy xương, giải phóng ion calci vào dịch xương; hình thành các tế bào hủy xương mối, làm tăng số lượng các tế bào hủy xương, Dưới tác dụng của PTH, hiện tượng hủy xương bao giờ cũng mạnh hơn tạo xương.

. Tại thận: PTH tác động lên ống thận để giảm tái hấp thu phosphat và tăng tái hấp thu ion Ca*+.

.Tại ruột: PTH tăng thành lập 1,25(OH2)D3 giúp hấp thu calci tại ruột. Như vậy, dưới tác dụng của PTH, calci huyết tăng và phosphat máu giảm. Khi calci máu tăng đến mức độ nào đó thì dưới tác dụng của cơ chế phản hồi (feedback), tuyến cận giáp sẽ giảm tiết PTH và lượng calci trong máu giảm đần tới chu kỳ tăng lần sau.

+ Calcitonin là một hormon được tiết ra từ tế bào cạnh nang của tuyến giáp, tác dụng ức chế hoạt động của tế bào hủy xương, làm giảm calci huyết, tăng lắng đọng calci ở xương; đồng thời làm giảm hình thành các tế bào hủy xương mới, Tuy nhiên, những tác dụng này của calcitonin rất yếu ở những người cao tuổi.

+ Vitamin D: tại da, dưới tác động của tia cực tím từ ánh sáng mặt trời, 7— dehydrocholesterol chuyển thành cholescalciferol hay vitamin D3. Vitamin D2 (ergocalciferol) có nguồn gốc từ thực vật được hấp thu vào máu qua đường tiêu hóa. Tại gan, vitamin D2 và vitamin D3 được hydroxy hóa thành 25—hydroxycholecalciferol (25-OHD3). Tại thận, chất này được hydroxy hóa một lần nữa để tạo thành 1,25(OH2JD3)  đây là một hormon rất mạnh và rất hiệu quả (còn gọi là calcitriol). Vai trò chính của calcitriol là thúc đẩy hấp thụ calci tại ruột và calci hóa chất nền xương tại xương. Một chất khác là 24,24(OH2JD3)  cùng được thành lập tại thận với số lượng rất lớn nhưng không hoạt động. Đây có thể là một thành phần dự trữ trong hệ kiểm soát (C24 chuyển sang C1).

+ Estrogen: có tác dụng làm tăng hoạt động của các tế bào tạo xương, kích thích gắn đầu xương vào thân xương, tăng lắng đọng muối calci-phosphat ở xương, làm nở rộng xương chậu.

+ Testosteron: có tác dụng tăng tổng hợp khung protein của xương, phát triển và cốt hóa sụn liên hợp ở đầu xương dài, làm dày xương, tăng lắng đọng calci-phosphat ở xương, làm hẹp đường kính khung chậu, tăng chiều dài của khung chậu, tăng sức mạnh của khung chậu.

Các giai đoạn phát triển của xương

Quá trình thay đổi khối lượng xương trong quá trình phát triển của cơ thể được tác giả Riggs chia ra thành ba giai đoạn:

  • Giai đoạn 1: khối lượng xương tăng dần để đạt tới giá trị tôi đa.
  • Giai đoạn 2: giai đoạn mất xương chậm phụ thuộc vào tuổi, thường bắt đầu sau 40 tuổi ở các xương dài và xương xốp.
  • Giai đoạn 3: giai đoạn mất xương nhanh, chỉ xuất hiện ở phụ nữ sau mãn kinh.

Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh

Không có nguyên nhân đơn thuần gây loãng xương. Trong quá trình sinh trưởng và phát triển của con người có hai quá trình tác động lên xương là tạo xương và hủy xương. Từ sau tuổi 30 hoặc 40 trở đi, hoạt động của các tế bào tạo xương giảm, làm mất cân bằng giữa quá trình tạo xương và quá trình hủy xương gây nên hiện tượng giảm số lượng các tế bào xương, dần dần dẫn tới loãng xương.

Ở nữ giới sau thời kỳ mãn kinh, do lượng estrogen giảm xuống mức thấp nhất đã ảnh hưởng đến quá trình tạo xương của cơ thể; thiếu estrogen làm tăng sự hủy xương, giảm hoạt động của các tế bào xương, giảm khung protein ở xương, giảm lắng đọng calci và phosphat ở xương, ở thời kỳ này, sự mất xương trong cơ thể phụ nữ tăng nhanh (khoảng 1% — 2%/năm). Tình trạng xương bị mất do di chứng tắt kinh kéo dài khoảng 15-20 năm, lượng xương bị mất thay đổi tuỳ theo từng người, nhưng có nhiều người có thể mất tới 30% lượng tế bào xương của cơ thể trong thời gian này. Nếu vì lý do nào đó dẫn đến bị tắt kinh sớm (phẫu thuật cắt buồng trứng…), tế bào xương trong cơ thể sẽ bị mất sớm hơn.

Việc mất các tế bào xương ở nam giới diễn ra chậm hơn nữ giới. Ở nam giới, hormon sinh dục quan trọng nhất là testosteron được sản xuất tại tinh hòan, các hormon sinh dục khác (trong đó có estrogen) được sản xuất tại tuyến thượng thận. Việc giảm estrogen cũng như testosteron trong cơ thể nam giới cao tuổi cũng góp phần gây loãng xương.

Ngoài ra, còn một số nguyên nhân khác gây loãng xương thứ phát như:

  • Sử dụng các thuốc corticoid hoặc heparin kéo dài.
  • Không vận động (do cân nặng quá mức hoặc liệt nửa người …)•
  • Uống nhiều rượu.
  • Dinh dưỡng không hợp lý.
  • Giảm hấp thu.
  • Bệnh Scorbut (do thiếu vitamin c trong thức ăn hằng ngày).
  • Không dung nạp lactose.
  • Quá trình tạo xương không hòan chỉnh.
  • Hội chứng Sudeck – Kienbock (Teo các xương nhỏ bàn tay và chân sau chấn thương do căn nguyên thần kinh).
  • Rối loạn nội tiết (thiểu năng tuyến yên, to viễn cực, nhiễm độc tuyến giáp, đái tháo đường…).

CÁC YẾU TỐ THUẬN LỢI GÂY BỆNH LOÃNG XƯƠNG

  • Yếu tố di truyền: chiếm 60 – 80% các trường hợp loãng xương.
  • Mãn kinh ở nữ giới: yếu tố thuận lợi gây loãng xương tiến triển cao nhất ở phụ nữ là tình trạng mãn kinh. Trong thực tế, mãn kinh càng sớm thì tình trạng loãng xương xuất hiện càng sớm. Thông thường, tuổi mãn kinh của phụ nữ là từ 45 đến 55 tuổi. Sau khi mãn kinh, buồng trứng giảm sản xuất estrogen, dẫn tới giảm quá trình tạo xương và tăng quá trình mất xương.
  • Phẫu thuật cắt tử cung, buồng trứng: những phụ nữ trẻ tuổi phải phẫu thuật cắt tử cung kèm theo buồng trứng là những người có nguy cơ loãng xương cao. Nguy cơ loãng xương giảm xuống nếu chỉ cắt bỏ tử cung mà không phẫu thuật cắt buồng trứng.
  • Tuổi và giới: từ sau tuổi 30 – 40 trở đi, quá trình tạo xương và quá trình hủy xương diễn ra không đồng đều, tổng số tế bào xương tạo ra ít hơn tổng số tế bào xương mất đi. Sự mất xương ở phụ nữ diễn ra nhanh hơn so với nam giới. Ban đầu, người ta không nhận ra sự mất dần các tế bào xương nhưng từ tuổi 40 trở đi, đặc biệt là đối với phụ nữ thì tuổi tác và giới tính là những yếu tố thuận lợi dẫn đến loãng xương.
  • Chủng tộc và địa cư:

+ Mặc dù loãng xương là một bệnh xảy ra ở hầu hết các chủng tộc người trên thế giới nhưng người da trắng chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp đến là người da vàng, người da đen chiếm tỷ lệ thấp nhất. Theo một nghiên cứu của Mỹ thì tỷ lệ trọng lượng xương của người da đen cao hơn rất nhiều so với người da trắng, vỏ xương dày hơn, xương sống rất chắc nên tỷ lệ gãy xương thấp.

+ Ngoài ra, người ta cũng nhận thấy người sống ở thành thị có tỷ lệ loãng xương cao hơn so với người sống ở nông thôn và miền núi.

+ ở những nơi có khí hậu lạnh có tỷ lệ người bị loãng xương cao hơn d những nơi khí hậu nóng. Điều này có khả năng liên quan tới cuộc sống lao động thể lực và thời gian mặt trời chiếu sáng. Trên thế giới, tỷ lệ người bị loãng xương dẫn đến gãy xương ở các vùng khác nhau cũng có sự khác biệt rất lớn; cao nhất là Mỹ, tiếp đến là các nước châu Âu, Hồng Kông, Singapo, Nam Phi.

+ Như vậy, tỷ lệ loãng xương và gãy xương có liên quan đến sự khác biệt về địa lý, chủng tộc, hoạt động thể lực, ánh nắng mặt trời và tập tục ăn uống.

  • Nhân tố sinh hoạt:

+ Hoạt động cơ bắp có thể tăng lượng xương vì đó là một hình thức kích thích cơ giới làm tăng tính hoạt động của tế bào xương. Những người không hoạt động trong một thời gian dài thì yếu tố kích thích này bị giảm đi, số lượng tạo cốt bào suy giảm trong khi hủy cốt bào tăng tương đối làm lượng xương được tạo ra ít hơn lượng xương bị mất đi, từ đó dẫn đến loãng xương. Rèn luyện cơ thể có thể làm giảm quá trình mất xương và có tác dụng dự phòng loãng xương.

+ Những tập quá sinh hoạt không tốt như: hút thuốc lá, uống rượu quá nhiều cùng làm cho quá trình loãng xương phát sinh,

Lây nhiễm và Phòng chống Bệnh cúm

Bệnh cúm là một bệnh nhiễm virut cấp tính do virut gây ra có kèm theo nhiễm độc toàn thân, tổn thương các đường hô hấp trên và lan truyền theo đường không khí-giọt nhỏ. Bệnh cúm có tên là grippe hoặc influenza; tên gọi ấy phản ánh đặc điểm dịch tễ học của bệnh (grippe = tấn công; influenza = xâm phạm).

TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀ CHẨN ĐOÁN BẰNG XÉT NGHIỆM

  1. Tác nhân gây bệnh:

Trước năm 1933, nhiều người cho rằng tác nhân gây bệnh cúm là trực khuẩn Pfeiffer. Chỉ đến năm 1933 mới phát hiện được tác nhân gây thực sự của bệnh cúm không tách được virut cúm bằng cách gây bệnh thực nghiệm õ con chồn hôi với nước rửa mũi họng của những người bị cúm.

Tác nhân gây bệnh cúm là loại virut có kích thước tương đối lớn. Virion của nó có hình cầu, đường kính 80-100mm. Virut cúm chịu đựng kém ở môi trường bên ngoài, và chết sau vài giờ ở nhiệt độ trong phòng. Dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời trực tiếp, nhiệt độ 60° và các chất tẩy uế thông thường ở đậm độ quy định, virut cúm chết sau 5-10 phút.

Nhưng nếu xấy khô trong chân không, nó có thể sống ở tủ- lạnh 0-4° trong hơn một năm.

Trong số những động vật để thí nghiệm thì chồn hôi và chuột bạch tiếp thu được bệnh cúm. Virut cúm mọc được trên phôi gà (trứng gà thụ tinh đã ấp 10-12 ngày). Virut cúm làm ngưng kết hồng cầu gà (phản ứng hấp phụ hồng cầu Hirst).

Hiện nay, người ta biết 3 loại virut cúm được phân biệt theo cấu trúc kháng nguyên và không gây miễn dịch chéo: virut A,B,C. Theo tính chất sinh học và theo khả năng sinh bệnh của chúng đối với người, những virut này rất giống nhau: phố biến là các virut A,B.

Virut cúm làm ngưng kết hồng cầu của người, gà, chuột lang. Chất ngưng kết hồng cầu là đặc hiệu dôi với từng loại virut: nếu trộn virut cúm với huyết thanh miễn dịch đặc hiệu, thì sẽ không có sự ngưng kết hồng cầu, vì chất ngưng kết hồng cầu của virut bị kháng thể làm trung hoà. Những chất kháng thể ức chế ngưng kết hồng cầu có trong huyết thanh miễn dịch. Người ta dùng các phản ứng ngưng kết hồng cầu để chẩn đoán bệnh cúm: ở giai đoạn đầu tiên của bệnh, có thể phát hiện virut cúm trong nước rửa họng, căn cứ vào sự có mặt của chất

ngưng kết hồng cầu. Khi khỏi bệnh, sẽ xuất hiện các kháng thể ức chế ngưng kết hồng cầu và cả những kháng thể làm trung hoà virut cúm trong máu người đã mắc bệnh cúm. Từ lúc bệnh bắt đầu cho tới thời kỳ khỏi bệnh, các kháng thể này tăng lên ở họng cũng như ở trong máu.

Đặc điểm của virut cúm là tính thay đổi trong quá trình tiến triển của dịch. Các mẫu virut được phân lập trong cùng một vụ dịch khác nhau rất nhiều về khả năng gây bệnh cho các động vật thí nghiệm về cường độ sinh sản ở phôi gà V.V..

Những đặc điểm quan trọng nhất của virut cúm là cấu trúc kháng nguyên của chúng thay đổi thường xuyên. Tính chất đặc biệt này rất rõ rệt ở loại virut A, sự thay đổi nhiều về cấu tạo kháng nguyên của loại này dẫn đến sự xuất hiện của nhiều loại virut cúm A (1933-1946) và A2 (1957) và những năm sau. Cấu tạo kháng nguyên của những loại này hàng năm thay đổi ít nhiều, trong vòng 2-5 năm thấy xuất hiện những loại mới thì các loại trước biến hết. Loại virut A2 đã nhanh chóng lan thành dịch lớn. Người ta thường gọi nó là virut cúm châu Á vì những dịch đầu tiên do loại virut này gây ra đều phát sinh ở Đông Nam A. Những sự thay đổi kể trên diễn ra với kháng nguyên V, trong khi đó kháng nguyên s vẫn không thay đổi. Như vậy, từ ngày phát hiện ra cho đến nay, virut A đã trải qua một cuộc tiến hoá đáng kể. ở một mức độ nào đó, người ta đã thực nghiệm bằng cách truyền virut A qua cơ thể chuột bạch đã được miễn dịch.

Những biến đổi như vậy cũng thấy ở virut B, nhưng chậm hơn. Những nguyên nhân nào đó làm biến đổi cấu trúc kháng nguyên của virut cúm?

Động lực làm biến đổi là tính miễn dịch đặc hiệu của dân chúng đối với bệnh cúm. Mỗi vụ dịch đều dẫn tới sự hình thành miễn dịch đặc hiệu đối với loại virut cúm tương ứng. Miễn dịch này giảm nhanh sau vài tháng và virut có thể phát triển trong cơ thể có miễn dịch thấp, nhưng vẫn tiếp tục chịu phần nào ảnh hưởng của miễn dịch đặc hiệu và do đó thay đổi cấu tạo kháng nguyên trong -quá trình thích ứng. Sự tích luỹ các thay đổi nhẹ cuối cùng dẫn tới những thay đổi căn bản và sự hình thành một loại virut mới có cấu tạo kháng nguyên khác hẳn với loại virut lưu hành trước. Thí dụ người ta thấy virut Ai vào năm 1947, A2 vào năm 1957. Virut cúm ở người có những điểm giống virut cúm ở lợn (Hog-Flu) cả hai loại đều tiêm truyền được cho chuột bạch và có miễn dịch chéo. Trong vụ dịch cúm lợn (1918-1920) đã thấy dịch cúm xuất hiện ở lợn tại nhiều nơi.

  1. Bệnh sinh và biểu hiện lâm sàng:

Virut cúm vào cơ thể người qua đường hô hấp trên, xâm nhập vào các tế bào biểu mô hình trụ và đôi khi ở tổ chức phôi, rồi sinh sản ở đây. Từ mô bị tổn thương, virut cúm và các sản phẩm phân huỷ của chúng sẽ xâm nhập vào máu và nội tạng, nhưng không sinh sản ở đấy. Do đó, người ta liệt virut cúm vào loại virut hướng phổi. Virut cúm được giải phóng ra khỏi cơ thể theo các chất

bài tiết của đường hô hấp, của kết mạc cùng với virut cúm sinh sản trong các tế bào biểu mô của đường hô hấp làm cho lớp biểu mô bị hoại tử và bong ra. Quá trình bệnh lý có thể lan đến mô phổi, điều này hay thấy ở trẻ em và người già. Trong trường hợp này, sẽ xuất hiện viêm phổi, xuất huyết sơ phát có thể gây tử vong. Sự hấp thụ những sản phẩm phân giải của virut cúm gây hiện tượng nhiễm độc (như mệt mỏi tinh thần, suy nhược) và ức chế sức đề kháng của cơ thể (biểu hiện bằng hiện tượng giảm bạch cầu và giảm hoạt động trực khuẩn của bạch cầu). Sự giảm sức đề kháng của cơ thể sẽ làm cho các vi khuẩn gây bệnh có điều kiện ở đường hô hấp (như trực khuẩn Pfeiffer, Streptocucus, Pneu­mococcus) hoạt động mạnh lên. Đó là nguyên nhân của những biến chứng thường hay gặp khi bị cúm (như viêm phổi thứ phát, viêm tai, viêm xoang xương chũm).

Bên cạnh thể cúm điển hình, người ta còn gặp những thể cúm không điển hình:

  • Thể nặng (thể nhiễm độc, viêm phổi sơ phát, viêm phổi thứ phát).
  • Thể nhẹ (phản ứng nhiệt vừa phải, hội chứng nhiễm độc không rõ rệt) và những thể nhiễm virut không có triệu chứng. Khi nghiên cứu những đợt cúm ở những tập thể, người ta thấy rằng không những các người đã mắc bệnh, mà cả người không có triệu chứng gì cũng có những kháng thể đặc hiệu chống cúm.

QUÁ TRÌNH TRUYỀN NHIỄM

  1. Nguồn truyền nhiễm:

Nguồn truyền nhiễm duy nhất là người. Người bệnh là nguồn truyền nhiễm chủ yếu. Thời kỳ ủ bệnh không quá 3 ngày, thường là 1-2 ngày. Thời kỳ phát bệnh là thời kỳ mà virut được giải phóng theo các chất bài tiết của đường hô hấp. Virut được giải phóng ra nhiều trong 3 ngày đầu, tuy vẫn còn thây virut đến ngày thứ 5-7. Đó là thời hạn cuối cùng của thời kỳ lây ở đa số người bệnh. Người ốm ít lây hơn ở CUỐI thời kỳ bệnh. Khi bắt đầu thời kỳ khỏi bệnh thì không lây nữa.

Nguồn truyền nhiễm còn có thể là những người nhiễm virut mà không có triệu chứng. Khả năng của những người này là làm lan truyền virut đã được xác định khi quan sát các người đã được tiêm chủng virut sống (đã bị làm yếu), ở những người có quan hệ chặt chẽ với những người đã được tiêm chủng, người ta đã phát hiện thấy virut, nhưng không nhận thây sự lan truyền tiếp tục nữa (tiếp xúc lần thứ hai). Những người lành mang virut giữ một vai trò nhỏ hơn so với người bệnh trong việc làm lan truyền bệnh, vì sự lây bệnh gắn liền với cường độ giải phóng ra virut từ họng. Khi bị cúm, miễn dịch được tạo thành nhanh chóng; điều này cho phép xác nhận rằng tình trạng người lành mang virut là nhất thời và kéo dài không lâu hơn thời gian bị bệnh.

  1. Cơ chế truyền nhiễm:

Cơ chế truyền nhiễm được xác định bởi nơi sinh sản và đường giải phóng virut từ cơ thể ra ngoài. Cúm là một bệnh nhiễm virut điển hình của đường hô hấp truyền bằng đường không khí-giọt nhỏ. Sự giải phóng virut theo nước tiểu không có ý nghĩa lớn về mặt dịch tễ học.

Virut cúm chịu đựng kém ở ngoại cảnh, cho nên phương thức truyền bệnh chủ yếu là tiếp xúc trực tiếp với người bệnh. Người khoẻ mắc bệnh vì hít phải những giọt nước bọt có virut cúm từ người bệnh bắn sang. Những đồ dùng bị người bệnh làm nhiễm virut (khăn mặt, bát, đũa) rất khó truyền bệnh. Như vậy giọt nhỏ không những là đường truyền nhiễm chính, mà còn là đường truyền nhiễm duy nhất.

  1. Tính cảm thụ và tính miễn dịch:

Tính tiếp thụ bệnh cúm ở người rất cao, những người chưa bị cúm bao giờ đều nhất loạt tiếp thụ bệnh này. Chứng minh cho diều này là trong các vụ dịch cúm lớn 1918-1920 và 1958-1959 ở rất nhiều nơi có thể nói là toàn dân dều mắc bệnh. Ở nơi nào không thực hiện kịp thời các biện pháp chống dịch, thì hầu hết trẻ em đều mắc bệnh. Khi bệnh cúm xâm nhập vào các vùng dân cư thưa thớt thì tất cả mọi người đều mắc bệnh.

Bệnh cúm tạo ra miễn dịch mạnh; tuy không lâu bền, có tính đặc hiệu đối với loại virut đã gây bệnh. Người đã bị cúm A còn có thể mắc cúm B, và ngược lại. Có miễn dịch chéo giữa các biến dạng của cùng một loại virut, nhưng miễn dịch này không đủ mạnh và chỉ phòng bệnh được một phần nào thôi. Điều này đã được phát hiện ra khi quan sát các dịch cúm lần lượt do các virut A,Ai và A2 gây ra, và cả khi thí nghiệm dùng vacxin tiêm chủng hàng loạt. Người ta cho rằng miễn dịch khi bị cúm A là 2-3 năm; khi bị cúm B là 3-5 năm. Những thời hạn miễn dịch này dựa trên tính chu kỳ của các dịch cúm. vấn dề thời hạn miễn dịch đặc hiệu theo loại virut khi bị cúm trở nên phức tạp, vì cấu trúc kháng nguyên của virut cúm bị biến đổi rõ rệt.

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ

Cúm không những là một bệnh phổ biến khắp nơi, mà còn là một bệnh nhiễm virut hàng loạt, tỷ lệ mắc bệnh cúm vượt tổng số tất cả các bệnh truyền nhiễm khác.

Những số liệu thông kê về mức độ mắc bệnh cúm thường không đầy đủ vì những người mắc thể bệnh nhẹ không đến phòng khám và chữa bệnh. Những số liệu ở những nhóm người nhất định sẽ chính xác hơn. Thí dụ tỷ lệ cúm hàng năm là 60-65% người hưởng lương tháng. Tuy nhiên, cả những số liệu này cũng không hoàn toàn đúng, vì một số bệnh viêm chảy cấp tính đường hô hấp bị chẩn đoán lầm là cúm.

Theo số trung bình trong nhiều năm liền, thì bệnh cúm chiếm tới 2/3 và các bệnh viêm chảy cấp tính đường hô hấp chiếm 1/3 tổng số tất cả các bệnh được chẩn đoán là “cúm”

Những kết luận này dựa trên cơ sở chẩn đoán phân biệt bệnh cúm với bệnh viêm chảy cấp tính đường hô hấp bằng các phương pháp huyết thanh học. Có thể nói rằng

  • Trong thời gian các đợt bột phát lớn, bệnh cúm chiếm 80-90%
  • Trong thời gian các đợt vừa phải, bệnh cúm chiếm 40-70% các bệnh cấp tính đường hô hấp.

Vụ dịch lớn 1918-1919 trên thế giới, trong vòng 2 năm đã có 1.500 triệu người ốm và 20 triệu người chết. Vụ dịch lớn 1957 trong vòng 6 tháng đã có 1.000 triệu người ốm, song tỷ lệ tử vong thấp hơn.

+ Bệnh cúm lan truyền khắp các nước, nhưng mức độ mắc bệnh ở các nước có khí hậu ôn hoà cao hơn ở các nước có khí hậu nóng, nhưng trong những vụ dịch lớn, thì không có sự khác nhau.

Mức độ mắc bệnh cúm thay đổi theo mùa, giảm trong mùa nóng và tăng lên trong mùa mát và lạnh.

+ Mức độ mắc bệnh cúm liên quan chặt chẽ với mật độ dân chúng, điều này là đặc trưng cho các bệnh truyền nhiễm lây bằng đường không khí giọt nhỏ. ở các thành phố mức độ mắc bệnh cúm cao hơn ở nông thôn và kéo dài cả năm. Còn ở nông thôn, chỉ thấy những đợt bột phát ngắn hạn, cách xa nhau.

+ Mức độ mắc bệnh cúm thay đổi theo lứa tuổi, cao nhất ở trẻ em thuộc lứa tuổi nhỏ và giảm ở những người lớn. Tuy nhiên, khi bệnh cúm xâm nhập vào các vùng dân cư thưa thớt (như các hòn đảo xa cách đất liền) thì tất cả mọi người đều mắc bệnh cúm, không phân biệt lứa tuổi. Nói chung trong mỗi vụ dịch, tỷ lệ mắc bệnh vừa ở đầu vụ dịch, rồi tăng ỏ giữa vụ dịch và giảm ở cuối vụ dịch; vì trong một vụ dịch, đa số dân chúng đều mắc bệnh cúm, ở thể điển hình hoặc ở thể nhiễm virut không có triệu chứng. Trong cả hai trường hợp, đều tạo thành miễn dịch đặc hiệu đối với loại virut đã gây bệnh. Một lớp người được miễn dịch sẽ hình thành trong dân chúng, và làm cho dịch cúm bị dập tắt và không thể phát triển trong những tháng tiếp theo. Sự vận động của virut cúm vẫn tiếp tục dược duy trì ở những người đã hết miễn dịch. Vì bệnh cúm gây miễn dịch không lâu bền, nên lớp người được miễn dịch trong dân chúng sẽ giảm đi, và lại xuất hiện ra một lớp người có thể tiếp thu được bệnh cúm. Trong những điều kiện này, lại có thể bùng lên một đợt dịch khác.

Những đợt bột phát cúm do một loại virut gây ra, phát sinh theo định kỳ, thường 2-3 năm một lần. Nếu có một vài loại virut vận động trong dân chúng, thì hầu như hàng năm đều phát sinh những dợt bột phát cúm, đôi khi đến 2 lần trong một năm. Kết luận là tính chu kỳ của dịch cúm không đều đặn như ở một số bệnh nhiễm khuẩn khác lây truyền theo dường không khí-giọt nhỏ (sởi, ho gà).

PHÒNG VÀ CHỐNG BỆNH CÚM

  1. Chống bệnh:

Để chống cúm cần chẩn đoán phát hiện sớm. cần chẩn đoán phân biệt bệnh cúm với các bệnh viêm chảy cấp tính đường hô hấp. Đáng tin cậy nhất là phương pháp huyết thanh. Xét nghiệm huyết thanh lấy khi mới bắt đầu cúm và 10-15 ngày sau. Sự tăng kháng thể (ức chế ngưng kết hồng cầu hoặc làm trung hoà virut) sẽ cho phép chẩn đoán là bệnh cúm và xác định cả loại virut gây bệnh. Nhưng phương pháp này chỉ cho phép chẩn đoán hồi cứu bệnh cúm thôi.

Có triển vọng là phương pháp chẩn đoán sớm dựa trên cơ sở phát hiện virut cúm ở nước rửa họng (ngưng kết hồng cầu), nhưng phương pháp này không nhạy và thiếu đặc hiệu.

Phương pháp chắc chắn nhất là phân lập virut cúm trên tế bào nuôi cấy và trên phôi gà.

Cúm là một bệnh không bắt buộc phải khai báo, nếu khai báo thì tốt hơn.

– Phải cách ly rất sớm và triệt để người bệnh, vì rất dễ lây; có thể cách ly ở nhà, trong màn hoặc phòng riêng biệt. Người bệnh cần có đồ dùng riêng (như khăn mặt, bát đũa), cần phải cách ly người bệnh ở bệnh viện, nếu bệnh tiến triển nặng (triệu chứng nhiễm độc, viêm phổi), không được nằm ở phòng chung đế đề phòng nhiễm virut thứ phát rất nghiêm trọng.

Tẩy uế các đồ dùng mà bệnh nhân mới dùng bằng cách đun sôi hoặc ngâm trong dung dịch clorua vôi 0,5%. Để đề phòng nhiễm virut thứ phát cho người bệnh bằng cách bôi họng bằng glyxerin phenic, penixillin.

Khi khỏi bệnh, chỉ cần lau sàn nhà với dung dịch clorua vôi và mở cửa bệnh phòng cho thoáng khí.

  1. Phòng bệnh:

Những người tiếp xúc phải đeo khẩu trang bằng bông gạc. Nếu thấy nhức đầu, đau mình, mặt đỏ, hơi sốt (38°) thì phải cách ly.

Trong thời gian có dịch cúm, các nhân viên y tế ở các phòng khám bệnh và bệnh viện trẻ con phải đeo khẩu trang để tránh mắc bệnh và gieo rắc bệnh cúm, có thể tẩy uế họng bằng dung dịch sát trùng yếu. Trong thời gian có dịch cúm, cần phải tổ chức phục vụ người bệnh ngay tại nhà, không để người bệnh tập trung ở các phòng khám (có thể trở thành những ổ lan truyền bệnh cúm), cấm những cuộc họp không cần thiết, rạp chiếu bóng, rạp hát, cửa hàng to, tàu xe là những nơi dịch dễ lan truyền.

  1. Phòng bệnh đặc hiệu:

Huyết thanh đặc hiệu chống cúm có kết quả tốt trong việc phòng ngừa và chữa bệnh cúm. Huyết thanh ở dạng bột được đưa qua mũi vào đường hô hấp bằng ống bơm hoặc hít. Hiệu lực ngắn hạn cho nên ít dùng

Có 2 loại vacxin cúm: vacxin chết và vacxin sống

  • Vacxin chết chế bằng virut A và B giết chết bởi focmol. Thời gian miễn dịch ngắn và phản ứng sau khi tiêm đôi khi khá mạnh.
  • Vacxin sống chế bằng virut A và B đã giảm độc lực bằng cách cấy nhiều lần trên tổ chức phôi gà, rồi làm khô trong chân không. Phun hỗn dịch vào mũi 2 lần 0,5 và lml cách nhau 2-3 tuần. Mức độ mắc bệnh ỏ người đã dùng vacxin giảm 2-3 lần so với người không dùng. Thời gian miễn dịch một năm.

Dùng vacxin này hàng năm vào tháng 9-11. Trước hết dùng vacxin cho nhân viên y tế, công nhân xí nghiệp công nghiệp, sinh viên và học sinh lớn tuổi.

Ớ các trẻ nhỏ tuổi, vacxin thường gây phản ứng mạnh.

BỆNH CÚM VÀ NHỮNG BỆNH TƯƠNG TỰ

Theo diễn biến lâm sàng các bệnh viêm chảy cấp tính các đường hô hấp rất giống bệnh cúm. Nhóm bệnh giống nhau này lại có những tác nhân gây bệnh khác nhau.

  1. Virut phó cúm:

Một vài tính chất sinh học của những virut này giống virut cúm. Đặc biệt là có thể phát hiện kháng nguyên ngưng kết hồng cầu ở những tế bào nuôi cấy. Hiện nay người ta biết 3 loại virut phó-cúm, gọi theo quy ước là virut HAi, HA2 và CA; virut cúm D cũng xếp trong nhóm này.

Các bệnh do các virut phó cúm chỉ hơi khác bệnh cúm về triệu chứng lâm sàng và chỉ có thể phân biệt dược bằng xét nghiệm huyết thanh và phân lập virut.

+ Adenovirut. Virut được gọi như thế vì thường phân lập được từ amidan và các hạch adenoidcủa người khoẻ. Hiện nay, người ta biết 19 typ huyết thanh của adeno virut có cùng một kháng nguyên kết hợp bổ thể, nhưng không có miễn dịch chéo trong phản ứng trung hoà virut.

Các adenovirut gây nên những bệnh giống cúm như: viêm kết mạc, viêm giác mạc kết mạc, viêm phế quản và đôi khi viêm phổi không điển hình. Bệnh này hay gặp ở trẻ nhỏ và thanh niên. Các trường hợp xảy ra dưới hình thức tản phát hoặc các vụ dịch. Thường gặp nhất là các typ adeno-virut 1,3,5,7

+ Virut bệnh cảm lạnh. Tác nhân gây bệnh là một loại virut đặc hiệu hoặc một nhóm virut. Bệnh biểu hiện chủ yếu bằng viêm mũi, có thể kết hợp với triệu chứng toàn thân.

Bệnh xảy ra dưới hình thức tản phát hoặc vụ dịch nhỏ.

+ Virut đường ruột E.C.H.O (1-24) và Coxsackie (1-24). Một vài typ virut E. C.H.O và Coxsaekie có thể gây bệnh truyền nhiễm giống cúm.

Các bệnh này lan truyền bằng giọt nước bọt và đường tiêu hoá.

  • Người ta chẩn đoán các bệnh phó-cúm, bệnh do adeno-virut, bệnh cảm lạnh và cả bệnh giống cúm bằng cách phân lập virut trên tế bào nuôi cấy và theo dõi mức tăng của hiệu giá kháng thể trong phản ứng huyết thanh.

+ Virut bệnh phế viêm không điển hình. Tác nhân gây bệnh là các virut sốt chim và virut sốt vẹt, rickettsia của bệnh sốt Q. Những thể nhẹ của bệnh này rất khó phân biệt với bệnh cúm.

  1. Những vi khuẩn gây bệnh có điều kiện:

Các vi khuẩn Staphylococcus, Streptococcus, Pneumococcus gây bệnh có điều kiện ở đoạn trên đường hô hấp. Lạnh và bụi rất quan trọng trong bệnh lý của các bệnh viêm chảy cấp tính đường hô hấp. Lạnh làm yếu sức đề kháng của cơ thể, đặc biệt là sức đề kháng ở đoạn trên đường hô hấp. Điều này giải thích sự hoạt động của vi khuẩn gây bệnh có điều kiện và sự phát triển của quá trình viêm nhiễm. Bụi gây kích thích đường hô hấp cũng làm cho bệnh xuất hiện; điều đó giải thích mức độ mắc bệnh cao trong một số nghề nghiệp (xưởng dệt). Tuy nhiên các bệnh viêm chảy đường hô hấp (đặc biệt là do staphylococcus) có thể thấy ở trẻ em không chịu ảnh hưởng của các yếu tố nói trên.

Biểu hiện và chăm sóc người bệnh thủy đậu

ĐẠI CƯƠNG

Bệnh thuỷ đậu do virus Varicella Zoster gây nên,thường xẩy ra vào mùa đông xuân và đối tượng chủ yếu là trẻ em dưới 10 tuổi.

Virus gây bệnh thủy đậu lây chủ yếu qua đường hô hấp (hoặc không khí), người lành dễ bị nhiễm bệnh nếu hít phải những giọt nước bọt bắn ra khi bệnh nhân thủy đậu ho, hắt hơi hoặc chảy nước mũi… nhất là trẻ em.

Một số cách lây nhiễm khác có thể xảy ra nếu chúng ta không cẩn thận khi tiếp xúc với bệnh nhân thủy đậu như: bệnh có thể lây từ bóng nước khi bị vỡ ra, lây từ vùng da bị tổn thương hoặc lở loét từ người mắc bệnh. Đặc biệt, phụ nữ mang thai không may bị nhiễm bệnh sẽ rất dễ lây cho thai nhi thông qua nhau thai

BIỂU HIỆN LÂM SÀNG

Thời kỳ ủ bệnh: từ 10- 21 ngày trung bình 14-17 ngày.

Thời kỳ khởi phát: thường kéo dài 24-48 giờ.

Biểu hiện sốt nhẹ, có thể không có sốt, hoặc có thể có sốt cao tùy vào cơ địa người bệnh khi đang có vấn đề về miễn dịch.

Phát ban, nốt màu hồng kích thước vài mm, nổi trên mặt da, có thể có ngứa.

Thời kỳ toàn phát

Sốt có thể giảm, có trường hợp sốt cao trong bội nhiễm.

Biểu hiện đặc trưng là nốt phỏng nước, ban càng mọc đầy người bệnh thường sốt cao và có tình trạng nhiễm độc.

Ban thủy đậu có thể thấỵ xuất hiện ở niêm mạc má, vòm họng, thanh quản, đường tiêu hóa, âm đạo, màng tiếp hợp,… gây nên một số triệu chứng như nuốt đau, nôn, đau bụng, tiêu chảy, ho khó thở, xuất huyết âm đạo..

Phụ nữ có thai trong 3 tháng cuối mắc thủy đậu có biến chứng nặng và khoảng 2% số trẻ sơ sinh sẽ có thủy đậu bẩm sinh với biểu hiện tổn thương sẹo trên da, giảm sản da.

Người mẹ mắc thủy đậu thời kỳ chu sinh, trước khi sinh 5 ngày và sau sinh 2 ngày, trẻ có thể có nguy cơ mắc thủy đậu.

Thời kỳ hồi phục

Sau khi vẩy khô và bong người bệnh hồi phục nhanh chóng nếu không có bội nhiễm.

BIẾN CHỨNG

Viêm da bội nhiễm do liên cầu hoặc tụ cầu

Là biến chứng hay gặp nhất. Các nốt phỏng hóa mủ đục và khi vỡ gây nên tình trạng viêm da toàn thân, viêm mô, áp xe dưới da, thậm chí có thể gây nên tình trạng nhiễm khuẩn huyết.

Viêm phổi

Xuất hiện ngày thứ 3 đến ngày thứ 5 của bệnh:

  • Sốt.
  • Thở nhanh, xanh xao, đau ngực, khạc ra máu, tim nhanh.
  • X-quang hình ảnh nốt mờ viêm phổi kẽ.

Biến chứng hệ thần kinh trung ương

Viêm não

Người bệnh có sốt cao.

Đau đầu.

Rối loạn tri giác, có khi có co giật và hôn mê.

Dấu hiệu Babinsky.

Dịch não tủy trong, tăng tế bào lymphocyte và albumin tăng nhẹ.

Viêm màng não

Sốt kéo dài hơn.

Đau đầu tăng nhiều hơn.

Nôn và buồn nôn.

Khám có hội chứng màng não.

Dịch não tủy trong, tăng tế bào lymphocyte và albumin tăng nhẹ.

Đôi khi có hội chứng Guillain – Barre

Các biến chứng khác

Viêm cơ tim.

Viêm giác mạc.

Viêm khớp.

Viêm cầu thận, viêm thận, xuất huyết nội tạng.

Tổn thương gan đặc trưng của hội chứng Reye.

Xét nghiệm tăng men gan, tăng đường huyết, ammoniac máu (NH3) tăng.

Lâm sàng tổn thương não, hôn mê, co giật.

ĐIỀU TRỊ

Điều trị triệu chứng

Dùng paracetamol 10-15mg/kg/6 giờ nếu người bệnh sốt hoặc giảm đau.

Có thể dùng kháng Histamin để giảm ngứa.

Vệ sinh da, nên tắm hàng ngày bằng nước ấm, sạch.

Cung cấp chế độ dinh dưỡng đủ chất.

Nghỉ ngơi tại giường, cách ly hạn chế lây lan.

Điều trị bằng Acyclovir

Điều trị Acyclovir được chỉ định nhằm mục đích:

  • Điều trị các biến chứng.
  • Chỉ định trên những cơ địa đặc biệt như HIV/AIDS, phụ nữ có thai, đang điều trị corticoid.
  • Có thể sử dụng điều trị cho đối tượng lứa tuổi vị thành niên và tuổi trưởng thành nhằm rút ngắn thời gian bị bệnh, hạn chế biến chứng.

Liều dùng:

  • Nhóm tuổi thanh thiếu niên và người lớn dùng 800mg trong 24 giờ chia 5 lần trong ngày
  • Trẻ em liều 10mg/kg/ngày.

Thời gian điều trị từ 5-7 ngày. Trong trường hợp có biến chứng nên dùng đường tĩnh mạch.

QUY TRÌNH CHĂM SÓC VÀ THEO DÕI NGƯỜI BỆNH THỦY ĐẬU

Hướng dẫn theo dõi và chăm sóc bệnh thủy đậu tại nhà

  • Cách ly tốt người bệnh: không tiếp xúc với người (trẻ) chưa bao giờ bị mắc thủy đậu hoặc người (trẻ) chưa được tiêm phòng. Trẻ nhỏ bị thủy đậu nên nghỉ học ở nhà ít nhất là từ 7 – 10 ngày cho đến khi ban phỏng khô bong vảy.
  • Nghỉ ngơi tại giường, tránh gió lạnh
  • Vệ sinh tay, vệ sinh da (lau người bằng nước ấm, tắm hàng ngày), vệ sinh mũi, miệng, họng, vệ sinh mắt, vệ sinh sạch sẽ đồ dùng cá nhân
  • Bôi thuốc xanh methylene vào các ban phỏng vỡ tránh bội nhiễm.
  • Không gãi tránh trầy xước gây nhiễm trùng.
  • Hạ sốt: theo dõi nhiệt độ.

+ Nếu sốt cao > 38,5° c lau người bằng nước ấm hoặc chườm mát.

+ Uống nhiều nước. Nếu như có sốt hoặc uống không đủ nước thì cần phải bồi phụ nước.

  • Dùng thuốc hạ sốt paracetamol khi có sốt cao (theo đơn của bác sỹ), không dùng aspirin cho trẻ em và người bệnh < 20 tuổi
  • Tăng cường dinh dưỡng: ăn mềm, dễ tiêu, tăng cường sinh tố vitamin, nước hoa quả,…
  • Phòng lây nhiễm cho cộng đồng:

+ Người bệnh đeo khẩu trang, người chăm sóc trẻ bệnh phải đeo khẩu trang, rửa tay sạch sẽ trước và sau mỗi lần tiếp xúc với trẻ bệnh, rồi mới được chăm sóc trẻ lành.

+ Vệ sinh nhà cửa và môi trường xung quanh sạch sẽ, thông thoáng.

+ Tránh quan niệm cho bệnh nhân kiêng tắm, kiêng gió sẽ làm cho bệnh thêm trầm trọng hơn.

Lưu ý: khi phát hiện thấy các triệu chứng có dấu hiệu bất thường gợi ý đến các biến chứng của thủy đậu sau đây thì cần cho trẻ đến khám tại các cơ sở y tế để được theo dõi và điều trị:

Trẻ sốt cao liên tục 39°, trên 39° c hoặc vẫn tiếp tục sốt 3-4 ngày sau khi mọc ban.

Các ban phỏng tiến triển như mọc dày hơn, dịch trong các nốt ban phỏng đục, vàng, xung quanh tấy đỏ,…

Các dấu hiệu kèm theo có thể là: đau tai, đau họng, nuốt đau hoặc nuốt khó, ho, đau ngực hoặc khó thở.

Trẻ tiêu chảy mất nước, biếng ăn.

Người bệnh (Trẻ) có biểu hiện lừ đừ, lẫn lộn hoặc khó đánh thức

Đau đầu dữ dội, nôn nhiều.

Chăm sóc người bệnh tại bệnh viện.

Nhận định

Hỏi

Sốt cao, sốt ngày thứ mấy?

Phát ban ngày thứ mấy?

Có ho, khó thở?

Có đau họng, đau tai?

Trẻ ngủ li bì, hay quấy khóc?

Tình trạng đi ngoài của trẻ.

Thăm khám thể chất

Dấu hiệu sinh tồn: kiểm tra nhiệt độ, mạch, huyết áp, nhịp thở,…

Khi có biến loạn sẽ biểu hiện:

  • Nhiệt độ: thường trẻ sốt cao trên 38,5° c.
  • Mạch nhanh theo tuổi: mạch bình thường (phụ lục 1).
  • Huyết áp có thể bình thường, hoặc hoi tăng (ở giai đoạn chưa sốc).
  • Nhịp thở nhanh theo tuổi: nhịp thở bình thường (phụ lục 1).

Hô hấp: đếm nhịp thở, quan sát kiểu thở, tím tái môi và đầu chi, nếu có điều kiện thì đo SpO2.

Trường hợp biến chứng suy hô hấp có các triệu chứng sau:

  • Thở nhanh, thở rít:

+ Trẻ < 1 tuổi: > 60 lần/phút.

+ Trẻ < 2 tuổi: > 50 lần/phút.

+ Trẻ 2-5 tuổi: > 40 lần/phút.

+ Trẻ > 5 tuổi: > 30 lần/phút.

Rút lõm lồng ngực.

Ho, khò khè.

Tím tái.

SpO2 < 92% với khí trời.

Tuần hoàn: kiểm tra mạch, nhiệt độ, huyết áp, thời gian đổ đầy mao mạch.

Khi có tình trạng sốc sẽ có biểu hiện sau:

  • Mạch nhanh theo tuổi hoặc khó bắt.
  • Thời gian đổ đầy mao mạch chậm trên 2 giây.
  • Huyết áp giai đoạn đầu có thể tăng:

+ Trẻ < 1 tuổi: HATT > 100mmHg.

+ Trẻ từ 1 đến 2 tuổi: HATT >110mmHg.

+ Trẻ > 2 tuổi: HATT > 115mmHg.

  • Giai đoạn suy hô hấp nặng có sốc huyết áp hạ hoặc không đo được.

Da và niêm mạc: quan sát ban phỏng, vị trí, màu sắc ban phỏng.

Các biến đổi có thể gặp trong bệnh thủy đậu:

  • Phát ban đỏ toàn thân, nổi lên mặt da, sau vài giờ nốt phỏng to dần có chứa dịch trong, xung quanh nốt phỏng có chứa riềm da đỏ 1mm.
  • Nốt phỏng loét trợt hay đóng vẩy.

Xét nghiệm cận lâm sàng:

Các xét nghiệm cần làm: công thức máu, X-quang phổi, huyết thanh chẩn đoán bệnh thủy đậu.

Các biến đổi có thể gặp trong thủy đậu:

  • Công thức máu: giảm bạch cầu, giảm bạch cầu lympho, giảm tiểu cầu (bạch cầu có thể tăng khi bội nhiễm).
  • X-quang phổi có thể thấy nốt mờ, viêm phổi kẽ.

Xác định vấn đề ưu tiên chăm sóc người bệnh thủy đậu

Chăm sóc ban phỏng, phòng tránh bội nhiễm

Mục tiêu: không để ban phỏng bị vỡ và nhiễm khuẩn.

Chăm sóc

xếp cách ly người bệnh khu vực riêng, phòng riêng khoảng 7 đến 10 ngày từ khi bắt đầu phát hiện ban phỏng cho tới khi ban phỏng khô.

Người bệnh đeo khẩu trang.

Mặc quần áo mềm mỏng, rộng.

Vệ sinh da sạch sẽ: tắm hoặc lau người bằng nước ấm, nước lá trà xanh, thấm bằng khăn mềm.

Vệ sinh răng miệng, mũi họng bằng dung dịch nước muối sinh lý 0,9% tránh bội nhiễm.

Chấm thuốc xanh methylene, cataneli vào nốt ban phỏng.

Thực hiện y lệnh thuốc đầy đủ.

Tránh gãi, đối với trẻ em: nên cắt móng tay cho trẻ, giữ móng tay trẻ sạch hoặc có thể dùng bao tay vải để bọc tay trẻ nhằm tránh biến chứng nhiễm trùng da thứ phát do trẻ gãi gây trầy xước các nốt phỏng nước.

Ăn các thức ăn mềm, lỏng, dễ tiêu, uống nhiều nước, nhất là nước hoa quả.

Vệ sinh, khử khuẩn đồ dùng, tư trang của người bệnh đúng quy định.

Vệ sinh bệnh phòng: lau sàn phòng, bàn ghế, tủ giường, đồ chơi của người bệnh hàng ngày bằng nước Javel, hoặc dung dịch Cloramin B, sau đó rửa lại bằng nước sạch. Đối với những đồ vật nhỏ có thể đem phơi nắng.

Theo dõi

Tiến triển của ban phỏng: mật độ, màu sắc, tình trạng nhiễm trùng của nốt phỏng (nốt phỏng có mủ, dịch vàng, xung quanh tấy đỏ).

Nhiệt độ của người bệnh.

Hạ sốt cho người bệnh

Mục tiêu: duy trì thân nhiệt ở mức độ ổn định, phòng co giật, biến chứng.

Chăm sóc

Đo mạch, nhiệt độ, huyết áp 3 giờ, 6 giờ/lần tùy từng tình trạng mỗi người bệnh.

Nới rộng quần áo, nằm nơi thoáng.

Hạ sốt cho người bệnh khi sốt cao: chườm mát, lau người nước ấm.

Thực hiện hiện thuốc hạ sốt theo y lệnh (không sử dụng aspirin).

Thực hiện thuốc kháng sinh theo y lệnh nếu có.

Cho người bệnh uống nhiều nước (ORS, nước hoa quả, sữa).

Theo dõi

Nhiệt độ theo giờ tùy theo mỗi người bệnh, theo dõi sau khi sử dụng thuốc hạ nhiệt mỗi 4-6 giờ/lần.

Theo dõi các dấu hiệu bất thường như ý thức lừ đừ, biểu hiện co giật, hoặc xuất huyết trên nốt phỏng báo ngay bác sỹ để xử trí kịp thời.

Theo dõi và chăm sóc biến chứng hô hấp

Chăm sóc

Nằm đầu cao 30 – 40° c (trẻ em 15 – 30°C), cổ thẳng, nghiêng mặt sang bên.

Thở oxy qua cannula 1-3 lít phút, thở tối đa 6 lít phút theo y lệnh.

Thở oxy qua mask 8 lít – 12 lít/phút khi thở cannula không hiệu quả sau 30-60 phút.

Hướng dẫn người bệnh ho khạc đờm, vỗ rung tránh ứ đọng.

Theo dõi nhịp thở, kiểu thở, SpO2, tình trạng tím tái môi và đầu chi, cơn ho,… Nếu người bệnh thở mask không hiệu quả thì chuẩn bị dụng cụ phụ giúp bác sỹ đặt nội khí quản, lắp máy thở.

Thực hiện thuốc, xét nghiệm theo y lệnh đầy đủ kịp thời và chính xác.

  • Theo dõi

Theo dõi sát mạch, nhiệt độ, huyết áp 30 phút/lần, 1 giờ/lần, 3 giờ/lần tùy tình trạng mỗi người bệnh.

Theo dõi nhịp thở, kiểu thở, tình trạng tím tái môi, đầu chi, SpO2, SaO2,…

Theo dõi người bệnh thở máy.

+ Theo dõi đáp ứng của người bệnh với máy thở.

+ Theo dõi các biến chứng thường gặp trong thở máy.

+ Theo dõi hoạt động của máy thở.

+ Theo dõi khả năng cai máy thở của người bệnh.

Theo dõi và chăm sóc người bệnh biến chứng thần kinh

-Chăm sóc

Để người bệnh nghỉ ngơi, tránh kích thích, an toàn cho người bệnh tránh ngã.

Tư thế đầu cao 30°c (nếu không sốc), cổ thẳng, nghiêng mặt sang bên tránh sặc trào ngược.

Thở hỗ trợ ôxy 1-4 lít phút, có thể thở qua mask, thở CPAP nếu người bệnh còn tự thở được.

Phụ giúp bác sỹ đặt nội khí quản khi có chỉ định (điểm Glasgow <12 điểm, SpC>2 <92% hay PaO2 > 50mmHg).

Lắp máy thở và theo dõi thở máy khi điểm Glasgow < 10 điểm (khi cần).

Thực hiện thuốc chống co giật, chống phù não, huyết áp theo chỉ định.

Thực hiện truyền tĩnh mạch Immunglobulin theo chỉ định.

Hạ sốt, chườm mát khi sốt cao.

Hút đờm dãi khi ứ đọng.

Cho ăn qua sonde, hoặc nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch nếu người bệnh hôn mê, người bệnh không tự ăn được.

Vệ sinh răng miệng, mũi họng 2-3 lần/ngày, vệ sinh cá nhân tránh bội nhiễm, lăn trở chống loét do tỳ đè.

Thực hiện các biện pháp phòng ngừa chuẩn.

Theo dõi

Tri giác, mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở, SpO2 15 phút – 30 phút – 60 phút/lần tùy tình trạng mỗi người bệnh trong 1-2 giờ đầu, sau mỗi 3-6 giờ/lần.

Đánh giá điểm RAMSAY mức độ ý thức của người bệnh.

Đánh giá điểm Glasgovv.

Tình trạng co giật: cường độ, tần suất cơn giật.

Sử dụng thuốc chống co giật.

Đại tiểu tiện của người bệnh.

Dinh dưỡng của người bệnh, chế độ ăn, chỉ số BMI.

Hướng dẫn phòng tránh lây nhiễm cộng đồng.

Hướng dẫn, tư vấn cho người bệnh và người nhà người bệnh

Cách vệ sinh thân thể, tránh tổn thương nốt phỏng, tránh bội nhiễm.

Chấm thuốc xanh methylene, cataneli vào các nốt phỏng.

Hướng dẫn người bệnh, người nhà người bệnh đeo khẩu trang, vệ sinh tay, phòng tránh lây lan.

Vệ sinh đồ chơi của trẻ.

Theo dõi và phát hiện các dấu hiệu bất thường: sốt cao liên tục, đau đầu, buồn nôn hoặc nôn,., báo ngay NVYT.

Lupus ban đỏ rải rác (lupus ban đỏ toàn thân)

Tên khác: lupus ban đỏ toàn thân.

Định nghĩa

Bệnh tự miễn, mô liên kết bị viêm lan toả nhiều hoặc ít, có các triệu chứng ờ da, khớp và tạng cũng như có các biến đổi trong huyết thanh.

Căn nguyên

Chưa rõ. Lupus ban đỏ là một bệnh tương đối ít gặp (1 – 5 trường hợp/10.000 người). Có nhiều yếu tố khiến dễ bị mắc-bệnh:

  1. Giới: 80-90 % số trường hợp là ở phụ nữ trước tuổi mãn kinh. Hiếm hặp ở trẻ, nam giới, người già.
  2. Yếu tố di truyền: hay gặp ở những người có kháng nguyên HLA-DR2 và DR3 cũng như ở người bị thiếu hụt bổ thể (C2 hoặc C4). Có những gia đình hay bị mắc lupus ban đỏ. Người anh em sinh đôi cùng trứng của người bệnh cũng thường bị mắc.
  3. Yếu tố môi trường: nhiễm virus hoặc bị tác dụng của tia cực tím có thể làm xuất hiện bệnh.
  4. Thuốc: xem lupus ban đỏ do thuốc.

Bệnh sinh

Người ta cho rằng các phức hợp miễn dịch ADN -anti ADN lắng ở giữa các tế bào nội mạc và ở màng đáy gây viêm mạch, nhất là ở cầu thận.

Hình như một mình các tự kháng thể hoặc cùng với bổ thể có thể gây viêm mạch hoặc phá huỷ một cơ quan đích (hồng cầu, lympho, tiểu cầu, màng đáy cầu thận, nơ rơn).

Bệnh cảnh lâm sàng của lupus ban đỏ rất đa dạng là do tương tác giữa các yếu tố sau:

  1. Loại và lượng kháng thể được sản sinh.
  2. Các tạng, mảnh tạng hoặc sản phẩm chuyển hoá tế bào có thể là đích.
  3. Cách đáp ứng của hệ thống miễn dịch của bệnh nhân.

Triệu chứng

Bệnh bắt đầu bằng sốt và đau khớp kèm theo các triệu chứng viêm tại chỗ và suy giảm tình trạng toàn thân (mệt mỏi, sút cân). Thường không có các biểu hiện ở da trong giai đoạn này. Giai đoạn toàn phát:

KHỚP (90% số trường hợp): viêm đa khớp không gây biến dạng, không có thay đổi trên phim.

DA (80% số trường hợp): trong các thể điển hình, da mặt bị đỏ rồi bong, có hình cánh bướm ở hai má và sống mũi, có thể lan tới tai, mi mắt, cằm và cổ (40% số trường hợp). Sau khi ra nắng thì da mẩn đỏ tăng (nhậy cảm với ánh sáng). Có thể có các tổn thương khác ở da: ban dạng đĩa hoặc phỏng, mày đay, chấm hoặc ban xuất huyết (giảm tiểu cầu). Thường tóc (vùng rụng tóc) và móng cũng bị. Trong các đợt tiến triển thì đôi khi niêm mạc cũng bị viêm.

THẬN (60% số trường hợp): cầu thận bị tổn thương ở nhiều dạng khác nhau (chọc dò – sinh thiết), hội chứng thận hư (protein niệu). Đôi khi huyết áp tăng rất cao. về chi tiết, xem viêm cầu thận thứ phát.

TIM (50% số trường hợp); thường bị viêm màng ngoài tim có fibrin nhưng đôi khi có tràn dịch nhiều và chèn ép tim. Có thể bị bệnh mạch vành dẫn tới nhồi máu cơ tim, bị bệnh cơ tim.

Van hai lá dày và cứng, viêm màng trong tim sùi Libman-Sachs dẫn đến hở hai lá (tiếng thổi tâm thu ở mỏm). Có khi bị tắc động mạch hoặc viêm màng trong tim nhiễm khuẩn.

PHOI (30% số trường hợp): tràn dịch màng phổi do viêm, phổi bị thâm nhiễm mờ, viêm phổi-phế quản, tăng áp lực động mạch phổi.

HỆ THẦN KINH TRUNG ƯƠNG (20% số trường hợp): nhức đầu, co giật, múa vờn, trầm cảm, rối loạn tâm lý, tổn thương thần kinh ngoại biên. Tắc nghẽn mạch não thường kèm theo có kháng thể kháng cardiolipin.

MẮT (15% số trường hợp): viêm mạch máu và tổn thương có rỉ viêm, sợ ánh sáng, viêm kết mạc, rối loạn thị giác.

BỘ MÁY TIÊU HOÁ (30% số trường hợp): triệu chứng không điển hình (chán ăn, buồn nôn, tiêu chảy), cổ chướng. Nhồi máu mạc treo. Đau bụng cấp, đôi khi có giãn một vài quai ruột (giả tắc ruột thường tự khỏi). Gan to vừa phải, transaminase tăng cao. ít khi viêm tuỵ cấp.

LÁCH TO (10% số trường hợp).

VIÊM GAN DẠNG LUPUS: xem bệnh này.

TRIỆU CHỨNG KHÁC: hội chứng Raynaud (hay gặp). Tắc động mạch và tĩnh mạch có thể dẫn đến tắc mạch phổi, sưng hạch, hội chứng Sjögren.

Mang thai: bằng mọi giá, phải tránh có thai trong trường hợp bị mắc lupus ban đỏ rải rác tiến triển, nhất là nếu có tổn thương thận và/hoặc tim. Các thuốc tránh thai có estrogen có thể làm bệnh lupus nặng thêm. Có thể mang thai đủ tháng nếu bị lupus ban đỏ đang khỏi, tuy nhiên có nguy cơ cao sẩy thai. Trong thời kỳ chu sinh, bệnh có thể tiến triển và nên tăng liều corticoid trong thời kỳ này.

Xét nghiệm cận lâm sàng

  • Huyết đồ: bạch cầu giảm, đôi khi tiểu cầu giảm, thiếu máu tan máu (5% số trường hợp).
  • Tốc độ máu lắng: tăng rõ rệt.
  • Alpha 2 globulin huyết tương tăng.
  • Kháng thể kháng nhân:

+ Kháng thể kháng RNP (kháng lại kháng nguyên nhân hoà tan thuộc loại ribonucleoprotein): có trong 40% số trường hợp.

+ Kháng thể kháng Sm (kháng các phần tử của nhân được tạo bởi ARN): có trong 30% số trường hợp).

+ Kháng thể kháng Ro (kháng lại một polymerase của ARN): có trong 20% số trường hợp; thường kết hợp với viêm thận tiến triển hoặc với hội chứng Sjogren.

  • Kháng thể kháng ADN: được định lượng bằng phương pháp miễn dịch phóng xạ của Có kháng thể kháng ADN toàn vẹn (có hai nhánh) là chất đặc hiệu và kháng thể kháng ADN thoái hoá (chỉ có một nhánh) kém đặc hiệu hơn. Nồng độ các chất này cao trong các thể có nhiều tạng bị.
  • Các phản ứng miễn dịch khác:

+ Yếu tố dạng khớp: có trong 30% số trường hợp, không đặc hiệu.

+ Kháng thể kháng cardiolipin: có trong 10% số trường hợp lupus ban đỏ rải rác, nếu có thì cho phản ứng huyết thanh dương tính giả giống của giang mai (VDRRL, Kline). Có mặt các chất này thì có xu hướng dễ bị tắc mạch (xem hội chứng kháng phospholipid).

+ Kháng thể kháng hồng cầu, kháng tiểu cầu, kháng lympho gây thiếu máu tan máu, giảm bạch cầu, giảm tiêu cầu.

+ Kháng thể kháng neuron gây một số tổn thương lan toả ở hệ thần kinh trung ương.

  • Nồng độ bổ thể trong huyết thanh: giảm nhiều trong các đợt tái phát.
  • Protein C-phản ứng: nồng độ rất thấp, ngay cả khi tốc độ máu lắng tăng.
  • Sinh thiết da và thận: xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang có thể thấy các lắng đọng IgG, IgM và đôi khi IgA.
  • Tế bào LE (tế bào Hargraves): trước đây là xét nghiệm hàng đầu để phát hiện bệnh. Nay được thay thế bằng việc phát hiện các kháng thể kháng nhân.

Tiên lượng

Thay đổi tuỳ theo cơ quan bị mắc. Thời gian sống sót trung bình sau 10 năm của các thể cổ điển, thể tiến triển, thể đa tạng là trên 80-90%. Tử vong chủ yếu là do các biến chứng của điều trị (nhiễm khuẩn cơ hội) hoặc do các tai biến tim mạch (huyết áp động mạch cao, nhồi máu cơ tim).

Những tiến bộ về miễn dịch học cho phép chẩn đoán ngày càng sớm các thể bệnh ngay từ lúc còn rất nhẹ. Bởi vậy, tiên lượng ngày càng tốt hơn.

Điều trị

  • Đợt tái phát thông thường: nghỉ ngơi vài ngày, aspirin hoặc thuốc chống viêm không phải steroid nếu bị đau khớp nhẹ.
  • Thể da: tránh ra ánh sáng, dùng kem chống nắng có khả năng chặn cao, bôi tại chỗ corticoid dành cho da. Nếu trị liệu này thất bại thì bổ sung hydroxychloroquin liều 400 mg/ngày và kiểm tra đáy mắt thường xuyên.
  • Thể tiến triển, có nhiều tạng bị:

+ Corticoid: liều có tác dụng chặn sự tiến triển của bệnh rất khác nhau (từ 0,5 đến 1,5 ng/kg/ngày đối với prednisolon) và cần phải dò liều trên từng bệnh nhân.

+ Thuốc ức chế miễn dịch: azathioprin 2-3 mg/ngày; hoặc truyền cyclophosphamid mỗi tháng 600-700 mg/m2 khi corticoid liều cao không có tác dụng ngăn bệnh nặng thêm.

  • Thể nặng, đe doạ sự sống (suy thận, ban xuất huyết giảm tiểu cầu, viêm cơ tim, tổn thương hệ thần kinh trung ương): methylprednisolon 500 mg, ngày 2 lần theo đường tĩnh mạch trong 3 – 5 ngày; sau đó dùng prednisolon theo đường uống (1 – 5 mg/kg/ngày). Có thể kết hợp với cyclosporine cho đến khi khỏi. Sau đó giảm dần liều corticoid xuống liều duy trì. Với cá thể nặng: trao đổi huyết tương.
  • Suy thận mạn tính: lọc máu hoặc ghép thận. Hiếm khi thận ghép bị mắc.
  • Thể không có triệu chứng: nếu chỉ có các rối loạn về hoá sinh thì không cần điều trị.

Lupus ban đỏ do thuốc

CĂN NGUYÊN: một số thuôc có thể gây lupus ban đỏ rải rác, nhất là isoniazid, phenytoin, ethosuximid, methyldopa, chlorpromazin, penicillamin, estrogen và thuốc tránh thai uống, dihydralazin. Tuy nhiên, nếu cần thiết thì các thuốc này vẫn có thể được dùng cho bệnh nhân bị lupus ban đỏ rải rác không rõ nguyên nhân.

TRIỆU CHỨNG: viêm đa khớp và tổn thương màng phổi – màng ngoài tim là các triệu chứng nổi bật. Rối loạn huyết học không gặp nhiều. Hiếm khi có biến chứng ở thận hoặc ở hệ thần kinh.

XÉT NGHIỆM MIỄN DỊCH HỌC: các rối loạn có trong lupus ban đỏ rải rác không rõ nguyên nhân đều có, trừ các kháng thể kháng nhân nguyên vẹn và giảm nồng độ bổ thể. Các kháng thể kháng histon là đặc hiệu cho lupus do thuốc.

TIÊN LƯỢNG tốt.

ĐIỀU TRỊ: ngừng dùng thuốc gây lupus. Với các trường hợp nặng: dùng corticoid trong vài tuần.

Khi nào hạch bạch huyết sưng có nghĩa là ung thư?

Hạch bạch huyết sưng, hay theo cách gọi của các bác sĩ là bệnh hạch to, thường do nhiễm trùng hoặc một tình trạng nào đó ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch của bạn. Chúng thường tự khỏi khi cơ thể bạn phục hồi.

Tuy nhiên, đôi khi các tế bào ung thư có thể di chuyển qua máu của bạn và đến hạch bạch huyết, hoặc thậm chí bắt đầu từ đó.

Bác sĩ của bạn có thể giúp bạn tìm ra nguyên nhân khiến hạch bạch huyết của bạn cảm thấy đau và to hơn bình thường.

Hình ảnh hệ bạch huyết ở ngực Hạch bạch huyết không chỉ có ở cổ. Bạn có hàng trăm hạch bạch huyết khắp cơ thể, chúng giúp cơ thể bạn khỏe mạnh.

Nguyên nhân gây sưng hạch bạch huyết? Hệ thống bạch huyết là một phần quan trọng của hệ miễn dịch. Nó bao gồm các cơ quan, mạch máu và mô giúp cơ thể bạn khỏe mạnh. Hệ thống này bao gồm:

  • Tủy xương, phần sâu nhất trong xương của bạn, nơi các tế bào máu mới được tạo ra
  • Tuyến ức, một tuyến nằm sau xương ức nơi các tế bào miễn dịch đặc biệt gọi là tế bào T được tạo ra
  • Hạch bạch huyết (tuyến)

Hơn 600 hạch bạch huyết nhỏ, có hình dạng như hạt đậu, nằm rải rác khắp cơ thể bạn – dưới cổ, nách, háng, giữa ngực và bụng. Chúng lưu trữ các tế bào miễn dịch và hoạt động như những bộ lọc để loại bỏ vi khuẩn, các tế bào chết và hỏng, và các chất thải khác ra khỏi cơ thể bạn.

Hạch bạch huyết sưng là dấu hiệu cho thấy chúng đang làm việc chăm chỉ. Nhiều tế bào miễn dịch có thể đang di chuyển đến đó, và có thể có nhiều chất thải đang tích tụ. Sưng thường là dấu hiệu của nhiễm trùng nào đó, nhưng nó cũng có thể do dị ứng nghiêm trọng, căng thẳng kéo dài, các bệnh như viêm khớp dạng thấp hoặc lupus, hoặc hiếm khi, ung thư.

Thường thì hạch bạch huyết sưng sẽ gần với nơi có vấn đề. Ví dụ, khi bạn bị viêm họng liên cầu khuẩn, các hạch bạch huyết ở cổ có thể sưng. Bệnh zona sẽ gây sưng hạch bạch huyết ở khu vực phát ban. Người bị ung thư vú có thể bị sưng hạch bạch huyết ở nách.

Khi hai hoặc nhiều vùng hạch bạch huyết của bạn bị sưng, điều đó có nghĩa là một vấn đề đang ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể của bạn. Thuật ngữ y khoa cho tình trạng này là hạch to toàn thân.

Tình trạng này có thể xảy ra vì nhiều lý do, từ bệnh thủy đậu và HIV đến một loại ung thư.

Khả năng hạch bạch huyết sưng tăng lên nếu bạn:

  • Lớn tuổi
  • Có hệ miễn dịch yếu
  • Quan hệ tình dục không an toàn hoặc sử dụng ma túy tiêm chích

Ung thư lan đến hạch bạch huyết Nếu ung thư là nguyên nhân gây sưng hạch bạch huyết, thường là do các tế bào ung thư đã lan đến đó từ một nơi khác trong cơ thể bạn. Điều này gọi là di căn. Khi một khối u hình thành trong cơ thể bạn, các tế bào ung thư có thể tách ra khỏi nó và di chuyển đến các cơ quan khác qua máu hoặc hệ bạch huyết.

Hạch bạch huyết sưng cảm giác như thế nào? Thông thường, bạn có thể nhẹ nhàng di chuyển các hạch bạch huyết sưng dưới da. Chúng sẽ cảm thấy mềm và có thể nhạy cảm hoặc hơi đau khi chạm vào.

Hạch bạch huyết ung thư

Không có cách nào để xác định liệu hạch bạch huyết sưng có phải là dấu hiệu của ung thư chỉ bằng cảm giác khi chạm vào.

Khi nào nên đi khám bác sĩ Thông thường, bạn sẽ có thể biết lý do tại sao một hạch bạch huyết sưng – ví dụ, bạn bị cảm, hoặc răng bạn bị nhiễm trùng, hoặc bạn có một vết cắt không lành. Nhưng nếu bạn không thể tìm ra nguyên nhân, có thể đã đến lúc cần kiểm tra.

Bạn cũng nên hẹn gặp bác sĩ nếu các hạch của bạn:

  • To khoảng 1/2 inch hoặc hơn
  • Bị sưng trong hơn 2 tuần
  • Không di chuyển dưới da
  • Cảm thấy cứng khi chạm vào
  • Có mủ hoặc chất dịch khác chảy ra
  • Bị bao phủ bởi da khô đỏ

Bác sĩ của bạn cũng nên biết nếu bạn có bất kỳ triệu chứng nào sau đây:

  • Khó thở hoặc nuốt
  • Đổ mồ hôi đêm
  • Sốt không hạ
  • Sụt cân mà không rõ lý do
  • Mệt mỏi

Hạch bạch huyết sưng gần xương đòn hoặc phần dưới cổ có khả năng là ung thư hơn. Ở phía bên phải, chúng có liên quan đến phổi và thực quản của bạn, trong khi ở bên trái, chúng liên quan đến các cơ quan trong bụng. Hạch bạch huyết sưng ở nách khi không có phát ban hoặc gần khuỷu tay cũng có thể là dấu hiệu đáng lo ngại.

Tuy nhiên, hãy nhớ rằng nhiều vấn đề sức khỏe khác ngoài ung thư cũng có thể khiến hạch của bạn trông hoặc cảm thấy khác lạ. Không thể biết nguyên nhân cho đến khi bạn gặp bác sĩ và thực hiện các xét nghiệm.

Chẩn đoán ung thư hạch bạch huyết

Vì ung thư hiếm khi là nguyên nhân gây ra sưng hạch, bác sĩ của bạn có thể sẽ cố gắng loại trừ các lý do phổ biến hơn trước. Họ sẽ thực hiện khám sức khỏe và hỏi về các sự kiện gần đây, chẳng hạn như nếu bạn đã:

  • Bị mèo cào
  • Bị ve cắn
  • Ăn thịt chưa nấu chín
  • Quan hệ tình dục không an toàn với bạn tình mới
  • Sử dụng ma túy qua đường tiêm
  • Du lịch đến một số khu vực nhất định
  • Gần đây đã tiêm vắc xin COVID-19

Họ sẽ muốn biết về các loại thuốc bạn đang dùng và các triệu chứng khác mà bạn gặp phải.

Các xét nghiệm mà bác sĩ có thể yêu cầu

Bác sĩ có thể sẽ yêu cầu xét nghiệm công thức máu toàn phần (CBC) để có bức tranh tổng thể về sức khỏe của bạn cũng như thông tin chi tiết hơn về các tế bào bạch cầu của bạn, các tế bào này chiến đấu chống lại nhiễm trùng. Tùy thuộc vào các triệu chứng khác và lịch sử bệnh của bạn, họ có thể yêu cầu thêm các xét nghiệm máu khác hoặc chụp X-quang.

Ví dụ, nếu bạn có hạch bạch huyết bị sưng trên khắp cơ thể, bác sĩ có thể yêu cầu CBC, chụp X-quang ngực và xét nghiệm HIV. Nếu các kết quả này bình thường, bạn có thể cần thêm các xét nghiệm khác, có thể là kiểm tra bệnh lao hoặc giang mai, xét nghiệm kháng thể kháng nhân (kiểm tra hệ thống miễn dịch của bạn) hoặc xét nghiệm heterophile (tìm virus Epstein-Barr).

Nếu những xét nghiệm này không cho thấy nguyên nhân khác và các hạch bạch huyết của bạn không trở lại bình thường sau 3-4 tuần, bác sĩ có thể thực hiện sinh thiết. Sử dụng một cây kim rất mỏng, họ sẽ lấy mẫu tế bào từ một trong những hạch của bạn và gửi đến phòng thí nghiệm để kiểm tra chi tiết hơn. Vì sưng có thể giảm đi hoặc có thể tìm thấy nguyên nhân khác trong khi bạn chờ sinh thiết, khoảng thời gian này ngăn bạn phải thực hiện các thủ thuật không cần thiết.

Các xét nghiệm để kiểm tra ung thư

Nếu bác sĩ nghi ngờ hạch bạch huyết sưng có thể là ung thư, các xét nghiệm và hình ảnh học có thể xác nhận chẩn đoán hoặc chỉ ra nguyên nhân khác. Dựa trên vị trí ung thư có thể có, bạn có thể được yêu cầu chụp X-quang ngực, siêu âm, chụp CT hoặc MRI. Một xét nghiệm gọi là FDG-PET, viết tắt của fluorodeoxyglucose với chụp cắt lớp phát xạ positron, có thể giúp tìm ung thư hạch và các loại ung thư khác.

Bạn có thể sẽ phải trải qua một thủ thuật gọi là bóc tách hạch bạch huyết hoặc cắt bỏ hạch bạch huyết. Các tế bào từ một hoặc nhiều hạch bạch huyết của bạn sẽ được loại bỏ. Đây là một ca phẫu thuật nhỏ kéo dài khoảng một giờ. Bạn sẽ được gây mê để ngủ qua ca phẫu thuật.

Mẫu tế bào từ hạch bạch huyết của bạn sau đó sẽ được gửi đến phòng thí nghiệm để một chuyên gia kiểm tra chúng dưới kính hiển vi để xem có tế bào ung thư hay không.

Ung thư hạch bạch huyết nghĩa là gì?

Ung thư trong hạch bạch huyết thường là ung thư đã di căn từ nơi khác trong cơ thể bạn. Hiếm khi, ung thư bắt đầu ở hạch bạch huyết. Ung thư hạch là một thuật ngữ rộng bao gồm bất kỳ loại ung thư nào của hệ thống bạch huyết.

Một số loại bao gồm:

  • Ung thư hạch Hodgkin (HL): Có nhiều phân nhóm, nhưng ung thư hạch Hodgkin kinh điển chiếm 95% các trường hợp tại Hoa Kỳ. Đây cũng là loại dễ điều trị nhất.
  • Ung thư hạch không Hodgkin (NHL): Loại ung thư này bắt đầu trong tế bào bạch cầu của bạn. Có nhiều loại khác nhau, tùy thuộc vào loại tế bào bạch cầu cụ thể bị ảnh hưởng.
  • Bệnh bạch cầu lymphocytic cấp tính (ALL): Bệnh bạch cầu liên quan đến các loại ung thư bắt đầu trong các tế bào máu mới. Trong trường hợp này, ALL ảnh hưởng đến các dạng ban đầu của tế bào lymphocyte, một loại tế bào bạch cầu.

Nếu ung thư được phát hiện trong một trong các hạch bạch huyết của bạn, nhiều xét nghiệm và thủ tục khác thường sẽ được thực hiện. Càng có nhiều thông tin về ung thư của bạn, bao gồm kích thước khối u, vị trí của nó trong cơ thể bạn và mức độ lan rộng, bác sĩ càng có thể đưa ra chẩn đoán chính xác hơn khi nói về tiên lượng và phương pháp điều trị.

Ung thư được phân giai đoạn như thế nào?

Bác sĩ thường sử dụng một hệ thống để giúp phân giai đoạn, hoặc mô tả ung thư của bạn và quyết định các bước tiếp theo. Một hệ thống thường được sử dụng là hệ thống phân giai đoạn khối u-hạch-di căn (TNM).

Nói chung, hệ thống này cung cấp thông tin về:

  • Khối u (T): Bao gồm vị trí và kích thước của khối u.
  • Hạch (N): Nếu ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết lân cận và nếu có, thì có bao nhiêu.
  • Di căn (M): Nếu tế bào ung thư đã lan đến các phần khác của cơ thể.

Dựa trên các dữ liệu đó, bác sĩ có thể phân loại giai đoạn cho ung thư của bạn.

  • Giai đoạn I: Các khối u nhỏ chưa lan đến các hạch bạch huyết lân cận hoặc các khu vực khác.
  • Giai đoạn II: Các khối u lớn hơn chưa lan đến nơi nào khác.
  • Giai đoạn III: Các khối u lớn đã lan đến các hạch bạch huyết.
  • Giai đoạn IV: Ung thư đã lan từ khối u ban đầu đến các phần khác của cơ thể.

Phân giai đoạn có thể không được sử dụng nếu bạn bị bệnh bạch cầu.

Dựa trên nguồn gốc của các tế bào ung thư và khoảng cách của chúng so với các hạch bạch huyết bị sưng, bác sĩ sẽ đề xuất kế hoạch điều trị. Nó có thể bao gồm phẫu thuật, xạ trị, hóa trị hoặc kết hợp các phương pháp điều trị.

Khi tế bào ung thư đã vào các hạch bạch huyết, khả năng ung thư quay trở lại sau điều trị sẽ cao hơn. Loại bỏ tất cả các hạch bạch huyết bị ảnh hưởng có thể giúp ngăn chặn điều này xảy ra.

Loại bỏ hạch bạch huyết ung thư

Bác sĩ sẽ quyết định thời điểm tốt nhất để loại bỏ bất kỳ hạch bạch huyết nào có chứa tế bào ung thư. Bạn có thể được thực hiện thủ thuật này sau một liệu pháp ung thư khác, chẳng hạn như xạ trị hoặc hóa trị. Hoặc bác sĩ có thể làm ngay lập tức. Đây có thể là một ca phẫu thuật cắt bỏ hạch độc lập, tương tự như những gì bạn đã thực hiện khi được chẩn đoán lần đầu. Hoặc nó có thể là một phần của một cuộc phẫu thuật lớn hơn để loại bỏ khối u.

Hầu hết thời gian, đây là một thủ thuật ngoại trú nhỏ, có nghĩa là bạn có thể về nhà trong ngày và không cần ở lại qua đêm tại bệnh viện. Cơn đau bạn cảm thấy thường nhẹ và có thể được kiểm soát bằng thuốc giảm đau không kê đơn. Nhưng một số biến chứng có thể xảy ra. Bao gồm:

  • Tổn thương thần kinh: Nếu các dây thần kinh xung quanh hạch bị loại bỏ trong quá trình phẫu thuật, khu vực đó có thể cảm thấy tê hoặc cứng.
  • Xơ hóa: Mô sẹo dày có thể hình thành tại chỗ, khiến bạn khó di chuyển bộ phận cơ thể đó hơn.
  • Phù bạch huyết: Bạch huyết là chất lỏng di chuyển qua hệ bạch huyết của bạn. Nếu nó ngừng chảy đúng cách và bị ứ lại ở một nơi nào đó trong cơ thể, tình trạng này gọi là phù bạch huyết. Điều này có thể xảy ra sau khi hạch bạch huyết của bạn bị loại bỏ.

Nếu bạn nhận thấy sưng trong khu vực, hãy nói chuyện với bác sĩ. Nếu sự tích tụ là nhỏ và bạn phát hiện sớm, chăm sóc tại nhà có thể giúp. Ví dụ, bác sĩ có thể cho bạn các bài tập đặc biệt để thực hiện, vì di chuyển có thể giúp làm giảm bớt chất lỏng dư thừa. Hoặc họ có thể cung cấp cho bạn một trang phục nén để mặc nhằm ngăn bạch huyết tích tụ thêm trong khu vực đó.

Kết luận

Các hạch sưng là dấu hiệu cho thấy hệ thống miễn dịch của bạn đang chống lại nhiễm trùng hoặc bệnh tật. Chúng thường không phải là dấu hiệu của ung thư. Nhưng nếu chúng không giảm nhanh chóng hoặc bạn có các triệu chứng khác, hãy gặp bác sĩ để họ có thể tiến hành các xét nghiệm và tìm ra nguyên nhân.

Nguyên nhân viêm tụy cấp và điều trị bệnh viêm tụy cấp

Định nghĩa: tuyến tụy bị viêm cấp tính, thường kèm theo hoại tử xuất huyết tụy.

Căn nguyên

NGUYÊN NHÂN HAY GẶP

  • Sỏi túi mật hoặc sỏi ống mật chủ (viêm tụy do mật): sỏi mật là điều kiện thuận lợi làm mật bị nhiễm khuẩn trào vào ống tụy. Đây là nguyên nhân hay gặp nhất (70% số trường hợp).
  • Nghiện rượu: làm tụy sản xuất dịch giàu protein, quánh, có thể làm tắc các ống tụy nhỏ. Thể này gặp ở nam giới nhiều hơn 6 lần ở nữ giới.
  • Phẫu thuật đường mật hoặc một tạng trong ổ bụng. Chụp đường mật – tụy ngược dòng.
  • Chấn thương bụng.

NGUYÊN NHÂN HIẾM GẶP

  • Thuốc:acid valproic, azathioprin, thuốc lợi tiểu thiazidic, furosemid, thuốc tránh thai uống, estrogen, sulfasalazin, sulfamid,
  • Nhiễm khuẩn: quai bị, viêm gan virus, tăng bạch cầu đa nhân nhiễm khuẩn, mycoplasma, nhiễm virus Coxsackie, mycoplasma, nhiễm nhiều ký sinh trùng ở xứ nhiệt đối.
  • Rối loạn chuyển hoá: tăng lipid huyết, tăng calci huyết, suy thận, viêm tụy sau ghép thận, viêm thận kèm theo nhiễm mỡ cấp khi có thai.
  • Nguyên nhân khác: bệnh chất tạo keo, viêm mạch máu, dị dạng ống Wirsung, viêm tụy di truyền, ban xuất huyết giảm tiểu cầu gây đông máu.
  • Sau khi chụp đường mật-tụy ngược dòng qua nội soi.
  • Viêm tụy cấp tính tái phát không rõ nguyên nhân.

Sinh lý bệnh

Ở mô tụy có viêm cấp tự duy trì. Tụy bị chính các enzyme của mình, nhất là trypsin, elastase, phospholipase A2 tiêu hoá. Trong giai đoạn phù, phản ứng viêm giới hạn ở tụy. Sau đó các sợi chun ở mạch máu bị elastase phân giải nên chảy máu. Dịch tụy chứa các enzym hoạt động đi vào khoang sau phúc mạc và vào ổ bụng làm cho một lượng lớn dịch giàu protein trong máu ra ngoài, kết quả là giảm thể tích máu và tình trạng sốc.

Giải phẫu bệnh

  • Hoại tử xuất huyết: tổn thương do các enzym tụy được hoạt hoá bởi nhiều yếu tố” (nhiễm khuẩn, chấn thương, ứ mật) dẫn đến các sợi chun của mạch máu và nhu mô tụy bị tiêu hoá (hoại tử mỡ). Tổn thương hoại tử có thể lan toả hoặc có giới hạn (nang giả chứa dịch của tụy giàu enzym hoạt động).
  • Phù: ở các thể viêm tụy nhẹ, mô liên kết trong và xung quanh tụy bị phù, không có tổn thương hoại tử xuất huyết.

Khoang phúc mạc thường chứa dịch rỉ viêm màu nâu, đục, có thể có những vùng hoại tử mỡ ở phúc mạc.

Triệu chứng

  • Đau vùng thượng vị, thường sau một bữa ăn nhiều mỡ và rượu. Đau rất-dữ dội, đôi khi khu trú ở hạ sườn phải, xuyên ra lưng hoặc lên vai trái. Kéo dài từ vài giờ đến vài ngày.
  • Buồn nôn, nôn.
  • Sốt 38° – 39°c.
  • Huyết áp hạ, tái nhợt, đổ mồ hôi, tim nhanh, thở nông, ngón tay, ngón chân lạnh.
  • Khám: bụng chướng căng, sờ vào hơi đau nhưng không có phản ứng co cơ rõ (đau dữ dội nhưng không có “bụng cứng như gỗ”). Nghe thấy tiếng nhu động giảm hoặc không có (không vận chuyển hơi và chất chứa bên trong). Có thể thấy da quanh rôn có màu xanh lam do chảy máu trong ổ bụng (dấu hiệu Cullen).

Xét nghiệm cận lâm sàng

  • Amylase huyết và amylase niệu: amylase máu tăng sau vài giờ và trở về bình thường trong vòng 2- 3 ngày. Amylase niệu xuất hiện chậm hơn nhưng tồn tại lâu hơn. Nồng độ phải tăng hơn mức bình thường ít nhất là 5 -10 lần mới có giá trị (có nhiều đơn vị đo). Không có tương quan giữa tăng nồng độ amylase huyết và mức độ nặng của viêm tụy. Xét nghiệm này là xét nghiệm hoá sinh đáng tin nhất của viêm tụy cấp mặc dù amylase cũng tăng trong một số bệnh khác; viêm túi mật cấp, thiếu máu mạc treo cấp, tắc ruột do xoắn, thủng ổ loét dạ dày-tá tràng, quai bị, viêm tuyến mang tai. Tăng tỷ lệ giữa độ thanh thải amylase và thanh thải creatinin không đáng tin. Trong tuần đầu tiên, có thể thấy vàng da, tăng bilirubin và phosphatase kiềm.
  • Lipase huyết:tăng trong viêm tụy cấp nhưng định lượng mất nhiều thời gian và không đáng tin cậy.
  • Huyết đồ:tăng bạch cầu, tăng hematocrit (máu cô đặc).
  • Xét nghiệm khác:đường huyết tăng tạm thời trong 10% số trường hợp; calci huyết hạ ở 25% số trường hợp.

CHỤP X QUANG THÔNG THƯỜNG: chụp bụng không chuẩn bị có thể thấy được sỏi túi mật (sỏi cản quang), các đám vôi hoá ở tụy, tắc ruột khu trú và loại trừ thủng tạng trong ổ bụng. Chụp phổi có thể thấy tràn dịch màng phổi. Chụp đường niệu qua tĩnh mạch được chỉ định để loại trừ bệnh ở thận. Không có hình ảnh X quang đặc hiệu của viêm tụy cấp.

SIÊU ÂM: không phải lúc nào cũng thấy được tụy nhưng có thể thấy sỏi trong đường mật hoặc phát hiện thấy đường mật chính bị giãn do tắc.

CHỤP CẮT LỚP: một mặt cho phép phát hiện sỏi trong đường mật, mặt khác cho thấy tụy bị to (phù nề), các ống tụy bị giãn, nang giả hoặc ápxe tụy. Dùng chất cản quang cho phép nghiên cứu vi tuần hoàn trong tụy (bị giảm nếu có hoại tử lan toả)

CÁC PHƯƠNG PHÁP HÌNH ẢNH KHÁC

  • Chụp mật-tụy ngược dòng qua nội soi: có thể phát hiện sỏi ở phần thấp của ống mật chủ. Có thể thực hiện mở bong và lấy sỏi qua nội soi.
  • Chụp động mạch bụng: chỉ định trong trường hợp có chảy máu nặng trong ổ bụng (tìm xem có phải vỡ phình động mạch hoặc có giả phình động mạch ở động mạch tụy hay quanh tụy không), phát hiện tắc tĩnh mạch lách.

Biến chứng

SỚM

  • Sốc: truy tim mạch do các chất gây giãn mạch tràn vào máu (trypsin, histamin, kallicrein), do giảm thể tích máu, do xuất huyết tiêu hoá (vỡ nang giả, loét dạ dày-tá tràng, viêm dạ dày sói mòn) và nhồi máu mạc treo.
  • Đông máu nội mạch rải rác\do trypsin tràn vào máu có thể hoạt hoá các yếu tố đông máu.
  • Suy thận cấp:có thể là hậu quả của sốc.
  • Các biến chứng khác:phổi sốc, xuất huyết tiêu hoá, đái ra máu, liệt ruột, nhồi máu hoặc vỡ lách, tràn dịch màng phổi.

MUỘN

  • Nang và nang giả ở tụy:trong thực tế, không phân biệt được nang tụy (một vùng tuyến bị giãn) với nang giả (vùng hoại tử trong tụy). Trong 15% số trường hợp, các nang này phát triển sau 1-4 tuần. Có thể sờ thấy một khối ở thượng vị hoặc ở hạ sườn phải. Amylase huyết và amylase niệu vẫn cao. Có cổ trướng, tràn dịch màng phổi khi nang bị vỡ. Các dịch này chứa nhiều amylase. Chúng có thể bị nhiễm khuẩn và là nguyên nhân gây ápxe trong ổ bụng.
  • Ápxe tụy:có thể hình thành vài tuần sau khi qua giai đoạn viêm tụy cấp và biểu hiện bằng sốt, đau bụng, buồn nôn, nôn; đôi khi sờ thấy một khối trong bụng. Bạch cầu thường tăng; chẩn đoán xác định dựa vào X quang.
  • Vàng da ứ mật:phần dưới của ống mật chủ bị đầu tụy (phù nề) chèn ép. Hiếm gặp hớn là nang tụy chèn ép đường mật chính.
  • Lỗ rò tụy:chỗ tụy hoại l ử đổ vào trong dạ dày, tá tràng, ruột già. Các lỗ rò kích thích mêra mạc tiêu hoá tại chỗ, gây hẹp do sẹo, gây chảy máu tiêu hoá.
  • Tiểu đường:thường là thoáng qua.
  • Biến chứng phổi:xẹp phổi, tràn dịch màng phổi, viêm phổi, viêm trung thất.
  • Biến chứng tỉm:khoảng S-T biến đổi, viêm màng ngoài tim
  • Tắc tĩnh mạch cửa(xem hội chứng này).
  • Mù đột ngột:xuất huyết và dịch rỉ viêm ở vùng dây thần kinh thị giác và ở vùng trung tâm (bệnh võng mạc Purtscher).

Tiên lượng: viêm tụy cấp là một bệnh nặng, tỷ lệ tử vong có thể tối 20%. Các triệu chứng hoá sinh sau đây cho thấy mức độ nặng của viêm tụy cấp: bạch cầu > 16.000 /μl. Đường huyết lúc đói > 11 mmol/l (2g/l); transaminase và dehydrogenase tăng mạnh; urê huyết > 16 mmol/l (lg/1); calci huyết < 2 mmol/l (80 mg/l); phân áp oxy động mạch < 8kPa (60mmHg).

Chẩn đoán

Đau bụng đột ngột ở người có tiền sử sỏi mật hoặc nghiện rượu, amylase máu và amylase niệu tăng mạnh.

Chẩn đoán phân biệt: cần phân biệt với đau bụng cấp (xem hội chứng này):

  • Thủng ổ loét dạ dày-tá tràng: có khí trong ổ bụng.
  • Tắc ruột nghẹt: có mức nước mức hơi.
  • Sỏi mật và viêm túi mật cấp: chẩn đoán khó khăn vì amylase huyết cũng tăng. Thường đau ở vị trí lệch sang phải nhiều hơn. Thường cơ bụng ở hạ sườn phải co rõ hơn.
  • Phình động mạch tách ở động mạch chủ bụng: chụp động mạch để chẩn đoán xác định.
  • Nhồi máu mạc treo: xuất huyết tiêu hoá và chảy máu ở trực tràng.
  • Chửa ngoài tử cung vỡ hoặc u nang buồng trứng vỡ: khám phụ khoa.
  • Nhồi máu cơ tim cấp.
  • Rối loạn chuyển hoá và nhiễm độc; nhiễm acid-ceton do tiểu đường, rối loạn chuyển hóa porphyrin cấp, nhiễm độc chì có thể gây cơn đau bụng kịch phát. Chẩn đoán bằng xét nghiệm hoá sinh.

Điều trị

Điều trị triệu chứng thì viêm tụy có phù nhẹ, không bị hoại tử xuất huyết có thể khỏi trong 5-7 ngày.

Viêm tụy cấp nặng phải được điều trị ở khoa chăm sóc tăng cường.

  • Hồi phục và duy trì thể tích máu tuần hoàn và cân bằng điện giải: là biện pháp quan trọng nhất. Cần phải-bù lại cẩn thận qua đường tĩnh mạch lượng dịch bị mất (hút dạ dày, nôn, mồ hôi, tiêu chảy, nước trong ổ bụng). Truyền máu toàn phần nếu bị sốc. Nếu đường huyết quá cao phải dùng insulin. Nếu hạ calci huyết phải truyền gluconat calci qua tĩnh mạch. Điều chỉnh magiê huyết.
  • Hút dạ dày và nhịn đói: biện pháp kinh điển để điều trị viêm tụy nặng, nôn nhiều. Nuôi dưỡng qua tĩnh mạch phù hợp và ăn lại khi amylase huyết đã trồ về bình thường (xem chế độ ăn trong viêm tụy).
  • Điều trị đau: morphin hay một chất thay thế tổng hợp (ví dụ, pethidin tiêm bắp, liều 50-100 mg, ngày 3-6 lần tuỳ theo mức độ đau).
  • Hô hấp viện trợnếu có suy hô hấp do enzym trong máu gây độc.
  • Kháng sinh:dùng để phòng trong trường hợp viêm tụy hoại tử hoặc có biến chứng nhiễm khuẩn. Nên dùng imipenem 500 mg theo đường tĩnh mạch, 8 giờ một lần .trong 2 tuần.
  • Thuốc kháng tiết cholin, kháng emym:không có tác dụng.
  • Chụp mật ngược dòng có mở bóng Vater:chỉ định trong viêm tụy cấp do mật. Kết quả tốt nhất khi nội soi trong 24-48 giờ đầu.
  • Dẩn lưu nang giả qua nội soi.
  • Ngoại khoa:chỉ định trong giai đoạn cấp trong trường hợp có sỏi ống mật chủ không được điều trị hoặc có ápxe tụy tồn tại hơn 5 tuần, có kích thước > 5cm và gây đau bụng.

Giả khớp cắn loại III

I.   ĐỊNH NGHĨA

Là tình trạng sai khớp cắn mà để đạt được sự lồng múi tối đa thì hàm dưới phải trượt ra phía trước dẫn đến tương quan hai hàm là khớp cắn loại III, múi ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm trên khớp về phía xa so với rãnh ngoài gần của răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm dưới.

II.    NGUYÊN NHÂN

  • Điểm chạm khớp sớm mà gây trượt hàm dưới ra trước khi cắn
  • Thói quen xấu: đưa hàm dưới ra trước khi cắn

III.     CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

Lâm sàng

  • Ngoài mặt

Nhìn mặt nghiêng: kiểu mặt thẳng, hoặc lõm.

Tầng mặt dưới: chiều cao tầng mặt dưới có thể bình thường hoặc giả

  • Trong miệng

Ở vị trí khớp cắn lồng múi tối đa

+ Tương quan răng hàm lớn thứ nhất và răng nanh: Tương quan loại III

+ Độ cắn chìa đảo ngược: có giá trị âm.

+  Có biểu hiện cắn chéo: Có thể thấy ở vùng răng cửa hoặc thấy ở một bên cả vùng răng cửa và răng hàm.

Ở vị trí tương quan tâm: Tương quan răng hàm lớn thứ nhất loại

Khi hàm dưới chuyển động đóng:

+ Hàm dưới có thể đổi hướng ra trước hoặc sang bên khi gặp điểm chạm sớm,

+ Hàm dưới có thể đưa về được tương quan bình thường nhưng do thói quen đưa ra trước tạo ra tương quan răng hàm lớn thứ nhất loại III.

Cận lâm sàng

Mẫu hàm thạch cao

  • Khi răng hai hàm đạt lồng múi tối đa: Tương quan loại III ở răng hàm lớn thứ nhất và răng nanh.

X quang: Phim Cephalometrics

  • Răng cửa dưới ngả môi
  • Răng cửa trên ngả lưỡi
  • Số đo góc ANB: có giá trị âm
  • Tương quan xương hai hàm: thường là loại

Chẩn đoán phân biệt

  • Khớp cắn loại III do xương: Phân biệt dựa vào các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng.

Lâm sàng

+ Ở tương quan tâm là khớp cắn loại III.

+ Không có điểm chạm sớm gây trượt hàm dưới ra trước.

+ Không có biểu hiện trượt hàm dưới ra trước.

– X quang: Tương quan xương hai hàm loại III.

  • Khớp cắn ngược do răng

Các chỉ số về xương bình thường

Chỉ có biểu hiện khớp cắn ngược vùng răng cửa

Không có điểm chạm sớm hoặc trượt hàm dưới ra trước

IV.     ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc

Tạo lập lại tương quan hai hàm, lý tưởng nhất là tương quan xương loại I và khớp cắn loại I cả răng hàm lớn và răng nanh, nếu không thì ít nhất phải đạt được tương quan răng nanh loại I.

Cải thiện về thẩm mỹ.

Đảm bảo độ ổn định

Điều trị cụ thể.

  • Loại bỏ điểm chạm sớm

Xác định các điểm chạm sớm gây trượt hàm dưới

+    Lấy mẫu hai hàm,

+    Vào càng nhai

+    Xác định, đánh dấu điểm chạm sớm

– Mài chỉnh các điểm chạm sớm đã xác định.

  • Loại bỏ thói quen xấu làm trượt hàm dưới ra trước

Hướng dẫn bệnh nhân tư thế đúng khi đóng hàm dưới

Trong một số trường hợp phải sử dụng khí cụ.

  • Thiết lập lại tương quan răng khớp cắn loại I

Gắn mắc cài hai hàm.

Sắp xếp và làm thẳng các răng theo chiều ngang và chiều đứng

Có thể kết hợp với chun kéo loại III

Nâng khớp cắn để điều chỉnh khớp cắn chéo phía trước

Có thể sử dụng khí cụ nong hàm nếu hẹp hàm trên: khí cụ Quad Helix , khí cụ có ốc nong nhanh….

  • Hoàn thiện
  • Duy trì kết quả điều trị.

V.    TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG

  1. Tiên lượng
    • Sai khớp cắn giả loại III nếu không được điều trị sớm thì tình trạng sai khớp cắn nặng lên và dẫn đến sai khớp cắn loại
    • Nếu điều trị đúng phác đồ trên thì sẽ có kết quả tốt
  2. Biến chứng
    • Gây cắn chéo thực sự vùng răng phía
    • Sang chấn răng và mô quanh răng
    • Đau khớp thái dương hàm.
    • Rối loạn chức năng khớp thái dương hàm.

VI.     PHÒNG BỆNH

Khám răng miệng định kỳ để phát hiện và điều trị thói quen xấu gây lệch lạc răng, phát hiện sớm các bất thường về khớp cắn và điều trị kịp thời.

Cách làm bún thịt bò xào thơm ngon tại nhà

Nguyên liệu món ăn

200g thịt bò mềm

100g nạc dăm

Hành tây, hành lá, sả băm

Hành tím

Nước mắm

Giấm

Chanh, ớt

1 trái dừa xiêm

Cà rốt củ cải trắng

0,5kg bún nhỏ

Rau sống, dưa leo

Nguyên liệu
Nguyên liệu

Cách làm bún thịt bò xào

Thịt bò ướp nước mắm, sả băm, đường, tiêu, củ hành tím băm nhỏ và 2 muỗng xúp dầu ăn.

Hành tây xắt múi.

Hành lá xắt nhỏ, làm mỡ hành.

Cách làm bún thịt bò xào
Cách làm bún thịt bò xào

Làm nước mắm: nấu nước dừa làm nước mắm, cho gia vị, đồ chua. Cuối cùng cho tỏi ớt băm nhuyễn

Cho dầu vào chảo, phi tỏi, sả cho thơm. Trút thịt bò vào chảo, xào thịt lửa lớn. Cho hành tây xắt múi vào.

Trình bày

Xếp rau dưa leo vào tô, cho bún vào, xúc thịt lên, cho mỡ hành vào tô, rắc đậu phộng. Dọn kèm với nước mắm pha.

Bún thịt bò xào thơm ngon
Bún thịt bò xào thơm ngon

Khi ăn, chan nước mắm vào tô và trộn đều các nguyên liệu.