U mỡ là một khối mỡ phát triển trong các mô mềm của cơ thể bạn. Mặc dù nó được phân loại là một khối u, nhưng thường thì nó vô hại.
U mỡ là khối u phổ biến nhất hình thành dưới da của bạn. Khoảng 1 trong mỗi 1.000 người sẽ có một khối u nào đó trong một thời điểm nào đó. Bạn thường tìm thấy chúng ở phần thân trên, cánh tay hoặc đùi.
Chúng thường xuất hiện dưới dạng các khối nhỏ, mềm. Chúng thường có kích thước dưới 2 inch (5 cm). Bạn có thể có nhiều hơn một khối u.
Khi bạn ấn vào u mỡ, nó có thể cảm giác như bột. Nó sẽ di chuyển dễ dàng với áp lực của ngón tay. Chúng thường không đau, nhưng có thể gây đau nếu chúng va chạm vào các dây thần kinh gần đó hoặc có mạch máu chạy qua. Dưới đây là một số đặc điểm của một u mỡ điển hình:
Nằm dưới da: U mỡ có thể xuất hiện ở bất kỳ đâu trên cơ thể nơi có mỡ, nhưng thường thấy ở vai, ngực, lưng, bụng, cánh tay và đôi khi là chân.
Mềm và nhỏ: Chúng thường xuất hiện dưới dạng các khối nhỏ, mềm. Chúng thường có kích thước dưới 2 inch (5 cm). Bạn có thể có nhiều hơn một khối u.
Cảm giác như bột và dễ trượt: Khi bạn ấn vào u mỡ, nó có thể cảm giác như bột. Nó sẽ di chuyển dễ dàng với áp lực của ngón tay.
Thường không đau: Chúng thường không gây đau, nhưng có thể gây đau nếu chúng va chạm vào các dây thần kinh gần đó hoặc có mạch máu chạy qua.
Giữ nguyên vị trí: Chúng có một lớp phủ mỏng, sợi và không lan rộng đến các mô xung quanh.
Tăng trưởng chậm: Chúng phát triển chậm và sẽ ngừng phát triển sau một thời gian.
Vị trí của u mỡ
Bạn có thể tìm thấy một u mỡ ở bất kỳ phần nào trên cơ thể của bạn, nhưng nó ít có khả năng phát triển trong các cơ, cơ quan nội tạng hoặc não.
U mỡ thường hình thành dưới da ở các vùng sau:
Vai
Ngực
Lưng
Bụng
Cánh tay
Chân
Hầu hết mọi người sẽ có một u mỡ, nhưng khoảng 5%-10% số người có u mỡ có nhiều hơn một khối u.
Các loại u mỡ
Mặc dù tất cả các u mỡ đều có mỡ trong chúng, nhưng chúng có sự khác biệt tùy thuộc vào:
Loại mỡ nào có trong chúng
Liệu chúng có mạch máu trong chúng hay không
Nơi chúng được đặt
Các loại u mỡ:
U mỡ thông thường: U mỡ này có các tế bào mỡ trắng (các tế bào lưu trữ và giải phóng năng lượng) trong chúng. Đây là loại u mỡ phổ biến nhất.
U mỡ tế bào hình trụ: Loại này có các tế bào mỡ dài và mảnh.
U mỡ cơ: Những u này nằm trong các cơ và hiếm gặp.
U mỡ mạch: U mỡ này có các tế bào mỡ và mạch máu trong đó. Loại này chiếm 5%-17% tổng số u mỡ.
U mỡ ngủ đông: U mỡ này có các tế bào mỡ nâu (các tế bào tạo ra nhiệt và điều chỉnh nhiệt độ cơ thể). Chúng hiếm gặp.
Các loại u mỡ khác:
Fibrolipoma
Myelolipoma
Pleomorphic
U mỡ trong cơ
U mỡ quanh xương hoặc dưới xương
U mỡ nhánh
U mỡ trong sọ
Nguyên nhân gây u mỡ
Chưa rõ nguyên nhân gây ra u mỡ. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng:
Phụ nữ và đàn ông trung niên có xu hướng bị chúng nhiều hơn.
Chúng thường di truyền trong gia đình.
Chúng thường xuất hiện sau một chấn thương, mặc dù các bác sĩ không biết liệu điều đó có làm cho chúng hình thành hay không.
U mỡ cũng có thể xuất hiện như một triệu chứng của một số bệnh hiếm gặp. Những bệnh này bao gồm:
Bệnh Dercum: Rối loạn hiếm gặp này gây ra nhiều u mỡ đau đớn phát triển ở nhiều bộ phận cơ thể như cánh tay trên, chân, thân và các cơ.
Hội chứng Gardner: Rối loạn hiếm gặp này chạy trong gia đình gây ra u mỡ phát triển ở nhiều vùng trên cơ thể, chẳng hạn như dạ dày.
Bệnh Madelung: Tình trạng hiếm gặp này gây ra u mỡ xuất hiện ở cổ, cánh tay trên, vai, thân, hông và đùi. Nó thường xảy ra ở những người được xác định là nam sinh vào khoảng 30-70 tuổi, những người tiêu thụ hoặc từng tiêu thụ quá nhiều rượu. Nó cũng có thể xảy ra ở những người được xác định là nữ sinh mà không uống rượu.
Bệnh di truyền nhiều u mỡ: Tình trạng này gây ra u mỡ không đau phát triển trên thân, cánh tay và chân. Nó di truyền trong gia đình và còn được gọi là u mỡ nhiều di truyền.
U mỡ phổ biến như thế nào?
U mỡ rất phổ biến. Khoảng 1 trong mỗi 1.000 người sẽ có một u mỡ vào một thời điểm nào đó. Đây là khối u phổ biến nhất hình thành dưới da của bạn.
Khi nào cần gọi bác sĩ
Nếu bạn nhận thấy một khối u hoặc sưng ở cơ thể mình, hãy để bác sĩ kiểm tra. Họ có thể cho bạn biết liệu đó có phải là một u mỡ vô hại hay điều gì đó cần phải kiểm tra thêm.
U mỡ có thể hình thành bên trong các cơ hoặc các cơ quan nội tạng, nhưng điều này không thường xảy ra. Nếu một u mỡ gây đau hoặc ảnh hưởng đến cơ bắp của bạn, bạn có thể cần phải loại bỏ nó.
Mặc dù hiếm, nhưng một khối u có thể là một loại ung thư gọi là u mỡ ác tính, loại này phát triển nhanh chóng và có thể gây đau. Nếu bác sĩ của bạn nghĩ rằng bạn có thể mắc tình trạng này, họ sẽ đề nghị kiểm tra thêm.
Chẩn Đoán U Mỡ
U mỡ thường có thể được chẩn đoán qua một cuộc khám thể chất. Nhưng bạn có thể cần thực hiện một sinh thiết, trong đó một mẫu mô nhỏ được lấy ra và xem dưới kính hiển vi, để xác nhận chẩn đoán. Các xét nghiệm như X-quang, CT scan và MRI cũng có thể cung cấp hình ảnh rõ ràng hơn.
Siêu Âm U Mỡ
Một siêu âm có thể giúp bác sĩ xác nhận:
Nếu khối phát triển dưới da của bạn là một u mỡ
Kích thước và độ sâu của u mỡ
Nếu u mỡ có bất kỳ đặc điểm nào gợi ý rằng nó không phải là một khối u lành tính hoặc bình thường
U Mỡ so với U Mỡ Ác Tính
U mỡ ác tính là một loại ung thư hiếm gặp bắt đầu từ các tế bào mỡ. Nó thường không gây ra triệu chứng, nhưng bạn có thể thấy một cục u không đau dưới da. Sau đó, cục u này có thể trở nên đau và bạn có thể nhận thấy sưng và tê xung quanh. Tình trạng này có thể đe dọa đến tính mạng. Bác sĩ có thể loại bỏ cục u bằng phẫu thuật và sau đó điều trị bằng xạ trị hoặc hóa trị. Hãy gặp bác sĩ nếu bạn nhận thấy bất kỳ cục u nào trên cơ thể của mình, và họ có thể cho bạn biết liệu chúng có vô hại hay cần điều trị.
Ngược lại, một u mỡ là một khối mỡ thường ngừng phát triển tại một điểm và không gây ra triệu chứng nào khác. Nó thường không cần điều trị trừ khi nó thay đổi hình dạng của khu vực hoặc trở nên đau đớn.
U Mỡ so với Nang
Giống như u mỡ, nang là những khối dưới da có thể xuất hiện trên mặt, cổ, thân hoặc các bộ phận khác của cơ thể. Nhưng những khối này có chứa dịch, không khí hoặc mủ và có thể mở ra với một đầu đen nhỏ. Chúng có thể cảm thấy sưng và nhạy cảm. Mặc dù chúng vô hại, nhưng chúng có thể bị viêm và nhiễm trùng.
Một u mỡ là một khối mỡ phát triển dưới da và không bao giờ xuất hiện bên ngoài da. Nó cũng vô hại và không đau.
Vì u mỡ không gây hại, bác sĩ thường để chúng lại. Bạn có thể cần theo dõi nó giữa các lần khám.
Nếu nó gây đau hoặc bạn không thích cách nó nhìn, bạn có thể muốn loại bỏ nó. Bác sĩ của bạn có thể phẫu thuật để lấy nó ra bằng một vết cắt nhỏ. Bạn sẽ được tiêm thuốc để làm tê khu vực đó để không cảm thấy đau. Sau khi thực hiện, bạn sẽ có thể về nhà. Bạn có thể cần quay lại trong vài tuần để lấy một vài mũi khâu ra.
Các phương pháp điều trị khác bao gồm:
Steroid: Loại thuốc này có thể giúp thu nhỏ khối u.
Hút mỡ: Bác sĩ sử dụng kim và ống tiêm để rút ra mô mỡ.
U Mỡ Lớn
U mỡ lớn hơn 2 inch thường được gọi là u mỡ khổng lồ. Chúng có thể gây đau thần kinh, khiến bạn cảm thấy tự ti về ngoại hình của mình, hoặc thay đổi cách quần áo vừa vặn.
Việc lấy một trong những cái này hơi khó khăn hơn. Bác sĩ có thể sẽ cho bạn thuốc giúp bạn ngủ trong suốt quá trình. Bạn sẽ cần ai đó đưa bạn về nhà sau đó.
U mỡ hiếm khi quay trở lại sau khi đã được loại bỏ. Việc có một u mỡ không làm tăng khả năng bạn sẽ mắc các bệnh khác.
Điểm Quan Trọng
U mỡ là một khối mỡ vô hại phát triển chậm trong các mô mềm của cơ thể. Nó thường mềm, nhỏ và không đau. Bạn có thể tìm thấy nó ở bất kỳ đâu trên cơ thể, nhưng nếu bạn có nó, nó có thể sẽ nằm ở cánh tay, vai, ngực, lưng hoặc bụng. Tuy nhiên, hãy gặp bác sĩ nếu bạn phát hiện bất kỳ cục u nào trên cơ thể mình. Họ có thể cho bạn biết liệu nó có cần được điều trị hay không.
Câu Hỏi Thường Gặp Về U Mỡ
U mỡ có thể trở thành ung thư không?
Có, u mỡ có thể trở thành ung thư, nhưng điều này hiếm khi xảy ra. Một u mỡ trở thành ung thư được gọi là u mỡ ác tính. Hãy gặp bác sĩ nếu bạn nhận thấy bất kỳ thay đổi nào về cảm giác và hình dáng của cục u mỡ. Họ sẽ thực hiện các xét nghiệm, chẳng hạn như sinh thiết, để xác nhận xem nó có phải là ung thư hay không.
Làm thế nào để loại bỏ u mỡ?
Bác sĩ có thể loại bỏ u mỡ bằng phẫu thuật, sử dụng một vết cắt nhỏ để lấy nó ra. Họ cũng có thể đề nghị thuốc steroid để thu nhỏ nó hoặc một quy trình hút mỡ để rút ra mỡ.
Chuyện gì sẽ xảy ra nếu u mỡ không được điều trị?
Không có gì xảy ra nếu u mỡ không được điều trị. Nhưng hãy gặp bác sĩ nếu u mỡ thay đổi kích thước, hình dạng và cảm giác. Họ có thể cho bạn biết liệu bạn có cần điều trị hay không.
Trẻ nhiễm HIV thường nhập viện với nhiều bệnh cảnh lâm sàng khác nhau. Trong chăm sóc và điều trị cần có các tiếp cận và xử trí theo nhóm các hội chứng.
Trẻ chưa có điều trị phòng ngừa PCP khi có khó thở và có tổn thương trên X-quang cần điều trị như viêm phổi do PCP;
Nếu có tổn thương nghi ngờ LIP dùng Prednisolone 1-2mg/kg/ngày x 21 ngày.
2. Tiêu chảy kéo dài
2.1 Định nghĩa:
Tiêu chảy mạn tính được xác định khi bệnh nhân đi phân lỏng hoặc nát trên 3 lần một ngày, kéo dài trên 14 ngày.
2.2 Hỏi bệnh sử
Số lần đi ngoài mỗi ngày, tính chất phân.
Các triệu chứng kèm theo: sốt, đau bụng, vị trí và tính chất đau.
Tiền sử dinh dưỡng của trẻ.
Tiền sử lao và các bệnh truyền nhiễm khác trong gia đình.
2.3 Thăm khám lâm sàng
Đánh giá toàn trạng, tình trạng mất nước, dinh dưỡng.
2.4 Đánh giá tình trạng phát triển
Các biểu hiện toàn thân: sốt, nổi hạch; thăm khám các cơ quan hô hấp và tuần hoàn.
Thăm khám bụng: phát hiện đau, tràn dịch màng bụng, gan lách to, hạch ổ bụng.
Nếu không ảnh hưởng đến tăng trưởng: điều trị bù nước duy trì, dinh dưỡng. Có thể tiêu chảy do HIV sẽ cải thiện sau khi điều trị
2.5 Các xét nghiệm và thăm dò
Soi phân tìm hồng cầu và bạch cầu (tiêu chảy xâm nhập); soi tìm ký sinh đơn bào thông thường (amip, giardia), ấu trùng giun lươn, giun móc, các loại trứng giun; soi phân phương pháp tập trung formalin-ether và nhuộm kiềm toan cải tiến để tìm cryptosporidium, nhuộm ba màu để tìm microsporidium và isospora; soi tìm AFB (lao và MAC), nếu có điều kiện.
Cấy máu nếu bệnh nhân có sốt, nghi tiêu chảy kèm nhiễm trùng huyết do vi khuẩn.
Chụp X-quang phổi, xét nghiệm đờm nếu có biểu hiện hô hấp hoặc nghi
Siêu âm ổ bụng nếu có thể thực hiện được, xác định gan lách to, hạch to, dịch màng bụng.
Căn nguyên và điều trị: Xem phần Nhiễm trùng cơ hội và các bệnh lý liên quan HIV.
3. Sốt kéo dài
3.1. Địnhnghĩa: Sốt kéo dài được xác định khi sốt trên 3705 kéo dài trên 14 ngày.
3.2 Các căn nguyên thường gặp gây sốt kéo dài
Trẻ em có thể mắc các bệnh gây sốt kéo dài ở trẻ em, các bệnh dịch, nhiễm khuẩn nặng, hoặc Nhiễm trùng cơ hội hoặc bệnh lý khối u và/hoặc sốt do chính HIV.
Trong nhiều trường hợp sốt thường đi kèm các các biểu hiện hô hấp, thần kinh,…
Các căn nguyên hay gặp trong nhiễm HIV và suy giảm miễn dịch:
+ Lao, MAC, bệnh do nấm candida, penicillium, viêm màng não và nhiễm nấm huyết do cryptococcus, nhiễm trùng huyết do salmonella và các vi khuẩn khác, bệnh do CMV,…;
+ Bệnh ác tính liên quan tới HIV: u lymphô;
+ Sốt do bản thân HIV, sốt rét;
+ Phản ứng với các thuốc: dị ứng CTX, NVP, ABC,…
3.3 Hỏi tiền sử, bệnh sử
Thời gian bị bệnh, đặc điểm khởi phát (cấp tính hoặc bán cấp).
Các triệu chứng từ các cơ quan: đau đầu, tiêu chảy, ho, phát ban,…
Các thuốc đã sử dụng: CTX, ARV, các thuốc khác.
Tiền sử mắc các bệnh Nhiễm trùng cơ hội và các bệnh lý khác liên quan tới HIV (khả năng tái phát của các Nhiễm trùng cơ hội nếu không được điều trị dự phòng thứ phát hoặc không được điều trị ARV).
Tiền sử dị ứng thuốc và các bệnh lý khác.
Tiền sử gia đình: tiền sử lao/ho và các bệnh truyền nhiễm khác.
3.4 Khám lâm sàng
Thăm khám tất cả các cơ quan và bộ phận, tập trung vào những cơ quan có biểu hiện bệnh.
Nếu trẻ có tỷ lệ CD4 thấp cần chú ý khám mắt (soi đáy mắt) để tìm tổn thương của CMV, Toxoplasma và cấy máu tìm nguyên nhân nấm, vi khuẩn.
3.5 Xem các căn nguyên gây Nhiễm trùng cơ hội, xét nghiệm và thăm dò xác định chẩn đoán, và điều trị tại phần các bệnh Nhiễm trùng cơ hội.
4. Còi cọc và chậm phát triển thể chất
4.1 Định nghĩa
Mức độ trung bình: trọng lượng 60-80% trọng lượng bình thường tương ứng với tuổi/chiều
Mức độ nặng: trọng lượng ≤ 60% trọng lượng trung bình tương ứng với tuổi/chiều cao, hoặc 60-80% trọng lượng bình thường và có phù kèm
4.2 Khám lâm sàng
Đo cân nặng và chiều cao xác định mức độ.
Bệnh sử: Mức độ sụt cân, các triệu chứng của nhiễm trùng kín, tiền sử tiêu chảy hoặc nôn, tiền sử ăn uống của trẻ.
Đánh giá vấn đề nuôi dưỡng hiện tại, xác định vấn đề chưa hợp lý nếu có.
Thăm khám đầy đủ, phát hiện và điều trị các nguyên nhân thường gặp: nhiễm trùng tái phát hoặc nhiễm trùng kín, nhiễm nấm Candida miệng hoặc thực quản, hoặc nhiễm trùng tại họng miệng khác, hấp thu kém và tiêu chảy, nôn, nhiễm HIV mạn tính, lao hoặc MAC màng bụng, cung cấp thiếu thực phẩm/năng lượng,…
4.3 Điều trị
Hỗ trợ ban đầu: bù nước nếu có mất nước và hỗ trợ dinh dưỡng.
Bắt đầu đánh giá điều trị ARV nếu trẻ đủ tiêu chuẩn điều trị.
Nếu do không cung cấp đầy đủ dinh dưỡng:
+ Xác định qua hỏi bệnh sử xác định lượng dinh dưỡng được cung cấp cho trẻ;
+ Thử cho trẻ ăn với chế độ ăn có nhiều năng lượng và bổ sung vitamin trong 7 ngày: Nếu cải thiện, tiếp tục điều trị kết hợp theo dõi sát; nếu không cải thiện, xét nghiệm tìm nguyên nhân nhiễm trùng mãn tính hay suy mòn do nhiễm HIV.
Nếu do nấm hay loét miệng:
+ Đau, kém ăn, lở miệng, nấm miệng;
+ Điều trị nấm hoặc HSV (nếu có loét): Nếu cải thiện, tiếp tục điều trị kết hợp theo dõi sát; nếu không cải thiện xét nghiệm: tìm nguyên nhân nhiễm trùng mãn tính hay suy mòn do nhiễm HIV.
Nếu do nguyên nhân nhiễm trùng mãn tính:
+ Tiền sử sốt hoặc tiêu chảy?
+ Làm xét nghiệm chẩn đoán nhiễm trùng mãn tính: công thức máu và công thức bạch cầu, albumin, cấy máu, chụp phổi, loại trừ lao, xét nghiệm phân tìm vi khuẩn, trứng và ký sinh trùng. Đánh giá như bệnh nhi có sốt, tiêu chảy. Siêu âm ổ bụng có thể phát hiện gan, lách, hạch to. Điều trị khi tìm được tác nhân. Nếu không tìm được tác nhân:
+ Cân nhắc nhập viện để hỗ trợ dinh dưỡng;
+ Cân nhắc điều trị ARV nếu đạt tiêu chuẩn chỉ định điều trị.
5. Thần kinh
5.1 Hỏi bệnh
Tiền căn sốt cao co giật.
Bệnh sử chấn thương đầu.
Co giật: Thời gian, toàn thân hay khu trú, có kèm sốt hay không.
5.2 Thăm khám lâm sàng
Đánh giá tri giác.
Phát hiện co giật.
Phát hiện dấu hiệu màng não.
Phát hiện triệu chứng thần kinh khu trú: Liệt nửa người, liệt mặt,…
Đánh giá trương lực cơ.
5.3 Xét nghiệm
Chọc dò tủy sống.
Chẩn đoán hình ảnh: chụp cắt lớp não, cộng hưởng từ não (nếu có điều kiện).
5.4 Chẩn đoán nguyên nhân
Viêm màng não
Sốt, đau đầu, thóp phồng, co giật, hôn mê.
Chọc dò dịch não tủy: xét nghiệm sinh hóa tế bào; soi cấy tìm vi khuẩn.
Chức năng cảm giác chịu ảnh hưởng rất nhiều của yếu tố chủ quan và tâm lý, vì vậy khám cảm giác cần được tiến hành tỷ mỉ thận trọng và đòi hỏi rất nhiều kinh nghiệm của người thầy thuốc.
Triệu chứng rối loạn cảm giác rất có ý nghĩa trên lâm sàng, nó có vai trò quan trọng trong chẩn đoán định khu.
Mục đích khám cảm giác là:
Xác định xem bệnh nhân có rối loạn cảm giác không?
Rối loạn cảm giác ở đâu?
Loại cảm giác nào (nông, sâu hay phức tạp) bị rối loạn?
Rối loạn cảm giác kiểu gì (tăng, giảm, loạn cảm hay dị cảm)?
Như chúng ta đã biết: trung khu cảm giác vỏ não (hồi sau trung tâm hay hồi đỉnh lên) nhận biết cảm giác của một nửa người bên đối diện.Hình 2.24b. Phân bố cảm giác kiểu dây thần kinh
Trên bề mặt cơ thể sự phân bố cảm giác tuân theo hai kiểu:
+ Kiểu rễ: theo hình dải da ở các chi và hình khoanh đoạn ờ thân (hình 2.24a).
+ Kiểu dây thần kinh: theo hình các vạt da do dây thần kinh phân bố (hình 2.24b)
Sự phân bố cảm giác như trên rất có ý nghĩa trong chẩn đoán trên lâm sàng.
PHƯƠNG PHÁP KHÁM CẢM GIÁC
Sự phân bố cảm giác trên bề mặt cơ thể rất phức tạp và có đặc điểm riêng như đã mô tả ở trên, nhận thức cảm giác chịu nhiều ảnh hưởng của yếu tố chủ quan. Vì lý do đó nên khi khám cảm giác ta cần lưu ý:
Bệnh nhân nhắm mắt.
Khám cảm giác theo hai chiều: dọc cơ thể hoặc chi thể cũng như khám theo chu vi của các chi.
Đánh dấu vùng da có rối loạn cảm giác và nhận xét mức độ rối loạn cảm giác.
So sánh cảm giác giữa hai bên cơ thể.
Khám xúc giác nông
Khám cảm giác
Dụng cụ: tăm bông, mảnh giấy, chổi lông, kim đầu tù.
Cách khám: dùng tăm bông, kim đầu tù hoặc mảnh giấy, chổi lông chạm nhẹ vuông góc với mặt da ở các vị trí đối xứng của hai bên cơ thể. Sau khi kích thích hỏi bệnh nhân có nhận biết được kích thích không, có phân biệt được kích thích nhọn và tù không? khả năng nhận biết kích thích hai bên cơ thể có như nhau không.
Kết quả: có thể thấy tăng, giảm hoặc mất nhận biết xúc giác.
Khám cảm giác đau nông
Dụng cụ: kim đầu tù.
Cách khám: châm kim nhẹ nhàng hoặc vạch mũi kim trên các vùng da đối xứng giữa hai bên cơ thể. Sau đó hỏi bệnh nhân xem nhận biết cảm giác giữa hai bên cơ thể có như nhau không. Có thể yêu cầu bệnh nhân đếm từ 1, 2, 3… trong khi thầy thuốc châm kim trên các vùng da khác nhau giữa hai bên cơ thể với cường độ giảm dần.
Kết quả: có thể thấy tăng, giảm hoặc mất cảm giác đau ở một vùng da nào đó hoặc thấy loạn cảm đau.
Khám cảm giác nhiệt độ
Dụng cụ: dùng hai ống nghiệm, một đựng nước lạnh (20°C), một đựng nước nóng (40°C). Bình thường da có thể phân biệt được nhiệt độ của một vật khi nhiệt độ của vật đó chênh lệch với nhiệt độ của vùng da cần khám là 5°c.
Cách khám: lần lượt đặt các ống nghiệm đựng nước nóng và lạnh lên các vùng da cần khám. So sánh nhận biết cảm giác nóng – lạnh giữa hai bên cơ thể, giữa các vùng da khác nhau ở một bên cơ thể.
Kết quả: có thể thấy giảm hoặc mất cảm giác nhiệt độ, đặc biệt có thể thấy chứng không phân biệt được nóng lạnh (isothermoagnosia).
Khám cảm giác phân biệt hai điểm khác nhau trên da
Dụng cụ khám: compa có hai đầu nhọn có kèm thước đo độ mở.
Thao tác khám: mở rộng hai đầu compa và án nhẹ lên các vùng da khác nhau, sau đó hỏi bệnh nhân thấy mấy điểm nhọn. Tiếp theo thu hẹp dần độ mở của hai đầu compa và tiếp tục khám để tìm khoảng cách nhỏ nhất mà bệnh nhân vẫn phân biệt được hai điểm chạm của hai đầu compa. Đo khoảng cách giữa hai điểm xem là bao nhiêu milimet.
Đánh giá kết quả: bình thường khả năng phân biệt hai điểm của các phần khác nhau trên cơ thể như sau:
Trong các trường hợp bệnh lý khoảng cách trên sẽ tăng.
Khám cảm giác nhận thức định khu
Dụng cụ: kim đầu tù.
Cách khám: như khám cảm giác đau và hỏi bệnh nhân đau ờ đâu.
Kết quả: bình thường bệnh nhân chỉ ra được đúng vị trí kích thích trên cơ thể.
Trường hợp bệnh lý: bệnh nhân không nhận biết được vị trí châm kim trên cơ thể. Ngoài ra còn có triệu chứng đặc biệt trong phần khám cảm giác này là chứng đối cảm, có nghĩa là kích thích một bên bệnh nhân lại nhận thức là kích thích bên cơ thể đối diện.
Khám cảm giác hình vẽ trên da (cảm giác hai chiều không gian)
Dụng cụ: kim đầu tù.
Viết các chữ hoặc chữ số trên da bệnh nhân và hỏi bệnh nhân xem đó là chữ gì hoặc số mấy. Bắt đầu viết nhỏ, nếu bệnh nhân không nhận biết được thì viết to hơn.
Kết quả: bình thường người ta có thể nhận biết được các chữ hoặc số ở các vùng da tương ứng với các kích thước sau:
+ Da bàn tay: các chữ hoặc số cao 0,5cm.
+ Da cánh tay: cao 1,5cm.
+ Da thân: cao 2,0cm.
Trong trường hợp bệnh lý, chiều cao các chữ hoặc các số phải lớn hơn bệnh nhân mới nhận biết được.
Khám cảm giác sâu
Cảm giác tư thế
Tư thế bệnh nhân: nằm hoặc ngồi thoải mái, nhắm mắt.
Thao tác khám:
+ Nghiệm pháp xác định tư thế trong không gian:
Cách 1: thầy thuốc cầm phần chi thể của bệnh nhân (ngón tay, ngón chân, bàn tay, bàn chân…) nhẹ nhàng. Vận động thụ động các phần chi thể đó về các hướng khác nhau, hỏi bệnh nhân hướng chuyển động của các chi; tìm góc tối thiểu mà bệnh nhân còn nhận biết được có sự di chuyển chi thể. Bình thường khi thay đổi tư thế của một khớp với một góc từ 1 – 2° bệnh nhân đã có thể nhận biết được
+ Nghiệm pháp Romberg (xem phần khám dây VIII):Cách 2: thầy thuốc đặt phần chi thể của bệnh nhân ở một tư thế nhất định và yêu cầu bệnh nhân tự đặt chi thể bên đối diện ở tư thế tương ứng, ví dụ để ngón tay trỏ bàn tay trái của bệnh nhân ở một tư thế nhất định và yêu cầu bệnh nhân đặt ngón tay tương ứng của bàn tay phải ở vị trí giống như vị trí của ngón tay đối xứng (hình 2.27).
Nghiệm pháp Romberg (xem phần khám dây VIII)
Romberg đơn giản: tư thế bệnh nhân đứng hai bàn chân chụm lại với nhau, hai tay giơ ra trước, các ngón tay xoè rộng. Thì đầu cho bệnh nhân mở mắt làm quen với tư thế xuất phát, thì hai cho bệnh nhân nhắm mắt.
Romberg phức tạp: tư thế bệnh nhân đứng, hai bàn chân đặt nối tiếp nhau trên đường thẳng, hai tay giơ ra trước, các ngón tay xoè. Thì một cho bệnh nhân đứng mắt mở làm quen với tư thế, thì hai cho bệnh nhân nhắm mắt.
Kết quả: bình thường bệnh nhân đứng vững, thăng bằng cả khi nhắm mắt và khi mở mắt. Nghiệm pháp dương tính khi bệnh nhân không đứng được ở tư thế xuất phát, hoặc khi mở mắt bệnh nhân đứng được bình thường nhưng khi nhắm mắt bệnh nhân sẽ lảo đảo và ngã; hoặc khi có rối loạn tư thế ở một khớp thì chi đó không giữ được tư thế ban đầu mà thay đổi tư thế chậm chạp kiểu múa vờn.
+ Nghiệm pháp ngón tay trỏ – gót: bệnh nhân ở tư thế nằm ngửa, mắt nhắm, lấy một ngón tay trỏ chỉ vào gót chân và giữ nguyên tư thế. Bình thường bệnh nhân có thể duy trì được tư thế ban đầu này. Nhưng trong trường hợp bệnh lý ngón tay trỏ sẽ chỉ lệch khỏi gót chân.
Khám cảm giác áp lực
Thao tác khám: thầy thuốc bóp mạnh vào các bắp cơ của bệnh nhân, so sánh nhận biết cảm giác giữa hai bên cơ thể và của các bắp cơ khác nhau. Ngoài ra, còn có thể kiểm tra cảm giác đau của nhãn cầu, thanh quận và tinh hoàn; cũng có thể bóp hoặc ấn dọc các dây thần kinh, trong khi khám có thể thấy dấu hiệu Tinel (khi ấn hoặc gõ vào mỏm cụt của dây thần kinh bệnh nhân sẽ thấy đau chói).
Khám cảm giác rung
Dụng cụ: âm thoa nặng có tần số 128 hoặc 256 chu kỳ/gy. Thầy thuốc giải thích cho bệnh nhân rõ cách khám để bệnh nhân phối hợp cho tốt. Bệnh nhân có thể ở tư thế nằm hoặc ngồi.
Cách khám: thầy thuốc gõ nhẹ nhánh âm thoa vào lòng bàn tay để cho âm thoa rung, sau đó đặt gốc âm thoa vào các đầu xương lần lượt từ ngọn chi đến gốc chi. Quan sát đầu hai nhánh âm thoa (có chia vạch) và xem khi vạch số mấy nhìn rõ thì bệnh nhân không còn nhận biết được cảm giác rung nữa. So sánh nhận biết cảm giác rung giữa hai bên cơ thể, hoặc có thể so sánh với người bình thường (hình 2.29a, 2.29b).
Kết quả:
+ Người bình thường khi nhìn rõ con số 8 mới thấy hết cảm giác rung.
+ Giảm cảm giác rung khi bệnh nhân thấy âm thoa không còn rung nữa trong khi chưa nhìn thấy hết được tất cả các chữ số trên đầu âm thoa.
Khám cảm giác phức tạp (cảm giác nhận thức vật) (sterognosia)
Dụng cụ khám: các đồ vật quen thuộc với bệnh nhân nhưng không có âm thanh và mùi đặc trưng (nắm bông, tờ giấy, chìa khoá, cái bút…).
Cách khám: bệnh nhân nhắm, mắt thầy thuốc đưa đồ vật lần lượt vào từng tay bệnh nhân và hỏi bệnh nhân đó là vật gì.
Bình thường bệnh nhân có thể xác định được các vật dụng quen thuộc trong sinh hoạt hàng ngày; trường hợp bệnh lý, bệnh nhân không phân biệt được các vật do thầy thuốc đưa cho.
CÁC LOẠI RỐI LOẠN CẢM GIÁC
Mất cảm giác (anesthesia): là biểu hiện mất một hoặc nhiều loại cảm giác.
Ví dụ: mất cảm giác đau (analgesia), mất cảm giác nhận thức vật (steroagnosia), mất cảm giác cơ khớp (bathyanesthesia).
Giảm cảm giác (hypesthesia): là sự giảm sút về cường độ một hoặc nhiều loại cảm giác.
Tăng cảm (hyperesthesia).
Phân ly cảm giác: trên một vùng da nhất định có hiện tượng rối loạn một vài loại cảm giác (cảm giác nông, nhiệt độ) trong khi các loại cảm giác khác (cảm giác sâu và xúc giác) vẫn còn nguyên vẹn.
Loạn cảm đau (hyperpathia): kích thích mạnh mới thấy đau nhưng đau mãnh liệt hơn bình thường.
Dị cảm đau (allodynia): cảm giác đau xuất hiện ngay cả đối với các kích thích bình thường không gây đau (xúc giác, nhiệt độ, vận động), thậm chí khi không có kích thích. Đau xuất hiện đột ngột dữ dội.
– Rối loạn cảm giác chủ quan:
+ Đau: cảm giác đau có thể khu trú tại một vị trí nhưng cũng có thể lan xuyên, xuất chiếu đi nơi khác. Đau có thể xảy ra thành cơn hoặc kéo dài liên tục. Tính chất của đau có nhiều loại khác nhau (thon thót, bỏng rát, căng tức, như dao đâm, điện giật…). Triệu chứng đau rất có giá trị trong chẩn đoán nhiều bệnh.
+ Dị cảm: là sự nhận thức cảm giác trong khi không có kích thích trên thực tế. Dị cảm có thể ở dạng tê, kim châm, kiến bò…
CÁC HỘI CHỨNG RỐI LOẠN CẢM GIÁC
Hội chứng tổn thương dây và đám rối thần kinh
Rối loạn tất cả các loại cảm giác ở khu vực da do dây thần kinh đó chi phối. Ví dụ: tổn thương dây thần kinh trụ, giữa, quay.
Hội chứng rễ sau
Rối loạn tất cả các loại cảm giác theo hình dải (ở chi), theo hình khoanh đoạn (ở thân). Đau dọc theo vùng phân bố của dây thần kinh, đau tăng khi hắt hơi, ho và làm căng rễ.
Gặp trong thoát vị đĩa đệm, Tabes, u tuỷ, Zona…
Hội chứng sừng sau
Rối loạn cảm giác kiểu phân ly trên một vùng da có hình dải hoặc khoanh đoạn.
Hội chứng mép xám trước
Rối loạn cảm giác kiểu phân ly ở các vùng da đối xứng giữa hai bên cơ thể như kiểu cánh bướm; thường gặp trong rỗng tuỷ, chảy máu tuỷ sống (hematomyelia), u nội tuỷ hoặc giang mai tuỷ sống.
Hội chứng cột bên
Rối loạn cảm giác đau và nhiệt độ theo kiểu đường dẫn truyền ở bên đối diện.
Hội chứng cột sau
Rối loạn cảm giác cơ – khớp, rung bên tổn thương theo kiểu đường dẫn truyền.
Hội chứng cắt ngang nửa tuỷ (hội chứng Brown- Sequard)
Mất mọi cảm giác dưới mức tổn thương theo kiểu đường dẫn truyền.
Rối loạn cơ vòng.
Gặp trong chấn thương, vết thương tuỷ sống, u tuỷ, lao cột sống…
Hội chứng đồi thị (hội chứng ba nửa)
Mất các loại cảm giác ở một nửa người đối diện theo kiểu đường dẫn truyền.
Mất phối hợp nửa người (hemiataxia).
Bán manh hai bên ở phía đối diện với tổn thương. Ngoài ra, có rối loạn cảm giác chủ quan, đau đồi thị ở nửa người đối diện (đau lan toả, lan xuyên, nóng rát, không chịu ảnh hưởng của các thuốc giảm đau).
Hội chứng vỏ não (tổn thương hồi sau trung tâm)
Rối loạn tất cả các loại cảm giác ở nửa người bên đối diện (giống ở đồi thị hoặc bao trong), trên lâm sàng thấy biểu hiện rõ ở ngọn chi.
NKH là tập hợp những biểu hiện LS của một tình trạng NT – NĐ toàn thân nặng, có nguy cơ tử vong nhanh do choáng (shock) và suy cơ quan, gây ra bởi sự xâm nhập liên tục của Vi khuẩn và các độc tố của chúng vào máu xuất phát từ một ổ nhiễm khuẩn khởi điểm.
Khác với vãng khuẩn huyết (Bacteremia) là Vi khuẩn chỉ vào qua máu một lần rồi đến gây bệnh ở các bộ phân và không có biểu hiện LS nặng.
Vi khuẩn bất kể độc tính mạnh hay yếu đều có thể gây Nhiễm khuẩn huyết khi sức đề kháng của cơ thể giảm.
Căn nguyên:
thường có 3 loại:
Các Vi khuẩn Gr( + ): tụ cầu, phế cầu, liên cầu
VK Gr (-):
+ Não mô cầu
+ Các trực khuẩn Gr (-) đường ruột: E.coli. Klesbsiella pneumoniae, Proteus, Enterobacter…
+ Trực khuẩn mủ xanh: Pseudomonas aeruginosa
Các Vi khuẩn kỵ khí: hầu như đi cùng Gr (-), Bacteroid fragilis, Clostridium perfringens…
Lâm sàng:
Các triệu chứng của Ổ nhiễm khuẩn khởi đầu:
Đó là các biểu hiện viêm tại các ổ nhiễm trùng khởi đầu.
Trong trường hợp ở nhiễm trùng ở sâu trong nội tạng như: gan, mật, tiêu hóa, tiết niệu…cần thăm khám kỹ mới phát hiện được. Ví dụ:
+ Nhiễm khuẩn huyết sau vết thương nhiễm trùng vết thương trên da: da vùng vết thường viêm tấy, sưng nóng đỏ đau, đôi khi chỉ là một vết sẹo đã lành.
+ Nhiễm khuẩn huyết sau viêm họng: sưng tấy, phù nề vùng họng
+ Nhiễm khuẩn huyết do nhổ răng, đinh râu: sưng cả vùng mặt, hàm, mắt lồi và sưng chứng tỏ có cả viêm tắc tĩnh mạch xoang hang + Nhiễm khuẩn huyết do sót rau sau đẻ: tử cung to, chảy sản dịch hôi
Triệu chứng do Vi khuẩn vào máu:
sốt cao rét run:
Thoạt đầu rét run, run bắp thịt, đau mình mẩy sau đó phải đi đắp chăn vì rét
Nhiệt độ tăng cao dần, một ngày có thể nhiều cơn
Các kiểu sốt: sốt liên tục, sốt cao dao động hoặc thất thường không theo quy luật.
Hạ thân nhiệt: gặp trong các trường hợp nặng do cơ thể mất khả năng đề kháng, trung tâm điều hòa thân nhiệt bị nhiễm độc
Các triệu chứng khác do hậu quả của quá trình đáp ứng viêm:
Tinh thần, thần kinh: kích thích, mê sảng hoặc lơ mơ, li bì
Tim mạch: mạch nhanh nhỏ, không đều, HA thấp hoặc hạ
Trong trường hợp nặng sẽ xuất hiện sock nhiễm khuẩn
Triệu chứng do phản ứng của hệ liên võng nội mạc và các bộ phận tạo huyết:
Viêm nội mạc mao quản:
Có thể có nốt phỏng mủ trong, có chứa vi khuẩn
Có khi xuất huyết do RL đông máu, thời gian đông máu kéo dài, Prothrombin giảm
Gan lách: sưng to, ấn tức, mật độ mềm
Biến đổi huyết đồ:
BC: tăng, tăng tỷ lệ ĐNTT
HC: số lượng giảm. Hb giảm. Nặng: cơ thể suy kiệt, BC giảm, tỷ lệ ĐNTT cũng giảm
TC: số lượng và độ tập trung giảm
Triệu chứng do tổn thương di bệnh khu trú nội tạng:
VK theo đường máu tới tất cả các cơ quan. Tùy từng loại Vi khuẩn, có các tổn thương di bệnh với mức độ khác nhau, các phương tiện kỹ thuật càng cao càng có phát hiện ổ di bệnh tốt hơn.
Các ổ di bệnh thường gặp:
+ Phổi: các ổ áp xe, micro áp xe giống hình ảnh thả bóng bay trong nhiễm trùng huyết do tụ cầu, tràn mủ màng phổi.
+ Tim mạch: Viêm nội tâm mạc, viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim, viêm động mạch, viêm tắc tĩnh mạch thứ phát
+ Thần kinh: VMN mủ, ápxe não, viêm tắc tĩnh mạch xoang hang + Gan: vàng da nhiễm trùng, viêm đường mật, apxe đường mật
+ Thân: suy thân cấp với ure máu tăng cao, thiểu niệu hoặc vô niệu, apxe quanh thân + Dạ dày – ruột: viêm hoại tử ruột chảy máu + Khớp xương: viêm tràn dịch mủ khớp, viêm tủy xương
+ Da, cơ: mụn mủ, đám tắc tĩnh mạch hoại tử, đặc biệt ở đầu chi, phát ban, viêm cơ, viêm mô tế bào, apxe dưới da..
+ Giác quan: viêm mống mắt thể mi, viêm mủ tiền phòng, viêm mủ nhãn cầu + Thượng thân: xuất huyết thượng thân lan tỏa gây trụy mạch không hồi phục.
Các thể Lâm sàng:
Đăc điểm
NKH do Vi khuẩn Gr (+)
NKH do Vi khuẩn Gr (-)
NHK do Vi khuẩn kỵ khí
Vi khuẩn
– Tụ cầu vàng (S.aureus)
– E. coli- Klesbsiella pneumoniae- Pseudomonas aeruginosa
– Serratia
– Enterobacter
– Proteus
– Thường đi kèm với các Nhiễm khuẩn huyết Gr(-)- Clostridium perfingens- B. Fragilis
Các bệnh toàn thân khác gây sốt: bệnh hệ thống, bệnh về máu, ung thư, HIV/AIDS
Điều trị:
Điều trị đặc hiệu: bằng KS
Nguyên tắc điều trị kháng sinh trong Nhiễm khuẩn huyết:
Phải điều trị sớm, dùng KS ngay sau khi lấy máu gửi đi nuôi cấy
Phải dùng KS liều cao, phổi hợp và đủ thời gian
Phải dùng KS đường TM
Phỏng đoán Vi khuẩn trước khi có kết quả cấy máu
Điều chỉnh KS theo hiệu quả điều trị và KSĐ
Ngừng KS: khi hết sốt, triêu chứng LS cải thiện rõ rệt, nuôi cấy Vi khuẩn âm tính, tốc độ máu lắng trở về bình thường
Không dùng CORTICOID
Điều trị cụ thể: bảng thuốc điều trị (tham khảo)- Khi chưa có kết quả cấy máu, điều trị KS theo phỏng đoán mầm bệnh- Khi có kết quá cấy máu thì điều chỉnh KS theo kết quá LS và KSĐ
Vi khuẩn
Kháng sinh đề nghị
Kháng sinh thay thế
Tụ cầu ngoài bệnh viện (MSSA)
Methicillin hoặc Oxacillin + Aminosid
Glycopeptides
Tụ cầu trong bệnh viện
Vancomycine + Aminosid
Cefepime + Aminosid hoặc Imipenem
Phế cầu, liẽn cầu (trừ liên cầu D), não mô cầu
Penicilin G hoặc Aminopenicillin (Ampicillin, Amoxycillin)
Cây nhài thân gỗ nhỏ, mọc thành bụi. Cụm hoa mọc ở ngọn cành, hoa thưa có màu trắng thơm về đêm. Thường được trồng làm cảnh ở nhiều vùng của nước ta.
Hoa này còn có tên là hoa yên chi, hoa dã mạt lị. Hoa nhài thường có màu trắng một số nơi đã trồng được hoa vàng, đỏ, tím và có vân ban. Hoa nhài nở rộ vào sau giờ ngọ (giữa trưa) tỏa hương thơm mát dịu.
Hoa nhài tính mát, vị đắng vào hai Kinh Tâm, Tỳ, có công năng thanh nhiệt giải độc, lợi thấp, tiêu thũng, hoạt huyết tán ứ, điều kinh lợi niệu, chữa trị các bệnh: lao phổi thổ huyết, viêm khớp cấp tính, cảm nhiễm niệu đạo, tiểu ra máu, bệnh về vú, đới hạ, tiểu đường, đắp mụn nhọt độc; dùng nước sắc rửa mặt trừ được mụn và làm đẹp da mặt, chữa viêm màng khóe mắt và màng mộng; chữa trẻ em lên sởi có sốt, sởi mọc không đều.
Hoa nhài chữa ngoại cảm, phát sốt, đau bụng ỉa chảy
Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 400ml nước, đun sôi kỹ, chắt lấy 150ml nước đặc. Người bệnh chia đều 3 lần uống trong ngày, trước bữa ăn. cần uống liền 2-3 ngày.
Bài 2. Thuốc chữa bệnh đau mắt
+ Hoa nhài 6g
+ Hoa kim ngân 9g
+ Hoa cúc bạch 9g
Các loại hoa rửa sạch, cho vào nồi cùng 400ml nước, đun sôi kỹ, chắt lấy 150ml nước đặc. Người bệnh chia đều uống ngày 3 lần, lúc nóng, sau bữa ăn. cần uống liên tục 3 ngày.
Bài 3. Thuốc chữa bệnh mất ngủ.
+ Hoa nhài 6g
+ Tâm sen 8g
Các vị thuốc hãm trong ấm nước sôi, uống nhiều lần trong ngày, sau khi ăn. cần uống liền 5-7 ngày.
Bài thuốc
Hoa nhài giã nát, thêm mật ong, uống trị ho ra máu.
Hoa nhài 12g, đậu hũ 100g, hãm vào nước sôi uống, trị được phế ung, ho suyễn, hô hấp không thông nhuận.
Dùng hoa nhài 12g sắc uống thay trà, chữa các chứng lỵ, nếu thêm râu ngô 20g thì cải thiện được công năng tràng vị, chữa các bệnh tiêu khát, vật vã không yên.
Hoa nhài 20g, nội tạng lợn 200g, ngân hạnh 12g sắc với nước trong 1 giờ (đun to lửa, khi sôi hạ bớt lửa) trị được các chứng miệng khát tiểu nhiều, hay đói, bụng trướng, tâm thần bất minh.
Hoa nhà 20g, hoàng tinh 20g nấu với 300g thịt lợn chữa chứng tiểu ra máu.
Lá nhài tươi rửa sạch, giã nát đắp vào vị trí bị bệnh chữa nhọt ngứa, viêm tuyến vú.
Rễ nhài đun 3 lần, phơi 3 lần (tam chưng tam sái) rồi sắc nước uổng thay trà, trị kinh nguyệt không đều, nếu cho thêm bản lam căn đồng lượng sắc uống thì chữa được bệnh loét cổ tử cung.
Món ăn chữa bệnh đặc biệt từ hoa nhài
Hoa nhài xào với măng lau
Nguyên liệu: Hoa nhài tươi 20 bông; măng lau 6 lạng, 1 thìa dầu, 1 thìa muối nhỏ.
Cách làm: Hoa nhài tách từng cánh rửa sạch bằng nước muối đẽ ráo.
Măng lau bỏ vỏ và đầu thô, rửa sạch, thái thành đoạn nhỏ.
Chảo dầu nóng, cho măng vào xào, nêm gia vị vừa ăn, khi ăn mới cho cánh hoa nhài vào xào, đảo đều là được.
Công hiệu: Nhuận tràng thông tiện, thanh nhiệt giải độc.
Hoa nhài nấu đậu hũ
Nguyên liệu: Hoa nhài tươi 20 bông, đậu hũ 1 miếng.
Gia vị: Dầu thì 1 thìa to, xì dầu 1 thìa to, đường 1 thìa nhỏ.
Cách làm: Hoa nhài dùng nước muối rửa sạch, để ráo.
Đậu hũ rửa sạch, cho vào chảo rán vàng đều 2 mặt. Cho gia vị và hoa nhài vào chảo đậu, thêm 2 muỗng nước lã, đun nhỏ lửa trong 3 phút.
Công hiệu: Thanh tràng vị, làm thon thân hình, đẹp nhan sắc.
Thuốc mỡ bôi ngoài da: ống 15 g. Lotion bôi ngoài da: chai 10 ml.
THÀNH PHẦN
cho 1 g lotion
Bétaméthasone dipropionate
0,64 mg
tương ứng: Bétaméthasone
0,5 mg
Acide salicylique
20 mg
(pH)
(5,0)
cho 1 g thuốc mỡ
Bétaméthasone dipropionate
0,64 mg
tương ứng: Bétaméthasone
0,5 mg
Acide salicylique
30 mg
DƯỢC LỰC
Bétaméthasone dipropionate là một corticoide tổng hợp fluor hóa, có đặc tính kháng viêm, chống ngứa và co mạch. Những tác động này của Thuốc Diprosalic được duy trì lâu, do đó cho ph p sử dụng thuốc hai lần mỗi ngày.
Acide salicylique dùng tại chỗ có đặc tính làm tróc lớp sừng da, ngoài ra có đặc tính kiềm khuẩn và diệt nấm.
CHỈ ĐỊNH
Lotion: được chỉ định làm giảm các biểu hiện viêm của chứng vẩy nến và tiết bã của da đầu. Lotion cũng được chỉ định làm giảm biểu hiện viêm của sang thương vẩy nến không ở trên da đầu và những bệnh da khác có đáp ứng với corticoide.
Thuốc mỡ: được chỉ định làm giảm những biểu hiện viêm của bệnh da dày sừng và bệnh da khô có đáp ứng với corticoide như bệnh vẩy nến, viêm da dị ứng mạn tính, viêm thần kinh da (lichen simplex mạn), lichen phẳng, eczéma (bao gồm eczema hình đồng tiền, eczéma tay, viêm da eczéma), bệnh tổ đỉa, viêm tiết bã ở da đầu, bệnh vẩy cá thông thường và các bệnh vẩy cá khác.
CHỐNGCHỈĐỊNH
Thuốc Diprosalic chống chỉ định ở những bệnh nhân có tiền sử quá mẫn với bất cứ Thành phần nào của thuốc.
CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG
Nên ngưng thuốc nếu có kích ứng hay mẫn cảm khi sử dụng Thuốc Diprosalic. Khi có nhiễm khuẩn, nên áp dụng phương pháp điều trị thích hợp.
Mọi tác dụng ngoại ý được báo cáo xuất hiện do sử dụng corticoide toàn thân, bao gồm suy thượng thận có thể xuất hiện với corticoide dùng tại chỗ, đặc biệt ở trẻ em và trẻ sơ sinh.
Hấp thụ toàn thân của corticoide hay acide salicylic dùng tại chỗ sẽ gia tăng nếu dùng phương pháp băng bít.
Nên tránh bôi thuốc lên vết thương hở hay vùng da bị tổn thương. Nên áp dụng những biện pháp thận trọng thích hợp trong các trường hợp này hay khi dùng thuốc dài ngày, đặc biệt ở trẻ em và trẻ sơ sinh.
Không dùng phương pháp băng kín với dạng Thuốc Diprosalic lotion.
Ngưng dùng thuốc nếu xuất hiện sự khô da quá mức hay gia tăng kích ứng da.
Không dùng Thuốc Diprosalic cho nhãn khoa. Tránh để thuốc tiếp xúc với mắt hay niêm mạc.
Sử dụng cho trẻ em: trẻ em có thể biểu hiện tính nhạy cảm lớn hơn với những suy giảm trục hạ đồi-tuyến yên-tuyến thượng thận do corticoide tại chỗ và với những tác dụng của corticoide ngoại sinh hơn so với bệnh nhân đã trưởng thành vì có sự hấp thu mạnh hơn do tỷ lệ vùng bề mặt da rộng lớn hơn so với trọng lượng cơ thể.
Sự suy giảm trục hạ đồi-tuyến yên-tuyến thượng thận, hội chứng Cushing, sự chậm tăng trưởng, chậm tăng cân, và tăng áp lực nội sọ đã được báo cáo xuất hiện ở trẻ em dùng corticoide tại chỗ. Các biểu hiện của sự suy thượng thận trên trẻ em bao gồm nồng độ cortisol thấp trong huyết tương và không đáp ứng với kích thích ACTH. Các biểu hiện của tăng áp lực nội sọ bao gồm phồng thóp, nhức đầu và phù gai thị hai bên.
LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ
Do tính an toàn của corticoide dùng tại chỗ sử dụng cho phụ nữ có thai chưa được xác định, thuốc thuộc nhóm này chỉ nên dùng lúc có thai nếu lợi ích trị liệu cao hơn nguy cơ có thể gây ra cho thai nhi. Các thuốc thuộc nhóm này không nên dùng quá độ với một liều lượng lớn hay với thời gian kéo dài cho phụ nữ mang thai.
Do không biết được rằng dùng corticoide tại chỗ có thể đưa đến sự hấp thu toàn thân đủ để có thể tìm thấy được thuốc trong sữa mẹ, nên quyết định ngưng cho con bú hay ngưng thuốc, có lưu ý đến tầm quan trọng của thuốc đối với người mẹ.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN
Các phản ứng ngoại ý tại chỗ được báo cáo xuất hiện với sự sử dụng corticoide tại chỗ, bao gồm: cảm giác bỏng, ngứa, kích ứng, khô da, viêm nang lông, rậm lông, nổi ban dạng viêm nang bã, giảm sắc tố, viêm da quanh miệng, viêm da dị ứng do tiếp xúc, lột da, nhiễm trùng thứ phát, teo da, nổi vân da, bệnh hạt kê, nhạy cảm da, nứt nẻ.
Các chế phẩm chứa acide salicylique có thể gây viêm da.
LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG
Chỉ dùng trên da.
Lotion: Nhỏ vài giọt lotion Thuốc Diprosalic lên vùng da bị nhiễm, chà nhẹ và khắp vào vùng da hay da đầu. Thông thường nên bôi hai lần mỗi ngày, vào buổi sáng và buổi tối.
Thuốc mỡ: Nên bôi một lớp mỏng thuốc mỡ Thuốc Diprosalic bao phủ hoàn toàn lên vùng da bị nhiễm, hai lần mỗi ngày, vào buổi sáng và tối.
Đối với một vài bệnh nhân, có thể áp dụng liều duy trì với số lần dùng thuốc ít hơn.
QUÁ LIỀU
Triệu chứng: sử dụng corticoide tại chỗ quá mức hay kéo dài có thể đè n n hoạt động chức năng tuyến yên-thượng thận, đưa đến kết quả thiểu năng thượng thận thứ phát, và cho các biểu hiện tăng tiết tuyến thượng thận, bao gồm bệnh Cushing.
Sự sử dụng chế phẩm chứa acid salicylic quá nhiều và kéo dài có thể gây ra các triệu chứng ngộ độc salicylate.
Điều trị: biện pháp điều trị triệu chứng thích hợp được chỉ định trong trường hợp quá liều Thuốc Diprosalic. Các triệu chứng tăng tiết tuyến thượng thận thường là có hồi phục. Điều trị mất cân bằng điện giải nếu cần thiết. Trong trường hợp ngộ độc mãn, nên ngưng thuốc từ từ.
Việc điều trị ngộ độc acide salicylique là điều trị triệu chứng. Nên áp dụng các biện pháp để loại salicylate nhanh chóng ra khỏi cơ thể. Uống natri bicarbonate để kiềm hóa nước tiểu và gây lợi tiểu.
BẢO QUẢN
Bảo quản trong khoảng nhiệt độ từ 2 đến 30oC. Tránh ánh sáng.
Các dẫn chất leucotrienes là những chất trung gian tạo thành từ acide arachidonique, được giải phóng từ tác động của men phospholipases trên phospholipides màng tế bào. Các tác dụng cận tiết của các chất trung gian này, mà chủ yếu là các leucotrienes B4, C4, D4 và E4 (viết tắt lần lượt là LTB4, LTC4, LTD4 và LTE4), cho thấy chúng có thể gây ra sự tắc nghẽn phế quản trong hen. Thật vậy, LTC4 và LTD4 tác động lên 3 thành tố của tắc nghẽn phế quản là cơ trơn, mạch máu và tế bào tiết nhầy, trong khi LTB4 là một yếu tố hóa hướng động mạnh trên bạch cầu đa nhân trung tính và, ít hơn một chút, trên các bạch cầu đa nhân ái toan. Hơn nữa, có sự gia tăng bài tiết trong nước tiểu LTE4 trong những đợt kịch phát hen hoặc sau khi làm thử nghiệm kích thích phế quản với các kích thích tố khác nhau. Tuy nhiên, sự tăng tổng hợp leucotrienes trong hen không hàm ý có mối liên hệ nhân quả. Điều này có vẻ đúng khi chúng ta xem kết quả của một số nghiên cứu thử nghiệm điều trị với các thuốc đối vận cạnh tranh với LTC4 và LTD4 và thuốc ức chế men 5-lipoxygenase (5-LO). Việc điều trị trước với các thuốc ức chế LTC4 và ức chế 5-LO làm giảm đáp ứng với thử nghiệm gắng sức, thử nghiệm tăng thông khí và với aspirine ở những người không dung nạp, tương tự với sự đáp ứng sớm và muộn với thử nghiệm kích thích phế quản bằng dị nguyên. Cần phải chờ kết quả của các thử nghiệm điều trị ở mức độ lớn và kéo dài hơn trước khi có thể khẳng định vai trò của các thuốc này trong điều trị hen.
Từ khóa: Leucotrienes. Hen. Tăng tính kích thích phế quản.
Dẫn nhập
Vào năm 1990, một nhóm chuyên gia của Hội Phổi nói tiếng Pháp đã định nghĩa hen là « khó thở từng cơn, thường xuất hiện về đêm, tự hồi phục hoặc do điều trị và gây ra bởi sự tắc nghẽn phế quản thứ phát do các cơ chế miễn dịch hay cơ chế khác. Một đặc trưng của hội chứng là tính tăng kích thich phế quản với một số chất đồng vận » (1). Năm 1991, trong các khuyến cáo về hen của « Viện Tim, Phổi và Huyết học Quốc gia Hoa kỳ » định nghĩa rằng « hen là một bệnh lý phổi có các đặc tính sau đây: 1) Tắc nghẽn đường dẫn khí có hồi phục (nhưng không hoàn toàn ở một số bệnh nhân) tự nhiên hoặc do điều trị ; 2) Viêm đường dẫn khí ; 3) Tăng đáp ứng phế quản với một số kích thích tố » (2).
Trong hai định nghĩa này, chúng ta thấy có 3 yếu tố chung: 1) sử dụng từ tắc nghẽn phế quản hơn là co thắt phế quản; 2) tính chất hồi phục của sự tắc nghẽn phế quản; 3) không có tính đặc trưng về cơ chế bệnh sinh. Hơn nữa, có vài sự khác biệt giữa 2 định nghĩa này: 1) trong định nghĩa thứ hai, hen là một bệnh, trong cái đầu tiên lại là một hội chứng, có nghĩa là một nhóm các triệu chứng xảy ra đồng thời ở một số bệnh lý khác; như vậy vấn đề thực thể của hen được đặt ra một cách rõ ràng. 2) trong định nghĩa thứ hai đặt ra tình trạng viêm khí đạo, danh từ khá mơ hồ và trong định nghĩa thứ nhất là cơ chế miễn dịch hay cơ chế khác, mà điều này lại ít cụ thể hơn nữa. Và sự khó khăn trong định nghĩa hen còn lớn hơn nữa ở các bác sĩ nhi khoa, mà theo họ « hen là một bệnh lý trong đó các ran rít và/hoặc các đợt ho xuất hiện trong một bối cảnh lâm sàng mà hen có thể xảy ra và các bệnh lý khác hiếm gặp hơn đã được loại trừ » (3).
Chúng ta cũng không khỏi ngạc nhiên khi thấy không đề cập đến việc hen là một bệnh lý đa yếu tố có tính chất gia đình trong đó tác dụng của các yếu tố di truyền (4,5) có thể là đa gen và của các yếu tố môi trường có liên quan mật thiết với
Hen và tình trạng viêm phế quản
Một tiến bộ có tính chất quyết định trong sự hiểu biết về hen đã xảy ra trong thập kỷ vừa qua. Đó là từ khoảng mươi năm nay việc tiến hành nội soi phế quản trong hen đã phát triển, cho phép phân tích dịch rửa phế quản và nhất là sinh thiết phế quản. Nhờ vào sự tiến bộ kỹ thuật này mà hai vấn đề thiết yếu đã được tìm ra. Đầu tiên là « … hen ngay cả trong các thể lành tính, là một bệnh lý viêm mãn tính và kéo dài (của khí đạo), gây ra phần lớn (nếu không muốn nói là tất cả) các triệu chứng và các bất thường về chức năng của đường dẫn khí mà trước đây đã được mô tả bởi các bác sĩ và các nhà sinh lý học » (7). Điều thứ hai là các tổn thương mô bệnh học rất đặc hiệu và tương tự như trong hen dị ứng, hen nội sinh và trong hen do tiếp xúc nghề nghiệp với các chất vi phân (7,8).
Trong hen ổn định, tính chất đặc hiệu của các sang thương dựa vào sự có mặt của ba loại tế bào: tế bào lympho hoạt hóa, tế bào đa nhân ái toan và tế bào mast ; dựa vào sự tăng sản của các tế bào sợi dạng cơ trơn trong lớp dưới niêm mạc, là những tế bào chịu trách nhiệm tăng tiết và lắng đọng collagen loại I, III và V làm dày màng đáy của tế bào nền niêm mạc. Đọc giả sẽ tìm thấy trong các tạp chí tổng quan (7,8) hay trong các quyển kỷ yếu hội nghị (9,10) gần đây những chi tiết về các tổn thương mô học và rất nhiều tài liệu tham khảo về đề tài này.
Ngược lại với một ý kiến khá phổ biến, các tế bào bạch cầu đa nhân trung tính không vắng mặt trong dịch viêm của phế quản trong bệnh hen. Bạch cầu đa nhân trung tính cũng là một loại tế bào chủ yếu có mặt trong các mẫu sinh thiết thu thập được trong lúc phản ứng phế quản muộn bằng một kích thích dị nguyên ở phòng thí nghiệm và có nhiều khả năng xảy ra thứ phát sau sự tiếp xúc tự nhiên với một dị nguyên đường thở mà người bệnh nhạy cảm, như trong hen kịch phát, với phấn hoa chẳng hạn. Như vậy trong phế quản của những bệnh nhân hen có nhiều loại tế bào có khả năng tương tác lẫn nhau nhờ vào mạng lưới các cytokines và có khả năng tác động vào các thành tố của sự tắc nghẽn phế quản. Để minh họa tầm quan trọng của mạng lưới cytokines, chỉ cần kể ra sự sản xuất từ các tế bào lympho T loại Th2 các cytokines IL-3, 4, 5, 10, 13 và “yếu tố kích thích tủy sinh mô bào/đại thực bào”, sự sản xuất IL-4, IL-5, IL-6 và cytokine tiền viêm TNF-α bởi tế bào mast, sự sản xuất cytokine tiền viêm IL-1, IL- 8 và yếu tố kích thích tủy sinh mô bào/đại thực bào (GM-CSF) bởi các tế bào nội mạc cũng như nhiều cytokines của tế bào sợi (11). Trong khi đó IL-3 thúc đẩy sự trưởng thành và biệt hóa tế bào mast, GM-CSF và IL-5 có cùng vai trò với bạch cầu đa nhân ái toan, IL-4 là không thể thiếu được để chuyển các tế bào lympho B sang sản xuất kháng thể IgE. IL-8 là yếu tố hóa hướng động của bạch cầu đa nhân trung tính, TNF-α và IL- 1 là các cytokines tiền viêm.
Các tế bào gây tổn thương viêm trong hen cũng sản xuất các dẫn chất trung gian cận tiết tác dụng theo chuỗi đến các thành tố của tắc nghẽn phế quản, cơ trơn, mạch máu và các tuyến nhầy phế quản. Quan trọng nhất là các dẫn chất tiết bởi tế bào mast, một số được tổng hợp trước như histamine và các proteases chymase và tryptase, một số khác được tổng hợp mới như là prostaglandine D2 và leucotriene C4 (LTC4). Bạch cầu ái toan sản xuất LTC4 một loại protein chính có tính kiềm, yếu tố hoạt hóa tiểu cầu (PAF-acéther), bạch cầu đa nhân trung tính sản xuất elastase, leutriene B4 (LTB4) và tế bào biểu mô sản xuất prostaglandine E2 và các dẫn chất của acide arachidonique bằng con đường 5-lipoxygénase. Tiến trình giải phóng các dẫn chất này được hiểu rõ ràng nhất trong chuỗi phản ứng sau khi kích thích phế quản bằng dị nguyên. Sự đáp ứng sớm chủ yếu dựa vào sự giải phóng các dẫn chất từ các bạch cầu đa nhân ái toan và một phần từ bạch cầu đa nhân trung tính (7).
Một chuỗi những hiện tượng tương tự đã được chứng minh trong hen liên quan đến sự tiếp xúc với các chất vi phân (8,12). Cũng có những luận cứ chắc chắn cho sự giải phóng LTC4 sau khi uống aspirine trong hen khi có bất dung nạp aspirine (13,14) và trong hen sau gắng sức (15) cho dù sự tham gia của các dẫn chất từ tế bào mast không rõ ràng bằng trong trường hợp kích thích với dị nguyên (16,17). Người ta đã biết một cách tương đối các chất nào được bài tiết và trình tự xuất hiện của chúng sau một thử nghiệm kích thích phế quản ; tuy nhiên trong hen ổn định các cơ chế này ít được biết rõ hơn. Tuy nhiên cũng có những bằng chứng cho thấy có sự giải phóng LTC4 trong trường hợp này (bài tổng hợp số 18). Bạch cầu đa nhân ái toan trong máu ngoại biên sản xuất LTC4 rất nhiều sau kích thích phế quản giống như trong các trường hợp bệnh hen rất nặng (19). Nhưng khi xem xét sự đa dạng của các tế bào viêm trong hen ổn định, không hoàn toàn hợp lý khi suy diễn rằng một dẫn chất duy nhất, sản xuất bởi một loại tế bào nào đó, có thể chịu trách nhiệm hoàn toàn về sự tắc nghẽn phế quản. Ngược lại, có thể hợp lý hơn khi nghĩ rằng có sự sản xuất, tùy theo tình huống, một hỗn hợp các dẫn chất gây ra và duy trì sự tắc nghẽn phế quản.
Tầm quan trọng của hiện tượng thâm nhiễm viêm trong việc sinh ra các triệu chứng hen được chứng minh bằng tác dụng tốt của điều trị với glucocorticoïdes. Điều trị lâu dài có thể làm giảm nhẹ sau vài tuần (20) và biến mất sau nhiều năm (21) các tổn thương mô học đặc hiệu của hen. Hơn nữa, kết quả của các công trình nghiên cứu cho thấy sau vài tuần điều trị bằng glucocorticoïdes sự giảm sản xuất chất GM-CSF của tế bào biểu mô (22) và số lượng tế bào thu thập được trong dịch rửa phế quản, các tế bào mà có chứa các phiên bản gen của IL-4 và IL-5 (23). Ngược lại, khi không điều trị bằng glucocorticoïdes, các tổn thương điển hình của hen kéo dài vì người ta đã tìm thấy chúng ở các bệnh nhân mắc hen nghề nghiệp ngay cả 3 đến 24 tuần sau khi đã ngừng tiếp xúc với các chất độc hại.
Tóm lại, với những kiến thức hiện hành, viêm trong hen khá đặc thù. Trong mọi trường hợp, nó giữ vai trò quan trọng trong tắc nghẽn phế quản và các triệu chứng liên quan đến tắc nghẽn. Nhưng dù sao đi nữa vẫn còn rất nhiều đường dẫn đến cái mà chúng ta có thể mệnh danh là «con đường viêm chung cuối cùng», mà trong số đó được biết rõ nhất là đường dẫn của hen kéo dài hay kịch phát. Chúng ta vẫn chưa có khái niệm rõ về những cơ chế nguyên phát của hen nội tại hay của hen do phản ứng với các chất vi phân mà đóng vai trò làm hapten. Cũng chắc chắn rằng viêm khí đạo không thể giải thích được tất cả ; một kết luận mà từ đó dẫn tới việc nhận thấy các tổn thương trên phế quản giống như những tổn thương trong hen lành tính hay ngay cả trong hen mức độ vừa ở những người có cơ địa dị ứng mà hoàn toàn không có triệu chứng của hen, ngay cả khi các tiêu chuẩn hoạt hóa tế bào lympho đều giảm thiểu trong trường hợp này (25).
Các ứng dụng điều trị
Vì không nắm bắt được các cơ chế tế bào và phân tử cơ bản, khoảng 5% đến 10% số người sống trong những điều kiện môi trường bên trong và ngoài thế giới phương Tây mắc bệnh hen, không có phương thức điều trị nguyên nhân. Tuy nhiên chúng ta có những phương thuốc khá là hiệu quả trên phần lớn các bệnh nhân hen. các biện pháp điều trị này có thể phân thành 2 loại (26): – một là điều trị kiểm soát triệu chứng mà chủ yếu là dùng thuốc đồng vận giao cảm β2 – một đằng khác là điều trị nhằm làm giảm hoặc ngay cả loại trừ các rối loạn miễn dịch và viêm của phế quản: tránh tiếp xúc với những yếu tố môi trường và điều trị chống viêm, mà đầu ngành là corticoïdes, khá hiệu quả trong đa số các trường hợp. Sử dụng bằng đường hít ở liều trung bình, nhất là đối với các thuốc chịu tác dụng của chuyển hóa gan sớm qua chu trình gan-ruột, các thuốc corticoïdes dạng hít không gây tác dụng phụ quan trọng, nhất là ở trẻ em (27). Tuy nhiên, việc sử dụng corticoïdes đường uống và cũng có thể ở những liều hít thật cao cần cho những trường hợp hen nặng khó kiểm soát có thể gây ra nhiều tác dụng phụ của cường vỏ thượng thận do điều trị.
Chính vì điều này mà người ta tiếp tục nghiên cứu các thuốc điều trị mới cho bệnh hen. Điều chắc chắn rằng không có một chất trung gian duy nhất nào gây ra bệnh hen ; tuy nhiên có thể suy ra rằng một số dẫn chất có tầm quan trọng đặc biệt trong sinh lý bệnh của hen và do đó trở nên mục tiêu chính ưu tiên cho các thuốc trị hen. Tỉ dụ như các dẫn chất trung gian sản xuất bởi các tế bào viêm nằm ở cuối đường dẫn viêm và do đó tác động lên các thành tố của sự tắc nghẽn phế quản. Trong số các chất đặc thù này, leucotrienes hiện nay giữ vai trò quan trọng và những bài báo viết về tác dụng của thuốc chống leucotrienes trong hen đang ngày càng gia tăng. Đọc giả quan tâm có thể tìm thấy 3 bài báo mới nhất, thuộc dạng bài tổng quan hơn là nghiên cứu tổng hợp, một dạng phân tích kết quả từ nhiều bài nghiên cứu khác về leucotrienes trong hen và nhiều thư mục tham khảo khác (18,28,29).
Sulfidopeptides leucotriènes và hen
Sinh tổng hợp
Leucotrienes là những chất trung gian tổng hợp tức thì từ acide arachidonique được giải phóng nhờ tác dụng của men phospholipases từ phospholipides màng tế bào. Giai đoạn đầu tiên là chuyển dạng từ acide arachidonique thành acide 5-hydroperoxy-eicosatétraénoïque dưới tác dụng của men 5-lipoxygenase (5-LO) sau đó thành một chất trung gian không bền, leucotriene A4 (LTA4), dưới tác dụng của men 5-LO và một protein hoạt hóa men này, FLAP (five lipoxygenase activating protein). Thủy phân chất LTA4 bằng men hydrolase của LTA4 sinh ra leucotriene B4 trong khi liên kết với glucathion dưới tác dụng của men LTC4 synthase sinh ra LTC4, một chất peptidyl leucotriene. LTC4 sau đó được chuyển thành LTD4 rồi LTE4 dưới tác dụng của các men peptidases.
Sự tổng hợp leucotrienes phụ thuộc vào sự hiện diện của các men cần thiết (29). Men 5-LO chỉ có trong các tế bào dòng tủy. Bạch cầu đơn nhân và đại thực bào sinh LTB4 và LTC4 trong khi bạch cầu đa nhân ái toan là tế bào duy nhất tổng hợp LTC4 và bạch cầu đa nhân trung tính chủ yếu sinh LTB4 (30). Các men LTA4 hydrolase và LTC4 synthetase đã được tìm thấy trong các dịch tiết sinh học và trong nhiều loại tế bào. Điều này cho phép việc sản xuất LTC4 nhờ vào sự hợp tác giữa các tế bào mà khi chúng hoạt động độc lập với nhau không thể có toàn bộ các men cần thiết, như các loại tế bào viêm, tế bào nội mạc, tế bào biểu mô của khí đạo (31,32). Nếu tập hợp các dữ liệu sinh hóa và sinh học tế bào của các tổn thương của phế quản người hen, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng có thể có sự sản xuất quá độ leucotrienes trong hen (xem phần bên dưới). Hơn nữa, có sự gia tăng tổng hợp LTB4 trong bạch cầu đa nhân trung tính trong máu ngoại biên sau một cơn hen do gắng sức (33) và LTC4 bởi bạch cầu đa nhân ái toan trong máu của các bệnh nhân hen (19). Hoạt tính của men 5-LO của bạch cầu đa nhân trung tính trong máu ngoại biên gia tăng trong hen dị ứng hay hen nội sinh (34). Dường như không có sự gia tăng sản xuất của LTC4 do tế bào mast lấy từ dịch rửa phế quản trong hen sau gắng sức (17) và do đại thực bào phế nang ở người bệnh hen (35). Vả lại, các tế bào đơn nhân lưu hành trong máu của bệnh nhân hen do bất dung nạp aspirine sinh ra nhiều LTB4 và LTC4 hơn là ở những người bình thường dưới tác dụng của sự kích thích bằng dung dịch chứa ion canxi (36). Sự kích thích ngoài cơ thể bởi một dị nguyên đặc hiệu của mô phổi hoặc phế quản của bệnh nhân hen dẫn đến sự co thắt phế quản đi kèm với sự giải phóng LTC4, D4 và E4, hiện tượng này bị ức chế bởi chất ức chế tổng hợp leucotrienes (37).
Tác dụng của leucotrienes trên các thành phần của vách phế quản
Nhiều tác dụng cận tiết của leucotrienes cho thấy chúng có vai trò, ít nhất là một phần, trong tắc nghẽn phế quản ở bệnh nhân hen (38). LTB4 là một yếu tố hóa hướng động mạnh đối với bạch cầu đa nhân trung tính và, yếu hơn một chút, đối với bạch cầu đa nhân ái toan (bài tổng quan số 39). Tác dụng hóa hướng động của LTE4 đã được chứng minh trong cơ thể của bệnh nhân hen; 4 giờ sau khi hít LTE4 số lượng bạch cầu đa nhân ái toan và trung tính gia tăng mạnh trong lớp màng đáy của phế quản trong khi số lượng của tế bào lympho và tế bào mast thì không thay đổi (40). Hiện tượng này, dù cơ chế không rõ, có thể gây tác dụng điều hòa dương tính đối với sự sản xuất leucotrienes tại chỗ, góp phần làm gia tăng số lượng tế bào bạch cầu hạt mà bản thân chúng lại gây tăng tiết leucotrienes (40).
Leucotrienes tác dụng lên ba thành phần của tắc nghẽn phế quản là tế bào cơ trơn, các mạch máu và các tế bào tuyến tiết nhầy. Các leucotrienes LTC4, D4 và E4 làm tăng tính thấm vi mạch, chủ yếu ở các tĩnh mạch sau mau mạch. Hiện tượng này khá phổ biến đã được tìm thấy trong phế quản của chuột thí nghiệm Cobaye (41-43). Tuy nhiên, vai trò của sự xuất tiết huyết tương trong các đường dẫn khí vẫn còn mơ hồ. Sự xuất tiết huyết tương ra khỏi thành mạch máu là một yếu tố của phản ứng viêm khí đạo và sự dày thành bên trong vòng cơ trơn, là hậu quả của nó, có thể không đủ mạnh để gây tắc nghẽn phế quản, nếu chỉ có một mình nó. Điều này làm củng cố thêm tác dụng của sự co thắt phế quản bởi sự rút ngắn các cơ trơn phế quản (44). Ngược lại, có thể sự xuất tiết huyết tương là một cơ chế phòng vệ góp phần vào việc thanh lọc lớp mô dưới niêm mạc và lấy đi các dẫn chất trung gian cận tiết có hại (45). Các dẫn chất khác, cũng bị « nghi phạm » trong hen như histamine và bradykinine, thúc đẩy sự xuất tiết huyết tương và ngoài ra còn gây giãn mạch đối với tuần hoàn khí phế quản (46), trong khi leucotrienes lại có tính chất co mạch (47,48); chúng có thể giữ một vai trò quan trọng hơn cả leucotrienes trong những bất thường của vi tuần hoàn phế quản trong bệnh hen. Thực vậy, một khái niệm sinh lý cổ điển cho rằng sự giãn mạch phía trước thúc đẩy sự thoát huyết tương trong khi sự co mạch làm giảm nó.
Các leucotrienes C4, D4 và E4 gây ra sự co thắt cơ trơn phế quản và nhu mô phổi ở người ở nồng độ hàng trăm lần thấp hơn so với histamine và có độ mạnh gần như bằng nhau (37,49- 51). Tuy nhiên dường như không có sự khác biệt về khả năng đáp ứng co thắt ngoài cơ thể của cơ trơn phế quản giữa bệnh nhân hen và người không có bệnh (37,52). Leucotrienes C4 và D4 kích thích tiết nhầy ở phế quản người sau khi lấy ra khỏi cơ thể, tác dụng này gia tăng khi tăng nồng độ của các chất đồng vận và bị loại trừ bởi chất đối vận đặc hiệu (53,54). Hơn nữa, ức chế men 5-LO loại trừ tác dụng kích thích của chất PAF-acéther trên sự bài tiết chất nhầy bởi các mẫu phế quản người ngoài cơ thể (55).
Thụ thể của leucotrienes
Gần đây người ta đã chứng minh được có 2 loại thụ thể của leucotrienes trong phổi người (56): một là thụ thể LT-1, gây ra sự co thắt cơ trơn của phế quản người ngoài cơ thể, một tác dụng bị ức chế bởi các chất đối vận của leucotrienes đã được biết ; một loại khác gọi là thụ thể LT-2, gây co thắt các tĩnh mạch phổi người ngoài cơ thể; nhưng khác với các thụ thể của phế quản, nó đề kháng với các chất đối vận hiện hành (56). Cho đến ngày hôm nay, người ta vẫn không biết các thụ thể của động mạch phế quản người thuộc vào loại nào. Người ta có thể cho rằng các leucotrienes nội sinh chống lại với tác dụng giãn mạch các khí đạo, là một thành tố của hen. Nếu như các thụ thể của mạch máu khí phế quản là loại LT-1, sự loại bỏ tác dụng co mạch của leucotrienes có thể làm nặng thêm yếu tố mạch máu của tắc nghẽn phế quản; trong khi đó tác dụng phụ này sẽ không xảy ra nếu như các thụ thể của mạch máu phế quản thuộc loại thứ 2, LT-2. Do đó, chúng ta hy vọng rằng sự phân lập các thụ thể leucotrienes trên mạch máu phế quản người sẽ được tiến hành nay mai.
Cuối cùng, người ta vừa chứng minh được rằng LTD4 qua một protein tăng trưởng IGF-1 (insulin-like growth factor-1) kích thích sự tăng sinh của tế bào cơ trơn phế quản của thỏ qua trung gian của sự giảm sản xuất protein liên kết của protein IGF-1 này (IGF binding protein-2 hay IGF BP-2). Nhờ đó mà các leucotrienes vào liệt vào nhóm các dẫn chất thúc đẩy tăng sinh tế bào cơ trơn trong các đường dẫn khí (57).
Từ bài viết ngắn này các tác dụng trên tế bào trong phòng thí nghiệm và trên cơ thể sống của bạch cầu, chúng ta có thể suy ra rằng các dẫn chất cận tiết có khả năng thu hút bạch cầu hạt đến thành của đường dẫn khí và gây ra sự co thắt cơ trơn phế quản, tăng tính thấm của hệ vi mạch máu của phế quản và sự bài tiết chất nhầy phế quản. Điều này ủng hộ cho vai trò của nó trong hen ở người nhưng không đủ để minh chứng cho điều đó. Trên thực tế về kiến thức y khoa hiện tại, bằng chứng chỉ có thể đem tới từ nghiên cứu lâm sàng.
Leucotriènes và hen trong nghiên cứu lâm sàng
Những lập luận rút ra từ nghiên cứu lâm sàng và ủng hộ vai trò của leucotrienes trong hen đã được trình bày một cách rất đầy đủ gần đây (18, 29) và sẽ không được bàn luận chi tiết ở đây. Những lập luận này là kết quả một phần từ nhận xét của các bệnh nhân hen và phần khác từ các thử nghiệm lâm sàng.
Có sự tăng thải trừ LTE4 trong nước tiểu sau một đáp ứng sớm với kích thích phế quản bằng một kháng nguyên (58-60), sau một cơn hen do gắng sức (61), sau một kích thích phế quản bằng chất PAF-acéther (62) và sau kích thích bằng aspirine đường uống hay qua phế quản ở những người không dung nạp aspirine (59). Mặc dù một số kết quả không thống nhất (15), dường như đã khá rõ ràng là phần lớn các thử nghiệm kích thích phế quản gián tiếp đi kèm với sự sản xuất quá mức LTC4 ; và việc người ta đã tìm thấy một lượng lớn chất này trong dịch rửa phế quản (63-65) cho thấy chúng được sản xuất trong các đường dẫn khí, ít nhất là một phần và điều này, cho dù có mâu thuẫn trong một số kết quả, xảy ra chủ yếu trong hen sau gắng sức (17). Kết quả của một nghiên cứu gần đây đã khẳng định vai trò của leucotrienes trong hen gắng sức. Nhiều bệnh nhân hen có một giai đoạn « đề kháng » sau một cơn hen gắng sức, khi họ làm tiếp một lần gắng sức thứ hai, giống với lần đầu trong vòng hai giờ sau lần gắng sức đầu tiên, thì phản ứng của phế quản giảm mạnh hoặc thậm chí biến mất. Giai đoạn « đề kháng » cũng xuất hiện ở những bệnh nhân hen sau khi hít LTD4, được diễn giải như là phản ứng phản vệ đối với chất leucotriene này. Giai đoạn « đề kháng » có phản ứng chéo ; đáp ứng phế quản với LTD4 giảm mạnh sau hen do gắng sức và ngược lại. Trong cả hai trường hợp, sự bảo vệ có được từ kích thích đầu tiên đối với kích thích lần hai bị giảm đi bởi indométacine. Các kết quả này được diễn giải rằng sự gắng sức, cũng như LTD4, ở bệnh nhân hen gây phóng thích prostaglandines và chất này bảo vệ phế quản chống lại tác dụng sau đó của leucotrienes ngoại sinh hoặc nội sinh (66). Cũng có một lượng lớn chất LTE4 sinh ra trong nước tiểu trong các đợt cấp của hen (58,67) và trong nước tiểu ban đêm của những người bệnh lên cơn hen trong đêm (68). Vả lại, lượng LTE4 thải ra trong nước tiểu của bệnh nhân hen ổn định, ngoài các cơn hen, thì bằng với lượng chất này trong nước tiểu của người không có bệnh (bình thường) (58,69).
Sự tăng sản xuất leucotrienes trong hen không bắt buộc là có mối liên quan nhân quả. Điều này trở nên đúng dựa vào kết quả của các thử nghiệm lâm sàng dùng thuốc đối vận cạnh tranh với LTC4 và LTD4 và chất ức chế men 5-LO. Để có một cái nhìn tổng quát về các kết quả công bố từ năm 1990, bạn đọc có thể tham khảo nhiều hơn ở các bảng 1, 2 và 3 trong bài báo của Chung (32). Ngày nay người ta đã chứng minh rõ ràng là điều trị trước bằng các thuốc đối vận LTC4 và bằng các thuốc ức chế men 5-LO làm giảm đáp ứng phế quản với gắng sức, với tăng thông khí và với aspirine ở những người không dung nạp, tương tự đối với phản ứng sớm và muộn với phản ứng dị nguyên (18, 29).
Một nghiên cứu đã được tiến hành với ICI 204219 hay zafirlukast về tác dụng điều trị với những liều lập lại trong hen ổn định (70). Đây là một nghiên cứu đa trung tâm, có kiểm soát và bệnh nhân được bắt thăm để nhận vào 4 nhóm điều trị song song. Các nhóm bệnh nhân có từ 68 đến 70 người uống hoặc giả dược hoặc zafirlukast với liều 10, 20 hoặc 40 mg trong 6 tuần. Mọi bệnh nhân nghiên cứu đều được điều trị bằng thuốc đồng vận giao cảm ß2 đơn thuần hoặc kết hợp với théophylline ; giá trị của thể tích khí thở ra giây đầu (FEV1) trước điều trị trong khoảng từ 40% đến 75% giá trị lý thuyết ước tính ; tất cả đều tăng ít nhất 15% của FEV1 sau khi hít thuốc đồng vận β2 giao cảm hoặc có tính tăng kích thích phế quản khi tiếp xúc với méthacholine ; họ được xếp vào nhóm hen nhẹ hoặc vừa. Nhìn chung, có sự giảm thiểu số lần thức giấc do hen, các triệu chứng hen buổi sáng và trong ngày và cải thiện nhẹ FEV1. Xem xét các bảng kết quả chính gốc với các giá trị trung bình và khoảng dao động chuẩn của chúng, người ta nhận thấy có sự khác nhau lớn trong đáp ứng điều trị giữa các bệnh nhân. Rõ ràng là có sự khác nhau lớn trong tác dụng bảo vệ của liều duy nhất thuốc chống leucotriene đối với thử nghiệm kích thích phế quản. Một số người được bảo vệ rất rõ, một số chỉ được bảo vệ một phần và một số khác thì hoàn toàn không được bảo vệ. Tương tự như vậy đối với sự kích thích phế quản bằng dị nguyên (xem hình 2 trong bài ref. 71), với hen sau khi tiếp xúc với aspirine (xem hình 1 trong bài ref. 72) và với hen sau gắng sức (xem hình 2 trong bài ref. 73 và hình 2 trong bài ref. 74). Các kết quả tương tự cũng được tìm thấy đối với các thuốc tương tự : zileuton (75) và pranlukast (76). Cho dù vai trò của LTB4 trong hen vẫn chưa được chứng minh rõ ràng (77), một nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng việc sử dụng một thuốc đối kháng đặc hiệu như là LY 293111, làm giảm đáng kể sự thâm nhập bạch cầu đa nhân trung tính trong hen do dị nguyên (78). Tuy nhiên, có sự bất đồng giữa tác dụng chống viêm quan sát được và sự thiếu cải thiện đáng kể của FEV1 trên những bệnh nhân được thử nghiệm (78).
Về vấn đề dung nạp, trong các nghiên cứu lâm sàng được tiến hành cho đến nay, các thuốc đối vận leucotrienes gây ra rất ít tác dụng phụ. Các kết quả này cần được khẳng định bằng việc sử dụng thuốc trên bình diện rộng hơn.
Kết luận
Tóm lại, leucotrienes chắc chắn giữ một vai trò trong bệnh lý hen. Tuy nhiên, có vẻ như là ở một số bệnh nhân hen, các chất cysteinyl leucotrienes là yếu tố chính gây co thắt phế quản trong khi ở một số bệnh nhân khác, không cách nào phân biệt được họ trên lâm sàng, các dẫn chất trung gian khác sẽ gây ra tắc nghẽn phế quản (nhiều hơn là leucotrienes) (79). Và dựa theo kết quả các thử nghiệm điều trị đã được công bố hiện nay, điều này gây khó khăn cho việc nhận định vai trò của thuốc đối vận leucotrienes và thuốc ức chế men 5-LO trong điều trị tận gốc hen.
Để tiến xa hơn trong lĩnh vực này, có ba khả năng có thể hướng tới. Đầu tiên là làm phân tích tổng hợp của nhiều thử nghiệm lâm sàng khi đã có đủ số lượng bài được công bố, để tìm ra các chỉ số cho phép nhận dạng một hay nhiều nhóm bệnh nhân trong đó leucotrienes là dẫn chất trung gian chủ yếu của tắc nghẽn phế quản. Hướng thứ hai là mô tả rõ đặc tính của các thụ thể của leucotrienes trên đường dẫn khí ở người để định ra chính xác vị trí và mật độ của 2 nhóm thụ thể LT-1 và LT-2 mà đã được biết rõ hiện nay. Hướng thứ ba là thử tìm cách giải thích lý do có sự khác biệt về hiệu quả điều trị bởi thuốc đối vận leucotrienes và thuốc ức chế men 5-LO trong hen tự phát hay trong các thử nghiệm kích thích phế quản gián tiếp như gắng sức hoặc kích thích bằng dị nguyên mà đối tượng có nhạy cảm ; hoặc các hiện tượng đa kiểu hình của một hoặc nhiều gen « chìa khóa » trong tổng hợp leucotrienes hay các thụ thể của chúng, hoặc một sự khác biệt về sự chuyển hóa thuốc được thử nghiệm gây ra sự đào thải thuốc nhanh hay chậm hơn thành các chuyển hóa chất tăng hay giảm tác dụng so với thuốc ban đầu.
Trong khi chờ đợi kết quả của các nghiên cứu lý giải, chúng ta nên khuyến khích các thử nghiệm lâm sàng trên bình diện rộng và trong thời gian dài để có thể xác định (bằng kinh nghiệm) vị trí của các loại thuốc này trong phác đồ điều trị hen mà hiện nay chủ yếu còn dựa vào sự phối hợp của corticoïdes và thuốc đồng vận giao cảm β-2.
Thương thực “hay phát ở những người tạng phủ yếu ớt, những người giàu sang an nhàn trong tỳ vị đã hư lạnh, ngoài thân thể lại lười vận động, thì đồ ăn cũ chưa tiêu đồ ăn mới lại tống vào, tì vị yếu không tiêu hóa nổi mà thành chứng tích thực” (Nam dược thần hiệu – Thương thực). Nội kinh viết “Án để nuôi sống ta là do ta làm nên, ăn mà làm hại sự sống của ta cũng là do ta làm nên”. Tố vấn – Tý luận viết: ăn uống gấp bội, tì vị sẽ bị tổn thương, (ẩm thực tự bội, trường vị nãi thương). Như vậy có thể hiểu thương thực là do ăn uống thái quá, tì vị tổn thương không tiêu hóa được thức ăn gây nên.
Về điều trị, chủ yếu chữa vào tì vị.
Triệu chứng: bệnh nhẹ thì không muốn ăn, đau bụng đầy bụng, họng chua, miệng có hơi thối, hăng, mạch hoạt hữu lực. Bệnh nặng thì thêm nôn mửa, đau bụng đi ỉa hoặc phát sốt phát rét đau đầu hoặc ỉa khó phân khô vón, hoặc mê đi.
Phương thuốc: (Trích từ Thuốc nam châm cứu, thương thực)
Củ gấu (hương phụ)
20g
Vỏ quýt (trần bì)
12g
Vỏ với (hậu phác)
12g
Vỏ rụt (mộc hương) 16g
Chỉ xác
12g.
Có thể thêm Sơn tra
12g
Thần khúc
12g
Để tiêu thực.
Nếu có mửa, ỉa lỏng thì bỏ Chỉ xác thêm Hoắc hương 16g.
Nếu phân trắng, nhiều nước thì bỏ Chỉ xác, thêm Sa nhân 12g, Can khương 4g. Nếu phân khô mê sảng thêm Đại hoàng 12g.
Ý nghĩa: Củ gấu để lý khí trong huyết khai uất, lợi tam tiêu, Vỏ rụt Trần bì, Hậu phác Chỉ xác để hành khí, đưa khí đi xuống. Tam tiêu thông khí của trường vị, thông thì tiêu được thức ăn.
Hoắc hương để hóa trọc để chỉ nôn ỉa. Sa nhân Can khương để ôn trung tán hàn tỉnh tỳ lí khí để cầm ỉa.
Đại hoàng để thông phủ khí. Phủ khí thông thì thần sẽ tỉnh lại.
Vỏ quýt
Phương thuốc (trích từ Nam dược thần hiệu – thương thực)
Hoắc hương 1 phần Trần bì 1 phần
Hậu phác 1 phần Nước gừng 1 phần
Sắc uống
Phép điều trị thứ 2:
Có thể phân ra điều trị ở thượng tiêu, ở trung tiêu, ở hạ tiêu tùy triệu chứng nổi bật.
Triệu chứng ở thượng tiêu: mới ăn, thức ăn nằm ở thượng quản, bụng đầy tắc, đau đầu, buồn nôn muốn nôn, tâm phiền.
Phép điều trị: làm nôn
Phương thuốc: Diêm thang thám thổ thang (Thiên kim phương) Muối ăn sắc với nước để có nước muối bão hòa, uống và ngoáy họng cho nôn.
Phương thuốc: Qua đế tán (Thương hàn luận – Nam dược thần hiệu)
Qua đế (cuông dưa đá) 1 Xích tiểu đậu 1
Mỗi vị tán mịn để riêng. Khi dùng thì hợp lại, mỗi lần 1 – 3g uống với nước sắc Đậu xị (9g). Thêm ngoáy họng cho nôn.
Ý nghĩa: Qua đế để gây nôn đờm dãi thức ăn, Xích tiểu đậu để trừ thấp trừ phiền đầy. Đậu xị giúp tông tà khí ở ngực (thức ăn, đồm dãi) ra làm cho ngực thông thoáng.
Triệu chứng ở trung tiêu
Thức ăn ở trung quản, nuốt chua, ợ thôi, bụng trên hoặc trên rốn trướng đau.
Phép điều trị: Tiêu thực đạo trệ
Phương thuốc: (trích từ Nam dược thần hiệu – Thương thực)
Thanh bì 1 cân ngâm nước bỏ chất đắng cạo bỏ cùi trắng
Muối ăn 51ạng Chích cam thảo 61ạng
Hồi hương 41ạng Nước 2bát
Nấu khuấy liền tay cho cạn nước, để nhỏ lửa sấy khô. Bỏ trướng. Cam thảo để hòa vị. Thanh bì để hành khí, đưa khí đi xuống.
Phương thuốc: Bình vị tán (Cục phương) gia vị
Thương truật
5 đồng cân
Hậu phác
3 đồng cân
Trần bì
3 đồng cân
Cam thảo
1,5 đồng cân
Sinh khương
31át
Đại táo
4 đồng cân
Ý nghĩa: Thương truật để trừ thấp vận tỳ. Hậu phác để hành khí tiêu trướng đầy. Trần bì để lý khí hóa trệ. Cam thảo để hòa trung sắc với Khương táo để điều hòa tì vị.
Thêm Thần khúc, Sơn tra, Mạch nha Lại phục tử (La bặc tử) để tiêu các loại thức ăn ứ trệ, Tân lang Chỉ thực để hạ khí tiêu trướng đầy.
Nếu có thêm biểu hiện ăn kém, không muôn ăn, ăn xong một lúc bụng trướng lên, là đã có tì hư.
Phép điều trị: Kiện tì tiêu thực
Phương thuốc: Đại an hoàn (Y phương tập giải)
(Tức là bảo hòa hoàn gia bạch truật)
Sơn tra
6 đồng cân
Thần khúc
2 đồng cân
Bán hạ
3 đồng cân
Phục linh
3 đồng cân
Trần bì
1 đồng cân
Liên kiểu
1 đồng cân
La bặc tử
1 đồng cân
Bạch truật
2 đồng cân
Ý nghĩa: Sơn tra Thần khúc La bặc tử để tiêu hóa các loại thức ăn. Phục linh, Trần bì, Bán hạ để kiện tỳ thảm thấp, lý khí hóa đờm chỉ nôn, Liên kiều để thanh nhiệt tán kết do thực tích gây nên.
Phương thuốc {trích từ Nam dược thần hiệu – thương thực)
Củ mài sao (Hoài sơn) Bạch chỉ tẩm mật 1 đêm sao khô. Hột sen sao. Lượng bằng nhau. Tán mịn làm hoàn bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 40 – 50 viên với nước cơm. Có thể uống với nước sắc Trần bì. Hậu phác, nước gừng.
Ý nghĩa: Củ mài, Hạt sen để kiện tỳ tiêu thực, Trần bì, Hậu phác để lý khí hóa trệ, hành khí tiêu trướng, Bạch chỉ gừng để tiêu thực ôn trung tán hàn, sơ tà.
Triệu chứng ở hạ tiêu
Ăn xong đã lâu, bụng dưới trướng sệ, đau quanh rốn không cho sờ nắn bụng, nhiều ngày không đi ỉa được vì ỉa không thông.
Phép điều trị: Thông hạ.
Phượng thuốc: Đại thừa khí thang (Thưdng hàn luận)
Đại hoàng 12g Mang tiêu 9g
Chỉ thực 12g Hậu phác 15g
Ý nghĩa: Đại hoàng để thông đại tiện, sạch trường vị, tiết nhiệt, Mang tiêu làm mềm phân, giúp Đại hoàng thông hạ dễ dàng hơn. Hậu phác Chỉ thực để hành khí tán hết tiêu kết tiêu trừ tắc đày ở bụng.
Chú ý: Khi phủ khí đã thông thì ngừng thuốc ngay.
Vài điều căn dặn:
Chữa thương thực phải hỏi bệnh nhân ăn loại thức ăn nào để chọn thuốc tiêu thực.
Nếu ăn các loại thịt thì dùng Sơn tra, Thảo quả. Nếu ăn ngũ cốc nhiều thì dùng Mạch nha, Cốc nha, Thần khúc, Sa nhân, Kê nội kim. Nếu ăn trứng nhiều thì dùng gừng, tỏi, hoặc Đậu khấu Trần bì, Đậu xị, gừng. Nếu ăn cơm nếp dùng rượu sao thuốc, hoặc cơm nếp sao than để uống. Nếu ăn thức ăn sống lạnh, hoa quả thì dùng Mộc hương, Sa nhân, Bào khương, Nhục quế. Nếu ăn tôm cua cá, thì dùng Tô diệp, Kinh giới, Trần bì, Mộc hương, gừng.
Viên nén dễ bẻ 2 mg: vỉ 10 viên, hộp 10 vỉ – Bảng B.
THÀNH PHẦN
cho 1 viên
Tizanidine chlorhydrate
2 mg
DƯỢC LỰC
Sirdalud là thuốc dãn cơ tác động tại hệ thần kinh trung ương. Vị trí tác dụng chủ yếu tại tủy sống, kích thích thụ thể a2 tại vùng tiền synape, ức chế phóng thích các acid amin có vai trò kích thích thụ thể N-methyl-D-aspartate. Ức chế dẫn truyền thần kinh đa tiếp hợp tại tủy sống, là đường dẫn truyền làm tăng trương lực cơ, do đó thuốc có tác dụng ức chế và làm giảm trương lực cơ. Ngoài ra, Sirdalud cũng có tác dụng giảm đau trung ương vừa phải.
Sirdalud hữu hiệu trong trường hợp cơ bị co thắt gây đau cấp tính cũng như trên sự co cứng mãn tính có nguồn gốc não và tủy sống. Sirdalud làm giảm sự đề kháng các động tác thụ động, làm dịu cơn co giật và chứng giật rung và cải thiện các động tác chủ động của cơ bắp.
DƯỢC ĐỘNG HỌC
Sau khi uống thuốc, Sirdalud được hấp thu nhanh và gần như hoàn toàn. Đỉnh hấp thu trong huyết tương đạt được sau 1 giờ. Độ khả dụng sinh học là 34%. Thể tích phân phối đạt được sau tiêm tĩnh mạch là 2,6 l/kg. Dược động học không bị ảnh hưởng bởi tuổi. Thuốc được chuyển hóa chủ yếu ở gan. Các chất chuyển hóa hầu như không có hoạt tính. Phần hoạt chất không bị biến đổi cũng như các chất chuyển hóa được đào thải phần lớn theo nước tiểu (khoảng 70%
dưới dạng đã chuyển hóa, chỉ có 2,7% dưới dạng không đổi). Thời gian bán hủy từ 2 đến 4 giờ. Tỷ lệ gắn kết protein huyết tương thấp (30%). Thức ăn không ảnh hưởng đến dược động học của Sirdalud.
CHỈ ĐỊNH
Co thắt cơ gây đau:
trong các rối loạn cân bằng và chức năng ở vùng cột sống (hội chứng ở cổ hoặc ở thắt lưng, như chứng vẹo cổ hoặc chứng đau lưng) ;
sau phẫu thuật, như phẫu thuật thoát vị đĩa sống hoặc viêm xương khớp ở háng.
Tình trạng co cứng do thần kinh: bệnh xơ cứng rải rác, bệnh tủy sống mãn tính, bệnh thoái hóa cột sống, tai biến mạch máu não và liệt não.
CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Quá mẫn cảm với thuốc, suy gan nặng.
THẬN TRỌNG LÚC DÙNG
Do đã có trường hợp suy gan khi dùng tizanidine với liều 12 mg, khuyến cáo theo dõi chức năng gan trong 4 tháng đầu ở bệnh nhân sử dụng liều >= 12 mg, và khi bệnh nhân có triệu chứng gợi ý suy chức năng gan như buồn nôn, chán ăn, mệt mỏi. Ngưng thuốc khi SGOT và SGPT cao gấp 3 lần bình thường.
Ở bệnh nhân suy thận (độ thanh thải creatinine < 25 ml/phút), nên dùng liều khởi đầu 2 mg/ngày. Tăng liều dần từ từ tùy theo dung nạp và hiệu quả. Nếu có cải thiện, nên dùng 1 lần 1 ngày trước khi tăng lên vài lần 1 ngày.
Những bệnh nhân cảm thấy buồn ngủ khi bắt đầu dùng thuốc không được làm các việc đòi hỏi phải tỉnh táo như lái xe, hoặc vận hành máy.
Kinh nghiệm sử dụng Sirdalud cho trẻ em còn giới hạn.
LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ
Sirdalud không gây quái thai trên súc vật. Tuy nhiên, tính an toàn khi sử dụng cho phụ nữ mang thai còn chưa được khẳng định không nên dùng.
Sự hiểu biết về sự bài tiết của thuốc qua sữa mẹ hiện nay còn hạn chế.
TƯƠNG TÁC THUỐC
Nếu dùng đồng thời với thuốc hạ huyết áp hoặc thuốc lợi tiểu, đôi khi có thể làm tụt huyết áp và chậm nhịp tim.
Rượu và thuốc an thần có thể làm tăng tác dụng an thần của Sirdalud.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN
Nếu dùng theo liều khuyến cáo để điều trị chứng co thắt cơ gây đau thì rất hiếm gặp các tác dụng phụ và nếu xảy ra thì chỉ nhẹ và thoáng qua, bao gồm buồn ngủ, mệt mỏi, chóng mặt, khô miệng và hạ nhẹ huyết áp. Hiếm gặp: nôn, rối loạn tiêu hóa, tăng transaminase thoáng qua.
Ở liều cao hơn liều khuyến cáo trong điều trị chứng giật rung, các tác dụng phụ kể trên xảy ra thường hơn và có thể nặng. Tuy nhiên hiếm khi cần phải ngưng điều trị. Đôi khi có thể bị tụt huyết áp và chậm nhịp tim. Hiếm: yếu cơ, buồn ngủ, rối loạn giấc ngủ, ảo giác. Rất hiếm: viêm gan cấp.
LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG
Làm dịu chứng co thắt cơ gây đau:
Mỗi lần 1-2 viên, 3 lần/ngày. Trường hợp nặng có thể uống thêm 1 hoặc 2 viên trước lúc đi ngủ tối.
Điều trị chứng co cứng, hậu quả của những rối loạn thần kinh:
Liều khởi đầu không vượt quá 3 viên/ngày, chia làm hai hoặc 3 lần ; sau đó mỗi nửa tuần hoặc 1 tuần tăng lên 1 hoặc 2 viên. Tác dụng điều trị tối ưu thường được ghi nhận với liều hàng ngày từ 6 đến 12 viên, chia làm 3 hoặc 4 lần. Không được vượt quá 18 viên (36 mg)/ngày.
QUÁ LIỀU
Vài ca được báo cáo, hồi phục hoàn toàn kể cả trường hợp bệnh nhân uống 400 mg. Triệu chứng: nôn, mửa, hạ huyết áp, chóng mặt, hẹp đồng tử, suy hô hấp, hôn mê.
Điều trị: rửa ruột, sau đó dùng than hoạt tính và tăng bài niệu ; trợ hô hấp và tim mạch. Chưa có thuốc giải độc đặc hiệu.
Đầu dưới xương đùi là vùng giữa lồi cầu và nơi tiếp giáp giữa hành xương với thân xương đùi. Tương đương 9 cm, tính từ bình diện khớp của 2 lồi cầu lên trên.
Gãy đầu dưới xương đùi là gãy trên hai lồi cầu hoặc là gãy một lồi cầu hay là gãy liên lồi cầu.
Tên khác: bệnh Minkowski-Chauffard, vàng da tan huyết bẩm sinh, bệnh hồng cầu hình cầu nhỏ di truyền, thiếu máu hồng cầu hình cầu, thiếu máu tan huyết bẩm sinh, vàng da mạn tính thiếu sắc tố mật-niệu.
Bệnh di truyền gia đình có những đặc điểm như sau: các tế bào hồng cầu có dạng hình cầu, kích thước nhỏ hơn hồng cầu bình thường và dễ vỡ, biểu hiện lâm sàng bởi thiếu máu tan huyết tiến triển thành từng đợt, với vàng da thiếu sắc tố mật-niệu (trong nước tiêu không có sắc tố mật) và lách to.
Căn nguyên
Bệnh di truyền trong đó protein cấu tạo màng tế bào hồng cầu không bình thường (spectrin, ankirin). Bệnh hay di truyền kiểu trội: người mẹ hoặc người cha của bệnh nhi bao giờ cũng mang bệnh, tuy nhiên họ có thể không có biểu hiện lâm sàng.
Màng của những hồng cầu hình cầu thường giảm diện tích hơn, so với thể tích hồng cầu và để ion Na thấm qua một cách không bình thường. Để chống lại sự xâm nhập của natri, vì như thế ion này sẽ phá huỷ hồng cầu, nên trong những hồng cầu này hoạt động phân giải glucose tăng lên. Vì lý do đó mà trong test tự tan hồng cầu ủ trong tủ ấm 37°c, tan hồng cầu được sửa chữa một phần nếu cho thêm glucose; cũng vì lý do trên, phá huỷ hồng cầu tăng lên ở trong lách vì ở đó lượng glucose bình thường không nhiều. Khi truyền máu của một người mắc bệnh hồng cầu hình cầu cho một đối tượng bình thường, thì những hồng cầu của người cho cũng bị phá huỷ ở trong lách (bình thường). Ngược lại, truyền hồng cầu bình thường cho bệnh nhân bị bệnh hồng cầu hình cầu, thì thời gian sống của những hồng cầu này vẫn không thay đổi. Bệnh hồng cầu hình bầu dục di truyền là một biến thể hiếm .
Triệu chứng
THỂ SƠ SINH: bệnh có biểu hiện ngay ở trẻ sơ sinh dưới dạng hội chứng tan huyết. Tuy nhiên bệnh hay có biểu hiện nhất là từ 5 đến 10 tuổi, đôi khi ở tuổi trưởng thành.
THỂ ẨN: những thể bệnh tiềm tàng rất hay gặp. Những bất thường hay được phát hiện ngẫu nhiên khi kiểm tra sức khoẻ ở cha mẹ bệnh nhân.
HỘI CHỨNG THIẾU MÁU: diễn biến thành từng đợt, với những triệu chứng xanh xao, suy nhược nặng. Bệnh nhân có những cơn tan máu với sốt, đau bụng, hồi hộp (nhịp tim nhanh). Cơn tan huyết có thể được khởi động bởi nhiễm khuẩn (nhất là bệnh cúm, hoặc nhiễm parvovirus B19), bởi chấn thương hoặc khi có thai. Những cơn này có thể kèm theo sốc giảm thể tích vì thể tích máu bị đình lưu trong lách, hoặc vì giảm nguyên hồng cầu hoặc giảm toàn bộ tế bào máu, với tủy xương giảm hoạt động (cơn bất sản).
VÀNG DA THIẾU SAC TỐ MẬT- NIỆU: nhẹ, diễn biến thành từng đợt. Phân của bệnh nhân có màu bình thường hoặc sẫm màu. Vàng da xuất hiện khi lượng bilirubin do chuyển hoá hemoglobin tạo thành vượt quá khả năng liên hợp glucose của gan.
LÁCH TO: gần như bao giờ cũng có và đôi khi to đáng kể, đi kèm với những dấu hiệu chèn ép trong ổ bụng. Nếu thấy đau dữ dội trong lách, thì đó là triệu chứng nhồi máu lách. Gan to thường không rõ rệt.
NHỮNG BỆNH KẾT HỢP: thường hay gặp sỏi mật (nên tìm cách phát hiện có hệ thống) và loét cẳng chân.
PHÁT TRIỂN Cơ THỂ KHÔNG BÌNH THUỜNG: có thể thấy bệnh nhân vóc người nhỏ so với tuổi, hộp sọ hình tháp, tật đa ngón, V..V…
ĐIỂU TRA DI TRUYỀN HỌC: thường hay phát hiện thấy những thành viên gia đình của bệnh nhân bị mắc thể bệnh có biểu hiện hoặc thể thô sơ (di tuyền nhiễm sắc thể thân kiểu trội).
Xét nghiệm cận lâm sàng
Máu:
+ Số lượng hồng cầu từ 3 đến 4 triệu trong một pl, nhưng cũng có thể giảm xuống thấp dưới một triệu sau một cơn tan máu. Thiếu máu kèm theo những dấu hiệu tan máu , đặc biệt là tăng số lượng hồng cầu lưới trong máu ngoại vi (tới 95% sau một cơn tan máu).
+ Tỷ lệ các hồng cầu hình cầu hoặc hồng cầu bé hình cầu trong máu cao: đường kính của hồng cầu giảm. Trên các phiến đồ máu nhuộm, những hồng cầu này bắt màu sẫm và không có vùng sáng hình tròn ở giữa như ở hồng cầu bình thường. Tuy nhiên thể tích trung bình hồng cầu (VGM) vẫn bình thường, nhưng hàm lượng trung bình hemoglobin của mỗi hồng cầu (CGMH) tăng cao (trên 32%), tức là hồng cầu ưu sắc thật sự (hoặc tăng sắc thật sự) , đây vốn là đặc điểm của bệnh hồng cầu hình cầu.
+ Tăng bilirubin gián tiếp hoặc bilirubin không liên kết (một dấu hiệu của tan máu).
Lực kháng thẩm thấu của hồng cầu: thường hay bị giảm (tăng tính dễ vỡ dưới áp lực thẩm thấu): tan máu bắt đầu xảy ra ngay trong dung dịch NaCl 0,6- 0,8% (bình thường: 0,45%).
Tự tan máu in vitro: tăng rõ rệt (tự tan máu từ 10-20% trong khi bình thường là từ 0,5-4,5%), và tan máu được sửa chữa một phần khi cho từ thêm trước dung dịch glucose 10% (test này rất đáng tin cậy).
Tủy đồ: tăng sản nguyên hồng cầu. Hemosiderin không nhiều lắm vì lách đã trỏ thành nơi chứa đựng chính của sắt.
Thời gian sống trung bình của hồng cầu: giảm rõ rệt và hồng cầu bị đình lưu ở lách. Thời gian bán huỷ đồng vị phóng xạ của hồng cầu cũng giảm (< 18 ngày). Xét nghiệm đồng vị phóng xạ không cần thiết lắm đốĩ với những thể có biểu hiện lâm sàng, nhưng giúp phát hiện được những thể tiềm tàng.
Chẩn đoán căn cứ vào
Bệnh nhân xanh xao, vàng da nhẹ, khó ở, đau bụng.
Thiếu máu hồng cầu hình cầu, lực kháng thẩm thấu của hồng cầu giảm, test Coombs âm tính.
Chẩn đoán phân biệt: có nhiều trường hợp hồng cầu hình cầu xuất hiện trong những bệnh thiếu máu tan huyết tự miễn, nhưng trong những trường hợp này thì test Coombs dương tính.
Cơn tan máu cấp tính trong bệnh hồng cầu hình cầu di truyền có thể nhầm lẫn với một trường hợp đau bụng cấp tính, với bệnh nhiễm khuẩn, hoặc với bệnh bạch cầu ở trẻ em.
Tiên lượng: tỷ lệ tử vong thấp. Có thể vẫn bị tái phát sau khi cắt lách do tăng sản lách phụ (lách thừa dư).
Điều trị
CẮT LÁCH: tuy cắt lách có thể chữa khỏi vĩnh viễn chứng thiếu máu, nhưng nguy cơ nhiễm khuẩn huyết sau phẫu thuật lại quá cao, nên biện pháp này không được ủng hộ đối với những thể lành tính. Trong những thể mà đình lưu máu trong lách nặng, thì có thể chỉ định cắt lách chọn lọc, giữ lại một phần mô lách để duy trì sức đề kháng với nhiễm khuẩn.
Trong trường hợp sỏi mật, làm siêu âm hàng năm và phẫu thuật cắt túi mật nội soi trong những thể không triệu chứng.
TRUYỀN MÁU: trong trường hợp có cơn tan máu cấp tính, ở trẻ sơ sinh, truyền thay máu.
ACID FOLIC: uông trong trường hợp bệnh có thiếu acid này phối hợp.
GHI CHÚ: Với thuật ngữ hồng cầu biến dang do nhiệt (pyropoìkilocytose), người ta đã mô tả một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thân, kiểu trội, thấy ở người da đen, đặc hiệu bởi sự biến dạng của những hồng cầu (hồng cầu hình cầu, hồng cầu nhỏ), và tan huyết nặng ngay từ tuổi trẻ em còn rất nhỏ.
Mắt là công cụ truyền thần, sở dĩ người ta thường ví những gì người ta cần thiết và yêu thương bảo vệ nó như yêu thương, bảo vệ mắt vậy.
Trung y cho rằng “Can mạch trú Ở mắt, mắt là can khiếu”. Mắt được tư dưỡng của huyết mà trông thấy được. Can tạng là khí quan tàng trữ và điều tiết huyết dịch toàn thân, với mắt có nhiều quan hệ trực tiếp lẫn nhau.
ở xung quanh mắt có rất nhiều huyệt đạo có liên quan với can tạng, cho nên khi lúc can khí ứ trệ, mắt sẽ trở nên đờ đẫn thất thần. Một người có cặp mắt đờ đẫn thất thần, tất nhiên mất đi sức hấp dẫn.
Can huyết bất túc, mắt mất sự dinh dưỡng, có thể dẫn đến bệnh quáng gà, thị lực giảm và hai mắt khô chát. Can hỏa thượng thăng, có thể dẫn tỚi hai mắt đỏ sưng. Nếu như muốn có cặp mắt linh hoạt hấp dẫn, trước tiên cần phải quan tâm can tạng của tự mình.
Người ta thường nói: “Con mắt là cửa sổ của Ịinh hồn” cũng tức là nói, từ con mắt có thể nhìn thấy trạng thái tinh thần của con người.
Trong lúc tinh thần con người bất an, hoặc lúc mỏi vai đau đầu, con mắt sẽ nổi đầy gân máu, đó cũng là triệu chứng khác thường của can tạng.
NHÃN THÔNG NGŨ TẠNG.
“Nội kinh” có nói: “Nhãn (mắt) thông ngũ tạng”, lại nói: “Tinh khí của ngũ tạng lục phủ đều thượng chú ở mắt”. Can chủ mắt đen còn thận chủ con ngươi một chấm đen như mực ở giữa. Cặp mắt con người có thể ngó về quá khứ nhìn về tương lai, biện trắng đen biết đẹp xấu, tựa như nhật nguyệt trên trời vậy. Con mắt sở dĩ có những tác dụng như vậy, đó là vì con mắt vốn có tinh của ngũ tạng lục phủ, lại hợp khí của âm dương, cho nên có tác dụng tuyệt diệu về soi xét vạn vật.
Một khi cơ năng can tạng suy yếu, cơ năng thận tạng cũng sẽ bị ảnh hưởng theo, quan hệ của họ rất mật thiết và cả hai cùng liên quan đến mắt, đồng thời cũng có quan hệ rất nhiều với tuổi tác.
Con mắt như thế nào, đó là triệu chứng thể hiện bên ngoài của can tạng. Trung y cho rằng can thuộc mộc, Thận chủ thủy, thủy sinh mộc, tử là can mẫu là thận, cả hai đều không thể tách rời. Khí can thận sung túc, thì mắt sáng và có thần sắc, khí can thận yếu kém, thì mắt mờ, say sẩm. Xung quanh mắt đen nổi đỏ, có cảm giác đau nhói, đó là can nhiệt. Mắt hay chảy nước mắt, quanh con người có màu vàng khô, đó là can hư. Con ngươi dãn lớn, trắng nhạt thiên nghiêng, đó là thận hư, con ngươi thu nhỏ, hoặc kèm hơi vàng, đó là thận nhiệt. Kết quả là chứng hư hay chứng thực, từ sự biểu hiện của mắt mà được biết.
Tôn Tư Mạo “Dược Vương” đời Đường nói: Bệnh mắt trước tuổi năm mươi, có thể uống Tả Can Thang, sau năm mươi tuổi thì không thể uống Tả Can Thang. Trong mắt cố bệnh, có thể bôi thuốc, không có bệnh không nên tùy tiện bôi thuốc, chỉ có thể dùng thuốc bổ can.
Vì công năng thận tạng suy nhược mà gây ra bệnh mắt, có thể uống “Bát vị hoàn” để tăng cường sức lực thận tạng, nếu dùng thêm Cúc hoa và Câu kỷ, thì có thể dần dần hồi phục nguyên khí, trở nên trẻ tuổi và đầy sức sống.
Chăm sóc đôi mắt để khỏe đẹp
CAN DƯƠNG THƯỢNG CAN DẪN ĐẾN SUY HUYẾT MẮT.
Có nhiều người sau khi uống rượu mắt đều bị sung huyết, đó là vì rượu cồn kích thích can tạng, khiến can tạng trở nên hưng phấn khác thường mà gây ra.
Sức ép tinh thần và phẫn nộ đều có thể tạo thành can khí uất kết ở can tạng xung lên mắt, thì sẽ gây ra can dương thượng cang, làm tổn thương rất lớn đến mắt, ắt phải đặc biệt chú ý.
Y học gia Dương Sĩ Dinh nói: Đại phàm bệnh mắt phần nhiều do nhiệt gây ra, phương pháp chữa trị nên lấy thanh tâm lương can, điều huyết thuận khí làm chủ.
“Nội Kinh” cho rằng: chứng đỏ mắt có ba nguyên nhân: Một là phong trợ, hỏa uất ở trên. Hai là hỏa thịnh “Mùa hè nắng nóng đã đến, bệnh nhân mắt đỏ trong nóng”. Ba là vì khí tà táo làm tổn thương “Táo khí lưu hành, bệnh nhân mắt đỏ” về phương pháp chữa trị, cổ y học gia cho rằng, con mắt đỏ sưng đó chính là do phong hỏa nhập vào giữa can đởm thấp khí không tan, hội tụ mà thành. Trong thời kỳ đầu bệnh mắt, dùng thuốc như can đởm, kèm dược vật tán thấp hỏa, chữa cùng một lúc chứng phong hỏa tháp, dĩ nhiên thuốc đến bệnh trừ. Dùng Long đởm tả can thang, hiệu quả trị liệu tương đối tốt.
CAN TẠNG SUY YÊU DẪN ĐẾN MỎI MẮT.
Công năng can suy yếu nếu không được chữa trị kịp thời , cuối cùng có thể dẫn đến bệnh xơ gan.
Những người công năng can suy yếu, thông thường đều dễ bị mỏi mắt. Đó là can khí suy yếu mà dẫn đến mỏi mắt. Trung y cho rằng “Can huyết bất túc” hoặc “Can huyết hư” sẽ xuất hiện chứng trạng chóng mặt hoa mắt, mất ngủ hay nằm mơ.
Người có tuổi tác cao, tất nhiên phải đối diện với sự khốn đốn của hiện tượng răng bắt đầu lung lay, mắt suy yếu. Có người lo lắng suy nghĩ quá độ’, thì hiện tượng trên cũng sẽ xuất hiện vào tuổi trung niên. Như Hàn Dũ nói về tự mình: “Tuổi chưa đến bốn mươi mà tóc đã bạc phơ, mắt lại mờ, răng đã lung lay”. Đó thuộc về tình trạng nói trên.
Trong phương thuốc dùng trong cung đình các triều đại đã bảo tồn rất nhiều bí phương có liên quan đến cách chữa bệnh mắt, về cách bảo dưỡng con mắt, đó là đề tài quan trọng mà loài người quan tâm đến từ xưa đến nay.
Trong y án đời Thanh, Tang diệp và Cúc hoa là hai loại thuốc Bắc thanh can minh mục thường gặp nhất. Ngự y Trương Trọng Nguyên vì lão Phật gia (Từ Hỵ) soạn cho ra bài thuốc “Minh Mục Diên Linh Hoàn” cũng chỉ dùng Tang diệp, Cúc hoa mỗi thứ hai chỉ mà thôi.
Căn cứ sự ghi lại trong cuốn “Bản thảo cương mục” thì Tang diệp, Cúc hoa đềụ thanh nhiệt tán phong, dưỡng can sáng mắt” uống thường xuyên có hiệu quả tốt.
CÁC CÁCH CHỮA TRỊ BỆNH MẮT
1) Từ thạch (đá nam châm) có thể chữa mờ mắt.
Cuốn “Vân Tiên Tạp Ký” của Phùng Chí đời Đường nói: Có lợi cho mắt chẳng chi bằng Từ thạch, để Từ thạch trong gói nằm, có thể khiến cho mắt lão mà không mò, trong Ninh Vương Cung thường xuyên sử dụng phương pháp này. Y án đời Thanh ghi lại rằng, trong phương thuốc dùng xông mắt của Quang Tự
Để cũng có sử dụng Từ thạch. Vị thuốc này có công hiệu bình can, an thần, sáng mắt.
Từ Chu Hoàn trong “Thiên kim yếu phương” là dùng Từ thạch phối hợp với Chu sa, Thần khúc để chữa mắt mờ, nhìn vật thể không rõ, Từ đó được biết dùng Từ thạch chữa mắt, đã có nguồn gốc lâu dài.
2) Chà xát lòng bàn chân có thể chữa bệnh mắt.
Nghe nói ở đời nhà Thanh có một vị công tử, tuổi mới hai mươi có người cha là thống quân của một tỉnh, gia đình giàu, có. Vào mùa thụ năm ấy, vị công tử đó trúng cử hội thi làng, khách đến mừng đầy nhà. Hai mắt công tử đỏ đột nhiên sưng, đau đến không thể chịu nổi, suốt đêm rên ri. Thế là mời danh y Diệp Thiên Sĩ đến chẩn trị. Thiên Sĩ xem qua và nói rằng: “Bệnh đau mắt ấy của công tử không hề gì, chẳng bao lâu sẽ trị khỏi, chỉ đáng ngại là chỉ trong bảy ngày lòng bàn chân sẽ sinh ung nhọt, khi nhọt độc vỡ ra thì không thể cứu chữa được”.
Ngày thường Diệp Thiên Sĩ khám bệnh cho bệnh nhân một câu có thể phán quyết sinh tử của bệnh nhân, mà chẳng sai chút nào. Cho nên khi nghe câu nói của Diệp Thiên Sĩ vị công tử lo sợ đau buồn, nhiều lần cầu khẩn cứu giúp Thiên Sĩ nội: Lúc này không cần phải Uống thuốc, trước tiên phải tìm cách tán độc, nếu nội trong bảy ngày độc không phát ra, đến lúc đó mới nghĩ cách dùng thuốc. Vị công tử hỏi dùng phương pháp nào để giải độc. Thiên Sĩ nói: Trước hết phải tĩnh tâm, tĩnh tọa, dùng bàn tay trái của mình chà sát vào lòng bàn chân phải ba trăm sáu mươi lần, rồi ngược lại, dùng bàn tay phải chà xát vào lòng bàn chân trái cũng ba trăm sáu mươi lần. Kiên trì như vậy làm bảy lần trong một ngày, bảy ngày sau tôi sẽ trở lại tái khám. Công tử làm y theo lời dặn, bảy ngày sau lại mời Diệp Thiên Sĩ đến tái khám, và nói với Thiên Sĩ rằng: “Thực như sự phán đoán của tiên sinh , bệnh mắt đã lành hẳn nhưng không biết ung nhọt đổ đã phát độc chưa”Thiên Sĩ cười nói: Trước kia tôi nói ung nhọt sẽ phát độc, là lời nói đùa nhất thời , công tử là người trong giới phú quý, mọi sự như ý, chỉ có cái sợ là chết. Chỉ có dùng cái chết để chọc công tử, lúc đó với công tử tất cả đều trở thành vô nghĩa, chỉ một lòng nghĩ đến việc chà xát lòng bàn chân.
Dùng tay xát nóng lòng bàn chân, hỏa khí đi xuống, bệnh mắt sẽ tự khỏi, nếu không thì trong lòng càng phiền, thì mắt càng đau, tuy rằng mỗi ngày có thể uống hình đơn diệu dược, cũng chẳng có ích lợi gì”. Công tử nghe xong cười rất vui vẻ, và hậu tạ Diệp Thiên Sĩ. (Theo “Chí Dị Tục Biên” của Thanh Thành Tử đời Thanh).
Lòng bàn chân là sở tại của huyệt Dũng Tuyền, mát xa huyệt này có thể khai khiến an thần, cũng có hiệu quả chữa trị nhất định đối với chứng bệnh mắt.
Ngoài rạ, còn có thể dùng ngón giữa của hai bàn tay mát xa khóe trong và khóe ngoài con mắt, hoặc dùng ngón tay thứ hai, ba và bốn ấn nhẹ lên mí mắt, lại hoặc dùng ngón cái ấn mạnh vào huyệt Hợp cốc ở giữa ngón cái và ngón trỏ, hoặc đảo mắt nhiều lần cũng có thể loại trừ mệt mỏi, khiến con mắt sáng lên.
NHỮNG PHƯƠNG LÀM ĐẸP SÁNG MẮT
TỨ NGHỊCH TÁN
(“Thương Hàn Luận”).
Hiệu quả:
Có thể loại trừ tinh thần bất an, con mắt đờ đẫn.
Thành phần dược liệu:
Sài hồ, Thược dược, Chỉ xác, Chích Cam thảo mỗi thứ 12gam.
Cách thực hiện: Dùng nước sạch nấu cô tất cả dược vật trên, lấy nước thuốc, bỏ bã thuốc. Hoặc nghiền thành bột nhuyễn, lượng dùng tăng theo tỷ lệ của nguyên phương trên.
Cách dùng:
Uống nước thuốc, 3 lần một ngày.
Giải thích:
Phương thuốc này phù hợp với những người tinh thần bất an, sườn dưới bên phải đau nhói thường xuyên, vùng ngực bụng tức đau, chán ăn; thậm chí đạu.bụng kinh thường xuyên, hoặc chu kỳ kinh nguyệt không đều, mất tính quy luật. Phương này là phương thường chữa trị Can Vị khí trệ trên lâm sàng. Trong phương, Sài hồ có thể sơ can giải uất tiết nhiệt, thấu đạt dương khí. Thược dược có thể dưỡng huyết liễm âm, sơ can giảm đau, Chỉ xác có thể hành khí tán kết, tuyên thông khí trệ. Cam Thảo bổ ích trung khí:, đi với Thược dựợc thì là Thược cam thang có tác dụng hoãn , cấp giảm đau, đối với chữa trị chứng đau vùng ngực bụng có tính co quắp, có hiệu quả rõ rệt.
Nói chung, phương này có công hiệu sơ Can hòa Vị thấu giải uất nhiệt. Trung y cho rằng, mắt rất nhạy cảm về sự biến hóa của tinh thần, tinh thần quá kích động thì sẽ dẫn đến rối loạn công năng tạng phủ, khí huyết bất hòa, kinh lạc trở trệ mà gây ra các. chứng bệnh về mắt. Khi can tỳ khí uất thì sẽ dẫn đến mắt mờ, thị lực giảm sút. Phương thuốc này có thể sơ Can giải uất, thông suốt khí cơ, đồng thời loại trừ tinh thần bất an, nên có tác dụng sáng mắt, làm đẹp mắt.
Vị thuốc Sài hồ
KỶ CÚC ĐỊA HOÀNG HOÀN
(“Y Cấp”)
Hiệu quả:
Chữa chứng hoa mắt nhìn vật thể không rõ, trong mắt khô rít đau, có thể sáng mắt chắc răng, và khử hôi miệng.
Thành phần dược liệu:
Thục Địa hoàng 24gam, Sơn thù nhục 12gam, (khô) Sơn dược 12gam, Trạch tả 9gam, Phục linh 9gam, Đơn bì 9gam, Cức hoa 12gam, Câu kỷ 15gam.
Cách thực hiện:
Dùng nước sắc cô tất cả dược vật trên, lấy nước thuốc, bỏ bã thuốc. Hoặc đem tất cả dược vật trên cùng nghiền thành bột mịn hỗn hợp, rồi cho mật vào trộn đều, vo thành những viên thuốc nhỏ, lượng dùng làm thuốc viên tăng theo tỷ lệ lượng dùng nguyên phương trên.
Cách dùng:
Uống trước bữa cơm, 3 lần trong một ngày.
Giải thích:
Phương này thích hợp cho những người mắt dễ mệt mỏi, nhìn vật thể không rõ, chóng mặt hoa mắt, vùng lưng gối thường xuyên nhức mỏi, yếu sức, hoặc răng lung lay không chắc, lợi răng chảy mủ và hôi miệng, chất lưỡi đỏ thon, rêu lưỡi ít.
Phương này do Lục vị địa hoàng hoàn gia thêm Câu kỷ, Cúc hoa mà thành. Thục địa trong phương này giỏi về tư âm bổ thận, có thể điền cốt tủy, sinh tinh huyết (“Bản thảo cương mục”), đồng thời còn tư thận thủy, ích chân âm (“Trân Châu Nang”). Sơn thù du có thể bổ ích can thận mà sáp tinh. Sơn dược vừa ích tỳ âm lại vừa bổ thận có tinh. Ba vị dược vật vừa nói trên hợp dùng có thể bổ ích Can, Tỳ, Thận. Phục linh đạm thẩm lợi thủy có thể trợ Sơn dược ích tỳ. Đơn bì thanh tiết hư hỏa, có thể trợ giúp Sơn thù du thu liễm hư hỏa. Trạch tả thông điều thủy đạo, khiếm thực địa bổ mà không tư vận.
Tất cả sáu vị thuốc vừa kể trên hợp dùng có tên gọi là Lục vị địa hoàng hoàn, có tác dụng tư bổ thận âm, Câu kỷ có thể dưỡng âm bổ huyết, ích tinh minh mục, có thể tăng cường công hiệu bổ ích của Can, Thận. Cúc hoa có thể sơ phong thanh nhiệt minh mục.
Toàn phương hợp dùng, có tác dụng tư dưỡng can thận, khu phong minh mục. Trung y cho rằng, quan hệ của mắt và can thận rất mật thiết. Như “Tố vấn. Ngũ Tạng Sinh Thành Thiên” nói: “Can thụ huyết mà có thể nhìn thấy được, các vật thể. Can tàng huyết, khai khiếu ở mắt, mắt được tư dưỡng của huyết mà có thể nhìn và biện biệt vật thể. Mắt cần sự sung dưỡng thận tinh mới có thể ánh mắt sắc bén.
Phương thuốc này có thể tư dưỡng can thận, đồng thời thanh nhiệt sáng mắt, nên có thể chữa bệnh mắt, loại trừ ánh mắt đờ đẫn, khiến mắt sáng và có thần sắc.
PHƯƠNG THUÓC RỬA MAT THANH NHIỆT MINH MỤC
(“Từ Hy Quang Trị Chư Y Phương Tuyển Nghị”)
Hiệu quả
Có thể làm sáng mắt, đẹp mắt.
Thành phần dược liệu:
Cam cúc hoa 5gam, Bạc hà 3gam, Xích thược 6gam, Đỏm thảo 5gam, Bạch tật lê 6gam, Cương tằm 5gam.
Cách thực hiện:
Đem tất cả dược vật trên sắc cô với nước.
Cách dùng:
Xông, rửa mắt thường xuyên.
Giải thích:
Phương này là một trong những phương rửa mắt dùng chữa bệnh mắt của Quang Tự Hoàng Đế cuối đời Thanh. Phương này chủ yếu do các loại, dược vật sơ phong thanh nhiệt sáng mắt hợp thành.
Trong phương này, cương tằm có thể chữa chứng đỏ mắt, chảy nước mắt khi gặp phải gió. Bạch tật lê có thể bình can sơ can, có tác dụng chữa trị tốt đối với chứng nhìn vật thể không rõ gây ra do lo lắng uất ức lâu ngày, can khí không sơ thông. Long thảo có thể thanh nhiệt táo thấp, nhất là giỏi về thanh tả can hỏa, còn có thể chữa chứng mắt vàng, và mắt đỏ sưng, đau không thể chịu được (Trân Châu Nang”). Xích thược có thể thanh nhiệt, lương huyết, hoạt huyết, và còn có thể “tả can hỏa (“Dược Phẩm Hóa Nghia”).
Nói chung phương thuốc này có công hiệu sơ phong tán nhiệt, thanh can sáng mắt. Trung y cho rằng, quan hệ giữa can và mắt rất mật thiết, con mắt tựa như tấm gương của can tạng. Khi can thượng xung thì sẽ xuất hiện chứng hạng sợ ánh sáng, chảy nước mắt khô rít ngứa. Vì phương này có thể sơ phong thanh nhiệt, vừa có thể thanh tả can nhiệt, cho nên có thể chữa trị nhiều chứng bệnh đau mắt, đồng thời có thể sáng mắt, đẹp mắt.
PHƯƠNG RỬA MẮT SƯƠNG TANG DIỆP (“Từ Hy Quang Tự Chư Y Phương Tuyển Nghị”)
Hiệu quả:
Có thể chữa chứng mắt đỏ sưng, khô chát đau, nước mắt chảy nhiều, có thể khiến mắt sáng. .
Thành phần dược liệu:
Sương Tang diệp 12gam.
Cách thực hiện:
Đem Sương Tang diệp sắc nấu với nước, sau đó bỏ bã thuốc, lọc lấy nước thuốc.
Cách dùng:
Mỗi ngày sau khi rửa mặt, dùng thuốc rửa mắt.
Giải thích:
Phương thuốc này là phương thuốc bảo kiện dùng để dự phòng bệnh mắt của Từ Hy Thái Hậu đời Thanh. Tang diệp trong phương này tức là lá của cây dâu (dùng nuôi tằm). Vì thông thường gặt hái lá sau khi trời giáng sương, nên có tên gọi là Sương Tang diệp. Vị thuốc này có thể sắc thuốc uống thể trà thường .xuyên, có ích mà không hại. Sương Tang diệp có vị đắng ngọt, tính hàn, có công hiệu sơ phong thanh nhiệt, thanh can sáng mắt. về tác dụng của nó, người xưa đã có nhận thức như trong cuốn “Bản thảo cầu chân” đã nêu rõ, vị thuốc này có thể khu phong sáng mắt, lại như trong cuốn “Phổ tế phương”, dùng vị thuốc này nghiền thành bột nhuyễn, rồi dùng giấy quấn lại, đốt cháy dùng khói xông mũi để chữa chứng mắt đỏ đau, khô rít.
Ngoài ra, trong cuốn “Tập giản phương” còn dùng Sương tang diệp sắc nước dùng rửa mắt chữa chứng phong nhãn chảy nước mắt. Trung y cho rằng, rất nhiều bệnh mắt luôn có quan hệ với phong nhiệt bệnh tà, như mắt mọc lẹo, mắt hột, và đau mắt đỏ, đều có thể do phong nhiệt bệnh tà, phương thuốc này có thể sơ phong thanh nhiệt sáng mắt, cho nên có thể phòng ngừa nhiều chứng bệnh mắt, từ đó mà đạt đến tác dụng bảo hộ con mắt. Dùng phương thuốc này rửa mắt thường xuyên có thể khiến con mắt sáng đẹp.
PHƯƠNG RỬA MẮT THANH MỤC DƯỠNG ÂM.
(“Từ Hy Quang Tự Chư Y Phương Tuyển Nghị”)
Hiệu quả:
Có thể loại trừ chứng bệnh về mắt, đồng thời làm mắt sáng đẹp, khiến cho cặp mắt càng trở nên sáng trong và đẹp đẽ.
Thành phần dược liệu:
Cam cúc 12gam, Sương Tang diệp 12gam, Bạc hà 3gam, Sừng Linh dương 6gam, Sinh địa 12gam, Ha khô thảo 12gam.
Cách thực hiện:
Đem tất cả dược vật trên cùng sắc nấu vái nước. Sau đó vớt bỏ bã thuốc, lọc lấy nước thuốc.
Cách dùng:
Trước tiên dùng nước thuốc xông mắt, sau đó dùng nước thuốc rửa mắt.
Giải thích:
Đây là một trong những phương thuốc rửa mắt dùng chữa chứng bệnh về mắt của Từ Hy Thái Hậu đời Thanh.
Phương này chủ yếu do những dược vật dưỡng âm thanh nhiệt và sơ phong tán nhiệt hợp thành. Trong phương, Cam cúc, Sương Tang diệp, Bạc hà đều có tác dụng sơ phong thanh nhiệt sáng mắt. Trong đó, Bạc hà có thể thanh đầu mục, trừ phong nhiệt (“Dùng dược pháp tượng”). Sinh địa dưỡng âm thanh nhiệt, thanh hư hỏa của can kinh. Sừng Linh dương có tác dụng thanh can sáng mắt, Hạ khô thảo là một vị yếu dược dùng chữa trị bệnh mắt, vị dược này có vị đắng, cay, tính hàn, vào kinh can đởm, giỏi về thanh can hỏa, tán uất kết, có thể “Minh mục bổ can” (“Bản thảo cương mục”), nhất là hiệu quả về chứng đau tròng mắt.
Nói chung, phương này có tác dụng dưỡng âm thanh nhiệt, sơ phong minh mục. Sau khi sử dụng phương này có thể loại trừ nhiều chứng bệnh về mắt, khiến mắt trở nên trong, sáng và đẹp đẽ.
PHƯƠNG MINH MỤC CHẮC RĂNG
(“Từ Hy Quang Tự Chư Y Phương Tuyển Nghị”)
Hiệu quả:
Làm sáng mắt, chắc răng, khiến mắt nhìn thấy vật thể ồ
thật xa.
Thành phần dược liệu:
Hải diêm (muối Biển) 1000gam.
Cách thực hiện:
Lấy muối biển khô, sạch, dùng nước thực sôi để muối hòa tan, rồi lọc qua lấy nước trong, đổ nước muối vào chảo bằng bạc, nấu cô đến nước cạn khô, sau đó lấy muối trong chảo nghiền thành bột, cho vào bình sứ.
Cách dùng:
Mỗi buổi sáng sớm dùng 4gam muối đánh răng, sau đd dùng nước súc miệng, xong đưa ngón tay vào miệng lấy dịch muối trong muối ra rửa bên trong khóe mắt, rồi nhắm mắt lại một lát, sau đó dùng nước sạch rửa lại.
Giải thích:
Muối ăn có nhiều chủng loại, loại thường gặp có Hải diêm (muối biển), tỉnh diêm (muối mỏ) và Trì diêm (muối hồ). Muối ăn là đồ gia vị không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày của con người, những nhận thức về tác dụng làm thuốc của muối thì không được đầy đủ.
Phương thuốc này sở dĩ dùng muối biển, vì nước biển do muối biển nấu cô mà luyện thành; có vị mặn, tính hàn, có thể chữa nhiều chứng bệnh răng, như trong cuốn “Bản thảo cương mục” ghi lại rằng: có thể chữa sâu răng, răng lung lay, đau răng, chảy máu răng, phong nhiệt đau răng, đồng thời có thể sáng mắt, chắc răng. Đó là một vị thuốc bảo kiện tót cho răng, làm chắc răng, sáng mắt. Phương này yêu cầu dùng nước thực sôi để ngâm cho muối tan, vì Trung y cho rằng, nước thực sôi có thể thông kinh lạc, còn có thể chữa “‘chứng đỏ mắt” (“Bản thảo cương mục”). Còn về vì sao phải dùng đồ bằng bạc đựng muối, nghiền muối, đại khái là vì bạc có thể “sáng mắt” và chữa trị “đau răng chứng phong” (“Bản thảo cương mục”).
Phương này vốn xuất từ “Vĩnh Loại Kiềm Phương”; sau đó được Từ Hy Thái Hậu chọn dùng thuốc bảo kiện, làm, sáng mắt, chắc răng từ đó đủ thấy phương này là một nghiệm phương rất có hiệu quả.
MINH MỤC DIÊN LINH HOÀN.
(“Từ Hy Quang Tự Chư Y Phương Tuyển Nghị”)
Hiệụ quả:
Chữa trị chứng mắt đỏ sưng đau, làm cho mắt sáng lanh có thần sắc.
Thành phần dưực liệu:
Sương Tang diệp 30gam, Cúc hoa 30gam.
Cách thực hiện:
Đem hai vị dược vật trên cùng nghiền thành bột mịn, gia thêm luyện mật vào quấy đều, Vo thành viên thuốc lớn cỡ hạt đậu xanh.
Cách dùng:
Mỗi lần 6gam thuốc viên, uống với nước sôi nguội.
Giải thích:
Phương thuốc này là phương cung đình làm sáng mắt của Từ Hy Thái Hậu cuối đời Thanh. Hiện tượng nhìn vật thể không rõ, ánh mắt mò tối, đờ đẫn, thường đem lại cho con người có cảm giác bệnh hoạn, suy lão.
Vì phương thuốc này có thể sáng mắt, nên có tên gọi là Minh Mục Diên Linh Hoàn. Trong phương Tang diệp tươi để nơi mát cho khô, rồi đem cháy thành tro, tính thuốc vẫn còn, sắc nước, dùng nước sắc rửa mắt lâu ngày chữa bệnh thanh manh mắt.
Ngoài ra, trong “Bản thảo cương mục” còn dùng Tang diệp này chữa .chảy nước mắt chứng phong nhãn và chứng mắt đỏ đau, khô chát. Cúc hoa chữa chứng “Đầu mục phong nhiệt” (“Dược Tính Luận”) và hoa mắt. Nhị dược hợp dùng, càng tăng cường sức sơ phong thanh nhiệt thanh can minh mục.
Sử dụng phương thuốc này thường xuyên, không những không dễ bị bệnh mắt, còn có thể khiến mắt sáng sủa và có thần
Sắc. Ngoài ra, phương này có thể làm thành thuốc cao, cách làm là đem hai vị dược vật Sương Tang diệp và Cúc hoa sắc với cô nước, sau đó vớt bỏ bã thuốc, tiếp tục nấu cô thành nưđc đặc, rồi thêm vào một ít mật ong, chế thành thuốc cao để uống. Thuốc cao này có tên gọi là “Minh Mục Diên Linh Cao” đó cũng là một trong những phương dược dùng chữa bệnh mắt của Từ Hy Thái Hậu, có tác dụng tương đồng với “Minh Mục Diêm Linh Hoàn” chỉ là khác về dạng thuốc mà thôi.
Năm 1891, Heinrich Iraneụs Quincke (một bác sĩ nội khoa người Đức) là người đầu tiên thực hành thủ thuật chọc ống sống thắt lưng với chỉ định làm giảm áp lực nội sọ ở bệnh nhân lao màng não khi khả năng điều trị bước vào giai đoạn vô vọng. Bản thân Quincke cũng phát hiện thấy tăng bạch cầu trong dịch não – tủy là chỉ tiêu quan trọng trong bệnh lý viêm hệ thần kinh trung ương.
Năm 1912, Mestrezat tìm thấy mối quan hệ giữa sự thay đổi của thành phần dịch não – tuỷ với các bệnh lý hệ thần kinh.
Năm 1919, Pandy và sau đó là Weed (1935) đã mô tả quá trình sản sinh, tuần hoàn và sự hấp thu của dịch não – tuỷ.
Năm 1937, Merritt và Fremont Smith đã nghiên cứu và thông báo những thay đổi thành phần dịch não – tuỷ trong các bệnh thần kinh khác nhau.
Nhắc lại sinh lý dịch não – tuỷ
Người lớn bình thường có khoảng 150 – 180ml dịch não – tuỷ và được chứa đầy trong các não thất, khoang dưới nhện và các bể não.
Dịch não tuỷ được sinh ra từ đám rối mạch mạc (cơ bản ờ não thất bên), chứa đầy trong các não thất bên, qua lỗ Monro vào não thất 3, qua lỗ Luschka vào khoang dưới nhện của não và qua lỗ Magendie thông với khoang dưới nhện của tuỷ sống. Dịch não – tuỷ được hấp thu trở lại tĩnh mạch bởi các hạt Pacchioni (hình 8.1).
Bình thường, cứ mỗi giờ có khoảng 20ml dịch não – tuỷ được sinh ra và đồng thời một số lượng dịch não – tuỷ đúng như vậy cũng được hấp thu. Như vậy tính ra trong vòng 24 giờ dịch não tuỷ của người ta được thay đổi 3 lần.
Chức năng của dịch não – tuỷ là bảo vệ não bộ và tuỷ sống chống lại những sang chấn cơ học, đồng thời tham gia vào nhiệm vụ dinh dưỡng và chuyển hoá của hệ thần kinh trung ương.
Các thành phần sinh học của dịch não – tuỷ được điều hòa thường xuyên bởi các vùng liên diện (interfaces). Đó là hệ thống các hàng rào: máu – não (blood – brain barrier), máu – dịch não – tuỷ (các đám rối màng mạch) và dịch não – tuỷ – máu (các hạt Pacchioni của màng não).
Các phương pháp lấy dịch và thành phần dịch não – tuỷ
Để lấy dịch não tủy người ta có thể đi qua 3 con đường:
+ Lấy từ não thất (thường được tiến hành kết hợp trong khi phẫu thuật).
+ Lấy từ bể lớn (phương pháp chọc bể lớn hay chọc dưới chẩm), chỉ định trong những trường hợp đặc biệt.
+ Lấy từ khoang dưới nhện cột sống thắt lưng (chọc ống sống thắt lưng), là con đường thường được chỉ định trong thực tế lâm sàng.
Dịch não – tuỷ được lấy từ những vị trí khác nhau có thành phần sinh học khác nhau. Cụ thể một số thành phần như sau:
Bảng 8.1. Một số thành phần chính của dịch não tuỷ ở các vị trí khác nhau (theo Samson)
Thành phần Nơi lấy
Protein toàn phần (mg%)
Globulin
(mg%)
Albumin
(mg%)
Tế
bào/mm3
Đường
(mg%)
Não thất
10-16
1 -4
8-14
0-1
50-90
Bể lớn
16-20
1 -6
14-16
0-2
59-68
Vùng đuôi ngựa
15-45
2-6
14-18
0-3
55-65
– Thành phần đạm trong dịch não tuỷ và trong máu cũng khác nhau (nhìn chung nồng độ các đạm thành phần trong máu cao hơn trong dịch não – tuỷ) như trong bảng sau:
Bảng 8.2. Đạm thành phần trong dịch não tuỷ so với trong máu
Các loại protein
Dịch não – tuỷ (%)
Huyết thanh (%)
Albumin
57,3
69,3
a-i globulin
6,1
2,8
a2 globulin
11,0
8,2
p globulin
9,2
9,6
Y globulin
16,5
16,7
Theo Mumenthaler nồng độ muối clorua trong dịch não tuỷ vào khoảng 680 – 760mg% (cao hơn trong máu). Tỷ lệ NaCI trong dịch não tuỷ/NaCI trong máu vào khoảng 1,2/1,0).
Ngoài ra, trong dịch não tuỷ còn có hormon của tuyến yên, vitamin c và một số men (amylase, oxydase, lipase).
PHƯƠNG PHÁP CHỌC ỐNG SỐNG THẮT LƯNG (LUMBAL PUNCTURE) VÀ CÁC CHỈ ĐỊNH THÔNG THƯỜNG
Phương pháp chọc ống sống thắt lưng lấy dịch não – tuỷ là phương pháp chẩn đoán quan trọng thường được sử dụng trong lâm sàng.
Chỉ định
Để chẩn đoán:
+ Nghiên cứu về áp lực dịch não tuỷ, sự lưu thông dịch não tuỷ.
+ Xét nghiệm dịch não tuỷ (sinh hoá, tế bào, vi sinh vật, độ pH, định lượng các men, các chất dẫn truyền thần kinh…).
+ Chụp tuỷ, chụp bao rễ có bơm thuốc cản quang.
Để điều trị (đưa thuốc vào khoang dưới nhện tuỷ sống):
+ Các thuốc gây tê cục bộ phục vụ mục đích phẫu thuật.
+ Các thuốc kháng sinh, các thuốc chống ung thư, corticoid v.v… để điều trị các bệnh của hệ thần kinh trung ương hoặc các bệnh rễ – dây thần kinh.
+ Theo dõi kết quả điều trị.
Chống chỉ định
Tăng áp lực trong sọ.
U não.
Phù nề não nặng.
Tổn thương tuỷ cổ.
Nhiễm khuẩn ở vùng da thắt lưng (vùng chọc kim).
Rối loạn đông máu (bệnh ưa chảy máu, giảm tiểu cầu, các bệnh nhân đang được điều trị chống đông máu).
Các tai biến có thể gặp
Tụt kẹt não.
Nhiễm khuẩn (áp – xe vị trí chọc, viêm màng não mủ…).
Đau đầu sau chọc ống sống thắt lưng.
Chảy máu (gây ổ máu tụ ngoài màng cứng hoặc chảy máu dưới nhện…).
Quy trình kỹ thuật chọc ống sống thắt lưng
Công tác chuẩn bị
Chuẩn bị các dụng cụ cần thiết: các loại thuốc cấp cứu và gây tê, xăng – gạc, bông cồn, kim chuyên dùng, các ống nghiệm đựng dịch não tuỷ, găng tay. Kim chọc ống sống thắt lưng là kim chuyên dùng (kim Quincke) có độ lớn 20 – 22G.
Chuẩn bị bệnh nhân:
+ Cho bệnh nhân soi đáy mắt, ghi điện tim, xét nghiệm máu đông máu chảy, thử phản ứng thuốc gây tẽ, theo dõi mạch, huyết áp.
+ Chuẩn bị tư tưởng cho bệnh nhân: giải thích mục đích thủ thuật, động viên khích lệ, có thể cho dùng thuốc trấn tĩnh vào tối hôm trước nếu xét thấy cần thiết.
+ Khi tiến hành thủ thuật để bệnh nhân nằm ở tư thế co nghiêng, đầu gối sát bụng, đầu gập vào ngực, hai tay ôm đầu gối. Bộc lộ vùng thắt lưng, sát trùng rộng vùng chọc kim (lần đầu bằng cồn iod, sau đó sát trùng lại bằng cồn trắng hai lần), phủ xăng có lỗ, để hở vùng chọc.
Nhân viên (hai hoặc ba người tuỳ theo khả năng phối hợp của bệnh nhân): mang mũ, khẩu trang, móng tay cắt ngắn, vô trùng tay, mang găng tay.
Xác định vị trí và đường chọc
Vị trí chọc là các khoang gian đốt sống thắt lưng. Vì tuỷ sống kéo dài tới tận đốt sống L2 nên để tránh gây tổn thương tuỷ người ta thường chọc qua các khe gian đốt sống L3 – L4; L4 – L5 hoặc khe L5 – S1.
Đường chọc thường được chọn là đường giữa (đường nối các mỏm gai của các đốt sống hay còn gọi là trục cột sống). Trong trường hợp không thể sử dụng được đường giữa (các bệnh nhân bị thoái hoá cột sống nặng nề, các bệnh nhân không thể nằm co được…) người ta có thể chọc theo đường bên.
Các bước tiến hành
Gây tê điểm chọc kim (điểm giữa các khoang gian đốt kể trên), gây tê theo hai thì: thì đầu gây tê trong da, sau đó gây tê theo đường chọc kim. Có thể bơm thuốc liên tục trong khi đưa kim gây tê vào và khi rút kim ra.
Dùng kim chuyên dụng, thực hiện thao tác chọc ống sống lấy dịch não – tuỷ. Thao tác chọc được tiến hành theo hai thì:
+ Thì một: chọc kim qua da (góc giữa kim và mặt da khoảng 45°).
+ Thì hai: đưa kim vào khoang dưới nhện, mũi kim hơi chếch hướng lên đầu bệnh nhân, thân kim tạo với đường giữa cột sống một góc 15°. Trước khi đưa được kim vào khoang dưới nhện, phải chọc kim qua hệ thống dây chằng (dây chằng trên gai, dây chằng liên gai, dây chằng vàng…) và qua màng cứng.
Khi đầu kim đã nằm trong khoang dưới nhện: rút từ từ thông nòng (mandrain) của kim, dịch não – tuỷ sẽ chảy thành giọt. Tiến hành lấy dịch não tuỷ.
Các xét nghiệm thông thường
Các xét nghiệm thông thường cần làm và lượng dịch tương ứng cần lấy như sau:
+ Phản ứng Pandy: 1 giọt.
+ Phản ứng Nonne: 1ml.
+ Albumin theo Kafka: 1,50ml.
+ Định lượng tế bào: cần 0,5 – 2,00ml.
+ Xét nghiệm đường và clorid: 3,00ml.
+ Xét nghiệm vi khuẩn: 2,00ml.
+ Cấy khuẩn lao: 5,00ml.
+ WaR: 2,00ml.
Trong khi lấy dịch cần kết hợp kiểm tra, đánh giá tình trạng lưu thông dịch não tuỷ bằng hai nghiệm pháp (Queckenstedt và stockey). cần lưu ý, trong điều kiện sinh lý áp lực dịch não tủy cũng có dao động nhất định (hình 8.2)
+ Nghiệm pháp Queckenstedt: ở người bình thường nếu ép hai bên tĩnh mạch cổ trong thời gian 20 – 30 giây, áp lực dịch não tuỷ tăng nhanh từ mức bình thường (80 – 180mmH2O) đến trên 400mmH20, sau khi dừng ép từ 10 – 15 giây áp lực dịch não – tuỷ sẽ trở về giá trị ban đầu. Nghiệm pháp được coi là dương tính (+) khi:
. Ép tĩnh mạch cổ áp lực không tăng (trên lâm sàng nó phản ánh tình trạng nghẽn tắc lưu thông dịch não tuỷ ở tuỷ sống) hoặc
. Nếu khi ép tĩnh mạch cổ áp lực tăng rất chậm và không đạt mức độ từ 400mm cột nước trờ lên và khi ngừng ép, áp lực dịch quay trờ về giá trị ban đầu chậm (có nghĩa là có cản trở lưu thông dịch não tủy).
+ Nghiệm pháp stockey: nghiệm pháp này chỉ khác nghiệm pháp Queckenstedt là thay vì ép tĩnh mạch cổ hai bên sẽ ép tĩnh mạch chủ bụng của bệnh nhân. Đáp ứng của nghiệm pháp cũng tương tự như trên. Nghiệm pháp dương tính khi có nghẽn tắc hoặc cản trở lưu thông dịch não tuỷ ở vùng thắt lưng.
Ngoài ra áp lực dịch não – tuỷ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, nhất là những yếu tố gây tăng áp lực ổ bụng.
Khi đã lấy xong dịch não tuỷ:
+ Rút kim.
+ Băng vô trùng vị trí chọc.
Chăm sóc bệnh nhân sau thủ thuật
Cho bệnh nhân nằm sấp từ 2 – 4 giờ.
Cho bệnh nhân uống nhiều nước (khoảng 1,5-2 lít trong giờ đầu tiên sau thủ thuật).
Giải thích cho bệnh nhân an tâm với những diễn biến có thể xảy ra sau thủ thuật như đau đầu, mỏi gáy…
Đánh giá kết quả
Tính chất lý học
Bình thường dịch não tuỷ không có màu, trong suốt.
Tỷ trọng của dịch não tuỷ bình thường là 1,006 – 1,009; độ nhớt của dịch não tuỷ là 1,01 -1,06; độ pH là 7,4-7,6.
Áp lực dịch não tuỷ; thay đổi theo tuổi (trẻ nhỏ 10 – 100 và người lớn 80 – 180mm cột nước), theo tư thế cơ thể, áp lực ổ bụng….(hình 8.2).
Tế bào
Bình thường
Bình thường số lượng tế bào (đếm trong buồng Fuchs – Rosenthal trong điều kiện sinh lý) là 0 – 3 tế bào trong 1mm3 dịch. Nếu vượt quá 5 tế bào trong 1 mm3 là trạng thái bệnh lý (Kafla).
Những thay đổi về tế bào
Hội chứng kích thích:
+ Số lượng tế bào bình thường hoặc tăng (hiếm khi > 30 tế bào/mm3) nhưng có tăng bạch cầu hạt (hội chứng kích thích cấp), tăng bạch cầu đơn nhân hoặc tăng đại thực bào (hội chứng kích thích bán cấp). Đây là hội chứng không đặc hiệu, có thể thấy trong nhiều trường hợp bệnh lý khác nhau như các cơn động kinh, nhồi máu não, các tổn thương não do thiếu oxy, nhiễm độc (rượu), sau can thiệp vào khoang dịch não – tủy nhằm mục đích chẩn đoán hoặc điều trị…
+ Tăng thực bào: đó là các bạch cầu và các đại thực bào, chúng thực bào các thành phần là trong dịch não – tủy và tùy theo các sản phẩm thực bào đó nó được gọi là thực bào hồng cầu, hay thực bào bạch cầu, mỡ, sắt, vi khuẩn…
Hội chứng dịch não – tủy viêm do bất kỳ nguyên nhân viêm nào:
+ Viêm cấp tính: số lượng tế bào tăng rõ rệt, thành phần cơ bản là tế bào hạt, ít bạch cầu lympho và đơn nhân, các tế bào hạt tăng hạt, nhiều trường hợp tích tụ mỡ… nhanh chóng bị thoái hóa, chết và nằm cạnh nhau thành đống (mủ). Những dấu hiệu trên thường gặp trong viêm màng não mủ.
+ Viêm bán cấp: số lượng bạch cầu hạt giảm, nhân teo, số lượng bạch cầu đơn nhân và đại thực bào tăng, tế bào lympho tăng; thường gặp trong viêm màng não do virus hoặc lẫn máu trong dịch não – tủy.
+ Viêm mạn tính: tăng tế bào lympho, bên cạnh đó thấy các tế bào plasma già cỗi, nhân tròn, nằm lệch tâm và có các vết rạn hình nan hoa, bào tương có màu xanh sẫm, ưa base và chứa nhiều không bào. Những dấu hiệu này thường gặp trong viêm màng não vi khuẩn giai đoạn lui bệnh, viêm màng não do nấm, viêm màng não xoắn khuẩn, xơ não tủy rải rác…
Tế bào dịch não – tủy trong chảy máu dưới nhện:
+ Ngay sau chảy máu thấy hồng cầu tăng trong dịch não – tủy ở mức độ khác nhau tùy theo mức độ chảy máu.
+ Sau đó màng não có phản ứng viêm, tăng bạch cầu hạt (giai đoạn cấp tính), muộn hơn là tăng bạch cầu đơn nhân và đại thực bào (giai đoạn bán cấp). Thực bào hồng cầu có thể thấy sau chảy máu 12 giờ, sau vài ngày thấy thực bào hemosiderin và nó có thể còn được quan sát thấy hàng tháng sau khi chảy máu. Sự có mặt song song của đại thực bào hồng cầu và thực bào hemosiderin trong một mẫu dịch não – tủy cho biết có chảy máu tái phát.
+ Giai đoạn muộn hơn có bilirubin trong dịch não tủy.
Tế bào ung thư trong dịch não – tủy: có thể là di bào của u não hoặc u ngoài não và rất có ý nghĩa trong chẩn đoán. Tế bào u thường to, tỷ lệ nhân/bào tương thay đổi, đa sắc hoặc màu đậm hơn bình thường, có nhiều hình dáng nhân và bào tương.
+ Di bào của u não: thường có thể chứng minh được nguồn gốc (u ống nội tủy, u nhú đám rối, u tuyến tùng, u nguyên bào tủy).
+ Di bào của u ngoài não: các u nguyên phát thường là các carcinoma (tuyến vú, phế quản) và melanom.
Tế bào dịch não tủy trong leucose/lymphom:
+ Trường hợp leucose: hình ảnh “môi trường thuần nhất” (chỉ có bạch cầu) dễ dàng quan sát thấy, nhất là các nguyên bào tủy trong bạch cầu tuỷ cấp. Tổn thương bạch cầu tủy cấp rất hay gặp ở các màng não, tủy. Mức độ ác tính của bạch cầu tủy cấp cũng như lymphom rất khó xác định nếu căn cứ vào nhuộm pappenheim (nhất là khi số lượng tế bào u chỉ có ít). Trong nhiều trường hợp chẩn đoán phân biệt giữa hai bệnh trên với viêm màng não lympho mạn tính cũng rất khó khăn.
Sinh hóa dịch não tủy
Các chất có trọng lượng phân tử thấp
Đường: 55 – 65mg% (khoảng 60% lượng đường máu).
Muối clorua: 680 – 760mg%.
Lactat: < 2,1mmol/l.
+ Trong số các chất có trọng lượng phân tử thấp trong dịch não – tủy thì đường và lactat có ít nhiều ý nghĩa trong chẩn đoán phân biệt viêm màng não do vi khuẩn và do virus; trong đó định lượng lactat có vai trò rất quan trọng, vì nó không phụ thuộc vào nồng độ lactat trong máu. Việc định lượng clorid (vì có chịu ảnh hưởng của nồng độ đạm – donan effect) nay ít được sử dụng.
Đạm
Đạm ở trong dịch não tủy chiếm từ 15 – 45mg% (0,15 – 0,50g/l).
Phương pháp Pandy: kết tủa globulin phân tử lớn (globulin miễn dịch). Pandy dương tính mạnh khi:
+ Có rối loạn hàng rào máu não nặng nề như trong viêm màng não vi khuẩn, viêm màng não lao, hội chứng Guillain – Barré, u tủy, u góc cầu tiểu não.
+ Rối loạn hàng rào máu – não mức độ vừa kèm theo tình trạng tăng gamma – globulin trong máu hay gặp trong bệnh Waldenstrom.
+ Tăng tổng hợp globulin miễn dịch trong khoang dịch não – tủy thường gặp trong liệt tiến triển, lymphom màng não.
Các phản ứng protein:
+ Phản ứng nonne – appelt: bình thường thấy trắng đục nhẹ hoặc có vết.
+ Phản ứng phenic pandy: bình thường thấy trắng đục.
+ Phản ứng permanganat: lượng kali permanganat cần tiêu thụ (đã được chuẩn bị một cách đặc biệt) để làm thay đổi màu của dịch não tuỷ từ trắng thành màu đỏ, bình thường là 1,1 – 1,8 (Levinson và Mac Fate).
Khảo sát đạm toàn phần và đạm đặc hiệu trong dịch não – tủy được sử dụng để đánh giá cơ bản tình trạng tính thấm của hàng rào máu – não đối với các thành phần đạm từ huyết thanh và xác định tình trạng tăng sinh albumin miễn dịch trong khoang dịch não – tủy. Mức độ thấm của hàng rào máu – não có thể được đánh giá bằng cách định lượng albumin trong dịch não tủy và trong huyết thanh được lấy ở cùng một thời điểm. Tăng tổng hợp albumin miễn dịch (nhất la IgG) có ý nghĩa rất lớn trong chẩn đoán các bệnh thoái hóa myelin, nhất là trong bệnh xơ não tủy rải rác. Trong thực tế tăng nồng độ IgG trong dịch não tủy hoặc tăng tỷ lệ nồng độ IgG dịch não tủy/huyết thanh có thể xảy ra khi có tăng tính thấm hàng rào máu – não và trong tăng tổng hợp IgG trong khoang dịch não – tủy. Các đại lượng sau thường được nghiên cứu, khảo sát:
+ Chỉ số albumin (QAib) được tính bằng công thức:
QAib = albumin dịch não tủy/albumin huyết thanh
Là đại lượng quan trọng đánh giá cơ bản tình trạng chức năng hàng rào máu – não, tùy theo lứa tuổi mà tình trạng chức năng hàng rào máu – não (tính theo QAib) có khác nhau, cụ thể như sau:
Thai tuần thứ 30: 50 X 10′3
Giai đoạn chu sinh: 25×10′3
1 tháng tuổi: 15 X 10′3
6 tháng tuổi: 5 X 10′3
20 tuổi: 5 X 10″3
40 tuổi: 7 X 10‘3
60 tuổi: 8 X 10‘3
+ Chỉ số IgG (hay IgG – Index) hay còn gọi là chỉ số tỷ lệ IgG/albumin: giới hạn trên của giá trị bình thường là 0,28 – 0,66 và công thức được tính như sau:
Chỉ số IgG được dùng để đánh giá tình trạng tính thấm hàng rào máu – não và tình trạng sản sinh đậm đặc hiệu trong khoang dịch não – tủy. Chỉ số IgG từ 0,77 trở lên phản ánh tình trạng tăng sinh IgG (90% số bệnh nhân xơ não tủy rải rác có chỉ số IgG từ 0,77 trở lên).
+ Chỉ số IgG đơn giản = IgGQNĩ/lgGHT cũng có thể được sử dụng để đánh giá tình trạng tăng sinh IgG trong khoang dịch não tủy, chỉ số này bình thường là 0,09 – 0,25 (70% số bệnh nhân xơ não tủy rải rác có chỉ số này từ 0,27 trở lên).
Những thay đổi của dịch não – tuỷ trong một số bệnh
Trong viêm màng não mủ: dịch não tuỷ đục, số lượng tế bào tăng (500 – 1000 bạch cầu/mm3), đa số là bạch cầu đa nhân trung tính. Protein toàn phần tăng (100 – 300mg%), glucose giảm rõ (thậm chí chỉ còn vết), NaCI bình thường, cấy dịch não tuỷ có vi khuẩn mọc (màng não cầu, phế cầu).
Trong viêm màng não lao: dịch não – tuỷ có màu vàng chanh, trong suốt, áp lực tăng, tế bào tăng (từ vài chục đến vài trăm tế bào/mm3), lúc đầu cả bạch cầu trung tính và tế bào lympho đều tăng, về sau tế bào lympho chiếm ưu thế (70 – 90%). Nếu để dịch não tuỷ lắng trong ống nghiệm 24 giờ sẽ thấy có nổi váng dù, protein tăng nhẹ, đường và muối giảm, cấy dịch não tuỷ có thể thấy BK (+).
Trong viêm màng não do virus: màu sắc dịch não tuỷ vẫn trong suốt, protein tăng nhẹ. Tế bào tăng chủ yếu lymphocyt, các phản ứng viêm như Pandy và nonne – appelt dương tính (+). Trong viêm não do virus nên cho chỉ định cấy dịch não tuỷ để phân lập virus, tuy nhiên, rất ít trường hợp có thể phát hiện được virus trong dịch não tuỷ.
Trong đột qụy não:
+ ở bệnh nhân xuất huyết nội sọ: dịch não tuỷ có thể lẫn máu làm cho màu đỏ đều, không đông trong cả 3 ống nghiệm. Do máu chảy vào khoang dưới nhện nên protein tăng và tỷ lệ các thành phần tế bào trong dịch não tuỷ tương tự như ở máu.
+ ở bệnh nhân xuất huyết trong nhu mô não và ở sát khoang dưới nhện hoặc sát não thất thì dịch não tuỷ cũng có thể lẫn máu; tuy nhiên, lượng máu ít nên dịch não tuỷ thường chỉ có hồng nhạt hoặc phải xét nghiệm vi thể mới thấy hồng cầu. Nếu máu đã chảy nhiều ngày, xét nghiệm chỉ còn thấy có bilirubin.
Những trường hợp ổ máu tụ nhỏ, xa khoang dưới nhện và não thất, xét nghiệm dịch não tuỷ không thấy thay đổi rõ.
+ ở bệnh nhân nhồi máu não (huyết khối, tắc động mạch não) có thể thấy áp lực dịch não tuỷ tăng nhẹ, protein tăng nhẹ, tế bào bình thường, các xét nghiệm khác hầu hết bình thường.
Trong u não: áp lực dịch não tuỷ tăng cao, có phân ly protein – tế bào, biểu hiện là protein tăng (thường là trên 100mg%) trong khi số lượng tế bào vẫn bình thường.
Tăng áp lực nội sọ:
+ Lâm sàng:
Ở trẻ em sẽ thấy căng các thóp, dãn các khớp sọ và tăng chu vi trán – chẩm của hộp sọ, có dấu hiệu “mặt trời lặn”.
Người lớn sẽ thấy đau đầu, buồn nôn, nôn, mù thoáng qua, táo bón. Soi đáy mắt thấy có ử phù gai thị thần kinh và thường thấy có liệt dây VI.
+ Nguyên nhân:
Tổn thương lan toả nội sọ (ổ máu tụ, u, áp – xe, phù não, cũng có khi do tăng sinh dịch não – tuỷ.
Trạng thái động kinh kéo dài hoặc thiếu oxy não.
Bệnh não do chuyển hoá (do gan, hội chứng Reye, giả u não và các bệnh nội tiết).
Nhiễm khuẩn trung ương thần kinh (viêm não, viêm màng não).
Các thương tổn gây tắc các đoạn hẹp của đường lưu thông dịch não – tuỷ (lỗ Monro, Magendie, cống Sylvius…) hoặc dính các hạt Pacchioni…
Giảm áp lực dịch não – tuỷ:
+ Lâm sàng: đau đầu, chóng mặt, ù tai, giảm thính lực, buồn nôn và nôn (đặc biệt khi chuyển từ tư thế nằm ngang sang tư thế đứng).
+ Nguyên nhân:
Các thủ thuật gây tổn thương màng cứng làm rò rì dịch não – tuỷ (như chọc sống ống sống thắt lưng, phẫu thuật thần kinh…).
Vỡ nền sọ gây nối thông khoang dịch não tuỷ với các khoang tai-mũi làm rò dịch não tuỷ.
Mất nước nặng nề.
Rò dịch não tuỷ do tổn thương rễ thần kinh trong chấn thương.
Khô dịch não – tuỷ nguyên phát (idiopathic aliquorrhea).
Bảng 8.3. Thay đổi dịch não tuỷở một số bệnh gây HC màng não cấp
STT
Bệnh
Thời
gian
Màu
sắc
PƯ
Pandy
Tế bào /mm3
Công thức ÍB
Ghi chú
1
VMN
mủ
Ngày thứ 1 -2
Mủ
+++
> 800 bạch cầu trung tính
Vi khuẩn
Ý thức lơ mơ nhanh, TB giảm 50% trong ngày đầu khi điều trị đúng thuốc
2
VMN vi khuẩn không gây mủ
Ngày thứ 1 -2
Bẩn
+++
ít bạch cấu trung tính
Rất
nhiều vi khuẩn
Chẩn đoán khó, muộn, tế bào luôn tăng cho dù điều trị thuốc thích hợp
3
Viêm màng não do nhiễm khuẩn huyết tiên phát
* Chọc sống TL
lần 1
(bạch cầu chưa tăng)
* Chọc sống TL
lần 2
Ngày thứ 1
Ngày
thứ
1 -2
Trong
Mủ
0/+
+++
0
> 1000 bạch cầu trung tính
Rất
nhiều
vi
khuẩn
Vi
khuẩn
Xuất huyết ngoài da, tiến triển rất cấp tính sau khi cắt lách
Viêm màng não mủ
4
Viêm màng não thanh dịch
VMN lao
* Chọc
Tuần
Trong
+++
Hàng
Phong
Chẩn đoán vi
sống TL lần
1 -2
suốt
trăm
phú, BC
khuẩn khó thành
1
BC
đơn
công
đơn
nhân, BC
nhân
Trung
Trong
suốt
tính
* Chọc sống TL lần 2
Tuần
2-3
+++
-//-
-II-
VMN virus
Tuần
Trong
+
<
BC đơn
Chọc sống sớm,
2-4
suốt
800
nhân
BC trung tính
nhiều hơn
5
Chảy máu
Ngày
đỏ/
TB
HC,
Chọc sống thắt
dưới nhện
1 -2
vàng
máu
muộn
lưng khi hình
hơn là
ảnh CT âm tính
thực bào chứa sắt
Bảng 8.4. Thay đổi dịch não tuỷ ở một số trường hợp HC não cấp
STT
Bệnh
Tổn thương khu trú
dịch não tuỷ
Các triệu chứng khác
1
Vi áp – xe não
Trán, thái dương, tiểu não
Ngày càng nhiều BC trung tính
MRI: các ổ viêm sau đó hợp nhất thành ổ áp – xe
2
Viêm não Herpes
Sau giai đoạn cúm khởi phát thấy xuất hiện triệu chứng của thùy thái dương
Có thể có HC số lượng < 500
MRI: phù nề thùy thái dương, hồi lưỡi.
Lâm sàng: lú lẫn tiến triển nhanh
3
Viêm
não – tủy do virus
Tùy theo ái tính của từng virus với các cấu trúc não
< 800
Bị nhiễm virus trước đó và ờ các người xung quanh
4
Đợt cấp của bệnh xơ não tủy rải rác
Viêm thần kinh hậu nhãn cầu, hội chứng tiểu não
< 40
MRI: ổ tổn thương quanh não thất, dịch não tuỷ: có oligoklonal – bands
5
Viêm
động
mạch não
Nhồi máu, kể cả vùng nền
Bình thường
Triệu chứng viêm, XN miễn dịch học
Bảng 8.5. Thay đổi dịch não tuỷ tủy ở một số bệnh tủy – rễ thần kinh cấp và bán cấp
STT
Bệnh
Tuần
Lâm
sàng
Pandy
Tế bào
Triệu chứng khác
1
Hội chứng
Guilain
Barré
* Choe sống TL lần 1
1
Liệt mềm từ dưới lên
0/+
++ -> +++
0
< 50
Khởi phát sau khi có nhiễm khuẩn chung (như cúm, bệnh đường ruột)
* Choe sống TL lần 2
2
BC đơn nhân
Kết quả EMG: điển hình
2
Áp-xe ngoài màng cứng
1 -2
Đau lưng, hội chứng tùy ngang ngày càng tăng
+ -> +++
BC đơn nhân
Đau nhiều khi gõ vào các mỏm gai đốt sống
3
Hội chứng tủy ngang
* Viêm tủy
* Chèn ép tuỷ
0/+
++ -> +++
Tăng BC,
nghẽn tắc lưu thông
MRI: u, chèn ép ngoại tủy
Chẩn đoán phân biệt màu sắc dịch não – tuỷ
Dịch não – tuỷ màu đỏ (erythrochromia)
Trong chẩn đọán phân biệt hai thể đột qụy não (đột qụy chảy máu và đột qụy thiếu máu) vai trò của hồng cầu trong dịch não – tủy rất là quan trọng. Sự có mặt của hồng cấu trong dịch não – tủy phản ánh bằng màu đỏ của dịch.
Thông thường nếu có khoảng 100 – 300 hồng cầu/mm3 dịch não – tuỷ sẽ có màu đỏ.
Nguyên nhân của dịch não – tủy màu đỏ:
+ Do lỗi kỹ thuật, trong khi tiến hành thủ thuật đã chọc xuyên mạch máu:
Đầu kim nằm trong mạch máu hoặc
Đầu kim vừa nằm trong mạch máu vừa nằm trong khoang dịch não – tủy.
+ Do chảy máu dưới nhện.
Cách phân biệt các nguyên nhân trên:
+ Nếu chọc vào mạch máu, đầu kim nằm trong mạch: dịch chảy ra có màu đỏ đậm của máu, đều cả 3 ống và đông (đó là máu).
+ Nghiệm pháp 3 ống:
Nếu màu đỏ nhiều ở ống thứ nhất, nhạt dần ở ống thứ 2 và 3 là do chọc vào mạch máu nhỏ.
Nếu máu đỏ đều cả 3 ống và không đông là do máu đã trộn lẫn với dịch não – tuỷ, trong trường hợp này có thể là do chảy máu dưới nhện nhưng cũng có thể do lỗi kỹ thuật chọc vào mạch máu nhưng mặt vát của kim chọc một nửa năm trong mạch máu và một nửa năm trong khoang dưới nhện nên màu sắc của 3 ống như nhau. Để phân biệt hai nguyên nhân trên cần áp dụng nghiệm pháp ly tâm.
+ Nghiệm pháp Ịy tâm: trong trường hợp cả ba ống đều đỏ như nhau thì đem một Ống đi ly tâm xem có hồng cầu nguyên dạng ở đáy ống không và so sánh phần dịch ở trên với một ống nước cất xem phần dịch ờ trên đó có màu sắc khác với nước cất không.
Nếu dịch ở trên trong như nước cất thì chứng tỏ hồng cầu mới xâm nhập vào dịch não – tuỷ trong khi chọc hoặc quá trình chảy máu (nếu có) mới xảy ra trong vòng từ 2 đến 4 giờ trước khi chọc ống sống.
Nếu màu dịch ở trên khác màu của nước (màu của hemoglobin tự do) chứng tỏ đã có một quá trình chảy máu xảy ra trước đó trên 2 đến 4 giờ (chẩn đoán là đột qụy chảy máu).
Nếu có máu trong dịch não – tuỷ thì ta có thể căn cứ vào số lượng hồng cầu để tính ra số lượng bạch cầu trong 1mm3 (và ngược lại) theo tỷ lệ: số hồng cầu/số bạch cầu = 700/1.
Dịch não – tuỷ màu vàng (xanthochromia)
Dịch não – tuỷ chỉ được gọi là vàng khi đem so sánh dịch với nước cất và thấy màu của dịch vàng hơn nước.
Nguyên nhân: thường do hemoglobin tự do, bilirubin và thành phần đạm của dịch não – tuỷ cao.
Cách phân biệt:
+ Nếu màu vàng do nồng độ đạm cao: dịch não – tủy sẽ sánh, đặc. Nếu lượng đạm rất cao, để dịch trong ống sẽ thấy hội chứng Froin (hiện tượng dịch não tuỷ tự đông lại như thạch hay còn gọi là hiện tượng thạch hóa dịch não – tủy).
+ Nếu màu vàng do hemoglobin thì phải dùng hemastix tap (ames laboratories) để xác định.
+ Để xác định trong dịch não tùy có bilirubin không, cần dùng một viên thuốc chuyên dụng ictotest để thử sẽ xác định được.
Vật lạ rơi vào tai thường là côn trùng chui vào trong tai, có khi do bơi lội hoặc chơi bời bị vật lạ rơi vào trong tai. Côn trùng chui vào trong tai thì trong lỗ tai có cảm giác côn trùng đang bò, phần lớn côn trùng từ tai ngoài bò vào tai trong, nhưng cũng có khi uống nước lã mà kiến từ cuống họng bò lên tai. Giun đũa cũng có thể bò vào tai. Nếu thấy yết hầu ứ máu, tai ù, tai đau thính lực giảm xuống thì không thuộc phạm vi tự chữa bệnh phải đi viện khám bệnh.
Bỏ thói quen tuỳ tiên lấy ráy tai, vì ráy tai giữ được nhiệt độ thích nghi trong tai, còn ngăn ngừa được bụi bặm và côn trùng chui vào trong tai.
Dạy trẻ con không được ngoáy tai, không được cho các vật nhỏ vào trong tai. Đồ chơi phải chắc chắn, không để các linh kiện rơi ra.
Bị côn trùng bay vào trong tai, sẽ gây ra tiếng động, cần dùng hai tay bịt lỗ tai để màng nhĩ khỏi bị chấn động.
Bơi lội hoặc tắm không may nước vào trong tai phải kịp thời cho nước chảy ra để tránh gây ra viêm tai giữa.
Khi những viên bi nhỏ hoặc hạt đậu rơi vào trong tai, không nên lấy kìm đầu nhọn bằng kim loại lấy ra, vì khi kẹp dễ bị trượt, vật lạ sẽ rơi vào sâu hơn.
Người đã thủng màng nhĩ, thì không nên dùng phương pháp rửa tai.
Bệnh này chữa bệnh bên ngoài là chính.
Phương pháp chữa côn trùng chui vào tai
Khi côn trùng bay vào trong tai, thì vào ngay chỗ tối, dùng đèn điện hoặc đèn pin, nếu không có thì bật mấy que diêm soi bên tai bị côn trùng bay vào, côn trùng thấy ánh sáng sẽ bay ra.
Dùng dầu ăn (glyxêrin cũng được) nhỏ từ 3 – 5 giọt vào tai, 2-3 phút sau, nghiêng đầu về phía tai đau, côn trùng sẽ theo dầu trôi ra.
Hoàng bá 30 gam, sắc lấy nước đặc, sau khi lọc lấy nước, trộn với dầu vừng nhỏ tai, ngày 2 lần. Dùng cho người bị côn trùng bò vào tai gây viêm nhiễm, ngứa ngáy.
Sau khi côn trùng vào tai, lấy ít gừng tươi giã lấy nước nhỏ vào tai.
Sau khi côn trùng vào tai, lấy một ít dầu ăn nhỏ vào trong tai côn trùng sẽ ra ngay.
Khi nước vào tai, ghé đầu về bên tai nước vào, lấy tay cầm dái tai kéo xuống, rồi lấy chân cùng bên tai vào nước nháy mấy lần nước sẽ ra ngay.
Nếu hạt đậu rơi vào tai, thì lấy một ống trúc con có đường kính bằng lỗ tai, nhè nhẹ đặt vào lỗ tai rồi lấy miệng hút ra, hạt đậu sẽ được lấy ra dễ dàng.
Côn trùng chui vào tai cần lưu ý:
Không được dùng những vật đầu nhọn để lấy các vật lạ ở trong tai để tránh làm tổn thương màng nhĩ và niêm mạc.
Những vật khô như đậu, ngô, gạo rơi vào trong tai, không được lấy nước, đậu nhỏ vào trong tai, nếu không sẽ làm cho chúng trương lên khó lấy ra.
Vật lạ vào lỗ tai nhiều ngày, hoặc đau quá phải đưa ngay đi bệnh viện chữa bệnh.
Phát ban là sự thay đổi bất thường về màu sắc hoặc kết cấu của da. Chúng thường xuất phát từ tình trạng viêm da, có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau.
Có nhiều loại phát ban, bao gồm những loại do các tình trạng da như eczema, granuloma annulare, lichen planus, và pityriasis rosea.
Eczema là một thuật ngữ chung mô tả nhiều tình trạng khác nhau trong đó da bị viêm, đỏ, có vảy và ngứa. Viêm da cơ địa, có thể gây ra phát ban ngứa, là một trong những dạng phổ biến nhất của eczema.
Các triệu chứng đi kèm với phát ban trên da phụ thuộc vào nguyên nhân và loại phát ban. Một số triệu chứng phổ biến bao gồm:
Phồng rộp
Đỏ da
Da có vảy hoặc khô
Giống như mề đay
Đốm
Sưng hoặc viêm
Da ngứa
Đau
Nhiễm trùng các vùng da bị tổn thương
Nốt phẳng có đỉnh sáng
Vùng da bị ảnh hưởng lớn
Vùng da bị ảnh hưởng có hình tròn
Nguyên nhân của Phát ban
Các chất kích thích và dị nguyên trong khí hậu/môi trường có thể gây ra phát ban trên da. Những nguyên nhân phổ biến khác bao gồm:
Nhiễm virus hoặc vi khuẩn
Các tình trạng da như rosacea hoặc eczema
Căng thẳng
Các chất kích thích trên da (bao gồm xà phòng, sản phẩm chăm sóc da, hoặc một số loại vải)
Tiền sử cá nhân và/hoặc gia đình về dị ứng, sốt cỏ khô, hoặc hen suyễn
Dị ứng với một số loại thuốc, bao gồm những loại điều trị huyết áp cao, bệnh tim, và viêm khớp
Các tác nhân gây kích thích từ các tình trạng khác, chẳng hạn như viêm gan B hoặc viêm gan C
Một số nguyên nhân và tác nhân kích thích gây phát ban vẫn chưa được biết đến.
Các loại Phát ban da phổ biến
Một số loại phát ban da phổ biến bao gồm những loại do các tình trạng da như eczema, granuloma annulare, lichen planus, và pityriasis rosea.
Eczema
Eczema là một thuật ngữ chung mô tả nhiều tình trạng khác nhau trong đó da bị viêm, đỏ, có vảy và ngứa. Eczema là một tình trạng da phổ biến, và viêm da cơ địa (còn gọi là eczema dị ứng) là một trong những dạng phổ biến nhất của eczema. Nó có thể ảnh hưởng đến cả người lớn và trẻ em và không lây nhiễm.
Hình dạng của eczema có thể khác nhau giữa các cá nhân. Ở người lớn, eczema thường ảnh hưởng đến tay, khuỷu tay và mặt sau của đầu gối. Ở trẻ nhỏ, eczema thường xuất hiện trên mặt, mặt sau của cổ và da đầu.
Một số yếu tố có thể kích hoạt cơn bùng phát eczema hoặc làm tình trạng này trở nên tồi tệ hơn, nhưng chúng không gây ra tình trạng này.
Mề đay
Mề đay là một tình trạng da gây ra những nốt phồng, ngứa hoặc sưng đỏ. Nếu bạn bị mề đay, bạn có thể bị dị ứng với một cái gì đó trong không khí hoặc do côn trùng cắn. Nó cũng có thể do thay đổi nhiệt độ và nhiễm khuẩn.
Viêm da tiếp xúc
Loại phát ban đến từ viêm da tiếp xúc xảy ra khi cơ thể bạn phản ứng với các chất kích thích như bột giặt, hương liệu và hóa chất. Nó có thể gây ra viêm, ngứa và đỏ da.
Granuloma annulare
Granuloma annulare là một tình trạng da mãn tính. Phát ban hình tròn với các nốt đỏ (papule) là triệu chứng phổ biến. Thường thì nó ảnh hưởng đến trẻ em và thanh niên. Nó có phần phổ biến hơn ở các bé gái và thường thấy ở những người khác khỏe mạnh.
Nếu bạn bị granuloma annulare, bạn sẽ thường thấy một hoặc nhiều vòng các nốt nhỏ, chắc chắn trên mặt sau của cẳng tay, tay hoặc chân. Phát ban có thể ngứa nhẹ.
Lichen planus
Lichen planus là một tình trạng da phổ biến gây ra những nốt bóng, phẳng. Chúng thường có hình dạng góc cạnh và màu đỏ-tím. Lichen planus có thể xuất hiện ở bất kỳ đâu trên da nhưng thường ảnh hưởng đến bên trong cổ tay và mắt cá chân, chân dưới, lưng và cổ. Một số người có lichen planus trong miệng, vùng sinh dục, da đầu và móng tay. Các đám nốt dày có thể xuất hiện, đặc biệt trên ống chân.
Lichen Planus
Lichen planus thường ảnh hưởng đến người lớn trong độ tuổi từ 30-70. Nó không phổ biến ở những người trẻ tuổi hoặc người già.
Pityriasis Rosea
Pityriasis rosea là một loại phát ban da phổ biến thường nhẹ. Tình trạng này thường bắt đầu với một vết da lớn có vảy và màu hồng trên ngực hoặc lưng của bạn. Tiếp theo, bạn sẽ nhận thấy một vết da hồng, nhanh chóng theo sau bởi nhiều vết khác. Da của bạn sẽ ngứa và có màu đỏ hoặc viêm. Số lượng và kích thước của các vết có thể khác nhau.
Pityriasis rosea ảnh hưởng đến lưng, cổ, ngực, bụng, cánh tay trên và chân. Phát ban có thể khác nhau giữa các cá nhân.
Các tình trạng virus
Phát ban trên da có thể là kết quả của một nhiễm virus như bệnh sởi hoặc thủy đậu.
Bệnh vẩy nến
Bệnh vẩy nến là một tình trạng da gây ra phát ban dày và có vảy, thường xuất hiện trên đầu gối, lưng, khuỷu tay, vùng sinh dục và da đầu. Nó là một tình trạng mãn tính và có thể di truyền từ cha mẹ.
Chẩn đoán Phát ban
Việc chẩn đoán một phát ban trên da có thể khó khăn vì các triệu chứng có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau. Bác sĩ của bạn sẽ kiểm tra da của bạn và hỏi về các triệu chứng của bạn và có thể quyết định chẩn đoán phát ban của bạn bằng các xét nghiệm như:
Sinh thiết da: Điều này liên quan đến việc lấy một phần nhỏ da từ khu vực bị ảnh hưởng và gửi đến phòng thí nghiệm để kiểm tra virus hoặc vi khuẩn. (xem triệu chứng và chẩn đoán eczema)
Xét nghiệm máu: Bác sĩ của bạn có thể chẩn đoán một số bệnh bằng cách nhìn vào kháng thể trong máu của bạn. Ngoài ra, phát ban có thể là kết quả của các tình trạng hệ thống, và xét nghiệm máu có thể giúp kiểm tra cách mà các cơ quan của bạn có thể bị ảnh hưởng.
Xét nghiệm dị ứng: Các xét nghiệm này bao gồm việc chích da hoặc xét nghiệm dán để tìm kiếm các chất gây dị ứng. Trong quá trình xét nghiệm, da của bạn sẽ tiếp xúc với một số chất gây dị ứng nhất định để phát hiện bất kỳ phản ứng nào có thể xảy ra.
Điều trị Phát ban
Điều trị mà bác sĩ của bạn khuyên dùng sẽ phụ thuộc vào nguyên nhân của phát ban trên da. Một số lựa chọn điều trị bao gồm:
Kem và thuốc mỡ không kê đơn và theo toa: Bạn có thể điều trị phát ban do các tình trạng da như eczema bằng cách sử dụng kem dưỡng ẩm không mùi và chứa các thành phần như ceramide, glycerin, và dầu khoáng. Thuốc bao gồm kem và thuốc mỡ không kê đơn chứa steroid hydrocortisone (ví dụ: Cortizone-10, Cort-Aid, Dermarest Eczema, Neosporin Eczema). Những sản phẩm này có thể giúp kiểm soát ngứa, sưng tấy và đỏ da liên quan đến eczema.
Trong những trường hợp nặng hơn, kem cortisone theo toa cũng được sử dụng.
Steroid: Nếu bạn có triệu chứng kéo dài, bác sĩ có thể kê đơn điều trị steroid tại chỗ hoặc đường uống, điều này có thể giúp giảm ngứa và viêm da.
Immunomodulators tại chỗ: Đối với những người có eczema nhẹ đến trung bình, các immunomodulators tại chỗ có thể giúp đỡ. Các thuốc này, bao gồm các sản phẩm có tên thương mại như Elidel và Protopic, hoạt động bằng cách thay đổi phản ứng miễn dịch của cơ thể đối với các chất gây dị ứng, từ đó ngăn ngừa các cơn bùng phát.
Tiêm (injections): Tiêm có thể được sử dụng để điều trị các phát ban do một số tình trạng da nhất định. Dupilumab (Dupixent), chẳng hạn, là một kháng thể đơn dòng có thể tiêm cho bệnh nhân mắc viêm da cơ địa vừa đến nặng. Nó nhanh chóng làm giảm ngứa ở hầu hết bệnh nhân. Tiêm cortisone cũng có thể được sử dụng trong những trường hợp nghiêm trọng hơn.
Liệu pháp ánh sáng (phototherapy): Đây là một điều trị khác giúp một số người bị eczema. Liệu pháp ánh sáng sử dụng ánh sáng cực tím, hoặc tia cực tím A (UVA) hoặc tia cực tím B (UVB), từ các đèn đặc biệt để điều trị cho những người bị các trường hợp nặng.
Các rủi ro liên quan đến liệu pháp ánh sáng bao gồm bỏng (thường giống như bỏng nắng nhẹ), da khô, da ngứa, tàn nhang và có thể gây lão hóa sớm cho da. Các chuyên gia y tế của bạn sẽ làm việc với bạn để giảm thiểu bất kỳ rủi ro nào.
Sản phẩm chống ngứa hoặc thuốc dị ứng như antihistamine. Antihistamine, chẳng hạn như Diphenhydramine hoặc Benadryl, có thể giúp làm dịu sự ngứa ngáy.
Thuốc ức chế miễn dịch. Các thuốc như tiêm steroid, prednisone, hoặc các loại thuốc khác có thể giúp làm sạch phát ban bằng cách ức chế hệ miễn dịch của bạn.
Biến chứng của Phát ban
Phát ban trên da thường không gây vấn đề và đáp ứng tốt với điều trị. Một số biến chứng có thể xảy ra bao gồm:
Nhiễm trùng: Khi bạn gãi vào một phát ban ngứa, nó sẽ làm mở da của bạn. Điều này cho phép các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn xâm nhập, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng.
Phản ứng phản vệ: Ngoài phát ban da, một số người có thể có phản ứng dị ứng nghiêm trọng, đe dọa đến tính mạng, còn được gọi là phản ứng phản vệ. Sự sưng tấy cực độ xảy ra trong phản ứng phản vệ có thể làm tắc nghẽn đường hô hấp của bạn. Cần tiêm epinephrine (EpiPen) ngay lập tức để chống lại phản ứng dị ứng. Nếu bạn cảm thấy ngứa trong miệng hoặc cổ họng kèm theo phát ban trên da, hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn về sự cần thiết của một EpiPen.
Cách phòng ngừa Phát ban
Có những cách để giảm nguy cơ và ngăn ngừa các cơn bùng phát như những cơn liên quan đến eczema dị ứng:
Giảm căng thẳng.
Tránh các chất liệu gãi (ví dụ: len) và hóa chất có thể kích thích, chẳng hạn như xà phòng, bột giặt và dung môi mạnh.
Thường xuyên dưỡng ẩm.
Tránh sự thay đổi đột ngột về nhiệt độ hoặc độ ẩm.
Tránh các tình huống gây đổ mồ hôi và quá nóng.
Ngay lập tức rửa tay khi bạn tiếp xúc với bất cứ điều gì bạn bị dị ứng.
Chọn mua phích nước không nên chỉ nghe tiếng “ O…O…”
Có người khi chọn mua phích nước, thường hay đưa miệng phích lên tai để nghe xem có tiếng O…O…O…hay không và cho rằng nếu có tiếng o…o… là chất lượng phích tốt. Trên thực tế, làm như vậy là không khoa học.
Đánh giá chất lượng một phích nước tốt hay xấu, ngoài việc nhìn hình dáng và màu sắc ra, còn phải quan sát chất lượng ruột phích nữa. Một là phải xem cái núm thuỷ tinh nhọn ở cuối phích nước xem có bị gãy hay không, xem có vết nứt hay không; hai là phải xem miệng phích có tròn hay không; ba là phải xem ruột phích có hiện tượng bong thuỷ ngân hay không. Nếu chỉ nghe tiếng O…O… thì không xác định được ruột phích tốt hay xấu.
Không nên đổ nước sôi quá đầy vào phích nước
Có người chỉ thích đổ nước sôi vào phích cho đến đầy tràn mới thôi. Họ tưởng rằng như vậy nước sẽ nóng lâu. Trên thực tế, đó chỉ là sự hiểu lầm.
Bởi vì thực nghiệm đã chứng minh, phích nước có nước sôi cách miệng phích 3 cm so với phích đổ đầy nước giữ nóng lâu hơn 5 – 7 giờ. Hệ số truyền nhiệt của nước lớn hơn nhiều so với không khí. Phích nước đổ quá đầy nước, nước nóng trực tiếp tiếp xúc với nắp phích, nhiệt lượng theo nắp phích truyền ra ngoài rất nhanh. Nếu ở miệng phích có một khoảng cách không khí thì do không khí toả nhiệt rất thấp nên nhiệt lượng toả đi có chậm hơn. Cho nên không nên đổ nước sôi vào phích quá đầy.
Không nên thường xuyên dùng phích nước áp lực
Dùng phích nước áp lực thì tiện lợi, an toàn, nhưng đối với sức khỏe con người thì phích nước áp lực có thể mang lại những điều bất lợi.
Bởi vì nước sôi ở trong phích, sau khi bình lặng thì những vật lắng xuống đáy đọng lại ở dưới đáy phích. Khi ta ấn áp lực để lấy nước thì ống hút ở dưới đáy phích áp lực, trước hết ngay những vật trầm lắng này lên. Nếu ta cứ uống mãi thứ nước có nhiều tạp chất này, tất sẽ nguy hại cho sức khỏe. Ngoài ra phích nước bình thường, khi rót nước vào phích , nước từ trên xuống, vật trầm lắng ở dưới đáy phích sẽ bì đổ đi chứ không dùng, giảm được cơ hội uống phải nước có tạp chất. Cho nên không nên thường xuyên dùng phích nước áp lực
Là sán Echinococus granulosus và E.multilocularis (hay E.alvéolaris). Đó là loại sán dây nhỏ kích thước 2-6mm.
Ấu trùng sán Echinococcus ký sinh ở gan, phổi và các cơ quan khác của người và động vật ăn cỏ. Sự phát triển của sán này xảy ra qua sự thay đổi hai vật chủ. Vật chủ cuối cùng là chó nhà, chó sói, cáo và một số loài động vật ăn thịt có vú khác. Vật chủ trung gian là một số loại động vật ăn cỏ có sừng, (dê, cừu, hươu) và động vật lớn có sừng.
Người là vật chủ trung gian tuỳ nghi, ở người tác nhân gây bệnh ở giai đoạn ấu trùng dưới dạng nang “một ngăn và nang nhiều ngăn”
Echinococcus ở giai đoạn trưởng thành là một sán dây gồm 3-4 đốt, đốt cuối cùng lớn hơn các đốt khác. Đốt này chứa tử cung có một màng mỏng dễ bị phá vỡ, chứa trứng (ấu trùng móc).
Trứng chín theo phân chó rơi vào đất. Súc vật ăn cỏ bị nhiễm khi ăn cỏ bẩn; người bị nhiễm khi ăn rau bẩn hoặc cho vào mồm tay bị bẩn khi sờ mó chó. Khi vào trong ruột người và súc vật ăn cỏ, thì ấu trùng móc thoát ra khỏi màng bọc rồi chui qua ruột, theo dòng máu đến các cơ quan của vật chủ trung gian, ở đó chúng lớn lên và biến thành nang ấu trùng E.granulosus. Túi mẹ có một ngăn, ở thành bên trong của túi mẹ mọc ra rất nhiều túi con chứa những đầu sán.
Trong túi con này lại có rất nhiều đầu sán (túi cháu). Thành bên trong của những túi cháu này chỉ gồm đầu sán có những vòi hút và những móc bằng kitin.
E.multilocularis là một cái túi đầy những túi nhỏ không đều nhau, nối liền với nhau bằng mô liên kết, bao gồm đầu sán và móc.
Bệnh sinh: ở người thì Echinococcus granulosus một ngăn thường khu trú ở gan (62-80%) ít khi ở phổi (7-9%).
Có những trường hợp chúng ở màng phổi, màng bụng và ở thận. Tương đối hiếm là bệnh sán Echinococcus ở não, tim, xương.
Sán Echinococcus làm tổn thương gan. Túi sán phát triển từ từ và sống trong nhiều năm.
Biểu hiện lâm sàng rất khác nhau tuỳ thuộc vào nơi khu trú của ký sinh vật, độ lớn của túi và những rối loạn cơ học do sức ép lên các mô và cơ quan bên cạnh.
Chẩn đoán bằng xét nghiệm và các triệu chứng lâm sàng:
Phổ biến nhất là phản ứng dị ứng trong da với dịch lỏng ở túi Echonococcus đã tiệt khuẩn. Phản ứng cho kết quả dương tính trong 80-90% trường hợp lây bệnh, nhưng rất nhậy đối với cơ thể và có thể gây sốc quá mẫn nếu tiêm nhiều lần.
Hiện nay người ta dùng phản ứng ngưng kết hồng cầu và phản ứng tăng tốc dộ lắng của hồng cầu với chất khác nguyên echinococcus. Phản ứng thứ nhất cho kết quả dương tính không kém phản ứng dị ứng trong da, phản ứng thứ hai có thể dùng như một phương pháp chẩn đoán bổ sung.
QUÁ TRÌNH TRUYỀN NHIỄM
Nguồn truyền nhiễm:
Chủ yếu là chó (chó sói), cáo cũng là vật chủ cuối cùng. Gia súc có sừng (dê, cừu, bò) là vật chủ trung gian. Người là vật chủ trung gian tuỳ tiện. Trên thực tế con người không truyền được bệnh sán cho vật chủ cuối cùng, không tham gia vào chu trình nhiễm Echinococcus trong thiên nhiên, như vậy không có ý nghĩa dịch tễ học.
Đường truyền nhiễm:
Người, gia súc có sừng và các vật chủ trung gian khác bị lây bệnh do nuốt phải ấu trùng sán có ở môi trường bên ngoài khi chó bài xuất ra những đốt sán chín cùng với phân. Khi phân chó khô đi, các đốt sán lan truyền rộng ra, làm ô nhiễm cỏ, nước hồ ao, các đốt sán với trứng sán còn có thể dính trên thân thể chó.
Những ấu trùng móc sống tương đối lâu ở môi trường bên ngoài cho nên chúng có thể làm lây bệnh sang người trong một thời gian khá dài. ở trên mặt đất, trong râm, ở nhiệt độ 10-26°, chúng vẫn có khả năng làm lây bệnh trong 1 tháng, ở cỏ khô, nhiệt độ từ -2° đến +20°, chúng vẫn có khả năng làm lây bệnh đến 6 tháng.
Nhiệt dộ cao có tác dụng giết chết chúng (sau 1 giờ ở 50°; 10 phút ở 60°; 20 giây ở 100°). ánh sáng mặt trời trực tiếp cũng giết chết chúng.
Người có thể bị lây khi tiếp xúc với chó, nếu vi phạm các quy tắc vệ sinh (như cho liếm tay, cho ăn cùng bát dĩa). Những người chăn nuôi cừu và những người có quan hệ với nguyên liệu động vật dễ bị lây bệnh bởi lông cừu có trứng sán với ấu trùng móc.
Rau sống bị ô nhiễm phân chó và ruồi chỉ có ý nghĩa thứ yếu thôi.
Khi ăn phải những phủ tạng của gia súc có sừng bị nhiễm ấu trùng thì chó bị lây bệnh, vì có rất nhiều dầu sán trong túi echinococcus và từ những đầu ấy lại có thể phát triển ra một ký sinh vật trưởng thành độc lập, cho nên mức độ bị nhiễm của chó có thể rất nặng. Sự phát triển của ký sinh trùng đến giai đoạn trưởng thành về sinh dục được thực hiện trong vòng ba tháng.
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ
Bệnh sán E.granulosus phổ biến ở khắp nơi, chủ yếu ở các nước phía nam châu Á, phía nam châu Âu (Hy lạp, Tây Ban Nha, Ý), ở Hoa kỳ, Nam Mỹ,úc- Những trường hợp tái phát gặp chủ yếu ở người có chó và người chăn nuôi gia súc.
Bệnh E.multiloculars ít gặp hơn, và có ổ bệnh trong thiên nhiên; con người ngẫu nhiên bị lôi cuốn vào chu trình nhiễm sán trong thiên nhiên.
PHÒNG BỆNH VÀ CHỮA BỆNH
Phòng bệnh sán Echinococcus:
Có thể giải quyết được bằng sự cộng tác của cán bộ y tế và thú y, bởi vì trong chu trình nhiễm sán trong thiên nhiên không phải người mà là động vật (nhất là chó) giữ một vai trò chủ yếu. Các biện pháp phải nhằm:
– Diệt chó lang thang và chó vô chủ. Đối với chó nhà tiếp xúc nhiều với người, hoặc chó dùng để coi đàn gia súc, thì phải tẩy sán hàng loạt, ít ra 2-3 lần trong một năm. Diệt chuột và cáo ở những ổ bệnh sán E. multilocularis.
Phòng ngừa cho vật chủ trung gian (gia súc nông nghiệp) không bị lây, nghĩa là bảo đảm cho môi trường bên ngoài không bị ô nhiễm bởi chó mắc bệnh.
Phòng ngừa cho vật chủ cuối cùng không bị nhiễm bệnh sán Echinococcus (không cho chó ăn phủ tạng súc vật mắc bệnh)
Khám xét có hệ thống các gia súc giết thịt để phát hiện ra những ổ bệnh nguy hiểm nhất và kiểm tra kết quả của các biện pháp.
Cần phải kiểm tra chặt chẽ việc phát sinh gia súc để loại trừ khả năng người tiêu dùng nhận phải sản phẩm bị nhiễm sán.
Cần phải ghi chép tất cả các trường hợp mắc bệnh, điều tra dịch tễ học để phát hiện nguồn truyền nhiễm, chú ý đặc biệt đến những người do nghề nghiệp dễ bị lây bệnh nhất. Nếu phát hiện thấy nhiều người mắc bệnh, cần phải thực hiện những biện pháp vệ sinh nghề nghiệp.
Ấu trùng sống dai ở môi trường bên ngoài, chỉ có xử lý bằng nhiệt, chuồng cũi, và nhà có chó bị sán mới bảo đảm giết chết ấu trùng một cách chắc chắn.
Chữa bệnh E.granulosus (kyste hydatique) ởgan bằng phẫu thuật:
Ớ những thể bệnh không thể mổ dược, người ta tiêm vào bắp ête thymol của acid palmatinic
Người ta đang cố gắng thử chữa bệnh E.multilocutaris bằng tia X quang và bằng vacxin.
Bijuva (estradiol và progesterone) là gì và được sử dụng để làm gì?
Bijuva là một loại thuốc theo toa chứa hai loại hormone, một loại estrogen và một loại progesterone. Bijuva được sử dụng sau thời kỳ mãn kinh để giảm các cơn bốc hỏa từ trung bình đến nặng.
Các tác dụng phụ của Bijuva là gì?
Các tác dụng phụ được phân loại theo mức độ nghiêm trọng và tần suất xảy ra khi điều trị.
Các tác dụng phụ nghiêm trọng nhưng ít phổ biến bao gồm:
Đau tim
Đột quỵ
Huyết khối
Ung thư vú
Ung thư niêm mạc tử cung
Ung thư buồng trứng
Sa sút trí tuệ
Bệnh túi mật
Mức canxi trong máu cao hoặc thấp
Thay đổi thị lực
Tăng huyết áp
Mức chất béo trong máu cao (triglyceride)
Vấn đề gan
Thay đổi mức hormone tuyến giáp
Sưng hoặc giữ nước
Tăng kích thước của khối u lành tính ở tử cung (“u xơ”)
Tình trạng sưng mặt hoặc lưỡi xấu đi (phù mạch) ở phụ nữ có tiền sử phù mạch
Thay đổi kết quả xét nghiệm như thời gian đông máu và mức đường huyết cao
Gọi ngay cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nếu bạn gặp bất kỳ dấu hiệu cảnh báo nào sau đây hoặc bất kỳ triệu chứng bất thường nào khác mà bạn lo ngại:
Khối u mới ở vú
Chảy máu âm đạo bất thường
Thay đổi thị lực hoặc khả năng nói
Đau đầu dữ dội mới xuất hiện
Đau nặng ở ngực hoặc chân, có hoặc không có khó thở, yếu và mệt mỏi
Sưng chân hoặc bắp chân
Nôn mửa
Các tác dụng phụ phổ biến nhất của Bijuva bao gồm:
Đau nhức vú
Đau đầu
Chảy máu âm đạo
Khí hư âm đạo
Đau vùng chậu
Hãy cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn biết nếu bạn gặp bất kỳ tác dụng phụ nào làm bạn khó chịu hoặc không biến mất.
Đây không phải là tất cả các tác dụng phụ có thể xảy ra của Bijuva.
Bạn cũng có thể báo cáo tác dụng phụ cho TherapeuticsMD tại số 1-888-228-0150.
Tôi có thể làm gì để giảm nguy cơ tác dụng phụ nghiêm trọng với Bijuva?
Thảo luận thường xuyên với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về việc liệu bạn có nên tiếp tục dùng Bijuva hay không.
Nếu bạn có tử cung, hãy thảo luận với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về việc bổ sung một progestogen có phù hợp với bạn hay không.
Thường thì việc bổ sung progestogen là khuyến nghị cho phụ nữ có tử cung để giảm nguy cơ bị ung thư tử cung.
Hãy đến gặp nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ngay nếu bạn có hiện tượng chảy máu âm đạo khi đang dùng Bijuva.
Thực hiện khám vùng chậu, khám vú và chụp nhũ ảnh (X-quang vú) hàng năm trừ khi nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn cho biết điều gì khác.
Nếu thành viên trong gia đình bạn có tiền sử ung thư vú hoặc nếu bạn từng có khối u ở vú hoặc có nhũ ảnh bất thường, bạn có thể cần phải kiểm tra vú thường xuyên hơn.
Nếu bạn bị tăng huyết áp, cholesterol cao (chất béo trong máu), tiểu đường, thừa cân hoặc nếu bạn sử dụng thuốc lá, bạn có thể có nguy cơ cao hơn về bệnh tim mạch.
Hãy hỏi nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về cách giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch.
Bijuva có gây nghiện không?
Chưa có thông tin được cung cấp.
Liều lượng cho Bijuva là gì?
Việc sử dụng estrogen, một mình hoặc kết hợp với progestogen, nên được giới hạn ở liều thấp nhất có hiệu quả và trong khoảng thời gian ngắn nhất phù hợp với mục tiêu điều trị và rủi ro cho từng phụ nữ. Các phụ nữ sau mãn kinh nên được đánh giá định kỳ theo lâm sàng để xác định xem liệu điều trị có còn cần thiết hay không.
Điều trị triệu chứng vasomotor từ trung bình đến nặng do mãn kinh:
Uống một viên Bijuva (estradiol và progesterone) 1 mg/100 mg, mỗi tối với thức ăn.
Các thuốc tương tác với Bijuva là gì?
Chưa có nghiên cứu tương tác thuốc- thuốc nào được thực hiện với Bijuva.
Tương tác chuyển hóa:Tác động của các thuốc khác đến estrogen và progestin.
Các nghiên cứu in-vitro và in-vivo đã chỉ ra rằng estrogen và progestin được chuyển hóa một phần bởi cytochrome P450 3A4 (CYP3A4). Do đó, các tác nhân kích thích hoặc ức chế CYP3A4 có thể ảnh hưởng đến chuyển hóa thuốc estrogen và progestin. Các tác nhân kích thích CYP3A4 như sản phẩm từ cây St. John’s wort (Hypericum perforatum), phenobarbital, carbamazepine và rifampin có thể giảm nồng độ estrogen và progestin trong huyết tương, có thể dẫn đến giảm hiệu quả điều trị và/hoặc thay đổi hồ sơ chảy máu ở tử cung. Các chất ức chế CYP3A4 như erythromycin, clarithromycin, ketoconazole, itraconazole, ritonavir và nước bưởi có thể làm tăng nồng độ estrogen hoặc progestin hoặc cả hai và có thể dẫn đến tác dụng phụ.
Chống chỉ định của Bijuva và an toàn trong thai kỳ và cho con bú
Chống chỉ định Không nên sử dụng Bijuva nếu bạn đã cắt bỏ tử cung (hysterectomy).
Bijuva chứa progesterone để giảm nguy cơ mắc ung thư tử cung. Nếu bạn không có tử cung, bạn không cần progesterone và không nên dùng Bijuva.
Không nên sử dụng Bijuva nếu bạn:
Có bất kỳ hiện tượng chảy máu âm đạo bất thường nào. Chảy máu âm đạo sau mãn kinh có thể là dấu hiệu cảnh báo của ung thư tử cung. Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nên kiểm tra bất kỳ hiện tượng chảy máu âm đạo bất thường nào để xác định nguyên nhân.
Hiện tại có hoặc đã từng mắc một số loại ung thư. Estrogen có thể làm tăng nguy cơ mắc một số loại ung thư, bao gồm ung thư vú hoặc tử cung. Nếu bạn có hoặc đã từng mắc ung thư, hãy thảo luận với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về việc liệu bạn có nên dùng Bijuva hay không.
Hiện tại có hoặc đã từng bị huyết khối.
Đã từng bị đột quỵ hoặc nhồi máu cơ tim.
Hiện tại có hoặc đã từng có vấn đề về gan.
Đã được chẩn đoán mắc rối loạn đông máu.
Bị dị ứng với Bijuva hoặc bất kỳ thành phần nào của nó. Xem danh sách thành phần trong Bijuva trong thông tin kê đơn.
Thai kỳ
Viên nang Bijuva (estradiol và progesterone) 1 mg/100 mg không được chỉ định cho phụ nữ mang thai. Không có dữ liệu về việc sử dụng Bijuva ở phụ nữ mang thai, tuy nhiên, các nghiên cứu dịch tễ học và phân tích tổng hợp không tìm thấy nguy cơ gia tăng các dị tật bẩm sinh sinh dục hoặc không sinh dục (bao gồm các bất thường tim mạch và các dị tật giảm chi) sau khi tiếp xúc với các biện pháp tránh thai hormone kết hợp (estrogen và progestin) trước khi thụ thai hoặc trong giai đoạn đầu của thai kỳ.
Cho con bú
Viên nang Bijuva (estradiol và progesterone) 1 mg/100 mg không được chỉ định cho phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Estrogen có mặt trong sữa mẹ và có thể làm giảm sản xuất sữa ở các bà mẹ đang cho con bú. Sự giảm này có thể xảy ra bất cứ lúc nào nhưng ít có khả năng xảy ra hơn khi việc cho con bú đã được thiết lập tốt.
Tóm tắt
Bijuva là một loại thuốc theo toa chứa hormone estrogen và progesterone, được sử dụng sau thời kỳ mãn kinh để giảm các cơn bốc hỏa. Các tác dụng phụ phổ biến nhất của Bijuva bao gồm đau nhức vú, đau đầu, chảy máu âm đạo, khí hư âm đạo và đau vùng chậu. Không nên dùng Bijuva nếu bạn đã cắt bỏ tử cung (hysterectomy).