Blog Trang 504

Điều trị bệnh da bằng laser YAG

I.  ĐỊNH NGHĨA

Điều trị bằng laser YAG là kỹ thuật sử dụng thiết bị phát ra chùm tia có bước sóng 1064nm có khả năng phá huỷ phân tử hắc tố melanin, một cách chọn lọc để điều trị một số thương tổn tăng sắc tố ở da.

II.  CHỈ ĐỊNH

  • Bớt xanh đen (bớt Ota).
  • Bớt cà phê sữa.
  • Rám má.
  • Tàn nhang, đốm nâu, đồi mồi.
  • Xăm mình.
  • Bớt mạch máu.
  • Trẻ hóa da, triệt lông, trứng cá đỏ, sẹo do trứng cá.

III.  CHỐNG CHỈ ĐỊNH

  • Tăng nhậy cảm với ánh nắng.
  • Phụ nữ có thai, đang uống isotretinoin, cơ địa sẹo lồi.
  • Mắc các bệnh rối loại tâm thần.
  • Không chấp thuận điều trị.

IV.  CHUẨN BỊ

1. Người thực hiện

Bác sĩ và kỹ thuật viên đội mũ, đeo khẩu trang, kính bảo vệ mắt.

2.  Dụng cụ

  • Máy laser
  • Bông băng, gạc vô trùng.
  • Thuốc sát trùng.
  • Kem tê.
  • Cream để chống nhiễm khuẩn và tái tạo sẹo.

3.  Người bệnh

Phải được tư vấn trước khi thực hiện quy trình điều trị.

4.  Hồ sơ bệnh án

Mỗi người bệnh có bệnh án theo dõi riêng.

V. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH

1. Kiểm tra hồ sơ bệnh án

  • Chụp ảnh trước mỗi lần điều trị.
  • Ghi chép diễn biến bệnh sau mỗi lần điều trị.
  • Có hồ sơ và tổng kết bệnh án theo quy định.

2.  Kiểm tra người bệnh

  • Khám và đánh giá kết quả sau mỗi lần điều trị.
  • Động viên người bệnh điều trị đều.

3.  Thực hiện kỹ thuật

  • Bôi kem tê EMLA 5% 60 phút trước khi điều trị. Để thuốc thuốc có tác dụng tốt, nên băng bịt khi bôi thuốc.
  • Theo kính bảo vệ mắt cho thầy thuốc và người bệnh.
  • Lau và sát trùng vô khuẩn.
  • Chọn công suất và bước sóng phù hợp với loại tổn thương. Nên bắt đầu điều trị với công suất từ 7 đến 8J/cm2  sau đó tăng dần trong quá trình điều trị. Trường hợp người bệnh còn đau nhiều, nên chườm lạnh trước khi điều trị.
  • Sát khuẩn và bôi thuốc tái tạo sẹo.
  • Băng.
  • Dặn dò người bệnh cách chăm sóc vết thương hàng ngày tại nhà và sử dụng kem chống nắng.
  • Một tháng điều trị một lần. Đánh giá kết quả sau mỗi lần điều trị.

VI.  THEO DÕI

  • Nhiễm khuẩn.
  • Tăng sắc tố sau viêm.

VII.  XỬ TRÍ TAI BIẾN

Nếu có các diễn biến bất thường trên phải khám cụ thể và có hướng điều trị kịp thời.

Huyệt Trung Độc

Trung Độc

Tên Huyệt Trung Độc:

Huyệt ở giữa (trung) chỗ lõm sau cân cơ đùi, giống hình cái rãnh nước (độc), vì vậy gọi là Trung Độc (Trung Y Cương Mục).

Xuất Xứ Huyệt Trung Độc:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính Huyệt Trung Độc:

Huyệt thứ 32 của kinh Đởm.

Vị Trí Huyệt Trung Độc:

Xác định huyệt Phong Thị đo thẳng xuống 2 thốn, trên lằn nhượng chân 5 thốn, bờ sau cân cơ đùi, bờ trước cơ nhị đầu đùi.

Giải Phẫu:

Dưới da là bờ sau cân đùi và cơ rộng ngoài, bờ trước cơ 2 đầu đùi, cơ rộng giữa, xương đùi.

Thần kinh vận động cơ là nhánh day thần kinh mông trên, các nhánh dây thần kinh đùi và nhánh dây thần kinh hông.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh L3.

Chủ Trị Huyệt Trung Độc:

Trị thần kinh tọa đau, liệt nửa người, đùi đau.

Phối Huyệt:

Phối Hoàn Khiêu (Đ.30) (châm) + Túc Tam Lý (Vị 36) (cứu) + Phế Du (Bàng quang.13) trị yếu liệt (Châm Cứu Tụ Anh).

Cách châm Cứu Huyệt Trung Độc:

Châm thẳng 1-2 thốn. Cứu 3-5 tráng – Ôn cứu 5 – 10 phút.

ALPHAGAN – hạ nhãn áp glaucome

Alphagan được chỉ định để làm hạ nhãn áp ở người bệnh glaucome góc mở hoặc tăng nhãn áp. Tác dụng làm hạ nhãn áp của thuốc này sẽ giảm đi ở một số bệnh nhân sau một thời gian dùng thuốc, do đó cần theo dõi chặt chẽ.

ALPHAGAN

A L L E R G A N

thuốc nhỏ mắt 0,2% : lọ 5 ml, lọ 10 ml.

THÀNH PHẦN

cho 1 ml
Brimonidine tartrate 2 mg
tương đương : Brimonidine base (1,32 mg)
(Benzalkonium chloride) (0,05 mg)
(pH) (6,3 – 6,5)
Tá dược không có hoạt tính : cồn polyvinyl, natri chloride, natri citrate, acid citric,nước cất tiệt khuẩn.

DƯỢC LỰC

Cơ chế tác dụng :

Alphagan là chất chủ vận tại thụ thể a2-adrenergic. Hai giờ sau khi nhỏ mắt, thuốc đạt tác dụng hạ nhãn áp tối đa. Nghiên cứu bằng đo quang – huỳnh quang mạnh trên động vật và trên người cho thấy brimonidine tartrate có cơ chế tác dụng kép : vừa làm giảm tiết thủy dịch, vừa làm tăng thoát thủy dịch ở củng mạc – màng bồ đào.

Nghiên cứu lâm sàng :

Yếu tố nguy cơ lớn nhất ở người bệnh glaucome là tăng nhãn áp. Nhãn áp càng tăng thì càng có nguy cơ suy thoái thần kinh thị giác, càng dễ bị mù. Alphagan làm giảm được nhãn áp, mà rất ít ảnh hưởng tới các thông số tim mạch và hô hấp.

Nghiên cứu lâm sàng có so sánh với timolol 0,5%, kéo dài trong một năm, thấy Alphagan làm hạ nhãn áp 4-6 mmHg so với hạ 5 mmHg ở timolol. Có 8% bệnh nhân bỏ cuộc do không kiểm soát được đầy đủ nhãn áp, trong số đó có 30% bỏ cuộc trong tháng đầu. Khoảng 20% phải ngưng thuốc do tác dụng không mong muốn.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Sau khi nhỏ một lượng dung dịch 0,2% vào mắt từ 1-4 giờ, thuốc sẽ đạt nồng độ đỉnh trong huyết tương và giảm dần, thời gian bán thải T1/2 khoảng 3 giờ. Ở người, brimonidine chuyển hóa mạnh, chủ yếu ở gan. Thải trừ chính qua nước tiểu, dưới dạng hoạt chất không bị biến đổi và các chất chuyển hóa. Khoảng 87% liều uống của brimonidine đánh dấu được thải trong vòng 120 giờ, trong đó 74% tìm thấy ở nước tiểu.

CHỈ ĐỊNH

Alphagan được chỉ định để làm hạ nhãn áp ở người bệnh glaucome góc mở hoặc tăng nhãn áp. Tác dụng làm hạ nhãn áp của thuốc này sẽ giảm đi ở một số bệnh nhân sau một thời gian dùng thuốc, do đó cần theo dõi chặt chẽ.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Chống chỉ định dùng Alphagan ở người quá mẫn cảm với brimonidine tartrate hoặc với các thành phần khác của thuốc.

Không dùng đồng thời Alphagan với các thuốc ức chế monoamino-oxidase (IMAO).

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Mặc dầu Alphagan có tác dụng rất yếu trên huyết áp người bệnh, nhưng cũng phải thận trọng khi dùng ở người sẵn có bệnh tim mạch nghiêm trọng.

Chưa có nghiên cứu ảnh hưởng của Alphagan trên người suy gan, suy thận, nên cần phải thận trọng khi dùng ở những đối tượng này.

Cần thận trọng khi dùng Alphagan ở người bệnh trầm cảm, suy não, suy mạch vành, có hiện tượng Raynaud, hạ huyết áp tư thế, viêm tắc nghẽn mạch máu.

Trong quá trình nghiên cứu, thấy có mất tác dụng thuốc ở một vài bệnh nhân. Tác dụng làm hạ nhãn áp khi dùng Alphagan dưới dạng dung dịch nhỏ mắt trong tháng điều trị đầu tiên không phải luôn luôn phản ánh sự giảm nhãn áp khi dùng dài hạn. Với người bệnh mà nhãn áp vẫn chưa được cân bằng trở lại khi nhỏ thuốc 2 lần mỗi ngày, thì có thể nhỏ thêm một giọt vào buổi chiều. Người bệnh muốn hạ nhãn áp bằng thuốc này cần được theo dõi nhãn áp thường kỳ.

Chất bảo quản trong Alphagan là benzalkonium chloride có thể bị hấp thu qua kính tiếp xúc mềm. Người bệnh nếu đặt kính tiếp xúc mềm cần được hướng dẫn để chờ ít nhất 15 phút sau khi nhỏ Alphagan rồi mới đặt kính tiếp xúc mềm.

Lái xe và vận hành máy móc :

Cũng như mọi thuốc của nhóm này, Alphagan có thể gây mệt mỏi và/hoặc buồn ngủ ở một số người. Với người lao động ở nơi nguy hiểm, cần phải thận trọng do thuốc làm giảm sự tỉnh táo về tinh thần.

Tác dụng gây ung thư, gây đột biến, ảnh hưởng tới sinh sản :

Chuột nhắt uống 2,5 mg/kg/24 giờ (tính theo dạng base) trong 21 tháng liền, chuột cống trắng uống 1,0 mg/kg/24 giờ trong 2 năm liền, không thấy gây ung thư (liều lượng gấp 77-118 lần, tương tứng nồng độ của thuốc trong huyết tương người sau khi nhỏ mắt).

Dùng test Ames, thử nghiệm độ sai lạc nhiễm sắc thể trên tế bào buồng trứng chuột Hamster Trung quốc (CHO), thử nghiệm chết trội trên chuột trắng nghiên cứu cả in vitro và in vivo không thấy Alphagan gây biến dị hoặc độc với tế bào.

Trẻ em : Chưa xác định độ an toàn và hiệu lực của thuốc với trẻ em.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Lúc thai :

Nghiên cứu trên sự sinh sản ở chuột cống cái uống 0,66 mg brimonidine base/kg, không thấy Alphagan ảnh hưởng tới sinh sản hoặc độc với thai. Liều lượng dùng trên chuột như vậy gấp 10 lần nồng độ thuốc này trong huyết tương người sau khi nhỏ nhiều lần vào mắt.

Chưa có nghiên cứu ảnh hưởng của Alphagan trên người mang thai, tuy vậy, trên động vật thấy Alphagan qua được rau thai và một phần vào tới tuần hoàn thai. Vậy chỉ dùng thuốc này ở người mang thai khi lợi ích cho mẹ hơn hẳn sự rủi ro với thai.

Lúc nuôi con bú :

Chưa rõ Alphagan có qua được sữa mẹ hay không, mặc dầu nghiên cứu trên động vật thấy brimonidine tartrate bài tiết được qua sữa của động vật mang thai. Tùy theo tầm quan trọng của việc dùng thuốc này mà nên cho trẻ ngừng bú hoặc mẹ ngừng dùng thuốc.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Mặc dầu chưa tiến hành nghiên cứu về tương tác thuốc với Alphagan, nhưng có thể có tác dụng hiệp đồng với các thuốc ức chế thần kinh trung ương (rượu, barbiturate, thuốc phiện, thuốc an thần, thuốc gây mê…). Alphagan không có tác dụng có ý nghĩa trên mạch và trên huyết áp. Tuy vậy, vì là thuốc thuộc nhóm chủ vận a-adrenergic, nên cũng có thể làm giãn mạch và hạ huyết áp, vì vậy cần thận trọng khi phối hợp Alphagan với các thuốc chẹn bêta-adrenergic (dù dùng tại chỗ hoặc toàn thân), thuốc trị cao huyết áp và/hoặc các glycoside trợ tim.

Thuốc chống trầm cảm loại 3 vòng có thể làm tăng tác dụng hạ huyết áp của clonidine (dùng toàn thân). Chưa rõ phối hợp các loại thuốc chống trầm cảm này với Alphagan có gây tương tác về tác dụng làm hạ nhãn áp hay không? Cũng chưa rõ nhỏ thuốc Alphagan có ảnh hưởng gì tới hàm lượng catecholamine lưu thông hay không? Tuy nhiên, vẫn cần thận trọng với người dùng thuốc chống trầm cảm loại 3 vòng, vì những thuốc này có thể ảnh hưởng tới chuyển hóa và lưu thông của các amine này.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Tác dụng không mong muốn xuất hiện ở khoảng 10-30% người dùng thuốc. Những rủi ro dễ gặp tính theo thứ tự giảm dần là khô miệng, xung huyết mắt, nóng rát và đau nhức, đau đầu, mờ mắt, cảm giác có dị vật trong mắt, mệt mỏi, buồn ngủ, viêm kết mạc, phản ứng dị ứng ở mắt, ngứa mắt. Một số hiện tượng khác gặp ở 3-9% bệnh nhân, theo thứ tự giảm dần, như vệt đen/vệt ăn mòn ở giác mạc, sợ ánh sáng, ban đỏ ở mi mắt, đau nhức mắt, khô mắt, chảy nước mắt, triệu chứng hô hấp mạnh, phù kết mạc, chóng mặt, viêm mi mắt, kích ứng mắt, triệu chứng tiêu hóa, mệt mỏi, tái nhợt kết mạc, thị giác bất thường và đau cơ.

Những tác dụng ngoại ý sau đây gặp dưới 3% bệnh nhân : cứng mi mắt, chảy máu kết mạc, vị giác bất thường, mất ngủ, xuất tiết kết mạc, trầm cảm, tăng huyết áp, chán ăn, đánh trống ngực, khô mũi và ngất.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Nhỏ một giọt Alphagan vào mắt bị bệnh mỗi ngày 2 lần. Với bệnh nhân bị nhãn áp cao buổi chiều hoặc cần kiểm tra thêm nhãn áp có thể nhỏ thêm một giọt Alphagan vào buổi chiều.

QUÁ LIỀU

Chưa có thông tin về quá liều ở người. Nếu uống quá liều do nhầm lẫn hay cố ý thì dùng biện pháp điều trị triệu chứng, điều trị hỗ trợ. Cần đảm bảo sự thông khí.

BẢO QUẢN

Bảo quản ở nhiệt độ <=25oC

Bệnh Sốt Rickettsia Mooseri (sốt rickettsia phát ban lành tính)

Tên khác: bệnh sốt rickettsia phát ban lành tính, lưu hành.

Định nghĩa

Bệnh do rickettsia của chuột ngẫu nhiên truyền sang người, có sốt kéo dài 15-20 ngày và có nổi mẩn da ở thân.

Căn nguyên

Mầm bệnh là Rickettsm mooseri (typhi). Chuột là nguồn chứa vi khuẩn tự nhiên.

Vi khuẩn được truyền sang người qua bọ chét chuột (Xenopsyla cheopsis).

Có miễn dịch chéo  với sốt rickettsia phát ban.

Dịch tễ học

Bệnh có ở mọi nơi trên thế giới, ở nơi nào có chuột, ở các khu bẩn và ở các hải cảng, nhất là ở vùng Địa Trung Hải.

Triệu chứng

Thời gian ủ bệnh là 2- 3 tuần. Hình ảnh lâm sàng giống như sốt rickettsia phát ban nhưng các triệu chứng đều nhẹ hơn.

Ngoại ban (không trở thành ban xuất huyết) xuất hiện vào khoảng ngày thứ 5.

Thời gian sốt chừng 2 tuần nhưng được rút ngắn do kháng sinh. ít khi có biến chứng.

Xét nghiệm cận lâm sàng

Phản ứng Weil-Felix cho thấy có ngưng kết với Proteus 0X19 và đôi khi với 0X2.

Phân biệt với sốt rickettsia phát ban dựa trên phản ứng vi ngưng kết đặc hiệu với Rickettsia mooseri (hiệu giá tối thiểu 1/160 vào ngày thứ 10).

Tiên lượng: tốt.

Điều trị: như với sốt rickettsia phát ban.

Phòng bệnh

Diệt chuột, rắc thuốc diệt bọ chét. Khai báo bắt buộc ở phần lớn các nước.

Bạch chỉ

Tên khoa học:

Angelica Dahurica Benth. Et Hook. F. Họ khoa học: Apiaceae.

Tên khác:

Bách chiểu, Chỉ hương, Cửu lý trúc căn, Đỗ nhược, Hòe hoàn, Lan hòe, Linh chỉ, Ly hiêu, Phương hương (Bản Kinh), Thần hiêu (Hòa Hán Dược Khảo), Bạch cự (Biệt Lục), Phù ly, Trạch phần (Ngô Phổ Bản Thảo), An bạch chỉ, Hàng bạch chỉ, Vân nam ngưu phòng phong, Xuyên bạch chỉ (Trung Dược Đại Từ Điển), Hưng an bạch chỉ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Hàng bạch chỉ, Hương bạch chỉ, Xuyên bạch chỉ (Đông Dược Học Thiết Yếu),

Mô tả:

Cây thân thảo, sống lâu năm, cao 1-1,5 m. Thân rỗng, đường kính có thể đến 2- 3cm. Mặt ngoài mầu tím hồng, phía dưới nhẵn, phía trên gần cụm hoa có lông ngắn. Rễ phình thành củ dài, mọc thẳng, đôi khi phân nhánh. Lá tọt có cuống dài, phát triển thành bẹ rộng, ôm lấy thân, phiến lá xẻ 2-3 lần, hình lông chim. Thùy hình trứng dài 2-6cm, rộng 1-3cm, m p có răng cưa. 2 mặt lá không lông trừ đường gân ở mặt trên lá có lông tơ. Cụm hoa là 1 tán kép, mọc ở đầu cành hoặc kẽ lá, có cuống chung dài 4-8cm, cuống tán dài 1cm. Hoa mầu trắng, mẫu 5. Quả bế đôi dẹt, hình bầu dục hoặc hơi tròn, dài khoảng 6mm. Rễ, thân, lá, có tinh dầu thơm. Mùa hoa quả: tháng 5-7.

Cây Bạch chỉ
Cây Bạch chỉ

Phân biệt:

Phân biệt với cây xuân Bạch Chỉ (Angelica anomala Lallem) cùng họ với cây trên, đó là cây cao 2-3m. Lá 3 lần sẻ lông chim. Lá chét có cuống dài khoảng 3cm.

Những điểm khác đều giống loài ở trên.

Mô tả dược liệu: Rễ Bạch Chỉ (Angelica dahurica Benth et Hook.) hình trụ, đầu trên hơi vuông mang vết tích của cổ rễ, đầu dưới nhỏ dần. Mặt ngoài màu vàng hay nâu nhạt có nhiều lớp nhăn dọc nhiều lỗ vỏ lồi lên nằm ngang xếp thành 4 hàng dọc. Bẻ ngang cứng, mặt bẻ không sơ. Mặt cắt ngang có lớp bần mỏng, mô mềm vỏ màu trắng ngà, có nhiều bột, phía ngoài xốp hoặc có nhiều điểm nhỏ màu nâu (ống tiết) tầng sinh gỗ hình vuông. Gỗ chiếm trên 1/2 đường bán kính. Mùi thơm hơi hắc, vị hơi cay gọi là hàng Bạch Chỉ.

Rễ Bạch Chỉ (Angelica anomala Lallem) cũng hình trụ mặt ngoài màu vàng nâu hay nhạt, có lỗ vỏ lồi lên nằm ngang. Bẻ ngang cứng, mặt bẻ không sơ. Mặt ngang có lớp bần mỏng, mô mềm màu vỏ trắng tro, có nhiều tính bột phía ngoài có nhiều điểm nhỏ màu nâu (ống tiết), tầng sinh gỗ hình vòng tròn, gỗ chiếm trên 1/3 đường bán kính. Mùi hơi hắc, vị hơi cay gọi là Xuyên Bạch Chỉ.

Thu hái, sơ chế: Lá úa vàng lúc mùa thu, đào rễ, bỏ thân và rễ con, rửa sạch đốt cho vào vại có vôi, đậy kín một tuần mới lấy ra phơi khô, có nơi phơi ngay nếu mưa thì sấy trong lò sau đó thì cạo bỏ vỏ mỏng ngoài Hoặc có nơi phơi hoặc sấy nhẹ đến khô, hoặc cho vào lò xông Lưu hoàng một ngày đêm cho thật chín mềm (cứ 100kg Bạch Chỉ tươi thì dùng 0,800kg Lưu hoàng) cho tới độ ẩm dưới 13% thì Bạch Chỉ mới trắng, những lần sấy sau Lưu hoàng ít hơn, cứ 100kg Bạch Chỉ thì cần Lưu hoàng đốt làm 2 lần.

Bào chế:

+ Hái Bạch chỉ về, cạo sạch vỏ, thái nhỏ, lấy Hoàng tinh (số lượng bằng nhau), cho vào nồi, đồ 1 lúc, lấy Bạch chỉ ra, phơi khô, dùng. Hoặc hái về, rửa sạch, cắt ra từng khúc, trộn với vôi, phơi khô. Khi dùng cho vào thuốc thì sao qua. có thể sao cháy hoặc tẩm giấm, sao (Trung Dược Đại Từ Điển).

+ Rửa qua cho sạch, ủ 3 giờ cho mềm. Thái nhỏ, phơi trong râm cho khô. Không sao tẩm gì (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược – Việt Nam).

Rễ củ thu hái lúc trời khô ráo, trước lúc mưa to k o dài. Đào rễ và cắt cho bằng đầu, tránh làm sây sát vỏ và gẫy rễ. Không thu hái ở cây đã kết hạt. Loại bỏ rễ con, rửa nhanh sau đó sấy Lưu huỳnh rồi phơi ở nhiệt độ 40-50o (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).

Bạch chỉ
Bạch chỉ

Khí vị:

Vị cay, tính ấm, không độc, đưa lên nhiều hơn giáng xuống, là dương dược, vào kinh Thủ, Túc dương minh và Túc thái âm, ghét Toàn phúc hoa.

Chủ dụng:

Chữa chứng đau đầu thuộc Dương minh kinh, đầu phong chảy nước mắt, đau răng, nhức lông mày, phong tê ngứa, rắn cắn, bị đâm chém, ung nhọt trong ruột, tất thảy chứng sưng vú, chảy nước mũi, Trường phong, trĩ rò, bạch đới, xích đới thì nó là thuốc chủ yếu để khu phong, táo thấp, có khả năng chữa kinh bế, sưng âm hộ, ứ huyết đau vùng Tim, ngực sườn đau nhói, nó là yếu dược trừ cái cũ, sinh cái mới.

Đơn thuốc: Chữa ung nhọt trong ruột, bệnh đới hạ ra chất tanh nhớp, dùng Bạch chỉ 1 lạng, Hồng quỳ 2 lạng, Khô phàn, Bạch thược đều 5đ, tán nhỏ, dùng sáp hoàn bằng hạt Ngô đồng, liều uống 50 viên, uống với nước cơm lúc đói lòng. Khi hết mũ dùng lá sen để bổ, khi ung nhọt đã vỡ mủ thì liều dùng giảm bớt. Mọi chứng sang lở dùng Bạch chỉ làm tá vì nó đuổi được phong, hút được mủ.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Phương pháp bào chế và sử dụng đông dược”- Viện Y học cổ truyền nói: Dùng sống trị nóng rét, nhức đầu, cảm mạo. Tẩm Dấm sao trị lâm lậu. Sao cháy trị đại tiện ra máu.

“Hướng dẫn sử dụng các bài thuốc”

Bài Thanh thượng phòng phong thang

Xuyên khung, Hoàng cầm, Liên kiều, Bạch chỉ, Cát cánh, Phòng phong đều 6-8g, Kinh giới, Hoàng liên, Bạc hà, Chỉ thực, Cam thảo đều 3-6g, Chi tử 4-8g.

Chữa phong ở phần trên do xung huyết. Tuổi thanh niên do khí lực mạnh nổi mụn trứng cá trên mặt, các bệnh viêm da ở phân trên, xung huyết mắt, mũi đỏ, viêm tai giữa, viêm lợi răng và nhiều loại rối loạn tổ chức da mặt, da đầu đều có thể dùng bài này.

Chú ý:Thuốc chỉ chữa các chứng huyết xung lên mặt, da đầu

“Tế sinh phương”

Bài Thương nhĩ tán

Bach chỉ, Tân di nhân, Thương nhĩ tử, Bạc hà.

Trị các bệnh tỵ uyên, mũi chảy nước vàng, mũi tắc.

“Thừ sự nan tri”

Bài Cửu vị khương hoạt thang

Khương hoạt, Phòng phong, Thương truật, đều 6g, Xuyên khung, Sinh địa, Bạch chỉ, Hoàng câm, Cam thảo đêu 4g, Tê tân 2g, Sinh khương 2 nhát, Thông bạch 2 cọng.

Sắc, chia uống 2 lần trong ngày, có tác dụng phát hãn, trừ thấp, thanh lý nhiệt.

Trị các chứng ngoại cảm phong hàn, thấp, sốt, sốt sợ lạnh, đau đầu, miệng đắng, hơi khát, không ra mồ hôi, rêu lưỡi trắng trơn, mạch phù khẩn.

“Thiên gia diệu phương”

Bài Phục phương cát chỉ di thang

Tân di 9g, Liên kiều 15g, Cát căn 15g, Bạch chỉ 9-12g, Triết Bối mẫu 9-12g, Bản lan căn 30g. sắc, chia uống 3 lần trong ngày. Có tác dụng tân bình giải biểu.

Chữa ngoại cảm.

Gia giảm: sốt cao, không ra mồ hôi thêm Kinh giới tuệ 12g. Khí âm hư thêm Sa sâm 20g. Ho nhiều thêm Hạnh nhân 9-12g. Ho rát cổ thay Triết Bối mẫu bằng bột Xuyên Bối mẫu 6-9g (chiêu với nước thuốc). Cảm mạo kèm thấp thêm Bạch chỉ tới 12-15g, Xa tiền thảo 12-15g.

Liều dùng:

4-8g.

Đơn thuốc kinh nghiệm:

+ Trị đầu phong: Bạch chỉ, Bạc hà, Mang tiêu, Thạch cao, Uất kim. Tán bột, mỗi lần dùng 1 ít, thổi vào mũi ( Bạch Chỉ Tán – Lan Thất Bí Tàng).

+ Trị đầu đau, mắt đau: Bạch chỉ 16g, Ô đầu (sống) 4g. Tán bột, mỗi lần dùng 1 ít uống với nước trà (Bạch Chỉ Tán – Chu Thị Tập Nghiệm Phương).

+ Trị các chứng phong, chóng mặt, sản hậu sinh xong bị cảm do phong tà, tinh thần không tỉnh: Hương bạch chỉ (dùng nước nấu sôi 4-5 dạo), tán bột, trộn mật làm hoàn, to bằng viên đạn. Mỗi lần uống 1 hoàn (Đô Lương Hoàn – Bách Nhất Tuyển Phương).

+ Trị chứng trường phong: Hương bạch chỉ, tán bột, uống với nước cơm (Bách Nhất Tuyển Phương).

+ Trị nửa đầu đau: Bạch chỉ, Tế tân, Thạch cao, Nhũ hương, Một dược (bỏ dầu), lượng bằng nhau. Tán nhuyễn, thổi vào mũi. Đau bên trái thổi bên phải và ngược lại (Bạch Chỉ Tế Tân Suy Tỵ Tán – Chủng Phúc Đường Công Tuyển Lương Phương).

+ Trị mi mắt đau do phong, nhiệt hoặc đờm: Bạch chỉ, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước trà (Đan Khê Tâm Pháp).

+ Trị mũi chảy nước trong: Bạch chỉ, tán bột. Dùng Hành gĩa nát, trộn thuốc làm hoàn 4g. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 8-12g với nước trà nóng (Bạch Chỉ Tán – Chứng Trị Chuẩn Thằng).

+ Trị xoang mũi: Bạch chỉ, Phòng phong, Tân di mỗi thứ 3,2g, Thương nhĩ tử 4,8g, Xuyên khung 2g, Tế tân 2,8g, Cam thảo 1,2g, hòa với nước bôi chung quanh rốn. Kiêng thịt bò (Dương Y Đại Toàn).

+ Trị thương hàn cảm cúm: Bạch chỉ 40g, Cam thảo (sống) 20g, Gừng 3 lát, Hành 3 củ, Táo 1 trái, Đậu xị 50 hột, nước 2 chén, sắc uống cho ra mồ hôi (Vệ Sinh Gia Bảo Phương).

+ Trị trẻ nhỏ bị sốt: Bạch chỉ, nấu lấy nước tắm cho ra mồ hôi (Tử Mẫu Bí Lục Phương).

+ Trị bạch đới, ruột có mủ máu, tiểu đục, bụng và rốn lạnh đau: Bạch chỉ 40g, Đơn diệp hồng la quỳ căn 80g, Thược dược căn, Bạch phàn, mỗi thứ 20g. Tán bột. Trộn với sáp làm hoàn to bằng hạt Ngô đồng. Uống mỗi lần 10-15 hoàn với nước cơm, lúc đói (Bản Thảo Hối Nghĩa).

+ Trị các loại phong ở đầu, mặt: Bạch chỉ, xắt lát, lấy nước Củ cải tẩm vào, phơi khô, tán bột. Ngày uống 8g với nước sôi hoặc thổi vào mũi (Trực Chỉ Phương).

+ Trị trĩ ra máu: Bạch chỉ, tán bột. Mỗi lần uống 4g với nước cơm, ngoài ra sắc thuốc lấy nước xông và rửa hậu môn (Trực Chỉ Phương).

+ Trị trĩ sưng lở loét: trước hết, lấy Tạo giác đốt, hun khói, sau đó lấy mật vịt trộn với bột Bạch chỉ, bôi (Y Phương Trích Yếu).

+ Trị chính giữa đầu đau (đã dùng nhiều thuốc nhưng không khỏi, dùng bài này có hiệu quả): Bạch chỉ (sao) 100g, Xuyên khung (sao), Cam thảo (sao), Xuyên ô đầu (nửa sống nửa chín), mỗi vị 40g. Tán bột, mỗi lần dùng 4g với nước sắc Bạc hà, Tế tân (Đàm Dã Ông Thí Hiệu Phương).

+ Trị 2 đầu lông mày đau do phong, nhiệt, đờm: Bạch chỉ, Hoàng cầm (sao rượu), lượng bằng nhau, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước trà (Đan Khê Tâm pháp).

+ Trị răng đau do phong nhiệt: Bạch chỉ 4g, Chu sa 2g. Tán bột, trộn mật làm viên to bằng hạt súng. Hàng ngày dùng sát vào chân răng (Y Lâm Tập Yếu Phương).

+ Trị răng đau do phong nhiệt: Bạch chỉ, Ngô thù, lượng bằng nhau, hòa với nước, ngậm (Y Lâm Tập Yếu Phương).

+ Trị các bệnh ở mắt: Bạch chỉ, Hùng hoàng, tán nhuyễn, trộn mật làm viên to bằng hạt nhãn, dùng Chu sa bọc ngoài. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 hạt (Hoàn Tinh Hoàn – Phổ Tế Phương).

+ Trị tiểu khó do khí (Khí lâm): Bạch chỉ, tẩm giấm, phơi khô, 80g, tán nhuyễn. Mỗi lần uống 8g với nước sắc Mộc thông và Cam thảo (Phổ Tế Phương).

+ Trị mắc (hóc) xương: Bạch chỉ, Bán hạ, lượng bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 8g thì sẽ ói xương ra (Phổ Tế Phương).

+ Trị chân răng thối: Bạch chỉ 28g, tán nhỏ. Mỗi lần dùng 4g, sau khi ăn (Bách Nhất Tuyển Phương).

+ Trị chân răng thối: Bạch chỉ, Xuyên khung, 2 vị bằng nhau, tán bột, làm viên to bằng hạt súng, ngậm hàng ngày (Tế Sinh Phương).

+ Trị mồ hôi trộm: Bạch chỉ 40g, Thần sa 20g. Tán bột, ngày uống 8g với rượu nóng (Chu Thị Tập Nghiệm Phương).

+ Trị ống chân đau: Bạch chỉ, Bạch giới tử, lượng bằng nhau, trộn nước Gừng, đắp vào (Y Phương Trích Yếu Phương).

+ Trị bạch đới: Bạch chỉ 160g, Thạch hôi 640g. Ngâm 3 đêm, bỏ vôi đi, lấy Bạch chỉ xắt lát, sao, tán bột. Mỗi lần uống 8g với rượu, ngày 2 lần (Y Học Tập Thành Phương).

+ Trị táo bón do phong độc: Bạch chỉ, tán bột, mỗi lần uống 8g với nước cơm trộn với ít Mật ong (Thập Tiện Lương Phương).

+ Trị cháy máu cam không cầm: lấy huyết chảy ra đó, trộn với bột Bạch chỉ, đắp vào sơn căn (Giản Tiện Phương).

+ Trị thủng độc, nhiệt thống: Bạch chỉ, tán nhỏ, hòa dấm bôi (Vệ Sinh Giản Dị Phương).

+ Trị tiêu ra máu do phong độc trong ruột: Bạch chỉ, tán bột. Mỗi lần uống 4g với nước cơm, rất thần hiệu (Dư Cư Sĩ Tuyển Kỳ Phương).

+ Trị đinh nhọt mới phát: Bạch chỉ 4g, Gừng sống 40g, rượu 1 ch n, gĩa nát thuốc, uống nóng cho ra mồ hôi (Tụ Trân Phương).

+ Trị ung nhọt trong ruột, đới hạ ra chất tanh nhớp luôn luôn: Bạch chỉ 40g, Hồng quỳ 80g, Khô phàn, Bạch thược đều 20g. Tán bột, uống với nước cơm, lúc đói. Khi hết mủ, dùng lá Sen để bổ. Khi ung nhọt đã bớt thì giảm liều dùng (Dược Phẩm Vậng Yếu).

+ Trị ung nhọt sưng đỏ: Bạch chỉ, Đại hoàng, lượng bằng nhau, mỗi lần uống 8g với nước cơm (Kinh Nghiệm Phương).

+ Trị vết thương do dao ch m, tên bắn : Bạch chỉ, nhai nát, đắp (Tập Giản Phương).

+ Giải độc Từ thạch: Bạch chỉ, nghiền nát, uống 8g với nước giếng (Sự Lâm Quảng Ký Phương).

+ Trị trẻ nhỏ bị đơn độc, độc còn lại chạy quanh, nhập vào bụng thì nguy: Bạch chỉ, Hàn thủy thạch, tán bột, trộn nước hành, dán vào chỗ đau (Toàn Ấu Tâm Giám Phương).

+ Trị tiểu ra máu: Bạch chỉ, Đương quy, lượng bằng nhau. Mỗi lần uống 8g (Kinh Nghiệm Phương).

+ Trị bệnh âm thử, xích thủng: Bạch chỉ, Đại hoàng, lượng bằng nhau, tán nhỏ. Mỗi lần uống 6g với nước cơm ( Kinh Nghiệm Phương).

+ Trị ung nhọt sưng tấy, tuyến vú viêm, rắn cắn: Bạch chỉ, Bối mẫu, Liên kiều, Qua lâu, Tử hoa địa đinh, mỗi thứ 12g, Bồ công anh, Kim ngân hoa mỗi thứ 16g, Cam thảo 4g, sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Trị rắn độc hoặc rết cắn: Bạch chỉ, Hùng hoàng, Nhũ hương, lượng bằng nhau, uống với rượu ấm (Bạch Chỉ Hộ Tâm Tán – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Trị bạch đới: Bạch chỉ, Mai mực, lượng bằng nhau, tán nhuyễn. Mỗi lần uống 12g (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Trị cảm, đầu đau (đau trước trán nhiều): Bạch chỉ 12g, Xuyên khung 4g, Phòng phong 12g, Khương hoạt 8g, Hoàng cầm 8g, Sài hồ 8g, Kinh giới 8g, Cam thảo 4g, sắc nước uống (Khu Phong Thanh Thượng Ẩm – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách)..

+ Trị lở sơn: Bạch chỉ mài với rượu hoặc dấm bôi (Dược Liệu Việt Nam).

+ Trị miệng hôi: Bạch chỉ 30g, Xuyên khung 30g. Tán bột, trộn mật làm viên, to bằng hạt ngô, ngày ngậm 2-3 viên (Dược Liệu Việt Nam).

Teo đường mật bẩm sinh – Triệu chứng, Nguyên nhân và điều trị

Teo đường mật bẩm sinh là gì?

Bệnh teo đường mật bẩm sinh là một bệnh hiếm gặp của ống mật, chỉ ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh. Ống mật là những đường dẫn mang chất lỏng tiêu hóa gọi là mật từ gan đến ruột non. Khi đến đó, mật sẽ giúp phân hủy chất béo và hấp thụ vitamin. Sau đó, mật giúp lọc chất thải ra khỏi cơ thể.

Với bệnh teo đường mật bẩm sinh, các ống này bị sưng lên và bị tắc nghẽn. Mật bị mắc kẹt trong gan, nơi nó bắt đầu phá hủy các tế bào. Theo thời gian, gan có thể bị sẹo — một tình trạng được gọi là xơ gan. Khi điều này xảy ra, gan không thể lọc độc tố như bình thường.

Một số trẻ em có thể mắc bệnh này trong bụng mẹ. Nhưng thường thì, triệu chứng xuất hiện từ 2 đến 4 tuần sau khi sinh.

Nguyên nhân

Các bác sĩ tin rằng có nhiều yếu tố có thể kích hoạt bệnh teo đường mật bẩm sinh, bao gồm:

  • Thay đổi trong một gen
  • Vấn đề với hệ thống miễn dịch
  • Vấn đề với sự phát triển của gan hoặc ống mật trong bụng mẹ
  • Chất độc
  • Nhiễm virus hoặc vi khuẩn sau khi sinh

Bệnh này không được di truyền từ người này sang người khác, và trẻ sơ sinh không thể mắc bệnh từ người khác.

Các bé gái sinh non có nguy cơ cao nhất. Các bé châu Á và châu Phi – Mỹ cũng có nguy cơ cao.

Triệu chứng

Nếu con bạn mắc bệnh teo đường mật bẩm sinh, một trong những dấu hiệu đầu tiên bạn sẽ nhận thấy là làn da và lòng trắng mắt của chúng có màu vàng. Đây gọi là bệnh vàng da. Vàng da rất phổ biến ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là ở những trẻ sinh trước 38 tuần, nhưng thường sẽ biến mất trong vòng 2 đến 3 tuần. Vàng da do teo đường mật bẩm sinh kéo dài lâu hơn.

Bụng của trẻ cũng có thể sưng lên, phân có màu xám hoặc trắng, và nước tiểu sẽ có màu tối. Điều này xảy ra vì gan của trẻ không thể xử lý bilirubin — một chất màu nâu đỏ được tạo ra khi hồng cầu bị phân hủy. Bilirubin là chất tạo ra màu nâu cho phân.

Một số trẻ cũng có thể bị chảy máu cam thường xuyên hoặc ngứa ngáy dữ dội.

Chẩn đoán

Nhiều bệnh về gan có các triệu chứng giống như teo đường mật bẩm sinh. Để đảm bảo tìm ra nguyên nhân đúng, bác sĩ của trẻ có thể kiểm tra máu để xem có nồng độ bilirubin cao hay không. Họ cũng có thể thực hiện một hoặc tất cả các xét nghiệm sau:

  • X-quang: Một lượng nhỏ bức xạ sẽ tạo ra một hình ảnh được ghi lại trên phim hoặc máy tính. Điều này kiểm tra xem gan và lách có bị phình to hay không.
  • Siêu âm: Sóng âm tần số cao sẽ hiển thị hình ảnh chi tiết của các cơ quan.
  • Quét gan: Các tia X đặc biệt sử dụng hóa chất để tạo ra hình ảnh của gan và ống mật. Điều này có thể cho thấy liệu và nơi nào dòng mật bị tắc nghẽn.
  • Sinh thiết gan: Bác sĩ sẽ lấy một mẫu mô nhỏ để xem dưới kính hiển vi. Điều này có thể cho biết liệu có khả năng con bạn mắc bệnh teo đường mật bẩm sinh hay không và giúp loại trừ các vấn đề khác về gan như viêm gan.
  • Phẫu thuật chẩn đoán: Trẻ sẽ được cho thuốc để ngủ, và bác sĩ sẽ tạo một vết mổ nhỏ ở vùng bụng để xem gan và ống mật.

Điều trị

Phương pháp điều trị phổ biến nhất là phẫu thuật Kasai. Phẫu thuật này được thực hiện nếu các ống mật bị tắc nghẽn nằm bên ngoài gan của trẻ. Trong quá trình phẫu thuật, bác sĩ phẫu thuật sẽ thay thế các ống mật bị tắc nghẽn bằng một phần ruột của trẻ. Điều này cho phép mật thoát ra từ gan qua “ống” mới và vào ruột của trẻ.

Nếu được thực hiện trước khi trẻ được 3 tháng tuổi, phẫu thuật có tỷ lệ thành công khoảng 80%. Nếu không thành công, trẻ thường cần ghép gan trong vòng 1 đến 2 năm.

Nếu các ống mật bị tắc nghẽn nằm bên trong gan, thuốc có thể giúp loại bỏ mật, và có thể được kê thêm vitamin A, D và E. Nhưng có thể cần phải ghép gan.

Triển vọng

Nếu một trẻ em có phẫu thuật Kasai thành công, chúng có thể hồi phục và có một cuộc sống đầy đủ, năng động. Nhưng trong hầu hết các trường hợp, trẻ sẽ cần chăm sóc y tế chuyên biệt trong suốt phần còn lại của cuộc đời. Cuối cùng, chúng có thể cũng cần phải ghép gan

Vận chuyển và bảo quản Vacxin

Dây chuyền lạnh là hệ thống vận chuyển và bảo quản Vacxin ở nhiệt độ từ 2-8°C từ nơi sản xuất đến nơi tiêm. Hệ thống này bao gồm các quy trình và trang thiết bị để đảm bảo rằng Vacxin có hiệu lực cho người được sử dụng. Hệ thống y tế dự phòng từ trung ương đến địa phương đều đã được trang bị dây chuyền lạnh rất tốt để đảm bảo hiệu lực, an toàn của Vacxin .

Dây chuyền lạnh được phát triển theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới:

  1. DỠ VACXIN SAU KHI VẬN CHUYỂN

Việc dỡ các thùng, hộp Vacxin sau khi vận chuyên đến phòng bảo quản phải tuân thủ theo nguyên tắc là bảo quản nguyên ở dạng ban đầu. Kiểm tra hệ thông theo dõi lạnh, nếu hệ thống theo dõi lạnh không có phải kiểm tra ngăn đá, khay đá vẫn còn đóng băng, nếu nó tan hoàn toàn thì chứng tỏ Vacxin đã không được bảo quản và vận chuyển theo đúng quy định và không nên dùng các Vacxin này.

  1. DUY TRÌ VÀ THEO DÕI NHIỆT ĐỘ TỦ LẠNH

Tủ lạnh dùng để bảo quản Vacxin phải có một nhiệt kế đặt tại giá ở giữa và nhiệt độ của tủ lạnh phải được ghi lại hàng ngày. Nhiệt độ nên được đọc vào một thời gian nhất định trong ngày và thông thường vào giữa ngày, một người chịu trách nhiệm điều chỉnh nhiệt độ của tủ lạnh sao cho nhiệt độ của tủ lạnh từ 2-8°C. Hạn chế tối đa việc mở cửa tủ lạnh, trước cửa tủ lạnh nên có một biển báo “Dừng lại,

Bạn có cần thiết phải mở tủ không?”. Nếu như mất điện trong vòng 4 giờ, cửa tủ lạnh phải được đóng kín. Nếu mất điện hơn 4 giò, Vacxin phải được bảo quản trong một thùng cách điện với các túi đá để làm lạnh chúng .

  1. BẢO DƯỠNG TỦ LẠNH ĐỰNG VACXIN

Nếu tủ lạnh bị hư hỏng cần phải tiến hành sửa chữa ngay lập tức. Bản lề của cửa tủ phải đảm bảo hoạt động tốt sao cho cửa tủ phải được đóng kín. Tủ lạnh bảo quản Vacxin không phải là tủ ngăn tuyết nên cần phải làm hết tuyết đều đặn đê phòng tạo nhiều tuyết và như thế sẽ làm giảm hoạt động của tủ.

  1. CÁC THỦ TỤC CẦN ĐƯỢC TIẾN HÀNH KHI sử DỤNG

VACXIN

Vacxin phải được bảo quản trong tủ lạnh cho đến khi sử dụng và nếu như không dùng nữa thì phải đưa nó trở lại tủ lạnh ngay lập tức. Vacxin BCG được mang ra hay vào trong ngày phải được huỷ khi hết ngày. Vacxin bại liệt uống mặc dù có thể bị tan hay đóng băng đến 10 lần vẫn không bị mất hiệu lực. Các Vacxin trong chương trình tiêm chủng mở rộng phải thực hiện theo đúng hướng dẫn của chương trình :

  • Còn hạn dùng
  • Vacxin được bảo quản trong dây chuyền lạnh từ 2-8°C
  • Các lọ Vacxin được mở trong các đợt tiêm chủng ở ngoài thì chỉ sử dụng trong ngày.
  1. GIÁM SÁT DÂY CHUYỂN LẠNH

Các thông số của dây chuyền lạnh cần phải được kiểm tra thường xuyên kể cả khi Vacxin được lấy ra dùng. Tất cả các thông số đều phải được ghi chép cẩn thận.

  1. VẬN CHUYỂN VACXIN TRONG CÁC HÒM LẠNH CÓ

NƯỚC ĐÁ

Việc vận chuyển Vacxin phải được chứa trong các thùng đặc biệt như hòm lạnh, phích lạnh, phích Vacxin. Nếu không có các thùng vận chuyển chuyên dụng thì cần tuân thủ theo các hướng dẫn sau:

Chỗ để Vacxin (dây chuyền lạnh và các chỉ số’ nếu yêu cầu) trong các thùng xốp hay còn gọi là “hộp sáu chai”. Đậy nắp và đóng kín bằng băng dính. Đưa các hộp xốp vào một thùng chứa to hơn và xung quanh đó chứa đầy túi đá. Đậy nắp và đóng kín nắp thùng to. Tránh để Vacxin tiếp xúc trực tiếp với các túi đá vì có nguy cơ làm đông Vacxin. Các túi đá phải được đặt cách ra khỏi Vacxin bằng một vách ngăn bằng chất liệu xốp. Chỉ lấy Vacxin ra khi dùng và mỗi lần như thế phải đậy nắp thùng xốp cũng như thùng to. Các chỉ số’ của dây chuyền lạnh và tủ lạnh được sử dụng thì cần phải kiểm tra mỗi khi dùng . Nếu chỉ số’ nhiệt độ của dây chuyền lạnh là trên 10°c thì cần phải làm lạnh hơn bằng các túi đá.

  1. TÍNH BỂN VỮNG CỦA VACXIN

Có một số loại Vacxin bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ cao nhưng ngược lại có những loại Vacxin lại dễ bị hư hỏng khi bị đóng băng, ở Việt Nam, Vacxin dễ bị hỏng vì nhiệt độ cao.

Bảng 1: Tính bên vững của Vacxin ở các nhiệt độ khác nhau:

Vacxin Sự bến vững của Vacxin trong các nhiệt độ khác nhau
0-8°C 22-25°C 35-37°C >37°c
Bạch hầu vàuốn ván 3-7 năm Nhiêu tháng Khoảng 6 tuần 2 tuần ở nhiệt độ 45oC, mất hiệu lưc sau vài giờ ở nhiệt độ 60-65°C
Vacxin ho gà 18-24

tháng mặc dù hiệu lực giảm xuống chậm

Thay đổi, một vài loại bền vững khoảng 2 tuần Thay đổi, một vài loại mất 50% tác dụng sau 1 tuần Mất 10% hiệu lực trong 1 ngày ở nhiệt độ 45°c, và nhanh chóng mất hiêu lưc ở nhiêt độ 50°c
Vacxin Sởi đông khô 2 năm Giữ được hiệu lực trong 1 tháng Giữ được hiệu lực trong một tuần 50% mất hiệu lực sau 2-3 ngày ở nhiệt độ 41°c, 80% mất hiệu lực sau 1 ngày ở nhiệt độ 54°c
Vacxin sởi hoàn nguyên Không ổn định chỉ nên dùng trong ngày tiêm chủng Không ổn định, 50% mất hiệu lực sau 1 giờ, 70% sau 3 giờ Rất không ổn định, hiệu lực dưới mức chấp nhận sau 2-7 giờ Không có hoạt tính trong vồng 1 giờ
Vacxin bại liệt uống 6-12 tháng Không ổn định, 50% mất hiệu lực sau 20 ngày, một vài loại có thể duy trì độ chuẩn cho phép từ 1-2 tuần Mất hiệu lực sau 1-3 ngày ở nhiệt độ 41°c, mất hiệu lực sau 1 ngày, hoàn toàn mất hiệu lực sau 1-3 giờ ở nhiêt đô 50°c

Cần chú ý các Vacxin không ổn định ở nhiệt độ phòng: OPV, Vacxin sởi hoàn nguyên, BCG hoàn nguyên. Các Vacxin OPV, MMR hoàn nguyên, phải được bảo quản tránh ánh sáng mặt trời.

Không được để đóng băng các Vacxin sau đây: DPT, ho gà, uốn ván, HiB, Viêm gan A, B, Vacxin cúm, phế cầu. Không được pha loãng Vacxin bằng các tá dược có thể bị phân hủy khi đóng băng.

Giải Phẫu Của Một Cơn Nhiễm Trùng Tai

Tại Sao Đây Là Vấn Đề Thường Gặp

Không phải chỉ là tưởng tượng của bạn. Trẻ em có thể bị rất nhiều nhiễm trùng tai. Thực tế, 5 trong số 6 trẻ sẽ có ít nhất một lần nhiễm trùng tai trước sinh nhật thứ ba. Tại sao? Hệ miễn dịch của chúng chưa phát triển hoàn chỉnh, và tai nhỏ của chúng không thoát nước tốt như tai của người lớn.

Tai Của Người Bơi

Đây là một nhiễm trùng ở tai ngoài thường xảy ra khi tai bị ướt lâu đủ để vi khuẩn phát triển. Nhưng ngay cả khi trẻ của bạn không đi bơi, một vết xước từ một cái tăm bông (hoặc không biết cái gì mà chúng cho vào tai?) cũng có thể gây ra vấn đề. Hãy chú ý nếu tai của trẻ bị ngứa hoặc đau khi bạn chạm vào. Giải pháp thường là dùng thuốc nhỏ tai và giữ cho tai khô.

Cách Bác Sĩ Chẩn Đoán Nhiễm Trùng Tai

Cách duy nhất để biết chắc chắn liệu trẻ có bị nhiễm trùng hay không là để bác sĩ kiểm tra bên trong tai của trẻ bằng một dụng cụ gọi là ống nghe tai (otoscope), một chiếc đèn pin nhỏ có kính lúp. Một màng nhĩ khỏe mạnh (như hình ảnh ở đây) trông có màu trong suốt và xám hồng. Còn màng nhĩ bị nhiễm trùng thì trông đỏ và sưng.

Cái Nhìn Bên Trong

Ống Eustachian là một ống dẫn nối tai giữa của bạn với họng. Nó giúp ngăn chặn sự tích tụ chất lỏng và áp lực không khí bên trong tai. Cảm cúm, cúm mùa, và dị ứng có thể gây kích ứng và làm sưng ống này.

Chất Lỏng Trong Tai

Nếu ống Eustachian bị tắc, chất lỏng sẽ tích tụ bên trong tai giữa của trẻ. Điều này tạo ra môi trường hoàn hảo cho vi khuẩn gây nhiễm trùng phát triển. Bác sĩ của bạn có thể kiểm tra bên trong tai của trẻ bằng ống nghe tai, có thể thổi một luồng không khí nhẹ để làm màng nhĩ của trẻ rung lên. Nếu màng nhĩ không di chuyển nhiều như nó nên có, có khả năng là bên trong có chất lỏng.

Vỡ Màng Nhĩ

Nếu quá nhiều chất lỏng hoặc áp lực tích tụ bên trong tai giữa, màng nhĩ có thể thực sự bị vỡ (như hình ảnh ở đây). Nếu điều đó xảy ra, bạn có thể thấy chất lỏng màu vàng, nâu hoặc trắng chảy ra từ tai của trẻ. Nghe có vẻ đáng sợ, nhưng màng nhĩ thường tự hồi phục trong vài tuần. Thính lực thường trở lại bình thường khi màng nhĩ hồi phục – trừ khi màng nhĩ đã bị tổn thương.

Triệu Chứng Nhiễm Trùng Tai

Dấu hiệu cảnh báo chính là đau nhói. Trẻ có thể cảm thấy không thoải mái hơn khi nằm xuống, vì vậy trẻ có thể gặp khó khăn trong việc ngủ. Những vấn đề khác cần chú ý:

  • Khó nghe
  • Sốt
  • Chất lỏng chảy ra từ tai
  • Chóng mặt
  • Nghẹt mũi

Triệu Chứng Nhiễm Trùng Tai: Trẻ Sơ Sinh

Những nhiễm trùng này có thể rất tinh vi ở trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ chưa thể nói cho bạn biết chỗ nào đau. Thường thì, chúng sẽ bắt đầu kéo hoặc giật tai. Trẻ nhỏ cũng có thể trở nên cáu kỉnh, khó ngủ, hoặc không ăn tốt. Trẻ sơ sinh có thể đẩy bình sữa ra xa vì áp lực trong tai khiến việc nuốt đau.

Chăm Sóc Tại Nhà

Trong khi hệ miễn dịch đang chiến đấu với nhiễm trùng tai, bạn có thể làm dịu cơn đau mà trẻ cảm thấy. Một chiếc khăn ấm đặt bên ngoài tai có thể mang lại cảm giác dễ chịu. Tùy thuộc vào nguyên nhân gây đau tai, bác sĩ có thể khuyên bạn dùng thuốc nhỏ tai. Các loại thuốc giảm đau không kê đơn và thuốc hạ sốt, chẳng hạn như acetaminophen và ibuprofen, cũng là một lựa chọn. Không cho trẻ uống aspirin.

Kháng Sinh

Nhiễm trùng tai thường tự khỏi, vì vậy đừng ngạc nhiên nếu bác sĩ khuyên bạn áp dụng phương pháp “chờ và theo dõi”. Càng sử dụng nhiều kháng sinh, chúng sẽ càng trở nên kém hiệu quả. Đó là vì vi khuẩn học cách chống lại các loại thuốc thông dụng. Virus cũng có thể gây ra nhiễm trùng tai, và kháng sinh chỉ có tác dụng với vi khuẩn. Bác sĩ của bạn sẽ biết khi nào là thời điểm tốt nhất để sử dụng chúng.

Biến Chứng

Nếu trẻ của bạn liên tục bị nhiễm trùng tai, chúng có thể làm tổn thương màng nhĩ và dẫn đến mất thính lực, vấn đề về phát âm, hoặc thậm chí viêm màng não. Nếu trẻ có nhiều lần nhiễm trùng, bạn có thể muốn kiểm tra thính lực của trẻ chỉ để phòng trường hợp.

Ống Tai

Đối với những trẻ thường xuyên bị nhiễm trùng tai, bác sĩ đôi khi sẽ đặt các ống nhỏ qua màng nhĩ. Chúng cho phép chất lỏng thoát ra khỏi tai giữa và ngăn không cho chất lỏng tích tụ trở lại. Điều này có thể làm giảm áp lực hoặc cơn đau và cải thiện vấn đề thính lực. Các ống thường ở lại trong khoảng 6 đến 9 tháng và tự rơi ra.

Amidan Có Thể Là Nguyên Nhân

Đôi khi, amidan của trẻ bị sưng to đến mức gây áp lực lên ống Eustachian kết nối tai giữa với họng, dẫn đến nhiễm trùng. Nếu điều đó tiếp tục xảy ra, trẻ có thể cần phải cắt amidan.

Mẹo Ngăn Ngừa Nhiễm Trùng

Nguyên nhân lớn nhất gây ra nhiễm trùng tai giữa là cảm cúm thông thường, vì vậy hãy tránh virus cảm cúm càng nhiều càng tốt. Cách tốt nhất để ngăn ngừa vi khuẩn là đảm bảo trẻ rửa tay thật tốt và thường xuyên. Ngoài ra, giữ cho trẻ tránh xa khói thuốc lá, tiêm phòng cúm hàng năm khi trẻ tròn 6 tháng tuổi, và cho trẻ bú mẹ ít nhất 6 tháng để tăng cường hệ miễn dịch.

Dị Ứng và Nhiễm Trùng Tai

Giống như cảm cúm, dị ứng cũng có thể kích thích ống Eustachian và dẫn đến nhiễm trùng tai giữa. Nếu bạn không thể giữ cho trẻ tránh xa những thứ gây khó chịu, hãy xem xét làm xét nghiệm dị ứng để xác định các tác nhân gây dị ứng. Thuốc hoặc tiêm dị ứng có thể mang lại sự giảm nhẹ và ngăn ngừa nhiễm trùng.

Triệu chứng và điều trị sỏi mật

ĐẠI CƯƠNG

Khái niệm

Sỏi mật là bệnh có những viên sỏi hoặc bùn sỏi nằm trong lòng ống mật (trong gan, ngoài gan hoặc túi mật).

Sỏi mật
Sỏi mật

Sơ lược giải phẫu đường mật

Đường mật trong gan

Đường mật trong gan bắt đầu từ vi quản mật, có đường kính từ 1,5 đến 1,8mm. Các vi mật quản tập trung vào các tiểu quản mật, khi đến khoảng cửa thì nó đổ vào các ống trong tiểu thuỳ, rồi tiếp theo là các ống gian tiểu thuỳ. Các ống mật gian tiểu thùy nối với nhau tạo thành ống mật phân thuỳ. Ống gan phải bắt nguồn ở chỗ ống mật phân thuỳ sau gặp ống mật phân thuỳ trước; ống gan trái được cấu tạo do sự gặp nhau của ba ống mật: ống mật phân thuỳ giữa và hai ống mật của phân thuỳ bên.

Đường mật ngoài gan

Đường mật ngoài gan gồm: ống gan chung, ống mật chủ, túi mật và ống túi mật.

  • Ống gan chung được tạo bởi ống gan phải và ống gan trái, hai ống gan gặp nhau ở trước chỗ chia đôi của tĩnh mạch cửa và tạo thành ống gan chung, dài khoảng 30mm, đường kính, khoảng 5mm, chạy xuống dưới hơi chếch sang trái cho tới khi gặp ống mật chủ.
  • Ống mật chủ dài khoảng 50-60mm, đường kính trung bình 5-6mm, đi từ chỗ gặp nhau giữa ống gan chung. Ống mật chủ chia làm bốn đoạn:

+ Đoạn trên tá tràng: ống mật chủ nằm trong cuống gan, đây là đoạn rộng nhất của ống mật chủ.

+ Đoạn sau tá tràng: ống mật chủ đi sau phần trên tá tràng.

+ Đoạn sau tụy: ống mật chủ đi sau đầu tụy trong một rãnh, càng xuống dưới càng sâu.

+ Đoạn trong tá tràng: ống mật chủ chui vào thành tá tràng ở phần xuống, đoạn này hẹp nhất (chỉ khoảng 3mm), vì vậy hay có sỏi ở đây.

  • Túi mật: có nhiệm vụ lưu giữ và cô đặc dịch mật trước khi vào tá tràng.

Túi mật nằm trong hố túi mật ở mặt dưới của gan nên phần này không có phúc mạc che phủ. Túi mật có hình quả lê, kích thước trung bình khi đói chiều ngang khoảng 3cm, dài khoảng 8cm, có 3 phần:

+ Đáy: nằm trong khuyết túi mật của bờ dưới gan. Khi chiếu lên thành bụng thì đáy túi mật nằm ở giao điểm giữa bờ sườn phải với bờ ngoài cơ thẳng bụng bên phải. Khi túi mật bị viêm thì ấn điểm này sẽ đau chói (điểm Murphy dương tính).

+ Thân túi mật chạy chếch ra sau, lên trên và sang trái. Mặt trên dính vào gan và chỉ ngăn cách nhau bởi một lớp tế bào xơ mỏng.

+ Cổ túi mật dài khoảng 2,5cm, đường kính 2,5-4mm, phình ở giữa thành một bể con nến hay có sỏi lắng đọng (còn gọi là bể Harrman). Hai đầu cổ túi mật hẹp, đầu trên gấp vào thân, đầu dưới gấp vào ống túi mật. cổ túi mật nằm cách xa gan và trong một mạc treo có chứa động mạch túi mật.

– Ống túi mật: ở dưới cổ túi mật, đây là đường dẫn mật từ túi mật xuống ống mật chủ. Ống túi mật dài khoảng 30mm, đường kính trung bình 3mm chạy chếch xuống dưới sang trái và hơi ra sau nên cổ và ống túi mật tạo nên một góc mở ra sau. Mặt trong niêm mạc tạo nếp hình xoắn ốc.

Mật của người bình thường

Mật do tế bào gan bài tiết khoảng 500-600ml/24h. Dịch mật bình thường trong suốt, có màu thay đổi từ xanh đến vàng. Mật được dự trữ ở túi mật, là một hồn hợp chất lỏng đẳng trương chứa nước và các chất hòa tan, pH dao động ừong khoảng 7-7,7. Thành phần chủ yếu của mật gồm: nước 82%, acid mật 12%, lecithin và các phospholipid khác 4%, cholesterol không este hoá 0,7%; các thành phần khác gồm bilirubin liên hợp, protein (IgA, các sản phẩm chuyển hóa của hormon và các protein được chuyển hoá), các chất điện giải, dịch nhầy, thuốc và các sản phẩm chuyển hoá của thuốc… Dịch mật ở gan có thành phần chất điện giải giống huyết tương. Thành phần chất điện giải của mật ở túi mật khác với dịch mật ở gan do phần lớn các anion vô cơ là clorua và bicarbonat đã bị hấp thu qua màng đáy trở lại.

  • Thành phần cấu tạo của mật:

+ Các acid mật nguyên thuỷ: acid cholic và acid chenode- oxycholic được tổng hợp từ cholesterol trong gan. Các acid mật thứ phát gồm deoxycholic và lithocholic được tạo ra ờ ruột như các sản phẩm chuyển hoá của vi khuẩn từ các acid mật nguyên thuỷ. Các acid mật thứ phát khác có lượng nhỏ: acid ursodeoxycholic và một số loại acid mật khác, tuy nhiên có số lượng nhiều ở bệnh nhân tắc mật kéo dài.

+ Muối mật: được tạo thành bởi sự liên hợp của các acid mật với taurin và glucin frong tế bào gan và được bài tiết vào mật. Phần lớn các acid mật được thải qua phân (0,3- 0,6g/24h). Số ít các acid mật liên hợp và không liên hợp được hấp thu bằng cách khuếch tán thụ động dọc theo ruột. Sau khi tái hấp thu, các acid mật vào tĩnh mạch cửa về gan, được liên hợp lại rồi tái bài tiết vào mật (vòng tuần hoàn ruột non-gan).

Cholesterol được bài tiết từ tế bào gan vào đường mật, là chất kém hoà tan trong môi trường nước. Khả năng hoà tan của cholesterol phụ thuộc vào nồng độ lipid cũng như tỷ lệ tương ứng của acid mật và Tỷ lệ của những chất này tạo thành các mixen hỗn hợp hoà tan. Khi tỷ lệ mất cân đối sẽ làm tăng sự kết tủa của các tinh thể cholesterol và tạo sỏi mật.

sắc tố mật: nguồn chính là bilirubin do máu mang tới. Tại gan, bilirubin tự do kết hợp với acid glucuronic thành bilirubin kết hợp, có thể hoà tan trong nước rồi bài tiết vào ống mật và vào ruột, ở ruột một phần bilirubin chuyển thành stercobilin theo phân ra ngoài, phần còn lại tái hấp thu vào máu rồi theo tĩnh mạch cửa về gan theo chu kỳ gan-ruột để tái tổng hợp bilirubin, một phần nhỏ thải ra ngoài theo nước tiểu dưới dạng

  • Ba cơ chế quan trọng trong điều hoà bài tiết dịch mật là:

+ Vận chuyển tích cực acid mật từ tế bào gan vào vi quản mật.

+ Vận chuyển acid mật phụ thuộc Na+/Ka+, ATPase.

+ Bài tiết vào tiểu quản mật.

Phân loại

Sỏi mật được chia hai loại chính là sỏi cholesterol và sỏi màu.

  • Sỏi cholesterol: là loại sỏi trong thành phần cholesterol chiếm hơn 50% trọng lượng viên sỏi, ngoài ra còn có muối calci, chất nhầy…
  • Sỏi màu: thành phần chính là calci bilirubinat, ngoài ra còn calci phosphat hoặc calci carbonat, phần cholesterol chỉ chiếm khoảng 20%. sỏi màu được chia làm 2 loại: sỏi đen và sỏi nâu, được phân biệt dựa vào sự khác nhau về hình thái, sinh bệnh học.

Cơ chế bệnh sinh và yếu tố nguy cơ

Mỗi loại sỏi đều có các yếu tố nguy cơ và cơ chế hình thành khác nhau.

Sỏi đen

Thành phần chủ yếu là calci bilirubinat (chiếm khoảng 70%), calciphosphat và calcicarbonat tạo nên ở xung quanh chất nhầy glycoprotein, sỏi đen có lượng cholesterol ít hơn sỏi nâu. Tỷ lệ mắc sỏi đen tăng theo tuổi, có khoảng 50% sỏi đen tìm thấy ở người trên 80 tuổi, sỏi đen thường gặp ở túi mật.

– Các yếu tố nguy cơ:

+ Tuổi và giới: tuổi trung bình của những bệnh nhân bị sỏi màu đen cao hơn so với sỏi cholesterol. Nữ thường có tỷ lệ mắc sỏi đen cao hơn nam.

+ Uống rượu: do tăng bilirubin không liên hợp ở trong mật ở những người uống rượu làm tăng khả năng mắc sỏi.

+ Tan máu: tan máu ở những bệnh máu di truyền như bệnh Thalassemia hoặc do sốt rét sẽ tăng nguy cơ mắc.sỏi. Sỏi mật hình thành ở những bệnh nhân có bệnh tan máu di truyền thường xảy ra sớm, ở người trẻ.

+ Xơ gan: bệnh nhân xơ gan thường có tỷ lệ mắc sỏi đen cao. Giảm tiết muối mật hoặc sự thay đổi loại muối mật ở bệnh nhân xơ gan có thể góp phần làm giảm khả năng duy trì calci hoặc bilirubin hoà tan trong mật dẫn đến tạo sỏi.

+ Nhiễm HIV: do túi mật giảm co bóp, ứ đọng dịch mật, hình thành mật bùn.

Cơ chế sinh bệnh chủ yếu của sỏi đen: là do sự tiết quá mức của bilirubin vào mật ở những bệnh nhân có tan máu hoặc xơ gan. Trong dịch mật bình thường bilirubin chủ yếu dưới dạng liên hợp và tan trong nước. ở những bệnh nhân có sỏi đen, do có sự phân huỷ tự phát (không do men của vi khuẩn) của bilirubin liên hợp trong mật tạo thành bilirubin không liên hợp (không tan trong nước) và làm giảm khả năng hoà tan calci trong mật. Lớp biểu mô túi mật có thể tạo acid mật, từ đó làm tăng khả năng hoà tan calci carbonat. Khi chức năng lớp biểu mô túi mật kém và túi mật ít co bóp thì sẽ làm kết tủa bilirubin không liên hợp cùng calci và phosphat tạo thành sỏi đen.

Sỏi nâu

Sỏi nâu chứa khoảng 60% calci bilirubinat, 15% muối calci của acid béo và 15% cholesterol, sỏi nâu thường gặp ở các nước châu Á. sỏi nâu thường ở đường mật, một số ít hơn ở túi mật hoặc ở trong gan. sỏi nâu có liên quan đên nhiêm ký sinh trùng như giun đũa (Aascaris lumbricoides), sán lá gan (Clonorchis sinensis). Khi quan sát các viên sỏi dưới kính hiển vi điện tử người ta thấy vi khuẩn có mặt ở tất cả các lớp của sỏi nâu; khi cấy vi sinh vật ở sỏi nâu thì tỷ lệ vi khuẩn mọc lên tới 70-80% các trường hợp. Đa số các vi khuẩn cây ở sỏi nâu là E.coli hoặc Enterococus.

Các yếu tố nguy cơ:

+ Tuổi và giới: sỏi nâu gặp nhiều ở nữ hơn nam, hay gặp ở người lớn tuổi. Một nghiên cứu ở Nhật Bản cho thấy chỉ có 7% ở người dưới 40 tuổi, nhưng có tới 45% số người trên 59 tuổi có sỏi nâu.

+ Địa dư: ở Nhật Bản tỷ lệ mắc sỏi nâu của những người sống ở nông thôn cao gấp đôi những người sống ở thành phố. Người ta cho rằng tỷ lệ mắc có thể liên quan tới chế độ ăn ít protein, nhiều chất béo và chất xơ.

+ Nhiễm ký sinh trùng: nhiễm ký sinh trùng như giun đũa (Ascaris lumbricoides) và sán lá gan (Clonorchis sinensis) là yếu tố thuận lợi cho việc hình thành sỏi nâu. Trứng của giun, sán có thể gây viêm, xơ hoá cơ Oddi, gây ứ đọng mật, đây cũng là nguyên nhân gây viêm lớp biểu mô đường mật.

+ Nhiễm khuẩn: nhiễm khuẩn đường mật được coi nguyên nhân cơ bản hình thành sỏi nâu, là nguyên nhân đầu tiên gây sỏi mật ở các nước châu Á. Vi khuẩn E.coli được phân lập từ mật ở hơn 90% bệnh nhân có sỏi nâu. Vi khuẩn tiết men b-glucuronidase và enzym này thuỷ phân bilirubin liên hợp thành bilirubin không liên kết hợp cùng với calci trong mật thành dạng calci bilirubinat không hoà tan. Vi khuẩn cũng có thể ly giải phospholipases thành acid béo kết hợp cùng cholesterol, calci, bilirubinat tạo thành sỏi nâu.

Sỏi cholesterof

– Cholesterol là một loại lipid hầu như không tan trong nước. Trong dịch mật nó hoà tan nhờ 2 cơ chế:

+ Ở trong các hạt mixen: hạt mixen là một phức hợp gồm các phân tử muối mật, cholesterol, phospholipid, có đường kính khoảng 60A. Cứ một phân tử cholesterol cần 5-10 phân tử muối mật để hoà tan.

+ Ở trong các túi phospholipid: các túi được tạo nên từ các phân tử phospholipid và các phân tử cholesterol có đường kính khoảng 600A.

– Các yếu tố nguy cơ:

+ Tuổi: tỷ lệ mắc sỏi tăng theo tuổi. Sự thay đổi thành phần cấu tạo của mật cùng với tuổi có thể làm tăng nguy cơ cho việc hình thành sỏi. Chỉ số cholesterol bão hoà ứong mật tăng cùng với tuổi ở cả nữ và nam. Điều này có thể làm tăng tiết cholesterol ờ gan trong khi sự tiết muối mật và phospho­lipid lại bình thường. Ngoài ra còn có sự liên quan giữa tuổi và tổng hợp muối mật ở gan, ờ giữa tuổi và sự hoạt động của enzym ức chế tổng hợp muối mật 7-hydroxylase.

+ Giới: nữ có tỷ lệ mắc sỏi cao hơn nam, có thể do hormon estrogen làm tăng tiết cholesterol ở mật và proges- teron làm giảm co bóp túi mật.

+ Thức ăn và uống rượu: có sự liên quan giữa chế độ ăn và tăng yếu tố nguy cơ mắc sỏi như ăn nhiều số calo trong ngày, tăng ăn chất béo, ăn ít chất xơ. Nghiên cứu thấy lượng cholesterol HDL tăng ở những người uống rượu sẽ làm tăng tỷ lệ mắc bệnh sỏi; mặt khác tỷ lệ sỏi ở người xơ gan do uống rượu cũng cao hơn bình thường.

+ Béo phì: béo phì là yếu tố nguy cơ quan trọng với sỏi mật, có liên quan giữa sỏi mật và chỉ số khối cơ thể (BMI). ở người béo phì có lượng cholesterol được tổng hợp tăng và lượng cholesterol tổng hợp ở gan tiết vào mật cao hơn người bình thường. Ngoài ra cũng có sự liên quan giữa tiết cholesterol ở mật và chỉ số cholesterol bão hòa trong mật với trọng lượng cơ thể, tăng tiết đơn thuần cholesterol và không tăng tiết muối mật. Dịch trong túi mật ở người béo phì thường quá bão hòa cholesterol, trong khi sự tiết muối mật và phospholipid lại bình thường hoặc giảm tạo thuận lợi để hình thành sỏi.

+ Giảm cân do ăn kiêng: người ta thấy bệnh sỏi tăng khoảng 25% ở những bệnh nhân giảm cân do chế độ ăn kiêng. Ăn kiêng làm gia tăng huy động cholesterol dự trữ trong cơ thể nhưng lại làm giảm tổng hợp muối mật dẫn đến tăng cholesterol bão hoà trong mật. Người ta thấy sử dụng ursode­oxycholic acid và aspirin có thể giảm nguy cơ hình thành sỏi trong thời kỳ sụt cân nhanh của người ăn kiêng.

+ Có thai và sử dụng hormon: có sự liên quan giữa số lần mang thai và nguy cơ tạo sỏi nhất là mang thai lần thứ 2. Có thai có thể tích túi mật giảm, giảm sự co bóp của túi mật nên dễ tạo sỏi. Estrogen kích thích các recepierlipoprotein ở gan làm tăng hấp thu cholesterol từ thức ăn và tăng bài tiết cholesterol ở mật. Ngoài ra, estrogen và thuốc tránh thai cũng làm giảm bài tiết muối mật, giảm chuyển cholesterol sang dạng este hoá, tạo điều kiện hình thành sỏi.

+ Yếu tố chủng tộc và gen: sỏi cholesterol tìm thấy ở 10%-20% dân số ở các nước Tây Âu nhưng ít gặp ở châu Phi, châu Á và rất thấp ở Nhật Bản. Tỷ lệ mắc sỏi ờ Nhật Bản chi khoảng 4%. Người Pima ở Tây Nam Mỹ có tỷ lệ mắc bệnh khoảng 48,6%. Người ta cho rằng có thể gen vận chuyển apolipoprotein E4 và polymorphin của cholesteryl este chính là yếu tố di truyền của sỏi cholesterol.

+ Do thuốc: một số thuốc (như librat) làm tăng thải choles- terol qua đường mật và giảm chuyển cholesterol sang dạng este hoá do ức chế hoạt động của enzym cholesterol o- acyltransfe- rase và giảm tổng hợp muối mật gây tăng nguy cơ tạo sỏi.

+ Giảm muối mật: mất muối mật do cắt đoạn ruột hoặc bệnh lý hồi tràng như bệnh Crohn gây ảnh hưởng đến chu trình gan ruột của acid mật dẫn đến thiếu muối mật trong dịch mật làm tăng nguy cơ tạo sỏi.

+ Một số nguyên nhân khác: tiểu đường, xơ túi mật, hút thuốc lá, tổn thương cột sống… cũng là các nguyên nhân làm tăng nguy cơ tạo sỏi.

TRIỆU CHỨNG

Triệu chứng lâm sàng

Các biểu hiện lâm sàng của sỏi mật rất đa dạng và phong phú, từ không có triệu chứng đến triệu chứng điển hình. Theo thống kê, có tới 50% bệnh nhân sỏi mật không có triệu chứng lâm sàng; tuy nhiên, có khi bệnh nhân đến các biến chứng rất nặng như sốc nhiễm trùng đường mật, viêm tụy cấp… ở Việt Nam trước đây sỏi mật chỉ được chẩn đoán khi bệnh nhân đến viện với những biến chứng nặng; do đó việc điều trị thường muộn, tỷ lệ tử vong cao. Từ khi siêu âm được áp dụng để chẩn đoán các bệnh gan mật thì bệnh nhân sỏi mật đã được chẩn đoán và điều trị sớm hơn. Các biểu hiện lâm sàng của sỏi mật có thể thay đổi theo số lượng sỏi, vị trí, tính chất của sỏi.

Dấu hiệu cơ năng

  • Đau bụng: đau bụng vùng hạ sườn phải, kiểu đau quặn gan. Đau thường xảy ra sau bữa ăn nhiều mỡ, đau nhiều về đêm. Khi đau thường kèm theo nôn làm bệnh nhân không dám thở mạnh. Com đau có thể kéo dài vài giờ đến vài ngày.
  • Rối .loạn tiêu hoá: ăn chậm tiêu, bụng chướng hơi, sợ mỡ, táo bón, ỉa chảy sau bữa ăn.
  • Có cơn đau nửa đầu (Migraine), có thể đau nửa đầu dữ dội, nôn nhiều.
  • Sốt: do có viêm đường mật, túi mật, với tính chất

+ Sốt cao đột ngột kéo dài vài 3 giờ.

+ Sốt và đau HSP đi đôi với nhau (đau nhiều thì sốt cao); có khi sốt kéo dài vài tuần, hàng tháng; tuy nhiên có thể sốt nhẹ 37,5-38° hoặc không sốt.

  • Vàng đa:

+ Vàng da, niêm mạc: thường xảy ra sau đau, sốt 1-2 ngày.

+ Vàng da kiểu tắc mật: da, niêm mạc vàng, nước tiểu vàng, phân bạc màu.

+ Vàng da có ngứa, dùng thuốc chống ngứa không kết quả, mạch chậm.

+ Vàng da mất đi chậm hơn đau và sốt.

Tam chứng: đau, sốt, vàng da (tam chứng Charcot) tái phát nhiều lần, khoảng cách giữa các đợt vài tuần, vài tháng, vài năm, hay gặp ở sỏi ống mật chủ.

Dấu hiệu thực thể

Gan to: to đều, từ mấp mé đến dưới sườn 5-6cm tuỳ mức độ tắc mật. Mặt gan nhẵn, mật độ chắc, bờ tù, ấn đau tức.

Túi mật to cùng với gan to, đau khi sờ nắn, có thể co cứng HSP.

Triệu chứng xét nghiệm và các thăm dò

Xét nghiệm máu

Trong máu: bạch cầu tăng, tỷ lệ bạch cầu đa nhân trung tính tăng biểu hiện nhiễm trùng, hồng cầu giảm khi có tan máu. Bilirubin toàn phần tăng (bình thường: 17mmol/l) và thường tăng loại kết hợp; cholesterol, phosphatase kiềm tăng.

Chụp Xquang bụng không chuẩn bị

Chụp phim bụng không chuẩn bị (phim thẳng và nghiêng phải) có thể phát hiện thấy sỏi có chứa calci, nhưng chỉ khoảng 10-15% sỏi có thể phát hiện được. Ưu điểm của phương pháp là giá rẻ, dễ thực hiện; nhưng có độ nhậy và độ đặc hiệu thấp, không dùng được cho người có thai, dễ chẩn đoán nhầm với sỏi tiết niệu, sỏi đầu tụy, do đó cần phải chụp cả hai tư thế thẳng và nghiêng. Hình ảnh Xquang là hình cản quang vuông hoặc tròn, nằm bên phải (phim thẳng) và hình sỏi ở phía trước cột sống (phim nghiêng phải).

Chụp mật có chuẩn bị bằng thuốc cản quang

Bệnh nhân được uống thuốc cản quang có iod (bilitrast hoặc pheniodol). Thuốc được hấp thụ qua niêm mạc ruột, chất cản quang sẽ kết hợp với albumin trong máu rồi đến gan vào đường mật, cô đọng lại trong túi mật. Vì vậy, túi mật và đường mật sẽ hiện rõ trên phim chụp. Phương pháp này phát hiện khoảng 90% sỏi mật; tuy nhiên không dùng được cho người mang thai, bilirubin máu cao >34mmol/l, suy gan, các trường hợp rối loạn hấp thu ở ruột, độ nhậy trong chẩn đoán sỏi nhỏ kém và thời gian thực hiện lâu, vì vậy gần đây nó ít được áp dụng.

  • Nếu túi mật ngấm thuốc: thấy sỏi (hõm khuyết không có thuốc cản quang) hình tròn, ít, cả to và nhỏ.

+ Sỏi cholesterol hoặc bilirubin có hình trong giữa một đám mờ cản quang.

+ Sỏi cản quang (calci): các hình được bao quanh bời một quầng sẫm màu nâu.

  • Nếu túi mật không ngấm thuốc: do túi mật mất khả năng cô đặc mật vì thành túi mật viêm hoặc lưu thông giữa ống túi và ống mật chủ bị tắc.

Chụp đường mật qua da

Trước đây thường chọc mù và dùng kim to nên tỷ lệ thành công thấp, dễ tai biến; phương pháp này có thể gây biến chứng chảy máu, viêm phúc mạc với tỷ lệ khoảng 3-10%. Ngày nay, chụp mật qua da thực hiện dưới hướng dẫn của siêu âm với loại kim nhỏ (kim chiba) nên độ chính xác cao hơn và ít tai biến, tỷ lệ thành công tới 80%. Tuy nhiên, đây là kỹ thuật có thể gây chảy máu nên thường chỉ thực hiện ngay trước mổ và chỉ định cho bệnh nhân bị tắc mật cơ giới.

Chụp đường mật ngược dòng qua nội soi tá tràng

Chụp đường mật ngược dòng qua nội soi tá tràng (ERCP: endoscopic retrograd cholangio pancreatography) là bơm thuốc cản quang vào đường mật qua ống soi tá tràng nhìn bên. Thuốc vào toàn bộ hệ thống mật-tụy, cho ta biết vị trí, số lượng sỏi. Phương pháp này có giá trị rất cao trong chẩn đoán sỏi mật, khả năng phát hiện sỏi có thể lên tới trên 95%. Một số tác giả coi đây là tiêu chuẩn vàng trong phát hiện sỏi mật; có thể tiến hành nội soi can thiệp lấy sỏi ống mật chủ, ống gan chính khi sỏi nhỏ hơn 2cm. Tuy nhiên, đây là kỹ thuật phức tạp, có thể có các biến chứng như viêm tụy cấp, viêm đường mật, thủng ruột với tỷ lệ 1-3%.

Chụp điện toán cắt lớp

Độ nhậy của chụp CT trong chẩn đoán sỏi mật khoảng 75-90%, tuy nhiên giá thành đắt và không dùng được cho phụ nữ có thai.

Siêu âm

  • Là phương pháp đơn giản dễ làm, không xâm nhập, có giá trị cao trong chẩn đoán sỏi mật và các biến chứng, có thể xác định:

Sỏi túi mật: nốt đậm âm có bóng cản âm hoặc không, sỏi to thành hình vòng cung đậm âm, có bóng cản âm rõ. sỏi túi mật di động, thường thành túi mật dày.

Bùn mật: túi mật hình thành 2 lớp, trên là dịch mật trong (rỗng âm), dưới là dịch đặc (đậm âm), giữa 2 lớp là đường ranh giới ngang.

Sỏi ống mật: sỏi to sẽ có một hay nhiều hình đậm âm tròn hoặc bầu dục, trong lòng ống mật cắt dọc hoặc cắt ngang, bịt hoàn toàn hoặc một phần ống mật, phía sau sỏi thường có bóng cản âm; nếu sỏi nhỏ, sỏi bùn sẽ không có bóng cản âm, chỉ thấy ống mật phía trên của sỏi bị giãn khoảng l,5cm- 2,5cm.

Siêu âm nội soi

Siêu âm nội soi là phương pháp tốt trong chẩn đoán các sỏi ở thấp, là phương pháp có độ chính xác cao, nhưng chỉ chẩn đoán được sỏi đường mật ngoài gan và một số sỏi túi mật.

Soi ổ bụng

Soi ổ bụng thấy túi mật có sỏi thường nhỏ, thành dày, màu xà cừ, có khi khó nhìn thấy vì bị các mảng dính che phủ; sỏi ống mật chủ thấy túi mật căng to, gan ứ mật màu xanh… Phương pháp này hiện nay ít làm để chẩn đoán mà thường kết hợp chẩn đoán và phẫu thuật nội soi.

Thông mật

Thông mật thường không lấy được cả 3 loại dịch mật (A, B, C), nhưng cũng có thể lấy được, trong dịch mật thường thấy có sạn sỏi.

Triệu chứng học theo thể bệnh

Thể điển hình: có tam chứng Charcot cổ điển tái phát nhiều lần, có hội chứng tắc mật (vàng da, phân bạc màu, gan to, túi mật to) hoặc có tam chứng Charcot và hội chứng tắc mật không đầy đủ.

Ít điển hình: có tam chứng Charcot nhưng không có hội chứng tắc mật.

Thể không điển hình: không có cơn đau quặn gan điển hình hoặc có cơn đau quặn gan nhưng thiếu các dấu hiệu khác (sốt, vàng da).

+ Có hội chứng tắc mật (vàng da, gan to, túi mật to) nhưng không có con đau quặn gan hoặc chỉ đau nhẹ hạ sườn phải.

+ Có cơn đau quặn gan điển hình nhưng không có vàng da, có gan to, túi mật to.

TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG

Trong một số trường hợp (tùy vị trí, tính chất của sỏi) sỏi mật có thể không có triệu chứng; tuy nhiên sỏi cũng có thể gây nhiều biến chứng, thậm chí gây tử vong.

Thấm mật và viêm phúc mạc mật

Triệu chứng chủ yếu là co cứng thành bụng và phản ứng phúc mạc; nếu để chậm bụng sẽ chướng, bí trung đại tiện. Ngoài ra bệnh nhân còn có một số triệu chứng: đau, sốt, vàng da, tốc độ máu lắng tăng cao, bilirubin máu cao.

Sốc nhiễm trùng đường mật

Đây là biến chứng nặng có thể gây tử vong nếu không được hồi sức tốt và chỉ định mổ kịp thời. Bệnh nhân có hội chứng tắc mật, sốt cao, tụt huyết áp; cấy máu dương tính (thường do vi khuẩn Gram âm).

Chảy máu đường mật

Đây là biến chứng hay gặp ở các nước có sỏi mật do ký sinh trùng (như ở châu Á). Bệnh nhân thường có ỉa phân đen, cũng có khi nôn ra máu đen với tính chất dai dẳng và tái phát làm bệnh nhân suy sụp dần. Biến chứng này hay gây khó khăn trong điều trị vì không chẩn đoán chính xác vị trí chảy máu để phẫu thuật. Đây là biến chứng nặng do áp-xe hoại từ nhu mô gan làm cho một nhánh động mạch hoặc tĩnh mạch thông với đường mật hoặc cũng có thể do viêm túi mật gây chảy máu.

Viêm đường mật và áp-xe đường mật

Bệnh nhân sốt cao, gan to đau, vàng da; xét nghiệm có bạch cầu, bilirubin máu cao. Biến chứng này bao giờ cũng chỉ định điều trị nội khoa trước.

Viêm tụy cấp do sỏi

Bệnh nhân có triệu chứng tắc mật do sỏi, có amylase máu và nước tiểu tăng cao, khám điểm sườn lưng đau.

Suy thận cấp

Biến chứng thường đi kèm với nhiễm trùng đường mật có khi kèm theo suy gan nặng (hội chứng gan-thận). Bệnh nhân có thể chỉ đi tiểu ít nhưng cũng có khi vô niệu, urê máu cao.

CHẨN ĐOÁN

Dựa vào lâm sàng

– Triệu chứng lâm sàng điển hình: có tam chứng Charcot, có hội chứng tắc mật, bệnh tái phát nhiều lần. Nếu có bệnh cảnh lâm sàng như trên thì tỷ lệ chẩn đoán đúng sỏi mật khoảng 60-75%.

Triệu chứng lâm sàng không điển hình: có cơn đau quặn gan, không vàng da và không có tắc mật hoặc có tắc mật nhưng không có cơn đau quặn gan.

Người bệnh đến bệnh viện cấp cứu vì có các biến chứng như viêm phúc mạc mật (nhiễm trùng nặng, bụng cứng, vàng da), sốc nhiễm trùng (sốt, túi mật to, đau), chảy máu tiêu hoá (nôn máu có hình thỏi một bút chì), đau bụng cấp (đau bụng, nôn, chướng bụng) hoặc đau bụng âm ỉ và rối loạn tiêu hoá không rõ lý do.

Dựa vào xét nghiệm, thăm dò, chẩn đoán hình ảnh

Lấy dịch mật: lấy được cả 3 loại mật (A, B, C) hoặc trong mật có cặn sỏi.

Siêu âm: thấy sỏi trực tiếp hay hình gián tiếp.

Chụp đường mật có thuốc cản quang (làm khi bilirubin < 30mmol).

Chụp mật ngược dòng.

Các xét nghiệm sinh hoá chứng tỏ tắc mật.

ĐIỀU TRỊ

Điều trị nội khoa

Chế độ ăn

Kiêng mỡ (nhất là mỡ động vật).

Ăn giảm calo: chỉ 2.000 calo/24h.

Uống các nước khoáng, nhân trần, actiso.

Kháng sinh

Tốt nhất là dựa vào kháng sinh đồ, nếu không có kháng sinh đồ thì dùng kháng sinh liều cao đánh nhanh, có thể chọn 1 -2 hoặc 3 trong các thuốc sau:

  • Colistin (viên nén 500.000UI).
  • Cephalosporin (viên 500mg).
  • Ampicillin (viên 0,25), liều lượng tùy trường hợp.

Giãn cơ, giảm co thắt

Atropin

Spasmaverin

Thuốc lợi mật

Sunfat magiê.

Siro actiso.

Sorbitol

Các thuốc làm tan sỏi

  • Chỉ định:

+ Viên sỏi nhỏ dưới 2cm, chưa calci hoá, chức năng túi mật còn tốt.

+ Bệnh nhân không thể mổ được.

+ Đề phòng tái phát sau mổ.

  • Thuốc điều trị sỏi:

+ Chenodesoxycholic acid (BD: chenodex viên 250mg, chenar viên 200mg, chenofalkchenolit viên 250mg): liều dùng 12-15mg/lkg/24h, dùng 6-24 tháng, có thể tới 3 năm, kết quả có thể khỏi 50-70%.

+ Urodesoxycholic (BD:          delursan 250mg, usolvan

200mg, destolit 150mg): liều 8-12mg/kg/24h trong 6 tháng đến 3 năm, kết quả tan sỏi đạt 70-80%.

Các thuốc tan sỏi thường có biến chứng như ỉa chảy, men transaminase tăng.

Điều trị ngoại khoa và can thiệp

  • Nội soi can thiệp: lấy sỏi mật qua nội soi mật-tụy ngược dòng với những viên sỏi nhỏ (< 2,0cm) chưa biến chứng.
  • Cắt túi mật qua phẫu thuật mở hoặc phẫu thuật nội soi khi bệnh nhân có sỏi túi mật. Biến chứng có thể là tổn thưomg đường mật và chảy máu. Tuy nhiên có khoảng 50-40% người cắt túi mật có hội chứng sau cắt túi mật như rối loạn tiêu hóa, đau dai dẳng ở vùng bụng trên bên phải và có 20% bệnh nhân bị tiêu chảy.
  • Phẫu thuật khi có các biến chứng của sỏi mật: viêm phúc mạc, thấm mật phúc mạc, áp-xe, viêm túi mật… tùy tình huống mà có thể lấy sỏi ống mật chủ dẫn lưu ổng mật chủ, cắt túi mật…
  • Tán sỏi mật ngoài cơ thể bằng sóng siêu âm, sau đó sử dụng ERCP để lấy sỏi được chỉ định trong một số trường hợp.

Tan sỏi

Sỏi thận

Sán dây lợn (Sán dải heo Toenia Solium)

Bệnh đường ruột do Sán dây lợn (Sán dải heo Toenia Solium) trưởng thành thường lành tính, có liên quan đến tục ăn thịt heo sống. Nhưng bệnh do ấu trùng sán có liên quan đến việc ăn rau sống không rửa kỹ lại đa dạng về lâm sàng (tuỳ cơ quan ký sinh), đôi khi nguy hiểm và đưa đến tử vong.

KÝ SINH TRÙNG

Sán trưởng thành dài 2-40 m, có 800-1.000 đốt sán. Đầu sán hình cầu, đường kính khoảng 1 mm, có 4 đĩa hút và chuỳ nhô lên, mang một hàng móc đôi; đốt sán trưởng thành gần như hình vuông, có lỗ sinh dục xen kẽ tương đối đều đặn. Đốt sán mang trứng 1,2 cm X 0,6 cm, tử cung ở giữa có 7-12 nhánh bên, chứa 30.000 – 50.000 trứng.

Toenia Solium sống ở phần đầu hỗng tràng. Đốt sán mang trứng đứt ra thành chuỗi 4-5 đốt, đốt sán hoặc theo phân ra ngoài, hoặc vỡ phóng thích trứng ngay trong ruột già cho trứng theo phân ra ngoài. Trứng đã có sẵn phôi 6 móc nên có khả năng lây nhiễm ngay, ra ngoài dính lên đất, rau, cỏ… khi heo ăn rau, cỏ… nuốt phải trứng, phôi 6 móc nở ra trong ruột, vào máu và trở về tim, theo đại tuần hoàn đến và định vị ở bắp thịt, các cơ quan nội tạng. Tại đây, chúng phát triển thành nang ấu trùng (Cysticercus Cellulosae) sau 9-10 tuần. Khi người ăn thịt heo gạo còn sống (nem) hoặc chưa nấu chín, nang ấu trùng theo đường miệng xuống ruột non, bung đầu sán ra bám vào niêm mạc và mọc các đốt sán, thành sán trưởng thành sau 8-10 tuần. Thường mỗi người chỉ nhiễm 1 sán trưởng thành, sán có thể sống được 25 năm.

Nếu người nuốt phải trứng sán (ăn rau sống), trứng cũng nở ra phôi 6 móc, vào máu, về tim rồi theo đại tuần hoàn lên não, mắt, da, phổi, thận… và phát triển thành nang ấu trùng. Tình trạng nhiễm ấu trùng trong mô còn có thể xảy ra khi người mang sán trưởng thành nôn mửa, đưa đốt sán mang trứng từ ruột non lên dạ dày.

DỊCH TỄ

Bệnh do Sán dây lợn ở khắp nơi, tỷ lệ nhiễm sán cao ở những nơi nuôi heo thả rông, có tục ăn thịt heo sống và tình trạng quản lý phân chưa tốt. Những trường hợp nhiễm sán ở Việt Nam thường do ăn nem; những người theo đạo Hồi hoặc đạo Do Thái không nhiễm sán vì họ không ăn thịt heo. Heo nhiễm sán là do ăn cỏ hoặc rau có ô nhiễm phân người.

ở Việt Nam bệnh gạo ở người thường gặp, người Việt Nam cũng thường ăn rau sống, mà rau cũng có thể được bón phân ngươi, khi ăn không rửa kỹ bị nhiễm phải trứng sán.

BỆNH SINH

Sán trưởng thành kích thích niêm mạc ruột non. Đôi khi sán có thể gây tắc ruột.

Ấu trùng sán kéo theo hiện tượng thâm nhiễm bạch cầu. Khi hiện tượng viêm này xảy ra ở những cơ quan sinh tồn, bệnh nhân có thể bị tử vong.

TRIỆU CHỨNG

Bệnh do sán trưởng thành: Giống Toenia Saginata.

Bệnh do ấu trùng: Triệu chứng tuỳ thuộc nơi mà ấu trùng ký sinh:

Bắp thịt:

Không triệu chứng.

Khi vôi hoá: Có vết mờ trên phim X quang.

Mô dưới da: Cục u rải rác ở da.

Não:

Triệu chứng của bướu nội sọ: liệt, động kinh… bạch cầu toan tính tăng trong dịch não tuỷ.

Khi nhiễm nhiều ấu trùng: có thể tử vong.

Mắt: Ấu trùng nằm trong dịch kính, võng mô, tiền phòng… bệnh nhân có thể bị mù.

Cơ tim: Nhịp tim nhanh, tiếng tim biến đổi, khó thỏ, xỉu…

CHẨN ĐOÁN

  • Bệnh do sán trưởng thành

Tìm trứng hoặc đốt sán mang trứng trong phân. Phân biệt với Toenia Saginata.

Có thể tìm trứng sán bằng phương pháp Graham.

  • Bệnh do ấu trùng

. Sinh thiết da.

. Soi đáy mắt.

. Miễn dịch chẩn đoán: Tìm kháng thể kháng ấu trùng bằng phương pháp cố định bổ thể, ngưng kết hồng cầu gián tiếp, Ouchterlony, ELISA.

ĐIỀU TRỊ

  • Bệnh do sán trưởng thành

Trước khi dùng thuốc xổ sán phải tránh nôn mửa bằng cách dùng thuốc chống nôn như prochlorperazin.

Vì nôn mửa trong lúc đang xổ sán có thể đưa đến bệnh ấu trùng ở các mô.

Có thể dùng các thuốc xổ sán như:

Niclosamid: Liều duy nhất 2g.

  • Bệnh do ấu trùng

Giải phẫu lấy ấu trùng ra (trường hợp ấu trùng ở da, mắt…)

Dùng các thuốc dẫn xuất của piperazin như Hetrazan, Notezine, Mintezol, Biltricide: Dùng liều thấp trong nhiều ngày.

DỰ PHÒNG VÀ CHĂM SÓC

  • Dự phòng

Tìm và chữa người có sán trưởng thành.

Quản lý phân (hố xí hợp vệ sinh).

Tránh đi tiêu bừa bãi ra ngoại cảnh.

Không dùng phân tươi bón cây.

Kiểm soát thịt heo trước khi cho bán.

Tránh ăn thịt heo sống.

Ăn rau sống phải rửa thật kỹ.

Giáo dục sức khoẻ.

  • Chăm sóc

Giải thích cho bệnh nhân sự cần thiết phải kiên nhẫn khi xổ sán (để tránh tái phát). Sự cần thiết dùng thuốc chống nôn trước khi dùng thuốc xổ sán.

Bệnh thận và Tăng huyết áp

Bệnh thận và Tăng huyết áp

Cho dù tiểu albumin lượng nhỏ nhưng dai dẳng (thậm chí dưới ngưỡng albumin vi niệu) và/hoặc tăng nhẹ creatinine huyết thanh trước khi điều trị Tăng huyết áp thì đó vẫn là yếu tố dự báo mạnh mẽ tình trạng bệnh tật và tử vong do BTM sớm. Do đó, hầu hết bệnh nhân bị bệnh thận và Tăng huyết áp dù đã điều trị nhưng có ton thương cơ quan đích thì vẫn có nguy cơ BTM đáng kể.

Bệnh mạch máu thận (hẹp ĐM thận):

khám thường quy không phát hiện ra nhưngcó thể các dấu hiệu nghi ngờ như sau:
‒ Bị Tăng huyết áp trước tuổi 30
‒ Từng có cơn khởi phát Tăng huyết áp đột ngột hoặc Tăng huyết áp trở nặng ở tuổi trung niên.
‒ Tăng huyết áp ác tính
‒ Tăng huyết áp kháng thuốc (≥ 4 thuốc)
‒ Suy thận không rõ nguyên nhân
‒ Tăng nhanh creatinine huyết thanh, đặc biệt khi huyết áp giảm nhiều với UCMC hoặc ức chế thụ thể (≥ 30% creatinine);
‒ Bệnh mạch máu ngoại vi hoặc bệnh xơ vữa ĐM lan tỏa nặng; ‒ Phù phổi cấp tái diễn hoặc suy tim không rõ nguyên nhân.
Khi nghi ngờ bệnh mạch máu thận, nên chuyển đến các chuyên gia.

Bệnh nhu mô thận:

gây ra Tăng huyết áp ở 5% dân số. Bệnh nhân Tăng huyết áp có creatinine huyết thanh hoặc protein niệu khi khám lần đầu thì có khả năng bị bệnh thận nhu mô hoặc bệnh thận tắc nghẽn và nên chuyển đến chuyên gia. Tăng huyết áp ác tính cũng có thể là hậu quả của bệnh thận nhu mô hoặc bệnh mạch máu và cần nhập viện ngay do chức năng thận suy giảm có thể không hồi phục được nếu không điều trị. Ngoài Tăng huyết áp tiến triển, bản thân Tăng huyết áp không phải là nguyên nhân nổi trội gây bệnh thận nặng mặc dù Tăng huyết áp làm tăng suy giảm tốc độ lọc cầu thận theo tuổi.

Ngưỡng, đích huyết áp và chọn lựa thuốc ở bệnh thận và THA

THA là yếu tố quyết định quan trọng sự suy giảm tốc độ lọc cầu thận theo tuổi và điều này trở nên ý nghĩa và quan trọng ở bệnh nhân có bằng chứng suy thận.

Ngưỡng điều trị Tăng huyết áp ở bệnh nhân tiểu protein dai dẳng và/hoặc suy thận là 

HATT ≥ 140 mmHg và/hoặc HATTr ≥ 90 mmHg. Kiểm soát Tăng huyết áp tối ưu khi HA<130/ 80 mmHg và giảm huyết áp xuống <125/75mmHg có thể đem thêm lợi ích ở bệnh nhân suy thận mạn bất cứ căn nguyên nào có protein niệu >1 g/24 giờ. Tuy nhiên cần nhấn mạnh là quan niệm “hạ huyết áp càng nhiều càng tốt” đối với bệnh nhân bị bệnh thận và Tăng huyết áp còn dựa trên số chứng cứ ít ỏi và phần lớn là suy diễn từ các phân tích hồi cứu dữ liệu lâm sàng. Hơn nữa, nghiên cứu the African American Study of Kidney Disease (AASK) không chứng tỏ đích huyết áp thấp hơn (128/78 mmHg) sẽ bảo tồn chức năng thận tốt hơn đích huyết áp cao (141/85 mmHg) ở bệnh nhân người Mỹ da đen bị bệnh thận không do ĐTĐ.

Lựa chọn thuốc hạ huyết áp.

Thuốc chẹn hệ renin‒angiotensin được ủng hộ dùng rộng rãi nhờ tác dụng “bảo vệ thận “ vượt xa loại chỉ hạ mỗi HA. Hiện có ít bằng chứng về tác dụng bảo vệ thận của ức chế thụ thể ở suy thận mạn không do ĐTĐ. Trong nghiên cứu CO‒OPERATE, kết hợp hai thuốc ức chế thụ thể và UCMC sẽ có tác dụng kéo dài thời gian sống của thận hơn việc chỉ dùng ức chế thụ thể hoặc UCMC. Các phân tích tổng hợp kết luận UCMC có tác dụng bảo về thận ngoài việc hạ huyết áp. Tác dụng này rõ nhất ở người mới bị protein niệu. Tác dụng chẹn hệ renin‒angiotensin có lẽ ít quan trọng hơn chính việc kiểm soát Tăng huyết áp trong dự phòng suy thận, trong tiến triển của bệnh thận nặng và ở những bệnh nhân không tiểu protein. UCMC có lẽ không bảo vệ thận được ngoài tác dụng hạ huyết áp ở bệnh thận đa nang. Thuốc chẹn hệ renin‒angiotensin (UCMC hoặc ức chế thụ thể) dùng một mình sẽ không đủ hiệu quả để kiểm soát huyết áp ở bệnh nhân có bệnh thận và THA. Thuốc nên dùng thêm là lợi tiểu thiazide/tương tự thiazide. Ở bệnh nhân phù hoặc suy thận nặng, ví dụ creatinine huyết thanh >200 mcmol/L, thuốc lợi tiểu thiazide/tương tự thiazide có thể không hiệu quả và nên dùng thuốc lợi tiểu quai (ví dụ furosemide) thay thế với liều cao hơn thông thường. Hầu hết bệnh nhân vẫn cần thêm thuốc Tăng huyết áp khác nữa. Dihydropyridine là thuốc bổ sung có lợi khi cần dùng thêm thuốc khác.

Tác dụng có hại của thuốc kháng Histamin lên hệ thần kinh

Đại cương

  • Năm 1910, những kết quả nghiên cứu đầu tiên về đặc điểm và tác dụng của các amin sinh học histamin đã được thông báo.
  • Khoảng 1/4 thế kỷ sau đó, người ta mới có thể nghiên cứu được những chất có tác dụng blốc histamin.

+ Việc ứng dụng điều trị của các hoạt chất nậy phải mãi tới năm 1942 mới đạt được và antergan được cộng nhận là thuôc kháng histamin đầu tiên được ứng dụng trong lâm sàng, thế nhưng thuốc có rất nhiều tác dụng phụ kèm theo.

+ Cho đến nay số lượng những thuốc kháng histamin được phát hiện đã vượt xa con số 200, thê nhưng những thuốc được các nhà lâm sàng sử dụng lại rất ít ỏi.

+ Những chỉ định đầu tiên của kháng histamin là: dị ứng, các phản ứng quá mẫn, hen phế quản, phù Quinck, dị ứng theo mùa, ban mề đay, bệnh da do dị ứng, phản ứng thuốc…

+ Các thuốc kháng histamin có những hoạt lực sau:

  • Kháng histamin.
  • Kháng
  • Kháng cholin.
  • Chống nôn.
  • Vô cảm tại chỗ.
  • An thần.

+ Trẻ em và trẻ nhũ nhi rất nhậy cảm với các thuốc loại này, diễn biến lâm sàng có thể rất nặng nề. về nguyên tắc, tất cả các cơ quan đều có thể tổn thương do tác dụng không mong muốn. Có những thuốc đầu tiên hấp thụ sinh học kém nhưng dùng nhiều lần, sau đó hấp thụ tốt hơn; ngược lại, cũng có những thuốc đầu tiên dùng tác dụng rất tốt, nhưng sau đó lại có hiện tượng phản hồi (rebound effect).
Bảng 9.11. Một số tác dụng phụ của các thuốc kháng histamin

STT Hoạt chất Tên thuốc Tác dụng không mong muốn
1 Antazolin Antistin An thần, vã mồ hôi, chóng mặt, co giật, mất bạch cầu hạt, giảm tiểu cầu, tác dụng chinidin, chảy máu đường sinh dục, viêm da, mẫn cảm ánh sáng
2 Clemizol Histacuran

Allerpant

An thần, mệt mỏi, cơ thể suy nhược, bơ phờ, buồn nôn, nôn, song thị
3 Deptropin Brontina Khô niêm mạc đường tiêu hóa và đường hô hấp
4 Diphenhydramin Benadryl an thần, ngủ rũ (narcolepsy), ảo giác, phù não, dị cảm, đau cơ bắp, trụy tim mạch, khô niêm mạc mũi họng, huyết tán, thiếu máu, mẫn cảm ánh sáng
5 Myperamin Neoantegan

histalon

An thần, đôi khi, trụy mạch, phù não
6 Metaphenilen Nihistin Mất bạch cầu hạt, mẫn cảm ánh sáng, tác dụng trên thần kinh trung ương (như trên)
7 Methapyrilen

hydrochlorid

Histadyl,

methapytilen

Rối loạn giấc ngủ, mệt mỏi, đau đầu, chóng mặt, nôn, rối loạn tiểu tiện, sốt
8 Phenindamin Thephorin Chóng mặt, mất ngủ, tăng kích thích, run, nhịp tim nahnh, đau quanh bụng , rối loạn tiểu tiện
9 Promethazin Atosil An thần, khô niêm mạc, táo bón, sốt, nhịp tim nhanh, biểu hiện dị ứng ngoài da, ban mề đay, ban đỏ, mẫn cảm với ánh sáng, mất bạch cầu hạt, rối loạn tâm thần, động kinh
10 Thiazinanium Multergan

Padisal

Đau xương ức, đau dạ dày
11 Alimenmazin

(primeprazin)

Rebeltin

Vallergan

Mất bạch cầu hạt
12 Tripelennamin Pyribenzamin An thần, mất bạch cầu hạt, thiếu máu huyết tán, chảy máu vùng sinh dục

Tác dụng trên hệ thần kinh

  • Tác dụng không mong muốn trên hệ thần kinh trung ương là hay gặp nhất, thường là tác dụng an thần hoặc kích thích, ngủ rũ. Có thể sắp xếp tác dụng phụ trên hệ thần kinh của các thuốc theo thứ tự giảm dần như sau:

+ Promethzin.

+ Diphenylhydramin.

+ Primeprazin.

+ Tripelennamin.

+ Meclastin.

  • Giảm khả năng tham gia giao thông, vận hành máy móc. Thông qua kết hợp với các thuốc kích thích trung ương người ta muốn làm giảm thiểu các tác dụng phụ này (như kết hợp với caffein, với methylphenidat…).
  • Giảm khả năng trập trung chú ý, giảm định hựớng, chóng mặt, bơ phờ, ù tai, song thị, ảo giác; các biểu hiện khác như tăng kích thích, mất ngủ, lú lẫn, run, co giật, sảng, rối loạn tâm thần gặp ở trẻ em hơn là ở người lớn. Các trẻ em bị động kinh không nên sử dụng.
  • Điều trị:

+ Cắt thuốc.

+ Có thể cho chỉ định sử dụng corticoid.

+ Trong trường hợp ngộ độc cần điều trị tích cực.

+ Antidot: chưa rõ.

Bài thuốc chữa đau tay, chân, sườn

  1. Tay và cánh tay đau nhức

Đương quy 3 lạng ngâm vào rượu nóng 3 ngày, hâm nóng mà uống, hết lại ngâm nữa để uống đến khỏi.

  1. Đờm thấp chạy ra, cánh tay đau

Thương truật, Bạch truật, Nam tinh, Trần bì, Phục linh, Hương phụ, Hoàng cầm sao rượu, Khương hoạt, Uy linh, Cam thảo, Bán hạ gia một ít Quế mỏng để dẫn Nam tinh, Bán hạ vào chỗ đau, 3 lát gừng, sắc uống khỏi ngay.

  1. Đàn ông, đàn bà tê thấp, tứ chi không cử động dược (người Trung Quốc truyền cho)

Thương truật 2 lạng, Hồi hương 1 lạng, Quế chi 1 lạng, lá Ngải 1 lạng, nấu với rượu, xoa bóp chỗ đau.

  1. Đau lưng (vùng thận)
  • Ngô thù 5g
  • Sa nhân 3g
  • Cam thảo 2g
  • Đại hồi 4g
  • Cố chỉ 4g
  • Quan quế 3g
  • Mộc hương 3g
  • Nhục đậu khấu 3g
  • Tiểu hồi 2g

Tán rồi uống nhiều ngày.

  1. Đau lưng

Bông cây móng tay thái nhỏ, phơi khô, tán bột, mỗi lần uống 1 chỉ bột với rượu, uống lúc đói bụng.

  1. Đau lưng có nhức đầu

Vỏ bưởi đào 2 lạng, lá thuốc cứu 1 nắm, sắc cho đặc uống lúc còn nóng, liên tiếp 3 ngày.

  1. Toa gia truyền đau lưng có nhức đầu

Dùng rượu trắng để sao một chén hột chanh, sao cho vàng, tán ra bột, ngày uống 1 chỉ, liên tiếp 3-4 ngày.

  1. Sản hậu đau lưng (Đông y sĩ Đỗ Phong Thuần)

Mới sinh đau lưng vì thận hư, cảm phong thấp vào thận, đau không xoay trở được.

  • Đương quy 3 chỉ –    Đỗ trọng sao muối 2 chỉ
  • Tang ký sinh 2 chỉ –    Xuyên khung 2,5 chỉ
  • Tục đoan 2 chỉ –    Thục địa 2 chỉ
  • Độc hoạt 1,5 chỉ –    Phòng phong 1,5 chỉ
  • Nhục quế gói riêng 1 chỉ

Thuốc tới để Nhục quế vô, đem xuống liền, sắc 3 chén còn 1 chén mà uống. Nếu tay chân mình mẩy nhức mỏi nặng nề thì gia thêm 2 chỉ Thương truật, sao cám.

Đỗ trọng
Đỗ trọng
  1. Đau nhức ngang lưng quần

Một con rắn trung lớn cỡ ngón tay cái, để nguyên ruột, nướng thật chín, da hơi khét, bẻ ra từng đoạn mà ngâm rượu 10 – 15 ngày sau uống được, ngày uống 2 ly nhỏ sau bữa cơm, bằm thịt rắn xào với lá cách mà ăn, ăn nhiều càng tốt, trị luôn bệnh lác lâu năm.

  1. Đau lưng nằm không yên, đi không thẳng lưng

Lá nhàu xắt nhỏ 10 lá, thuốc cứu 20 lá, lá Ngũ trảo 1 nắm. Ba món giã nhỏ, xào giấm, còn hơi nóng trải mỏng ra nằm lên. Phương khác: hầm nhừ đuôi heo với đậu đen mà ăn (thần hiệu).

  1. Nhức xương sống

1 kg đậu đen (ngâm nước 1 giờ, để cho ráo, chia làm 3), rang lửa vừa đến khi vàng đen là được (không có khét), ngâm đậu rang với 3 lít rượu ngon, 72 giờ sau lược bỏ xác, uống sáng tối 1 lần 1 muỗng canh, xác tán nhừ, thêm ít rượu dùng xoa bóp các chỗ đau.

  1. Bị cụp xương sống

Một mớ khổ qua đèo, xắt nhỏ, xào với tí giấm trải lên lá nhàu, kê ngay chỗ đau mà nằm, hoặc trái đu đủ non, làm như trên.

  1. Bị nước ăn chân

Đâm búp ổi với tí muối, lá khoai lang, lá mướp mà xát kẽ chân, ngày 2-3 lần.

Nấu rễ lá lốt mà xông và ngâm 2 chân.

Hâm “dầu trong trét ghe” còn ấm mà thoa kẽ chân.

Dùng phèn chua pha nước mà xát trước khi lội nước.

  1. Ngứa háng, kẹt nách

Cỏ mực, hành lá đâm chung mà xát.

  1. Bàn tay đau nhức co lại không được

Lá Ngũ trảo, Nghệ, thuốc Cứu, 3 món giã nát, ngâm nước tiểu trẻ em, xào thêm giấm, chưng cho nóng mà bó.

  1. Sưng chân khi có thai

Hơ lửa cho nóng da, thoa dầu lửa mà xoa bóp và vuốt nhiều lần từ bàn chân lên trên.

  1. Đầu gối sưng nhức (cữ phòng dục)
  • Đâm nhỏ 1 củ tôi với muối mà bó.
  • Ngâm rượu băng phiến mà bóp.
  • Đâm lá cỏ gạc nai ngoài ruộng với tí muối mà xoa bóp bó.
  • Luộc hoặc nấu canh lá gạc nai mà ăn.
  1. Gan bàn chân bị dày cứng đi đứng bị đau
  • Thoa mỡ trăn, tối ngâm chân nước muối nóng.
  • Hột đu đủ dầu, bỏ vô, đâm nhuyễn mà bó gan bàn chân, làm mềm ra thì hết.
  • Tro củi trâm bầu chế nước sôi ấm, sền sệt, nhúng chân vô ngâm, diệu dược.
  • Đâm tỏi mà bó.
  1. Tinh mạch trướng (Varice)

Cả ống chân nổi gân xanh có cục, thường bị tê rần thì nên mang vớ, đêm ngủ gác chân cao hơn đầu, ngâm chân trong nước nóng rồi nước lạnh. Áp dụng phương diện châm, rất công hiệu.

  1. Kinh nghiệm dùng phép chườm chữa các bệnh đau

Gốc hẹ giã nát, xào với giấm bọc lụa, chườm chỗ đau là khỏi ngay. Lại dùng hẹ cả rễ với lá giã nát, vắt lấy nưởc, hòa với rượu lạt 1/2 bát, tùy ý uống.

  1. Tâm phiền, sườn đau suốt ngày, muôn chết

Hương nhu tươi giã lấy nước 2-3 thang uống.

  1. Dưới sườn đau đớn

Địa phu tử sao qua, tán, 1 lần uống 1 đồng cân với rượu.

  1. Đau sườn như dùi đánh, đâm

Trần bì, Chỉ xác đều nhau, tán, uống mỗi lần 2 đồng cân, uống với nước hành trắng đun sôi.

  1. Dưới sườn đau nhói như đâm

Hạt tiêu hói 1 lạng sao lên, Chỉ xác 5 đồng cân sao với cám, tán bột uống với muối, rượu mỗi bận 2 đồng cân.

  1. Chữa đau sườn rất hay

Uống bài can thận kiêm tư thang để bình can dưỡng thận: Thục địa, Đương quy mỗi vị 1 lạng, Bạch thược 2 lạng, Bạch giới, Cam thảo mỗi vị 3 đồng cân, Chi tử 1 đồng cân sắc uống.

 

Hoàng bá

Tên khoa học:

Phellodendron chinensis Schneid. Họ khoa học: Thuộc họ Cam (Rutaceae)

Tiếng Trung: 黄柏.

Tên khác: Hoàng bá, nguyên bá, bá mộc.

Nguồn gốc:

Cây Hoàng bá

Đây là vỏ cây hoàng bì hoặc hoàng bá khô, thuộc loài thực vật họ vận hương. vỏ cây hoàng bì quen gọi là “xuyên hoàng bá”, vỏ cây hoàng bá quen gọi là “quan hoang ba”. Sản xuất chủ yếu ở Tứ Xuyên, Vân Nam, Đông Bắc, Nội Mông Cổ v.v…

Phân biệt tính chất, đặc điểm:

Xuyên hoàng bá ty: Bề mặt bên ngoài màu be vàng. hoặc màu nâu vàng. Nửa cong, nhẵn nhụi hoặc có vân rãnh dọc, có cái còn thấy rõ ngân mắt vỏ hoặc vỏ thô màu be xám còn sót lại. Bề mặt bên trong màu vàng tôi, nhẵn bóng. Mặt cắt có nhiều lớp màu vàng sẫm. Chất giòn, dễ gẫy, mặt cắt có chất xơ, mùi nhẹ, vị cực đắng, nhấm lên miệng thấy dính, nước bọt ngả sang màu vàng.

Quan hoàng bá ti: Bề mặt, bên ngoài có màu xanh vàng hoặc màu nâu vàng nhạt, tương đối nhẵn nhụi, có các đường vân nứt dọc không đồng đều, ngấn mắt vỏ nhỏ mà ít thấy, đây đó có thể còn sót lại những vết vỏ thô màu trắng xám. Bề mặt bên trong mầu vàng hoặc nâu vàng, chất rắn. Mặt cắt mầu vàng tươi, hoặc mầu lục vàng. Chất tương đối xốp, dễ nứt dọc thành từng lớp, tính xơ mạnh, vị đắng.

Các loại hoàng bá đều coi loại vỏ dày, màu vàng tươi, không có màng vỏ là loại tốt.

Bảo quản:

Để nơi khô ráo thoáng gió, đề phòng thuốc hoá độc, đổi màu.

Dược lý hiện đại:

Hoàng bá

+ Tác dụng kháng khuẩn: Cao cồn vỏ cây hoàng bá có tác dụng kháng khuẩn đối với nhiều vi khuẩn gram dương và gram âm, trong đó có trực khuẩn lao. Hợp chất lacton trong hoàng bá có tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương và gây hạ đường huyết ở thỏ bình thường. Ở thỏ đã cắt bỏ tuyến tụy, không thể hiện tác dụng này. Berberin có tác dụng tăng tiết mật vầ có ích trong điều trị giai đoạn mạn tính của các bệnh viêm túi mật với rối loạn vận động đường dẫn mật, viêm túi mật do sỏi mật, viêm gan – túi mật, có biến chứng của viêm ống mật. Nó ít tác dụng trong viêm túi mật cấp tính (Trung Dược Học).

+ Dịch chiết toàn phần của Hoàng bá làm vỡ đơn bào Entamoeba histolytica, còn Berberin làm đơn bào co thần kinh (Trung Dược Học).

+ Nước sắc hoàng bá có tác dụng chống Entameoba histolytica trong ống nghiệm ở nồng độ l: 16 và Berberin có tác dụng rõ rệt ở nồng độ l: 200. Alcaloid toàn phần của Hoàng bá chứa Berberin với hàm lượng lớn nhất, ức chế trong ống nghiệm các vi khuẩn và nấm Bacillus mycoides, Bacillus subtilis, Candida albicans,Salmeonella typhi, Shigella shigae, Sh. flexneri, phế cầu, trực khuẩn lao, tụ cầu vàng,. liên cầu khuẩn (Trung Dược Học).

+ Hoàng bá có tác dụng lợi tiểu và ức chế hoạt tính gây co thắt cơ trơn của histamin và Acetylcholin. Hoàng bá đã được kết hợpvới các thuốc hóa dược trong điều trị viêm ruột kết mạn tính đạt kết quả tốt. Một bài thuốc trong có hoàng bá đã được điều trị tiêu chảy trẻ em đạt tỷ lệ khỏi và đỡ 95%. Viên Berberin đã được áp dụng điều trị lỵ trực khuẩn trên 80 bệnh nhân (30 nhiễm Shigella flexneri, 15 nhiễm Sh. Shigae và 8 nhiễm các Shigella khác) . Tỷ lệ khỏi đạt 93% (Trung Dược Học).

+ Hoàng bá còn được áp dụng trong công thức kết hợp để điều trị viêm loét cổ tử cung và lộ tuyến trên 360 bệnh nhân đạt tỉ lệ khỏi và đỡ 96%. Thuốc có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm, giảm tiết dịch và giúp sự tái tạo tổ chức ở nơi tổn thương cổ tửcung được nhanh hơn (Trung Dược Học).

+ Viên berberin đặt vào âm đạo để điều trị nấm âm đạo trên 60 bệnh nhân, đạt tỷ lệ khỏi thấp 26,7%. Thuốc ít gây dị ứng (Trung Dược Học).

+ Nước sắc hoặc cao cồn 100% có tác dụng kháng khuẩn ở mức độ khác nhau đối với tụ cầu khuẩn vàng, phẩy khuẩn tả, các trực khuẩn than, bạch hầu, lỵ, mủ xanh) thương hàn và phó thương hàn, liên cầu khuẩn. Mức độ tác dụng hơi kém hơn so với Hoàng liên (Chinese HerbalMedicine). + Berberin tác dụng trong ống nghiệm đối với llên cầu khuẩn ở nồng độ 1: 20.000, với trực khuẩn bạch hầu ở nồng độ 1: 10.000, với tụ cầu khuẩn ở nồng độ 1: 7.000, với trực khuẩn lỵ Shiga ở nồng độ 1: 3.000, đối với trực khuẩn lỵ Flexheri: trực khuẩn thương hàn và phó thương hăn ở nồng độ 1: 100. + Nước sắc Hoàng Bá ức chế sự phát triển các nấm da trong ống nghiệm (Chinese HerbalMedicine).

+ Hòa 1ml dung dịch bão hòa Berberin với 0,5ml dung dịch 1% máu người. Sau 2 giờ, hồng cầu bị tan hoàn toàn, bạch cầu còn lại một ít, các tiểu cầu còn nguyên vẹn. Có thể dùng dung dịch 0,25% Berberin để pha loăng máu trong việc đếm tiểu cầu. Số liệu hơi cao hơn so với dung dịch pha loãng máu thông thường (Chinese HerbalMedicine).

+ Tiêm tĩnh mạch 10ml dung dịch bão hòa Berberin cho thỏ, không thấy biểu hiện độc. Tiêm dưới da lml gây chết chuột nhắt, khi giải phẫu thấy các phủ tạng xung huyết, các hồng cầu bị tan (Chinese HerbalMedicine).

+ Nhỏ dung dịch 0,5% Berberin vào mắt thỏ, cách nửa giờ nhỏ một lần, làm giảm viêm xung huyết giác mạc gây nên bởi dung dịch 0,05% Nitrat bạc. Nhỏ dung dịch này mỗi ngày một lần vào tai có thể chữa viêm tai giữa cho thỏ (Trung Dược Học).

+ Chích vào phúc mạc chuột nhắt 0,5ml dung dịch 0,5% Berberin trộn lẫn với trực khuẩn phó thương hàn, sau đó cho chuột uống Berberin nhiều lần, có thể .bảo vệ chuột không chết (Chinese HerbalMedicine).

+ Cao Hoàng bá, chích vào phúc mạc cho mèo đã gây mê, có tác dụng giảm huyết áp, nhịp tim không thay đổi (Chinese HerbalMedicine).

+ Ức chế thần kinh trung ương: cho thuốc ngoài đường tiêu hóa, nó có tác dụng gây trấn tĩnh và giảm sốt (Chinese HerbalMedicine).

+ Chống co thắt cơ trơn trên tử cung và ruột cô lập (Chinese HerbalMedicine).

+ Chống loét dạ dày và kiện vị:tác dụng giảm tiết dịch vị khi tiêm Berberin dưới da. Có thể dùng Berberin để điều trị chảy máu dạ dày, loét dạ dày và để giảm tiết dịch vị (Chinese HerbalMedicine).

+ Tác dụng kháng khuẩn trong ống nghiệm rõ rệt đối với nhiễm vi khuẩn gram âm và gram dương (Chinese HerbalMedicine).

+ Chống tiêu chảy, giảm tiết các thành phần muối và nước ở ruột non (Chinese HerbalMedicine).

+ Giảm huyết áp: Berberin tiêm dưới da hoặc cao nước Hoàng bá tiêm tInh mạch có tác dụng hạ áp, do kích thích các thụ thểb – Adrenergic và ức chế các thụ thể a – Adrenergic (Chinese HerbalMedicine).

+ Tác dụng chống viêm khá mạnh (Chinese HerbalMedicine).

Khí vị:

Vị đắng, tính hàn, không độc, là thuốc của kinh Túc thiếu âm, lại nói: là thuốc của kinh Thủ quyết âm và thuốc dẫn kinh của Túc thái âm, tính trầm mà giáng xuống, là âm dược, ghét Can tất

Chủ dụng:

Làm cho thấp nhiệt ở hạ tiêu tan đi, tả Long hỏa nấp trong phần âm, trừ phiền nhiệt, nóng trong xương, bổ Thận mạnh âm, tẩy Can sáng mắt, trị hoàng đản, nhiệt kết ừong Dạ dày, Ruột và ngũ Tạng, chữa kiết lỵ, trĩ nội, tả Tướng hỏa có thừa, cứu Thận thủy không đủ, lở miệng, ghẻ lở có trùng xức bôi được, có công chữa chứng trường phong hạ huyết liên tục, và nhiệt lỵ đi ra huyết rất thần hiệu. Các chứng Bàng quang có nhiệt, phụ nữ đới lậu, âm khí lở loét, đỏ mũi, tê cố họng, ung thư phát bối, sưng vú, lở rốn cũng dùng được. Đông Viên nói: tả Long hỏa nấp ở Hạ tiêu, yên giun đũa gây nôn khan ở Thượng tiêu (đàn ông lở Ngọc hành dùng nó tán thành bột bôi vào, môi lưỡi lở thì nướng với Mật rồi tán nhỏ mà bôi.)

Hơp dụng:

Được Tri mẫu thì tư âm giáng hỏa để trị lao nhiệt, được Thương truật thì trừ thâp thanh nhiệt, chủ yêu để trị tê liệt.

Cấm kỵ:

Phàm hỏa thực thì tả, hỏa hư thì bổ, người ta không có hỏa thì không sống được, dùng Hoàng bá để tả hỏa thì tổn thương nguyên khí, chỉ có chứng thấp nhiệt, thực nhiệt thì tạm dùng được, với người Thận hư, Tỳ yếu thì cấm hẵn. Đan Khê nói: Mạch bộ Hữu Xích vi hoặc mạch bộ Tả Xích vượng thì đều cấm dùng Hoàng bá.

Cách chế:

Cho vào thuốc tể nên tẩm Mật nướng, cho vào thuốc chữa Thận nên tẩm Muối và Rượu sao tới màu nâu sẩm, cho vào thuốc bôi cam miệng thì phơi khô mà không cho gần lửa. Lại cách khác: dùng dao đồng gọt vỏ ngoài, tẩm Mật và nước nửa ngày lấy ra nướng khô, lại bôi Mật nướng nhỏ lửa, mỗi lạng dùng hêt 6đ Mật, nếu chứng hỏa thịnh thì tẩm Đồng tiện chưng lên dùng.

Nhận xét:

Hoàng bá tính hàn thực hiện thời lệnh khắc nghiệt của mùa Đông cho nên vào riêng kinh Thiếu âm tả Tướng hỏa có thừa, nhưng phải là người có mạch bộ Xích hồng đại hữu lực thì sao đen tạm dùng được. Hoàng bá lợi cho chứng thực nhiệt mà không lợi cho chứng hư nhiệt. Phải nhớ rằng hỏa chân nguyên ở Mệnh môn gặp Hoàng bá thì tiêu mất, chức năng vận hành của Tỳ, Vị gặp Hoàng bá thì bị trở ngại. Nguyên khí đã hư lại dùng thuốc đắng lạnh, ngăn tuyệt sinh cơ, không có gì hại bằng nó.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Thế y đắc hiệu phương”

Bài Nhị diệu tán

Hoàng bá (sao), Thương truật (ngâm nước Gạo, sao), liều lượng bằng nhau, cùng tán nhỏ, mỗi lần uống 8-12g, ngày 2 lần. Có tác dụng thanh nhiệt, táo thấp.

Trị thấp nhiệt ở hạ tiêu, gân xương đau nhức, nặng thì bị phù thủng, đau, không có sức, hoặc âm đạo lở ngứa, đái hạ, nước tiêu ít, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch nhu sác.

Gia giảm: Đối với chứng cước khí do thấp nhiệt tụ ở hạ tiêu thêm Ngưu tất, Xích tiểu đậu, Ý dĩ nhân, Mộc qua để kiện Tỳ, thông lợi kinh mạch.

Trường hợp lưng gối đau nhiều thêm Ngưu tất, Mộc qua, Ngũ da bì, Thiên niên kiện, Tần giao để tư cân, trừ thấp, thông mạch. Bệnh đới hạ do thấp nhiệt, khí hư ra nhiều, màu vàng đặc, ngứa thêm Kim ngân hoa, Thổ phục linh, Hạ khô thảo, Khiếm

thực, Bạch chỉ, Xà sàng tử để tăng tác dụng thanh nhiệt, giải độc, táo thấp

Trên lâm sàng bài này có thể chữa trẻ nhỏ viêm Thận cấp thuộc thể thấp nhiệt.

“Y học chính truyền”

Bài Tam diệu hoàn

Là bài Nhị diệu thêm Ngưu tất.Có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp.

Chữa thấp nhiệt dồn xuống chân, đầu gối sưng đỏ, đau, hoàng đản sắc vàng tươi như quả quít, bụng hơi đầy, miệng khát, ra mồ hôi đầu, đại tiểu tiện không thông, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch trầm thưc hoăc hoat sác.

“Ngoại đài bí yếu”

Bài Hoàng liên giải độc thang

Hoàng liên 8g, Hoàng cầm 8g, Hoàng bá 8g, Chi tử 8g. sắc, chia uống vài lần trong ngày. Có tác dụng tả hỏa, giải độc. Trị các chứng thực nhiệt, hỏa độc, sốt cao, phiền táo, miệng ráo, họng khô, điên cuồng mê loạn, hoàng đản thấp nhiệt, mụn nhọt chảy nước vàng, nóng quá đến thổ huyết, mũi ra máu, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch sác hữu lưc.

Chú ý:

Bài này toàn những vị thuốc rất đắng, rất lạnh, phải đúng chứng, đúng mạch mới được dùng.

“Thương hàn luận”

Bài Chi tử bá bì thang

Chi tử 8-12g, Hoàng bá 8-12g, Cam thảo 3-4g.

Sắc, chia uống vài lần trong ngày.

Có tác dụng thanh nhiệt, khứ thấp, thoái hoàng.

Trị hoàng đản nhiệt nặng hơn thấp, nước tiêu vàng hoặc đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàne, mạch hoat sác.

Trên lâm sàng dùng trị viêm Gan vàng da cấp, viêm cầu thận cấp, xuất huyết dưới da do giảm tiểu cầu, lỵ trực khuẩn.

“Hướng dẫn sử dụng các bài thuốc”

Bài Thanh thử ích khí thang

Nhân sâm,Bạch truật, Mạch môn, Hoàng kỳ, Đương quy đều 8g, Trần bì 5g, Ngũ vị, hoàng bá, Cam thảo đều 4g.

Bổ trung ích khí có tác dụng căn bản là bổ chính khí để trừ tà. Trường hợp chính khí chưa bị tổn thương, nhưng trúng tà khí (nhiệt tà) thì phải mượn bài này để giải. Những người hay ốm về mùa hè, gầy về mùa hè phải dùng Hoàng bá trừ Vị nhiệt, Mạch môn để bảo vệ tân dịch, Ngũ vị liễm khí. Người về mùa hè không muốn ăn, đổ mồ hôi trộm, tiêu ít, phân nhão nên dùng bài này, đó đơn giản chi trúng nhiệt thử. Nếu người bị thấp và nhiệt thì dùng bài sau đây: Thương truật, Hoàng kỳ, Thăng ma, Nhân sâm, Bạch truật, Trần bì,thần khúc, Trạch tả, Đương quy, Thanh bì, Mạch môn, Cát căn, Cam thảo, Ngũ vị tử.

“Dương y tâm đắc tập”

Bài Tỳ giải thẩm thấp thang

Tỳ giải 12g, Ý dĩ 16g, Xích phục linh 8g, Hoạt thạch 12g, Hoàng bá 8g, Mẫu đơn bì 8g, Trạch tả 12g, Thông thảo 5g.

Chữa thấp nhiệt hạ chủ, gót chân phá lở hoặc thấp chấn.

“Hướng dẫn sử dụng các bài thuốc”

Bài Gia vị giải độc thang

Hoàng cầm 4g, Hoàng bá 4g, Hoàng liên 4g Sài hồ 4g, Chi tử 4g, Nhân trần, Long đởm 4g, Mộc thông 4g,Thăng ma 3g, Cam thảo 3g, Đăng tâm 3g, Đại hoàng 3g, Hoạt thạch 3g.

Áp dụng-. Thuốc bình Can, hạ Tâm hỏa.

Trị Tâm nhiệt, tiểu tiện khó, buốt,có thể sinh Đại tràng nhiệt, đại tiện bí kết, sinh trĩ, hạ huyết. Những người khỏe mạnh, nhiệt thịnh, tiểu buốt, đái ra huyết nên dùng bài này.

Liều dùng – cách dùng: 

6 – 12g/24h sắc, bột

Những cấm kỵ khi dùng thuốc:

Người bị viêm dạ dày mạn, viêm gan, xơ cứng gan, ăn uống kém, đau bụng ỉa chảy kinh niên, cấm uống nhiều hoàng bá và kéo dài thời gian.

Không phải thực hoả, kiêng không uống hoàng bá.

Lượng đường trong máu thấp, huyết áp thấp kiêng uống nhiều hoàng bá.

Các bài thuốc thường dùng:

Hoàng ngũ tẩy tễ (thuốc rửa ngoài hoàng ba ngũ vị tử)

Hoàng bá 12g – Sà sàng tử 12g

Ngũ vị tử 12g – Minh phàn 12g

Sắc hai nước, trộn đều, lọc sạch, dùng nước ấy rửa kỹ phần ngoài âm hộ, mỗi ngày 3-6 lần.

Dùng cho người âm đạo bị trích trùng.

Hoàng long tẩy tễ (nước rửa hoàng bá, long đảm)

Hoang ba 10g – Khổ sâm 10g

Long đảm thảo 10g – Long cốt 10g

Sắc 2 nước, lấy nước ấy đổ vào bồn tắm, ngồi ngâm, rửa 15 – 20 phut.

Dùng cho người bị viêm cổ tử cung, viêm âm đạo do bị nấm.

Hoàng trần tán (thuốc bột trần bì, hoàng bá)

Hoàng bá 9g – Trần bì thán 3g

Băng phiến 0,6g

Nghiền bột bôi. Dùng cho người bị viêm tai giữa, vết thương chảy nước vàng, phát ban, nứt đầu vú, bị bỏng nhẹ, chân bị viêm loét mạn tính.

Mạn lập tẩy dịch (thuốc chữa đau mắt hột mạn tính)

Hoàng bá 30g, sắc 2 nước, trộn lẫn lọc sạch, dùng để rửa mắt, nhiều lần mỗi ngày.

Dùng để chữa đau mắt hột mạn tính.

Nhĩ tiết tiêu ẩm (thuốc uống viêm tai)

Hoàng bá 9g – Hoa kim ngân 30g

Chi tử 9g – Liên kiều 15g

Sắc 2 nước, trộn lẫn uống, chia 2 lần, sớm, tối.

Dùng cho người bị sưng đau ống tai ngoài.

Tiêu trĩ tẩy tễ (thuốc ngâm trĩ)

Hoàng bá 60g – Bác lạc hồi 60g

Hồng đằng 60g

Sắc 2 nước, ngâm rửa chỗ đau 15-20 phút ngay khi còn nóng. Mỗi ngày 2 – 3 lần; 5 ngày là 1 liệu trình.

Dùng cho người bị lòi dom và nhiễm thêm bệnh khác.

Nhị hoàng phàn (thuốc bột nhị hoàng)

Hoàng bá lg – Đại hoàng 10g

Nghiền chung thành bột mịn. Trước hết rửa sạch vết thương bằng ôxl già, xối qua nước muối 0,9%, sau đó lảy 1 ít bột nhị hoàng, quây nước sôi thanh hồ bôi lên vết thương. Cách 2 ngày chữa 1 lần, cho đến khi hết sưng hết loét, chỗ thịt lõm đầy dần lên là được.

Dùng để chữa viêm loét 2 chi dưới.

Hoàng bá tán (thuốc bột hoàng bá)

Hoàng bá 15g – Bạch liềm 30g

Nghiền chung thành bột, bôi vết thương ngày 3 lần.

Dùng cho trẻ em, chân tay nứt nẻ do bị lạnh.

Hoàng hùng tẩy (thuốc rửa vết thương hoàng ba, hùng hoàng)

Hoàng bá 15g – Hùng hoàng 10g

Thương nhĩ tử 10g

Sắc 2 nước, trộn lẫn lọc sạch, rửa vết thương khi thuốc nóng, ngày 1 lần. Dùng cho người bị viêm lỗ chân lông.

Thanh hoàng tán (Bột hoàng bá, thanh hoạt)

Bột hoàng bá 25g – Bột thanh đại 25g

Bột hoạt thạch 100g

Trộn lẫn bỏ lọ dùng dần (Nguyên văn không nói cách sử dụng N.d).

Dùng cho người bị viêm tuyến mồ hôi, vết thương nung mủ, phát ban, viêm da do tiếp xúc, viêm da bã nhờn.

Hoàng sâm tẩy tễ (thuốc rửa khổ sâm, hoàng bá)

Hoàng bá 20g – Mộc tặc 30g

Xuyên tiên 20g – Hương phụ 30g

Khổ sâm 20g

Bạch phàm (phèn chua) 10g

Sắc 2 nước, trộn lẫn lọc sạch, ngâm vào chỗ đau ngày 2 lần, mỗi lần 30 phút. Dùng cho người bị mụn hột cơm già, bị phát ban.

Hoàng thạch tán (bột hoàng bá, thạch cao)

Hoàng bá 6g – Thạch cao sống 3g

Nghiền chung thành bột, trộn nước đặc sệt bôi chỗ đau ngày 1 lần. Bôi liên tục 3 ngày. Dùng cho người bị viêm tuyến nước bọt.

Huyết lâm thang

Hoàng bá 10g

Bồ công anh 10g

Tiêu sơn chi 10g

Sắc uống, chia 2 lần sớm tôi. Dùng cho người bị bệnh huyết lâm.

Hoàng bá ẩm

Hoàng bá 3g

Hãm nước sôi làm trà để uống.

Dùng cho người bị viêm họng mạn tính.

Đái tháo đường tuýp 1 – Triệu chứng, Điều trị

Đái tháo đường tuýp 1 là gì?

Đái tháo đường tuýp 1 là tình trạng mà hệ miễn dịch của bạn phá hủy các tế bào sản xuất insulin (tế bào beta) trong tuyến tụy. Điều này có nghĩa là cơ thể của bạn không thể tạo đủ insulin hoặc không thể tạo insulin hoàn toàn.

Insulin là một hormone giúp vận chuyển glucose (đường) từ máu vào các tế bào của bạn để sử dụng làm năng lượng.

Vì đái tháo đường tuýp 1 thường được chẩn đoán ở trẻ em và thanh thiếu niên, trước đây nó được gọi là đái tháo đường ở trẻ vị thành niên. Trong quá khứ, nó cũng được gọi là đái tháo đường phụ thuộc insulin.

Bạn có sinh ra đã bị đái tháo đường tuýp 1 không?

Bạn có thể mắc nó ở bất kỳ độ tuổi nào. Trên thực tế, một nửa số người được chẩn đoán mắc đái tháo đường tuýp 1 hiện nay là người lớn.

Đái tháo đường tuýp 1 so với đái tháo đường thứ phát

Một tình trạng gọi là đái tháo đường thứ phát giống với tuýp 1, nhưng các tế bào sản xuất insulin của bạn bị phá hủy do một vấn đề sức khỏe khác hoặc chấn thương ở tuyến tụy, thay vì do hệ miễn dịch của bạn.

Đái tháo đường tuýp 1 so với đái tháo đường tuýp 2

Nếu bạn mắc tuýp 1, cơ thể bạn không tạo đủ insulin. Với đái tháo đường tuýp 2, cơ thể của bạn có thể tạo insulin nhưng không sử dụng nó hiệu quả. Các tế bào trong cơ, mỡ, và gan của bạn phát triển tình trạng được gọi là kháng insulin.

Với đái tháo đường tuýp 1, bạn cần sử dụng insulin nhân tạo mỗi ngày để cơ thể có thể hoạt động. Nhưng không phải ai mắc tuýp 2 cũng cần insulin. Các loại thuốc khác có thể giúp bạn kiểm soát tình trạng này.

Bất kể bạn mắc loại đái tháo đường nào, bạn sẽ cần theo dõi kỹ các thói quen hàng ngày của mình, như việc ăn uống và mức độ hoạt động để duy trì sức khỏe.

Triệu chứng của đái tháo đường tuýp 1

Các triệu chứng có thể xuất hiện rất nhanh chóng. Bao gồm:

  • Khát nước dữ dội
  • Tăng cảm giác đói (đặc biệt là sau khi ăn)
  • Khô miệng
  • Khó chịu ở dạ dày và nôn mửa
  • Đi tiểu thường xuyên
  • Giảm cân không rõ nguyên nhân (dù đã ăn và cảm thấy đói thường xuyên)
  • Cảm giác mệt mỏi hoặc yếu mà không có lý do
  • Thay đổi về thị lực
  • Thở nặng nhọc, chậm (bác sĩ của bạn có thể gọi đây là thở Kussmaul)
  • Nhiễm trùng lặp lại ở da, đường tiết niệu hoặc âm đạo
  • Thay đổi tâm trạng

Triệu chứng của đái tháo đường tuýp 1 khởi phát muộn

Nhiều nghiên cứu đang được thực hiện về loại đái tháo đường tự miễn tiềm ẩn ở người lớn (LADA). Một số người gọi đây là “Đái tháo đường 1.5” vì nó có một số điểm giống với cả tuýp 1 và tuýp 2.

Triệu chứng của LADA có thể xuất hiện từ từ, gây khó khăn trong việc chẩn đoán. Điều này càng khó hơn do người mắc thường có cân nặng hợp lý và thường ở độ tuổi từ 30 đến 50.

Đái tháo đường tuýp 1 ở trẻ em

Con của bạn có nguy cơ cao hơn mắc đái tháo đường tuýp 1 nếu:

  • Chúng ở độ tuổi từ 4-6 hoặc 10-14.
  • Có người thân trong gia đình cũng mắc bệnh này.

Triệu chứng đái tháo đường tuýp 1 ở trẻ em

Các dấu hiệu giống như ở người lớn, nhưng bạn cũng có thể nhận thấy:

  • Thay đổi tã nhiều hơn ở trẻ sơ sinh
  • Hăm tã không cải thiện khi điều trị
  • Đái dầm ở trẻ đã được huấn luyện đi vệ sinh
  • Thở nhanh
  • Đau bụng
  • Nôn mửa
  • Thay đổi hành vi
  • Hơi thở có mùi trái cây

Ở một số trẻ sơ sinh hoặc trẻ em, đái tháo đường tuýp 1 cũng có thể giống như cúm.

Nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào trong số này, hãy đưa con của bạn đến bác sĩ

Nguyên nhân gây bệnh tiểu đường tuýp 1

Các chuyên gia chưa chắc chắn điều gì khiến tuyến tụy của bạn ngừng sản xuất insulin. Gen và hệ miễn dịch của bạn đều đóng vai trò quan trọng.

Bệnh tiểu đường tuýp 1 có di truyền không?

Ở một mức độ nào đó, có.

  • Nếu bạn được chỉ định là nam khi sinh (AMAB) và mắc bệnh tiểu đường tuýp 1, có khả năng 1 trong 17 con bạn cũng sẽ mắc bệnh này.
  • Nếu bạn được chỉ định là nữ khi sinh (AFAB) và mắc tiểu đường tuýp 1, nguy cơ mắc bệnh của con bạn là 1 trong 25 nếu chúng được sinh ra trước khi bạn 25 tuổi, và 1 trong 100 nếu chúng sinh ra sau sinh nhật thứ 25 của bạn.
  • Nếu cả bạn và bạn đời đều mắc tiểu đường tuýp 1, khả năng con bạn cũng mắc bệnh có thể cao tới 1 trong 4.

Khi bạn thừa hưởng gen khiến bạn có nguy cơ mắc tiểu đường tuýp 1, một yếu tố kích hoạt từ môi trường như nhiễm trùng, virus hoặc rối loạn tự miễn dịch dường như cần thiết để “kích hoạt” chúng.

Khi các nhà khoa học kiểm tra máu của những người mắc bệnh tiểu đường tuýp 1, họ có thể thấy các protein đặc biệt cho thấy hệ miễn dịch đang tấn công tuyến tụy.

Các yếu tố nguy cơ của tiểu đường tuýp 1

Chỉ khoảng 5%-10% người mắc bệnh tiểu đường bị tuýp 1. Các yếu tố nguy cơ cho bệnh này không rõ ràng như bệnh tiểu đường tuýp 2.

Hiện tại, các chuyên gia chỉ biết rằng bạn có nhiều khả năng mắc bệnh nếu bạn:

  • Dưới 20 tuổi
  • Là người da trắng
  • Có bố mẹ hoặc anh chị em mắc bệnh tiểu đường tuýp 1
  • Có trọng lượng cơ thể dư thừa
Nguyên nhân gây bệnh tiểu đường tuýp 1

Ở một mức độ nhất định, có.

  • Nếu bạn được chỉ định là nam khi sinh (AMAB) và mắc bệnh tiểu đường tuýp 1, có khả năng 1 trong 17 là con bạn cũng sẽ mắc bệnh này.
  • Nếu bạn được chỉ định là nữ khi sinh (AFAB) và mắc tiểu đường tuýp 1, nguy cơ mắc bệnh của con bạn là 1 trong 25 nếu chúng được sinh ra trước khi bạn 25 tuổi, và 1 trong 100 nếu chúng sinh ra sau sinh nhật thứ 25 của bạn.
  • Nếu cả bạn và bạn đời đều mắc tiểu đường tuýp 1, khả năng con bạn mắc bệnh này có thể cao tới 1 trong 4.

Khi bạn thừa hưởng gen có nguy cơ mắc tiểu đường tuýp 1, một yếu tố kích hoạt từ môi trường như nhiễm trùng, virus hoặc rối loạn tự miễn dịch dường như cần thiết để “kích hoạt” chúng.

Khi các nhà khoa học kiểm tra máu của những người mắc bệnh tiểu đường tuýp 1, họ có thể thấy các protein đặc biệt cho thấy hệ miễn dịch đang tấn công tuyến tụy.

Các yếu tố nguy cơ của bệnh tiểu đường tuýp 1

Chỉ khoảng 5%-10% người mắc bệnh tiểu đường thuộc tuýp 1. Các yếu tố nguy cơ của bệnh này không rõ ràng như bệnh tiểu đường tuýp 2.

Đến nay, các chuyên gia chỉ biết rằng bạn có nguy cơ cao hơn nếu bạn:

  • Dưới 20 tuổi
  • Là người da trắng
  • Có cha mẹ hoặc anh chị em mắc bệnh tiểu đường tuýp 1
  • Có cân nặng dư thừa

Chẩn đoán bệnh tiểu đường tuýp 1

Nếu bác sĩ nghĩ rằng bạn mắc bệnh tiểu đường tuýp 1, họ sẽ kiểm tra mức đường huyết của bạn. Có nhiều cách khác nhau để thực hiện việc này.

Xét nghiệm A1c: Còn được gọi là xét nghiệm hemoglobin glycated, xét nghiệm này có thể xác định mức đường huyết trung bình của bạn trong 3 tháng qua bằng một mẫu máu nhỏ. Nó làm điều này bằng cách đếm số tế bào hemoglobin (tế bào hồng cầu) có gắn glucose.

Nếu kết quả A1c của bạn là 6,5% trở lên, bạn sẽ phải làm lại xét nghiệm. Nếu kết quả vẫn ở mức này hoặc cao hơn, bạn có khả năng bị tiểu đường.

Tuy nhiên, xét nghiệm này có thể không cho kết quả chính xác nếu bạn có bất kỳ điều nào sau đây:

  • Mang thai
  • Suy thận
  • Bệnh gan
  • Thiếu máu nặng
  • Mất máu
  • Một số rối loạn máu, chẳng hạn như bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm
  • Các loại thuốc nhất định, chẳng hạn như thuốc điều trị HIV

Nếu bạn thuộc người gốc Phi, Địa Trung Hải hoặc Đông Nam Á, bạn có thể có một loại hemoglobin khác (được gọi là biến thể hemoglobin) có thể làm sai lệch kết quả A1c. Hãy cho bác sĩ biết nếu điều này áp dụng cho bạn. Nếu đúng vậy, họ có thể kiểm tra đường huyết của bạn bằng các cách khác, chẳng hạn như:

Xét nghiệm đường huyết khi đói: Trong xét nghiệm này, máu của bạn sẽ được lấy sau khi bạn không ăn qua đêm. Kết quả 126 mg/dL hoặc cao hơn trong hai xét nghiệm riêng biệt cho thấy bạn bị tiểu đường.

Xét nghiệm đường huyết ngẫu nhiên: Mức glucose trong máu của bạn cũng có thể được kiểm tra vào thời điểm ngẫu nhiên. Bất kể bạn đã ăn gần đây hay chưa, kết quả 200 mg/dL hoặc cao hơn có nghĩa là bạn bị tiểu đường.

Xét nghiệm tiểu đường tuýp 1

Các xét nghiệm trên có thể cho biết bạn có mắc bệnh tiểu đường hay không, nhưng chúng không thể xác định bạn mắc tuýp nào. Để biết bạn có mắc tiểu đường tuýp 1 hay tuýp 2, bác sĩ sẽ cần tìm các yếu tố sau:

Tự kháng thể: Đây là các protein trong hệ miễn dịch của bạn tấn công các tế bào khỏe mạnh, chẳng hạn như tế bào beta trong tuyến tụy sản xuất insulin. Nếu bạn mắc tiểu đường tuýp 1, chúng sẽ xuất hiện trong mẫu máu.

Ketones: Khi mắc tiểu đường tuýp 1, cơ thể bạn dựa vào axit gọi là ketones để làm năng lượng vì không có đủ glucose để sử dụng. Một xét nghiệm nước tiểu có thể phát hiện chúng.

Sự chênh lệch sức khỏe trong bệnh tiểu đường tuýp 1

Trên khắp Hoa Kỳ, số người mắc tiểu đường tuýp 1 đang gia tăng. Các cộng đồng người gốc Tây Ban Nha và da đen bị ảnh hưởng nhiều hơn những cộng đồng khác. Ví dụ, các nghiên cứu cho thấy nếu bạn có làn da nâu hoặc đen, việc kiểm soát đường huyết sau khi được chẩn đoán sẽ khó khăn hơn. Trẻ em da đen mắc tiểu đường tuýp 1 cũng có nguy cơ cao hơn về các biến chứng, trầm cảm và phải nằm viện.

Phân biệt chủng tộc có hệ thống đóng vai trò lớn trong việc giải thích sự bất bình đẳng này. Nhiều luật và chính sách lâu đời đã phân biệt đối xử với người da màu. Các hệ thống như chăm sóc sức khỏe cũng góp phần.

Điều trị bệnh tiểu đường tuýp 1

Bạn có thể được chẩn đoán mắc tiểu đường tuýp 1 và vẫn sống khỏe mạnh. Việc theo dõi sát sao mức đường huyết sẽ rất quan trọng. Bác sĩ sẽ cho bạn một phạm vi mục tiêu, và việc đưa ra những lựa chọn lành mạnh hàng ngày sẽ giúp bạn duy trì trong phạm vi đó. Điều quan trọng là phải biết các triệu chứng của mức đường huyết quá cao hoặc quá thấp và cách điều trị chúng.

Thuốc điều trị tiểu đường tuýp 1

Bạn sẽ cần phải sử dụng insulin hàng ngày.

Khi bác sĩ nói về insulin, họ sẽ đề cập đến ba điều chính:

  • “Thời gian khởi phát” là khoảng thời gian insulin cần để vào máu và bắt đầu hạ đường huyết.
  • “Thời gian đỉnh” là khi insulin hoạt động mạnh nhất để hạ đường huyết.
  • “Thời gian tác dụng” là thời gian insulin duy trì tác dụng sau khi khởi phát.

Có nhiều loại insulin khác nhau:

  • Insulin tác dụng nhanh bắt đầu hoạt động sau khoảng 15 phút. Nó đạt đỉnh sau khoảng 1 giờ và tiếp tục hoạt động trong 2-4 giờ.
  • Insulin tác dụng ngắn bắt đầu hoạt động sau khoảng 30 phút. Nó đạt đỉnh sau 2-3 giờ và duy trì tác dụng trong 3-6 giờ.
  • Insulin tác dụng trung bình sẽ không vào máu trong 2-4 giờ sau khi tiêm. Nó đạt đỉnh sau 4-12 giờ và duy trì tác dụng trong 12-18 giờ.
  • Insulin tác dụng dài cần vài giờ để vào hệ thống của bạn và kéo dài khoảng 24 giờ.

Cách sử dụng insulin

Insulin không có dạng viên uống, vì vậy bạn sẽ cần phải dựa vào các cách khác để đưa nó vào cơ thể:

  • Tiêm insulin: Hầu hết các mũi tiêm insulin được đựng trong một lọ thủy tinh nhỏ gọi là lọ. Bạn rút insulin ra bằng một ống tiêm có kim ở đầu và tự tiêm. Một số loại có dạng bút tiêm đã được nạp sẵn.
  • Insulin hít: Bác sĩ có thể kê đơn một loại insulin tác dụng nhanh mà bạn hít qua miệng bằng một thiết bị nhỏ. Loại này không phù hợp nếu bạn hút thuốc hoặc có vấn đề về phổi như hen suyễn.
  • Bơm insulin: Thiết bị này, bạn sẽ đeo, cung cấp các đợt nhỏ insulin vào cơ thể suốt cả ngày. Nó thực hiện điều này thông qua một ống nhỏ dưới da.

Bác sĩ sẽ giúp bạn chọn loại insulin và phương pháp tiêm phù hợp nhất.

Theo dõi đường huyết liên tục

Việc kiểm tra đường huyết suốt cả ngày sẽ giúp bạn đảm bảo rằng nó duy trì trong phạm vi mục tiêu. Lấy máu bằng cách chích ngón tay và kiểm tra mẫu máu bằng máy đo đường huyết là một cách để kiểm tra. Nhiều người cũng chọn sử dụng thiết bị theo dõi đường huyết liên tục (CGM).

Thiết bị này sử dụng một cảm biến dưới da để kiểm tra mức glucose của bạn vài phút một lần. Hầu hết các mẫu sẽ cảnh báo nếu mức glucose quá cao hoặc quá thấp để bạn có thể xử lý ngay lập tức.

Các loại thuốc khác cho bệnh tiểu đường tuýp 1

Dựa trên sức khỏe của bạn, bác sĩ có thể kê thêm:

  • Aspirin để giảm nguy cơ xảy ra sự cố tim mạch
  • Thuốc hạ cholesterol để bảo vệ tim mạch
  • Thuốc hạ huyết áp để cải thiện chức năng thận

Sống chung với bệnh tiểu đường tuýp 1

Để cảm thấy khỏe mạnh nhất, bạn nên cố gắng:

  • Ngủ đủ giấc: Điều này có thể cải thiện mức đường huyết cũng như tâm trạng của bạn. Nếu có thể, hãy đặt mục tiêu ngủ ít nhất 7 giờ mỗi đêm. Trẻ em và thanh thiếu niên sẽ cần ngủ nhiều hơn.
  • Kiểm soát căng thẳng: Rất phổ biến khi bạn cảm thấy tức giận hoặc bị áp lực khi mắc tiểu đường tuýp 1. Hãy tìm cách giảm căng thẳng lành mạnh. Nói chuyện với bạn bè, gia đình đáng tin cậy hoặc nhờ bác sĩ giới thiệu cho bạn một nhà tư vấn hoặc chuyên gia trị liệu.
  • Ngừng hút thuốc: Hút thuốc lá điện tử và nhai thuốc lá cũng là thói quen cần từ bỏ. Tất cả những thứ này đều làm hẹp mạch máu và khiến bạn có nguy cơ mắc các vấn đề sức khỏe khác. Hãy nói chuyện với bác sĩ nếu bạn chưa biết cách bỏ thuốc.

Thăm khám bác sĩ thường xuyên: Các cuộc kiểm tra sức khỏe, nha khoa và mắt định kỳ có thể giúp bạn ngăn ngừa các vấn đề hoặc điều trị chúng ngay khi chúng được phát hiện.

Tìm cách hoạt động: Cố gắng tìm một hoạt động thể chất mà bạn yêu thích. Thậm chí chăm sóc khu vườn của bạn cũng được tính. Hãy thảo luận với bác sĩ về cách cân bằng liều insulin và lượng thực phẩm bạn ăn với bất kỳ hoạt động nào bạn tham gia.

Chế độ ăn cho người mắc bệnh tiểu đường tuýp 1

Khi bạn biết cách các chất carbohydrate, chất béo và protein ảnh hưởng đến đường huyết, bạn có thể xây dựng một kế hoạch ăn uống lành mạnh giúp duy trì mức đường huyết ổn định. Nhìn chung, bạn sẽ tập trung vào việc ăn nhiều rau, trái cây và ngũ cốc nguyên hạt giàu chất dinh dưỡng, đồng thời cắt giảm carbohydrate tinh chế, như bánh mì trắng hoặc mì ống, vì chúng nhanh chóng làm tăng đường huyết.

Không có loại thực phẩm nào là hoàn toàn cấm, nhưng bạn sẽ cần giới hạn một số loại hoặc chỉ ăn những phần nhỏ hơn so với trước đây.

Chuyên gia giáo dục về bệnh tiểu đường hoặc chuyên gia dinh dưỡng có thể giúp bạn học cách đếm lượng carbohydrate trong mỗi bữa ăn và bữa ăn nhẹ. Nếu bạn không chắc chắn cách tiếp cận những chuyên gia này, hãy hỏi ý kiến bác sĩ.

Biến chứng của bệnh tiểu đường tuýp 1

Nếu không quản lý tốt đường huyết, nó có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe khác, bao gồm:

  • Nhiễm toan ceton do tiểu đường (DKA): Nếu cơ thể bạn không nhận đủ glucose để làm nhiên liệu, nó sẽ phân giải các tế bào mỡ. Quá trình này tạo ra các hóa chất gọi là ketones. Gan của bạn sẽ giải phóng đường dự trữ để hỗ trợ. Tuy nhiên, cơ thể bạn không thể sử dụng đường này nếu thiếu insulin, do đó đường sẽ tích tụ trong máu cùng với ketones có tính axit. Sự kết hợp giữa lượng đường dư thừa, mất nước và tích tụ axit này được gọi là nhiễm toan ceton, và có thể đe dọa tính mạng nếu không được điều trị kịp thời.
  • Bệnh tim mạch: Bệnh tiểu đường có thể làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông, cao huyết áp và cholesterol. Những yếu tố này có thể dẫn đến đau ngực, nhồi máu cơ tim, đột quỵ hoặc suy tim.
  • Các vấn đề về da: Bạn có nguy cơ cao hơn bị phồng rộp và phát ban, cũng như nhiễm trùng vi khuẩn hoặc nấm.
  • Bệnh nướu răng: Khô miệng, tăng mảng bám và lưu lượng máu kém có thể gây ra các vấn đề về miệng.
  • Biến chứng thai kỳ: Bệnh tiểu đường tuýp 1 làm tăng nguy cơ sinh non, dị tật bẩm sinh, thai chết lưu và tiền sản giật.
  • Bệnh võng mạc: Vấn đề về mắt này xảy ra ở khoảng 80% người lớn đã mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 hơn 15 năm. Để ngăn ngừa nó và bảo vệ thị lực của bạn, bạn cần kiểm soát tốt đường huyết, huyết áp, cholesterol và triglyceride.
  • Tổn thương thận: Khoảng 20%-30% người mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 bị tình trạng gọi là bệnh thận đái tháo đường (nephropathy). Nguy cơ này tăng lên theo thời gian và thường xuất hiện từ 15-25 năm sau khi bệnh tiểu đường khởi phát. Bệnh này có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng khác như suy thận và bệnh tim mạch.
  • Lưu thông máu kém và tổn thương thần kinh: Tổn thương thần kinh và động mạch bị xơ cứng dẫn đến mất cảm giác và thiếu máu cung cấp cho chân và bàn chân. Điều này làm tăng nguy cơ chấn thương và làm chậm quá trình chữa lành các vết loét và tổn thương. Khi điều này xảy ra, bạn có thể phải đối mặt với nguy cơ mất chi. Tổn thương thần kinh cũng có thể gây ra các vấn đề tiêu hóa như buồn nôn, nôn và tiêu chảy.

Chữa trị bệnh tiểu đường tuýp 1

Những phương pháp điều trị mới đầy triển vọng đang được phát triển, bao gồm:

  • Theo dõi đường huyết không cần chích kim: Đây vẫn là một thách thức đối với các nhà khoa học.
  • Thiết bị theo dõi ketone liên tục (CKM): Giống như thiết bị theo dõi đường huyết liên tục (CGM), thiết bị đeo này sẽ theo dõi dịch giữa các tế bào của bạn.
  • Insulin tác dụng lâu hơn: Một số loại có thể giữ mức đường huyết ổn định trong cả tuần.
  • Liệu pháp miễn dịch: Một số chuyên gia đang tìm cách “tắt” hệ miễn dịch của bạn để ngừng tấn công các tế bào sản xuất insulin trong tuyến tụy.
  • Tế bào beta “mới”: Một nghiên cứu giai đoạn đầu ở Úc đã thành công trong việc khiến các tế bào gốc tuyến tụy sản xuất insulin. Nếu quá trình thử nghiệm thành công, có thể một ngày nào đó các tế bào tuyến tụy còn lại của bạn sẽ được điều trị để bắt đầu sản xuất insulin trở lại.

Hãy theo dõi những nghiên cứu mới nhất về bệnh tiểu đường tuýp 1 thông qua các tổ chức đáng tin cậy như CDC hoặc Hiệp hội Tiểu đường Hoa Kỳ.

Kết luận

Bệnh tiểu đường tuýp 1 là một tình trạng suốt đời. Việc chẩn đoán có thể khiến bạn cảm thấy choáng ngợp, nhưng bạn có thể học cách quản lý đường huyết. Thực hiện các lựa chọn lành mạnh hàng ngày sẽ là chìa khóa để duy trì sức khỏe.

Thuốc ức chế virus HIV xâm nhập (Entry inhibitors)

Có 3 bước chủ yếu giúp HIV xâm nhập vào tế bào CD4 :

  1. HIV gắn vào receptor của tế bào CD4,
  1. Gắn với đồng thụ thể, và cuối cùng là:
  1. Hòa nhập virus với tế bào.

Về mặt lý thuyết, mỗi bước nói trên của quá trình HIV xâm nhập đều có thể bị ức chế. Tất cả các nhóm thuốc cụ thể như thuốc ức chế gắn virus, đối kháng coreceptor và ức chế hòa màng hiện nay đều được tóm gọn chung là thuốc ức chế xâm nhập (xem chương sau). Vào năm 2003, T-20 – thuốc đầu tiên của nhóm này đã được cấp phép.

T-20 (Enfurvitide, Fuzeon) là mẫu đầu tiên trong nhóm thuốc ức chế hòa màng. T-20 được cấp phép ở châu Âu và Mỹ từ tháng 5 năm 2003 để điều trị nhiễm HIV-1 ở những bệnh nhân người lớn và trẻ em trên 6 tuổi đã từng điều trị ARV. Nên điều trị bệnh nhân trong khuôn khổ các nghiên cứu lâm sàng để thu lượm được thêm nhiều kinh nghiệm lâm sàng về loại thuốc mới này. Vì thuốc là một peptid tương đối lớn với 36 acid amin, nó cần được chỉ định tiêm dưới da (Xem: Oldfield 2005). Nó gắn với cấu trúc trung gian gp41-protein của HIV, cấu trúc này xuất hiện trong quá trình HIV hợp nhất vào tế bào đích.

Ban đầu các bệnh nhân có HIV đã được dùng T-20 đơn trị đường tiêm tĩnh mạch và tải lượng virus giảm phụ thuộc vào liều dùng, vào khoảng 1.6-2 log (Kilby 1998+2002). Những nghiên cứu đầu tiên về đường tiêm dưới da cũng cho thấy hiệu quả sau 48 tuần; tuy nhiên những bệnh nhân này cũng được uống thêm các thuốc mới khiến đáp ứng tốt hơn (Lalezari 2000 + 2002).

Hai nghiên cứu pha III đã dẫn tới việc cấp phép cho T-20. TORO 1 (“T-20 versus Optimized Regimen Only”) đã thu nhận 491 bệnh nhân có tiền sử điều trị nhiều thuốc ở nhiều nơi thuộc Bắc Mỹ và Nam Mỹ, phần lớn đều có virus đa kháng. Trong nghiên cứu TORO 2, 504 bệnh nhân ở châu Âu và Úc được thu nhận. Trong cả hai nghiên cứu các bệnh nhân đều được điều trị công thức HAART tối ưu, một số được dùng 90 mg T-20 tiêm dưới da ngày 2 lần, số khác không được dùng (Lalezari 2003, Lazzarin 2003).

Trong nghiên cứu TORO-1, nhóm dùng T- 20 thì mức giảm tải lượng virus sau 48 tuần là 0.94 logs; trong nghiên cứu TORO-2 thì mức giảm là 0.78 logs (Nelson 2005). Kết quả còn tốt hơn khi T-20 được phối hợp với các thuốc PI mới là darunavir và tipranavir. Trong các nghiên cứu RESIST và POWER, tỷ lệ đáp ứng với các thuốc đó tăng lên đáng kể khi có T-20 (Youle 2006). Tuy nhiên điều này không đúng trong nghiên cứu MOTIVATE với thuốc ức chế đồng thụ thể maraviroc (Nelson 2007, Lalezari 2007).

Sự thành công của liệu pháp T-20 cần phải theo dõi từ rất sớm. Bệnh nhân nếu không giảm tải lượng virus ít nhất 1 log sau 8-12 tuần sẽ ít có được lợi ích từ T-20 (Raffi 2006), và có thể từ bỏ việc tiêm ngày 2 lần. Cũng không khuyến cáo tiêm liều gấp đôi T-20 ngày 1 lần: mặc dù dùng liều 1 x 180 mg là tương đương về sinh học với liều chuẩn 2 x 90mg (theo dõi bằng AUC), các nghiên cứu hiện nay chỉ ra rằng liều đơn 180mg có xu hướng giảm tải lượng virus kém hơn bởi nồng độ tối thiểu trong huyết tương kém hơn (Thompson 2006).

Có một sự cố được phát hiện trong nghiên cứu TORO, đó là sự gia tăng tỷ lệ về bệnh lý hạch và viêm phổi vi khuẩn khi điều trị T-20 (6.7 so với 0.6/100 bệnh nhân năm) (Trottier 2005). Nhiễm khuẩn huyết cũng xảy ra nhiều hơn khi dùng T-20, nhưng sự khác biệt không rõ ràng. Căng nguyên làm tăng tỷ lệ nhiễm khuẩn vẫn còn chưa sáng tỏ, nhưng người ta nghi ngờ do T-20 gắn vào bạch cầu hạt. Tác dụng phụ là có tồn tại và gần như khó tránh khỏi (98 % trong nghiên cứu TORO 1/2), và phản ứng da nặng tại nơi tiêm đôi khi xảy ra. Biến chứng này có thể  rất đau và thường phải ngừng điều trị: 4.4% số ca trong nghiên cứu TORO. Với kinh nghiệm điều trị hàng ngày của chúng tôi thì tỷ lệ phải ngừng điều trị do tác dụng phụ ở da còn cao hơn. Sau một thời gian nhất định, nhiều bệnh nhân từ chối tiếp tục điều trị T-20 hoặc   phải bắt đầu liệu trình điều trị ngắt đoạn. Các phản ứng tại chỗ (xem mục “Tác dụng phụ”) có thể giảm bớt nhờ sử dụng bơm sinh học mà nhờ đó T-20 được ép qua da (Harris 2006).

Các đột biến dẫn đến kháng T-20 xảy ra khá nhanh và thường gây giảm sức sống của virus. (Lu 2002, Menzo 2004). Ái tính thụ thể của virus có vẻ ít ý nghĩa như quan niệm ban đầu. Có nhiều thay đổi hơn ở chuỗi trình tự ngắn của gen gp41 làm giảm tính nhạy cảm với T-20; và điều này chỉ cần một vị trí đột biến (Mink 2005, Melby 2006).

Tuy nhiên những virus kháng với HAART quy chuẩn (NRTI, NNRTI, PI) thì đều nhạy (Greenberg 2003). Bởi vì T-20 là một peptid lớn nên nó tạo ra kháng thể. Tuy vậy điều này không làm giảm hiệu lực của thuốc (Walmsley 2003). Thực tế trong nghiên cứu TDM thấy có sự khác biệt rất lớn giữa các cá thể và cũng rất hay đo thấy nồng độ rất thấp của thuốc trong huyết tương (Stocker 2006).

Tóm lại, nếu bệnh nhân có thể kiểm soát tốt tải lượng virus hoặc vẫn còn có lựa chọn dùng HAART “cổ điển” thì không khuyến cáo dùng T-20. Với điều trị cứu cánh thì thuốc này vẫn còn giá trị. Có thể cân nhắc dùng thuốc để tăng cường cho HAART và làm loại bỏ nguồn virus tiềm tàng (Lehrmann 2005, Molby 2006).  Giá thành vẫn là một điểm yếu của T-20.

Công ty dược thì tuyên bố: đây là loại thuốc phức tạp nhất mà họ từng sản xuất, khiến giá thành của HAART tăng gấp đôi. Điều này có vẻ khó thay đổi được ngay cả khi có sự cải tiến trong công thức thuốc – công ty sản xuất đang tìm cách cải tiến dạng trình bày của T-20 để có thể dùng với liều hàng tuần.

Châm cứu chữa chứng tích tụ

Tích tụ là một chứng mà trong bụng bị kết thành khối đau hoặc không đau.

Nội kinh viết: Tích thuộc âm khí, tụ thuộc dương khí. Khí tích lại gọi là tích, khí tụ lại gọi là tụ.

Tích là chứng mà cục u cố định không thay đổi chỗ đau cũng có nói rõ ràng.

Tụ là bệnh chứng mà cục u tích tán vô thường, đau không định chỗ. Sách Trương thị y thông viết: “Tích là ngũ tạng sinh ra, bệnh phát có chỗ, sự đau không rời chỗ bệnh, trên dưới phải trái đều có chỗ cùng tận của nó. Tụ là do lục phủ tạo thành, khi nó phát ra thì không có gốc rễ nhất định, thượng hạ không biết nơi đâu, sự đau đớn cũng không định nơi”

Tích là bệnh hữu hình, bệnh ở tại huyết phận, bệnh tình thường là nặng. Tụ là bệnh vô hình, bệnh ở tại khí phận, bệnh tình thường là nhẹ. Nguyên nhân tổng quát gây bệnh là do thất tình bị uất kết, khí trệ, huyết ứ, hoặc do ăn uống làm nội thương, đàm thấp, giao kết, hoặc do hàn nhiệt mất đi sự điều hoà, chính khí, hư khí và tà khí kết lại mà thành/

Cổ nhân có thuyết ngũ tích lục tục. Sách Chư bệnh nguyên hậu luận nói đến thất (7) trưng, bát (8) hà Chữ trưng có nghĩa là bệnh hữu hình, chứng tích lại một nơi không di dịch. Hà có nghĩa là giả mượn vật khác để tạo nên mình, tụ tán vô thường. Kỳ thực, trưng hay hà cũng chỉ là tích tụ mà thôi. Nhưng tích tụ chỉ bệnh sinh ra ở đàn ông còn trưng hà là chỉ bệnh sinh ra ở đàn bà. Tích tụ thường sinh ra ở trung tiêu, trưng hà thường sinh ra ở hạ tiêu.

TRỊ LIỆU

+ Chứng trạng: Lấy sự kết khối ở bụng và hông sườn làm chủ chứng. Tích thì hữu hình, cố định không di dịch; còn tụ thì vô hình, khi có khi không có, thường kèm theo chứng kém ăn uống, làm việc khó khăn, vùng bụng bị đau,

Do Trương Lộ đời Thanh soạn gồm 16 quyển, tập trung tất cả các phương luận xưa nay theo môn loại…

Do Sào Nguyên Phương đời Tùy soạn gồm 50 quyển. Có thuyết cho rằng ông phụng chiếu sinh ra, nhưng đồng thời Tuỳ Tuỳ thư Kinh – tịch chí lại ghi có sách này ghi là Ngô cảnh Hiền soạn… đây là vấn đề cần nghiên cứu thêm, nó không nằm trong phạm vi sách này.

mệt mỏi, lười vận động… Tuy nhiên, về hình trạng và vị trí của tích và tụ nơi mỗi người bệnh lại không giống nhau: Có khi giống như cái gì treo dưới tâm; có khi nằm giữa bụng; có khí nằm ở trên rốn như cái trứng, hoặc có hình như cánh tay; hoặc hiện dưới rốn như nắm tay, cứng, đè xuống thấy đau; có khi hiện ra hai bên rốn như cái nấm.

+ Phép trị : Nếu tích thì nên làm tiêu đi các khối hữu hình, tụ thì nên điều hoà cái khí vô hình. Bệnh mới bắt đầu, trước hết nên công, tả, sau đó nên thực hiện cả bổ lẫn tả. Chúng ta còn phải xem tình trạng thân thể của bệnh nhân mạnh hay yếu. Nếu là tráng kiện thì trước nên công tả, sau nên bổ chính, nếu là ôm yêu thì nên tiền bổ hậu tả, hoặc trước hết nên tả nhẹ sau lại đại bổ, bổ xong rồi lại tả, tả rồi lại bổ. Nếu như khối u tiêu được phân nửa có thể dừng châm. Sau đó nên tìm cách điều hòa trung khí, dưỡng vị khí, bồi bổ nguyên khí, như vậy khối u sẽ tan dần.

+ Xử phương và phép châm cứu

Châm bổ bách hội 2 phân; châm tả phong phủ 3 phân; tả phong trì 3 phân; tả phê đu 3 phân; châm cao hoang du 3 phân cứu 3 tráng, bổ nội quan huyệt 5 phân, cứu 3 tráng; bổ tam tiêu du 3 phân, cứu 3 tráng; tả đại trường du 4 phân, tả tiểu trường du 4 phân; bổ tỳ du 3 phân, vị dư 3 phân; châm xích trạch, thượng quản 5 phân cả bổ lẫn tả; tả a thị huyệt 1 thôn, sau khi rút kim cứu 5 tráng; châm hợp cốc 5 phân cả bổ lẫn tả; châm trung quản, thượng quản 5 phân, tiền bổ hậu tả, cứu 3 tráng; châm túc tam lý 3 phân cả bổ lần tả; châm bổ quan nguyên, khí hải đều 5 phân, cứu 5 tráng. Sau khi châm dùng cứu.

Các huyệt trên đây nên căn cứ vào bệnh tình mà chia nhóm để châm thay nhau, cách hai ngày thì châm các huyệt ở đầu một lần, mỗi lần từ một đến hai huyệt để phối hợp với các huyệt khác. Nếu đá châm động có thể làm tả (đại tiện) thì cứ cách ngày mới châm đại trường du. Nếu tiểu tiện trong và dài không nên châm tiểu trường du.

Nếu tích trệ đã theo đường đại tiện tả ra ngoài thì đó là bệnh hướng về con đường khỏi bệnh. Nếu khỏe được, nên bổ đơn điền. Sau khi châm trung quản, nên cứu 5 tráng, bệnh sẽ hết dần.

CẤM KỴ

Cấm uất nộ, giận dữ, cấm giao hợp, không nên ăn thức ăn ngọt, dầu mỡ, sông, lạnh, cay… chỉ ãn những món ăn bình đạm để điều dưỡng bệnh.

GHI CHÚ

Nếu bệnh nổi lên ở hai bên rốn nơi huyệt thiên khu, không nên châm mà chỉ được cứu.

Khi nói “Xích trạch kiêm thông quan” hoặc “Trung quản kiêm thông quan” có nghĩa là châm vào hai huyệt nằm cách xích trạch hoặc trung quản 5 phân (mỗi bên một huyệt). Châm huyệt này trị được những chứng thuộc vị quản rất hay.

Y ÁN

Thí dụ 1: Chứng tụ

Cô Hạ… 31 tuổi, làm ruộng, đến khám 10/4….

Khám lần 1: Bụng trên của bệnh nhân bị trướng mãn, bụng dưới bị đau, tự cảm thấy có một khối bên trong, lúc có lúc không, hai bên hông sườn bị trướng mãn, khi đau khi dứt, không muốn ăn cơm, nuốt nước chua hôi hơn một tháng, khám thấy mạch huyền. Đây là chứng can uất khí trệ, vị khí bị mất đi tính hoà và giáng.

+ Phép trị: Thư can, hoà vị.

+ Xử phương: Châm trung quản, thượng quản, khí hải và túc tam lý đều 8 phân, cứu 3 tráng, tiền tả hậu bổ; châm tả can du, thái xung đều 2 phân.

Khám lần 2 (ngày 13 tháng 4): sau khi châm các chứng bụng đau và trướng mãn giảm nhiều, thèm ăn đôi chút, hai bên hông sườn giảm đau rõ rệt.

Khám thấy bên phải của bụng dưới như có hình khối, tiểu tiện bất lợi.

+ Xử phương: Châm trung quản, khí hải, túc tam lý, đại cự hư, tỳ du đều 5 phân, tiền tả hậu bổ, cứu 3 tráng; châm bổ thận du, tiểu trường du đều 5 phân.

thêm Tiêu dao tán gia vị :
Đương quy (10 gr) Bạch thược (9gr)
Sài hồ (9 gr) Phục linh (10 gr)
Cam thảo (3 gr) Hậu phác (9 gr)
Sa nhân (6gr) Xa tiền tử (9gr)
Diên hồ sách (9gr) Bạch truật (9 gr)
Uất kim (10 gr)

sắc uống với nước, mỗi ngày uống 1 thang, uống hai thang để trợ cho việc trị liệu.

Khám lần 3 (15 tháng 4): Bệnh nhân bị ngoại cảm, toàn thân đau nhức, bị nấc.

+ Xử phương: Châm bổ bách hội 3 phân; châm tả phong trì 5 phân; châm bổ trung quản, khí hải đều 5 phân; tả hợp cốc 5 phân, cứu 5 tráng, lưu kim 10 phút.

Khám lần 4 (18 tháng 4): đau ở vùng dạ dày đã dứt, chứng trướng mãn giảm nhẹ, khối u ở bụng dưới đã tiêu, tiểu tiện trở lại bình thường.

+ Xử phương: Châm nội quan 3 phân tiền bổ hậu tả; châm họp cốc 5 phân, tiền tả hậu bổ; bổ bách hội 3 phân; tả phong trì 3 phân; châm hạ quản, túc tam lý đều 5 phân, cứu 3 tráng.

Khám lần 5 (20 tháng 4): hôm nay cô lại cảm phong hàn, thêm nữa tình chí cô không thư thả, đau hai bên hông sườn lại nặng thêm, vùng bụng bị trướng mãn, không muốn ăn uống.

+ Xử phương : Tả kỳ môn 3 phân, dương lăng tuyền 5 phân, can du 3 phân; bổ tỳ du 3 phân, trung quản 5 phân, khí hải 1 thôn; tất cả đều cứu 5 tráng.

Dựa theo phép trên để gia giảm châm cứu năm lần nữa, bệnh dứt.

Thí dụ 2 : Chứng tích

Cô Quách … 30 tuổi, nông dán,đến khám 23-1…

Khám lần đầu: Mây năm trước đây bệnh nhân đã có bệnh tích khối ở vùng bụng dưới, châm cứu trị liệu cũng mang lại kết quả tốt, sau đó cô không kiên trì theo đuổi việc trị liệu. Mùa thu năm ngoái bệnh tình nặng thêm, nên đến khám. Khi khám thấy ở vùng bụng dưới có khối u to bằng nắm tay, cứng và làm cho đau quanh vùng rốn. Bụng dưới bị trướng mãn, ăn uống ít, bạch đới ra liên miên không dứt, ra rất nhiều. Tinh thần mệt mỏi, hình dáng gầy yếu, mạch trầm thực. Đây là chứng thuộc tỳ hư đàm bị ngưng kết, khí trệ huyết ứ.

+ Phép trị: Kiện tỳ, hành khí, hoạt huyết thông lạc, phù chính khử tà.

+ Xử phương : Châm bổ bách hội 2 phân; tả phong trì 3 phân; cứu cao hoang du và tỳ du 3 tráng; bổ khí hải, quan nguyên đều 5 phân; châm bổ đới mạch 5 phần, cứu 5 tráng; cứu thiên khu 5 tráng; bổ trung quản 5 phân, cứu 3 tráng; châm tam âm giao 5 phân tiền bổ hậu tả, cứu 3 tráng, lưu kim 15 phút.

Khám lần 2 (26 tháng 1): Chứng bạch đới và đau bụng đều giảm nhẹ, khối u ở bụng hơi mềm.

+ Xử phương : Châm ngoại lăng 1 thôn, khí hải 1 thôn tiền bổ hậu tả và đều cứu 5 tráng, cứu thần khuyết và thiên khu đều 5 tráng, châm đới mạch và tam âm giao đều 5 phân bình bổ bình tả, cứu 5 tráng.

Khám lần 3 (29 tháng 1) : Chứng đau bụng đã dứt, bạch đới còn ít, khối u mềm và nhỏ hơn.

+ Xử phương : Châm bổ trung quản, khí hải, túc tam lý đều 5 phân, cứu 3 tráng, tả đại trường du 3 phân; cứu thiên khu 3 tráng, lưu kim 20 phút.

Theo phép trên châm gia giảm được 8 lần, khối u tiêu mất và bệnh khỏi.

Thí dụ 3 : Chứng tích

Cô Vương … 24 tuổi, công nhân, đến khám ngày 24 tháng 2 năm …

Khám lần 1: Vùng quanh rốn và bụng dưới kết khối to, cứng và đau, thường cảm thấy như nhảy động, mệt mỏi, ăn uống giảm bớt, chứng cốt chưng phát sốt, từng chữa bằng Tây y nhưng ít kết quả, xin dùng châm cứu trị liệu. Đây là chứng thuộc khi kết huyết ứ.

+ Phép trị: hoạt huyết hoá ứ, kiện tỳ hoà vị.

+ Xử phương: Châm bổ bách hội sâu 3 phân; châm tả phong trì 5 phân, thái dương 5 phân, nội quan 5 phân; châm trung quản 5 phân, cứu 5 tráng; châm khí hải 1 thốn, châm bổ và cứu 5 tráng, lưu kim 10 phút; cứu thiên khu, thần khuyết đều 5 tráng.

Khám lần 2 (28 tháng 2): Sau khi châm lần trước, ăn nhiều hơn, đau nhức đã bớt nhiều.

+ Xử phương : Châm bổ trung quản, khí hải đều 5 phân, cứu 5 tráng, tả túc tam lý 5 phân, cứu 5 tráng. Theo phép trên đây thay nhau châm, châm được 8 lần thì các chứng đều khỏi.

Thí dụ 4 : Chứng trưng tích

Bà Lý Thị T … 65 tuổi, làm ruộng, đến khám 20-4…

Khám lần 1: Ngay tại chỗ vùng trên rốn có kết thành một khối như nắm tay, chạm vào thấy cứng, đè xuống thấy đau, khó thở, bụng trướng, ngày khó ăn, đêm khó ngủ, chữa nhiều nơi nhưng không kết quả, muốn được châm cứu trị liệu. Đây thuộc chứng khí kết, huyết ứ.

+ Xử phương : Châm tả thượng quản, trung quản, lương môn đều 5 phân; châm khí hải 1 thốn cả bổ lẫn tả; tả túc tam lý 1 thốn.

Khám lần 2 (23 tháng 4): Sau châm lần trước đã giảm được đau ở vùng dạ dày, nhưng khó thở thì vẫn như cũ.

+ Xử phương : Châm thiên đột (bình thích) 5 phân, châm xích trạch 5 phân, cả hai đều cả bổ lẫn tả; bổ thân trụ 3 phân; châm nội quan 3 phân, linh đài 3 phân, cả hai đều bình bổ bình tả; châm thượng quản, trung quản đều 5 phân, tiền tả hậu bổ, cứu 3 tráng.

Khám lần 3 (26 tháng 4) : Chứng suyễn tức khá ổn, ngủ ngon hơn, khối u ở vùng dạ dày đã tiêu nhỏ.

+ Xử phương : Châm bổ trung quản, khí hải đều 5 phân, cứu 3 tráng, tả túc tam lý 8 phân.

Khám lần 6 (15 tháng 5): Sau lần khám bốn và năm đau nhức giảm, chứng trướng tiêu dần, ăn uống khá.

+Xử phương : Châm nội quan 5 phân, bình bổ bình tả; tả thượng quản 5 phân, cứu 3 tráng; cứu trung quản 3 tráng; châm túc tam lý 8 phân, tiền bổ hậu tả, cứu 5 tráng; tả công tôn 5 phân, lưu kim 15 phút.

Khám lần 7 (19 tháng 5): Sau khi châm cứu khôi u ử bụng trên tiêu mất, sự đau nhức giảm nhiều, chứng trướng mãn cũng tiêu nhưng thỉnh thoảng hơi đau nhẹ.

+Xử phương: Châm trung quản, thượng quản, lương môn, khí hải, túc tam lý, tất cả đều sâu 5 phân, bình bổ bình tả, cứu 3 tráng, lưu kim 20 phút. Sau đó các chứng đều khỏi, ăn uống nhiều thêm.

Vacxin phòng bệnh Hemophilus Influenza – HIB

Đại cương về bệnh do hemophilus influenza

Bệnh do H.influenzae.b rất thường gặp ở nước ta. Vi khuẩn gây bệnh có 6 tip huyết thanh từ týp a đên týp f, nhưng tip hay gây bệnh nhất cho người là tip B. Vi khuẩn thường gây bệnh cho trẻ em dưới 18 tháng tuổi. Bệnh cảnh lâm sàng phổ biến là viêm màng não mủ. Tỷ lệ tử vong của bệnh chiếm khoảng 5% và khoảng 15% trẻ mắc bệnh có thể qua khỏi, nhưng có di chứng như điếc và rối loạn tâm thần. Hib cũng còn có thể gây ra viêm nắp thanh thiệt, viêm tế bào, viêm khớp và viêm phổi.  Trong trường hợp có dịch ở một cộng đồng trẻ con, nên tiêm rifampicin 20mg/kg/ngày trong 4 ngày. Vacxin HIB bảo vệ trẻ con có nguy cơ cao (vườn trẻ, trẻ không có lách v.v…). Tiêm chủng đã làm giảm đáng kể tần suất mắc viêm màng não ở trẻ dưới 3 tuổi.

Xem thêm về bệnh do Hemophilus Influenza

Vacxin Haemophilus influenza

Act-HIB

  • Tên chung: Naccinhaemophilus influenza
  • Tên thương mại:Act-HIB
  • Nơi sản xuất:Pasteur Merieux Connaught – Pháp
  • Thời gian bảo vệ :5-7 năm
  • Tác dụng phụ:

Không có phản ứng tại chỗ hoặc toàn thân nặng. Khoảng 5% thấy khó chịu hoặc viêm chỗ tiêm

Có thể có sốt hoặc phản ứng tại chỗ nhẹ Khoảng 2% trường hợp xuất hiện sốt.

Tiêm Vacxin Act-HIB đồng thời với Vacxin DTP hoặc DTP Polio của Pasteur Merieux Connaught không làm tăng phản ứng phụ so với khi tiêm riêng DTP hoặc DTP Polio

  • Chống chỉ định:

Các trường hợp mẫn cảm với bất cứ thành phần nào của Vacxin, đặc biệt là protein uốn ván.

Không tiêm khi có sốt hoặc bệnh nhiễm khuẩn cấp tính.

Thận trọng đối với phụ nữ có thai và cho con bú.

  • Lịch tiêm:

Tiêm cho trẻ từ 2 tháng tuổi, liều 0,5ml. Tiêm dưới da hoặc tiêm bắp thịt. Trẻ dưới 2 tuổi thì tiêm vào mặt trước ngoài của đùi (vị trí 1/3 giữa). Trẻ từ 2 tuổi trở lên tiêm vào vùng cơ delta.

  1. Trẻ dưới 6 tháng tuổi: tiêm 3 liều mỗi liều cách nhau 1- 2 tháng, 1 năm sau tiêm nhắc lại mũi thứ 4
  2. Trẻ từ 6 – 12 tháng tuổi: tiêm 2 liều cách nhau 1 tháng, liều tiêm nhắc lại khi trẻ được 18 tháng tuổi
  3. Trẻ từ 1 – 5 tuổi: tiêm 1 liều duy nhất

Nếu tiêm Act-HIB cùng lúc với Vacxin phòng sởi, quai bị, rubella thì phải tiêm ở vị trí khác

Hiberix

  • Tên chung:Vacxin haemophilus influenzae
  • Tên thương mại:Hiberix
  • Nơi sản xuất: GlaxoSmithKline Biologicals S.A – Bỉ
  • Thời gian bảo vệ:

Sau khi tiêm 3 liều cơ bản Hiberix, có trên 97,6% đạt nồng độ anti-PRP lớn hơn hoặc bằng 0,15 pg/ml, do đó Vacxin có thời gian bảo vệ kéo dài trong nhiều năm.

  • Tác dụng phụ:

Các triệu chứng tại chỗ xuất hiện trong vòng 48 giờ: đỏ nhẹ, sưng, đau tại chỗ tiêm

Các triệu chứng toàn thân xuất hiện trong vòng 48 giò đều nhẹ và tự mất đi: sốt, ăn mất ngon, khó chịu, nôn, tiêu chảy, khóc bất thường.

  • Chống chỉ định:

Không tiêm vào mạch máu để tránh sốc phản vệ

Bệnh cấp tính có sốt

Mẫn cảm với các thành phần của Vacxin

Cũng như tất cả các trường hợp tiêm vacxin khác, cần phải chuẩn bị sẵn sàng chống sốc. Trẻ sau khi tiêm phải được theo dõi tại cơ sở y tế trong 30 phút.

Chú ý

Không có chống chỉ định tiêm Vacxin này cho người nhiễm HIV

Hiberix có thể được tiêm đồng thòi hoặc trước hoặc sau khi sử dụng các Vacxin sống giảm độc lực hoặc Vacxin bất hoạt khác(trừ Vacxin Sabin)

Các Vacxin khác nhau phải tiêm ở những vị trí khác nhau

Cũng như với các Vacxin khác, ở những bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch hoặc bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch thì có thể không đạt được đáp ứng miễn dịch tốt

Không trộn Hiberix với các Vacxin khác trong cùng một bơm tiêm, trừ các trường hợp được nhà sản xuất khuyên cáo.

  • Lịch tiêm:

Liều 0,5ml, tiêm bắp thịt. Nên tiêm dưới da đốì với các trường hợp rối loạn đông máu.

Gây miễn dịch cơ bản: Tiêm 3 liều trong vòng 6 tháng tuổi đầu tiên. Mũi tiêm đầu tiên khi trẻ được 2 tháng tuổi

Liều nhắc lại: tiêm vào lúc trẻ được 2 tuổi