Blog Trang 566

Hư lao Đông y và pháp, phương thuốc điều trị

Hư lao không phải là một chứng riêng biệt, các bệnh lâu ngày không khỏi đều chuyển thành hư lao (Nam dược thần hiệu – Hư lao). Bệnh lâu ngày thường là bệnh của các tạng phủ bị tổn hư, nguyên khí suy hư. Hư lao còn được gọi là hư tổn Hư là bệnh lâu làm mất tinh khí, người gầy yếu. Tinh khí đoạt tắc hư – (Tố vấn thông bình hư thực luận). Tổn là hư tích làm tổn thương tạng phủ khó phục hồi được. Trương Cảnh Nhạc viết “Khi có tổn ở phần hình thể vật chất thì gọi là âm hư – (Phần tổn tại hình chất giả tổng viết âm hư). Lại viết “Âm hư là chứng mà dinh vệ táo, tân dịch khô do các bệnh có hỏa thịnh, thủy khuy gây nên”.

Một đặc điểm của hư lao là nguyên khí hao tổn. cảnh Nhạc viết: “Nguyên khí bị tổn thương là bệnh hư tổn”. Người xưa phân ra ngũ lao, lục cực, thất thương. Ngũ lao là tâm lao (tổn thần), can lao (tổn huyết), tỳ lao (tổn thực), phế lao (tổn khí), thận lao (tổn tinh). Tố Vấn viết về ngũ lao: “nhìn lâu thương huyết, nằm lâu thương khí, ngồi lâu thương nhục, đứng lâu thương cốt, đi lâu thương cân”, về tổn, Nạn kinh viết: “Tổn thứ nhất là tổn ở bì mao, da teo lại và lông rụng, tổn thứ hai là tổn ở huyết mạch, huyết mạch hư thiểu, không nuôi được 5 tạng 6 phủ, tổn thứ ba là tổn ở cơ nhục, thịt gầy róc, ăn uống không nuôi được cơ phu, tổn thứ tư là tổn ở cân, gân mềm không có được, tổn thứ năm là tổn ở thận, thận suy không ngồi dậy được, Người bị tổn theo thứ tự từ trên xuống, đến cốt nuy không dậy được thì chết, người theo thứ tự từ dưới lên, bệnh đến da tụ lông rụng thì chết”. Còn Lưu Hà Gian cho rằng: “Tổn theo thứ tự từ trên xuống, đã qua vị thì không chữa được, còn theo thứ tự từ dưới lên đã qua tỳ thì không chữa được”. Lục cực là: Khí cực, huyết cực, cân cực, cơ cực, cốt cực, tinh cực. Thất thương là: quá no thương tỳ, quá giận khí nghịch thương can, dùng sức cử tạ quá nặng hoặc ngồi lâu ở nơi ẩm thấp thương thận, người đã hàn lại uống lạnh thương phế, âu sầu tư lự thương tâm, phong vũ hàn thử thương thận thể, khủng khiếp không tiết độ thương chí (Thiên kim yếu phương). Hư lao có thể do bẩm thụ yếu kém, tiên thiên bất túc, có thể do ăn ở không có chừng mực, ham muốn quá độ, lao tâm lực quá độ làm tổn hại khí huyết, tinh hao thủy kiệt, hỏa bốc, có thể do dinh dưỡng kém gây nên khí huyết hậu thiên bất lực. Quy cho cùng thì dương hư bị ngoại hàn thì tổn kinh phế, âm hư nội nhiệt có gốc ở thận, ăn uống lao quyện làm tỳ bị bệnh (Y tôn kim giám)

Như vậy, có hư lao do tiên thiên mấu chốt ở thận, có hư lao do hậu thiên mấu chốt ở tỳ. Trong biện chứng thường lấy âm dương khí huyết gắn với ngũ tạng để xem xét cụ thể. Thời gian điều trị hư lao phải dài hơn, theo các hướng: Tổn giả ích chi (tổn thương thì bổ ích nó), lao giả ôn chi Gao thì ôn nó), hình bất túc giả ôn chi dĩ khí (hình thể không đầy đủ thì lấy khí của thuốc để ôn), tinh bất túc giả, bổ chi dĩ vị (tinh không đầy đủ thì lấy vị của thuốc để bộ. Nạn kinh viết: “Người có tổn phế thì ích khi của phế, tổn tâm thì điều hòa dinh vệ, tổn tỳ thì điều hòa ăn uống, chú ý đến vấn đề hàn ôn của người bệnh, tổn can thì hoãn trung, tổn thận thì ích tinh”… Chú trọng bổ thận, bổ âm, bổ dương (tiên thiên), bổ tỳ, bổ khí, bổ huyết (hậu thiên). Lãn Ông nói: “Bệnh nặng chữa âm dương, bệnh nhẹ chữa khí huyết”. Trong điều trị còn vận dụng nguyên tắc con hư bổ mẹ, như phế hư thì bổ tỳ, can hư thì bổ thận. Nhìn chung, Tuệ Tĩnh cho rằng: “bệnh không phải một sớm một chiều mà phát ra như thế, thì việc dùng thuốc không phải một thìa, một viên mà chữa khỏi” (Nam dược thần hiệu).

Cũng cần lưu ý vì tỳ vị là nguồn sinh hóa của khí huyết tinh tân dịch, cho nên cần coi trọng bổ tỳ (lấy ăn được là chính) trong điều trị hư lao.

Dương hư

  1. Dương hư khí suy

Thường do dương khí và vệ khí cùng hư.

Triệu chứng: Mệt mỏi, lười vận động, vận động thì suyễn, tự hãn, người đau mỏi, ê ẩm, mạch hư. Bệnh nhân này dễ bị ngoại hàn tác động làm tổn thương kinh phế.

Phép điều trị: Phù dương cố biểu.

Phương thuốc: Thừa dương lý lao thang (Kim giám phương).

Nhân sâm 6g Hoàng kỳ 12g
Nhục quế 6g Bạch truật 9g
Cam thảo 6g Trần bì 6g
Đương quy 12g Ngũ vị tử 6g.

Ý nghĩa: Nhân sâm, Hoàng kỳ để bổ nguyên khí cổ biểu; Nhục quế để ôn dương; Bạch truật, Cam thảo để kiện tỳ hóa thấp, ích khí hòa trung; Trần bì để lý khí; Đương quy để dưỡng huyết; Ngũ vị tử để liễm khí.

Nếu sợ lạnh thêm Phụ tử 5 phân, ỉa lỏng thêm Kha tử, Mộc hương, Đậu khấu.

Nhân sâm vị thuốc Bổ khí trong Đông y
Nhân sâm vị thuốc Bổ khí trong Đông y
  1. Tỳ dương hư.

Thường là hậu quả của tỳ khí hư, hoặc ăn uống sống lạnh, làm tổn thương tỳ dương.

Triệu chứng: Án ít, người lạnh, mệt mỏi, đau bụng, sôi bụng, ỉa phân lỏng hoặc có nấc, sắc mặt bệch hoặc vàng sạm, rêu trắng, lưỡi nhợt, mạch tế nhược.

Phép điều trị: ôn trung kiện tỳ.

Phương thuốc: Lý trung thang (Thương hàn luận)

Nhân sâm                     6g              Can khương             6g

Bạch truật                    6g              Cam thảo                  6g.

Ý nghĩa: Nhân sâm để bổ nguyên khí. Can khương để ôn trung khu lý hàn, Cam thảo, Bạch truật để kiện tỳ táo thấp ích khí hòa trung. Nếu chân tay lạnh, sợ lạnh thêm Phụ tử để trợ dương gọi là Phụ tử lý trung thang. Nếu ỉa lỏng không cầm được thêm ích trí nhân Thảo quả để ôn thận chỉ tả. Nếu nôn sau khi ăn thêm Trần bì, Bán hạ để hòa vị giáng nghịch.

  1. Thận dương hư.

Thường do người vốn dương hư, mệnh môn hỏa suy, bệnh lâu không khỏi hoặc lao tổn quá độ, nguyên suy, hoặc già yếu thận dương không đủ.

Triệu chứng: Sợ lạnh chân tay lạnh, ỉa lỏng phân sống, lưng đau mỏi ê ẩm, hoạt tinh liệt dương, đái nhiều hoặc đái không cầm được, sắc mặt bệch, tiếng nói nhỏ, lưỡi nhợt bệu, rêu lưỡi trắng, mạch trầm nhược.

Phép điều trị: Ôn bổ thận dương.

Phương thuốc: Thận khí hoàn (Kim quỹ yếu lược).

Thục địa                 8 lạng              Sơn dược            4 lạng

Sơn thù                  4 lạng              Trạch tả               3 lạng

Phục linh                3 lạng              Đơn bì                3 lạng

Quế chi                   1 lạng               Phụ tử                1 lạng.

Ý nghĩa: Thục địa để ôn bổ thận âm. Sơn thù, Sơn dược để tư bổ can tỳ. Quế chi, Phụ tử để ôn bổ thận dương. Trạch tả, Phục linh để lợi thủy thảm thấp. Đơn bì để tả can hỏa. Nếu di tinh thêm Khiếm thực, Liên tu, Mâu lệ.

Phương thuốc: Cao bổ dương (Nam dược thần diệu – Hư lao)

Gạc hươu nấu thành cao để dùng dần.

Phương thuốc: Viên bổ thận dương (Thuốc nam châm cứu)

Anh túc xác 8g,

Lộc giác sương 16g,

Ba kích 24g,

Liên nhụy 4g,

Hạt tơ hồng 12g,

Ý dĩ 20g,

Củ mài 40g,

Hạt sen 40g,

Hà thủ ô đỏ 20g,

Hà thủ ô trắng 20g,

Làm hoàn, mỗi lần uống 10g, ngày uống 2 lần.

Ý nghĩa: Lộc giác sương, Ba kích, Hạt tơ hồng, Hà thủ ô để bổ thận ôn dương, bổ ích tinh thủy. Hạt sen, Ý dĩ, Củ mài để bổ tỳ. Anh túc xác để cố tinh.

Phương thuốc: Hữu quy hoàn (Kim quĩ yếu lược)

Thục địa 8 lạng,

Sơn dược 4 lạng

Sơn thù 3 lạng,

Câu kỷ tử 4 lạng

Lộc giác giao 4 lạng,

Thỏ ti tử 4 lạng

Đỗ trọng 4 lạng,

Đương quy 3 lạng

Nhục quế 2 lạng,

Phụ tử 2 lạng đến 5-6 lạng

Ý nghĩa: Nhục quế, Phụ tử, Lộc giác giao để ôn bổ thận dương ích tinh tủy. Thục địa, Sơn dược, Sơn thù, Thỏ ti tử, Đỗ trọng để ôn thận tráng dương kiêm bổ thận tinh, bổ tỳ. Đương quy, Câu kỷ tử để bổ huyết dưỡng can.

Phương thuốc: Tứ thần hoàn (Chính trị chuẩn thằng)

Nhục đậu khấu 2 lạng       Phá cố chỉ        4 lạng

Ngũ vị tử                2 lạng              Ngô thù du      1 lạng,

Mỗi lần dùng 2 – 3 được. Chủ yếu dùng trong ngũ canh tả.

Ý nghĩa: Phá cố chỉ để bổ mệnh môn hỏa. Nhục đậu khẩu để ôn tỳ chỉ tả, Ngô thù du để ôn tỳ vị trừ hàn thấp, Ngũ vị tử để ôn sáp. Khương táo để tán hàn, hành khí tư dưỡng tỳ vị. Phương này chủ yếu để chữa ngũ canh tả (ỉa lỏng lúc sáng sớm) do tỳ thận dương hư.

Âm hư

1. Thận âm hư:

Thường do tinh bị tổn thương, hoặc mất máu, mất tân dịch, hoặc nóng quá làm âm bị tổn thương hoặc do uống thuốc nhiệt quá mức, hoặc các tạng phủ khác có âm hư gây nên.

Triệu chứng: Thắt lưng, đầu gối mỏi yếu, váng đầu, ù tai chóng mặt, răng long họng khô, di tinh mất ngủ (đo hư hỏa động), ngũ tâm phiền nhiệt, ra mồ hôi trộm, lưỡi gầy đỏ,

mạch trầm tế (sác).

Phép điều trị: Tư bổ thận âm

Phương thuốc: Cao bổ âm (Nam dược thần hiệu – hư lao) Yếm rùa 10kg. Chế biến theo quy chế, nấu thành cao dùng dần.

Phương thuốc: Lục vị địa hoàng hoàn (Tiểu nhi dược chứng trực quyết).

Thục địa 8 đồng cân Sơn thù 4 đồng cân
Sơn dược 4 đồng cân Trạch tả 3 đồng cân
Phục linh 3 đồng cân Đơn bì 3 đồng cân.

* Ý nghĩa: Thục địa để bổ âm thận. Sơn thù để tư thận ích can. Sơn dược để ích thận bổ tỳ. Trạch tả để tư thận giáng trọc. Đơn bì để tả can hỏa. Phục linh để thảm tỳ thấp. Nếu dạo hãn sốt chiều thêm Hoàng bá. Tri mẫu, nếu cốt chưng thêm Địa cốt bì.

Thục địa
Thục địa

Phương thuốc: Viên bổ thận âm (Thuốc nam châm cứu)

Lá dâu 80g, Vừng đen 320g,
Hoàng tinh 640g, Hạt sen 640g,
Củ mài 80g, Hà thủ ô 40g,
Hạt bí đao 80g, Ngó sen 640g,
Lộc giác sương 120, Yếm rùa 120g.

Tán mịn làm hoàn mật, 8g/hoàn. Uống 1 hoàn, ngày uống 2 lần.

Ý nghĩa: Hoàng tinh, Hà thủ ô, Lộc giác sương, Yếm rùa để bổ thận âm, Lá dâu, Hạt bí đao để thanh nhiệt.

Phương thuốc: Tả qui hoàn (Cảnh Nhạc toàn thư)

Thục địa 8 lạng Sơn dược 4lạng
Sơn thù 4 lạng Cẩu kỷ tử 4lạng
Ngưu tất 3 lạng Thố ti tử 4 lạng
Lộc giác giao 4lạng Cao quy bản 4 lạng.

Ý nghĩa:. Đây là phương thuốc Lục vị địa hoàng hoàn bỏ Trạch tả, Phục linh, Đơn bì thêm Kỷ tử, Ngưu tất, Thỏ ti tử, Lộc giác giao, Cao quy bản để tăng tác dụng bổ can thận âm. Có thể dùng cho các trường hợp tinh huyết tân dịch bất túc.

Phương thuốc: Đại bổ nguyên tiễn (Cảnh Nhạc toàn thư)

Thục địa 8 lạng Sơn dược 4lạng
Sơn thù 4 lạng Đỗ trọng 4 lạng
Kỷ tử 4 lạng Đương quy 3 lạng
Nhân sâm 2 lạng Chích thảo 2 lạng.

Ý nghĩa: Đây là phương thuốc Lục vị địa hoàng hoàn bỏ Trạch tả, Phục linh, Đơn bì thêm Nhân sâm, Đương quy, Chích thảo, Đỗ trọng, Kỷ tử để bổ nguyên khí dưỡng khí dưỡng huyết hỗ trợ cho tư âm. Phương này dùng trong âm hư có khí hư.

Phương thuốc: Đại bổ âm hoàn (Đan Khê tâm pháp)

Hoàng bá              4lạng,               Tri mẫu               4 lạng,

Thục địa                6 lạng               Quy bản             6 lạng.

Tủy lợn chưng chín 1 cái.

Làm hoàn mật, mỗi lần uống 2-3 đồng cân.

Ý nghĩa: Hoàng bá (khổ hàn) để tả thận hỏa, làm khỏe thận âm. Tri mẫu để tư âm thanh nhiệt. Thục địa để tư bổ thận âm, Qui bản để tư âm tiềm dương. Tủy lợn để tư bổ tinh tủy.

Dùng trong trường hợp âm hư nội nhiệt rõ (như có triều nhiệt, cốt chưng, ho máu…) để tư âm giáng hỏa.

  1. Can âm hư.

Thường do thận âm hư, thận thủy không dưỡng được can mộc, cũng có thể do can hỏa làm tổn thương can âm.

Triệu chứng: Đầu đau, chóng mặt, tai ù, mắt khô, sợ ánh sáng, dễ cáu gắt hoặc hay chuột rút, mặt sắc hồilg, lưỡi khô đỏ hơi tím, mạch huyền tế (sác)

Phép điều trị: Bổ can thang (Y tôn kim giám)

Đương quy,          Bạch thược,                Xuyên khung,

Thục địa,               Toan táo nhân,            Mộc qua,

Cam thảo, Mạch môn Gượng bằng nhau).

Ý nghĩa: Đây là phương thuốc tứ vật thang để dương huyết như can) phối hợp với Toan táo nhân, Mộc qua, Mạch đông, Cam thảo để tư dưỡng can âm với cách dùng thuốc cam toan để hóa âm, dưỡng thủy để nuôi dưỡng mộc.

Nếu đầu đau, chóng mặt, ù tai nhiều, hoặc hay chuột rút máy cơ thì thêm Cúc hoa, Quyết minh, Câu đằng để bình can tiềm dương. Nếu mắt khô sợ ánh sáng, nhìn không rõ thì thêm Kỳ tử, Thảo quyết minh để dưỡng can minh mục Gàm sáng mắt). Nếu dễ xúc động, cáu gắt, nước đái đỏ, ỉa khó thêm Hoàng cầm, Chi tử, Long đồm thảo để thanh tả can hỏa.

Phương thuốc: Đương quy bổ huyết thang (Nội ngoại thương biện hoặc luận)

Hoàng kỳ                1 lạng             Đương quy              2 đồng cân

Ý nghĩa: Hoàng kỳ để bổ khí của tỳ vị, Đương quy để bổ huyết hòa dinh. Phương này để bổ huyết trong điều kiện có biểu hiện khí.

  1. Vị âm hư

Thường là giai đoạn sau của bệnh nhiệt, do nhiệt làm tổn thương tân dịch vì tân dịch bị tổn thương, khí ít nên sự thu nạp thủy cốc của vị sẽ giảm.

Triệu chứng: Không muôn ăn hoặc biết đói song không ăn, tâm phiền, sốt nhẹ, ỉa khó phân khô vón, nôn khan, nấc lưỡi đỏ, mạch tế sác. Có thể loét miệng lưỡi.

Phép điều trị: ích âm dưỡng vị.

Phương thuốc: ích vị thang (Ôn bệnh điều biện)

Sa sâm             3 đồng cân             Mạch    môn 5 đồng cân

Đường phèn    1 đồng cân             Sinh     địa    5 đồng cân

Ngọc trúc     1,5 đồng cân.

Phương thuốc: Dưỡng vị thang (Diệp thị phương)

Mạch môn, Bạch biển đậu (sống),

Ngọc trúc, Cam thảo, Tang diệp, Sa sâm

Có thể thêm Thạch hộc, ô mai, nếu cần thêm nước mía.

Ý nghĩa: Sa sâm, Mạch môn, Ngọc trúc, Sinh địa để tư dưỡng tân dịch. Đường phèn để dưỡng vị hòa trung. Nếu miệng loét thêm Nhân sâm tu, Thạch hộc, Tang diệp, ô mai, Biển đậu sống, Thiên hoa phấn để dưỡng vị khí sinh tân, thanh nhiệt. Nếu khí nghịch thêm Bán hạ; Cam thảo, Đại táo, Ngạnh mễ để hòa vị giáng nghịch, và uống lúc thuốc còn nóng.

  1. Tâm âm hư

Thường do nguồn sinh hóa của huyết thiếu, hoặc mất máu hoặc tâm hỏa cang thịnh hoặc thân bị tiêu hao quá độ làm dinh huyết hư, âm tinh kiệt gây nên.

Triêu chứng: Tim đập mất ngủ, hay giật mình, hay quên tâm phiền, ra mồ hôi trộm hoặc lưỡi loét, miệng loét, sắc mặt hồng, lưỡi đỏ sẫm, mạch tế sác.

Phép điều trị: Tư dưỡng tâm âm an thần.

Phương thuốc: Bá tử dưỡng tâm hoàn (Thể nhân hội thiên)

Bá tử nhân 4lạng Kỷ tử 3 lạng
Mạch môn 1 lạng Đương quy 1 lạng
Xương bồ 1 lạng Phục thần 1 lạng
Huyền sâm 2 lạng Thục địa 2 lạng
Cam thảo 5 đồng cân Hoàn mật.

Ý nghĩa: Bá tử nhân, Phục thần để an thần dưỡng tâm, Thục địa, Huyền sâm, Mạch môn để tư âm thanh nhiệt, Đương quy, Kỷ tử để dưỡng huyết, Xương bồ khai khiếu.

Phương thuốc: Thiên vương bổ tâm đơn (Nhiếp sinh bí phẫu)

Đan sâm 5 đồng cân Huyền sâm 5 đồng cân
Bạch linh 5 đồng cân Ngũ vị tử 2 lạng
Viễn chí 5 đồng cân Cát cánh 5 đồng cân
Đương quy 2 lạng Thiên môn 2 lạng
Mạch môn 2 lạng Bá tử nhân 2 lạng
Toan táo nhân 2 lạng Sinh địa  4 lạng
Nhân sâm  5 đồng cân

Hoàn mật, Chu sa 3-5 đồng cân để làm áo thuốc.

Ý nghĩa: Sinh địa để dưỡng huyết, Huyền sâm, Thiên môn, Mạch môn để tư âm thanh hỏa. Đan sâm, Đương quy để bổ huyết dưỡng huyết, Nhân sâm, Phục linh để ích khí ninh tâm. Toan táo nhân, Ngũ vị tử để thu liễm tâm khí, an tâm thần Long nhãn, Viễn chí, Chu sa để dưỡng tâm an thần.

Phương thuốc: Thục huyền môn thang (Thuốc nam châm cứu)

Thục địa 16g, Thiên môn 12g,
Mạch môn 12g, Thạch hộc 12g,
Huyền sâm 12g, Bố chính sâm (sao gừng) 16g,
Hạt sen 12g, Bá tử nhân 12g,

Toan táo nhân (sao đen) 12g

Ý nghĩa: Thục địa để bổ âm dưỡng huyết. Mạch môn, Thiên môn, Thạch hộc, Huyền sâm để tư âm thanh hư hỏa. Bố chính sâm, Hạt sen để ích khí ninh tâm, Bá tử nhân, Toan táo nhân để dưỡng tâm an thần.

Nếu lưỡi miệng loét thêm Hoàng liên, Trúc diệp, Mộc thông để thanh nhiệt.

  1. Phế âm hư.

Thường do bệnh lâu phế âm suy, hoặc nhiệt tà làm tổn thương phế, hoặc mất nhiều mồ hôi, tân dịch thiếu không dưỡng được phế.

Triệu chứng: Thường ho khan, ho nặng không có đờm hoặc có ít đờm dính, họng khô ngứa, tiếng khàn, người gầy lưỡi đỏ ít tân dịch, mạch tế vô lực, hoặc ho máu triều nhiệt đạo hãn, mạch tế sác (có nội nhiệt)

Phép điều trị: dưỡng phế âm thanh nhiệt Phương thuốc: Sa sâm mạch đông thang (ôn bệnh điều biện)

Sa sâm 3 đồng cân Mạch đông 3 đồng cân
Ngọc trúc 2 đồng cân Sinh cam thảo 1 đồng cân
Tang diệp l,5 đồng cân Sinh biển đậu l,5 đồng cân
Thiên hoa phấn l,5 đồng cân

Ý nghĩa: Sa sâm, Mạch môn, Ngọc trúc để tư âm nhuận phế, Tang diệp, Thiên hoa phấn, Cam thảo để thanh phế sinh tân.

Nếu triều nhiệt thêm Địa cốt bì, Miết giáp. Nếu đạo hãn thêm Mâu lệ, gốc cây lúa. Nếu ho máu thêm A giao, Bối mẫu, Bách hợp.

Phương thuốc: Bách hợp cố kim thang (Y phương tập giải)

Sinh địa 2 đồng cân Thục địa 3 đồng cân
Mạch môn l,5 đồng cân Bạch thược 1 đồng cân
Đương quy 1 đồng cân Bối mẫu 1 đồng cân
Cát cánh 0,8 đồng cân

Ý nghĩa: Sinh địa, Thục địa để tư âm bổ thận lương huyết. Mạch môn, Bách hợp, Bối mẫu để hóa đờm chỉ ho. Huyền sâm để tư âm thanh hư hỏa. Đương quy để dưỡng huyết nhuận táo. Bạch thược để dưỡng huyết ích âm. Bối mẫu, Cát cánh để tuyên phế chỉ ho hóa đờm, Cam thảo để điều hòa các vị thuốc.

Phương thuốc: Cao bổ phế âm (Thuốc nam châm cứu)

Cao ban long 400g Cao quy bản 400g
Thiên môn 120g Mạch môn 200g
Bách bộ 120g Tử hà xa 2cái
Mật ong 250ml

Mỗi ngày 40g chia làm 2 lần.

Khí hư

  1. Phế khí hư

Thường thấy ở các bệnh ho khạc lâu ngày, ở người nói nhiều, làm phế khí suy dần. Tỳ khí hư, thận khí hư, tâm khí hư cũng dẫn đến phế khí hư yếu.

Triệu chứng: Khí đoản, lười nói, tiếng nói nhỏ, hay đứt quãng, làm hơi nặng thì thở, tự ra mồ hôi, dễ cảm, lúc nón;/ lúc lạnh, người mệt mỏi, lưỡi nhạt, mạch hư yếu.

Phép điều trị: ích khí cố biểu

Phương thuốc: Bổ phế thang (Vinh loại linh phương)

Nhân sâm,                Hoàng kỳ,           Thục địa,

Ngũ vị tử                 Tử uyển,             Tang bạch bì

Ý nghĩa: Sâm kỳ để bổ dưỡng phế khí, Tang bạch bì, Tử uyển để nhuận phế chĩ ho. Thục Ngũ vị ích thận nạp khí. Phương thuốc: Bảo nguyên thang (Bác ái tâm giám)

Nhân sâm,                         Hoàng kỳ,

Cam thảo                           Nhục quế,

Lượng bằng nhau.

Ý nghía: Hoàng kỳ, Nhân sâm, Cam thảo để bổ nguyên khí, phế khí, trung khí. Nhục quế để ôn dương.

Phương thuốc: Tứ quân tử thang (Cục phương)

Nhân sâm,                         Bạch linh,

Cam thảo                           Bạch truật

Lượng bằng nhau.

Ý nghĩa: Sâm để bổ nguyên khí kiện tỳ dưỡng vị, Bạch truật để kiện tỳ táo thấp. Phục linh, Cam thảo để kiện tỳ thảm thấp.

Nếu tự hãn thêm Hoàng kỳ.

Phương thuốc này chủ yếu để ích khí kiện tỳ, từ đó bổ phế khí.

  1. Tâm khí hư.

Thường do già, khí hư, hoặc mất quá nhiều mồ hôi, ỉa lỏng quá nhiều,.các yếu tố làm khí huyết bị tổn thương gây nên.

Triệu chứng: Tim đập, khí đoản, tự hãn, mặt bệch, không có sức, lưỡi mạch hư hoặc kết đại.

Phép điều trị: Bổ ích tâm khí.

Phương thuốc:

  1. Thiên vương bổ tâm đơn (xem tâm âm hư)
  2. Sinh mạch tán (Nội ngoại thương biện hoặc luận) Nhân sâm 10g Mạch môn 15g Ngũ vị tử 6g Ý nghĩa: Nhân sâm để bổ nguyên khí. Mạch môn để dưỡng âm sinh tân. Ngũ vị tử để liễm khí chỉ hãn.
  3. Tỳ khí hư.
  • Thường do cơ thể vốn suy yếu, lao lực, ăn uống không điều độ làm tổn thương tỳ khí, dẫn đến tỳ khí hư.

Triệu chứng: Ăn ít, ăn xong thấy trướng bụng, mệt mỏi lúc ỉa lỏng lúc không, hoặc phù thũng, đái ít, đái không lợi, mạch hoãn nhược.

Phép điều trị: Kiện tỳ ích khí.

Phương thuốc: Hương sa lục quân tử thang (Y phương tập giải)

Nhân sâm 12g Bạch truật 12g
Bạch linh 12g Cam thảo 8g
Trần bì 9g Bán hạ 12g
Sa nhân 6g Mộc hương 6g

Ý nghĩa: Nhân sâm để bổ nguyên khi kiện tỳ dưỡng vị. Bạch truật để kiện tỳ, Phục linh, Cam thảo để kiện tỳ thảm thấp. Trần bì, Bán hạ để hóa đờm. Sa nhân, Mộc hương để lý khí chỉ thông tỉnh tỳ.

Phương này chủ yếu để chữa tỳ khí hư, hàn thấp trệ ở trung tiêu, gây đau bụng.

bạch truật phiến
bạch truật phiến

Phương thuốc: Sâm linh Bạch truật tán (Cục phương)

Nhân sâm 2 đồng cân

Bạch linh 2 đồng cân

Bạch truật 2 đồng cân

Liên tử 1 đồng cân

Ý dĩ 1 đồng cân

Bạch biển đậu 1,5 đồng cân

Sơn dược 2 đồng cân

Sa nhân 1 đồng cân

Cát cánh 1 đồng cân

Cam thảo 2 đồng cân

Ý nghĩa: Sâm Truật để ích khí kiện tỳ, Linh Thảo để hóa thấp hòa trung, Sơn dược, Bạch biển đậu, Liên nhục, Ý dĩ để bổ tỳ chỉ tả, Sa nhân để tỉnh tỳ thúc đẩy quá trình vận hóa. Cát cánh để dẫn thuốc vào thái âm phế, để ích phế.

Phương thuốc này chủ yếu để chữa tỳ hư tiết tả.

Nếu ỉa lỏng không cầm được thì thêm Thăng ma, Sài hồ để làm thanh khí thăng lên

Nếu có biểu hiện tỳ dương hư, đau bụng thì thêm Quế, Can khương để ôn trung tán hàn.

Phương thuốc: Viên bổ tỳ ích khí (Thuốc nam châm cứu)

Bố chính sâm 40g Rễ đinh lăng lá nhỏ 40g
Rễ vú bò 40g Củ sả 30g
Tdĩ 30g Cam thảo 15g
Trần bì 20g Can khương 10g

Ý nghĩa: Bố chính sâm, Cam thảo, Rễ đinh lăng để ích khí kiện tỳ. củ sả, Ý dĩ, Can khương để kiện tỳ ôn trung chỉ tả. Trần bì để lý khí.

Phương thuốc này có tác dụng như Sâm linh bạch truật tán.

  • Nếu tỳ hư không giữ được tổ chức ở nguyên vị trí, tổ chức bị sa xuống (khí hư hạ hãm)

Triệu chứng: Sa nội tạng (tử cung, dom, dạ dày, rong băng huyết), ỉa chảy mạn, ăn kém, ăn xong trướng bụng, bụng dưới sệ xuống, người mệt thiểu khí.

Phép điều trị: Bổ tỳ ích khí thăng đề.

Phương thuốc: Bổ trung ích khí thang (Tỳ vị luận)

Hoàng kỳ 1 đồng cân Cam thảo 0,5 đồng cân
Nhân sâm 0,3 đồng cân Đương quy 0,2 đồng cân
Trần bì 0,4 đồng cân Thăng ma 0,3 đồng cân
Sài hồ 0,3 đồng cân Bạch truật 0,3 đồng cân
Phương thuốc: Cử nguyên tiễn (Cảnh Nhạc toàn thư)
Nhân sâm 3-5 đồng cân Hoàng kỳ 3-5 đồng cân
Cam thảo 1-2 đồng cân Bạch truật l-2 đồng cân
Thăng ma 0,5-0,7 đồng cân

Ý nghĩa: Hoàng kỳ để ích khí, Nhân sâm, Bạch truật, Cam thảo để kiện tỳ ích khí. Trần bì để lý khí. Đương quy để bổ huyết. Thăng ma để thăng đề.

  • Nếu tỳ khí hư không nhiếp huyết.

Triệu chứng: Mặt bệch hoặc vàng sạm, ăn kém, chảy máu (ỏ da, ở mũi, rong băng kinh, viễn huyết), mạch tế nhược.

Phép điều trị: Kiện tỳ nhiếp huyết.

Phương thuốc: Qui tỳ thang (Tế sinh phương)

Hoàng kỳ 1 lạng Bạch truật 1 lạng
Nhân sâm 0,5 lạng Phục thần 1 lạng
Long nhãn 1 lạng Toan táo nhân 1 lạng
Mộc hương 0,5 lạng Cam thảo 2,5 lạng
Đương quy 1 đồng cân Viễn chí 1 đồng cân
Sinh khương 31át Đại táo lquả

Ý nghĩa: Sâm Kỳ Truật Thảo Khương Táo để bổ tỳ ích khí. Qui để dưỡng huyết, Viễn chí để giao tâm thận, định chí an thần, Mộc hương để lý khí tỉnh tỳ.

Huyết hư.

  1. Tâm huyết hư.

Thường do nguồn sinh hóa của huyết thiếu, hoặc mất máu, hoặc thần bị hao làm cho dinh huyết hư, âm tinh kiệt gây nên.

Triệu chứng: Tim đập hồi hộp mất ngủ (ngủ khó) hay giật mình, tâm phiền hay quên, chóng mặt, sắc mặt không nhuận, không đẹp, môi lưỡi nhợt nhạt, mạch tế nhược.

Phép điều trị: Dưỡng tâm huyết an thần.

Phương thuốc: Tứ vật thang (Cục phương)

Đương qui                 10g              Xuyên khung 8g

Bạch thược                12g              Thục địa                  Ì2g

Để dưỡng huyết thêm Bá tử nhân, Toan táo nhân, Phục thần, Mạch môn để an thần.

Vị thuốc Đương quy
Vị thuốc Đương quy

Phương thuốc: Cao bổ huyết (Thuốc nam châm cứu)

Cao ban long               40g              Long nhãn              40g

Long nhãn sắc kỹ lấy 1 chén tống, hòa với Cao ban long

Ý nghĩa: Cao ban long để tư âm huyết. Long nhãn để dưỡng tâm an thần.

Phương thuốc: Qui tỳ thang (Tế sinh phương) xem 3.3. Tỳ hư không nhiếp huyết.

Phương này chủ yếu thông qua bổ nguồn sinh hóa của huyết để dưỡng tâm can.

  1. Can huyết hư.

Thường do huyết hư không dưỡng được can, làm can dương nhiễu ở trên.

Triệu chứng: Hoa mắt, ù tai, đau cạnh sườn, dễ giật mình, nữ thì kỉnh không đều hoặc không có kinh, mặt bệch, lưỡi nhợt, mạch huyền tế.

Phép diều trị: Bổ huyết dưỡng can.

Phương thuốc: Tứ vật thang (Cục phương)

Đương qui                   10g              Thục địa                  12g

Xuyên khung               8g                Bạch thược 12g

Ý nghĩa: Qui Thục để bổ âm huyết, Bạch thược vào can để hòa dinh, Xuyên khung để điều khí hoạt huyết. Nếu ù tai thêm Mâu lệ để tiềm dương. Hay giật mình thêm Toan táo nhân, Viễn chí để an thần. Đau cạnh sườn thêm Sài hồ, Uất kim, Hương phụ để sơ can giải uất. Nếu bệnh lâu phải kết hợp với phương thuốc bổ khí dưỡng huyết.

Nếu huyết hư có thêm nhiệt thêm Tri mẫu, Hoàng bá để tư âm thanh nhiệt.

Nếu chân tay lạnh, mặt bệch, mạch hư (có hàn) thêm Quế Phụ để ôn dương.

Sai lầm: Gối cao đầu thì ngủ ngon, yên giấc?

Trước đây người ta vẫn thường nói “gối cao đầu thì ngủ ngon yên giấc”, đó là nói gối cao đầu lên để ngủ thì người sẽ cảm thấy dễ chịu, tư tưởng tình cảm sẽ yên định, càng dễ ngủ ngon giấc. Nhưng khi chúng ta gối cao đầu lên ngủ thì nhất thiết không được quên một câu danh ngôn của Trung Quốc nói là “Người không biết nghĩ xa thì tất sẽ có mối lo gần”, bởi vì rằng gối cao đầu ngủ sẽ gây tổn hại lâu dài cho sức khỏe.

Thói quen ngủ sử dụng gối quá cao
Thói quen ngủ sử dụng gối quá cao

Cổ là do các cơ quan cột sống cổ, cơ bắp, huyết quản, thần kinh và da cấu thành, nó có độ cong gập tự nhiên nhất định. Nhưng khi gối cao đầu lên thì sẽ tăng thêm độ cong gập của cô lên nhiều, làm cho nó ở vị trí gập về đằng trước và làm cho cơ bắp ở phần gáy bị kéo quá căng ra. Nếu như vậy chỉ trong thời gian ngắn sẽ làm cho “xương chẩm sa xuống” và cảm thấy rất mệt mỏi ở cổ, hơn nữa còn sẽ tạo nên tình trạng động mạch ở đó bị nén ép, tuần hoàn huyết dịch không thông thoát. Động mạch cổ là đường thông chủ yếu cung cấp huyết dịch cho đại não, lưu thông máu ở động mạch cổ bị trở ngại sẽ làm cho lượng máu vào đại não giảm thiểu, gáy nên tổn thương thiếu oxy cung cấp cho não và làm hại tế bào. Thường xuyên dùng gối cao để gối đầu ngủ sẽ tăng nặng thêm ma sát bên trong của cột sống cổ, làm cho khung xương bị biến dạng, gây nên tổn hại và thoái hóa sụn đệm cột sống, làm cho hoạt động của cổ bị hạn chế, cột sống cổ trở nên cứng đơ ra, đồng thời sinh ra các triệu chứng đau ở cổ, vai và đầu. Nếu là những người đã bị tăng sinh chất xương bên trong cột sống cổ rồi mà lại gối đầu cao để ngủ thì sẽ thu hẹp khe hở ở trong cột sống cổ, làm cho huyết quản và thần kinh bị nén ép càng thêm tổn hại, sẽ làm tăng nặng thêm các triệu chứng đau nhức đầu, tê tay v.v… Cho nên, các bác sĩ vẫn thường đề nghị những người có những bệnh ở cột sống cổ nên dùng các gối nhỏ để gối đầu ngủ. Gối bằng mặt dưới cổ tay, nhưng làm cho đầu treo lơ lửng để kéo thẳng cột sống cổ ra, tăng thêm khoảng khe trống rỗng ở trong cột sống cổ, giải trừ sự nén ép với huyết quản và thần kinh, giảm nhẹ các triệu chứng khó chịu như trên.

Đối với những người khỏe mạnh, để đề phòng các bệnh ở cột sống cổ cũng cần chọn gối thấp đê gối đầu ngủ. Phải làm cho cổ ở trạng thái bằng, thẳng, ngay ngắn, làm cho cơ bắp ở gáy thư giãn khi nằm ngủ, như vậy mới có thể giải trừ được những mệt mỏi, đau tức ở đầu và cổ khi ngủ, đồng thời ngăn chặn được tăng sinh chất xương. Độ cao khi gối đầu khoa học nhất là 6-9 cm. Đối với nhiều người, sợ rằng không quen với gổi đầu bằng gối quá thấp như vậy, nhưng để tiêu trừ được cả mối lo xa cũng như mối lo gần đối với sức khỏe, các bạn hãy tập bỏ thói quen gối đầu cao để ngủ, nhằm bảo đảm sức khỏe trước mắt cũng như lâu dài cho chính bạn.

Khiên ngưu tử

Khiên ngưu tử
Khiên ngưu tử

KHIÊN NGƯU TỬ

Tên Khác:

Bạch Khiên Ngưu, Bạch Sửu, Bồn Tăng Thảo, Cẩu Nhĩ Thảo, Giả Quân Tử, Hắc Ngưu, Hắc Sửu, Nhị Sửu, Tam Bạch Thảo, Thảo Kim Linh, Thiên Gìa (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Bìm Bìm Biếc (Việt Nam), Lạt Bát Hoa Tử.

Tên khoa học:

Semen Pharbitidis.

Họ khoa học:

Họ Bìm Bìm (Convolvulaceae).

Mô tả:

Dây leo bằng thân quấn, thân mảnh, có lông. Lá 3 thùy nhẵn và xanh ở mặt trên, xanh nhạt và có lông ở mặt dưới, dài 14cm, rộng 12cm, cuống dài 5-9cm. Hoa màu hồng tím hoặc lam nhạt. Quả nang, hình cầu nhẵn, có 3 ngăn, 2-4 hạt, 3 cạnh lưng khum, 2 bên dẹt nhẵn nhưng ở tễ hơi có lông, màu đen hoặc trắng tùy loại.

Địa lý:

Mọc hoang.

Thu Hái, Sơ Chế:

Thu hái vào các tháng 7-10. Hái quả chín về, đập lấy hạt phơi khô làm thuốc.

Bộ Phận Dùng:

Hạt. Có 2 loại: màu trắng gọi là Bạch sửu, màu đen hoặc màu vàng nhạt gọi là Hắc sửu. Hạt đó là được dùng nhiều hơn. Hạt đen có 3 cạnh to bằng hạt đậu xanh, vỏ cứng đen, chắc, nhân có màu vàng nhạt, không mọt mốc là tốt. Thứ hạt nhỏ ít dùng hơn.

Bào chế:

+Chọn bỏ tạp chất,sao to lửa cho đến khi hạt thuốc phồng lên là được, để nguội dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).

+Dùng sống: Phơi khô, khi bốc thuốc thang thì gĩa dập hoặc tán nhuyễn làm hoàn tán (tác dụng xổ mạnh).

Dùng chín: Sao vàng cho thơm *xổ yếu hơn+ (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).

Bảo Quản:

Để nơi khô, thoáng gió.

Thành phần hóa học:

+Trong Khiên ngưu tử có Pharbitin (Pharbitic acid và vài Purolic acid) là chất Glocosid có khoảng 2%, Nilic acid, Gallic acid, Lysergol, Chanoclavine, Penniclavine, Isopenniclavine, Elymoclavine (Trung Dược Học).

Tác dụng Dược Lý:

+Tác Dụng Tẩy Xổ: chất Pharbitin có tác dụng tẩy xổ mạnh tương tự chất Jalapin. Khi chất Pharbitin vào ruột gặp mật và dịch ruột sẽ thủy phân thành Khiên ngưu tử tố kích thích ruột làm tăng nhu động gây ra tẩy xổ. Nước hoặc cồn chiết xuất Khiên ngưu đều có tác dụng gây tiêu chảy ở chuột nhắt nhưng nước sắc thì không có tác dụng đó.

+Tác Dụng Lên Thận: Khiên ngưu tử làm tăng độ lọc Inulin của Thận.

+Tác Dụng Diệt Giun: Khiên ngưu tử, in vitro có tác dụng ức chế giun đũa (Trung Dược Học).

-Độc Tính: Độc tính của thuốc đối với chuột, liều LD50 là 37,5/kg. Ở người, có triệu chứng muốn nôn, nôn do thuốc kích thích trực tiếp lên đường tiêu hóa. Liều cao có thể ảnh hưởng đến Thận, dẫn đến tiểu ra máu cũng như các triệu chứng thần kinh(Trung Dược Học).

Tính vị:

+Vị đắng, tính hàn, có độc (Danh Y Biệt Lục).

+Vị cay, tính nhiệt, có độc (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+Vị đắng cay, tính hàn, có độc (Trung Dược Học).

+Vị đắng, tính lạnh (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Quy Kinh:

+Vào phần khí, thông Tam tiêu, đến Mệnh môn bên phải (Bản Thảo Cương Mục).

+Vào kinh Phế, Đại trường, Tiểu trường (Bản Thảo Thông Huyền).

+Vào kinh Phế, Thận, Đại trường, Tiểu trường (Trung Dược Học).

+Vào kinh Phế, Đại trường (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Tác dụng:

+Trục thủy, trục đờm ẩm, diệt giun, tiêu tích, thông trệ (Trung Dược Học).

+Lợi đại tiểu tiện, trục thủy, tiêu đờm (Đông Dược Học Thiết Yếu).

-Chủ Trị:

Liều dùng:6-12g trong thuốc sắc. 2-4g khi dùng đơn vị thuốc tán.

Kiêng Kỵ:

+Có thai: không dùng ; Người Vị suy, khí hư: cẩn thận khi dùng (Trung Dược Học).

Đơn thuốc kinh nghiệm:

+Trị hàn thấp thủy sán, âm nang sưng, đại tiểu tiện không thông: Hắc sửu, Bạch sửu, Tiểu hồi. Thêm đường . tất cả tán bột. Ngày uống 4g lúc sáng sớm (Vũ Công Tán – Nho Môn Sự Thân).

+Trị giun đũa, giun kim: Khiên ngưu tử, Binh lang, Đại hoàng. Lượng bằng nhau, tán bột. Uống vào sáng sớm và tối, lúc đói bụng, mỗi lần 2-3g với nước sôi ấm (Ngưu Lang Hoàn – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+Trị giun kim: Khiên ngưu tử 10g, Lôi hoàn 10g, Sinh địa 3g. Tán bột, chia làm 2 lần uống với nước sôi ấm (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+Trị Thận viêm, phù thũng: Khiên ngưu tử 36g (tán bột), Đại táo 60g (nấu chín, bỏ hột, gĩa nhuyễn), Sinh khương 500g (bỏ vỏ, gĩa lấy nước). Cho Khiên ngưu vào nước Gừng, trộn đều với Táo, bỏ lên bếp, chưng30 phút. Chia làm 8 phần . mỗi ngày uống vào sáng, trưa, chiều, tối, lúc bụng đói. Uống liên tục 4-5 ngày cho hết (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+Trị gan xơ, bụng nước hoặc Thận viêm mạn: Khiên ngưu tử 120g, Hồi hương 30g. Tán bột mịn. Mỗi lần uống 6-8g lúc bụng đói với nước sôi nóng. Ngày 1 lần, liên tục trong 2-3 ngày (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+Trị phù thũng: Khiên ngưu tử 10g, Xa tiền tử 8g, Gừng 2g, nước 300ml. Sắc còn 150ml, chia 2 lần uống trong ngày. Nếu tiểu nhiều được thì tốt (Dược Liệu Việt Nam).

+Trị tinh thần phân liệt: Đại hoàng 12g, Hùng hoàng 12g, Hắc sửu 24g, Bạch sửu 24g, Mạch nha 16g. Tán bột, làm viên 2g. Ngày uống 4 viên. 1 đợt 15 ngày, nghỉ 7 ngày rồi lại tiếp tục (Y Học Thực Hành 1968, 154: 27-29).

+Trị động kinh: Khoa thần kinh bệnh viện thủ đô Bắc Kinh thuộc Viện khoa học y học Trung Quốc dùng chiết xuất của Khiên ngưu làm được viên hoặc hoàn trị 115 cas động kinh trong 3 tháng. Tỉ lệ: có kết quả56,7%. Hiệu quả trị bệnh của thuốc viên và hoàn như nhau. Đối với tất cả các thể bệnh đều có kết quả (Nội Khoa Trung Hoa Tạp Chí 1977, 6:323)

Tham khảo:

“Ông Đông Viên nói rằng: sách ‘Danh Y Tập Chú’ ghi là vị Khiên ngưu vị đắng, tính hàn là lầm. Khiên ngưu dùng ít thì thông đại tiện, dùng nhiều thì gây ra tiêu lỏng. Vì nó là thuốc bổ khí, vị cay, nhấm vào miệng lâu lâu thấy cay cay, hăng mạnh, nào có vị đắng, tính hàn đâu? Trong sách thuốc nói thấp là tên riêng của thủy, tức là vật hữu hình. Những người Phế trước đây bị thấp, khí ẩm không thể biến hóa, đến nỗi đại tiểu tiện không thông, rất nên dùng nó. Vì Khiên ngưu có thể khơi tháo Phế khí, khí ẩm hết thì phần khí sẽ được chu lưu. Nếu không xét bệnh có thấp khí hay không, hễ thấy có thương thực hoặc có nhiệt chứng, đều dùng Khiên ngưu, như vậy không lầm sao? Huống gì Khiên ngưu chỉ có thể tả được thấp nhiệt ở phần huyết. Nếu thấp khí ở hạ tiêu, tức là thấp khí ở trong huyết, nên dùng vị đắng, hàn mà trị mới đúng, trái lại, nếu dùng Khiên ngưu, là vị thuốc có vị cay, tính nhiệt mà tả thấp khí ở thượng tiêu, đó là bệnh ở huyết mà lại tả khí, tất nhiên khí huyết đều sẽ bị hao tổn vậy” (Trung Quốc Dược Học đại từ Điển).

“Khiên ngưu dùng chung với Mộc hương, Can khương thì tác dụng càng mạnh. Vương Hiếu Cổ nói rằng: Khiên Ngưu dùng chung với khí dược thì vào phần khí, dùng chung với Đại hoàng thì vào phần huyết” (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

“Khiên ngưu chuyên về hành thủy, là thuốc tẩy xổ mạnh, liều lượng ít thì có tác dụng nhuận trường, liều lượng nhiều thì xổ mạnh. Khiên ngưu lại chia ra 2 loại đen, trắng. Sức thông lợi bài tiết của Hắc sửu nhanh còn Bạch sửu thì chậm hơn. Đối với loại thuốc tẩy xổ, Hắc Bạch sửu và Thương lục là thuốc trục thủy, Cam toại, Đại kích, Nguyên hoa là thuốc công thủy. Tất cả đều làm tổn thương chính khí. Thông thảo, Xa tiền tử là thuốc lợi thủy; Ngũ gia bì, Đông qua bì là thuốc hành thủy, các vị này không làm tổn thương chính khí” (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Bướu nguyên bào gan ở trẻ em

Bướu gan của trẻ em phần lớn ác tính, thường gặp nhất là bướu nguyên bào gan và ung thư tế bào gan. Ở Việt Nam, bướu nguyên bào gan hiện diện 4,2% tổng số các bệnh ung thư trẻ em, xếp thứ 5 trong 10 loại ung thư thường gặp.

Những thất bại trong điều trị ung thư tế bào gan lại không xảy ra trong bướu nguyên bào gan vì tổn thương cùa bướu nguyên bào gan thường là một ổ và không xơ gan.

I. LỊCH SỬ

Năm 1898, Misick mô tả bướu quái của gan bé 6 tuần tuổi và tử vong. Năm 1962, Willis dùng tên gọi bướu nguyên bào gan. Năm 1967, Ishak và Glunz đã đưa ra những tiêu chuẩn phân biệt giữa BTBG và bướu nguyên bào gan.

II. BỆNH LÝ KẾT HỢP

  • Dị tật bẩm sinh chiếm 5 – 6% gồm thận móng ngựa, chẻ vòm, thoát vị rốn
  • Hội chứng Beckwith – Wiedemann, Li – Fraumeni, bệnh đa polyp gia đình, ba nhiễm sắc thể..
  • bướu nguyên bào gan có thể sản xuất HCG (Human Chorionic Gonadotropin). Trẻ dậy thì sớm (giọng trầm, có lông mu, phì đại cơ quan sinh dục).

III. CHẨN ĐOÁN BƯỚU NGUYÊN BAO GAN

  1. Khám lâm  sàng:  bướu  gan,  trong  5  năm  đầu  cuộc  sống trai > gái.
  2. Siêu âm: khối bướu dạng đặc của gan, hoại tử, xuất huyết, có mạch máu tân sinh nuôi bướu, có vôi hóa.
  3. Chụp cắt lớp điện toán: khối bướu có bao nhiêu ổ, kích thước, mối liên quan với mạch máu Phát hiện hạch vùng, ổ di căn ở phổi, thuyên tắc.
  4. Định lượng AFP trong máu và các xét nghiệm khác
    • Tăng AFP trẻ >1 tuổi rất có ý nghĩa trong
    • Thiếu máu đẳng sắc, đẳng bào thường gặp, chiếm 70%. Số lượng tiểu cầu tăng cao hơn 500*109/L được ghi nhận 35% và trên 800*109/L với tỷ lệ 29%.
  5. Bệnh lý hay hội chứng di truyền có liên quan bướu nguyên bào gan

IV. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT: chỉ đặt ra khi có bất kỳ dữ liệu nào không phù hợp.

V. XẾP GIAI ĐOẠN

Xếp giai đoạn tùy theo SIOP (Châu Âu), hay C.O.G (Mỹ).

  • Phân loại bướu nguyên bào gan theo Evans.

Giai đoạn I:

Cắt bướu hoàn toàn không sót bướu về mặt vi thể

Giai đoạn II:

Cắt bướu nhưng còn sót bướu về mặt vi thể ở bờ phẫu thuật

Giai đoạn III:

Cắt bướu nhưng còn sót bướu về mặt đại thể hay làm rơi vãi bướu, hay chỉ sinh thiết bướu

Giai đoạn IV:

Có di căn ở thời điểm chẩn đoán

  • Phân loại theo giai đoạn bướu nguyên bào gan theo SIOPEL
Phân loại theo giai đoạn bướu nguyên bào gan theo SIOPEL
Phân loại theo giai đoạn bướu nguyên bào gan theo SIOPEL

V (tĩnh mạch gan), P (tĩnh mạch cửa), C (thùy đuôi), E (ngoài gan), M (di căn)

Theo PRETEXT hay POST – TEXT

VI. ĐIỀU TRỊ

1. Phẫu thuật

Theo Andres, từ năm 1991 – 2006 có 4/78 trường hợp xếp giai đoạn I được phẫu thuật và không hóa trị với tỉ lệ sống 100%. Ehrlich đã đề cập vai trò chủ yếu của phẫu thuật trong quá trình điều trị, đặc biệt vào giai đoạn I. Magololowkin có 9 trường hợp giai đoạn I, không hóa trị sau mổ, với kết quả mô học là dạng biểu mô thai đơn thuần và lưu ý hóa trị không cần thiết do độc tính của thuốc. Finegold cũng nêu trong thực hành, hóa trị trước mổ khi nghi bướu nguyên bào gan mà không cố gắng thực hiện phẫu thuật trước là thực hành kém.

Nhưng các tác giả trong nhóm đều đồng ý hóa trị sau mổ bướu nguyên bào gan giai đoạn II, III vì bướu nguyên bào gan rất nhạy với thuốc, và với phác đồ phối hợp thuốc khác nhau tùy theo khả năng cắt bướu.

Phẫu thuật cắt bướu hoàn toàn khi bờ phẫu thuật không tìm thấy tế bào ác tính, cũng như không làm vỡ bướu trong lúc phẫu thuật. Năm 2003, Chamberlain và Blumgart đã ghi nhận bờ phẫu thuật an toàn khi cách khối bướu 1cm.

2. Hóa trị

Phác đồ điều trị bướu nguyên bào gan chuẩn

Cisplatin 80mg/m2 T TM 24h N1
Doxorubicin 30mg/m2 TTM 24h N1, 2

Hóa trị thực hiện 4 chu kỳ và thời gian nghỉ giữa 2 chu kỳ liên tiếp là 3 tuần hay 21 ngày.

Phác đồ điều trị bướu nguyên bào gan nhóm nguy cơ cao

Carboplatin 500mg/m2 TTM 1h N1
Doxorubicin 30mg/m2 TTM 24h N1, 2
Xen giữa mỗi 2 tuần là:
Cisplatin 80mg/m2 TTM 24h N1

Phác dồ điều trị bướu nguyên bào gan có thể thay đổi tùy nhóm nghiên cứu khác nhau như: INT-0098 với C5V (Cisplatin, 5- Fluorouracil, Vincristin); GPOH với IFOS/CDDP/DOXO…

Phác đồ điều trị bướu nguyên bào gan tái phát theo GPOH

Etoposide 100mg/m2 TTM N1-4
Carboplatin 200mg/m2 TTM N1-4

Thực hiện phác đồ này khi diễn tiến xấu (AFP tăng cao) trong quá trình điều trị hay tái phát ung thư tại bờ phẫu thuật.

3.   Phẫu thuật sau hóa trị

Nhằm cắt bỏ khối bướu đã giảm kích thước, còn sót lại, hạch vùng do di căn hay thùy phổi bị di căn. Cắt thùy phổi do di căn chỉ được thực hiện:

  • Bướu nguyên phát đã được cắt bỏ.
  • Ổ di căn xuất hiện sau 6 tháng điều trị.
  • Ổ di căn có đáp ứng điều trị với AFP< 25mg/ml.

VII. THEO DÕI

  • Định lượng AFP trong máu.
  • Siêu âm định kỳ.
  • AFP trong máu tăng mà không rõ lý do: chụp CT phổi, bụng, não.

VIII. PHẪU THUẬT GHÉP GAN

  • Tổn thương đa ổ, được xếp giai đoạn IV PRETEXT và không có chống chỉ định ghép Ghép gan được thực hiện bờ phẫu thuật không tìm thấy tế bào ung thư và  khi hóa trị
  • Tổn thương chiếm hết 4 phần của gan theo PRETEXT và không giảm kích thước sau khi hóa trị
  • Tổn thương nằm ở vị trí khoảng cửa và chiếm trọn 3 tĩnh mạch

– Phẫu thuật ghép gan được thực hiện tại rung tâm ghép gan và do một đội ngũ chuyên trách thực hiện. Phẫu thuật được thực hiện sau 4 chu kỳ hóa. Địa chỉ điện tử đăng ký ghép gan (PLUTO) http://pluto.cineca.org

Sơ đồ điều trị bướu nguyên bào gan

Sơ đồ điều trị bướu nguyên bào gan

Thuốc Bicalutamide (Casodex) để điều trị ung thư tuyến tiền liệt

Bicalutamide là gì, và nó hoạt động như thế nào (cơ chế tác dụng)?

Bicalutamide là một loại thuốc uống được sử dụng để điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Nó thuộc về một lớp thuốc gọi là anti-androgens, bao gồm flutamide (Eulexin) và nilutamide (Nilandron). Androgen (một ví dụ là testosterone) là hormone được sản xuất và giải phóng bởi tuyến thượng thận. Chúng có vai trò hỗ trợ (kích thích) các mô chủ yếu được coi là thuộc về nam giới, ví dụ, tuyến tiền liệt nam. Các đặc điểm nam giới khác cũng bị ảnh hưởng bởi androgen bao gồm lông mặt và lông cơ thể, và ngực nhỏ. Anti-androgens ngăn chặn tác động của androgen bằng cách chặn các thụ thể cho androgen trên các tế bào của các mô, ví dụ, các tế bào của tuyến tiền liệt. Ngoài các tế bào tuyến tiền liệt bình thường, androgen cũng đã được chứng minh là kích thích sự phát triển của các tế bào ung thư trong tuyến tiền liệt. Bicalutamide được cho là ngăn chặn sự phát triển của ung thư tuyến tiền liệt bằng cách chặn các tác động của androgen lên các tế bào ung thư. Bicalutamide đã được FDA chấp thuận vào năm 1995.

Tên thương mại nào có sẵn cho bicalutamide?
Casodex

Bicalutamide có sẵn dưới dạng thuốc generic không?

Tôi có cần đơn thuốc cho bicalutamide không?

Tác dụng phụ của bicalutamide là gì?

Khi bicalutamide và một loại thuốc tương tự LHRH được dùng cùng nhau, tác dụng phụ phổ biến nhất là cảm giác bốc hỏa (50% bệnh nhân) và đỏ mặt. Rượu có thể làm tăng cường phản ứng này, do đó nên được tiêu thụ một cách thận trọng.

Các tác dụng phụ phổ biến khác của sự kết hợp này bao gồm:

  • Nhiễm trùng,
  • Giữ nước,
  • Thiếu máu,
  • Tiêu chảy,
  • Táo bón, và
  • Đau tổng quát,
  • Đau lưng,
  • Đau hông, và
  • Đau dạ dày.

Các loại thuốc tương tự LHRH có thể làm tăng lượng glucose trong máu và làm nặng thêm tình trạng tiểu đường. Các tác dụng phụ ít phổ biến hơn là sự phình to của ngực và đau ngực, có thể là do bicalutamide gây ra.

Liều lượng của bicalutamide là gì?

Bicalutamide nên được uống một viên 50 mg vào buổi sáng hoặc buổi tối vào cùng một thời điểm mỗi ngày. Nó có thể được uống với hoặc không có thức ăn. Một khi liệu pháp bicalutamide đã bắt đầu, nó không nên bị ngắt quãng hoặc dừng lại mà không có sự tham khảo ý kiến của bác sĩ.

Bicalutamide có an toàn để sử dụng nếu tôi đang mang thai hoặc cho con bú không?

CÁC BÀ MẸ ĐANG NUÔI CON BẰNG SỮA:

Bicalutamide không được sử dụng để điều trị cho phụ nữ.

Những điều gì khác tôi nên biết về bicalutamide?

Các dạng bicalutamide nào có sẵn?
Viên nén: 50 mg.

Tôi nên bảo quản bicalutamide như thế nào?

Bicalutamide nên được bảo quản ở nhiệt độ phòng, từ 15 C đến 30 C (59 F đến 86 F).

TÓM TẮT

Bicalutamide (Casodex) là một loại thuốc được chỉ định để điều trị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn muộn. Các tác dụng phụ, tương tác thuốc, và thông tin an toàn cho bệnh nhân nên được xem xét trước khi sử dụng thuốc này.

Hiện tượng điếc, ù tai, tạp âm…

Hiện tượng điếc, ù tai, tạp âm…

Người già thường gặp những tật về thính lực, như nghe không rõ những câu đối thoại trong phim, nghe không rõ những gì mình nói và người khác nói trong những nơi ồn ào, hay bỏ sót những chữ nghĩa quan trọng và then chốt. Sự mất khả năng nghe một phần này là dạng thần kinh cảm giác, tức là điếc dạng thần kinh như người ta thường nói (Nerve Deafness).Trong những người ở độ tuổi từ 55, có 1/4 không còn có sức nghe hoàn toàn bình thường, tuy nhiên không cần lo là sẽ diễn biến tới dạng điếc. Trong chương này tôi chỉ muốn nói về một số hiện tượng đáng sợ, một hay cả hai tai hoàn toàn không nghe thấy gì cả, trước hết xin mời các bạn tìm hiểu về cơ chế hoạt động của thính giác. Khi sóng âm thanh đi vào lỗ tai, đập vào màng nhĩ, khiến màng nhĩ rung động, có ba miếng xương nhỏ nối liền với màng nhĩ, sẽ rung động theo, và kích thích máy tiếp thu thần kinh nhỏ, nhờ đó phát ra tín hiệu, do thần kinh thính giác truyền về não bộ.

Cho nên muốn duy trì khả năng nghe bình thường, cần giữ cho đường nhĩ thông thoáng, sóng âm thanh truyền vào không bị cản ngại, nguyên nhân phổ biến gây trở ngại về thính giác của người thành niên, thường do đường nhĩ có quá nhiều ráy tai gây tắc nghẽn, trẻ em thì do dị vật trong tai, như một số đồ chơi nhỏ, hạt đậu…

Bất kỳ độ tuổi nào nếu thành trong đường nhĩ mắc chứng bệnh mãn, hay bị viêm nhiễm, khiến thành bị sưng, ảnh hưởng tới sức nghe.

Ngoài ra, vấn đề có thể ở bản thân màng nhĩ, do màng nhĩ bị sẹo, hay nhiễm khuẩn, bị thương, hay sức ép thay đổi khó thích ứng, khiến màng nhĩ bị thủng, tín hiệu truyền vào bị mất chính xác.

Những miếng xương nhỏ sau màng nhĩ, cũng có thể xảy ra vấn đề, có khi miếng xương nhỏ đó ở người già bị dính liền, không thể rung động một cách độc lập, không thể kích thích đầu mút dây thần kinh, để thần kinh phát ra tín hiệu.

Khi Cơ chế chịu trách nhiệm đưa tín hiệu tới thần kinh não, xẩy ra vấn đề, người ta vẫn không nghe thấy âm thanh dù đường tai, màng nhĩ và miếng xương nhỏ đều không mắc bệnh. Nguyên nhân gây bệnh là do mạch máu phụ trách cung cấp chất dinh dưỡng bị xơ cứng, hay mạch máu bị khối u đè, gây tắc nghẽn, cuối cùng có một trường hợp là bản thân não bị tổn thương, không thể tiếp nhận sóng âm thanh, và phân giải cho chính xác.

Ngoài ra, có một số chứng bệnh tuy không liên quan tới thính giác nhưng lại ảnh hưởng tới thính giác, như chứng bệnh yếu chức năng tuyên giáp, chỉ cần bổ sung kích thích tố giáp trạng, sẽ trở lại thính giác như bình thường.hay chứng viêm thấp khớp, cũng gây ảnh hương tới thính giác.

Bệnh tiểu đường cũng gây ảnh hưởng xấu tới thính giác, tuy nhiên chỉ cần duy trì đường máu, sẽ cải thiện được triệu chứng thị giác nhưng lại không thể giúp thính giác bị thương ấy trd lại bình thường.

Nếu trong cơ thể có tỉ lệ cholesterol máu cao, cân nặng quá mức, thính giác cũng chịu ảnh hưởng xấu. Ngoài ra, những chứng bệnh như biên chứng ở thận, hút thuốc quá nhiều, dị ứng, uống thuốc aspirin quá liều, một số thuốc kháng sinh, hay thuốc khác gây dị ứng, cũng có thể dẫn tới tình trạng mất khả năng nghe.

Xin tóm lược một số triệu chứng dưới đây để các bạn tiện theo dõi:

  • Đột nhiên mất khả năng nghe mà không có cảm giác đau, chắc do ráy tai hay dị vật gây ách tắc.
  • Bạn đang dùng một số thuốc gì ư ? Như aspirin liều cao, kháng sinh, thuốc lợi tiểu, thuốc trị bệnh tim, thường gây hại cho giác quan nghe của người uống.
  • Nếu cộng thêm có cảm giác đau, chắc do đường tai hay màng nhĩ bị viêm.
  • Khi bị cảm, cảm giác khó chịu ở tai, nghe không rõ, nếu bây giờ còn ngồi máy bay, vòi Eustache (vòi nhĩ) nôi tai giữa với họng bị tắc nghẽn, khiến triệu chứng điếc càng thêm nghiêm trọng. Thông thường tai sẽ đau vài ngày nhưng sau đó sẽ dần dần trở lại bình thường trừ phi sự thay đổi áp lực trên máy bay quá lớn khiến màng nhĩ bị nứt mà thôi.
  • Nếu trong tai có tạp âm, sau đó thì không nghe nữa, chắc do chứng bệnh bệnh Meniere, tức là hệ thống tiền đình phụ trách cân bằng cơ thể bị tai biến.
  • Ai có chứng đau một bên đầu, trước, đang và sau khi xảy ra co thắt về động mạch thính giác, thường có hiện tượng ù tai và điếc.Nêu xảy ra ở người bình thường, chắc do chứng cao huyết áp, hay xơ cứng động mạch hay cả hai.
  • Nếu khả năng nghe của bạn ngày một kém đi, một bên tai có tạp âm, cần lập tức tìm tới bác sĩ, có thể thần kinh thính giác bị khối u (Acoustic Neuroma), cần phải mổ để điều trị.
  • Người bị tiểu đường khi phát hiện mình có một bên tai nghe kém, hay mất khả năng nghe, cho thấy bệnh tình đã ảnh hưởng tới khả năng nghe.
  • Khi đầu bị thương, mất khả năng nghe, chóng mặt hay ù tai, cho thấy cơ chế trong tai đã bị thương. Bệnh nghề nghiệp, cũng là nguyên nhân gây điếc quan trọng, nếu môi trường làm việc của bạn luôn ồn ào, cần phải có phòng hộ lao động, nếu không thì nên đổi nghề, đồng thời cũng không nên thường xuyên tới những sàn nhảy disco quá ồn tránh gây hại lỗ tai.

Định hướng biện pháp xử lý

Triệu chứng : Mất khả năng nghe

Khả năng mắc bệnh Biện pháp xử lý
1. Điếc do thần kinh liên quan tới tuổi tác. • Sử dụng máy trợ thính.
2. Ráy tai hay dị vật. • Làm sạch ráy tai, lấy khỏi dị vật.
3. Màng nhĩ bị thẹo hay bị nứt. • Sử dụng máy trợ thính.
4. Kết dính với xương màng nhĩ. • Mổ.
5. Xơ cứng động mạch tai. • Bớt ăn dồ mỡ
6. Suy tuyến giáp. • Bổ sung kích thích tố giáp trạng.
7. Viêm khớp dạng phong thấp. • Sử dụng thuốc chống viêm.
8. Tiểu đường. • Không chê đường máu.
9. Bệnh thận. • Không chế thuốc men.
10. Hút thuốc quá nhiều. • Cai thuốc lá.
11. Dị ứng thuốc. • Hạ liều lượng thuốc hay thay phương thuốc.
12. Tắt nghẽn vòi nhĩ nối tai giữa với họng bị tắt nghẽn. • Dùng thuốc nhỏ khoang mũi.
13. Bệnh Meniere. • Khó trị.
14. Khối u thần kinh thính giác. • Mổ.
15. Tổn thương bởi tiếng ồn. • Xa lánh tiếng ồn, phòng bệnh hơn trị bệnh.

Có phải nước pha trà càng sôi càng tốt?

Những người ưa thích uống nước trà, ngày nào cũng phải pha trà uống; nhưng pha trà như thế nào cho khoa học nhất thì đó là cả một vấn đề học vấn rộng lớn. Có rất nhiều người cho rằng nước không sôi thì trà pha không “chín”. Khái niệm “chín” trà ở đây là chỉ trà có thể nhanh chóng dậy mùi thơm đặc thù. Có người thì lại thích dùng nước vừa sôi để pha trà; thậm chí còn có người lại bỏ ngay trà vào trong ấm nước rồi đun sôi v.v…; nhưng tất cả những nhận thức và tập quán cho rằng “nước pha trà càng sôi càng tốt” rất không khoa học chút nào.

Trà đặc
Trà đặc

Sở dĩ mọi người thích uống nước trà, một là do vì vị giác và khứu giác, trà đều mang lại cho người ta một hương vị rất độc đáo, nó có thể làm cho người ta có cảm giác như hương vị đó thấm cả vào gan vào ruột, làm cho hết khát, tăng thêm hưng phấn, đầu óc tỉnh táo, tư tưởng minh mẫn, lợi tiểu, tiêu độc. Hai là, do trong trà có chứa các chất như theocin, caffeine, những chất này có công hiệu kích thích và làm hưng phấn thần kinh trung khu, chống mệt mỏi, làm tỉnh táo con người, làm giãn nở huyết quản, đẩy mạnh việc thay đổi chuyển hóa chất. Ba là, do trong trà còn có nhiều những thành phần dinh dưỡng như vitamin và chất khoáng, có thể thông qua uống nước trà mà làm tăng sức khỏe con người.

Pha trà
Pha trà

Song, muốn làm cho việc uống nước trà đạt được hiệu quả như mong muốn thì phải có một số điều kiện nhất định, vì rằng một số thành phần có ích nào đó trong trà không chịu được sức nóng. Ví dụ như: Tinh dầu thơm, theocin, vitamin ở trong nước sôi mạnh chúng sẽ bị phá hủy, bốc hơi phân giải và biến đổi chất. Những người có kinh nghiệm đều biết: Nếu bỏ trà vào siêu rồi trực tiếp đun trên bếp thì hương vị của nước trà đun ra sẽ mất đi rất nhiều so với nước trà đem pha và nói chung nó lại còn có thêm cả vị đắng, chát nữa. Hơn nữa, thời gian nấu càng lâu thì hương thơm của trà càng bị mất đi và vị đắng chát càng tăng. Các học giả về dinh dưỡng qua thí nghiệm cũng chứng minh rằng: Độ nóng của nước càng cao, thời gian duy trì độ nóng cao đó càng dài thì sự phá hủy đối với một số thành phần có ích nào đó trong trà càng lớn. Nếu nước trà nấu sôi trên 10 phút thì một số tinh dầu thơm và vitamin sẽ bốc hơi và phá hủy đi mất gần hết. Đồng thời sự phai ra và hòa tan của một thành phần khác nữa trong trà như tannic acid sẽ tăng lên cao cùng với độ nóng của nước và sự kéo dài thời gian giữ trà ở độ nóng đó, chất tannin ở trong nước sôi nói chung phai ra và hòa tan tương đối chậm, hơn nữa, nó chịu được nhiệt độ cao, khó bị phá hủy. Còn vị đắng chát ở trong nước trà thì chủ yếu là chất tannic acid. Ngoài chất tannic acid còn có protein đông chắc lại và kết hợp với các chất khoáng như sắt, canxi, kẽm lắng đọng xuống, làm cho cơ thể không thể nào hấp thu được; đồng thời nó còn có thể kích thích niêm mạc dạ dày và ruột, ức chế tiết ra dịch vị làm trở ngại đến tiêu hóa. Tóm lại, chất tannin rất bất lợi cho sức khỏe.

Cách pha trà khoa học là làm sao không những tận lượng giữ được những chất có ích trong trà, mà còn tận lượng giảm bớt được sự phai ra những chất có hại. Muốn làm được điều này thì nhiệt độ của nước pha trà là điểm mấu chốt nhất. Nhiệt độ cao quá, những chất có ích sẽ bị mất đi, những chất có hại sẽ tăng lên và hương thơm hấp dẫn của nước trà thì sẽ bốc đi mất, giá trị dinh dưỡng sẽ giảm bớt, vị đắng chát sẽ trở nên nồng đậm hơn. Thế mà nhiệt độ quá thấp thì các chất có ích lại không thể phai ra và hòa tan hết trong nước trà được. Các chuyên gia về mặt này cho rằng độ nóng nước dùng để pha trà thích hợp phải là từ 70°c đến 80°c. Trong phạm vi nhiệt độ này, vừa có thể làm cho các chất có ích trong trà phai ra và hòa tan được nhiều hơn trong nước, lại vừa có thể làm cho các chất độc hại như tannic acid phải ngấm ra ít hơn.

Làm thế nào để biết được nhiệt độ thích hợp này của nước pha trà? Có 3 phương pháp:

Một là, khi đun, nghe thấy rõ tiếng nước reo đều đều là được. Ngoài những vùng núi cao hay ở vùng cao nguyên phía Tây của Trung Quốc, độ nóng của nước khi đã là trên 70°c, các vi sinh vật, vi khuẩn gây bệnh đã bị diệt có hiệu quả thì đem nước ở nhiệt độ như vậy pha trà là vừa rồi.

Hai là, sau khi nước đun sôi để một lát cho hơi nguội đi đôi chút rồi đem pha trà.

Ba là, dùng 3 phần nước vừa sôi xong đem pha với 1 phần nước sôi để ấm, dùng số nước đã pha chế đó đổ vào bình pha trà là được.

Vậy thì, một ấm trà cần pha mấy lần?

Căn cứ theo chủng loại trà và cách uống của người uống để định ra số lần pha. Hồng trà và trà nhúng vụn được gia công theo kiểu riêng, tế bào của trà đã bị nghiền vụn ra, chất nhựa trong nước của nó bám vào trà vụn dưới dạng các hạt nhỏ, thành phần có hiệu quả rất dễ phai ra và hòa tan, cho nên, những loại trà ở dạng này thì chỉ pha được một lần, còn nếu pha thêm lần nữa thì không còn mùi vị gì nữa. Còn nếu với loại trà đã pha tẩm chế biến dưới dạng trà xanh, trà mạn, trà ướp hoa, hồng trà, chưa qua chế biến dưới dạng nghiền vụn, như vậy, thành phần hữu hiệu của trà phai ra tương đối chậm. Khi pha bằng nước nóng từ 70°c đến 80°c thì pha lần thứ nhất có thể làm cho trên dưới 40% thành phần hữu hiệu của trà phai ra; pha lần thứ hai cũng có thể phai ra thêm được khoảng 40% thành phần hữu hiệu nữa; pha lần thứ ba thì phai ra tới khoảng 12% nữa và khi pha đến lần thứ tư thì chỉ còn độ từ 2 đến 3% thành phần hữu hiệu của trà phai ra nữa thôi. Vì thế cho nên nói chung, chỉ nên pha đến lần thứ hai, thứ ba là vừa. Điều cần nêu ra là do chất tannic acid phai ra tương đối chậm và nó còn đọng lại để phai ra trong các lần pha sau nhiều đôi chút, cho nên trong những thành phần phai ra của mấy lượt pha sau, tỉ lệ của tannic acid sẽ ngày càng nhiều hơn, còn các chất tinh dầu thơm và vitamin của trà thì ngày càng ít đi.

Bệnh lý mạch máu ngoại vi trong bệnh lý bàn chân đái tháo đường

Tình trạng bệnh lý mạch máu ngoại vi chịu ảnh hưởng của các yếu tố liên quan như: độ kết dính tiểu cầu, số lượng bạch cầu đơn nhân, nồng độ lipid máu, tình trạng tế bào cơ trơn, nồng độ calci … Tất cả đều giống như người bình thường không bị mắc bệnh đái tháo đường. Tuy nhiên sự khác biệt là ở chỗ, người đái tháo đường tình trạng xơ vữa mạch xảy ra ở lứa tuổi trẻ hơn, tiến triển với tốc độ nhanh hơn.

Các yếu tố nguy cơ phát triển bệnh mạch máu ngoại vi là yếu tố gen, tuổi, thời gian mắc bệnh, thói quen hút thuốc, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, tăng glucose máu, béo phì, tăng insulin máu, protein niệu dương tính, thậm chí do cả sử dụng một số thuốc (tác động lực co cơ hoặc chẹn beta giao cảm).

1. Các yếu tố ảnh hưởng khác

Vai trò của thuốc lá trong bệnh lý bàn chân được Pollin đánh giá là nguyên nhân gây ra tử vong ở 325.000 – 355.000 trường hợp/năm; bằng già nửa nguyên nhân gây chết do tai biến của lạm dụng thuốc và rượu cộng lại; gấp 11 lần chết do AIDS; gấp 7 lần tai nạn giao thông, và nhiều hơn toàn bộ số người Mỹ bị chết trong thế chiến thứ nhất, thứ hai và chiến tranh Việt Nam.

Xơ vữa mạch do thuốc lá thường xảy ra ở những mạch máu lớn, đối xứng hai bên như động mạch chậu hoặc động mạch đùi.

Các biến chứng mạch máu gây ra bởi thuốc lá là do các cơ chế được trình bày dưới đây:

  • Tăng xơ vữa mạch:

– Tăng cacboxyhemoglobin.

– Tăng carbonmonoxid.

– Tăng triglycerid.

– Tăng VLDL-C.

– GiảmHDL-c.

– Giảm prostacylin.

– Thừa cân, béo phì.

– Tăng huyết áp.

– Tăng tiết microalbumin niệu.

  • Giảm dòng chảy:

– Tăng co thắt mạch.

– Tăng đông.

– Tăng độ nhớt của máu.

– Biến dạng tế bào máu, nhất là hồng cầu.

  • Tăng đông máu:

– Tăng khả năng hình thành cục máu đông.

– Tăng lắng tiểu cầu.

– Tăng fibrinogen.

– Tăng hoạt động của yếu tố Willebran.

– Giảm plasminogen và hoạt hóa plasminogen.

Tăng huyết áp là một yếu tố có ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình xơ vữa mạch, cũng còn là yếu tố nguy cơ độc lập với bệnh lý mạch máu ngoại vi.

Rối loạn chức năng của tiểu cầu

Cho tới nay chưa có tài liệu nào chứng minh được mối quan hệ chặt chẽ giữa tăng tiểu cầu và bệnh lý mạch vành; nhưng bệnh lý mạch máu ngoại vi kết hợp với tăng tiểu cầu thì chắc chắn có.

Lakso và Pyorala chứng minh mối liên quan chặt chẽ giữa triệu chứng đau cách hồi – ở cả người đái tháo đường typ 1 và 2 – với các chỉ số được chứng minh là có rối loạn chuyển hóa lipid như triglycerid; LDL- c, cả hai có xu hướng tăng cao rõ rệt kết hợp với giảm HDL- c và đặc biệt là HDL2.

Nhiều nghiên cứu thấy có sự thay đổi của tế bào máu ngoại vi ở người bệnh đái tháo đường type 2; những thay đổi thường gặp là: tăng thể tích trung bình của hồng cầu, tăng số lượng bạch cầu hạt trung tính, giảm bạch cầu lympho và tăng thể tích trung bình của hồng cầu. Các chỉ số đông máu biểu hiện tình trạng tăng đông; đó là giảm rPT, rAPTT, rTT, TT, APTT và hoạt tính AT-III.

Tăng glucose máu

Tình trạng tăng glucose máu mạn tính có liên quan chặt chẽ với bệnh lý các mạch máu lớn. Jensen- Urstad – nghiên cứu DCCT- đã chứng minh quản lý tốt glucose máu sẽ làm chậm quá trình xơ vữa mạch ở người đái tháo đường typ 1. Tăng glucose máu đã trực tiếp tham gia vào quá trình tạo mảng xơ vữa, gây tăng huyết áp và là nguyên nhân gây rối loạn lipid máu; cũng chính tăng glucose máu là nguyên nhân gián tiếp tạo ra những thay đổi xơ vữa của động mạch

Rối loạn chuyển hoá lipid

Rối loạn phân bố mỡ của cơ thể cũng là một yếu tố tiên lượng độc lập cho các rối loạn về chuyển hóa, có liên quan chặt chẽ đến tỷ lệ mắc các biến chứng và tử vong do tim mạch. Béo bụng và thân có kết hợp với tăng insulin máu, tăng triglycerid; tăng huyết áp và hạ HDL-C. Bjorntorb có báo cáo về trường hợp béo bụng có kháng insulin. Peiris đã đo lớp mỡ trong ổ bụng bằng phương pháp chụp cắt lớp và đã chứng minh được béo tạng gây nguy cơ bệnh lý mạch vành cao hơn béo phì đơn độc.

Nhiều nghiên cứu đều kết luận tăng insulin máu thường kết hợp với béo bụng và là yếu tố quan trọng làm tăng nguy cơ bệnh lý mạch máu. Đây cũng là tập hợp các nhóm tổn thương tạo thành hội chứng X nổi tiếng- được Reaven hoàn thiện báo cáo năm 1988.

2. Hoại tử ngón

Thường là hậu quả của xơ vữa mạch, hình thành các tắc vi mạch gây nhiễm trùng.

Các tắc mạch cũng còn do các nguyên nhân khác như tăng cholesterol, do dùng thuốc có thể làm giảm dòng máu đến, gây hoại tử chi.

Hội chứng cổ điển “ngón chân xanh” có nguyên nhân tắc mạch do cholesterol máu tăng, các mảng xơ vữa ở gần các mạch lớn đã gây hoại tử. Các ngón chân có màu đỏ tím, hoại tử có thể tiến triển từ những tổn thương này. Các mảng xơ vữa có ở động mạch chậu, động mạch chủ hoặc các mạch xa. Hội chứng thường khởi đầu bằng đau đột ngột ở ngón chân hoặc bàn chân; đau còn có thể thấy ở cơ bắp chân và đùi. Thăm dò cận lâm sàng thấy tốc độ dòng chảy bị chậm lại. về điều trị, ở giai đoạn này người ta có thể dùng liệu pháp warfarin hoặc streptokinase chống đông máu.

Hoại tử ngón có thể xảy ra ở những người dùng thuốc chẹn beta giao cảm, bởi chẹn beta giao cảm gây ảnh hưởng không tốt cho tuần hoàn ngoại vi. Zacharias thây biến chứng mạch xảy ra ở 22/305 người được dùng chẹn beta giao cảm (≈ 7,2%). Người ta cho rằng vì dùng thuốc chẹn beta giao cảm nên đã không có đối kháng để không chế chất co mạch cc (a – Vasoconstriction).

Ngày nay chẹn beta lại được chỉ định khá rộng rãi trong điều trị cơn đau thắt ngực, tăng huyết áp và sau nhồi máu cơ tim.

3. Triệu chứng và dấu hiệu của bệnh lý bàn chân ở người đái tháo đường

– Đau cách hồi.

– Lạnh chi.

– Đau về ban đêm.

– Đau cách hồi và đau về đêm, mất đi đột ngột.

– Mất mạch.

– Xanh tái (nhợt đi) khi giơ chân lên cao.

– Đỏ da bóng nhãy.

– Teo mỡ dưới da.

– Mất lông bàn chân và ngón chân.

– Móng dày lên, thường có nhiễm nấm móng.

– Hoại tử.

– Chậm đổ đầy máu tĩnh mạch sau khi giơ chân lên cao.

Triệu chứng đau cách hồi thường gặp nhất trong bệnh lý bàn chân ở người đái tháo đường; triệu chứng này lần đầu tiên được Charcot mô tả (1858). Thuật ngữ “Claudication” xuất phát từ chữ Claudicatio có nghĩa là đi khập khiễng; nhưng người bệnh có triệu chứng đau cách hồi không đi khập khiễng, họ phải dừng laị để nghỉ. Đau trong triệu chứng “đau cách hồi” được đặc trưng bằng cơn đau âm ỉ hoặc đau co cứng lại – như bị chuột rút. Đa phần xảy ra ở bắp chân, đau chỉ xảy ra khi đi bộ, hết đau khi người bệnh ngừng đi bộ, không cần phải ngồi xuống.

Cần phải chẩn đoán phân biệt đau cách hồi với các đau khác tương tự. Trong trường này đau có thể tăng lên khi đi bộ như đau cơ, đau do viêm khớp, đau do tổn thương rễ thần kinh, viêm tĩnh mạch do huyết khối gây thiếu máu, đau do phù niêm…

Điều đáng lưu ý là người mắc bệnh đái tháo đường có PAD nhiều khi không có triệu chứng đau cách hồi vì bệnh lý của thần kinh ngoại vi đã làm mất cảm giác này.

Cần phải phân biệt với giả đau cách hồi. “Giả đau cách hồi”cũng giảm đi khi nghỉ ngơi. Các giả đau cách hồi thường ở cẳng chân, còn đau cách hồi là ở bắp chân. Các triệu chứng của đau cách hồi phụ thuộc vào tình trạng thiếu máu ở cơ.

Về điều trị, tốt nhất vẫn là luyện tập bằng phương pháp đi bộ. Người thầy thuốc phải giúp người bệnh vạch ra kế hoạch luyện tập cho phù hợp. Điều trị ngoại khoa chỉ nên đặt ra khi các can thiệp bằng luyện tập và điều trị nội khoa không kết quả.

Triệu chứng gợi ý có giá trị cho điều trị ngoại là người bệnh có đau liên tục cả khi nghỉ ngơi, đau cả ban đêm… Cũng lưu ý là triệu chứng này ở người bệnh đái tháo đường có thể không có do thần kinh ngoại biên bị tổn thương nặng.

Thiểu năng mạch máu và bệnh lý thần kinh do bệnh đái tháo đường thường là nguyên nhân gây đau đớn, gây cảm giác nặng nề ở cang chân; đau do tổn thương mạch máu ở người đái tháo đường sẽ giảm khi ngồi xuống và đung đưa chân, đau sẽ tăng lên dữ dội nếu tiếp tục đi bộ. Nếu tổn thương gây tắc ở vùng khoeo, có thể có sự khác biệt về nhiệt độ ở hai vùng xương bánh chè. Da ở xung quanh khớp gối ở bên thiếu máu thường là ấm hơn do tăng cường dòng máu đến cuả tuần hoàn bàng hệ.

Lạnh chân là một triệu chứng của thiểu năng tuần hoàn ngoại vi của chi dưới.

Triệu chứng chậm làm đầy tĩnh mạch và bàn chân trở lên xanh nhợt hơn khi đưa chân lên cao 45°, triệu chứng này phản ánh trung thành tình trạng thiếu máu. Khi thực hành lâm sàng người ta có thể cho người bệnh ngồi để tiến hành thăm khám, thời gian đổ đầy mao mạch được tính như sau:

– Bình thường: 10-15 giây.

– Thiếu máu trung bình: 15-25 giây.

– Thiếu máu nặng: 25-40 giây.

– Thiếu máu rất nặng: > 40 giây.

Da vùng thiếu máu thường có sự thay đổi: lạnh, teo và bóng, vùng da này thường bị mất hết lông ở bàn chân và ngón chân, móng bị dày lên và có nấm móng (xem thêm các hình minh hoạ tổn thương bàn chân do đái tháo đường trong phụ bản).

4. Tắc mạch cấp

Phần lớn các tắc mạch diễn ra dần dần, nhưng cũng có những trường hợp tắc mạch cấp; đa số những trường hợp này có nguyên nhân là do những cục máu đông từ tim được tạo ra do rung nhĩ đi vào tuần hoàn.

Triệu chứng thường xảy ra đột ngột, chân người bệnh trắng nhợt, đôi khi có màu trắng xáp; các dấu hiệu thường gặp như dị cảm, tê bì, tê cứng. Người bệnh đột ngột thấy yếu hẳn ở bên chi tổn thương.

Các triệu chứng hay gặp là:

– Đau xuất hiện đột ngột (Pain).

– Da chi tổn thương tái xanh (Pallor) thậm chí có trắng xáp (Waxy).

– Dị cảm (Paresthesias).

– Mất mạch dưới nơi tắc (Pulselessness).

– Liệt: yếu cơ đột ngột (Paralysis).

Người ta còn gọi đây là hội chứng 5P.

Nội soi khớp là gì? Tại sao cần thực hiện nội soi khớp?

Nội soi khớp là gì?

Nội soi khớp là một loại phẫu thuật nội soi dùng để kiểm tra hoặc sửa chữa các khớp. Phẫu thuật nội soi là loại phẫu thuật chỉ cần thực hiện những vết cắt nhỏ trên cơ thể.

Nội soi khớp thường được áp dụng cho khớp gối, nhưng cũng có thể được thực hiện trên mắt cá chân, hông, vai, cổ tay và khuỷu tay.

Phương pháp này giúp xác định nguyên nhân gây đau, sưng và cứng khớp.

Tại sao cần thực hiện nội soi khớp?

Nội soi khớp có thể được thực hiện vì nhiều lý do.

Để tìm nguyên nhân của các vấn đề về khớp

Nội soi khớp thường được sử dụng để kiểm tra nguyên nhân gây ra các triệu chứng như:

  • đau khớp
  • sưng và cứng khớp
  • khớp bị khóa, di lệch hoặc không vững

Thông thường, thủ thuật này chỉ được thực hiện nếu các loại xét nghiệm khác, như chụp X-quang, không tìm ra nguyên nhân.

Để kiểm tra tình trạng sức khỏe của khớp

Đôi khi, bác sĩ sẽ thực hiện nội soi khớp để đánh giá xem khớp hoạt động như thế nào. Điều này có thể hữu ích khi bạn:

  • bị chấn thương khớp, chẳng hạn như chấn thương do thể thao
  • mắc các bệnh lý có thể gây tổn thương khớp theo thời gian, chẳng hạn như thoái hóa khớp

Để sửa chữa tổn thương ở khớp

Bác sĩ có thể sửa chữa một số tổn thương khớp trong quá trình nội soi, bao gồm:

  • loại bỏ các phần mô sụn bị tổn thương trên bề mặt khớp
  • sửa chữa các vết rách ở dây chằng nối giữa các xương của khớp
  • sử dụng dung dịch vô trùng để rửa sạch các mảnh mô bị tổn thương, gây cản trở hoạt động của khớp.

Chữa bệnh tiểu đường bằng uống trà thuốc hiệu quả

Bệnh tiểu đường là một tổ hợp của các bệnh do trao đổi chất và bài tiết không tốt gây ra. Bệnh do chức năng của tế bào insulin không bình thường, dẫn đến việc trao đổi chất đường, chất protein và cả chất béo bị rối loạn. Biểu hiện lâm sàng điển hình thường thấy là “ba nhiều một ít”, đó là uống nhiều, đi tiểu nhiều, ăn nhiều và tiêu hoá ít. Căn cứ theo nguyên nhân gây bệnh mà chia bệnh này ra làm 2 loại là tiểu đường mang tính kế phát và tiểu đường mang tính nguyên phát. Bệnh tiểu đường nguyên phát là để chỉ bệnh tiểu đường mà nguyên nhân gây bệnh chưa được xác định chính xác, nó còn được gọi là bệnh đái đường xảy ra đặc biệt hoặc nguyên nhân chưa rõ ràng, trong đó tuyệt đại đa số là đã mắc bệnh tiểu đường.

Những điều cần ghi nhớ về dưỡng sinh

Trong Đông y, bệnh tiểu đường được gọi là “tiêu khát” đồng thời căn cứ vào sự thứ tự của triệu chứng “ba nhiều” ở trên để chia thành tiêu hoá nhiều, tiêu hoá trung bình hoặc tiêu hoá ít. Khát mà uống quá nhiều nước thì xếp vào loại tiêu hoá nhiều, tiêu hoá tốt mà ăn nhiều được, xếp vào loại tiêu hoá trung bình, miệng khát, tiểu tiện táo thì gọi là tiêu hoá ít. Nếu trong cuộc sống hàng ngày, nếu kiên trì uống trà trong thời gian dài, có thể hỗ trợ cho việc giảm nhẹ bệnh này.

Các loại trà nên sử dụng

  • Trà mướp

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 200 gam mướp, 5 gam trà xanh. Mướp bỏ vỏ thái miếng, thêm chút muối vào đun sôi lên, sau đó thêm trà xanh vào khuấy đều lấy nước uống. Mỗi ngày 1 thang, chia thành 2 lần để uống.

Công dụng chữa trị: Thanh nhiệt, giải độc, mát máu, cầm máu, tiêu viêm, chống ho.

Chú ý: Trà này thích hợp với người bị tiểu đường, đường trong máu, gan nóng, ho.

mướp
mướp
  • Trà lão Tống

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 10 gam trà lão Tống (có thể thay bằng lá trà của cây trà có trên 70 năm tuổi). Đun sôi nước lên, ngâm hãm trà trong khoảng 5 phút là được. Mỗi ngày 1 thang, chia thành 2-3 lần uống.

Công dụng chữa trị: Hạ đường, sinh nhiệt, cầm khát.

Chú ý: Loại trà này thích hợp với người bị tiểu đường.

  • Trà phấn hoa

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 125 gam phấn hoa tươi. Phấn hoa tươi chế biến thành bột, mỗi ngày dùng 15-20 gam, cho nước sôi vào ngâm hãm, đậy nắp trong vài phút là được. Mỗi ngày uống nhiều lần thay trà, uống lâu dài sẽ thấy hiệu quả rõ rệt.

Công dụng chữa trị: Thanh nhiệt, sinh dịch, chống khát.

Chú ý: Phương trà này chủ trị tiêu khát, tiêu nhiệt, giải buồn bực, đồng thời có tác dụng an thần, bồi bổ. Nó thích hợp dùng với người bị bệnh tiểu đường gan dạ dày táo nhiệt, có tác dụng sinh nhiệt, chống khát rất tốt.

  • Trà tơ hồng

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 15 gam tơ hồng. Cho tơ hồng vào giã nát, cho vào túi vải gói lại, cho vào cốc nước sôi, hãm. Uống nhiều lần thay trà, có thể dùng thường xuyên.

Công dụng chữa trị: Bổ thận ích tinh.

Chú ý: Phương trà này thích hợp với bệnh tiểu đường do gan thận âm hư.

  • Trà ốc đồng

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 10 con ốc đồng. Dùng nước sạch rửa rồi ngâm ốc trong nửa ngày, rửa sạch bùn đất, cho vào nước sạch, đun lên lấy nước uống thay trà.

Công dụng chữa trị: Thanh nhiệt, giải khát.

Chú ý: Phương trà này thích hợp với chứng tiểu đường miệng khát, uống nhiều.

  • Trà lá cao lau

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 10 gam lá cao lau. Cho lá cao lau vào rửa sạch, giã nát, đun sôi lên uống thay trà. Mỗi ngày uống nhiều lần.

Công dụng chữa trị: Thanh nhiệt giải khát, tiêu viêm, chống phiền muộn.

Chú ý: Loại trà này thích hợp với chứng tiểu đường đau nửa đầu, nóng lòng, miệng khát uống nhiều.

  • Trà vỏ bí phấn hoa

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 9 gam vỏ bí đao, 9 gam vỏ dưa hấu, 6 gam phấn hoa. Hai vị đầu thái mỏng, cho vào đun sôi lên cùng với phấn hoa, sau đó bỏ bã lấy nước. Uống nhiều lần thay trà, không cố định thời gian.

Công dụng chữa trị: Sinh dịch, chống khát.

Chú ý: Phương trà này thích hợp với người bị tiểu đường, miệng khát, uống nhiều nước.

  • Trà lan hoàng thảo, ngọc trúc

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 9 gam lan hoàng thảo, 9 gam ngọc trúc, 3 gam trà xanh, đường phèn đủ dùng. Cho hai vị đầu cùng 300 ml nước đun sôi lên trong vòng 15-20 phút, lấy nước, tiếp đó cho trà xanh vào, đậy nắp trong 3-5 phút, thêm đường phèn, khuấy đều lên là được. Mỗi ngày 1 thang, uống nhiều lần thay trà, cho đến khi vị nhạt thì thôi.

Công dụng chữa trị: ích dạ dày, nhuận gan, thanh nhiệt dưỡng âm, sinh dịch, giải khát.

Chú ý: Phương trà này thích hợp với bệnh nóng, dịch ít, gan vị không tốt, hư hoả dẫn đến các chứng bệnh và chứng tiểu đường.

  • Trà sa sâm mạch đông

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 15 gam bắc sa sâm, 15 gam mạch đông, 15 gam sinh địa, 5 gam ngọc trúc. Cho tất cả 4 vị trên giã thành bột, thêm nước nóng vào ngâm hãm trong 15-20 phút, bỏ bã lấy nước. Mỗi ngày 1 thang, uống nhiều lần thay trà, không cần cố định thời gian uống.

Công dụng chữa trị: ích dạ dày, sinh dịch.

Mạch môn
Mạch môn
  • Trà râu ngô

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 100 gam râu ngô, 3 gam trà xanh. Cho râu ngô và 300 ml vào nồi đun sôi lấy nước, bỏ bã lấy nước, thêm trà xanh vào ngâm hãm uống. Mỗi ngày 1 thang, chia làm 3 lần uống nóng.

Công dụng chữa trị: Thanh nhiệt, giảm đường.

Chú ý: Phương trà này thích hợp với chứng người tiểu đường mà nước như nước thạch cao. Thông qua kiểm nghiệm trên động vật, râu ngô có tác dụng làm giảm mỡ máu rõ rệt, có tác dụng rất tốt với chứng tiểu đường, cao huyết áp, bệnh thận.

  • Trà tiêu khát

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Trà xanh, ngũ vị tử mỗi loại 4 gam; 15 gam cát căn, thiên hoa và mạch đông mỗi loại 10 gam; 15 gam tri mẫu. Cho cát căn và ba vị sau vào giã thành bột, rồi cho vào cốc trà, ngâm hãm với nước sôi. Mỗi ngày uống 1 thang, uống nhiều lần

thay trà.

Công dụng chữa trị: Sinh nhiệt, trị khát, hạ đường, dưỡng âm.

Chú ý: Phương trà này thích hợp với bệnh nhân tiểu đường.

Vị thuốc Thiên hoa phấn trong điều trị đái tháo đường
Vị thuốc Thiên hoa phấn trong điều trị đái tháo đường

Những điều cần ghi nhớ

Các nguyên nhân nguy hiểm gây ra bệnh tiểu đường là rất nhiều, ví dụ di truyền trong gia đình, thói quen ăn uống không tốt, hoạt động thể chất quá ít, béo phì, uống rượu nhiều, tinh thần căng thẳng v.v… đều có thể là nguyên nhân dẫn đến bệnh tiểu đường. Nhưng khống chế bệnh béo phì là một điểm mấu chốt trong phòng ngừa bệnh tiểu đường, cần tích cực mở rộng việc phòng ngừa bệnh tiểu đường này, cần tuyên truyền cho toàn dân biết được các nguyên nhân dẫn đến bệnh, nâng cao ý thực tự giác của cộng đồng, kịp thời khống chế các nguyên nhân gây bệnh, dần dần làm giảm tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường này.

Trong cuộc sống, muốn phòng ngừa bệnh tiểu đường, cần chú ý mấy điểm sau đây: Thứ nhất là thông qua vận động và ăn uống để giảm béo trong thực tế, đặc biệt là phải chủ ý vấn đề béo bụng, vì giảm béo bụng là rất hữu hiệu trong việc giảm đường. Thứ hai là phải khống chế được bệnh cao huyết áp, căn bệnh này có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ với bệnh tiểu đường. Thứ ba là định kỳ tiến hành kiểm tra đường trong máu: nếu bị béo hoặc cân nặng tăng nhanh, huyết áp hoặc mỡ máu có hơi cao một chút, người có tiền sử người trong cùng gia đình bị mắc tiểu đường. là những người có nguy cơ mắc tiểu đường rất cao. Sau 30 tuổi chúng ta nên kiểm tra lượng đường trong máu 3 năm 1 lần. Những người bình thường sau 45 tuổi, cứ mỗi 3 năm nên kiểm tra đường trong máu 1 lần. Như vậy, có thể phát hiện bệnh sớm, chẩn đoán sớm, điều trị sớm, thậm chí có thể giúp những người có nguy cơ mắc bệnh cao sẽ tránh được mắc căn bệnh này.

Đông y điều trị Trúng độc, nhiễm độc

Trúng độc là ăn nhầm đồ độc, tổn hại tạng phủ, hay là người bệnh chưa lành mà ăn đồ sống như hoa quả, thịt sống hay là trị bệnh do uống thuốc quá liều lượng, có chất độc, hoặc có người gia truyền nuôi thuốc độc, mỗi tháng đầu độc một ngày, như tháng riêng mồng một, tháng hai mồng hai, phần thuốc độc có 5 loại đầu độc vào thức ăn, thức ăn cùng thuốc độc đều vào dạ dày, thì trục độc theo đường đại tiện hoặc gây nôn ra độc ra được là dễ trị. Nếu đầu độc theo rượu, độc chạy khắp kinh lạc thì khó cứu.

  1. Kinh trị ngộ độc, đại tiện ra máu, máu như gan, hoặc mửa ra máu, hoặc đau trong bụng, như có vật gì cắt, hoặc ho tức nghẹt, hoặc bụng cứng, biến chứng rất nhiều. Nếu không chữa chạy để nó vào ngũ tạng

Da trống thủng, dài 1 thước, rộng 5 tấc, rễ tầm xuân, lồi như ngón tay, dài 5 tấc, thái ra từng miếng, nước 1 bát, rượu 3 bát, sắc còn phần nửa cho uống, thuốc độc sẽ ra ngay.

Các phương khác

Da trống thủng, đốt tán nhỏ, hoà rượu uống 2 đồng cân giây lát kêu tên họ người đầu độc thì khỏi.

Củ ráng bay 1 lạng, ngâm với nước đái trẻ em, sao dành dành hai quả, tô mộc hai lạng, nam sâm 1 lạng, thấn thảo 5 quả, cỏ mần chầu nủa nắm, sắc với nước thường uống.

Lõi cây dâu 1 đấu thái nhỏ, cho vào nồi đổ nước ngập vào ngâm, không đô nước nhiều hay quá ít, ngâm độ 2 – 3 giờ sắc 7 phần lọc bỏ bã, rồi lại bắc nữa đun được chừng nhỏ lửa đến còn 5 phần, uống lúc đói bụng, uống được chừng 5 chén thì mửa ra hết thuốc độc.

Dầu mè cho uống để gây nôn rất hay.

Rễ rau ngò rí, giã lấy nước nửa bát hoà với rượu cho uống thuốc độc ra ngay.

Cứt chim yến sao vàng 1 vốc, tỏi 3 củ bỏ vỏ, giã nát viên bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 3 viên, uống lúc đầu canh năm với nước âm ấm, thuốc độc sẽ ra theo đường đại tiện.

Gan lợn 1 cái, mật 1 thang, nấu chung, cắt gan làm 20 miếng ăn lúc đói bụng mỗi ngày 3 lần ăn hết là kiến hiệu.

Đất lòng bếp 1 cục bằng trứng gà. Tán nhỏ, hoà với nước mà uống, mửa được là kiến hiệu.

Trùng đất 14 con, giấm nửa bát, ngâm chung, đợi trùng chết thì bỏ trùng lấy giấm mà uống, như bệnh đã nguy thì cạy miệng đổ vào có thể cứu được.

  1. Tri trúng phải thuốc có thuốc độc đã chết rồi mà tim còn âm tức là phạm nhiệt độc

Cắt tiết chim bồ câu, thức lúc còn nóng nhỏ ngay vào miệng bệnh nhân nhỏ nhiều lần thì có thể cứu được.

Các phương khác

Bột đậu xanh khuấy vổi nước cho uống.

Cắt tiết vịt trắng cho uống ngay lúc còn nóng, hoặc tiết gà trống bạch cũng được.

Rau sam vắt lấy nước cốt 1 thang, ngày cho uống 4 – 5 lần, lấy bã đắp lên bụng càng tôt.

  1. Trị trúng độc, đại tràng đi ngoài ra máu

Da nhím, đốt tồn tính, tán nhỏ, hoà với nước cho uống 2 đồng cân thì lập tức mửa ra trùng độc.

Phương khác

Bèo cái phơi khô tán nhỏ, uống một đồng cân với nước cũng khỏi.

  1. Trị trúng độc ở khe nước, dường như có ai bắn mà không thấy hiện vật, người bị trúng ớn lạnh bắt đầu sốt, phiền não đau xương. Nếu không trị ngay thì trùng ăn vào tạng phủ mà chết

Gốc cành cỏ xước thứ cành lá đỏ tía 1 nắm, nước và rượu mỗi thứ một bát, giã nát lấy nước cốt, mỗi ngày uống 3 lần.

  1. Trị trúng nước độc, bắt đầu đau đầu nhức mắt, ớn lạnh, xương cứng đờ, ban ngày nhẹ, ban đêm nặng, tay chân giá lạnh đến 3 ngày trùng ăn hết hạ bộ, 6-7 ngày thì vờ mủ, ăn đến ngũ tạng thì nguy

Ké đầu ngựa lấy cả cây, lá cành. Giã vắt lấy nước cốt uống 1- 2 bát lại lấy bông tẩm nước thuốc xoa bóp ở hạ bộ, công hiệu.

  1. Trị cổ trướng đau bụng

Xơ mướp 1 quả bỏ lớp vỏ thái chỉ, ba đậu 14 hạt, sao chung chờ lúc ba đậu vàng thì chỉ lấy sơ mướp mà chỉ dùng trần mễ tán nhỏ, viên bằng hạt ngô đồng mỗi lần uống 100 viên, uống với nước chín.

Phương khác

Lá chàm giã vắt lấy nước cốt, xoa đầu mình và tứ chi cũng hay.

  1. Kinh trị uống nhầm thuốc độc, phát cuồng táo, thổ tả, phiền muộn gây chết

Cát căn sắc với nước uống thì hết. Các phương khác

Đất vách tường hướng đông 1 thang. Nước 2 thang, khuấy lẫn nhau. Đợi lắng trong mà uống thì khỏi.

Sừng tê giác (tế ngưu) đốt cháy tán nhỏ, dùng 1 đồng cân hoà với nước mà uống thì khỏi.

Búp chè, phèn chua: mỗi thứ vài phần hoà với nước mà uống hết liền.

Củ môn nước, nghiền với nước cho uống mửa ra chất độc thì khỏi.

Thạch xương bồ, bạch phàn. Mỗi thứ đều nhau tán nhỏ, hoà với nước mỏi múc mà uống rất hay.


  1. Kinh trị ăn nhầm các thứ độc

Gừng sống giã vắt lấy nước cốt cho uống thì khỏi.

  1. Kinh trị ăn nhầm các thịt độc lục súc

Đậu ván trắng đốt tồn tính cho uống là khỏi.

Các phương khác

Đậu đỏ đốt tồn tính 1 thang, nghiền nhỏ hoà với nước, uống 3 đồng cân rất công hiệu.

Đất vách tường đồng tán nhỏ, hoà với nước mà uống.

  1. Kinh trị ăn nhầm các chất độc, cùng ăn nhầm thịt độc, phàm thịt đậy kín để cách đêm hoặc bị nhà dột nước mưa vào, ăn rồi bị độc mà phát trướng, mửa ra máu đi ngoài cũng ra máu ngày càng xanh xao

Hạt ngô rí 3 – 4 thang, nước 2 bát, sắc còn 1 bát chờ nguội chia làm 2 phần, ngày và đêm đều uống.

  1. Kinh trị trúng độc thịt ngựa, thịt chó, cá chua, sinh ra căng tức dưới vùng tim hoặc chướng bụng khô miệng, phát sốt nói sảng

Rễ lau sắc với nước cho uống.

  1. Kinh trị ăn nhầm gan ngựa độc

Xương lợn đốt thành than tán nhỏ, hoà với nước cho uống.

  1. Kinh trị trúng độc thịt bò, thịt ngựa

Sữa người cho uống vào thì giã ngay.

  1. kinh trị ăn nhầm các loại cá độc sinh cổ trướng, bụng trướng to

Đậu đen sắc với nước uống lúc còn ấm, uống xong khỏi bệnh.

Các phương khác:

Cỏ roi ngựa 1 nắm, sắc nước uống.

Bạc hà sắc nước đặc mà uống.

Vỏ quýt 1 nắm nấu lấy nước.

Bí đao giã nhừ, vắt lấy nước cốt cho uống.

  1. Kinh trị ăn của trúng độc, ngay ngắt đầy bụng

Hạt hoặc lá tía tô, nấu lấy nước uống 2 thang.

Phương khác

Tỏi 2 – 3 củ sắc nước uống.

  1. Kinh trị ăn nhầm 1 con công gọi là trần độc, mặt xanh mửa máu gần chết

Củ nghệ giã vắt lấy nước cốt cho uống thì khỏi.

  1. Kinh trị ăn thịt vịt, trướng bụng không tiêu

Uống một bát nước vo gạo nếp thì tiêu ngay.

  1. Kinh tri ăn nhầm các thứ chim có độc

Đậu ván trắng nghiền sống, hoà với nước lạnh cho uống.

  1. Kinh trị chứng ăn nhiều rau quả làm cho lạnh dạ dày, trướng bụng thở gấp khó chịu

Nhục quế, tán nhỏ quết với cơm nguội, viên bằng hạt đậu nhỏ, mỗi lần uống 50 đến 60 viên với nước nóng, chưa tiêu thì cho uống nữa, tiêu thì thôi, hoặc mài với nước nóng mà uống cũng tốt.

Các phương khác

Nước đái trẻ em cho uống nhiều rất hay.

Nước mối xáo 1 chén, cho uống khỏi ngay.

  1. Kinh trị ăn rau quả trúng nọc rắn độc, làm cho bụng dạ buồn bực

Đậu đen tán nhỏ, ngâm rượu vắt lấy nước cốt nửa thang cho uống.

  1. Kinh trị ăn trúng nấm độc, phát cuồng gần chết

Lây chất trắng trong trứng gà đốt cháy tán nhỏ, hoà nước uống.

Các phương khác

Vỏ rễ cây, vỏ dẻ (hoa vàng) hoa mỏng như giấy có mùi thơm, ngọt 1 nám sắc với nước mà uống.

Lá kim nậm nhau nhỏ hút nước, như chưa khỏi dùng hoa khô mà sắc với nước uống cũng hay.

Nước đái trẻ em uống nhiều hoặc nước mới xáo uống 1 bát cũng khỏi

  1. Kinh trị ăn nhầm độc mộc thì sinh ra phiền muộn

Dây bí đao giã vắt lấy nước cốt mà uống thì khỏi.

  1. Kinh trị ăn nhầm độc lá ngón (dã cát) say gần chết

Trứng gà 3 quả đập vỡ, lấy lòng trắng cạy miệng đổ vào, giây lát mửa được ra sẽ sống lại.

  1. Kinh trị nuốt phải con đỉa, bụng tích trướng đau đớn

Nước ngâm chàm 1 chén, uống cho đi tả vài lần đỉa ra hết thì khỏi.

  1. Kinh trị nuốt phải con bọ sít

Bột chàm viên to bằng quả trứng gà hoà với nước mà uống thì đi tả hết tích.

  1. Kinh trị ăn phải nọc sâu, nọc rắn, thấy có độc trong họng mà khạc không ra, nuốt không xuống, bụng trên nóng bứt rứt

Tiết dê uống ngay lúc còn nóng thì yên liền.

  1. Kinh trị ngộ độc rết cắn, lưỡi sưng, lè ra ngoài miệng và đau nhức

Máu mồng gà tẩm vào lưỡi và nuốt thì khỏi, lưỡi thu vào ngay.

Tiết lợn hoặc tiết dê, cho uống lúc còn nóng thì mửa ra là khỏi

  1. Bàn về rượu phàm người ưa uống rượu quá nhiểu thời rượu thiêu đốt tỳ vị, tổn hại tinh thần và thân thể. Vì rượu rất nóng và rất độc. Nhưng trong việc cúng tế quỷ thẩn, thù tạc tân khách đã quen thành lệ cho nên không thể thiếu được

Phàm đi ra sương lạnh, hoặc vào nhà người bệnh thì tuỳ thuốc mà uống nhiều quá thì sinh bệnh, không nên khinh thường.

  1. Kinh trị say rượu bất tỉnh

Ốc bươu, đậu sị, hành củ. Ba vị nấu chung mà ăn hoặc nấu lấy nước để uống thì khỏi.

Các phương khác

Củ sắn dây tươi giã lấy nước cốt cho uống nếu không có cát càn tươi thì dùng bột tán khuấy với nước cho uống cũng tỉnh.

Đậu đen 1 thang, sắc với nước cho uống mửa thì khỏi.

Cúc hoa hái vào ngày 9/9 phơi khô tán nhỏ, cho uống tỉnh ngay.

Hương phụ mễ 1 lạng, sa nhân 5 đồng cân, cam thảo 3 đồng cân. Tán nhỏ, khuấy với nước sôi, cho vào tý muối mà uống hoặc sắc uống.

  1. Kinh trị uống rượu rồi đi ngoài ra máu

Hoa hoè 1 lạng (nửa sao, nửa để sống) hạt dành dành sao hai đồng cân, tán chừng mỗi lần uống 2 đồng cân, hoà với nước mới múc, uống lúc đói bụng

Phương khác

Cá diếc nấu canh với lá hẹ, chế vào chút rượu, thường ăn hay lắm.

  1. Kinh trị say rượu nôn oẹ

Đậu đỏ nấu lấy nước, thường uống sẽ khỏi.

  1. Kinh trị say rượu nhức dầu

Tinh tre 1 lạng, nấu với 2 bát nước, khi cạn được 1 nửa thì đập vào cho 3 quả trứng gà, sắc sôi lên mà ăn hay lắm.

  1. Kinh trị say rượuthành bệnh

Đậu si 1 vốc, hành 5 tép, rượu 1 bát, sắc còn 1 nửa, cho uống còn ấm, đắp mền mặc áo cho ra mồ hôi, hết ngay.

  1. Kinh trị uống rượu sinh ho

Bạch cương tàm 1 đồng cân, bỏ đầu chân sao khô, tán nhỏ mỗi lần uống 1 đồng cân, uống với nước chè thì khỏi.

  1. Kinh trị người hay uống rượu, môi miệng lở loét

Ốc bươu hoặc con nghêu nấu lấy nước cho uống rất hay.

  1. Thuốc cai rượu

Ké đầu ngựa 7 quả đốt cháy thành than, chế rượu vào mà uống sẽ ngày và không thèm uống nữa.

  1. Kinh trị uống thuốc quá liều lượng và ngộ độc buồn bực gần chết

Lá chàm giã vắt lấy nước cho uống vài thang thì khỏi hay lắm.

Các phương khác

Sừng tê ngưu đốt cháy tán nhỏ cho uống 1 đồng cân thì khỏi ngay.

Củ sắn dây tươi giã vắt lấy nước cốt cho uống hoặc cát căn khô thì sắc lấy nước mà uống thì hết.

Cho uống nước vo gạo để yên ngay, hoặc cho uống 1 thăng nước mối múc cũng được.

  1. Phương thuốc kinh nghiệm để giải các thứ thuốc độc bằng chất kim thạch

Cho 1 cân chì vào than lửa, đốt cho cháy lấy          ra tôi vào        1 cân   rượu rồi

lấy      chì ra lại nấu nữa cho cháy, lại tôi vào rượu,         làm như          vậy      10        lần, khi rượu còn một nửa thì cho uống rất hay.

  1. Kinh trị ngộ độc thạch tín gần chết

Chì 4 lạng, nước 1 bát, mài hết thì cho uống sẽ giã ngay.

Các phương khác

Cho uống nhiều giấm vào, mửa ra thì giã ngay. Rễ kim châm giã vắt lấy nước cốt cho uống rất hay.

Bột đậu xanh hà thủy thạch. Các vị đều nhau, mỗi vị từ 3 đến 5 đồng cân          giã rễ chàm vắt lấy nước cốt cho uống thì khỏi ngay.

Đậu ván trắng giã nhỏ hoà với nước uống thì         tỉnh.

Cho uống 1 chén dầu mè thì giã ngay.

Bột nghệ 3 đồng cân, nước lạnh 1 bát, chế tạo ít mật hoà lại mà uống là yên.

Rơm lúa nếp, đốt cháy thành tro rẩy nước vào cho ướt hóa 3 đồng cân thanh đại vào mà cho uống đã kinh nghiệm.

  1. Kinh trị trúng độc ba đậu sinh tả lị không ngừng

Vỏ bí đổ tán nhỏ cho uống. Hoặc uống bột đậu xanh với nước thì khỏi.

  1. Giải độc thạch tín, ô đầu

Cho uống nhiều nước mới múc để mửa ra hoặc ỉa được là khỏi.

  • Kinh trị ngộ độc ô dầu, phụ tử, thiên hùng cùng nấm dại

Đậu đen 2 vốc, cho ăn uống hoặc lấy nước cho uống khỏi ngay.

  • Kinh trị dương giải độc ô đầu và độc xuyên ô

Đất vách lâu năm khuấy với nước sôi, hoặc nước lạnh lắng trong cho uống.

Huyệt Lạc Khước

Lạc Khước

Tên Huyệt:

Lạc = sợi tơ, ý chỉ sự liên kết. ‘Khước’ chỉ sự bỏ đi mà không hoàn lại. Huyệt là nơi mạch khí theo đó nhập vào não mà không xuất ra, vì vậy gọi là Lạc Khước (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Cường Dương, Lạc Khích, Não Cái.

Xuất Xứ:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính:

Huyệt thứ 8 của kinh Bàng Quang.

1 trong nhóm huyệt ‘Đầu Thượng Ngũ Hàng’.

Vị Trí huyệt:

Ngay sau huyệt Thông Thiên 1, 5 thốn, cách tuyến giữa đầu 1, 5 thốn.

Giải Phẫu:

Dưới da là cân sọ, xương sọ.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh C2.

Chủ Trị:

Trị vùng đỉnh đầu đau, phế quản viêm mạn, mũi viêm.

Phối Huyệt:

Phối Thân Trụ (Đc.12) + Thính Hội (Đ.2) trị cuồng, chạy bậy (Thiên Kim Phương).

Cách châm Cứu:

Châm luồn dưới da 0, 3 – 0, 5 thốn. Cứu 1-3 tráng – Ôn cứu 3-5 phút.

Ghi Chú: Nếu lỡ châm làm cho người bệnh đột ngột bị câm, không nói được, châm ngay huyệt Chí Âm (Bàng quang.67) để giải. Châm sâu 0, 1 thốn, vê kim chừng nửa giờ thì có thể nói lại được (Danh Từ Huyệt Vị Châm Cứu).

Tham Khảo:

Theo thiên ‘Tạp Bệnh’ (Linh khu.26): Lạc Khước là một trong nhóm 5 huyệt ở trên đầu (Đầu Thượng Ngũ Hàng) trị Thiên đầu thống do rối loạn vận hành khí (các huyệt khác là Ngũ Xứ (Bàng quang.5), Thừa Quang (Bàng quang.6), Thông Thiên (Bàng quang.7), Ngọc Chẩm – Bàng quang.9).

HIV và các bệnh thần kinh cơ

Bệnh lý đa dây thần kinh và bệnh lý đa rễ thần kinh

Bệnh lý thần kinh ngoại vi có thể là biến chứng ở mọi giai đoạn của nhiễm HIV. Trong các giai đoạn sớm chưa có triệu chứng, bệnh lý thần kinh ngoại vi tương đối hiếm gặp nhưng các xét nghiệm điện học đã phát hiện được các bằng chứng dưới lâm sàng ở khoảng 10% số ca. Trong các giai đoạn muộn hơn, bệnh lý thần kinh xảy ra ở 30-50% bệnh nhân. Các nghiên cứu bệnh học thần kinh cho thấy các thay đổi bệnh lý có ở gần như 100% bệnh nhân AIDS.

Bệnh lý dây thần kinh có thể chia thành bệnh lý tiên phát do HIV hoặc thứ phát sau các thuốc độc thần kinh hoặc thứ phát sau các nhiễm trùng cơ hội. Mặc dù các bệnh lý dây thần kinh liên quan đến HIV đã giảm đi từ khi có HAART, tỷ lệ mắc các bệnh lý thần kinh do nhiễm độc vẫn tăng lên (Authier 2003). Các loại bệnh lý dây thần kinh ngoại vi có thể được phân biệt dựa trên thời điểm xảy ra (giai đoạn nào của HIV), theo diễn biến lâm sàng, triệu chứng chính và các đặc điểm điện sinh lý và bệnh học.

Các đặc điểm lâm sàng

Bệnh lý đa dây thần kinh mất myelin do viêm cấp tính (AIDP), hội chứng Guillain-Barré (GBS)

AIDP thường xảy ra lúc chuyển đảo huyết thanh hoặc trong giai đoạn sớm không triệu chứng của HIV. Ngoài ra, rất hiếm khi nó có liên quan tới phục hồi miễn dịch (Piliero et al. 2003). Biểu hiện lâm sàng điển hình là mất phản xạ, yếu chi đối xứng lan lên trong khi các sợi cảm giác vẫn còn nguyên vẹn. Tổn thương các dây thần kinh sọ và các dây thần kinh tủy cổ và ngực có thể dẫn tới suy hô hấp, nói ngọng, nói khó, nuốt khó. Tổn thương các dây giao cảm và phó giao cảm có thể gây loạn nhịp tim nguy hiểm và tăng hoặc tụt huyết áp nặng.

DNT thường tăng protein do rối loạn chức năng hàng rào máu não. Ngược lại với bệnh nhân HIV âm tính mắc AIDP, ở bệnh nhân HIV dương tính gần như luôn có hiện tượng tăng tế bào ở mức trung bình tới 50 bạch cầu/ µl

Sau giai đoạn tiến triển vài ngày hoặc vài tuần là giai đoạn ổn định kéo dài cho tới khi phục hồi. Nếu các tổn thương thứ phát của sợi trục xảy ra, quá trình hồi phục có thể kéo dài tới 2 năm. Khuyết tật nhiều mức độ có thể gặp ở 30% bệnh nhân.

Bảng 1: Bệnh lý đa dây thần kinh và đa rễ thần kinh trong nhiễm HIV
Loại Nhiễm HIV Lâm sàng Phát hiện
Bệnh đa dây thần kinh tiên phát do HIV
Bệnh đa dây thần kinh mất myelin viêm cấp tính (GBS) Chuyển đảo huyết thanh, giai đoạn không triệu chứng, không hoặc bắt đầu có suy giảm miễn dịch Liệt đối xứng > mất cảm giác, mất phản xạ ENG với biểu hiện mất myelin, tăng protein DNT và tăng tế bào DNT (< 50 c/µl)
Bệnh đa dây thần kinh mất myelin do viêm mạn tính (CIDP) không triệu chứng, bắt đầu suy giảm miễn dịch, hiếm khi AIDS Liệt ngọn chi và gốc chi > mất cảm giác, mất phản xạ ENG với biểu hiện mất myelin, tăng protein DNT và tăng tế bào DNT (< 50 c/µl)
Bệnh dây thần kinh do viêm mạch máu không triệu chứng, không hoặc bắt đầu suy giảm miễn dịch, hiếm khi AIDS Đa số không đối xứng, mất chức năng cấp tính của từng dây thần kinh, hiếm khi rối loạn vận động và cảm giác đối xứng ở ngọn chi Tăng ANA, tăng globulin tủa lạnh, đồng nhiễm viêm gan C, sinh thiết dây thần kinh thấy viêm mạch máu, ngoài ra còn viêm mạch máu ở thận, cơ và các cơ quan khác
Bệnh dây thần kinh trong hội chứng tăng lympho thâm nhiễm lan tỏa (DILS) Ức chế miễn dịch mức độ vừa Phần lớn liệt không đối xứng và mất cảm giác, rất hiếm các rối loạn đối xứng ở ngọn chi Bệnh tương tự hội chứng Sjögren’s; CD8+ > 1200/µl
Bệnh lý đa dây thần kinh cảm giác đối xứng ngọn chi (DSSP) AIDS hoặc ức chế miễn dịch nặng Mất cảm giác đối xứng ở ngọn chi, dị cảm và đau ở chân ENG với các đặc điểm của sợi trục chủ yếu ở các dây thần kinh cảm giác ở chân
Các bệnh lý dây thần kinh thứ phát
Bệnh lý dây thần kinh do nhiễm độc thuốc Suy giảm miễn dịch giai đoạn đầu hoặc giai đoạn muộn Mất cảm giác đối xứng ở ngọn chi, dị cảm và đau chân Điều trị ddI, ddC, d4T, vincristine, dapsone
Hội chứng yếu thần kinh cơ cấp tính Suy giảm miễn dịch giai đoạn đầu hoặc giai đoạn muộn Liệt tứ chi cấp tính tiến triển Toan lactic khi điều trị NRTI, tổn thương sợi trục thần kinh, bệnh cơ phối hợp
Phức hợp viêm AIDS Mất chức năng cấp Nhiễm CMV ở các cơ quan
đơn dây thần tính, không đối khác, phát hiện CMV DNA
kinh do CMV xứng của các dây trong huyết tương; u lympho
hoặc u lympho thần kinh đơn lẻ không Hodgkin
không Hodgkin      
Viêm đa rễ thần kinh do CMV hoặc M. tuberculosis hoặc do u lympho của màng não AIDS Liệt mềm, mất cảm giác, rối loạn chức năng bàng quang Nhiễm CMV hoặc mycobacteria ở các cơ quan khác, phát hiện mycobacteria trong DNT, tế bào ác tính trong DNT

Bệnh đa dây thần kinh mất myelin dạng viêm mạn tính (CIDP)

Trong khi AIDP là một bệnh đơn pha và tự khỏi thì CIDP luôn tiến triển mạn tính hoặc tái phát. Yếu chi và các rối loạn cảm giác thường xuất hiện trong vài tháng. Trong một số ca, các đợt tái phát, thoái lui không hoàn toàn và các đợt ổn định thường xen kẽ nhau.

Trong CIDP cũng như AIDP, DNT luôn bất thường với tăng protein. Ngoài ra thường thấy tăng tế bào mức độ vừa chứ không phải dạng cổ điển không có tế bào trong DNT. Cơ chế bệnh sinh của cả AIDP và CIDP có lẽ là mất myelin do đại thực bào và bổ thể. Hiện chưa rõ lý do tại sao có hiện tượng tự miễn tồn tại mạn tính ở CIDP.

CIDP là một biến chứng hiếm của thời kỳ chuyển đảo huyết thanh hoặc giai đoạn sớm của nhiễm HIV trước khi có AIDS.

Bệnh dây thần kinh do viêm mạch máu

Viêm mạch hoại tử ảnh hưởng tới các dây thần kinh ngoại vi là một căn nguyên hiếm của bệnh dây thần kinh trong HIV. Phần lớn bệnh nhân biểu hiện phức hợp viêm đơn dây thần kinh đều đặc trưng bởi hiện tượng mất chức năng cấp tính và hay tái phát của từng dây thần kinh ngoại vi riêng biệt. Tiên lượng phụ thuộc có biểu hiện của quá trình viêm mạch ở các cơ quan khác hay không, ví dụ tim, thận hoặc cơ. Phức hợp miễn dịch hình thành trong viêm gan C hoặc cryoglobulin có lẽ cũng đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh.

Hội chứng tăng bạch cầu lympho thâm nhiễm lan tỏa (DILS)

DILS là một căn nguyên hiếm của bệnh dây thần kinh đối xứng ngọn chi với biểu hiện thường gặp là đau. Nó tương tự hội chứng Sjögren, nhưng có sự thâm nhiễm nhiều phủ tạng với số lượng lympho bào CD8 tăng vọt (T CD8 > 1000/µl). Hội chứng sicca (hội chứng khô) với biểu hiện to tuyến mang tai, hạch to, lách to, viêm phổi (pneumonitis) và suy thận có thể xảy ra cùng với bệnh lý sợi trục (Gherardi 1998).

Bệnh đa dây thần kinh cảm giác đối xứng ngọn chi (DSSP)

DSSP là bệnh lý dây thần kinh phổ biến nhất ở bệnh nhân HIV dương tính và bộc lộ triệu chứng trong giai đoạn muộn của bệnh khi CD4 tụt dưới mức 200/µl. Diễn biến lâm sàng chủ yếu là các triệu chứng cảm giác tiến triển từ từ, ví dụ tê bì, dị cảm ở bàn chân và cẳng chân (Bảng 2). Khoảng 30-50% bệnh nhân than phiền về các triệu chứng bỏng rát, đau nhói hoặc như dao cắt. Biểu hiện chủ yếu ở ngón chân và bàn chân, đôi khi khiến đi lại khó khăn. Dấu hiệu lâm sàng rõ nhất là giảm hoặc mất phản xạ gân gót, tăng ngưỡng cảm giác rung ở ngón chân và mắt cá và giảm nhạy cảm với cảm giác đau và nhiệt độ phân bố kiểu “đi tất”, trong khi cảm giác bản thể thường bình thường. Yếu và teo cơ ở bàn chân thường nhẹ và không phải là biểu hiện chính của bệnh. Ngón tay và bàn tay rất hiếm khi biểu hiện triệu chứng.

Biểu hiện ở đùi, thân mình, liệt chân rõ hoặc giảm cảm giác bản thể đều là các biểu hiện không điển hình cho DSSP và cần phải hướng tới bệnh khác, ví dụ một bệnh lý của cơ kèm theo. Mất và rối loạn chức năng của các sợi giao cảm và phó giao cảm có thể dẫn tới hạ huyết áp tư thế, rối loạn cương dương, liệt ruột và các biến đổi của da và móng ở nhiều bệnh nhân DSSP.

Bảng 2: Biểu hiện lâm sàng của DSSP  Tê bì, đau, dị cảm ở bàn chân và cẳng chân Giảm hoặc mất phản xạ gân gót

Giảm hoặc mất cảm giác rung ở ngón chân và mắt cá Không hoặc rất ít các rối loạn chức năng vận động Không hoặc rất ít biểu hiện ở bàn tay và cánh tay Diến biến chậm

Chẩn đoán điện học phát hiện các tổn thương sợi trục

Các rối loạn chức năng thực vật: hạ huyết áp tư thế, rối loạn cương dương

Các bệnh dây thần kinh do nhiễm độc thuốc

Bệnh dây thần kinh cảm giác ngoại vi đối xứng ở ngọn chi xảy ra ở 10-30% số bệnh nhân điều trị bằng ddI, d4T hoặc ddC. Không thể phân biệt bệnh lý này với DSSP do HIV khi khám lâm sàng hoặc xét nghiệm điện học. Khác biệt duy nhất là tiền sử phơi nhiễm với các thuốc nucleoside gây độc thần kinh. Brew và cộng sự (Brew 2003) thấy tăng lactate huyết thanh ở trên 90% số bệnh nhân bị bệnh lý dây thần kinh do d4T.

Bệnh dây thần kinh do nucleoside xảy ra sau trung bình 12-24 tuần điều trị. Sau khi ngừng điều trị, có thể có một giai đoạn bệnh tồi đi trong 2-4 tuần sau đó bắt đầu có những cải thiện sau 6-12 tuần. Trong một số ca, sự phục hồi là không hoàn toàn. Trong những ca đó, có lẽ còn có một tổn thường khác của dây thần kinh ngoại vi tồn tại trước đó do bản thân HIV gây ra. Các biểu hiện dưới lâm sàng được khẳng định bằng các xét nghiệm bệnh học đã làm tăng nguy cơ phát bệnh dây thần kinh do NRTI.

Trong nghiên cứu TORO-1 ở Mỹ, 11% số bệnh nhân điều trị bằng T-20 (enfurvitide) biểu hiện bệnh dây thần kinh trong khi nhóm chứng chỉ có 5% (Lalezari 2003), trong khi nghiên cứu TORO-2 ở châu Âu không khẳng định được điều đó (Lazzarin 2003). Vẫn còn các tranh cãi về nguy cơ bệnh dây thần kinh do PI (indinavir, saquinavir, ritonavir, và atazanavir) (Crabb 2004, Pettersen 2006).

Bảng 3: Các thuốc gây độc thần kinh hay dùng trong HIV
NRTI

Kháng sinh

Độc tế bào

ddI, ddC, d4T

dapsone, metronidazole, isoniazid vincristine

Hội chứng yếu thần kinh cơ cấp tính

Trong diễn biến của toan lactic do NRTI, một tình trạng liệt tứ chi nguy hiểm giống như AIDP có thể xảy ra. Trong phần lớn các ca đó có sự phá huỷ sợi trục thần kinh ngoại vi, ngoài ra một số bệnh nhân còn có mất myelin. Sinh thiết cơ thấy viêm cơ hoặc bệnh cơ do ty thể ở một số ca (Simpson 2004).

Bảng 4: Chẩn đoán
Quy trình Phát hiện Bệnh
Khám bản (cho mọi bệnh nhân)
Bệnh sử Thuốc nhiễm trùng cơ hội

 

Nghiện rượu

Bệnh dây thần kinh do thuốc

Bệnh dây thần kinh do CMV hoặc u lympho

Bệnh dây thần kinh do rượu

Khám thần kinh Loại bệnh dây thần kinh (đối xứng ngọn chi, phức hợp viêm đơn dây thần kinh…) Triệu chứng không do bệnh tủy hoặc bệnh cơ gây ra
Electromyograp hy Electroneurogra phy Khẳng định bệnh dây thần kinh

Mất myelin

Đặc điểm sợi trục

Triệu chứng không do bệnh tủy hoặc bệnh cơ gây ra

AIDP, CIDP

DSSP, Multiplex Neuropathy, DILS

Xét nghiệm máu HbA1c, glucose

Vit B12, B1, B6, Fe,

ferritin

 

ANA, cryoglobulins, huyết thanh chẩn đoán HCV, phức hợp miễn dịch lưu hành, ANCA

TPHA

CD8+ T-cells > 1200/µl lactate

 

CMV DNA (nếu CD4+

< 100/µl)

Bệnh đa dây thần kinh do tiểu đường Bệnh thần kinh do suy dinh dưỡng hoặc đồng hóa không hoàn toàn

 

Bệnh dây thần kinh do viêm mạch máu

 

 

 

 

Giang mai thần kinh

Bệnh dây thần kinh với biểu hiện DILS do nhiễm độc NRTI

 

Phức hợp viêm đơn dây thần kinh do CMV

Các xét nghiệm khác (chỉ dành cho những trường hợp đặc biệt)
DNT Tăng tổng protein

Tăng tế bào, CMV DNA Tế bào u lympho, EBV DNA

Tăng IgA, trực khuẩn kháng toan, DNA mycobacteria

AIDP, CIDP

Viêm đa rễ thần kinh do CMV Viêm màng não do u lympho

 

Viêm đa rễ thần kinh do lao

Xét nghiệm về thần kinh thực vật (phản ứng da giao cảm, thay đổi của nhịp tim) Tổn thường các dây giao cảm hoặc phó giao cảm Các bệnh thần kinh thực vật
MRI (cột sống thắt lưng) Ép tủy vùng đuôi ngựa Lymphoma cột sống Toxoplasmosis cột sống
Sinh thiết thần kinh và cơ Viêm mạch hoại tử Thâm nhiễm CD8 quanh

mạch mà không có hoại tử

Bệnh dây thần kinh do viêm mạch Bệnh thần kinh do DILS

Bệnh lý đa dây thần kinh và đa rễ thần kinh do các bệnh khác

Ở bệnh nhân HIV giai đoạn nặng, phức hợp viêm đơn dây thần kinh có thể do CMV hoặc u lympho không Hodgkin gây ra. Các bệnh lý đa rễ thần kinh cấp hoặc bán cấp của vùng đuôi ngựa với biểu hiện liệt mềm 2 chân tiến triển nhanh, rối loạn vận động ruột và rối loạn cảm giác đều có thể xảy ra trong bệnh cảnh nhiễm trùng cơ hội (CMV, lao) hoặc u lympho non Hodgkin xâm lấn màng não. Các nguyên nhân quan trọng khác gây bệnh lý đa rễ thần kinh là nghiện rượu, tiểu đường, suy dinh dưỡng ở bệnh nhân có bệnh tiêu hóa kéo dài, ung thư hoặc suy mòn.

Chẩn đoán

Chẩn đoán bệnh lý dây thần kinh dựa trên bệnh sử và khám lâm sàng. Các xét nghiệm điện học có thể khẳng định và phân biệt với các bệnh khác như bệnh của tủy. Dịch não tủy đôi khi cũng cần thiết nếu nghi ngờ CMV hoặc giang mai. Sinh thiết dây thần kinh và cơ ở bắp chân chỉ cần thiết trong các ca không điển hình –  ví dụ DSSP gây đau mà CD4 cao và VL thấp và không có các thuốc độc thần kinh hay yếu tố nguy cơ nào khác kèm theo. Bảng 4 liệt kê các khuyến cáo sử dụng trên lâm sàng.

Điều trị

Điều trị căn nguyên chỉ áp dụng được cho một số bệnh dây thần kinh hoặc rễ thần kinh hiếm gặp. Globulin miễn dịch truyền tĩnh mạch và lọc huyết tương đã được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị AIDP. Corticosteroid cũng hiệu quả trong CIPD. Trong các thử nghiệm lâm sàng về điều trị CIDP, không thấy có sự khác biệt về hiệu quả giữa globulin miễn dịch, lọc huyết tương và corticosteroid. Tuy nhiên một bệnh nhân có thể chỉ đáp ứng với 1 trong 3 biện pháp. Ở những bệnh nhân chỉ đáp ứng với corticosteroid liều cao, các thuốc ức chế miễn dịch khác như azathioprine, methotrexate liều thấp hàng tuần hoặc cyclosporine có thể thay thế điều trị corticoid kéo dài. Chúng tôi đã gặp những bệnh nhân CIDP có bệnh thoái triển một phần sau khi điều trị steroid và duy trì được trạng thái ổn định trong nhiều năm mà chỉ cần ART.

Đối với bệnh dây thần kinh do thuốc, cần ngừng dùng các thuốc đó. Tuy nhiên, việc thay thế ddI hoặc d4T đôi khi rất khó ở những bệnh nhân nhiễm chủng HIV đa kháng. Trong những trường hợp này, cần phải cân bằng giữa chất lượng cuộc sống khi có triệu chứng của bệnh dây thần kinh và nguy cơ thất bại về miễn dịch và virus. Trong một nghiên cứu nhỏ không làm mù (open-label), sử dụng 2 x 3,500 mg L-acetyl-carnitine đã dẫn tới tái sinh dây thần kinh ngoại vi (trên sinh thiết da), và cải thiện các triệu chứng dây thần kinh do NRTI (Hart 2004). Hai nghiên cứu nhỏ khác cũng khẳng định hiệu quả của L-acetyl-carnitine trong giảm đau ở bệnh nhân mắc bệnh lý dây thần kinh do nhiễm độc thuốc (Herzmann 2005, Osio 2006), nhưng vẫn chưa có các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng.

Chưa có điều trị căn nguyên cho DSSP. ART có thể cải thiện chức năng của các dây thần kinh cảm giác trong một số ca và do đó, cần lưu ý bắt đầu điều trị HAART (trị liệu kháng retrovirus hiệu lực cao) hoặc tối ưu hóa phác đồ hiện có ở những bệnh nhân mới được chẩn đoán DSSP. Trong phần lớn các bệnh nhân, các triệu chứng thần kinh sẽ vẫn tồn tại.

Điều trị triệu chứng cần nhằm vào các triệu chứng gây khó chịu như đau và dị cảm. Các  thuốc này không hiệu quả với các thiếu hụt về chức năng của dây thần kinh như mất cảm giác hoặc liệt.

Bảng 5: Điều trị căn nguyên bệnh lý đa dây thần kinh và đa rễ thần kinh
Bệnh Điều trị
AIDP Immunoglobulins truyền tĩnh mạch 0.4 g/kg/ngày x 5 ngày hoặc lọc huyết tương (5 lần trong 7-10 ngày)
CIDP Immunoglobulins truyền tĩnh mạch 0.4 g/kg/ngày x 5 ngày hoặc lọc huyết tương (5 lần trong 7-10 ngày)

Hoặc:  prednisone 1-1.5 mg/kg/ngày x 3-4 tuần giảm dần liều trong 12–16 tuần

Bệnh dây thần kinh do viêm mạch máu prednisone 1-1.5 mg/kg/ngày x 3-4 tuần giảm dần liều trong 12– 16 tuần
Bệnh dây thần kinh do DILS Bắt đầu hoặc tối ưu hóa phác đồ ART kèm theo prednisone 1-

1.5 mg/kg/ngày x 3-4 tuần giảm dần liều trong 12–16 tuần

Bệnh đa dây thần kinh cảm giác đối xứng ngọn chi Không rõ điều trị căn nguyên. ART có thể cải thiện chức năng dây thần kinh. Về điều trị triệu chứng xem bảng 6.
Bệnh dây thần kinh do thuốc Ngừng điều trị thuốc đó nếu được
Phức hợp viêm đơn dây thần kinh hoặc viêm đa rễ thần kinh do CMV IV foscarnet 2 x 90 mg/kg/ngày công với IV ganciclovir 2 x 5 mg/kg/ngày.
Viêm màng não do u lympho Bắt đầu hoặc tối ưu hóa phác đồ ART kèm theo tiêm nội tủy methotrexate (qua dẫn lưu não thất hoặc chọc DNT) 12-15 mg 2 x/tuần cho tới khi DNT không còn tế bào ác tính, sau đó

1 x/tuần trong 4 tuần và 1 x/tháng kèm theo 15 mg folinate uống sau mỗi lần tiêm kèm theo điều trị u lympho toàn thân (xem chương tương ứng)

Viêm đa rễ thần kinh do M. tuberculosis Điều trị lao

Các thuốc trong Bảng 6 được khuyến cáo vì chúng đã được chứng minh là có hiệu quả trên lâm sàng và vì chúng ảnh hưởng rất ít (và dự đoán được) đến ART. Một nghiên cứu đối chứng cho thấy lamotrigine cũng có tác dụng giảm triệu chứng của bệnh dây thần kinh nhiễm độc (Simpson 2003). Thuốc dung nạp tốt nếu tuân thủ đúng tiến trình tăng liều chậm và ngừng hoặc giảm liều ngay khi có phản ứng da. Trong một nghiên cứu nhỏ, gabapentin cũng hiệu quả trong giảm đau do DSSP (Hahn 2004). Lợi ích của thuốc này là dung nạp tốt và không tương tác với ART. Pregabalin, một thuốc chống co giật giống như gabapentin, đã được cấp phép điều trị đau do bệnh dây thần kinh. Thuốc làm giảm đau ở bệnh nhân bị bệnh dây thần kinh do tiểu đường. Tương tự như gabapentin, thuốc không ảnh hưởng tới ART và được dung nạp tốt. Chúng tôi đã điều trị thành công ngày càng nhiều bệnh nhân DSSP và bệnh dây thần kinh nhiễm độc bằng thuốc mới này.

Một thử nghiệm lâm sàng có đối chứng đã không thể phát hiện được hiệu quả điều trị của lidocaine 5% dạng gel khi điều trị đau do bệnh lý dây thần kinh của HIV (Estanislao 2004).

Bảng 6: Điều trị triệu chứng đau do bệnh dây thần kinh
  Điều trị Tác dụng phụ
Bước 1: Lý liệu pháp, biện pháp hỗ trợ (giày rộng…)

L-acetyl-carnitine 2 x 2–4 g

 

 

Hiếm có dị ứng, ỉa chảy nhẹ

Bước 2: Tạm thời dùng 3-4 x 1000 mg paracetamol hoặc 2-3 x 50 mg

diclofenac hoặc  4 x 40 giọt novaminsulfone trong 10-14 ngày

Buồn nôn, nôn, dị ứng (hiếm)
Bước 3: Gabapentin 300 mg buổi tối, tăng liều 300 mg một ngày sau mỗi 3 ngày tới liều cao nhất 3 x 1200 mg hoặc

Pregabalin 2 x 75 mg trong 1 tuần, tăng liều tới 2 x 150 trong tuần thứ hai, có thể tăng tới 2 x 300 mg hoặc

Lamotrigine 25 mg buổi tối, tăng liều 25 mg mỗi 5 ngày cho tới 300 mg

hoặc

Amitriptyline 25 mg buổi tối, tăng liều 10-25 mg mỗi 2-3 ngày cho tới 3 x 50 mg

hoặc

 

Nortriptyline 25 mg buổi sáng, tăng liều 25 mg mỗi 2-3 ngày cho tới 2-

3 x 50 mg

Gây ngủ, buồn nôn, chóng mặt, hiếm khi viêm tụy

 

 

Buồn nôn, nôn, ỉa chảy, ban dị ứng

 

 

 

 

Dị ứng, gây ngủ, đau đầu, buồn nôn

 

 

 

 

Gây ngủ, hạ huyết áp tư thế, táo bón, chóng mặt, khô miệng, loạn nhịp, bí đái, báo trước: tăng nhãn áp

 

 

Hạ huyết áp tư thế, táo bón, chóng mặt, khô miệng, loạn nhịp, bí đái, báo trước: tăng nhãn áp

Bước 4: Flupirtine 3 x 100, tăng liều tới 3 x 600 mg

hoặc

Morphine chậm 2 x 10 mg tăng liều dần lên tới 2 x 200 mg

Gây ngủ, táo bón, buồn nôn

 

 

Gây ngủ, táo bón, buồn nôn

Lưu ý chung Tiến 1 bước nếu triệu chứng vẫn tồn tại.

Thuốc của bước 3 có thể được phối hợp (ví dụ một thuốc chống co giật và một thuốc chống trầm cảm), thuốc bước 3 và bước 4 có thể được phối hợp (ví dụ flupirtine và một thuốc chống co giật).

Nếu cần giảm triệu chứng nhanh, cần bắt đầu điều trị bằng 1 thuốc bước 4 phối hợp một thuốc bước 3 liều thấp rồi tăng liều chậm.

Tăng liều càng chậm thì khả năng đạt được liều hiệu quả càng cao.

Các thuốc chống trầm cảm 3 vòng amitriptyline và nortriptyline đều có các tác dụng phụ kháng phó giao cảm (anticholinergic) rất rõ. Liều giảm đau cũng tương tự liều điều trị trầm cảm và nhiều bệnh nhân không thể dung nạp được những liều đó. Tuy nhiên, liều thấp hơn lại không hiệu quả đối với DSSP. Nortriptyline không có tác dụng an dịu gây ngủ. Chúng tôi đã sử dụng thuốc này với tỷ lệ thành công cao, mặc dù còn thiếu các thử nghiệm lâm sàng về ứng dụng của nó trong bệnh lý dây thần kinh do HIV. Duloxetine là thuốc đầu tiên trong nhóm chống trầm cảm mới đã được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị đau ở bệnh nhân     mắc bệnh dây thần kinh do tiểu đường. Theo những kinh nghiệm ban đầu của chúng tôi, thuốc cũng có hiệu quả với DSSP do HIV và bệnh dây thần kinh nhiễm độc. Thuốc chống co giật carbamazepine được dùng rộng rãi trong điều trị đau do dây thần kinh. Tuy nhiên, nó kích thích một số men của hệ CYP450 và ảnh hưởng tới ART. Do đó ứng dụng trong y học HIV còn rất hạn chế. Các opioid mạnh có thể được dùng để điều trị đau mức độ vừa hoặc nặng nếu việc tăng liều thuốc chống trầm cảm và chống co giật không thực hiện được và nếu cần tác dụng giảm đau nhanh (Sindrup 1999). Ngay cả trong các ca bệnh nhân nghiện, vẫn có thể dùng opioid (Breitbart 1997). Đôi khi, cần tăng liều methadone một chút để đạt hiệu quả giảm đau.

Bệnh

Bệnh cơ xảy ra ở 1-2% số bệnh nhân HIV. Chúng có thể xuất hiện ở bất cứ giai đoạn nào của bệnh. Bảng 7 đưa ra một tóm tắt các loại bệnh cơ quan trọng nhất ở bệnh nhân HIV.

Viêm đa cơ do tế bào T gây độc là dạng bệnh cơ phổ biến nhất do HIV. Bệnh cơ do AZT ít khi xảy ra với liều AZT dùng ngày nay. Một số thuốc khác dùng trong HIV (ddI, co- trimoxazole, pentamidine, sulfadiazine, thuốc hạ mỡ máu) hiếm khi gây tiêu cơ vân cấp kèm theo liệt tứ chi và CK tăng cao. Đáng lưu ý là các PI làm tăng nồng độ statin và tăng nguy cơ bệnh cơ và tiêu cơ vân do statin (Hare 2002).

Tăng CK thường gặp trong khi điều trị TDF, đặc biệt ở bệnh nhân đồng nhiễm HBV hoặc HCV. Điều này xảy ra do macroenzyme creatine kinase (Macro CK)  type 2 và không nên coi đây là chỉ điểm của bệnh thiếu cung cấp máu hoặc bệnh cơ. Việc tích lũy loại isoenzyme của gan này có lẽ là hậu quả của việc suy giảm khả năng thải loại Macro CK2 do TDF gây ra (Schmid 2005).

Đặc điểm lâm sàng

Bệnh cơ ở bệnh nhân HIV thường biểu hiện bằng đau cơ sau tập luyện, xảy ra ở các cơ gốc chi, sau đó là liệt đối xứng tiến triển chậm và teo các cơ gốc chi. Các cơ gốc chi là các cơ hay bị bệnh nhất, nhưng đôi khi các cơ ngọn chi, cơ thân mình, cổ, mặt hoặc họng cũng có thể chịu ảnh hưởng.

Chẩn đoán

Đau cơ, mệt mỏi và tăng CK huyết thanh rất phổ biến trong HIV. Nhưng các triệu chứng không đặc hiệu đó không thể chẩn đoán được bệnh cơ. Chẩn đoán bệnh cơ cần có triệu chứng liệt, teo cơ hoặc các biểu hiện trên điện cơ đồ. Sinh thiết cơ sẽ khẳng định chẩn đoán và còn đưa ra các manh mối giúp phân loại và tìm ra quá trình bệnh sinh của bệnh cơ.

Bảng 7: Bệnh cơ trong HIV
Tiên phát do HIV Thứ phát
Viêm đa cơ Bệnh cơ do AZT
Bệnh cơ nemaline (thể que) Bệnh cơ do viêm mạch máu
Bệnh cơ hốc (vacuolar myopathy) Thâm nhiễm u lympho vào cơ
Viêm cơ thể vùi Viêm cơ nhiễm trùng
  Tiêu cơ vân do nhiễm độc thuốc

Điều trị

Đau cơ mức độ vừa có thể đáp ứng với thuốc giảm viêm không steroid.

Prednisone (100 mg/ngày trong 3-4 tuần, giảm liều dần) hoặc immunoglobulin tĩnh mạch (0.4 g/kg trong 5 ngày) cũng có hiệu quả trong viêm đa cơ (Espinoza 1991, Viard 1992).

Điều trị bệnh cơ do AZT bằng cách ngừng thuốc. Đau cơ thường giảm sau 1-2 tuần. Nếu triệu chứng tồn tại 4-6 tuần, có thể dùng prednisone như trên.

Thăm khám và điều trị loét bàn chân đái tháo đường

THĂM KHÁM BÀN CHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

Đây là khâu quan trọng nhất trong phòng và chăm sóc bàn chân của người mắc bệnh đái tháo đường. Tuy nhiên trong thực tế tỷ lệ bệnh lý bàn chân đái tháo đường bị bỏ sót do thầy thuốc không ý thức được còn khá cao. Theo Cohen chỉ có khoảng 19-25% người có tổn thương bàn chân được phát hiện bởi thầy thuốc khi thăm khám; Bailey thấy số này còn thấp hơn chỉ vào khoảng 12,3%. Người ta cho rằng có tới 60% (trung bình là 40%) số người bệnh đái tháo đường không bao giờ được thầy thuốc khám về bàn chân; còn nếu lấy tiêu chuẩn sử dụng dụng cụ để đánh giá là có thăm khám, thì số người không được khám có tối 94,0%.

Thực tế yêu cầu việc thăm khám này phải được chú trọng hơn nhiều. Bình thường người đái tháo đường hàng năm phải kiểm tra bàn chân từ 3-4 lần; trường hợp đã có nghi ngờ buộc phải kiểm tra kĩ hơn, thường xuyên hơn. Việc kiểm tra này bao gồm cả xem xét tới việc đi giày, tất, mặc quần lót (nhất là phụ nữ).

Thông thường việc kiểm tra bàn chân phải đầy đủ từ việc nhìn để đánh giá màu sắc đến việc bắt mạch, khám thần kinh và mạch máu đều được tiến hành một cách tỷ mỷ, thận trọng.

Nhìn

Bằng mắt thường người ta đã có thể thu nhận được rất nhiều thông tin về tình trạng mạch máu.

  • Mất lông mu chân và ngón chân.
  • Da bóng, cơ bị teo.
  • Các tổn thương thực thể khác như các vết loét, nốt phỏng, các tổn thương chai, tình trạng móng, tình trạng ngón chân v.v.

Khá nhiều trường hợp chỉ bằng các động tác nhìn, sờ đã phát hiện ra dị vật gây tổn thương bàn chân, ngón chân bị tổn thương. Nhưng trong trường hợp này người bệnh lại thường không biết họ đã có những tổn thương này do đã bị mất cảm giác ở chi.

Sờ

Đây là động tác đơn giản nhưng không thể thiếu. Yêu cầu tối thiểu là phải bắt mạch đùi, mạch khoeo, mạch mu chân và mạch chày sau.

Một triệu chứng quan trọng khác cần được đánh giá khi sờ là xem da vùng này ấm hay lạnh.

Khám cảm giác

Mặc dù có rất nhiều kỹ thuật để thăm khám nhưng đây vẫn là một lĩnh vực được xem là khó khăn nhất trong đánh giá mức độ tổn thương của người bệnh đái tháo đường.

Khám cảm giác rung; người ta thường dùng các âm thoa có tần số 128 chu kỳ. Cảm giác rung phản ánh tình trạng chức năng của các dây thần kinh lớn.

Điều đáng nhớ khi thăm khám là không chỉ khám ở cổ chân mà phải xem kĩ ở các đầu ngón. Người ta cũng lưu ý là để đánh giá sự tiên triển của bệnh, các lần khám sau nên ở cùng vị trí lần trước để tiện so sánh.

Cảm giác về nhiệt: Phản ánh tình trạng chức năng của các dây thần kinh nhỏ.

Trước đây người ta thường dùng kim để thăm khám cảm giác; ngày nay người ta dùng Semmes- Weinstein monoíĩlament- một dụng cụ khám cảm giác cấu tạo bởi một sợi dây có độ dày 4,17; 5,07 và 6,10

Hiện nay loại dùng phổ biến là 5,07. Điều quan trọng nhất là kỹ thuật thăm khám, để đảm bảo áp lực thẳng tỳ vào điểm khám tương đương với 10 gram, khi ấn monoíìlament phải đạt đến một độ cong nhất định. Theo Mcveely và cộng sự thì đây là một dụng cụ đơn giản nhưng có giá trị cao, nếu mất cảm giác với monoíìlament tức là mất cảm giác tự bảo vệ. Trường hợp này người bệnh sẽ có tiên lượng xấu, tỷ lệ cắt cụt sẽ cao, nếu có tổn thương bàn chân.

Chụp X quang thông thường

Mọi tổn thương loét của bàn chân người đái tháo đường đều phải chụp X quang, để đánh giá tình trạng tổn thương của tuỷ xương, của xương, kể cả có hay không có các dị vật ở bàn chân.

Thông thường các thầy thuốc lâm sàng hay bỏ qua bước tìm hiểu này. Kasier và cộng sự thấy có tới 53% người bệnh tổn thương bàn chân đái tháo đường bị bỏ qua bước tìm nguyên nhân do dị vật ở bàn chân; tác giả cũng thấy chỉ khoảng 35% người bệnh đái tháo đường có tổn thương chi được phát hiện qua chụp X quang.

Montano và cộng sự thấy 7% người có tổn thương bàn chân do đái tháo đường có dị vật vẫn còn ở trong bàn chân, đây cũng là nguyên nhân thường gặp nhât gây ra bệnh lý bàn chân đái tháo đường.

Các dị vật nhọn, sắc thường gây ra vết thương có kèm theo nhiễm trùng. Trong trường hợp này việc lấy dịch vết thương để tìm ra kháng sinh nhạy cảm nhất là cần thiết.

Các phương pháp thăm dò khác

  • Các xét nghiệm máu

Các xét nghiệm về tế bào máu: Công thức máu, đặc biệt là công thức bạch cầu, tốc độ lắng máu, độ ngưng tập tiểu cầu v.v.

Xét nghiệm sinh hoá máu: Đường máu, điện giải máu, chức năng gan, thận, HbAl-c.

Xét nghiệm sinh hoá nước tiểu.

  • Các thăm dò vê hình thái

Mạch máu: Siêu âm doppler mạch, ít nhất ở chi dưới. Nếu có điều kiện có thể chụp cắt lớp vi tính, MRI.

Đánh giá độ loãng xương.

  • Các thăm dò phục vụ cho điều trị và phục hối chức năng

Đánh giá sự phân bố trọng lực lên bàn chân; từ đó giúp người bệnh chọn hoặc đóng giày dép cho phù hợp.

Đánh giá mức độ tổn thương thần kinh v.v.

ĐIỀU TRỊ LOÉT BÀN CHÂN Ở NGƯỜI ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

Một số biện pháp điều trị cổ điển

Từ thời xa xưa người ta đã điều trị loét bàn chân ở người đái tháo đường với nhiều biện pháp khác nhau, xin kể một vài ví dụ dùng các thứ sau:

  • Rượu (ngâm rửa vết thương).
  • Phân thú vật hoặc bùn (đắp vào vết thương).
  • Nước tiểu bò.
  • Bia/nước nóng.
  • Mật ong.
  • Dầu sôi.
  • Khuôn bột ngũ cốc (Trung Quốc).
  • Nhựa phenol.
  • Giấm nóng.

Các thuốc kích thích mọc tổ chức hạt:

  • Một số loại rễ cây.
  • Mỡ dê.
  • Mỡ lợn.
  • Trầm hương.
  • Oxid kẽm.

Người ta cũng chia ra các vị trí tổn thương khác nhau để đánh giá tiên lượng.

Phương pháp điều trị hiện đại

Chẩn đoán và đánh giá tiên lượng

Dần theo thời gian, kiến thức về bệnh lý bàn chân ngày càng phong phú, chia độ của Wagner và Meggitt (1970) đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc, tuy còn những khiếm khuyết cần khắc phục; đến chia độ bổ xung của James w. Brodsky đã gắn liền triệu chứng, dấu hiệu, mức độ tổn thương, với tiên lượng bệnh. Các phương tiện thăm dò, chẩn đoán càng ngày càng phong phú.

Tuy nhiên việc vào viện điều trị còn phụ thuộc vào vị trí tổn thương. Ví dụ người bệnh chỉ bị nhiễm trùng nhẹ ở gan bàn chân nhưng kèm theo các triệu chứng sưng, nóng đỏ ở vùng tổn thương hoặc có bọng nước ở mu bàn chân thì cũng nên vào viện, thậm chí ngay cả khi toàn thân không có triệu chứng hoặc dấu hiệu nhiễm trùng.

Những yếu tố cản trở đến quá trình lành vết thương:

  • Mạch máu:

Xơ vữa mạch máu.

Tăng độ nhớt của máu.

  • Thần kinh:

Mất cảm giác bàn chân.

Biến dạng bàn chân.

  • Nhiễm trùng:

Cắt bỏ mô hoại tử không thoả đáng.

Khả năng tưới máu giảm.

Tắc vi mạch.

Quản lý glucose máu kém.

Nhiễm nhiều vi khuẩn.

Viêm tuỷ xương.

Giảm số lượng và chức năng bạch cầu đa nhân.

Thay đổi cân bằng hệ vi khuẩn đường ruột.

  • Các yếu tố cơ học:

Phù.

Chịu trọng lực khi đứng cao.

  • Dinh dưỡng kém:

Nồng độ albumin; protein máu thấp.

  • Ưc chế hệ miễn dịch:
  • Có dị vật.
  • Tổn thương ác tính.
  • Mối quan tâm của người bệnh về bệnh tật kém.
  • Quản lý y tế, chăm sóc của nhăn viên y tế kém.

Phương pháp đúng không trọng lực

Đây là phương pháp điều trị không dùng thuốc nhưng có kết quả rất tốt đang được sử dụng rộng rãi. Bàn chân người đái tháo đường thường bị mất hết cảm giác, vì thế vết loét dù rộng, sâu thế nào họ cũng không thấy đau và họ tiếp tục đi, đứng như những người khác. Hậu quả là tổn thương tiếp tục phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Bởi chính động tác đi lại này đã làm tăng khả năng hoại tử, làm vi khuẩn dễ dàng phát triển lan rộng và ăn sâu vào tổ chức khác. Việc sử dụng nạng và xe lăn đạt được những yêu cầu của phương pháp đứng – đi không trọng lực. Một số người đái tháo đường có tổn thương thần kinh mất khả năng điều vận thì việc sử dụng nạng sẽ là nguy hiểm. Với những đối tượng này kỹ thuật “khuôn đúc” tạo hình bàn chân được sử dụng phổ biến; khi sử dụng những phương tiện này, người bệnh có thể đi lại được trên chính đôi chân “của mình”.

Khi đã áp dụng các phương pháp tổng thể khác để điều trị như duy trì glucose máu ở mức độ gần như sinh lý; liệu pháp kháng sinh tại chỗ và toàn thân, nhưng tổn thương vẫn không tiến triển tốt thì phải xét khả năng tháo bỏ.

Liệu pháp điều trị phối hợp

Các bước tiến hành:

  • Đánh giá tổn thương:

Vị trí tổn thương.

Hình thái tổn thương (độ sâu, rộng).

Chụp X quang để xem.

+ Có dị vật.

+ Có viêm tuỷ xương.

+ Có khí dưới da.

Sinh thiết.

Thăm dò đánh giá tình trạng mạch máu.

  • Cắt bỏ triệt để mô hoại tử.
  • Cấy vi khuẩn làm kháng sinh đồ.
  • Kiểm soát tình trạng chuyển hóa tốt
  • Điều trị kháng sinh
  1. Uống.
  2. Tiêm, đường nên dùng là đường tiêm vì dễ đạt nồng độ cao ở mô ngoại vi hơn là đường uống.
  • Không sử dụng bể nước xoáy, không ngâm chân.
  • Áp dụng phương pháp “đi, đứng không trọng lực”.
  • Tăng tạo tưới máu, bảo đảm dinh dưỡng tốt nơi tổn thương.

Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta đã làm hết sức mình nhưng tiên triển của vết thương bàn chân vẫn không tiến triển tốt hơn, thậm chí còn xấu đi. Bởi vì, khả năng lành của vết thương là sự kết hợp của nhiều yếu tố: tình trạng mô, khả năng phục hồi của các dòng tế bào và yếu tố tăng trưởng.

Steed và cộng sự đã chứng minh các dẫn xuất từ chính các yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc tiểu cầu (PDGF – platelet – derived growth factor) có tác dụng làm vết thương mau lành. Các dẫn xuất này thường được chế tạo dưới dạng gel bôi lên vết thương, phủ gạc ướt, cứ 12 giờ người ta thay gạc 1 lần. Chế phẩm thông dụng hiện nay là Reganax của ortho-McNeil. Người ta cũng khuyên không nên dùng Reganax cho những vết thương bị nhiễm trùng hoại tử nặng hoặc có dấu hiệu thiếu máu.

Người ta cũng sử dụng các chất có giá trị tương đương như một mô sống để kích thích quá trình lành của các vết loét bàn .chân người đái tháo đường. Dermagraít được tách ra từ lớp chân bì của các mô nuôị Cấy. Dermagraít bao gồm các íĩbroblasts chân bì mới hình thành ỗtrtác dụng làm vết thương mau lành. Thời gian điều trị trung bình từ 8-12 tuần.

Sử dụng oxy cao áp (Hyperbaric oxygen-HBO) cũng đang được khuyến cáo: oriani và cộng sự thấy ở 62 người đái tháo đường có loét bàn chân được điều trị bằng HBO chỉ có 4% bị cắt cụt trong khi ở nhóm không điều trị bằng HBO tỷ lệ này là 49%; Faglia có 70 người đái tháo đường có tổn thương loét bàn chân điều trị bằng HBO chỉ có 8% bị cắt cụt.

Theo dõi điều trị

Những yếu tố báo hiệu tiên lượng xấu:

Triệu chứng và dấu hiệu:

  • Tăng tiết dịch.
  • Đau tăng lên.
  • Viêm bạch huyết. – Hoại tử.
  • Nổi hạch bạch huyết liên quan.
  • Nhiệt độ tại chỗ và/hoặc nhiệt độ toàn thân tăng.

Xét nghiệm cận lâm sàng:

  • Tăng glucose máu.
  • Tăng bạch cầu hạt.
  • Tăng tốc độ lắng máu.

Người đái tháo đường tổn thương bàn chân kèm những dấu hiệu và triệu chứng trên buộc phải vào bệnh viện điều trị và theo dõi.

Kinh nghiệm thực hành lâm sàng còn cho thấy nhiều khi người đái tháo đường có thể có nhiễm trùng rất nặng nhưng vẫn không có tăng nhiệt độ; tăng bạch cầu. Theo Leichter và cộng sự nghiên cứu ở 55 người bệnh đái tháo đường có nhiễm trùng bàn chân nặng thấy:

  • Tốc độ huyết trầm tăng trung bình là 58 mmHg.
  • Số lượng bạch cầu trung bình chỉ có 9.700.

Gibbon và Eliopculos thấy thường gặp các triệu chứng lâm sàng như tăng nhiệt độ, rét run, tăng bạch cầu gặp ở 2/3 số người đái tháo đường có nhiễm trùng chi dưới đe doạ phải cắt cụt đùi.

Các phương pháp không nên áp dụng điều trị

  • Ngâm chân vào dung dịch kháng sinh hình như không có tác dụng, mặc dù đây là phương pháp điều trị cổ điển vẫn còn được áp dụng phổ biến hiện nay. Việc sử dụng theo hình thức này có lẽ chỉ giúp cho người thầy thuốc cảm thấy tự tin hơn mà thôi. Ngày nay, thay bằng ngâm chân trong dung dịch kháng sinh, người ta thường áp dụng phương pháp nhỏ dung dịch kháng sinh tốc độ chậm, liên tục để rửa vết thương. Người ta cho rằng ngâm chân lâu thường làm da gần vùng tổn thương bị chết và vì thế nhiễm trùng sẽ nặng lên; đó là chưa kể do mất cảm giác; người bệnh ngâm chân vào nước quá nóng sẽ gây bỏng hoặc nồng độ hoá chất cao cũng có thể gầy bỏng cho người bệnh.
  • Một vài cơ sở điều trị còn sử dụng bể nước xoáy để điều trị vết thương bàn chân hoặc để điều trị bàn chân. Biện pháp cổ điển này ngày nay ít được dùng vì có nhiều bất lợi, điển hình nhất là các tổn thương nhiễm trùng thường bị nặng hơn lên sau khi dùng biện pháp điều trị này. Đặc biệt bể nước xoáy còn có thể là nguồn chứa vi khuẩn gây bệnh, nhất là loại vi khuẩn ưa nước Pseudomonas. Đó là chưa kể nếu dùng bê xoáy ở gia đình các tai biến khác như bỏng do nước quá nóng chẳng hạn.

Các hoá chất chống nhiễm trùng khác thường gặp như Povidine- Indone (Betadin), acid acetic; peroxid hydro hoặc dung dịch Dakin cũng đã lỗi thời không còn được sử dụng trong điều trị phổ cập nữa. Nguyên nhân chính là các hoá chất này phá huỷ tổ chức hạt, làm chậm quá trình phục hồi và lành vết thương.

PHÒNG NGỪA BỆNH LÝ BÀN CHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

Tốt nhất là phát hiện sớm để điều trị kịp thời, đúng mức.

  • Với thầy thuốc

Bước đầu tiên là giáo dục người bệnh hiểu về bệnh lý bàn chân người đái tháo đường, sự thường gặp, cách phát hiện và theo dõi. Trong đó triệu chứng dễ nhận thấy từ lần khám trước đến lần khám sau là dấu hiệu đau cách hồi. Thầy thuốc cần phải thăm khám kỹ để phát hiện các triệu chứng và dấu hiệu bất thường (bảng 13.9).

Bảng 13.9. Các dấu hiệu và triệu chứng cảnh báo các tổn thương bàn chân.

Triệu chứng Dấu hiệu
Mạch

máu

Chân lạnh

Đau cánh hồi (bắp và bàn chân) Đau khi nghỉ, đặc biệt về ban đêm

Mất mạch bàn chân, kheo, đùi. Tiếng thổi ở động mạch đùi.

Thời gian làm đầy máu > 3-4 giây Giảm nhiệt độ da.

Thần

kinh

Cảm giác: Nóng lạnh, tê bì, đau hoặc tăng cảm giác, chân lạnh Mất trương lực thần kinh tự động: Giảm tiết mồ hôi Giảm hoặc mất cảm giác nhận biết, sau đó là cảm giác đau và nhiệt độ. Giảm hoặc mất phản xạ gân xương. Giảm hoặc không tiết mồ hôi.
Hệ cơ Thay đổi hình dạng giải phẫu kèm theo giảm tiết mổ hôi, không do tiền sử chấn thương Bàn chân hình cán búa Bàn chân giọt nước
Da Vết thương mất cảm giác, đau hoặc tăng đau

Vết thựơng chậm lành hoặc không thành sẹo

Màu sắc da bị thay đổi Ngứa, bong vảy, khô mạn tính Nhiễm trùng

Khô da

Nhiễm nấm mạn tính

Sừng hoá có kèm theo chảy máu

(hoặc không)

Tóc: Rụng hoặc hói Móng: Thay đổi mạn tính như nấm móng hoặc loét hoặc móng mọc quặp gây viêm quanh móng.

  • Với người bệnh

Phải giáo dục cho người bệnh và những người thân thuộc của họ về nguy cơ gây tổn thương bàn chân, cách dự phòng, cách bảo vệ bàn chân và cả cách điều trị. Họ phải biết cách rửa chân bằng nước ấm, dùng xà phòng loại gì, cách bảo vệ (lau chân khô sau khi rửa) v.v.

Người bệnh phải biết cách tránh dùng những hóa chất có tác dụng sát trùng quá mạnh (muối epson hoặc iod V.V.), cách phòng tránh tiêp xúc đột ngột với nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh, cách dùng giày dép, bít tất v.v.

Người bệnh phải được giáo dục từ những kiến thức đơn giản nhất; ví dụ phải biết kỹ thuật chăm sóc bàn chân, biết cách cắt móng chân không quá sát, để bảo vệ niêm mạc ngón chân, không để tạo ra móng quặp. Biết cách tự soi gương kiểm tra và truy tìm những bất thường xảy ra ở phía gan bàn chân

Hướng dẫn cách sử dụng thuốc giảm đau đúng

Đau là triệu chứng thường hay gặp ở người bệnh. Vì vậy, thuốc giảm đau là loại thuốc được dùng thường xuyên và phổ biến nhất. Có nhiều loại thuốc giảm đau khác nhau, trong đó có thuốc giảm đau mạnh nhưng lại có tác dụng gây nghiện hoặc có thuốc dùng lâu dài sẽ gây tác dụng phụ nặng nề là làm viêm loét dạ dày tá tràng. Để giúp việc sử dụng thuốc giảm đau hợp lý, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đề ra 3 bậc thang dùng thuốc giảm đau như sau.

Bậc 1 là khi đau nhẹ và vừa ta nên dùng thuốc giảm đau thông thường mua không cần có toa của bác sĩ là Paracetamol hoặc thuốc nằm trong nhóm có tên gọi chung là thuốc chống viêm không steroid (viết tắt là NSAID, gồm có: aspirin, ibuprofen, diclofenac…). Nếu dùng thuốc giảm đau bậc 1 là Paracetamol hay aspirin không cải thiện có nghĩa người bệnh bị đau ở bậc cao hơn tức đau nặng ở bậc 2 hoặc đau dữ dội như đau ung thư là đau bậc 3. Lúc này phải dùng đến thuốc giảm đau loại gây nghiện có nguồn gốc thuốc phiện với loại trung bình như codein hoặc loại mạnh như morphin. Thuốc giảm đau bậc 2 và 3 có tính chất gây nghiện bắt buộc phải để cho bác sĩ điều trị chỉ định, tức là chỉ được dùng khi có đơn thuốc được ghi bởi bác sĩ.

Riêng thuốc giảm đau bậc 1 là Paracetamol và các thuốc NSAID (trong đó có aspirin) là loại được hay dùng nhất vì mua ở nhà thuốc dễ dàng không cần đến toa của bác sĩ. Chính vì thuốc giảm đau bậc 1 có thể mua dễ dàng, sử dụng rộng rãi và dùng ngày càng tăng liều đã đưa đến tỷ lệ tai biến do thuốc này ngày càng tăng ở nhiều nước trên thế giới. Sự tự ý sử dụng thuốc và không biết được các tác dụng phụ tiềm tàng, không biết được sự khác nhau giữa các thuốc giảm đau thường làm cho người bệnh lơ là trong lựa chọn thuốc, dùng bất cứ thuốc gì mà họ tự cho là thích hợp, dùng trong thời gian rất dài và thế là bị các tai biến trầm trọng.

Nhiều người đã biết rằng dùng thuốc Paracetamol để giảm đau là an toàn hơn aspirin hoặc các thuốc NSAID khác ở chỗ Paracetamol không gây hại dạ dày, tức không gây viêm loét dạ dày – tá tràng. Gần đây, nhiều chuyên gia quốc tế trong nhiều thông báo khác nhau đã nhấn mạnh đến sự lưu ý đặc biệt đến nguy cơ bị tác dụng phụ của thuốc giảm đau đối với 2 nhóm người: Nhóm người bị hen suyễn và nhóm người có vấn đề về tim mạch.

Trước hết, đối với người bị hen suyễn hoặc người có cơ địa dễ bị dị ứng nên lưu ý không nên dùng thuốc aspirin hoặc các thuốc chống viêm không steroid (NSAID) khác. Bởi vì loại thuốc giảm đau này có thể gây co thắt phế quản. Làm khởi phát cơn hen, làm triệu chứng hen suyễn nặng thêm đến mức có thể nguy hiểm đến tính mạng. Hội chứng bị lên cơn hen suyễn do dùng thuốc aspirin hay nói chung do dùng thuốc NSAID được gọi là hội chứng AIA (viết tắt của Aspirin Induced Asthma). Ở Pháp, có đến 25% bệnh nhân hen phải đưa đi cấp cứu ở bệnh viện, làm thông khí đường thở do bị hội chứng AIA. Trên thế giới, tỷ lệ bệnh nhân bị hen suyễn ngày một gia tăng, và các bệnh nhân này có lúc phải dùng thuốc giảm đau để trị bệnh. Do hội chứng AIA khó lường trước được, cho nên người có tiền sử bị dị ứng nên thận trọng tránh dùng aspirin hoặc thuốc NSAID nào khác, ngoại trừ được bác sĩ chỉ định thuốc vì sự cần thiết, để tránh lên cơn hen.

Thứ đến, những người đang có bệnh lý về tim mạch phải hết sức thận trọng trong lựa chọn thuốc giảm đau. Nên tránh dùng các thuốc NSAID nói chung (ngoại trừ aspirin liều thấp có tác dụng ngừa huyết khối có thể được bác sĩ tim mạch chỉ định dùng để ngừa đau thắt ngực, ngừa nhồi máu cơ tim). Nếu tự ý dùng thuốc NSAID có thể làm tăng nguy cơ suy tim ở người cao tuổi đang dùng thuốc lợi tiểu để trị bệnh tăng huyết áp. Hoặc thuốc aspirin có thể làm tăng huyết áp ở người đang mắc bệnh cao huyết áp.

Cần ghi nhận thêm về trường hợp đau do viêm xương khớp. Viêm xương khớp hay còn gọi thoái hóa khớp là một loại bệnh viêm khớp thường hay gặp ở người cao tuổi. Khi bị đau do viêm, trong đó có viêm xương khớp, nhiều người thường nghĩ ngay đến việc dùng thuốc NSAID. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, thuốc NSAID luôn có nguy cơ gây tác dụng phụ, đặc biệt đối với người cao tuổi. Theo hướng dẫn mới trong điều trị đau do viêm xương khớp được đề nghị bởi Hiệp hội Điều trị bệnh thấp khớp của châu Âu và Hiệp hội Điều trị đau Hoa Kỳ, trong trường hợp bị bệnh viêm xương khớp từ nhẹ-đến-vừa, Paracetamol là thuốc được lựa chọn dùng thử đầu tiên vì thuốc không gây ra một số tác dụng phụ thường thấy khi dùng thuốc giảm đau khác ví dụ như bị rối loạn dạ dày và nguy hiểm hơn là các vấn đề về tim mạch. Nếu Paracetamol tỏ ra có hiệu quả sẽ được tiếp tục dùng lâu dài. Nếu Paracetamol tỏ ra kém hiệu quả sẽ được phối hợp dùng thêm thuốc NSAID hoặc thay thế hẳn bằng thuốc NSAID. Đương nhiên khi dùng thuốc NSAID, bác sĩ điều trị sẽ có sự chọn lựa thuốc thích hợp hoặc chỉ định biện pháp phòng chống tác dụng phụ do thuốc NSAID gây nên.

Riêng thuốc Paracetamol, tuy an toàn hơn aspirin trong một số trường hợp, ta vẫn phải lưu ý độc tính của nó đối với gan. Người ta ghi nhận đã có khá nhiều trường hợp ngộ độc Paracetamol dẫn đến hoại tử tế bào gan, đặc biệt ở người cao tuổi hoặc ở người có chức năng gan hoạt động kém: Paracetamol gây nhiễm độc gan là do dùng quá liều. Vì vậy, nên lưu ý:

  • Không được dùng Paracetamol để tự điều trị cảm sốt, giảm đau quá 10 ngày ở người lớn và quá 5 ngày ở trẻ con, trừ khi được bác sĩ hướng dẫn
  • Đối với người lớn, liều thông thường không nên quá 3g/ngày (mỗi lần chỉ nên dùng 500mg- 1000mg, một ngày không quá 3 lần). Riêng người cao tuổi nên dùng liều thấp hơn do chức năng gan đã kém. Ở nước ngoài, người ta ghi nhận người cao tuổi dễ bị ngộ độc, do dùng quá liều Paracetamol, chỉ vì tự ý dùng nhiều thuốc với tên biệt dược khác nhau, nhưng thực chất chứa cùng một hoạt chất là Paracetamol mà bản thân người đó không biết.
  • Người uống rượu nhiều không nên dùng bừa bãi Paracetamol, đặc biệt không nên uống thuốc với mục đích “ngừa nhức đầu, để uống rượu không say” (cũng giống như một số người trước khi uống rượu thường uống vài viên aspirin để tăng “đô”, nhưng tăng “đô” đâu không thấy, chỉ làm hại dạ dày, có nguy cơ bị xuất huyết tiêu hóa!). Paracetamol và rượu đều có hại cho gan, do đó nếu kết hợp sẽ làm tăng độ nguy hại lên nhiều lần

Tóm lại, những điều trình bày ở trên cho thấy, việc chọn và dùng thuốc giảm đau không phải là việc đơn giản, hời hợt mà đòi hỏi phải có sự thận trọng đúng mức. Đối với người sử dụng thuốc khi cần giảm đau chỉ nên dùng thuốc giảm đau bậc 1 và nên chọn Paracetamol là thuốc dùng đầu tiên, dùng đúng liều và không dùng kéo dài.

Nếu tình trạng đau không cải thiện hoặc cải thiện, sau đó lại tái phát, ta nên đến cơ sở điều trị để được bác sĩ khám, xác định nguyên nhân và giúp chọn loại thuốc giảm đau thích hợp. Không nên tự ý dùng bất cứ loại thuốc giảm đau nào mà mình không rõ hoặc dùng loại thuốc giảm đau bậc cao hơn, bậc 2 hoặc bậc 3, có thể bị nghiện thuốc và tai biến nguy hiểm.

Ở đây xin được nói thêm về dạng thuốc băng dán giảm đau. Đây là dạng thuốc là miếng băng dán dùng dán lên da và có hai loại. Loại băng dán chỉ cho tác dụng tại chỗ tức là dán lên da, dược chất giảm đau (như thuốc chống viêm không steroid ketoprofen hoặc methyl salicylat) thấm vào da làm giảm đau chống viêm tại chỗ hơn. Có loại thứ hai, dù là miếng băng dán, khi dán lên da dược chất sẽ thấm xuyên qua da để vào tĩnh mạch dưới da, vào máu và cho tác dụng giảm đau toàn thân. Hiện nay người bị đau dữ dội như đau ung thư có thể dùng băng dán Durogesie (chứa dược chất gây nghiệm fentanyl) để giảm đau và bắt buộc phải dán đúng cách theo chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ điều trị đau do ung thư.

Thuốc Burosumab

Tên chung: Burosumab

Tên thương hiệu và các tên khác: Crysvita, burosumab-twza

Nhóm thuốc: Kháng thể đơn dòng, Nội tiết

Burosumab là gì và được sử dụng để làm gì?

Burosumab là một loại thuốc được sử dụng trong điều trị bệnh thiếu phosphat máu liên kết với nhiễm sắc thể X (XLH) và loãng xương do khối u (osteomalacia) do các khối u mô trung mô phosphaturic ở người lớn và trẻ em. Burosumab là một kháng thể immunoglobulin G1 (IgG1) được sản xuất bằng công nghệ ADN tái tổ hợp. Burosumab tác động lên một loại protein đặc hiệu làm tăng bài tiết phosphate qua nước tiểu và ức chế tổng hợp vitamin D trong thận.

Phosphat hay phosphate là một khoáng chất cần thiết cho sự phát triển và sức khỏe của xương và răng, sự co cơ và năng lượng tế bào. Vitamin D là một dưỡng chất khác rất quan trọng để duy trì sức khỏe của xương và răng. Mức phosphat thấp trong máu (thiếu phosphat máu) gây ra sự tái hấp thu phosphat từ xương, làm yếu xương. Thiếu phosphat máu gây ra yếu cơ dần dần và mất xương, dẫn đến các vấn đề như chân cong, gãy xương, đau xương, khó di chuyển, áp xe răng và mất thính lực.

Burosumab là một kháng thể đơn dòng được thiết kế để tác động lên yếu tố tăng trưởng sợi thần kinh 23 (FGF23), một hormon peptide do tế bào xương sản xuất để ức chế sự tái hấp thu phosphate và tổng hợp vitamin D trong thận. Bằng cách ức chế hoạt động của FGF23, burosumab tăng sự tái hấp thu phosphate ở ống thận và tăng sản xuất vitamin D3 (1,25 dihydroxy vitamin D). Dạng vitamin D này giúp tăng hấp thu phosphate và canxi từ ruột, làm tăng mức phosphate trong máu và giúp tái khoáng xương.

Cả thiếu phosphat máu liên kết nhiễm sắc thể X và loãng xương do khối u (TIO) liên quan đến các khối u mô trung mô phosphaturic đều là những rối loạn làm tăng sự tiết FGF23. Thiếu phosphat máu liên kết nhiễm sắc thể X là một rối loạn di truyền hiếm gặp do đột biến gen làm tăng sản xuất FGF23. Trong trường hợp loãng xương do khối u, các khối u nội tiết lành tính nhỏ trong xương hoặc mô mềm được gọi là các khối u mô trung mô phosphaturic tiết FGF23. Burosumab hoạt động bằng cách ức chế sự tiết FGF23 trong cả hai rối loạn này.

Chỉ định được FDA phê duyệt của burosumab bao gồm điều trị:

  • Thiếu phosphat máu liên kết nhiễm sắc thể X ở bệnh nhân người lớn và trẻ em từ 6 tháng tuổi trở lên.
  • Thiếu phosphat máu liên quan đến FGF23 trong loãng xương do khối u liên quan đến các khối u mô trung mô phosphaturic không thể phẫu thuật cắt bỏ hoặc không xác định được vị trí ở bệnh nhân người lớn và trẻ em từ 2 tuổi trở lên.

Cảnh báo

  • Không sử dụng burosumab cùng với phosphate uống và/hoặc các dẫn xuất vitamin D như calcitriol, paricalcitol, doxercalciferol, calcifediol vì nguy cơ tăng phosphat máu.
  • Không tiêm burosumab cho bệnh nhân có mức phosphat huyết thanh trong hoặc vượt mức bình thường đối với độ tuổi.
  • Không sử dụng burosumab để điều trị cho bệnh nhân có chức năng thận bị suy giảm nghiêm trọng hoặc bệnh thận giai đoạn cuối, vì các tình trạng này gây ra rối loạn chuyển hóa khoáng.
  • Điều trị bằng burosumab có thể liên quan đến các phản ứng quá mẫn như phát ban và mày đay (urticaria). Nếu bệnh nhân phát triển các phản ứng quá mẫn, ngừng sử dụng burosumab và tiến hành điều trị thích hợp.
  • Mức phosphat huyết thanh cao hơn giới hạn bình thường có thể gây ra sự lắng đọng canxi trong thận (nephrocalcinosis).
  • Theo dõi mức phosphat của bệnh nhân và giảm liều burosumab hoặc tạm dừng điều trị nếu cần.
  • Bệnh nhân bị loãng xương do khối u đang điều trị có thể cần phải tạm ngừng điều trị hoặc giảm liều để tránh tăng phosphat máu.
  • Việc tiêm burosumab có thể gây ra các phản ứng tại chỗ tiêm. Nếu bệnh nhân gặp phải phản ứng nặng tại chỗ tiêm, ngừng tiêm burosumab và cung cấp điều trị thích hợp

Tác dụng phụ của burosumab

Tác dụng phụ phổ biến của burosumab bao gồm:

Trẻ em:

  • Sốt (pyrexia)
  • Ho
  • Phản ứng tại chỗ tiêm, bao gồm:
    • Đỏ da (erythema)
    • Phát ban
    • Mày đay (urticaria)
    • Ngứa (pruritus)
    • Đau và khó chịu
    • Sưng
    • Thay đổi màu da
    • Bầm tím
    • Huyết khối (hematoma)
    • Chảy máu
    • Cứng mô (induration)
    • Đau ở chi
  • Đau đầu
  • Mức vitamin D giảm
  • Nôn
  • Áp xe răng
  • Sâu răng
  • Đau răng
  • Tiêu chảy
  • Táo bón
  • Buồn nôn
  • Phát ban
  • Đau cơ (myalgia)
  • Chóng mặt
  • Mức phosphat trong máu tăng

Người lớn:

  • Đau lưng
  • Đau đầu
  • Nhiễm trùng răng
  • Áp xe răng
  • Mức vitamin D giảm
  • Hội chứng chân không yên (Restless legs syndrome)
  • Chóng mặt
  • Cơn co cơ
  • Táo bón
  • Mức phosphat trong máu tăng (hyperphosphatemia)
  • Phản ứng nhẹ tại chỗ tiêm, bao gồm:
    • Đỏ da (erythema)
    • Phát ban
    • Bầm tím
    • Đau
    • Ngứa (pruritus)
    • Huyết khối (hematoma)
  • Phản ứng quá mẫn, bao gồm:
    • Phát ban
    • Eczema
    • Thu hẹp không gian trong cột sống (spinal stenosis)
    • Chèn ép tủy sống

Gọi bác sĩ ngay lập tức nếu bạn gặp phải bất kỳ triệu chứng hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng nào khi sử dụng thuốc này:

  • Các triệu chứng tim nghiêm trọng: tim đập nhanh hoặc mạnh, cảm giác rung trong ngực, khó thở và chóng mặt đột ngột.
  • Cơn đau đầu nghiêm trọng, nhầm lẫn, nói ngọng, yếu cơ nghiêm trọng, nôn mửa, mất khả năng phối hợp, cảm giác không vững.
  • Phản ứng thần kinh nghiêm trọng với cơ bắp rất cứng, sốt cao, đổ mồ hôi, nhầm lẫn, tim đập nhanh hoặc không đều, run rẩy, cảm giác như có thể ngất xỉu.
  • Các triệu chứng mắt nghiêm trọng: nhìn mờ, nhìn thấy hầm hố, đau mắt hoặc sưng mắt, hoặc nhìn thấy vầng sáng quanh ánh sáng.

Đây không phải là danh sách đầy đủ của tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra từ việc sử dụng thuốc này. Hãy gọi cho bác sĩ để được tư vấn y tế về các tác dụng phụ hoặc phản ứng nghiêm trọng. Bạn cũng có thể báo cáo các tác dụng phụ hoặc vấn đề sức khỏe cho FDA qua số điện thoại 1-800-FDA-1088.

Liều dùng của burosumab

Dung dịch tiêm, lọ đơn liều:

  • 10 mg/mL
  • 20 mg/mL
  • 30 mg/mL

Người lớn:

Thiếu phosphat máu liên kết nhiễm sắc thể X (X-linked hypophosphatemia – XLH):

  • Chỉ định cho thiếu phosphat máu liên kết nhiễm sắc thể X, một dạng bệnh còi xương hiếm gặp do di truyền.
  • Liều tiêm dưới da (SC) 1 mg/kg mỗi 4 tuần; làm tròn liều gần nhất là 10 mg.
  • Không vượt quá 90 mg/liều.

Loãng xương do khối u (Tumor-induced Osteomalacia):

  • Chỉ định cho thiếu phosphat máu liên quan đến FGF23 trong loãng xương do khối u liên quan đến các khối u mô trung mô phosphaturic không thể phẫu thuật cắt bỏ hoặc không xác định được vị trí.
  • Liều tiêm dưới da (SC) 0.5 mg mỗi 4 tuần ban đầu; có thể tăng liều lên đến 2 mg/kg mỗi 2 tuần, không vượt quá 180 mg/liều.

Điều chỉnh liều

  • Sau khi bắt đầu điều trị, đánh giá mức phosphat huyết thanh lúc đói hàng tháng, đo 2 tuần sau liều, trong 3 tháng đầu điều trị, và sau đó là khi cần thiết.
  • Nếu phosphat huyết thanh trong phạm vi tham khảo, tiếp tục với liều hiện tại.
  • Giảm liều:
    • Đánh giá lại mức phosphat huyết thanh lúc đói 2 tuần sau khi điều chỉnh liều.
    • Không điều chỉnh liều thường xuyên hơn 1 lần mỗi 4 tuần.
    • Nếu phosphat huyết thanh vượt quá phạm vi tham khảo, ngừng liều tiếp theo và đánh giá lại mức phosphat huyết thanh sau 4 tuần.
    • Bệnh nhân cần có mức phosphat huyết thanh thấp hơn phạm vi tham khảo để có thể bắt đầu lại thuốc.
    • Khi mức phosphat huyết thanh thấp hơn phạm vi tham khảo, điều trị có thể được bắt đầu lại với khoảng một nửa liều khởi đầu ban đầu (không vượt quá 40 mg mỗi 4 tuần) theo lịch trình liều đã được mô tả trong thông tin kê toa.
    • Đánh giá lại mức phosphat huyết thanh 2 tuần sau bất kỳ thay đổi liều nào.

Suy thận:

  • Tác động của suy thận đối với dược động học của burosumab chưa được biết rõ.
  • Tuy nhiên, suy thận có thể gây rối loạn chuyển hóa khoáng, làm tăng nồng độ phosphate lớn hơn mức mong đợi với burosumab; sự tăng này có thể dẫn đến tăng phosphate máu (hyperphosphatemia) và gây ra nephrocalcinosis.
  • Clearance creatinine (CrCl) 15-29 mL/phút hoặc bệnh thận giai đoạn cuối (CrCl dưới 15 mL/phút): Chống chỉ định.

Các xem xét về liều dùng

  • Ngừng sử dụng phosphate dạng uống và các analog vitamin D hoạt động (ví dụ: calcitriol, paricalcitol, doxercalciferol, calcifediol) 1 tuần trước khi bắt đầu điều trị.
  • Nồng độ phosphat huyết thanh lúc đói cần phải thấp hơn mức tham khảo cho độ tuổi trước khi bắt đầu điều trị.

Bổ sung vitamin D 25-hydroxy:

  • Theo dõi mức vitamin D 25-hydroxy.
  • Bổ sung với cholecalciferol hoặc ergocalciferol để duy trì mức vitamin D 25-hydroxy trong phạm vi bình thường cho độ tuổi.
  • Không sử dụng các analog vitamin D hoạt động trong suốt quá trình điều trị.

Liều dùng cho trẻ em:

Thiếu Phosphat Máu Liên Kết Nhiễm Sắc Thể X (X-Linked Hypophosphatemia):

  • Chỉ định cho thiếu phosphat máu liên kết nhiễm sắc thể X, một dạng bệnh còi xương hiếm gặp do di truyền, ở cả người lớn và trẻ em từ 6 tháng tuổi trở lên.
  • Trẻ em dưới 6 tháng tuổi:
    • An toàn và hiệu quả chưa được xác định.
  • Trẻ em từ 6 tháng tuổi trở lên:
    • Trọng lượng dưới 10 kg: 1 mg/kg tiêm dưới da (SC) mỗi 2 tuần; làm tròn liều gần nhất là 1 mg.
    • Trọng lượng từ 10 kg trở lên: 0.8 mg/kg tiêm SC mỗi 2 tuần; làm tròn liều gần nhất là 10 mg.
    • Liều bắt đầu tối thiểu dựa trên trọng lượng là 10 mg, tối đa là 90 mg.

Loãng Xương Do Khối U (Tumor-induced Osteomalacia):

  • Chỉ định cho thiếu phosphat máu liên quan FGF23 trong loãng xương do khối u (TIO) liên quan đến các khối u mô trung mô phosphaturic không thể cắt bỏ hoặc xác định vị trí ở người lớn và trẻ em trên 2 tuổi.
  • Trẻ em từ 2 tuổi đến dưới 18 tuổi:
    • Khởi đầu: 0.4 mg tiêm SC mỗi 2 tuần; làm tròn liều gần nhất là 10 mg.
    • Có thể tăng liều lên đến 2 mg/kg mỗi 2 tuần, không vượt quá 180 mg/liều.
    • Không điều chỉnh liều thường xuyên hơn một lần mỗi 4 tuần.
  • Giảm liều:
    • Nếu phosphat huyết thanh cao hơn mức tham khảo cho độ tuổi, ngừng liều tiếp theo và đánh giá lại mức phosphat huyết thanh sau 4 tuần.
    • Phosphat huyết thanh phải dưới mức tham khảo cho độ tuổi để có thể tiếp tục điều trị.
    • Khi phosphat huyết thanh dưới mức tham khảo, có thể bắt đầu lại liều với 50% liều ban đầu, tối đa là 180 mg mỗi 2 tuần.
    • Sau khi giảm liều, đánh giá lại mức phosphat huyết thanh sau 4 tuần.
  • Theo dõi phosphat huyết thanh:
    • Sau khi bắt đầu, đánh giá mức phosphat huyết thanh lúc đói hàng tháng, đo 2 tuần sau liều trong 3 tháng đầu điều trị, và sau đó là khi cần thiết.
    • Đánh giá lại mức phosphat huyết thanh sau 4 tuần sau khi điều chỉnh liều.

Điều chỉnh liều (Thiếu Phosphat Máu Liên Kết Nhiễm Sắc Thể X):

  • Giảm liều:
    • Nếu phosphat huyết thanh vượt quá 5 mg/dL, ngừng liều tiếp theo và đánh giá lại mức phosphat huyết thanh sau 4 tuần.
    • Bắt đầu lại thuốc chỉ khi phosphat huyết thanh dưới mức tham khảo cho độ tuổi.
    • Khi phosphat huyết thanh dưới mức tham khảo, tiếp tục điều trị theo lịch liều giảm đã mô tả trong thông tin kê toa.
    • Đánh giá lại mức phosphat huyết thanh sau 4 tuần sau khi điều chỉnh liều.
  • Tăng liều:
    • Trẻ em dưới 10 kg:
      • Nếu phosphat huyết thanh dưới mức tham khảo cho độ tuổi, có thể tăng liều lên 1.5 mg/kg, làm tròn đến 1 mg, tiêm mỗi 2 tuần.
      • Nếu cần tăng liều thêm, có thể tăng lên tối đa 2 mg/kg, làm tròn đến 1 mg, tiêm mỗi 2 tuần.
    • Trẻ em từ 10 kg trở lên:
      • Nếu phosphat huyết thanh dưới mức tham khảo cho độ tuổi, có thể tăng liều theo phương pháp tăng dần lên đến 2 mg/kg, tiêm mỗi 2 tuần với các bước tăng từ 5-10 mg (xem thông tin kê toa).
      • Không vượt quá 90 mg/liều.

Điều chỉnh liều (Suy thận):

  • Tác động của suy thận đối với dược động học của burosumab chưa được xác định.
  • Tuy nhiên, suy thận có thể gây rối loạn chuyển hóa khoáng, dẫn đến nồng độ phosphate cao hơn mức mong đợi, có thể gây hyperphosphatemia và nephrocalcinosis.
  • Tốc độ lọc cầu thận (eGFR) 15-29 mL/phút/1.73m² hoặc bệnh thận giai đoạn cuối (eGFR dưới 15 mL/phút/1.73m²): Chống chỉ định.

Quá liều

  • Chưa có báo cáo về quá liều burosumab. Việc sử dụng lâu dài với liều cao có thể gây lắng đọng phức hợp canxi-phosphate trong các mô liên kết (tạo khoáng ngoài vị trí). Quá liều cũng có thể làm giảm sự khoáng hóa, mật độ và sức mạnh của xương.
  • Trong trường hợp quá liều burosumab, cần đánh giá và theo dõi mức phosphat và canxi huyết thanh, cũng như chức năng thận cho đến khi trở lại mức bình thường/cơ bản. Nếu phát hiện nồng độ phosphate cao, ngừng burosumab và bắt đầu điều trị thích hợp cho hyperphosphatemia.

Những thuốc tương tác với burosumab

Hãy thông báo cho bác sĩ của bạn về tất cả các thuốc bạn đang sử dụng, để bác sĩ có thể tư vấn về những tương tác thuốc có thể xảy ra. Không bao giờ bắt đầu sử dụng, ngừng đột ngột hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ thuốc nào mà không có sự chỉ dẫn của bác sĩ.

Tương tác nghiêm trọng của burosumab bao gồm:

  • Phosphate dạng uống
  • Các analog vitamin D hoạt động

Burosumab không có tương tác nghiêm trọng với các thuốc khác.

Burosumab không có tương tác vừa phải với các thuốc khác.

Burosumab không có tương tác nhẹ với các thuốc khác.

Các tương tác thuốc được liệt kê ở trên không phải là tất cả các tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về các tương tác thuốc, bạn có thể tham khảo công cụ kiểm tra tương tác thuốc của RxList.

Lưu ý quan trọng: Luôn luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ, hoặc nhà cung cấp dịch vụ y tế về tất cả các thuốc kê đơn và thuốc không kê đơn mà bạn sử dụng, cùng với liều lượng của từng thuốc, và giữ một danh sách thông tin này. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ y tế của bạn nếu có bất kỳ câu hỏi nào về thuốc.

Mang thai và cho con bú

  • Mang thai: Không có dữ liệu về việc sử dụng burosumab ở phụ nữ mang thai để xác định nguy cơ thuốc đối với các kết quả phát triển thai nhi. Các nghiên cứu trên động vật với liều lượng cao hơn nhiều lần so với liều tối đa khuyến nghị ở người đã gây ra tình trạng tăng phosphat huyết thanh ở mẹ và khoáng hóa nhau thai.
  • Cho con bú: Không có thông tin về sự hiện diện của burosumab trong sữa mẹ hoặc tác dụng của thuốc đối với sản xuất sữa hoặc trẻ bú mẹ.
    • IgG mẹ có mặt trong sữa mẹ. Các tác động của việc trẻ bú sữa mẹ tiếp xúc với burosumab qua đường tiêu hóa và sự tiếp xúc hệ thống hạn chế ở trẻ bú mẹ vẫn chưa được biết.
    • Quyết định cho con bú trong quá trình điều trị với burosumab nên dựa trên nhu cầu lâm sàng của người mẹ, lợi ích sức khỏe và phát triển của việc cho con bú, và các nguy cơ đối với trẻ bú mẹ do tiếp xúc với thuốc hoặc tình trạng bệnh lý của mẹ.

Những điều cần lưu ý khác về burosumab

Hãy thông báo cho bác sĩ của bạn nếu bạn gặp phải bất kỳ vấn đề nào sau khi sử dụng burosumab:

  • Phản ứng tại vị trí tiêm
  • Phản ứng quá mẫn cảm
  • Hội chứng chân không yên (Restless legs syndrome)

Không sử dụng phosphate dạng uống hoặc các bổ sung vitamin D trong khi đang điều trị với burosumab.

Tóm tắt

Burosumab là một loại thuốc được sử dụng trong điều trị thiếu phosphat máu liên kết nhiễm sắc thể X (XLH) và loãng xương do khối u (osteomalacia) liên quan đến các khối u mô trung mô phosphaturic ở người lớn và trẻ em. Burosumab là một kháng thể người immunoglobulin G1 (IgG1) được sản xuất bằng công nghệ ADN tái tổ hợp.

  • Tác dụng phụ ở trẻ em có thể bao gồm sốt, ho, phản ứng tại vị trí tiêm và các triệu chứng khác.
  • Tác dụng phụ ở người lớn có thể bao gồm đau lưng, đau đầu, nhiễm trùng răng, áp xe răng, thiếu vitamin D, hội chứng chân không yên và các triệu chứng khác.

Huyệt Phủ Xá

Phủ Xá

Tên Huyệt Phủ Xá:

Phủ = lục phủ. Bụng là nơi chứa (xá) của các tạng phủ, vì vậy gọi là Phủ Xá (Trung Y Cương Mục).

Xuất Xứ:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính Huyệt Phủ Xá:

Huyệt thứ 13 của kinh Tỳ.

Huyệt Hội của Túc Quyết Âm Can + Thái Âm Tỳ + Âm Duy Mạch.

Huyệt Khích của Thái Âm.

Biệt của Tam Âm, Dương Minh.

Vị Trí Huyệt Phủ Xá:

Xác định huyệt Xung Môn (Tỳ 12) đo lên 0, 7 thốn, cách ngang đường giữa bụng 4 thốn, trên nếp bẹn, phía ngoài động mạch đùi, ở khe giữa 2 bó cơ đái chậu.

Giải Phẫu:

Dưới da là khe giữa 2 bó của cơ đái-chậu-xương đùi.

Thần kinh vận động cơ là các ngành ngang của đám rối thắt lưng.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh L1.

Chủ Trị Huyệt Phủ Xá:

Trị ruột dư viêm, phần phụ viêm, đau do thoát vị.

Cách châm Cứu:

Châm thẳng 1-1, 5 thốn. Cứu 3-5 tráng, Ôn cứu 5-10 phút.

Ghi Chú:

Tránh châm vào động mạch.

Có thai: không châm.

Sinh địa

Tên khoa học:

Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Libosch.

Tên khác:             Địa hoàng

Họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae)

Tên tiếng trung: 生地黄

MÔ TẢ

Cây Địa hoàng
Cây Địa hoàng

Cây thảo, có rễ củ mập, màu nâu đỏ nhạt. Thân rất ngắn. Lá mọc ở gốc xếp thành hình hoa thị, mép có răng cưa tròn không đều, gân lá chằng chịt hình mạng làm cho lá như bị rộp phồng ở mặt trên và hơi lõm ở mặt dưới, hai mặt có lông nhỏ mịn, mặt dưới đôi khi có màu đỏ.

Hoa mọc thành chùm dài thẳng đứng, rất cách nhau ở phần dưới, màu đỏ tím, đài hình chuông, 5 răng nhọn; tràng có 5 cánh tròn, hợp lại thành ống hơi cong; nhị 2.

Quả bế, hình cầu chứa nhiều hạt nhỏ, màu nâu nhạt. Toàn cây có lông nhỏ mềm.

Mùa hoa quả: tháng 4 – 7.

PHÂN BỐ, NƠI MỌC

Sinh địa có nguồn gốc từ vùng ôn đới ẩm của Trung Quốc.

Ở Việt Nam, cây được nhập trồng vào năm 1958 và sớm thích nghi với thời tiết nóng, ẩm ở các tỉnh miền Bắc. Từ năm 1980, sinh địa được đưa vào trồng ở các tỉnh phía Nam, nhưng ít kết quả. Thời kỳ phát triển của sinh địa mạnh nhất vào những năm 70 – 90, sau đó bị đình đốn.

BỘ PHẬN DÙNG, THU HÁI, CHẾ BIẾN

Vị thuốc Sinh địa
Vị thuốc Sinh địa

Rễ củ sinh địa, thu hái ở cây trồng được 5 – 6 tháng, đem về, rửa nhanh, để ráo nước, rồi sấy cho rễ mềm (lúc nào thấy mặt cắt của rễ có màu đen và dính là được). Phơi hay sấy nhẹ cho khô.

Sinh địa thường được chế thành thục địa để dùng theo cách làm cụ thể sau: Lấy những củ sinh địa nhỏ hoặc rễ nấu thành nước đặc rồi tẩm vào những củ sinh địa to, đem đồ, phơi, xong lại tẩm, phơi cho đến khi hêt nước tẩm. Làm được 9 lần (cửu chưng, cửu sái) thì tốt. Hoặc nấu sinh địa với nước và rượu 40°, đun nhỏ lửa cho cạn, luôn đảo đều cho củ ngấm. Nấu lại lần thứ hai, thêm gừng. Làm đến khi dược liệu có màu đen nhánh là được.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Rễ củ sinh địa chứa catalpol, các rehmaniosid A, B, c, D; các đường glucose, íructose, sucrose, raíinose; aucubin, p-sitosterol, daucosterol, các acid sucinic, acid palmitic, campesterol, caroten…

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Sinh địa dưới dạng nước sắc có tác dụng điều hòa hoặc kích thích miễn dịch theo như kinh nghiệm y học cô

truyền, có hoạt tính hạ đường huyết trên động vật thí nghiệm và tác dụng an thần, lợi tiểu.

CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Sinh địa có vị ngọt đắng, tính lạnh, có tác dụng sinh huyết, thanh nhiệt, mát máu, chữa thiếu máu, nóng trong, háo khát, băng huyết, kinh nguyệt không đều, viêm họng, đái tháo đường.

Liều dùng hàng ngày: 10 – 20g dưới dạng thuốc sắc.

Thục địa có vị ngọt, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng dưỡng huyết, bổ thận, chữa liệt dương, di tinh, suy nhược cơ thể, ho suyễn, khát nước, làm sáng mắt, đen tóc. Liều dùng hàng ngày: 8 – 16g, dưới dạng thuốc sắc hoặc rượu ngâm.

Dùng ngoài, sinh địa giã nát, đắp chữa sưng vú, bắp chuối.

BÀI THUỐC

  • Chữa sốt cao, co giật: Sinh địa (20g), lá hẹ (10g). Tất cả rửa sạch, giã nát, thêm nước, gạn uống làm một lần trong ngày.
  • Chữa viêm họng, miệng khô khát, sốt nóng: Sinh địa (12g), mạch môn (10g), huyền sâm (10g), cam thảo (8g). Các vị thái nhỏ, phơi khô, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống trong ngày. Dùng 3 – 5 ngày.
  • Thuốc bổ cho phụ nữ sau đẻ: Thục địa (16g), ích mẫu (16g), hà thủ ô đỏ (20g), sâm nam (12g). sắc uống ngày một thang.
  • Thuốc bổ huyết, điều kinh: Thục địa (16g), đương quy (10g), bạch thược (10g), xuyên khung (5g). sắc uống ngày một thang.
  • Thuốc bổ toàn thân: Thục địa (20g), thiên môn (20g), đảng sâm (10g). Thục địa và đảng sâm thái nhỏ, ngâm với 100ml rượu 35° trong 10 – 15 ngày. Thiên môn thái mỏng, phơi khô, sắc với nước, cô thành cao lỏng, thêm 150g đường kính, cô lấy 400ml cao. Để nguội, hòa cao thiên môn với rượu sâm thục.

Ngày dùng 2 lần, mỗi lần một chén nhỏ trước bữa ăn nửa giờ. (Thuốc dùng rất tốt cho người cao tuổi).

Theo “Dược phẩm vựng yếu”

Sinh địa hoàng

Khí vị:

Vị ngọt, đắng, rất hàn, không độc, vào kinh Thủ thiếu âm và Túc thái âm, tính chìm mà giáng xuống, là âm dược. Ghét Bối mẫu, sợ Vu di, kỵ những đồ dùng bằng sắt hoặc đồng, nếu phạm vào thì tiêu hao tạng Thận, bạc tóc, đàn ông tổn vinh, đàn bà tổn vệ.

Chủ dụng:

Chủ trị lao thương, thông đại tiểu tiện, nuôi phần âm, lui phần dương, mát Tâm hỏa huyết nhiệt, chữa chứng lao nhiệt nóng trong xương, chứng ngũ tâm phiền nhiệt, nôn ra máu, chảy máu mũi, mắt lên mụn nhọt, phụ nữ kinh nguyệt khô bế, có thai ra huyết hoặc rong huyết, băng huyết, phàm nhiệt của Phế kinh hiện ra mạch hồng, nhiệt nhiều thì đều dùng được. Có người nói bổ cho 5 tạng mà thêm sức lực.

Hợp dụng:

Cùng dùng với Mạch môn thì đi vào Tâm và Thận, lại nói giải Rượu rất tốt, cùng sao với nước Gừng thì không nê trệ trong ngực, không trệ đờm đặc.

Cấm kỵ: Phàm chứng Tỳ và Vị có hàn thì nên dùng ít, Trung tiêu hư hàn thì cấm dùng (sợ hại cho Tỳ và Vị).

Cách chế:

Cho vào nước thử, hễ thấy nổi lên là Thiên hoàng, nếu chìm một nửa là Nhân hoàng, đều không dùng được, củ nào chìm mới là Địa hoàng, để sống thì rất hàn, phơi khô thì hơi hàn, nướng khô thì hơi ôn, sao với nước Gừng thì khỏi nê trệ đờm ở cách mạc, thái lát tẩm Rượu phơi khô mới có thể cho vào

thuốc bổ Tỳ. Cũng như Bạch truật, theo từng loại của nó, chung vào thang thuốc thì thành công được.

Nhận xét:

Sinh địa bẩm thụ khí nhất dương giữa mùa Đông để sinh, lại bẩm thụ cả hỏa khí của đât để lớn lên, màu vàng là màu của hành Thổ, vị ngọt thì vào được Tỳ, đắng thì vào được Tâm, cho nên chuyên chủ dùng cho Tâm và Tỳ. Đan Khê nói: Sinh địa so với Thục địa lại tuyên thông mà không trệ, phàm chứng nhọc mệt tổn thương đến Tỳ thì trong thuốc làm cho Tỳ đầy đủ nên dùng nó một vài phần để giữ vững khí của Tỳ.

Phụ

THỤC ĐỊA HOÀNG

Khí vị:

Vị ngọt, hơi ôn, không độc, thuốc chủ yếu của kinh Thiếu âm, chìm mà giáng xuống, là âm dược. Có thuyết nói: vào kinh Thủ thiếu âm, Túc thiếu âm, Thủ quyết âm, Túc quyết âm. ủy kỵ cũng như Sinh địa hoàng.

Chủ dụng:

Rất bổ cho huyết suy, tư bổ cho Thận thủy, đầy xương tủy, thêm chân âm, chuyên chủ bổ nguyên khí của Thận, kiêm chữa cả kinh Can, ngã gãy đứt gân, bị thương tổn ở trong, chứng ngũ lao, thất thương, chứng huyết tý, 5 tạng tổn thương, bố chỗ tuyệt, nối chỗ đứt, thông mạch máu, thêm khí lực, sáng tai mắt, xanh tóc, râu, lui hư nhiệt mà nhuận táo, bổ tinh huyết mà điều kinh nguyệt, chữa chứng đùi vế và ống chân đau sau khi bị thương hàn có công hiệu khác thường, phụ nữ sau sinh bụng và rốn đau gấp dùng nó có hiệu quả ngay. Là vị thuốc trọng trọc ở trong thuốc trọng trọc, có tác dụng mạnh gân xương, bệnh nội thương, bệnh Can, Thận đều phải dùng nó.

Hợp dụng:

Mạch ở 2 bộ Xích kém (nhất là bộ Xích bên hữu kém) thì dùng Quế, Phụ làm tá, mạch ấy quá thịnh thì dùng Tri, Bá làm tá.

Cấm kỵ: Dùng nó độc vị thì nê trệ, làm cho đầy bụng, chứng đờm thịnh thì dùng phải cẩn thận, chứng bên trong có hàn sinh bĩ đầy, đi ngoài thì hoàn toàn cấm dùng.

Cách chế:

Dùng nửa nước, nửa Rượu nấu chín, phơi khô cả nước, lại nấu, lại phơi 9 lần là được.Nếu cho vào trong thuốc chữa Tỳ hư nên sao thơm hãy dùng, chứng có đờm thì sao với nước Gừng.

Nhận xét:

Thục địa hoàng là thuốc chủ yếu để bổ Thận, thuốc tốt nhất để dưỡng âm, Lục vị hoàn dùng nó làm quân là căn bản ở hành Thủy do trời số một (thiên nhất) sinh ra, Thang Tứ vật dùng nó làm quân là ý nghĩa “Ất Mộc” với “Quý Thủy” cùng chung một nguồn (Ất Quý đồng nguyên). Người bây giờ nấu Thục địa một lần là sai lầm vì nó bẩm tính thuần âm của phương Bắc mà sinh ra, không có ánh lửa và mặt trời cùng luyện chung thì không chín được, tính hàn lương của nó chưa hết. Cho nên Thục địa bào chế không cẩn thận chẳng những dùng không ích lợi gì mà còn hại đến khí của Tỳ Vị, chứng nhiệt thuộc hư còn tạm chịu được, chứ chứng hàn thuộc hư thì bệnh chuyên nặng ngay, ngấm ngầm tổn hại mà không biết, thực là đáng tiếc. Do đó Địa hoàng hoàn phải bào chế hết sức cẩn thận.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Tiểu nhi dược chứng trực quyết”

Bài Lục vị địa hoàng thang

Thục địa 16g, Hoài sơn 8g, Sơn thù 8g, Bạch linh 6g, Đan bì 6g, Trạch tả 6g. sắc, chia uống 3 lần trong ngày.

Có tác dụng bổ âm của Can Thận.

Trị Can Thận bất túc, Thận âm khuy tổn, lưng đau, gối mỏi, mắt hoa, mắt đau, tai ù, di tinh, tiêu khát, họng đau, sa Dạ con, yếu

sinh lý, hiếm muộn và trẻ em phát dục không tốt thuộc thể Can Thận âm hư, họng khô, lưỡi đỏ, rêu ít, mạch xích bên tả vi tế.

“Y tông kim giám”

Bài Tri bá địa hoàng thang

Là bài Lục vị địa hoàng thang thêm Tri mẫu, Hoàng bá.

Có tác dụng Tư âm, tả hỏa.

Trị âm hư, hỏa vượng, sốt âm ỉ trong xương, sốt kéo dài, ra mồ hôi trộm. Bài này tả hỏa rất mạnh, dùng cho trường hợp thực nhiệt, có hỏa độc.

“Y cấp”

Bài Kỷ cúc địa hoàng thang

Là bài Lục vị địa hoàng thang thêm Cúc hoa, Kỷ tử.

Có tác dụng tư Thận, dưỡng Can.

Trị Thận âm hư, Can hỏa vượng, sinh ra hoa mắt, mờ mắt, đau đầu, chóng mặt, suy nhược thần kinh, cao huyết áp.

“Thọ thế bảo nguyên”

Bài Mạch vị địa hoàng thang

Là bài Lục vị địa hoàng thang thêm Mạch môn, Ngũ vị tử.

Có tác dụng bổ Thận, tư Phế. Trị Phế Thận âm hư sinh khô khát, viêm đường hô hấp trên, ho, ho ra máu, sốt về chiều, đêm ra mồ hôi trộm, viêm mũi dị ứng, táo bón, kinh nguyệt sắc sẫm đen, kinh nguyệt không đều, động thai, sẩy thai do Can Thận âm hư quả, nam giới sinh lý yếu, hiếm muộn, tai ù, mắt mờ.

“Thẩm thị giao hàm”

Bài Minh mục địa hoang thang

Là bài Lục vị địa hoàng thang thêm Sài hồ, Đương quy, Kỷ tử, Cúc hoa, Bạch tật lê, Quyết minh tử, Ngũ vị tử, Thạch quyết minh. Thận dương hơi kém thêm Nhục quế. Có tác dung tư bổ Can Thận, tiêu phong nhiệt, làm sáng mắt.

Trị các chứng mắt khô, mắt mờ, quáng gà, huyết áp cao thể âm hư hỏa vượng, hoặc hỏa bốc.

“Cảnh Nhạc toàn thư”

Bài Tả quy hoàn

Thục địa 320g, Sơn thù 160g, Sơn dược 160g, Câu kỷ tử 160g, Quy bản giao 160g, Lộc giác giao 160g, Thỏ ty tử 160g, Ngưu tất 120g.

Cách chế:

Nấu Thục địa cho nhừ nát, giã thành cao, trộn bột các vị thuốc khác vào, thêm Mật làm hoàn to bằng hạt Ngô đồng, mỗi lần uống 50-100 hoàn, trước bữa ăn, ngày 2 lần.

Có tác dụng bổ Can Thận, ích tinh huyết.

Chữa người suy nhược lâu ngày, người lớn tuổi Can Thận, tinh huyết hư tổn, thân thể gầy mòn, lưng gối đau mỏi, hoa mắt, di tinh. Bài này và bài Lục vị địa hoàng hoàn công dụng hơi giống nhau. Nhưng Lục vị địa hoàng hoàn có bổ, có tả, còn bài này bổ mà không tả, dùng trị tinh tủy đều suy.

“Kim quỹ yếu lược”

Bài Đại hoàng giá trùng hoàn

Đại hoàng 10g, Đào nhân 40g, Giá trùng 80g (sấy giòn), Hạnh nhân 40g, Hoàng cầm 80g, Bạch thược 160g, Can địa hoàng 400g, Manh trùng 40g (sấy giòn), Can tất 40g, Thủy diệt 100 con (sấy giòn), Tề tào 40g, Cam thảo 120g.

Tất cả cùng tán nhỏ, liều uống 12-16g, ngày 2 lần.

Có tác dụng trừ huyết khô (huyết chết), sinh huyết mới.

Chữa hư lao gầy còm, bụng đầy không ăn được; huyết khô ứ đọng ở trong, da dẻ tróc vảy, hai mắt có quầng đen xạm.

Trên lâm sàng dùng chữa tắc mạch máu chi (tắc mạch máu ở đầu ngón chân, ngón tay; gây hoại tử đau đớn).

“Kim quỹ yếu lược”

Bài Bát vị địa hoàng hoàn

Thục địa hoàng 240g, Son thù du 120g, Hoài sơn dược 120g, Trạch tả 90g, Bạch linh 90g,

Mầu đơn bì 90g, Hắc phụ tử 30g, Nhục quế 30g.

Chú ý: Có lúc dùng Quế chi thay Nhục quế. Hải Thượng Lãn Ông thường gia thêm Mạch môn, Ngưu tất, Ngũ vị tử.

Thục địa nấu nhừ, giã nát thành cao, các vị khác tán nhỏ, tất cả trộn đều, thêm Mật làm hoàn. Liều uống 12-16g, ngày 2 lần.

Có tác dụng bổ Mệnh môn hỏa, ích Can, Thận.

Trị Thận dương bất túc, lưng gối lạnh đau, bụng đau, tiểu tiện không lợi hoặc tiểu không tự chủ, ban đêm tiểu tiện nhiều và các hiện tượng Thận dương hư suy như ho đờm, tiêu khát, thủy thũng, tiêu chảy lâu ngày, quan cách, phiên vị, chất lưỡi nhạt dày, mạch 2 bộ Xích vi tế.

Trên lâm sàng thường gia giảm bài này, dùng chữa viêm tiết niệu cấp và mạn tính, viêm teo Thận mạn tính, huyết áp cao hoặc huyết áp thấp, u xơ Tiền liệt tuyến, thần kinh suy nhược, viêm Phế quản mạn, viêm họng mạn, tràn dịch Phổi, loét Tá tràng, mắt có màng, đục thủy tinh thể, rối loạn kinh nguyệt, suy sinh dục, hiếm muộn, viêm sa Dạ con, Dạ con xuất huyết cơ năng, hội chứng addison, thoái hóa khớp, mề đay, miệng lở loét…

Hải Thượng Lãn Ông gọi bài này là Thủy hỏa thần đan, thường gia thêm Ngưu tât, Mạch môn, Ngũ vị tử, lại gọi là thuốc thần cho tính mạng, có thể chữa được bách bệnh.

Nếu hỏa chưa hư nhiều có thể không dùng Phụ tử,là bài Thất vị địa hàng hoàn.

Bài Ngưu xa thận khí hoàn

Là bài Bát vị thận khí hoàn thêm Ngưu tất, Xa tiền tử. So với bài Bát vị thận khỉ hoàn thì bài này lợi thủy, tiêu thũng mạnh hơn. Những người già yếu, đau lưng, tiểu ít, có thể phù thũng,

liệt dương, người mệt mỏi, chân tay lạnh nên dùng bài này. Người phì đại Tiền liệt tuyến cũng có thể dùng bài này.

Vì tính của Ngưu tất giáng xuống nên người di tinh, mộng tinh, băng huyết đừng uống, người ăn uống kém ngon, ỉa chảy cũng không nên dùng.

“Tuyên minh luận”

Bài Địa hoàng ẩm tử

Thục địa 18g, Sơn thù du 6g, Ba kích thiên 6g, Nhục thung dung 6g, Hắc phụ tử 2-3g, Nhục quế lg, Thạch hộc 6g, Mạch môn 6g, Ngũ vị tử 3g, Thạch xương bồ 6g, Viễn chí 6g, Bạch linh 6g, Sinh Khương 1 nhát, đại táo 1 quả.

Sắc, chia uống 3 lần trong ngày.

Có tác dụng bổ Thận, ích tinh, hóa đờm, khai khiếu.

Trị bại liệt, lưỡi cứng không nói được, miệng khô, không muốn uống, rêu lưỡi nhờn, mạch trầm, tế nhươc.

Trên lâm sàng dùng bài này gia giảm chữa xuất huyết não, trị mi mắt co giật, trị huyết áp cao do xơ cứng động mạch Thận, chức năng Thận bị suy mạn tính (thêm Bán hạ), trị xơ cứng động mạch não, trị rối loạn tiểu não, trị bênh Pakinson (thêm Nam tinh), trị bệnh ở cột sống (viêm tủy, hở đốt sống bẩm sinh), trị di chứng viêm não Nhật bản

Trên lâm sàng, nếu chỉ có chân yếu liệt có thể bỏ Xương bồ, Viễn chí. nếu hiện chứng âm hư, đờm hỏa thịnh thì bỏ các loại thuốc ôn táo như Nhục quế, Phụ tử, thêm Bối mẫu, Trúc lịch, Đởm tinh, Thiên trúc hoàng để thanh hóa nhiệt đờm.

“Cảnh Nhạc toàn thư” Bài Hữu quy ẩm

Bài Hữu quy ẩm

Thục địa 8-12g, Sơn dược (sao), Câu kỷ tử, Đỗ trọng (chế Gừng), Sơn thù, Chích Cam thảo đều 8g, Nhục quế 4g, Hắc Phụ tử 2g. Sắc, chia uống 3 lần trong ngày.

Có tác dụng ôn Thận, chân tinh.

Trị Thận dương bất túc, chân tay lạnh, giả nhiệt.

Gia giảm: Khí hư huyết thoát, ra mồ hôi nhiều, chóng mặt, hơi thở ngắn, thêm Nhân sâm, Bạch truật.

Hỏa suy không sinh được thổ gây nên nôn mửa, nuốt chua thêm Can khương.

Dương khí suy, đại tiện lỏng, đau bụng thêm Nhân sâm, Nhục đậu khấu.

Bụng dưới đau thêm Ngô thù. Tiểu không tự chủ, đới hạ thêm Phá cố chỉ.

Huyết kém, huyết trệ, thắt lưng đau gối mỏi thêm Đương quy.

Trên lâm sàng thường dùng trị huyết áp cao, suy giảm miễn dịch, rối loạn vận mạch, tinh dịch dị thường, lupus ban đỏ.

“Tâm đắc thần phương” Hải Thượng Lãn Ông

Bài Toàn chân nhất khí thang

(Còn gọi là cứu âm thang)

Thục địa 8đ (đại tiện lỏng thì sao khô rồi hãy dùng)

Bạch truật 3đ, Tỳ hư 5đ (sao vàng hạ thổ, âm hư tẩm sữa sao). Nhân sâm 2đ (nếu nguyên khí hư quá có thể dùng tới 1 -2 lạng, nếu mạch hồng thì không dùng).

Mạch môn 3đ (Vị hàn thì sao với gạo nếp, Tỳ yếu, Phế hư thì giảm đi), Ngũ vị tử 0,5đ, Ngưu tất 2đ, Hắc phụ tử l,2đ.

Sắc, chia uống 3 lần trong ngày.

CHỦ TRỊ: Trúng phong bệnh nặng, âm hư phát nhiệt, thổ huyết, ho, tất cả các chứng hư lao rất nặng, cùng chứng ban chẩn trầm trọng, trên suyễn dưới tả, trên thực dưới hư, trên nhiệt dưới hàn, uống vào liền khỏi. Đây là một phương tư âm giáng hỏa rất hay, sau khi tính giả nhiệt đã lui, tính chân hàn xuất hiện thì chớ uống nhiều, lại gây ra chứng hư hàn ỉa chảy. Gia giảm:Người háo bội Thục địa, Phế nhiệt tăng Mạch môn, Tỳ

hư tăng Bạch truật, dương hư bội Phụ tử, nguyên khí hư nhiều bội Nhân sâm, trên có chứng giả dương bỏ Nhân sâm, gân cốt yếu thì thêm Đỗ trọng 3đ. Cách gia giảm ở trong đó cũng là theo ý: bổ Hỏa ở trong Thủy, tàng Dương ở trong Thổ, lập phương theo lý luận: Thổ, Kim, Thủy cùng một khí hóa sinh ra.

Gia vị duy nhất chỉ một vị Đỗ trọng mà thôi.

“Tâm đắc thần phương”-Hải Thượng Lãn Ông

Bài Dưỡng vinh quy tỳ thang

Thục địa 8đ, Táo nhân 1đ, Bạch linh 1,5đ, Ngưu tất 2đ, Mạch môn 2đ (sao với gạo), Bạch truật 3đ, Bach thược l,2đ, Ngũ vị lđ, Nhục quế 8 phân.

Gia Đăng tâm, Liên từ, sắc, chia uống vài lần trong ngày.

CHỦ TRỊ: Tất cả các chứng ngũ lao, thất thương, phát sốt, ho, thổ huyết, hâm hấp sốt, biếng ăn, mỏi mệt, mạch Thốn hồng, Xích nhược.

Bài này phối hợp cả 2 phương Dưỡng vinh và Quy tỳ, gia thêm Mạch môn, Ngũ vị để liễm nạp Phế khí, thêm Ngưu tất để trọc âm đi xuống và để chữa chứng phát nhiệt mà thổ huyết. Bài này không dùng Nhân sâm là vì không muốn hỏa mạnh lên, sẽ làm cho âm càng hư, khó khỏi ho và thổ huyết.

“Hướng dẫn sử dụng các bài thuốc”

Bài Tư huyết nhuận tràng thang

Đương quy 8g, Sinh địa 8g, Đào nhân 8g, Bạch thược 6g, Chỉ thực 4-6g, lá Hẹ 5g, Đại hoàng 2-6g, Hồng hoa 2g.

Chủ trị: Dùng cho người ruột khô, máu chết ở trong bụng, sinh táo bón, không dùng được thuốc tả hạ như Tiểu thừa khí thang, Đại thừa khí thang. Ấy là bệnh của người ung thư Thực quản, Dạ dày, thức ăn không tiêu. Người già xơ cứng động mạch, bí đại tiện cũng có thể dùng bài này (bỏ Hẹ, Hồng hoa, Bạch thược; thêm Hạnh nhân, Hậu phác, Hoàng cầm, Vừng).