Blog Trang 502

Chăm sóc người bệnh sốc chấn thương

  • Do vết thương ngực hở, vết thương ngực van gây nên hô hấp đảo chiều lắc lư trung thất.
  • Do sức ép gây tổn thương phổi và tăng áp lực nội sọ hoặc bị vùi lấp gây nên hội chứng vùi lấp.
  • Điều kiện thuận lợi cho sốc phát triển:

+ Người già, bị đói, rét, mệt mỏi, căng thẳng thần kinh, cơ thể suy kiệt.

+ Phương pháp sơ cứu, vận chuyển người bệnh gây đau đớn cũng dễ gây ra sốc.

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

Sốc nguyên phát

Xảy ra sau bị thương 10 – 15 phút, người bệnh trong trạng thái kích thích, vật vã, tăng cảm giác, tăng phản xạ, mạch và huyết áp đều tăng.

Sốc thứ phát

Sốc thứ phát có thể xuất hiện sau sốc nguyên phát hoặc ngay từ đầu đã xuất hiện, biểu hiện:

  • Người bệnh nhợt nhạt, lạnh, nằm yên, lờ đờ, thờ ơ với xung quanh.
  • Huyết áp động mạch giảm, kẹt, mạch nhanh, nhỏ, khó bắt.
  • Huyết áp tĩnh mạch trung ương giảm.
  • Hô hấp: thở nhanh nông, tiểu ít hoặc vô niệu.
  • Thân nhiệt giảm.
  • Cảm giác giảm.
  • Tuần hoàn qua mao mạch nhỏ bị rối loạn.

Mức độ sốc

  • Sốc nhẹ: Huyết áp tối đa (max) 80 -100 mm Hg, mạch 90 -100 lần/phút, khó phát hiện trên lâm sàng.
  • Sốc vừa: Huyết áp max 40 – 80 mm Hg, người bệnh lờ đờ, cảm giác và phản xạ giảm, da niêm mạc nhợt nhạt, lạnh, toát mồ hôi, mạch 100 – 140 lần/phút, nhiệt độ (ở nách) 35 – 36o
  • Sốc nặng: Huyết áp max < 40 mmHg, nhiệt độ (ở nách) 350C, (chênh lệch nhiệt độ ngoại vi và trung tâm là 21°C). Người bệnh mất tri giác, vật vã, cảm giác ^phản xạ giảm rõ, da niêm mạc nhợt, lạnh, đồng tử giãn, phản xạ ánh sáng giảm, tĩnh mạch xẹp, non, đại, tiểu tiện không tự chủ, mạch nhanh, nhỏ, khó bắt, tiếng tim mờ, thở nhanh nông.

BIẾN CHỨNG CỦA SỐC CHẤN THƯƠNG

Phổi sốc

Phổi sốc là những trường hợp suy hô hấp cấp tính xuất hiện trong quá trình sốc mà trong thời gian đầu không nhất thiết phải có thương tổn ở phổi, nguyên nhân là do:

  • Các màng mao mạch tăng tính thấm làm dịch thoát từ lòng mạch ra ngoài vào các khoang gian bào.
  • Đậm độ chất hoạt diện (surfactan) xuống thấp (do thiếu oxy người bệnh không tổng hợp được chất hoạt diện) nên các phế nang có xu hướng xẹp lại, không có khả năng trao đổi oxy nữa.

Thận sốc hay viêm thận cấp sau sốc

Hay gặp ở những người bệnh bị sốc nặng và đến muộn hoặc người bệnh có bệnh từ trước, những chấn thương gây dập nát nhiều tổ chức như bị nghiền nát hai chi dưới, bị vùi lấp. Người bệnh biểu hiện nước tiểu ít hoặc không có nước tiểu, urê và creatinin trong máu tăng cao.

KẾ HOẠCH CHĂM SÓC

Nhận định

  • Nhận định tình trạng chung xem người bệnh có vật vã không? (vật vã biểu hiện thiếu oxy não).
  • Dấu hiệu sinh tồn: mạch có nhanh, huyết áp có giảm không? chênh lệch nhiệt độ giữa trung tâm và ngoại vi? có rối loạn nhịp thở không?
  • Có giảm cảm giác không?
  • Trạng thái thần kinh có thờ ơ với xung quanh không?
  • Da niêm mạc có xanh không? có vã mồ hôi? Có nổi vân tím trên da không? (biểu hiện rối loạn tuần hoàn ngoại vi).
  • Nhận định số lượng nước tiểu hằng giờ? (bình thường là 1ml/kg/h, thiểu niệu khi nước tiểu dưới 0,5 ml/kg/h, vô niệu khi nước tiểu dưới 0,2ml/kg/h).
  • Tại chỗ vết thương là loại gì? Mức độ mất máu?

Những vấn đề cần chăm sóc

  • Nguy cơ khó thở.
  • Thiếu oxy não.
  • Người bệnh biến loạn dấu hiệu sinh tồn.
  • Người bệnh thiểu niệu hoặc vô niệu.
  • Người bệnh đau do chấn thương.

Lập và thực hiện kế hoạch chăm sóc

  • Theo dõi dấu hiệu sinh tồn: 2-5 phút một lần (tuỳ thuộc vào tình trạng của người bệnh), đánh giá mức độ khó thở: đảm bảo đường thở phải được lưu thông, đếm tần số thở, biên độ thở.
  • Đo độ bão hoà oxy trong mạch máu (SpO2), độ bão hoà oxy trong máu động mạch (SaO2) (hoặc đặt mu bàn tay người điêu dưỡng lên mũi người bệnh để đánh giá lượng khí thở ra, hoặc dán một sợi bông vào cánh mũi để nhìn thấy rõ sợi bông bay khi người bệnh thở). Nếu có khó thở, cho nằm đầu thấp, thở oxy.
  • 3-5 phút một lần theo dõi mạch, huyết áp, CVP, màu sắc đầu ngón tay, tình trạng da và niêm mạc đánh giá mức độ mất máu.
  • Truyên dịch là tối cần thiết và phải làm ngay, có thể truyên một hoặc nhiêu đường đảm bảo có đường truyên tốt, chắc chắn hồi sức kịp thời khi cần thiết, bù lại khối lượng tuần hoàn.
  • Đảm bảo đủ ấm.
  • Theo dõi nước tiểu qua ống thông bàng quang theo giờ vê màu sắc và số lượng.
  • Hoàn thành các xét nghiệm : Nhóm máu, số lượng hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, hematocrit, huyết cầu tố, điện giải, urê huyết, íibrinogen, prothrombin, glucose theo y lệnh.
  • Lập biểu đồ ghi thời gian bị sốc. Số lượng mất máu và các dịch thể khác bị mất. Diễn biến của huyết áp, mạch, nhiệt độ, nhịp thở, lượng nước tiểu. Lượng máu và dịch vào cơ thể, diễn biến của CVP, các thuốc cho trong quá trình điêu trị.
  • Xác định khoảng cách nhiệt độ cơ thể ở da và hậu môn cho biết mức độ co mạch trong sốc (bình thường nhiệt độ ở hậu môn cao hơn nhiệt độ ở da là 0,50C). Khi sốc thì khoảng cách nhiệt độ ở da thấp hơn nhiệt ,độ hậu môn từ 1 đến 20C, sư chênh lệch nhiệt độ càng lớn thể hiện sư co mạch ngoại vi càng nhiều, sốc càng nặng.
  • Giảm đau bằng cách bất động gãy xương, tiêm thuốc giảm đau theo y lệnh.
  • Vệ sinh tại chỗ vết thương và toàn trạng.
  • Dùng kháng sinh đê phòng nguy cơ nhiễm trùng theo y lệnh.

Đánh giá thoát sốc

  • Huyết áp động mạch tối đa và tối thiểu, CVP trở lại bình thường và giữ ở mức ổn định trong 2-3 giờ liên. Mạch trở lại bình thường, tim đập rõ.
  • Số lượng nước tiểu trong 24 giờ bình thường (trên 1ml/kg/h). Tỷ trọng nước tiểu bình thường. Trong máu urê, creatinin trở lại bình thường.
  • Người bệnh thở sâu, đêu, không khó thở (SpO2 trên 98%).
  • Da niêm mạc ấm, trở lại màu sắc bình thường.
  • Người bệnh hoàn toàn tỉnh táo.
  • Các xét nghiệm máu: PH máu, dự trữ kiềm, urê máu, kali máu trở lại bình thường. Số lượng hồng cầu, hematocrit… gần trở về bình thường.

PHÒNG VÀ CHỐNG SỐC Ở TUYẾN CƠ SỞ

  • Phải xử trí từ khi ước đoán sẽ có sốc, không nên chờ khi huyết áp tụt mới xử trí, cần chống sốc liên tục ngay cả trong lúc vận chuyển, tiến hành ngay việc truyền dịch vào tĩnh mạch.
  • Làm tốt năm kỹ thuật cấp cứu:

+ Băng bó vết thương, sưởi ấm, đặt người bệnh ở nơi thoáng, tránh gió lạnh, nếu nạn nhân uống được (không có chống chỉ định về chuyên môn như tổn thương tạng trong ổ bụng), cho uống nước chè đường nóng. Cố định nhẹ nhàng đúng kỹ thuật, nhất là tại các khớp lớn như khớp háng, khớp vai, tại các nơi có xương lớn bị gãy như xương đùi, xương chậu.

+ Cầm máu tạm thời: phải băng ép, nếu là vết thương động mạch phải garô đúng chỉ định, phải có phiếu garô ghi rõ thời gian đặt garô, để lộ garô ra ngoài hoặc báo cho người tiếp nhận tuyến sau biết, nới garô đúng thời gian quy định. Tránh hoại tử chi do thiếu oxy phải cắt cụt chi do garô để quá lâu.

+ Phòng và chống ngạt thở: để người bệnh nằm nghiêng đầu, lấy hết đờm dãi dị vật, nếu lưỡi tụt phải kéo lưỡi ra cố định với cằm, cho thở oxy. Khi có vết thương ngực hở phải bịt kín vết thương ngực hở. Phát hiện sớm những trường hợp vết thương ngực van cấp cứu kịp thời (trong trường hợp cấp cứu dùng kim Pê-trôp căm vào khoang liên sườn 2 đường giữa đòn để dẫn lưu khí màng phổi).

+ Tiêm thuốc giảm đau toàn thân morphin, fentanyl, (khi người bệnh không theo dõi tổn thương nội tạng). Nếu có nghi ngờ tổn thương nội tạng thì dùng giảm đau tại chỗ tổn thương bằng cách phong bế lidocain hoặc marcain tại chỗ.

+ Khi người bệnh ngừng tim, làm tốt việc bóp tim ngoài lồng ngực, hà hơi thổi ngạt.

  • Nhanh chóng, nhẹ nhàng chuyển người bệnh về tuyến điều trị cao hơn.

Bệnh leptospira

Định nghĩa:

Là nhóm bệnh của súc vật lây sang người do các xoắn khuẩn Leptospira gây ra.

Lâm sàng: thể hiện bệnh cảnh của nhiễm trùng huyết. Ở các thể nặng có vàng da, xuất huyết và hội chứng gan – thân.

Dịch tễ:

  • Tác nhân gây bệnh:

Xoắn khuẩn Leptospira thuộc họ Spirochaetaceace

  • Sức đề kháng:

+ Yếu, nhạy cảm với nhiệt độ và pH môi trường.

  • Ở 56oC, chết trong 10 phút.
  • Ở môi trường acid dịch vị dạ dày, chết sau 30 phút.

+ Các chất sát khuẩn thông thường có thể diệt được Leptospira.

  • Kháng nguyên: Có một kháng nguyên chính và một phụ (phụ giống nhau ở một số chủng)

+ Lipopolisaccharides (LPS) không độc, dùng để định typ.

+ Glycolipoprotein (GLP) thay thế lipid màng vật chủ > tắc ống dẫn màng (trao đổi chất thụ động)

  • Phân loại:

+ Leptospira biflexia: các chủng không gây bệnh

+ Leptospira pathogenic: các chủng gây bệnh. (vàng da, vàng da xuất huyết, suy gan thân)

  • Ổ chứa:

Ổ chứa thiên nhiên gồm các loài gặm nhấm: chuột đồng, chuột cống, chồn, sóc…(không triệu chứng, thải ra nước tiểu)

Gia súc: ngựa, chó, mèo, lợn, bò (có triệu chứng, thải ra nước tiểu)

Đông Nam Á:

+ Australis (Chuột) (Vàng da, xuất huyết)

+ Bataviae (Chuột, chồn, sóc, lợn) (Vàng da, xuất huyết)

+ Javanica (Chuột dê bò)

+ Pyrogenes(Chuột)

  • Phân bố dịch tễ:

Nhiều nơi trên thế giới, Châu Á có VN, Thái Lan, Inđô, Malai

Thường xuất hiện lẻ tẻ vào mùa hè, mùa thu, ở cả nông thôn và thành thị

Tử vong chủ yếu ở thể vàng da, xuất huyết và có tổn thương thân.

  • Đường lây truyền:

Động vật hoang dã————- vật nuôi người (nghề rừng)

  • Xâm nhập qua:

+ Các vết xây xước da, niêm mạc

+ Da niêm mạc bt nhưng ngâm lâu trong nước nhiễm nước tiểu + Ăn phải thịt đv bị bệnh

  • Khối cảm thụ:

Người, động vật gặm nhấm, gia súc

  • Đối tượng dễ bị nhiễm:

+ Công nhân nạo cống rãnh

+ Công nhân lò mổ

+ Trồng lúa

+ Chăn nuôi gia súc

+ Bơi lội ở bể bơi nhiễm nước tiểu chuột bệnh

LÂM SÀNG:

  • Không có đặc điểm lâm sàng riêng cho từng chủng
  • Bệnh được chia thành 2 giai đoạn:

+ Giai đoạn nhiễm trùng huyết.

+ Giai đoạn Leptospira xâm nhập vào tổ chức.

  • Thể không vàng da:

Nhẹ hơn thể vàng da, thường do các chủng L.Bratislava, L.Canicola, L.Pomona, từ chố, lợn mắc bệnh lây sang người.

  • Lâm sàng:

ủ bệnh: 2 – 30 ngày (trung bĩnh 7-10 ngày)

Không triệu chứng.

Thời gian ủ bệnh tùy thuộc độc lực, số lượng, tốc độ phát triển của

Nếu miễn dịch đủ mạnh (IgM xuất hiện trong 5 – 14 ngày) –> thực bào, loại bỏ Leptospira. Ngược lại, sẽ xuất hiện triệu chứng và tổn thương phủ tạng.

  • Khởi phát:

Sốt cao đột ngột 39 – 40oC , rét run, ớn lạnh, vã mồ hôi.

Nhức đầu dữ dội.

Sợ ánh sáng.

Mệt mỏi, đau mình mẩy, đau mỏi các bắp cơ, khớp.

  • Toàn phát:

Sốt:

+ Sốt cao liên tục 1 tuần (gđ nhiễm trùng huyết)

+ Hết sốt 1 – 3 ngày (ko điều trị cũng hết)

+ Sốt lại (gđ nhiễm leptospira tổ chức)

  • Đau:

+ Đau bắp cơ nhất là cơ bắp chân, cơ thắt lưng.

+ Đau tăng khi bóp.

+ Đau khớp, nhức đầu.

+ Đau bụng, đôi khi giống đau bụng cấp ngoại khoa.

  • Da:

+ Xung huyết lan tỏa ở da và củng mạc mắt.

+ Cố thể phát ban dạng sởi, dát sẩn, mày đay (cuối gđ sốt đầu tiên,3-4 ngày) mất đi ko để lại dấu vết.

  • Tâm thần kinh:

+ Vẻ mặt trầm cảm thờ ơ, lơ mơ (nhầm Typhos trong thương hàn).

+ Hội chứng màng não (VMN nước trong tăng Lympho) ko di chứng.

  • Tim: Nhịp tim nhanh, ít khi châm.
  • Thân:

+ Thiểu niệu vào tuần 2.

+ Hiếm suy thân.

  • Lui bệnh:

Sau 3 tuần (trung binh 8 – 10 ngày) bước vào thời kỳ hồi phục (gđ miễn dịch)

BN không được điều trị thì lâu hơn (3 – 6 tuần).

Cận lâm sàng:

BC: 10.000 – 20.000/mm3, đa nhân trung tính

Ure, creatinin tăng vừa.

Tiểu có protein.

Dịch não tủy:

+ Dịch trong

+ BC lympho tăng + Protein tăng nhẹ + Glucose, muối bt

  • Thể vàng da (suy gan, thận)

Nặng, tử vong do tổn thương tế bào gan, thận, xuất huyết cơ tim, tổn thương nôi mạc các mạch máu nhỏ.

  • Lâm sàng:

Gồm các dấu hiệu của thời kỳ toàn phát của thể không vàng da. Kèm theo:

Vàng da:

+ Đột ngột, tiến triển nhanh

+ Cuối gđ sốt đầu tiên thời kỳ toàn phát (ngày 6-7)

+ Vàng da thì hết sốt + Vàng trên nền xung huyết (màu cam)

Suy thân cấp:

+ Thiểu niệu, vô niệu + Toan chuyển hóa + K+ trong máu cao

Xuất huyết:

+ Da

+ Niêm mạc các cơ quan (cả tuyến thượng thân)

Tim:

+ Rối loạn dẫn truyền

+ Sóng T thấp do xuất huyết trong cơ tim, xh màng ngoài tim.

Hô hấp: Suy hô hấp do chảy máu, phù phổi

Toàn thân:

+ Thiếu máu do xuất huyết nhiều nơi

+ Suy sụp, nôn

+ U ám, rối loạn ý thức, hôn mê, tử vong.

+ (Gan lách to–cô cho ghi)

Cân lâm sàng:

CTM :

+ Bạch cầu tăng cao, nhất là đa nhân trung tính.

+ Tiểu cầu giảm ít.

HSM:

+ Ure, creatinin tăng cao.

+ K+ máu tăng + Suy thân thực tổn khi:

(Na niệu / Na máu ) x (Cre máu/ Cre niệu) x 100 > 2%

Hoặc:

  • Ure niệu/ Ure máu < 10
  • Cre niệu/ Cre máu < 20
  • Vô niệu, Protein niệu > 1g/l, trụ hạt + + +

+ SGOT, SGPT tăng, tỷ lệ Prothrobin bình thường hoặc giảm nhẹ.

+ Bilirubin tăng.

  • Thể ít gặp:
  • Thể giả cúm: sốt đơn thuần
  • Thể màng não
  • Thể đau bụng cấp giả ngoại khoa

Biến chứng:

Viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim

Viêm mống mắt thể mi, viêm thị thần kinh, xuất huyết võng mạc

Viêm dây thần kinh ngoại vi

Suy gan, thận

CHẨN ĐOÁN:

Chẩn đoán xác định:

  • Dịch tễ: BN vừa mới tiếp xúc.
  • Lâm sàng :

+ Sốt đột ngột

+ Đau cơ bắp chân,

+ Biểu hiện thân

+ Da vàng cam

Cận lâm sàng:

+ Tìm xoắn khuẩn trong máu, dịch não tủy 6 ngày đầu. Từ ngày 6-12 (-) do đi vào phủ tạng. Từ ngày 12 tìm trong nước tiểu.

+ Huyết thanh:

Phản ứng Mactin Pettit

MAT (ngưng kết dưới kính hiển vi)

ELISA

Chẩn đoán phân biệt:

Thể không vàng da: phân biệt với:

+ Cúm

+ Sốt rét + Thương hàn + Viêm màng não + Bệnh có ban,

Thể có vàng da: phân biệt với + Sốt rét nặng có biến chứng

+ Nhiễm trùng đường mật tăng ure máu + Viêm gan dị ứng nhiễm độc.

+ Nhiễm khuẩn huyết + Áp xe thân

Thể có xuất huyết: Viêm màng não do não mô cầu, sốt XH Dengue, Nhiễm khuẩn huyết nặng

HỘI CHỨNG GAN THẬN hay gặp trong 4 bệnh: lepto, viêm gan nhiễm độc, nhiễm trùng đường mật dẫn đến Nhiễm khuẩn huyết và thân, Sốt rét ác tính.

Chẩn đoán ở cộng đồng (vụ dịch): Nghĩ tới bệnh này khi có 1 số triệu chứng:

Sốt cao đột ngột, nhức đầu

Đau cơ tăng khi bóp, vân động mà không có viêm cơ

Xung huyết, xuất huyết

Vàng da, tiểu ít, vô niệu trong 24h.

ĐIỀU TRỊ:

Điều trị căn nguyên:

  • Penicillin G 80.000 – 90.000/kg/ngày cách 6h/lần x 7 ngày (nếu suy thân dùng Cephalosporin, vì Pen G là muối của K+ nên gây tăng K+)
  • Dị ứng Penicillin dùng:

+ Erythromycin 15mg/kg/ngày tiêm hoặc uống cách 6h/lần + Doxycyclin 2-3mg/kg/ngày uống 2lần/ngày (độc gan, răng của thai)

Phụ nữ có thai ốm nặng dị ứng penicillin: Lincomycin

Điều trị triệu chứng:

Chống suy thận cấp:

+ Lợi tiểu, truyền dịch.

+ Lọc thân khi:

  • Ure máu > 30mmol/l
  • Creatinin > 2mg% (em tính ~ 177umol/l)
  • K+ máu >5,5 mmol/l (thầy bảo 6)
  • Chống rối loạn điện giải: chống tăng K+ bằng dùng Ca clorua, NaHCO34% tĩnh mạch châm hay tạm 1.4% nếu ko có.
  • Hạ sốt, giảm đau, an thần
  • Dinh dưỡng tốt đủ Glucid, protid.
  • Xử trí cộng đồng:
  • Vàng da, tiểu ít, rối loạn ý thức: Chuyển lên tuyến trên, tiêm bắp trước khi chuyển
  • penicillin G
  • Không vàng da, tiểu bt: Giữ lại trạm y tế, điều trị pen như trên.

TIÊN LƯỢNG: phụ thuộc

  • Mức độ suy thận: K+ máu > 6mEq/l là nặng
  • Bệnh gan thận có trước.
  • Biến chứng tim: RL dẫn truyền, nhồi máu cơ tim
  • Suy hô hấp, chảy máu phổi

PHÒNG BỆNH:

Dự phòng:

Giáo dục cộng đồng ko tiếp xúc, bơi lội nơi nguy cơ.

Đồ bảo hộ cho đối tượng nguy cơ cao (CN nạo cống rãnh, lò mổ…)

Chú ý các trường hợp bệnh ở khu vực ngập lụt

Vệ sinh môi trường, khai thông cống rãnh

Phòng bệnh cho những người nguy cơ cao, đặc biệt trong vùng dịch lưu hành.

Chống dịch:

Loại trừ nguồn nước ô nhiễm, khử trùng đồ vật, xác súc vật, máu dịch tiết cơ thể

Điều tra nguồn lây báo cáo cấp trên.

Dopamine là gì và Chức năng của nó với cơ thể

Dopamine là gì?

Dopamine là một hormone và một loại chất dẫn truyền thần kinh, hoặc messenger hóa học, được tạo ra trong não của bạn. Hệ thần kinh của bạn sử dụng nó để gửi tin nhắn giữa các tế bào thần kinh. Những tin nhắn này cũng di chuyển giữa não và phần còn lại của cơ thể bạn.

Chất dẫn truyền thần kinh đặc biệt này ảnh hưởng đến cơ thể, não bộ và hành vi của bạn. Dopamine đóng vai trò trong cách chúng ta cảm nhận sự vui vẻ và phần thưởng. Nó là một phần lớn trong khả năng độc đáo của con người trong việc suy nghĩ và lập kế hoạch. Nó giúp chúng ta tập trung, làm việc hướng tới mục tiêu và tìm thấy những điều thú vị.

Giống như hầu hết các hệ thống khác trong cơ thể, bạn không nhận ra nó (hoặc thậm chí có thể không biết đến nó) cho đến khi có vấn đề xảy ra.

Quá nhiều hoặc quá ít dopamine có thể dẫn đến nhiều vấn đề sức khỏe khác nhau. Một số là nghiêm trọng, như bệnh Parkinson. Những vấn đề khác ít nghiêm trọng hơn.

Dopamine thực hiện chức năng gì?

Dopamine di chuyển dọc theo bốn con đường chính trong não. Những con đường này giống như đường cao tốc với các trạm dừng (các thụ thể dopamine) trên đường đi. Dopamine dừng lại ở những thụ thể này để gửi và nhận các tin nhắn khác nhau. Những tin nhắn này là tín hiệu ảnh hưởng đến chuyển động, phối hợp, sự vui vẻ và nhận thức, hoặc suy nghĩ.

Dopamine đóng vai trò lớn trong hệ thống phần thưởng của bạn. Khi bạn làm điều gì đó cảm thấy tốt, não của bạn sẽ giải phóng một lượng lớn dopamine. Bạn tự nhiên tìm kiếm nhiều cảm giác tốt hơn bằng cách lặp lại hành vi đã làm bạn cảm thấy tốt. Điều này có thể là bất cứ điều gì từ việc ăn món ăn ngon đến việc xem marathon chương trình yêu thích của bạn. Hoặc những hành vi có hại hơn như lạm dụng ma túy hoặc rượu.

Nó ảnh hưởng đến nhiều phần trong hành vi và chức năng thể chất của bạn, chẳng hạn như:

  • Học tập
  • Động lực
  • Chức năng thận
  • Tiết sữa
  • Giấc ngủ
  • Ký ức và sự tập trung
  • Phản ứng căng thẳng
  • Tâm trạng
  • Sự chú ý
  • Tiêu hóa và lưu thông máu
  • Xử lý cơn đau
  • Nhịp tim
  • Chức năng mạch máu
  • Kiểm soát buồn nôn và nôn mửa
  • Chuyển động

Dopamine so với Serotonin

Serotonin là một chất dẫn truyền thần kinh mà, giống như dopamine, điều chỉnh tâm trạng và các chức năng cơ thể khác. Cả hai hormone đều làm tăng tâm trạng và cảm xúc tích cực. Serotonin và dopamine đều đóng vai trò trong tiêu hóa và giấc ngủ.

Serotonin liên quan đến hạnh phúc và tâm trạng, trong khi dopamine liên quan đến cảm giác phần thưởng và động lực.

Mặc dù hai chất dẫn truyền thần kinh này tương tự nhau, nhưng chúng hoạt động theo những cách khác nhau. Cân bằng giữa hai hormone này là quan trọng vì đôi khi chúng làm việc cùng nhau, và vào những lúc khác lại ức chế hoặc kiềm chế lẫn nhau. Quá ít hormone nào cũng có thể gây ra các tình trạng sức khỏe tâm thần.

Vai trò trong sức khỏe tâm thần

Rất khó để xác định một nguyên nhân duy nhất của hầu hết các rối loạn và thách thức sức khỏe tâm thần. Nhưng chúng thường liên quan đến việc quá nhiều hoặc quá ít dopamine ở các phần khác nhau của não. Ví dụ bao gồm:

  • Tâm thần phân liệt. Rối loạn tâm thần nghiêm trọng nhưng có thể điều trị này gây ra ảo giác (nhìn thấy những thứ không tồn tại) và ảo tưởng (tin chắc vào những ý tưởng không đúng sự thật). Các triệu chứng khác bao gồm suy nghĩ không có tổ chức và các chuyển động cơ thể không bình thường. Mất cân bằng dopamine ở các con đường khác nhau trong não gây ra các triệu chứng này.
  • ADHD. Không ai biết chắc chắn nguyên nhân gây ra rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Một số nghiên cứu cho thấy có thể do sự thiếu hụt dopamine. Vấn đề này có thể do gen của bạn. Thuốc ADHD methylphenidate (Ritalin) hoạt động bằng cách tăng cường dopamine.
  • Lạm dụng ma túy và nghiện. Các loại ma túy như cocaine có thể gây ra một sự gia tăng lớn và nhanh chóng của dopamine trong não của bạn. Điều đó làm thỏa mãn hệ thống phần thưởng tự nhiên của bạn một cách lớn lao. Nhưng việc sử dụng ma túy lặp đi lặp lại cũng làm tăng ngưỡng cho loại cảm giác này. Điều này có nghĩa là bạn cần phải dùng nhiều hơn để có được cảm giác phê như trước. Trong khi đó, ma túy làm cho cơ thể bạn ít khả năng sản xuất dopamine tự nhiên. Điều này dẫn đến những cảm giác tiêu cực khi bạn không dùng ma túy.

Dopamine trong các bệnh khác

Nó cũng đóng vai trò trong các bệnh không liên quan đến sức khỏe tâm thần. Một trong số đó là bệnh Parkinson. Một bệnh khác là béo phì.

  • Bệnh Parkinson. Dopamine cho phép các nơ-ron, hoặc tế bào thần kinh, trong não của bạn giao tiếp và kiểm soát chuyển động. Trong bệnh Parkinson, các hạch nền, một phần quan trọng của các tế bào và dây thần kinh não điều khiển chuyển động cơ thể, dần dần bị phá hủy. Không còn tín hiệu nào để gửi đi nữa, cơ thể bạn sản xuất ít dopamine hơn.

Những thay đổi này trong não của bạn dẫn đến một sự mất cân bằng hóa học gây ra các triệu chứng thể chất, bao gồm run rẩy, cứng nhắc, chuyển động tự nguyện chậm, mất thăng bằng và phối hợp kém. Các bác sĩ điều trị những triệu chứng này bằng các loại thuốc làm tăng mức dopamine.

  • Béo phì. Hầu hết thời gian, nếu bạn tiêu thụ nhiều calo hơn bạn đốt cháy, bạn sẽ tăng cân. Vậy tại sao những người béo phì không thể đơn giản ăn ít hơn và giảm cân? Câu trả lời không đơn giản như vậy.

Nếu bạn bị béo phì, bạn có thể gặp phải những trở ngại mà người khác không gặp phải, bao gồm các vấn đề với hệ thống phần thưởng tự nhiên của bạn. Điều này có thể ảnh hưởng đến lượng thực phẩm bạn ăn trước khi cảm thấy hài lòng.

Các nghiên cứu cho thấy rằng ở những người bị béo phì, cơ thể có thể không giải phóng đủ dopamine và serotonin.

Dopamine có thể cứu sống

Dopamine có thể đóng vai trò cứu sống trong việc làm giãn hoặc siết chặt mạch máu (tĩnh mạch và động mạch). Các bác sĩ sử dụng dopamine theo toa (Inotropin) để điều trị:

  • Huyết áp thấp
  • Suy tim (khi tim không bơm đủ máu ra ngoài)
  • Lưu thông máu kém đến các cơ quan quan trọng
  • Một số trường hợp sốc nhiễm trùng

Nếu bác sĩ của bạn kê đơn dopamine, hãy theo dõi những tác dụng phụ sau:

  • Nhịp tim không đều
  • Nhịp tim nhanh
  • Khó thở
  • Đau ngực
  • Buồn nôn và nôn mửa
  • Đau đầu

Vì nhiều loại thuốc tương tác với nó, nên điều quan trọng là bác sĩ của bạn biết tất cả các loại thuốc bạn đang dùng.

Triệu chứng của mức dopamine thấp và cao

Dopamine không được đo bằng xét nghiệm máu, vì vậy không có số cụ thể nào cho thấy bạn có mức bình thường. Thay vào đó, bác sĩ của bạn sẽ hỏi bạn nhiều câu hỏi về tiền sử y tế, lối sống và cảm xúc của bạn. Nếu bạn có mức dopamine bình thường và cân bằng, bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc, có động lực, tỉnh táo và tập trung.

Triệu chứng của dopamine thấp:

Nếu bạn có mức dopamine thấp trong não, bạn có thể gặp các triệu chứng sau:

  • Ít động lực để hoàn thành công việc hoặc đạt được mục tiêu
  • Không cảm thấy vui vẻ trong các hoạt động mà bạn từng thích
  • Ít năng lượng
  • Lo âu hoặc buồn bã
  • Khó tập trung
  • Khó ngủ
  • Giảm ham muốn tình dục

Triệu chứng của dopamine cao:

Nếu bạn có mức dopamine cao, bạn có thể cảm thấy:

  • Cảm giác hưng phấn, hoặc sự phấn khích và hạnh phúc mãnh liệt
  • Năng lượng cao
  • Tăng ham muốn tình dục

Nhược điểm của việc có quá nhiều dopamine trong não bao gồm:

  • Khó ngủ
  • Hành vi hung hãn
  • Khó kiểm soát hành động của bạn

Cách tăng cường dopamine

Dopamine là một hóa chất trong não phức tạp và các nhà khoa học vẫn đang tìm hiểu cách nó hoạt động.

Một số nghiên cứu cho thấy rằng một số thực phẩm giàu magiê và tyrosine, một axit amin chuyển đổi thành dopamine trong não của bạn, có thể làm tăng mức dopamine. Ví dụ là gà, hạnh nhân, táo, rau lá xanh, trà xanh, cà chua và nghệ.

Mức dopamine tăng lên khi bạn làm những điều khiến bạn cảm thấy hạnh phúc và thư giãn. Để có một cảm giác mạnh mẽ về dopamine, bạn có thể thử ngắt kết nối với điện thoại của mình và thay vào đó đi tập thể dục, dành thời gian ở thiên nhiên hoặc đọc cuốn sách yêu thích của bạn.

Các thực phẩm bổ sung có thể tăng mức dopamine bao gồm:

  • Tyrosine
  • L-theanine
  • Vitamin D, B5 và B6
  • Axit béo omega-3
  • Magiê

Detox dopamine

Detox dopamine, còn gọi là nhịn dopamine, là một xu hướng đã trở nên phổ biến trong những năm gần đây. Nhịn dopamine được phát triển lần đầu bởi bác sĩ Cameron Sepah như một kỹ thuật trị liệu hành vi nhận thức nhằm giúp những người gặp khó khăn với hành vi bốc đồng và nghiện. Thay vì hành động theo những xung động của bạn để cảm thấy hài lòng ngay lập tức do sự gia tăng dopamine, thực hành này dựa vào sức mạnh ý chí để quản lý phản ứng của bạn đối với những xung động.

Thuật ngữ detox dopamine khiến mọi người nghĩ rằng việc cắt giảm tất cả các hoạt động vui vẻ sẽ làm reset mức dopamine. Điều này không đúng vì cơ thể bạn vẫn tiếp tục sản xuất dopamine ngay cả khi bạn kiềm chế những điều làm bạn hạnh phúc.

Thay vào đó, nhịn dopamine liên quan đến việc quản lý hành vi của bạn và đáp ứng các nhu cầu của bạn bằng cách tập trung vào những hành vi bạn muốn cải thiện. Thông qua việc nhịn, bạn thay thế thói quen không lành mạnh bằng các hoạt động lành mạnh.

Cách thực hiện detox dopamine

Một detox dopamine không có nghĩa là bạn kiềm chế tất cả các hoạt động mang lại niềm vui cho bạn. Thay vào đó, bạn tập trung vào việc nhắm đến những hành vi gây ra vấn đề trong cuộc sống của bạn, thường rơi vào các danh mục sau:

  • Ăn uống vui vẻ hoặc ăn uống theo cảm xúc
  • Internet hoặc chơi game
  • Cờ bạc hoặc mua sắm
  • Khiêu dâm hoặc thủ dâm
  • Hành vi tìm kiếm cảm giác mạnh
  • Sử dụng ma túy giải trí

Nhịn dopamine có ý nghĩa khác nhau với từng người. Đối với một số người, điều này có nghĩa là họ hoàn toàn ngắt kết nối khỏi thiết bị điện tử và mạng xã hội. Những người khác thử các hình thức nhịn cực đoan, không lành mạnh, như kiềm chế các hoạt động lành mạnh như ăn uống hoặc tập thể dục.

Không có một cách tiếp cận cụ thể nào cho việc nhịn dopamine. Một khuyến nghị là bắt đầu từ từ, bắt đầu bằng vài giờ, đến 1 ngày một tuần, đến một tuần và hơn thế nữa, theo cách không làm gián đoạn cuộc sống của bạn.

Tóm tắt

Dopamine là một hormone và chất dẫn truyền thần kinh phức tạp ảnh hưởng đến cảm xúc, hành vi và chuyển động. Nó đóng vai trò chính trong cách chúng ta cảm nhận sự vui vẻ, tìm kiếm phần thưởng và duy trì động lực. Mức dopamine quá cao hoặc quá thấp gây ra các tình trạng tâm thần và thể chất như bệnh Parkinson và tâm thần phân liệt. Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn nếu bạn lo lắng về mức dopamine của mình.

Câu hỏi thường gặp về dopamine

Dopamine ảnh hưởng đến một người như thế nào?

Dopamine ảnh hưởng đến tâm trạng, cảm xúc và hành vi của bạn. Bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc, có động lực, tỉnh táo và tập trung nếu bạn có mức dopamine cân bằng. Quá nhiều hoặc quá ít dopamine gây ra các vấn đề về hành vi bốc đồng, giấc ngủ và chuyển động.

Dopamine làm bạn hạnh phúc như thế nào?

Dopamine gửi các tín hiệu hóa học trong não của bạn để cho bạn biết rằng điều gì đó cảm thấy tốt. Hóa chất cảm thấy tốt này báo hiệu cho não của bạn cảm thấy vui vẻ khi bạn làm những điều mà bạn thích.

Làm thế nào bạn có thể tăng cường dopamine?

Một lối sống lành mạnh, chế độ ăn giàu magiê và tyrosine, và một số thực phẩm bổ sung có thể giúp bạn duy trì mức dopamine cân bằng. Bạn cũng có thể tăng cường dopamine bằng cách làm những điều bạn yêu thích.

Có phải tình dục giải phóng dopamine không?

Dopamine kích thích cảm giác hưng phấn, động lực và phần thưởng. Nếu bạn cảm thấy tình dục mang lại sự vui vẻ, cơ thể bạn sẽ giải phóng một lượng lớn dopamine để đáp ứng với những cảm giác tốt đẹp đó.

Biến chứng của Đái tháo đường týp 2

Biến chứng cấp tính

Nhiễm toan ceton và hôn mê nhiễm toan ceton:

Hôn mê nhiễm toan ceton là hậu quả của 2 yếu tố kết hợp chặt chẽ, đó là thiếu insulin và tăng tiết các hormon đối lập với insulin dẫn đến tình trạng tăng glucose máu. Đây là một biến chứng rất nguy hiểm, có thể ảnh hưởng tới tính mạng người bệnh do có các rối loạn nặng nề trong chuyển hóa carbonhydrat, protid và lipid. Thiếu insulin sẽ gây tăng glucose máu do tăng phân hủy glycogen tại gan, tăng tổng hợp glucose từ các nguồn nguyên liệu khác và giảm tiêu thụ glucose ở mô ngoại vi. Glucose máu tăng vượt quá ngưỡng lọc của thận dẫn đến tăng thải đường niệu, kéo theo tình trạng mất nước và điện giải qua đường tiểu. Hôn mê nhiễm toan ceton là một cấp cứu nội khoa, cần được theo dõi và điều trị tại các khoa điều trị tích cực.

Hạ glucose máu:

Hạ glucose máu là hậu quả mất cân bằng của 2 quá trình cung cấp và tiêu thụ glucose trong tuần hoàn. Nguyên nhân của tình trạng này là do tăng bài tiết insulin, giảm tiếp nhận thức ăn hoặc cơ thể tăng sử dụng glucose. Triệu chứng hạ glucose máu thường xảy ra khi nồng độ glucose huyết tương còn khoảng 2,7-3,3 mmol/l. Tùy theo mức glucose huyết tương sẽ có tình trạng lâm sàng tương ứng: từ cảm giác đói, vã mồ hôi, run tay chân tới các thay đổi hành vi, thậm chí hôn mê và co giật. Người bệnh cần được định lượng glucose máu, chẩn đoán xác định khi glucose huyết thanh < 3,1 mmol/l.

Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu:

Đây là hội chứng thường gặp ở bệnh nhân Đái tháo đường týp 2. Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu có thể gặp ở những người chưa bao giờ được chẩn đoán bệnh Đái tháo đường và là nguyên nhân phải vào viện cấp cứu thường gặp nhất của các bệnh nhân Đái tháo đường týp 2. Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu có nhiều đặc điểm giống với hôn mê nhiễm toan ceton, tuy nhiên điểm khác biệt lớn nhất là không có hoặc có rất ít thể ceton trong nước tiểu. Biểu hiện lâm sàng của tình trạng này là dấu hiệu mất nước nặng nề (có thể tới 25% trọng lượng cơ thể); kèm theo nồng độ glucose máu tăng rất cao ( >33,3 mmol/l, có khi đến 100 mmol/l), áp lực thẩm thấu huyết tương tăng > 340 mosM. Đây là tình trạng bệnh có tiên lượng xấu, tỉ lệ tử vong cao ngay cả khi được cấp cứu đầy đủ và đúng cách, nếu có qua khỏi cũng thường để lại cho người bệnh nhiều di chứng nặng nề.

Biến chứng cấp tính ít gặp khác: hôn mê nhiễm toan lactic, các nhiễm trùng cấp tính…

Biến chứng mạn tính:

ĐTĐ nói chung và đặc biệt là Đái tháo đường týp 2 sẽ dẫn đến nhiều biến chứng do tình trạng đường huyết tăng kéo dài kèm theo rối loạn các thành phần khác trong máu nên độ nhớt của máu thay đổi. Các biến chứng mạn tính thường gặp của Đái tháo đường týp 2 là: biến chứng mạch máu lớn (bệnh mạch vành, tai biến mạch máu não, bệnh mạch máu ngoại biên) và biến chứng mạch máu nhỏ (bệnh võng mạc, bệnh thận, bệnh thần kinh, bệnh ngoài da…).

Biến chứng mạch máu lớn:

ĐTĐ là một trong các yếu tố nguy cơ lớn gây ra vữa xơ động mạch.

  • Bệnh lý mạch vành: Tần suất mắc bệnh mạch vành ở bệnh nhân Đái tháo đường cao hơn ở người không có Đái tháo đường gấp 2-3 lần. Tỉ lệ tử vong do bệnh mạch vành ở bệnh nhân Đái tháo đường cũng cao gấp hai lần người bình thường. Triệu chứng thường gặp là:

Cơn đau thắt ngực: cơn đau điển hình khi gắng sức hoặc hay gặp dạng “thiếu máu tại chỗ yên lặng” chỉ có rối loạn tái cực trên điện tâm đồ.

Nhồi máu cơ tim: có khi là phát hiện tình cờ trước dấu hiệu nhồi máu cũ trên điện tâm đồ, có khi là cơn đau thắt ngực dữ dội điển hình.

Ở người cao tuổi, đặc biệt là các bệnh nhân Đái tháo đường các biểu hiện của đau thắt ngực thường không điển hình, có thể chỉ biểu hiện bằng cơn mệt, vã mồ hôi, người lạnh…

  • Tai biến mạch máu não: có thể là nhất thời, tiến triển dần, hoặc đột ngột.
  • Bệnh mạch máu ngoại biên: thể hiện chủ yếu bằng viêm động mạch chi dưới, cả nam và nữ đều có thể bị bệnh với tỷ lệ ngang nhau. Bệnh dễ dẫn đến các loét, hoại thư chân và cắt cụt chi.

Biến chứng mạch máu nhỏ:

  • Biến chứng mắt: gồm bệnh võng mạc và đục thủy tinh thể. Khoảng 25% bệnh nhân Đái tháo đường týp 2 đã có bệnh võng mạc không tăng sinh khi bệnh được phát hiện. Tần suất mắc bệnh võng mạc gia tăng khoảng 8%/năm, cho nên sau thời gian bị bệnh 8 năm thì tần suất này ở bệnh nhân Đái tháo đường là 50% và sau 20 năm có thể tới 100%.Đái tháo đường týp 2 đã có bệnh võng mạc
  • Biến chứng thận: Bệnh thận đái tháo đường là một bệnh lý vi mạch của thận đặc trưng bởi sự dày màng đáy của mao mạch cầu thận, lắng đọng các glycoprotein ở trung mạc. Ngoài ra Đái tháo đường còn gây biến chứng viêm thận-bể thận, hoại tử gai thận…

Biến chứng thần kinh:

Bệnh thần kinh ngoại biên cũng như bệnh thần kinh tự chủ là các biến chứng thường gặp của các thể đái Đái tháo đường. Bệnh thần kinh cảm giác biểu hiện dị cảm: nóng ran, ngứa, đau, mất cảm giác. Bệnh thần kinh vận động biểu hiện bằng một sự yếu xảy ra đột ngột ở vùng chi phối bởi dây thần kinh có liên quan (thí dụ: tổn thương dây thần kinh mác gây ra bàn chân rủ xuống); có thể gặp liệt các dây thần kinh sọ não có hồi phục: sụp mi (thương tổn dây III), lác ngoài (thương tổn dây IV), mất vận động nhìn ngoài (thương tổn dây VI), liệt mặt (thương tổn dây VII).

Biến chứng ở da:

Bệnh da đái tháo đường thường gặp là các chấm sẫm màu teo da ở mặt trước cẳng chân. Các thay đổi này có thể là hậu quả cuả sự gia tăng glycosyl hóa protein mô hoặc một bệnh mạch máu.

Biến chứng xương và khớp:

Các biến chứng này thường là di chứng về chuyển hóa cũng như mạch máu do Đái tháo đường lâu ngày. Hạn chế vận động bàn tay: là một hội chứng xơ cứng dần bàn tay thứ phát sau co cứng và co lớp da che phủ khớp. Co cứng Dupuytren: là một sự dày lên kiểu nút ở cân bàn tay tạo ra một biến dạng hình càng cua. Mất chất khoáng ở xương, viêm bao hoạt dịch, bệnh goutte.

Biến chứng nhiễm khuẩn: Một vài loại nhiễm khuẩn hay gặp ở bệnh nhân Đái tháo đường như: nhiễm khuẩn đường tiết niệu, viêm thực quản do nấm candida, viêm âm đạo do nấm candida…

Làm thế nào để chẩn đoán bệnh xơ nang (CF) ?

Bác sĩ sử dụng nhiều loại xét nghiệm khác nhau để xác định xem bạn hoặc người thân có mắc bệnh xơ nang (CF) hay không. Bao gồm các xét nghiệm kiểm tra máu, mồ hôi, và đôi khi là phân. Triệu chứng của bạn cũng cần được bác sĩ chuyên về bệnh di truyền này đánh giá.

Sàng lọc trẻ sơ sinh

Hiện nay tại Mỹ đều sàng lọc trẻ sơ sinh để phát hiện các tình trạng sức khỏe như CF. Điều này thường được thực hiện bằng xét nghiệm máu trong vòng 24 giờ sau khi sinh hoặc trước khi mẹ và bé rời bệnh viện.

Một y tá sẽ lấy vài giọt máu từ gót chân của bé và gửi mẫu đến phòng thí nghiệm. Tại đây, mẫu máu sẽ được kiểm tra hóa chất do tuyến tụy tạo ra, gọi là trypsinogen phản ứng miễn dịch (IRT).

Xét nghiệm dựa trên IRT chỉ là một xét nghiệm sàng lọc – không có ý nghĩa chẩn đoán. Hầu hết các bé có kết quả IRT “không đạt” đều không mắc bệnh xơ nang – chỉ có nguy cơ cao hơn và cần làm thêm xét nghiệm khác để xác nhận. Nếu kết quả xét nghiệm thứ hai là bình thường, không cần xét nghiệm thêm.

Xét nghiệm mồ hôi đo nồng độ chloride

Xét nghiệm “mồ hôi” được coi là cách đáng tin cậy nhất để xác định ai đó có mắc CF hay không. Xét nghiệm này kiểm tra lượng muối trong mồ hôi. Người mắc CF có mức chloride, một hợp chất trong muối, cao hơn.

Xét nghiệm này có thể được thực hiện cho người ở mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, một số trẻ sơ sinh có thể không đổ đủ mồ hôi và cần được xét nghiệm lại nhiều lần.

Để thực hiện, bác sĩ sẽ xoa một vùng nhỏ trên da cánh tay của bạn hoặc cánh tay của bé bằng một loại gel đặc biệt kích hoạt tuyến mồ hôi. Họ sẽ dùng dòng điện yếu để đẩy thuốc này vào da. Quá trình này không đau, nhưng có thể gây cảm giác nhói hoặc ấm nhẹ.

Mồ hôi sẽ được thu thập trong 30 phút bằng một thiết bị đặc biệt gắn trên cánh tay của bạn, sau đó mẫu sẽ được gửi đến phòng thí nghiệm. Lượng muối cao sẽ xác nhận CF.

Xét nghiệm mang gen

Bệnh xơ nang được gây ra bởi một gen bị lỗi được di truyền từ cả cha và mẹ. Bạn có thể mang gen này mà không có triệu chứng. Nhưng nếu cả bạn và đối tác đều là người mang gen, nguy cơ con bạn sinh ra sẽ mắc CF.

Nếu bạn đang có ý định lập gia đình, DNA của bạn có thể được kiểm tra để xem bạn có mang gen này hay không. Để làm điều này, bác sĩ sẽ lấy mẫu máu hoặc quệt bên trong má để lấy mẫu tế bào.

Bạn có thể muốn thực hiện xét nghiệm này nếu:

  • Một thành viên gia đình thân cận (như anh chị em hoặc cha mẹ) mắc CF
  • Một thành viên gia đình thân cận được biết là mang gen CF
  • Đối tác của bạn là người mang gen

Một chuyên gia tư vấn di truyền – người được đào tạo về các bệnh di truyền trong gia đình – có thể giải thích kết quả cho bạn. Họ cũng có thể giúp bạn hiểu các lựa chọn của mình nếu kết quả cho thấy bạn là người mang gen.

Xét nghiệm tiền sản

“Xét nghiệm mang gen” cũng được cung cấp cho những phụ nữ mới mang thai và đối tác của họ. Nếu kết quả cho thấy cả hai bạn đều mang gen CF, bạn có thể quyết định thực hiện thêm các xét nghiệm để kiểm tra sức khỏe của thai nhi.

Các xét nghiệm này có thể bao gồm:

  • Chọc ối: Bác sĩ kiểm tra nước ối (bao quanh thai nhi trong tử cung) để phát hiện bất kỳ dấu hiệu dị tật bẩm sinh nào. Điều này thường được thực hiện từ tuần thứ 15 đến tuần thứ 20 của thai kỳ.
  • Sinh thiết gai nhau (CVS): Mẫu mô từ nhau thai cũng có thể được kiểm tra để tìm gen CF bị lỗi. Bạn có thể thực hiện xét nghiệm này từ tuần thứ 10 đến tuần thứ 12 của thai kỳ.

Xét nghiệm cho người lớn

Nếu bác sĩ nghĩ rằng bạn có thể mắc bệnh CF và bạn chưa được xét nghiệm lúc sinh, họ có thể đề nghị bạn thực hiện cả xét nghiệm di truyền và xét nghiệm mồ hôi. Những vấn đề như viêm tụy tái phát, polyp mũi, nhiễm trùng xoang và phổi thường xuyên, và vô sinh có thể khiến bác sĩ lo ngại và đề xuất xét nghiệm này.

Chứng Tiêu khát ( tiểu đường) trong đông y và điều trị

“Tiêu khát” là tên bệnh, chủ chứng của nó là khát không chỉ, tiểu tiện nhiều, mau tiêu, hay đói. Bệnh này không giống với bệnh chứng “tiêu khát” nói trong “Thương hàn luận”, “Nội kinh”. Theo nguyên nhân phát bệnh và chứng trạng trên lâm sàng của bệnh này mà chia ra những chứng: “Tiêu đản”, “cách tiêu”, “phế tiêu”, và “tiêu trung”. Sách “Kim quỹ yếu lược” của Trương Trọng cảnh thời gọi chung là “tiêu khát”, và đã đề ra các phép chữa về sau, sách vở của các y gia nhận thức về bệnh này, có chỗ phát triển thêm, như sách “chư bệnh nguyên hậu luận”, có nêu ra bệnh “tiêu khát”, thường phát ra các chứng ung nhọt, mụn lở hoặc phù thũng, các thiên “Yếu phương” có nêu ra trong khi trị liệu bằng thuốc, đồng thời phải hạn chế sự ăn uống, sách “Ngoại đài bí yếu”, lại nêu ra chứng “đái đường”, là triệu chứng chủ yếu trên lâm sàng của bệnh này, các nhà làm thuốc từ đời Tống về sau lại căn cứ vào 3 chứng chủ yếu trên lâm sàng của bệnh này, các nhà làm thuốc từ đời Tống về sau lại căn cứ vào 3 chứng chủ yếu của bệnh “tiêu khát” là: Uống nhiều, ăn nhiều, tiểu tiện nhiều, chia ra 3 chứng uống nhiều là “Thượng tiêu”, ăn nhiều là trung tiêu, đi đái nhiều là hạ tiêu, nhưng tính chất của bệnh chỉ là một đúng như sách “Thánh tể tống lục” đã nói “ Căn bệnh là một đem suy luận thì có 3”.

NGUYÊN NHÂN

Nguyên nhân của bệnh tiêu khát cơ thể quy nạp như sau:

  • Ăn nhiều chất ngọt béo (bao gồm cả uống rượu, quá độ).

Thiên “Kì bệnh luận” sách “Tố vấn” nói: “Người bệnh vì ăn nhiều đồ ngọt, nhiều chất béo, chất béo làm cho người ta nóng bên trong, chất ngọt là cho sinh đầy, cho nên khí tràn nên chuyển thành bệnh “tiêu khát”, về sau sách của các y gia cũng nói đi nói lại quan hệ sự ăn uống quá độ với bệnh “tiêu khát”, như Dụ Gia Ngôn nói: “Chất ngon béo, rượu ngon, thức ăn ngon ai mà hạn chế được, nhưng ăn nhiều quá lâu thì đồ ăn uống gây thành nóng ở trong, làm cho tân dịch khô ráo, phải nước giúp vào, nhưng nước vào cũng tiêu đi, càng tiêu, càng khát, chất cao lương càng không tiêu được, mà gây thành bệnh “trung tiêu”, tuỳ đó hoặc trên, hoặc dưới cứ theo thứ tự mà truyền vào”. Vì thế có thể biết nóng không tiết độ là một nguyên nhân trọng yếu gây ra bệnh tiêu khát.

  • Nhân tố tình chí

Người xưa cho là tinh thần bị kích thích lâu dài, đều có quan hệ mật thiết với sự phát sinh và tái phát của bệnh “tiêu khát”, như “Tam tiêu luận” của Lưu Hà Gian nói: “Tiêu khát là tinh thần bị hao tổn, rối loạn quá độ mà sinh ra”. Sách “Nha môn sự thân” nói: “chứng tiêu khát nếu không kiêng sự ham muốn, không dè dặt sự mừng giận thời bệnh sẽ khỏi rồi lại trở lại”.

  • Phòng dục quá độ, hoặc uống các thứ thuốc đan thạch: Nghiêm Dụng Hoà nói: “Bệnh tiêu khát đều gây nên khi thận khoẻ mạnh không tự gìn giữ, phóng túng tình dục…hoặc uống những thuốc đan thạch, làm cho thận thủy khô kiệt…đó mà sinh ra khát và đi tiểu tiện nhiều”. Đó là nói rõ phòng dục quá độ và ăn uống các thuốc đan thạch (đó là một lôi ham chuộng của giai cấp thống trị, hủ bại trong xã hội phong kiến trước kia), vì muốn cầu trường sinh, phóng túng dâm dục, vui chơi mà đua nhau đều làm cho thận ráo tinh hư mà sinh ra bệnh “tiêu khát”.

Tóm lại: Những điều kể trên nhận thấy gây ra bệnh này là do nhân tố tình chí, hoặc ăn nhiều thức béo ngọt, hoặc phòng dục quá độ. Do hỏa của ngũ chí mạnh quá, hoặc nhiệt mà thức ăn ngọt béo tích luỹ lại, gây thành chứng âm hư ở trong thân thể, nhất là thận âm hư. Nhưng nên nêu rõ là, bệnh kéo dài hồi lâu, thì thường gây ra thận dương cũng hư nhưng cũng có một số ít bệnh, lúc mới phát đã kèm có thận dương hư.

BIỆN CHỨNG

Thiên “Tiêu khát” sách “Kim quỹ yếu lược” nói: “Con trai bị bệnh tiêu khát, tiểu tiện lại nhiều, là uống 1 đấu, tiểu tiện cũng ra một đấu”. Lại nói: “Mạch phù truờng sác, trong dạ dày có nhiệt, thì tiêu cơm ăn nhiều, đại tiện rắn, tiểu tiện đi rắt”. Đó là đã nêu rõ ra chứng trạng chủ yếu của bệnh “tiêu khát” là uống nhiều và tiểu tiện nhiều, Lý Lang Trùng đời Đường lại nhận thức thêm về bệnh này là nước tiểu rất ngọt, ông nói: “bệnh tiêu khát …mỗi lần phát ra là nước tiểu ngọt”, về sau sách vở của các y gia, đối với chứng tiểu ngọt, cũng có ghi chép khá nhiều, thí dụ như sách “Sinh gia bảo” nói: chứng “tiêu khát” là ngày đêm uống nước hàng trăm chén, còn sợ chưa đủ… tiểu tiện đi luôn, mầu nước tiểu như dầy đặc, trên có váng nổi, vị ngọt như mật, dần ngấm lâu ngày, các giống trùng tụ lại mà ăn, đó là chứng trạng rất nguy, bệnh này gọi là bệnh tiêu khát”, cũng có sách chỉ trình bày về ba chứng trạng “nhiều”, không nói tới nước tiểu ngọt như sách “Y học tâm Ngôn” nói: “Khát mà uống nhiều là thượng tiêu, tiêu cơm hay đói là trung tiêu, khát nước tiểu tiện ra như mỡ là hạ tiêu”. Khi lâm sàng thấy người bệnh bị chứng “tiêu khát” mà nước tiểu ngọt, cố nhiên có nhiều, những cũng có người khát nhiều, tiểu tiện nhiều, mà nước tiểu không biến vị. Đó là có thể biến chủ chứng của bệnh này là khát uống nhiều, hay ăn mà gây ra, là có thể có nhưng không phải đều có cả.

Uống nhiều, ăn nhiều, đi tiểu nhiều 3 chứng này, khi biểu hiện ra thường có nặng nhẹ khác nhau, hoặc có chứng uống nhiều rõ rệt, mà hai chứng kia không rõ rệt lắm, hoặc lấy chứng ăn nhiều làm chủ yếu, mà hai chứng kia làm thứ yếu hoặc cho đi tiểu nhiều là nặng, mà hai chứng kia là nhẹ. Các bậc hiền gia đời sau, căn cứ vào chứng nào nặng, chứng nào nhẹ trong ba chứng mà đặt tên gọi “thượng tiêu”, “trung tiêu” và “hạ tiêu”, để làm căn cứ cho việc biện chứng hay phân biệt trình bày như sau:

  • Thượng tiêu

Khát mà uống nước nhiều, miệng khô, lưỡi ráo, đại tiện như thường, tiểu tiện đi luôn là phế nhiệt tân dịch bị tổn thương.

  • Trung tiêu

Tiêu cơm hay đói, ăn uống gấp bội, lúc thường mà không sinh ra thì đại tiện rắn, là trong dạ dày táo và thực.

  • Hạ tiêu

Tiểu tiện luôn mà nhiều, hoặc như dầu mõ là thận âm bất túc. Uống

  • phần tiểu tiện ra 1 phần, hoặc nặng nữa thì đi tiểu ra không chừng độnhưng số lượng nước tiểu nhiều hơn nước uống, liệt dương, sắc mặt đen sậm thì không những là thận âm hư, mà thận dương cũng suy.

Trong quá trình phát triển của bệnh, người xưa cho là bệnh này hay có chuyển biến, cần biết kiêng kỵ cẩn thận. Nhất là trong ca bệnh nước tiểu có vị ngọt, càng dễ phát sinh thêm các chứng khác cấp tính hoặc mãn tính. Trương Trọng cảnh từng nêu ra bệnh có thể chuyển biến thành chứng “phế suy”, sách “Chư bệnh nguyên hậu luận” cũng nói bệnh “tiêu khát” biến chứng hạ phát ra chứng “ung thư”, hoặc lở ngoài da hoặc phù thũng. Các nhà làm thuốc sau này căn cứ vào thực tiễn lâm sàng đối với các kiêm chứng của bệnh này càng phát triển ra nhiều. Như Lưu Hà Giản đời Kim nói: “Bệnh tiêu khát phần nhiều biến thành loại bệnh điếc mà mụn lở, rôm sẩy đều là do trường vị táo nhiệt uất bốc lên, thủy dịch không thấm nhuần được toàn thân gây nên. Đôi Từ Cung đời Minh nói “Bệnh tam tiêu đã lâu ngày, tinh huyết đã thiếu, hoặc mắt không trông thấy hoặc một bên tay, chân tê liệt như chứng phong”. Đó là xuất hiện ra kiêm chứng thì không những làm cho bệnh kéo dài, mà còn thường thường làm cho bệnh tình trở nên trầm trọng.

CÁCH CHỮA

Bệnh này tuy có chia ra “thượng tiêu”, “trung tiêu” và “hạ tiêu”, có phân biệt ra “phế nhiệt”, “vị nhiệt” và “thận hư”, nhưng khi lâm sàng thì thường thấy kiêm cả 3 chứng. Lại do sự gây nên bệnh này là vì âm hư và táo nhiệt mà hai nguyên nhân này thường dùng làm nhân quả lẫn nhau, nhiệt thịnh là do âm hư, âm càng hư thì nhiệt càng nhiều, nhiệt càng nhiều thì âm càng hư. Giữa 3 tạng phế vị thận, lại có ảnh hưởng lẫn nhau, phế vị táo nhiệt, tất nhiên tiêu thuốc tân dịch, cuối cùng thận âm sẽ bị uy hiếp, sách “Lâm chứng chỉ nam” nói “Chứng tam tiêu tuy có chia ra thượng, trung, hạ mà thực ra không ngoài âm hư, dương quá mạnh, tân dịch khô ráo khi nóng lan tràn ra mà thôi”. Trương Cảnh Nhạc thì cho là, cần nên biện hư thực trước nếu xét mạch chứng quả là thực hoả, làm hao tổn tân dịch, thì nên trừ hỏa đi là tân dịch tự sinh ra mà tiêu khát tự khỏi. Nếu do chân thủy bất túc, là thuộc về âm hư, thì không cứ là thượng, trung, hạ, tam tiêu, cần phải nên chữa thận, là do âm khí dần dần đầy đủ, tinh huyết dần dần khôi phục, là bệnh tự khỏi. Trên sự thật, bệnh này mà thuộc về thực hoả, cũng không thấy nhiều, nếu có bằng cớ là thực hoả, tất nhiên là phải dùng thuốc khổ hàn để trực tiếp ức chế ngay nhưng cùng bệnh đó thì thôi, không nên dùng quá nhiều.

Thiên “Tiêu khát” sách “Kim quỹ yếu lược” nói: “Con trai bị bệnh tiêu khát, tiểu tiện lại nhiều, uống nước bao nhiêu đi tiểu bấy nhiêu dùng thận khí hoàn làm chủ”. Khát muốn uống nước, miệng khô ráo, lấy Bạch hổ gia nhân sâm thang làm chủ, chứng trước không những tả thận âm hư, hỏa suy không hóa được thủy, chứng sau là thiên về phế vị nhiệt quá tân dịch tổn thương, nhưng đã nêu rõ được về nguyên tắc chữa bệnh này, những sách thuốc của các y gia từ trước đến nay đối với phương thuốc chữa bệnh này, đều dựa trên cơ sở của “Kim quỹ yếu lược”, mà phát triển không ngừng, căn cứ vào nguyên nhân bệnh mà lựa dùng những phép sinh tân dịch thanh hỏa nhiệt, tư dưỡng thận âm, ôn bổ thận dương và tả nhiệt ở vị. Nay đem trình bày từng trường hợp như sau:

  • Tư dưỡng thận âm hư

Gia giảm Lục vị địa hoàng hoàn (1); sinh tân dịch thanh hóa nhiệt như: Bạch hổ gia nhân sâm thang (2), Ngọc nữ tiễn (3), Hoàng liên hoàn (4), Tiêu khát phương (5); ích khí dưỡng âm như: Kim quỹ thận khí hoàn (7), Tam nhân lộc nhung hoàn (8).

  • Trong vị táo thực như

Điều vị thừa khí thang (9), Tam hoàng thang (10). Sự phân loại ở trên chỉ nêu đại khái. Còn như cách sử lí ở cách kiêm chứng ung thư, thì nên dùng xem các bài Hoàng kì lục nhất thang (11), Nhẫn đông đằng hoàn (12).

Bệnh này ngoài việc chữa bằng thuốc, còn cần phải coi trọng việc điều dưỡng, sách “ngoại đài bí yếu” nói: “Người ta nên lao động chút ít, nhưng đừng lao động lâu mỏi mệt quá, cũng đừng nên miễn cưỡng làm cái mà không làm nổi, ăn xong đi bách bộ, hơi thấy khoan khoái thì ngồi”. Lại nói nên ăn trứng gà và thịt ngựa, sữa bò tươi hâm cho ấm vừa với sức nóng của mình, khát thì sẽ uống dần dần. Sách “Thánh tể tổng lực” nói : “Ngoài việc uống thuốc, còn nên cắt dứt các điều ham muốn và ăn uống thanh đạm”. Tử Đông Cao cũng nói: “Phàm mới thấy bệnh tiêu khát, nên chay tịnh ít phong dạo, ăn uống thanh đạm, bớt sự lo nghĩ, thời chữa có thể khỏi, nếu có một chút nào không cẩn thận thì dù có thầy hay thuốc giỏi cũng không thể cứu sống được”. Đó là nói rõ về mặt tinh thần, cần tránh sự căng thẳng quá mức, giữ gìn tư tưởng yên tĩnh, về mặt ăn uống, động tác nghỉ ngơi nên giữ gìn sự ăn uống cho thích đáng. Bệnh nhẹ nên tiến hành lao động chân tay nhẹ nhàng, những điểm đó rất quan trọng, do đó trong khi tiến hành chữa bệnh, đồng thời nên bảo người bệnh phải chú ý đến các điểm kể trên.

TÓM TẮT

Tên bệnh “tiêu khát” bắt đầu thấy ở sách “Nội kinh”. Từ đời Đường về sau, sách vở của y gia căn cứ vào 3 chủ chứng của bệnh này là: uống nhiều, ăn nhiều và tiểu tiện nhiều, mà đặt thành 3 tên là “thượng tiêu”, “trung tiêu”, và “hạ tiêu” để làm tiêu chuẩn mà biện chứng.

Chủ chứng của bệnh này là: Khát uống nhiều, hay ăn mà gầy, tiểu tiện đi luôn mà nhiều, hoặc nước tiểu có vị ngọt. Nguyên nhân gây bệnh thì gốc ở âm hư và táo nhiệt, nhưng hai nguyên nhân này thường làm nhân quả lẫn nhau, nhiệt thịnh bao nhiêu lại làm cho âm hư bấy nhiêu, cho nên trọng điểm của bệnh này là ở âm hư quá thịnh. Còn như phương pháp chữa nếu thận âm hư kém thì nên tư dưỡng thận âm, liên cấp đến thận dương kém thì kiêm ôn bổ thận dương, nếu nhiệt thịnh tân dịch tổn thương, thì nên dùng phương pháp sinh tân thanh nhiệt, còn như thuốc đắng lạnh tả hạ là để dụng cho các chứng thực nhiệt, nhưng cần phải đúng bệnh thì thôi ngay, không nên dùng quá, đó là điều nên chú ý.

Ngoài việc chữa bằng thuốc, còn phải ổn định tình chí, giữ gìn ăn uống cho đúng mức, đồng thời tiến hành lao động chân tay nhẹ nhàng. Bệnh này là một bệnh mãn tính, nhất là về ca bệnh nước tiểu ngọt để phát sinh các chứng “phế suy”, “ung thư”, mù, điếc, liệt một bên chân tay. Còn như phương pháp chữa, nên căn cứ theo tính chất thực hư của kiêm chứng mà dùng các cách chữa khác nhau.

PHỤ PHƯƠNG

  1. Lục vị địa hoàng hoàn: Xem phụ phướng số 11 mục Hư lao.
  2. Bạch hổ gia nhân sâm thang: Thạch cao, tri mẫu, nghạch mễ, cam thảo, nhân sâm.
  3. Ngọc nữ tiễn: Xem phụ phương số 12 mục Niệu huyết.
  4. Hoàng liên hoàn : Hoàng liên, sinh địa.
  5. Tiêu khát phương: Hoàng liên, thiên hoa phân, sinh địa trấp, ngũ trấp, ngưu nhũ.
  6.  Hoàng kỳ thang: Xem phụ phương số 6 mục Tiêu bí.
  7. Kim quỹ thận khí hoàn: Xem phụ phương số 16 mục Huyễn háo.
  8. Tam tiêu ỉộc nhung hoàn: Lộc nhung, mạch môn, thục địa, hoàng kì, ngũ vị tử, khương thang dung, kê nội kim, sơn thù nhục, phá cố chỉ, nhân sâm, ngưu tất, huyền sâm, địa cốt bì.
  9. Điều vị thừa khí thang: đại hoàng, mang tiêu, cam thảo.
  10. Tam hoàng thang: Đại hoàng, hoàng liên, hoàng cầm.
  11. Hoàng kì lục nhân thang: Hoàng kì, sinh địa, cam thảo.
  12. Nhẫn đông đằng hoàn: Nhẫn đông đằng.

Bệnh não do tăng huyết áp

Định nghĩa

Hội chứng có đặc điểm là kèm theo với cơn tăng huyết áp động mạch nặng, có những rối loạn thần kinh kéo dài từ vài phút tới vài ngày, sau cơn thì không để lại di chứng nào, nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể dẫn tới một tai biến mạch máu não nặng.

Căn nguyên

Hội chứng này gặp ở:

Những người vốn có bệnh tăng huyết áp động mạch thường xuyên, dù nguyên nhân của bệnh này bắt nguồn từ đâu, và huyết áp của họ tăng lên nhất thời (huyết áp tâm trương > 110- 140 mmHg).

Những người không bị bệnh tăng huyết áp thường xuyên, nhưng bị cơn tăng huyết áp bất thường đột ngột (do bệnh thận, sản giật, V..V..).

Trong nhóm thứ nhất, bệnh não do tăng huyết áp có thể là một hiện tượng co các tiểu động mạch ở não, còn trong nhóm thứ hai thường là những đợt phù não.

Triệu chứng

RỐI LOẠN THẦN KINH KHU TRÚ: hay gặp nhất là ở những bệnh nhân tăng huyết áp đã lâu ngày và những tổn thương mạch máu não đã có sẵn trước cơn tăng huyết áp thêm. Bệnh cảnh lâm sàng giống như cơn đột quỵ não, nhưng chỉ thoáng qua (nhất thời) và không để lại di chứng, thường có những triệu chứng sau:

  • Bất tỉnh, thường xảy ra đột ngột.
  • Cơn co giật toàn thân hoặc khu trú.
  • Rối loạn ngôn ngữ (lời nói), thị giác, và thính giác.
  • Liệt nửa người hoặc liệt nhẹ nửa người.
  • Rối loạn cảm giác và phối hợp vận động.
  • Soi đáy mắt có thể thấy các động mạch biến đổi, xuất huyết võng mạc, bệnh võng mạc, và phù gai thị.
  • Dịch não tuỷ căng (tăng áp suất) và có hàm lượng protein cao.

RỐI LOẠN THẦN KINH TOÀN THỂ: chủ yếu xuất hiện ỗ nhóm bệnh nhân không bị tăng huyết áp thường xuyên và không có tổn thương mạch, máu não, nhưng huyết áp động mạch của họ tăng đột ngột (ví dụ do cơn sản giật hoặc viêm thận cấp tính). Bệnh cảnh lầm sàng là bệnh cảnh phù não với:

Nhức đầu, nôn, phù gai thị, rối loạn thị giác.

Tình trạng mê sảng hoặc sững sờ, cơn co giật, đôi khi tiến triển thành hôn mê.

Chẩn đoán phân biệt, với những trường hợp sau:

Chảy máu não và huyết khối mạch máu não: chỉ khác với trường hợp bệnh não do tăng huyết áp bởi tính chất thoáng qua của bệnh này. Tuy nhiên bệnh não do tăng huyết áp có thể xảy ra trước khi bị xuất huyết não hoặc huyết khối mạch máu não (xem: tai biến mạch máu não).

Cơn tăng urê huyết: xét nghiệm thấy mức urê cao trong máu.

Điều trị xem: tăng huyết áp động mạch kịch phát. Điều trị triệu chứng, ví dụ cho thuốc an thần (làm dịu) trong trường hợp bệnh nhân bồn chồn lo lắng, hoặc thuốc chống co giật trong trường hợp có cơn co giật.

Những loại đồ chơi gây nguy hại cho trẻ em

1/ Không nên cho trẻ em quá nhiều đồ chơi.

Sự phát dục nhanh chóng của hệ thống thần kinh là đặc điểm của thời kỳ ấu nhi. Trong giai đoạn này, những khu vực có liên quan đến xúc giác, thính giác, vị giác và sự vận động của cơ bắp do đại não điều khiển được thành thục sớm nhất, nếu có sự kích thích thoả đáng thì sẽ có tác dụng thúc đẩy chúng phát triển rất tốt. Ví dụ một số đồ chơi có màu sắc rực rỡ có thể thúc đẩy thần kinh thị giác phát triển. Để cho các em sờ mó vào đồ chơi có thể thúc đẩy thần kinh xúc giác phát triển. Song có điều hệ thống thần kinh của trẻ em chưa được kiện toàn, nếu ngoại giới kích thích quá nhiều thì các loại hưng phấn ảnh hưởng lẫn nhau, khống chế lẫn nhau, sẽ xuất hiện hiện tượng suy nhược hoá hưng phấn, Kết quả ngược lại với mong muốn làm ảnh hưởng đến sự phát dục hệ thống thần kinh của trẻ em.

Xét từ một khía cạnh khác, đồ chơi của trẻ em quá nhiều, còn có thể gây nên tâm lý chiếm hữu “Tài phú” ở trong các em, nếu cứ kéo dài thì trong tư tưởng, ý thức của các em sẽ nảy sinh một thói quen xấu là hay so sánh “Tài phú” với các em khác. Trong khi mức sống hiện nay còn chưa thật là cao mà chúng ta đã chi phí cho con trẻ một khoản tiền khá lớn. Cho nên trong tình hình không ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh về trí lực của các em, chúng ta nên có ý thức bồi dưỡng cho các em thói quen sống tiết kiệm, chất phác cũng là điều tương đối quan trọng. Như vậy đối với trẻ em cũng như đối với các bậc cha mẹ đều có ích.

2/ Không nên để cho trẻ em ngậm mút đồ chơi.

Hiện nay trên thị trường có bán rất nhiều loại đồ chơi bằng nhựa, tất cả đều sản xuất bằng loại nhựa mềm. Để bảo đảm cho màu sắc rực rỡ trên đồ chơi khỏi bị phai màu, người ta thường pha thêm chất cadimi kim loại vào. Sau khi loại nhựa mềm này bị lão hoá sẽ bị phân giải thành thể khí nhẹ clo hoá có hại cho cơ thể, tính độc hại của cadimi có thể xâm nhập vào hệ thống thần kinh của con người. Ngoài ra còn có những đồ chơi bằng gỗ hoặc bằng sắt, bên ngoài đều có một lớp sơn, trong sơn đều có những chất độc như chì, nhôm, benden v.v… Nếu con bạn thường xuyên ngậm mút đồ chơi này ở trong mồm, như vậy chất độc dần dần thấm vào cơ thể qua mồm. Hơn nữa trẻ em đang là thời kỳ phát dục mạnh nhất, lượng hấp thu các loại vật chất so với người lớn cao hơn nhiều, thời gian kéo dài sẽ dẫn đến trúng độc mãn tính, từ đó mà phát sinh ra đủ các loại bệnh.

Để cho con bạn trưởng thành khoẻ mạnh, xin đề nghị hãy thường xuyên giáo dục con em không nên ngậm mút những đồ chơi ở trong mồm; sau khi chơi các đồ chơi xong, phải rửa tay thật sạch rồi mới cầm thức ăn để ăn. Ngoài ra không nên để cho trẻ em mút ngón tay hoặc vừa chơi đồ chơi vừa ăn. Chỉ có như vậy mới có thể đề phòng những chất có hại qua mồm vào trong cơ thể.

3/ Không nên mua những đồ chơi có tiếng ồn lớn quá.

Để bảo đảm sức khoẻ cho trẻ em, tổ chức y tế thế giới đã xác minh qui định tiếng ồn của đồ chơi không được cao quá 70 đêxiben. Nhưng khi kiểm tra thì các ngành hữu quan lại phát hiện, có một số đồ chơi ở Trung Quốc như máy bay, ôtô cảnh sát, xe mô-tô v.v… phát ra tiếng ồn nói chung là cao quá 70 đêxiben, có đồ chơi còn có tiếng ồn cao hơn 100 đêxiben. Nếu thường xuyên chơi những đồ chơi này, có thể ảnh hưởng bất lợi cho hệ thống thính giác của trẻ em, thậm chí còn có thể dẫn đến bệnh tạm thời nghễnh ngãng. Cho nên, khi các bậc phụ huynh mua đồ chơi cho con trẻ, không nên mua những đồ chơi có tiếng ồn quá lớn, để tránh mối nguy hại tiềm ẩn cho sức khoẻ của trẻ em.

Nguy cơ bỏng mù mắt do chơi đồ chơi trẻ em có tia laser
Nguy cơ bỏng mù mắt do chơi đồ chơi trẻ em có tia laser

4/ Không nên cho trẻ em thoi bong bóng nhựa.

Tại một bệnh viện ở Trung Quốc có một trường hợp, một em bé lên 3 tuổi bị bong bóng nhựa làm tắc đường hô hấp đã bị chết.

Sự thể là như thế này : Hôm đó, bà mẹ của bé trai này dẫn em đi chợ. Em bé trai trông thấy trên sạp hàng có bày bán bong bóng nên rất thích. Thế là bà mẹ mua cho con một quả. Em bé rất vui mừng cầm quả bóng rồi ra sức thổi lấy thổi để. Nhưngdo em còn bé quá nên không đủ sức thổi cho quả bóng căng, em vẫn ngậm quả bóng ở mồm. Lúc đó hơi trong quả bóng phụt vào mồm em bé, đồng thời quả bóng cũng bắn theo vào trong cổ họng, thế là làm cho em bị tắc thở, em kêu lên được một tiếng , bà mẹ không biết làm thế nào liền vội vàng đưa em vào ngay một bệnh viện gần đó. Tuy các bác sĩ đã hết lòng cấp cứu, nhưng không làm cách nào để gắp quả bong bóng ở trong cổ họng ra được. Như vậy, sau chưa đầy 10 phút, một em bé trai ngây thơ, hoạt bát đã bị một quả bong bóng trôi vào họng làm tắc thở đã qua đời.

Cho nên xin có lời khuyên các bậc cha mẹ trẻ tuyệt đối không để cho các em còn nhỏ chơi trò thổi bong bóng. Các em lớn hơn khi thổi bong bóng cũng cần phải hết sức chú ý, chớ nên để tấn bi kịch như thế này diễn lại một lần nữa.

5/ Không nên dùng nhựa để sản xuất đồ chơi cho trẻ em – chiếc kèn nhỏ.

Trên các thị trường ở thành thị và nông thôn đều có những đồ chơi trẻ em được làm bằng nhựa bày bán – chiếc kèn nhỏ. Khi trẻ em chơi kèn bằng nhựa, không những chỉ dùng mồm để thổi kèn, mà chúng còn cắn, còn gặm, như vậy rất không có lợi cho sức khoẻ của trẻ em. Bởi vi khi nhà máy sản xuất những chiếc kèn con bằng nhựa này, để cho màu sắc được tươi mới dài lâu không phai, nên đã pha vào một loại thuốc ổn định gọi là muối cadimi, đồng thời còn sơn ra bên ngoài chiếc kèn nhựa nữa, trong sơn cũng có thành phần cadimi. Tiếp xúc lâu dài với cadimi sẽ làm cho công năng thần kinh của trẻ em bị suy thoái, ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của trẻ em. Cho nên, đồ chơi của trẻ em, chiếc kèn con, không nên làm bằng nhựa.

6/ Không nên cho trẻ em chơi tiền giấy.

Có những bậc cha mẹ cho con tiền giấy để chơi, lấy cái đó để cho con vui. Kỳ thực, làm như vậy chỉ có hại chứ không có lợi.

Số vi trùng ở trên mặt đồng tiền giấy loại 100 đồng, ít nhất là 7.200, mà nhiều nhất là 10 vạn 8 nghìn 100 con vi trùng, đủ các loại cầu khuẩn. Trẻ con chơi tiền giấy xong lại dùng tay cầm thức ăn để ăn, như vậy là đưa bao nhiêu vi trùng vào trong mồm, gây nên các bệnh truyền nhiễm. Cho nên, mong rằng các bậc cha mẹ không nên cho trẻ con chơi tiền giấy.

7/ Tuyệt đối không nên mua những đồ chơi giả cho trẻ con.

Các nhà tâm lý học trẻ em của Mỹ cho rằng : những đồ chơi tốt nhất là những đồ chơi mà cách chơi không đơn điệu như đồ chơi chắp gỗ, búp bê, xếp nhà, hộp nhỏ, ấm nhỏ và bàn nhỏ v.v…Những đồ chơi này có thể để cho trẻ em ở nhiều lứa tuổi chơi đi chơi lại được. Chơi theo tuỳ ý thích. Có lợi cho việc bồi dưỡng hứng thú và ý thức sáng tạo cho trẻ em.

Các chuyên gia nói rằng : dở nhất là các đồ chơi chỉ có một cách chơi. Ví dụ như có đồ chơi chỉ hoạt động được vài phút sau khi lên dây cót hoặc bật công tắc pin, và chỉ có thế mà thôi. Đồ chơi, tất nhiên trên danh nghĩa là để cho người ta chơi, song những loại đồ chơi như thế này khiến cho trẻ em chỉ đóng vai trò : “Người bàng quan”, cho nên chẳng mấy chốc mà các em đã chán , thậm chí còn ghét nữa.

Các chuyên gia cảnh giới các bậc cha mẹ rằng, khi chọn mua đồ chơi, nhất thiết không nên mua đồ chơi ” Dởm ”.

8/ Không nên cho trẻ em chơi đàn điện tử “Đồ chơi”.

Những năm gần đây, các loại đàn điện tử tồi bán đầy rẫy trên thị trường. Không ít người cho rằng đàn điện tử này rẻ tiền nên mua về cho con học để bồi dưỡng âm nhạc cho con. Kỳ thực những loại đàn điện tử này âm lượng, âm sắc chẳng ra gì (tức là chất lượng âm thanh rất không chuẩn). Cách đây không lâu, trên một hội nghị giám định, các chuyên gia hữu quan và các nhà giảng dạy âm nhạc đã phản ánh : “Âm nhạc” mà các loại đàn điện tử này tấu lên không phải là âm nhạc, mà là tiếng ồn. Nếu dùng loại đàn điện tử tồi này để giáo dục khởi điểm tri thức âm nhạc cho trẻ em thì sẽ khiến cho ” Tai âm nhạc” của trẻ em bị tàn lụi và tổn hại.

9/ Không nên dùng pin cực tiểu làm đồ chơi.

Có một số bậc cha mẹ lấy những cục pin cực tiểu đã dùng rồi cho trẻ em làm đồ chơi, nên đã dẫn đến trường hợp có em đã nuốt cục pin đó vào bụng.

Sau khi trẻ em đã nuốt nhầm cục pin cực tiểu vào bụng rồi, sau 10 đến 63 tiếng đồng hồ (bình quân là 31 tiếng đồng hồ), nếu thuận lợi thông qua đường tiêu hoá, cục pin theo phân ra ngoài thì nói chung, không có gì đáng nguy hiểm. Còn nếu như cục pin không thải ra ngoài được, cứ nằm ở trong đường tiêu hoá thì có thể gây nguy hiểm cho cơ thể, dẫn đến thủng đường tiêu hoá và viêm phúc mạc v.v…

Cho nên, sau khi trẻ em nuốt nhầm phải cục pin cực tiểu, cần phải đưa em đến bệnh viện chụp phim kiểm tra, chú ý hướng đi của cục pin để tìm ra được đối sách và biện pháp tương ứng để lấy nó ra.

10/Không nên cho trẻ em chơi những dụng cụ tiêm đã dùng rồi.

Hiện nay có một số bệnh viện đã sử dụng loại ống tiêm dùng một lần, song có một số trẻ em đi nhặt những ống tiêm này về để chơi, như vậy là rất không vệ sinh.

Những ống kim tiêm đã qua sử dụng có bám các loại vi trùng, nhất là những vi trùng lây bệnh, ví dụ như vi trùng viêm gan B chẳng hạn. Nếu mũi kim đâm vào tay bị chảy máu, tức thì đã trở thành nguồn lây bệnh, từ đó em này sẽ mắc bệnh.

Cho nên, các bậc cha mẹ cần giáo dục con em mình không nên chơi trò này. Các bệnh viện và những người dùng kim tiêm xong thì phải nghiêm khắc xử lý tiêu độc hoặc phải tiêu huỷ triệt để, không nên tuỳ tiện vứt vào thùng rác hoặc vào những đống rác.

11/ Không nên cho trẻ em đùa nghịch với đồ điện.

Có bậc cha mẹ đã dạy đứa con hai, ba tuổi tự tắt mở ti-vi, máy cat-sét, thật là nguy hiểm.

Do vấn đề chất lượng những dụng cụ trong gia đình còn chưa thật tốt cho nên đã từng xảy ra những sự cố đáng tiếc. Nói chung thì lớp da của người lớn đã dày, nên có điện trở lớn, cho nên có bị điện giật nhẹ cũng không gây nên thương vong. Song trẻ em từ 3 đến 5 tuổi, do tính hiếu kỳ cao, nhưng lớp da còn non mỏng, cho nên khái niệm “nguy hiểm” trong con mắt của các em chưa xác lập được. Do đó các sờ mó, nghịch ngợm lung tung vào các đồ điện, nhất là quạt điện đang quay, rất dễ gây ra nguy hiểm. Cho nên, xin có lời nhắc nhủ các bậc cha mẹ chú ý, tuyệt đối không nên cho các em nghịch đồ điện.

12/ Tuyệt đối không nên để cho trẻ em chơi mèo.

Có nhiều gia đình nuôi mèo, mèo có thể bắt chuột, có khi cũng đùa giỡn với trẻ em. Song, các bậc cha mẹ nên chú ý đến vệ sinh, tuyệt đối không nên để cho trẻ em chơi mèo.

Mèo là một con vật có rất nhiều bệnh ký sinh trùng và bệnh truyền nhiễm ác tính cư trú hoặc truyền bệnh. Cách đây không lâu, ở Trung Quốc có một đơn vị nghiên cứu khoa học đã tiến hành mổ 308 con mèo để kiểm tra, kết quả phát hiện, trên mỗi con mèo ít nhất cũng có trên 2 loại ký sinh trùng truyền bệnh, nhiều nhất có đến 10 loại. Những loại ký sinh trùng này đều có thể thông qua tiếp xúc, rồi từ đường mồm hoặc đường da mà vào trong cơ thể con người, trong đó có vi trùng gan và trứng giun kim, thật vô cùng có hại cho sức khoẻ con người. Còn nữa, trên người con mèo còn có con bọ chét, khi nó cắn người hút máu, nó có thể truyền sang người những vi trùng bệnh như dịch hạch, phát ban thương hàn v.v… làm cho các em mắc bệnh. Ngoài ra móng chân mèo rất sắc, nếu không chú ý có thể bị mèo cào hoặc mèo cắn bị thương, rất có thể thông qua những vết thương này mà bị truyền nhiễm bệnh điên hoặc bệnh sốt xuất huyết, nghiêm trọng hơn thì có thể lây bệnh uốn ván, nguy hiểm đến tính mệnh. Cho nên, các bậc cha mẹ cần chú ý, tuyệt đối không nên cho trẻ em chơi mèo.

Nguyên nhân và điều trị các triệu chứng bệnh vùng cột sống cổ

ĐẠI CƯƠNG

Đau vùng cổ – vai là bệnh lý khá phổ biến, do nhiều nguyên nhân, thường xảy ra ở người lớn, đặc biệt ờ người trên 40 tuổi, làm ảnh hưởng nhiều đến khả năng lao động. Theo K Jurgen, tỷ lệ mắc bệnh đĩa đệm cột sống (cột sống) cổ chiếm 36,1%, đứng thứ 2 sau bệnh lý đĩa đệm cột sống thăt lưng, ở các trung tâm chuyên khoa thần kinh, chứng đau vùng cổ – vai chiếm tới 18,2% cơ câu mặt bệnh điêụ trị nội trú. Vì vậy, nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân các chứng bệnh đau cổ – vai, đông thời điêu trị và dự phòng các chứng bệnh này là một yêu cầu cấp thiết đối với đời sống xã hội, đòi hỏi sự kết hợp của nhiều chuyên ngành như nội, ngoại khoa, điều trị lý liệu, phục hồi chức năng.

Nhắc lại sơ lược giải phẫu, sinh lý cột sống cổ

Cột sống cỏ 32 – 33 đốt, trong đó 7 đốt sống cổ từ C1 – C7. Cột sống cổ tạo thành đường cong ưỡn ra trước. Giữa hai đốt sống từ C2 trở xuống có các đĩa đệm gian đốt sống, mỏm ngang có lỗ ngang cho động mạch đốt sống đi qua; lỗ liên đốt sống có các rễ thần kinh tuỷ sống đi qua, vì vậy, khi các mỏm móc bị thoái hoá tạo gai xương sẽ kích thích hoặc chèn ép rễ thần kinh và ảnh hưởng đến động mạch đốt sống.

Các dây chằng đốt sống có tác dụng hạn chế sự chuyển động và bảo vệ các thành phần trong ống sống như tuỷ sống cổ và các rễ thần kinh.

ống sống được tạo thành bởi thân đốt sống, các cuống và cung sau đốt sống, kéo dài từ lỗ chẩm đến xương cụt. Tuỷ sống nằm trong ống sống, sau đó là các rễ thần kinh, màng nhện, màng cứng, các mạch máu nuôi dưỡng tuỷ. Các tổ chức ngoài màng cứng gồm tổ chức mỡ và các tĩnh mạch.

Từ đoạn tuỷ sống C1 – C4 tách ra các rễ bụng (rễ trước) để tạo thành đám rối thần kinh cổ, nằm ở sát 4 đốt sống cổ trên. Các nhánh của đám rối này chi phối cho da, cơ vùng đầu và cổ; rê C1 và C2 tạo thành các dây thần kinh chẩm lớn (dây Arnold), chẩm bé, tai lớn, dây xuyên da của cổ và dây thần kinh trên đòn. Các rễ thần kinh từ C5 – D1 tạo thành đám rối cổ, vai cho ra các dây thần kinh chi phối chi trên.

Hệ thần kinh giao cảm cổ có hai chuỗi thần kinh giao cảm vùng cột sống cổ, tác động tới tuần hoàn, tuyến mồ hôi và nang lông. Có 3 hạch cổ phân bố thần kinh thực vật cho nội tạng, vùng cổ, đầu và hai tay.

Nguyên nhân

Do biến đổi sinh lý – bệnh lý ở tất cả các thành phần cấu trúc, chức năng; biểu hiện dưới các dạng: thoái hoá, viêm, u, chấn thương cột sống cổ.

Do nguyên nhân cơ học gây nên các hội chứng bệnh lý cột sống cổ như: phong cách sinh hoạt thiếu khoa học, dùng cổ chịu tải trọng quá mức, sử dụng bàn ghế không đúng quy cách buộc cổ phải thường xuyên ở tư thế không đổi, quá gù, quá ưỡn. Do các ngành nghề buộc phải giữ cổ ở các tư thế thường xuyên bất lợi với các chức năng sinh lý của cột sống như các nghề đánh máy, kế toán, thợ nề, thợ quét vôi, lái xe cơ giới, vận động viên thể thao, nghệ sĩ xiếc, nghệ sĩ dương cầm, vĩ cầm…

Phân loại

+ Vì bệnh lý vùng cổ – vai rất phong phú, đa dạng nên có các hình thái lâm sàng sau:

Hội chứng cổ – đầu.

Hội chứng cổ – vai – cánh tay.

Hội chứng cổ – tuỷ sống.

Hội chứng cổ – nội tạng.

Hội chứng khe cơ bậc thang.

Hội chứng cổ sau chấn thương.

Các chứng bệnh vùng cổ không do thoái hoá

Hội chứng động mạch sống – nền.

Hội chứng thần kinh thực vật.

PHƯƠNG PHÁP KHÁM BỆNH Ở CỘT SỐNG CỔ

Lâm sàng

+ Trước tiên cần hỏi kỹ về chứng đau để xác định vị trí xuất phát và sự lan toả của đau, cường độ đau, tính chất đau; yếu tố liên quan như tuổi, nghề nghiệp, thay đổi thời tiết, vận động trong tư thế bất lợi của cổ, chấn thương cũ và mới; đồng thời xác định các triệu chứng kèm theo như chóng mặt, đau đầu và các triệu chứng rối loạn thần kinh khu trú.

Khám tại chỗ vùng cổ – vai như quan sát tư thế của cổ để phát hiện vẹo, nghiêng, gù, quá ưỡn, thẳng cứng, u, lồi lõm cột sống; teo, nhẽo của các khối cơ trên vai, cơ delta, cơ cánh tay; tìm các điểm đau tại cột sống cổ bằng cách ấn dọc gai sau, ấn cạnh cột sống cổ, điểm đau trên vai, khe khớp và các tổ chức xung quanh khớp vai. Chú ý khám điểm Arnold ở giữa hõm hai bên của ụ chẩm. Sờ nắn các khối cơ ở gáy, cổ, các đai vai để xác định trạng thái cơ teo nhẽo, co cứng hoặc viêm tấy.

Khám vận động cột sống cổ theo chiều cúi (khoảng cách cằm – xương ức), ưỡn, quay bên (khoảng cách cằm – mỏm quạ), xoay cổ theo hai chiều phải – trái để xác định mức độ hạn chế vận động của cột sống cổ, cần chú ý cố định xương bả vai trong khi khám khớp vai – cánh tay.

Khám thần kinh: khi có nghi ngờ hội chứng tuỷ – cổ thì phải khám kỹ để phát hiện các triệu chứng thần kinh khu trú, chú ý các rễ thần kinh của đám rối cổ.

Khám toàn thân: chú ý hệ tim mạch như huyết áp, hệ động mạch thái dương, động mạch cảnh và triệu chứng của các cơ quan nội tạng có liên quan đến các rối loạn thần kinh thực vật. Trường hợp cần thiết cho khám các chuyên khoa tai – mũi – họng, răng – hàm – mặt để xác định các triệu chứng lâm sàng này do nguồn gốc bệnh lý cột sống cổ, hay do tổn thương thực thể tại các cơ quan đó.

Cận lâm sàng

+ Trên cơ sở khám xét lâm sàng tuỳ theo các hướng chẩn đoán có thể lựa chọn một số xét nghiệm cần thiết sau:

Chụp X quang cột sống cổ 4 tư thế (thẳng, nghiêng; chếch 3/4 phải, 3/4 trái).

Ghi điện não, lưu huyết não, điện tim, điện cơ.

Trường hợp khó chẩn đoán có thể cho chụp tuỷ, chụp động mạch đốt sống – thân nền, chụp CT.Scan, chụp cộng hưởng từ cột sống cổ.

CÁC HỘI CHỨNG LÂM SÀNG CỘT SÓNG CỒ

Đau đầu do đau thần kinh chậm lớn

Điểm đau ngay ở dưới da đầu, nhất là khi ấn vào điểm lõm bên của xương chẩm là nơi thoát ra của dây thần kinh chẩm. Đau có thể lan ra một bên của khu sau đầu, với tính chất chủ quan, ê ẩm hay dội lên khi bị đè ép; đặc biệt đau nhói buốt khi thầy thuốc ấn vào điểm thoát ra của dây thần kinh chẩm. Bệnh thượng do tổn thương hay kích thích ở 1 bên, đôi khi ở cả 2 bên; nhiều khi kèm theo điểm đau ở đôt C1 – C3 và cả điểm đau rễ cạnh cột sống cổ tương ứng với C2 cùng bên. Tuỳ theọ nguyên nhân gây bệnh, đau dây thần kinh chẩm có thể điều trị khỏi bằng các thuốc giảm đau, chông viêm hay phong bế tại các điểm xuát chiếu bằng các loại thuốc novocain và hydrocortison, vitamin nhóm B, thuôc dãn cơ, corticoid. Khi các rễ này bị kích thích hay bị đè ép cơ học do gai xương, mỏm móc hay thoái họá đĩa đệm cột sống cổ, có thể cho kéo dãn cột sống cổ kết hợp các biện pháp lý liệu như chườm nóng, gối điện, sóng ngắn.

Đau đầu – cổ do bệnh lý đĩa đệm cột sống cổ

Thoát vị đĩa đệm cột sống cổ có thể khởi phát từ từ, trên cơ sở đĩa đệm cột sống cổ đã bị thoái hoá hoặc sau một chấn thương gấp quá mức cột sống cổ.

Cơ chế bệnh sinh thoát vị đĩa đệm cột sống cổ do 2 quá trình: thoái hoá sinh học theo lứa tuổi kết hợp với tác động của yếu tố cơ học, miễn dịch, chuyển hoá và cột sống cổ phải chịu áp lực trọng tải của đầu.

Triệu chứng lâm sàng thoát vị đĩa đệm cột sống cổ: đau cột sống cổ, đau tăng lên khi vận động, đau vùng gáy 1 hoặc 2 bên; hạn chế vận động cột sống cổ khi gấp, duỗi, nghiêng, xoay.

Khám lâm sàng: bệnh nhân có hội chứng cột sống cổ, có điểm đau cột sống khi ấn vào gai sau, có điểm đau cạnh sống, co cứng cơ cạnh sống cổ nên bệnh nhân có tư thế chống đau “vẹo cổ”, tầm vận động cột sống hạn chế.

Bệnh nhân có hội chứng rễ thần kinh: đau vùng gáy theo phân bố cảm giác của các rễ thần kinh cổ (C5, C6, C7, D1) với biểu hiện lâm sàng bằng hội chứng vai – gáy hoặc hội chứng cổ – vai – cánh tay, rối loạn vận động; liệt và teo một số cơ cánh tay, cẳng tay, ngón tay…

Hội chứng chèn ép tuỷ cổ tăng dần theo thời gian; tuỳ vị trí thoát vị đĩa đệm cột sống cổ cao hay thấp mà có các triệu chứng sau: liệt ngoại vi 2 chi trên, liệt trung ương 2 chi dưới, tăng trương lực cơ 2 chi dưới, tăng phản xạ gân xương, có phản xạ bó tháp, rối loạn cơ vòng trung ương.

Cận lâm sàng: chụp X quang cột sống cổ các tư thế thẳng, nghiêng, chếch 3/4 phải, chếch 3/4 trái thấy hình ảnh thoái hoá cột sống cổ như gai xương, mỏ xương, hẹp khe gian đốt, hẹp lỗ tiếp hợp. Chụp tuỷ cản quang, chụp CT cột sống cổ, chụp cộng hưởng từ cột sống cổ sẽ thấy vị trí thoát vị đĩa đệm cột sống cổ và chèn ép tuỷ cổ.

Điều trị: nội khoa dùng thuốc giảm đau, chống viêm và corticoid, thuốc dãn cơ, vitamin nhóm B, phong bế, vật lý trị liệu và cố định cột sống cổ bằng đai cổ.

Điều trị ngoại khoa khi có chèn ép rễ – tuỷ cổ.

Hội chứng động mạch đốt sống – thân nền

Động mạch đốt sống – thân nền cung cấp máu cho gian não và thân não để đảm bảo chức năng sống của cơ thể, cho nên mối quan hệ giữa động mạch đốt sống và cột sống cổ rất mật thiết.

Sau khi tách từ động mạch dưới đòn, động mạch đốt sống đi qua các lỗ mỏm ngang cột sống cổ từ C6 đến C2, chui qua lọ chậm to đến cầu não tạo thành động mạch thân nền, đường kính trung bình của động mạch đốt sống bằng 4,9 – 5mm, tương đương với đường kính của lỗ mỏm ngang cột sống cổ; đồng thời còn 1 – 2 tĩnh mạch đi kèm nên mọi quá trình biến đổi hoặc chèn ép ở cột sống cổ đều ảnh hưởng đến sự lưu thông dòng máu nuôi não.

Lâm sàng thường gặp các nguyên nhân: hẹp lòng mạch do vữa xơ động mạch và hẹp lòng mạch do đè ép (như mỏ gai xương, hư xương sụn cột sống cổ, viêm khớp sống cổ, hẹp lỗ mỏm ngang, dị dạng, đè ép khi quay cổ quá mức…).

Các triệu chứng lâm sàng thường gặp như đau đầu vùng chẩm và hốc mắt như kiểu đau dây V, hoa mắt, chóng mặt có hệ thống, nôn và buồn nôn, đi lại lảo đảo không vững, yếu mệt toàn thân từng cơn, nhìn đôi, rối loạn phát âm, rối loạn nuốt, có hội chứng cổ cục bộ và hội chứng rễ – dây thần kinh (như hội chứng cổ – vai hoặc hội chứng cổ – vai – cánh tay).

Điều trị: tìm nguyên nhân để điều trị theo nguyên nhân; bao gồm thuốc dãn mạch, tăng cường tuần máu não, chống tăng huyết áp, vữa xơ động mạch; điều trị thoái hoá cột sống cổ, giảm đau chống viêm, dãn cơ vân, vitamin nhóm B, vật lý trị liệu.

Hội chứng cổ cục bộ

Nguyên nhân đau do các quá trình thoái hoá và tình trạng sau chấn thương của các đoạn vận động cột sống cổ, gây ra kích thích cơ học vào dây chằng dọc sau, các bao khớp của cột sống và cốt mạc đốt sống.

  • Đau đầu do tư thế nghề nghiệp: thường gặp ờ những người lao động mà cộng việc bắt buộc phải cúi đầu liên tục như thợ thêu, thợ may, thợ đánh máy; hoặc những nghề buộc phải ưỡn cổ quá mức như thợ mỏ, thợ nề, thợ quét vôi… Cơ chế đau chủ yếu là do rối loạn trương lực cơ và căng kéo dây chằng.
  • Đau đầu do co cứng cơ bù trừ ở những người gù, quá ưỡn, lệch vẹo cột sống cổ.

Lâm sàng, đầu tiên là tăng trương lực cơ ở các vùng vai – gáy một cách đột ngột sau vận động cổ. Các yếu tố phụ trợ có thể là nhiễm lạnh, gió lùa, ngồi lâu, cúi đầu ra trước. Nếu đoạn trên cột sống cổ bị tổn thương thì sẽ ảnh hưởng đến cơ thang vùng vai – đòn; nếu đoạn dưới cột sống cổ bị tổn thương thì đau khu trú ờ 2 xương bả vai, các cơ vùng vai – gáy cũng bị căng cứng, vận động cột sống cổ hạn chế, đôi khi đau có thể lan tới vùng sau và ngoài cánh tay.

Đau cột sống cổ cục bộ do căn nguyên khác như các loại u thần kinh của dây thần kinh tuỷ sống, u màng cứng, di căn ung thư từ các cơ quan khác đến, viêm đốt sống, bệnh viêm cột sống dính khớp…

  • Dự phòng: cần có chế độ nghỉ ngơi thích hợp, tránh mang vác, xách vật nặng không cân đối; khi ngồi làm việc hoặc ngồi xe đường dài nên dùng ghế có tấm đỡ cổ và lưng.
  • Điều trị: dùng các thuốc giảm đau, chống viêm, giãn cơ, vitamin nhóm B.

Các biện pháp không dùng thuốc như bấm huyệt, châm cứu, thể dục liệu pháp, xoa bóp, nắn chỉnh cột sống, điều trị lý liệu, kéo dãn cột sống cổ cần cân nhắc và chỉ định có chọn lọc.

Vẹo cổ (torticolis)

  • Vẹo cổ bẩm sinh: do dị tật của cơ ức – đòn – chũm thường được phát hiện ở tuổi học trò và chỉ điều trị được bằng phẫu thuật.
  • Vẹo cổ chấn thương: do sai khớp hoặc gãy đốt sống cổ.
  • Vẹo cổ cấp: là một thể đặc biệt của hội chứng cổ cục bộ, do hư xương sụn cột sống cổ, gây rối loạn và hạn chế vận động cột sống cổ. Cơ chế vẹo cổ cấp là do sự kẹt, nghẽn các tổ chức mô, mỡ và liên kết ở các khớp nhỏ của cột sống, gây chẹn các khớp đốt sống ở tư thế sai lệch, có thể còn do bệnh thấp kết hợp.

Khám lâm sàng thấy: đầu người bệnh vẹo hẳn sang một bên, sờ nắn thấy căng cơ rõ rệt ở các cơ vùng vai – gáy; các động tác vận động cổ về phía bên đối diện hoàn toàn bất lực. Toàn bộ cột sống cổ ngáy đơ, chắc, không có dấu hiệu tổn thương thần kinh. Chụp X quang cột sống cổ thường có hình ảnh hư xương sụn cột sống cổ nhẹ hoặc bình thường.

Điều trị:

+ Đối với thể nhẹ: có thể dùng một vài loại thuốc giảm đau thông thường và xoa bóp cơ vùng cổ – vai.

+ Đối với thể cấp: BN cần nghỉ ngơi, dùng các thuốc giảm đau chống viêm không steroid như analgin, voltaren, tilcotil…; nên dùng các thuốc chống co cứng cơ như myonal, mydocalm, coltramyl; có thể phong bế cạnh cột sống cổ bằng novocain + hydrocortisol kết hợp các biện pháp không dùng thuốc như châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt…

Hội chứng cổ – vai – cánh tay

Hội chứng cổ – vai – cánh tay có thể do thoát vị đĩa đệm hoặc do thoái hoá của mỏm móc đốt sống kích thích vào rễ thần kinh cổ.

  • Đau vai – cánh tay do lồi và thoát vị đĩa đệm: thường gặp ở vị trí sau bên chèn ép rễ thần kinh gây đau, tư thê sai lệch cột sống và những triệu chứng thần kinh khu trú, thường xảy ra ở người lớn từ 30 – 50 tuổi. Các triệu chứng xuât hiện cấp tính như đau cánh tay theo dải da thuộc vùng rễ thần kinh bị chèn ép, vẹo cổ và cột sống cổ ở tư thế gù; ho, hắt hơi đều làm tăng kích thích cảm giác đau. Trên phim chụp X quang cột sống cổ thường thây cột sống cổ thẳng đờ ở phía trên đĩa đệm bị tổn thương, giảm chiêu cao đĩa đệm rõ rệt, có triệu chứng hư đốt sống hay hư xương sụn ờ giai đoạn muộn. Chẩn đoán xác định bằng chụp cắt lớp vi tính, tốt nhất là chụp cộng hưởng từ hạt nhân.
  • Đau vai – cánh tay do chồi xương ở mỏm móc: thường gặp ở BN trên 50 tuổi do các gai xương ở thân đốt và chồi xương ở mỏm móc. Lâm sàng đau canh tay do kích thích rễ thần kinh bởi chói xương ở mỏm móc hay gặp hơn do thoát vị đĩa đệm. Mỏm móc gây hẹp ¡5 liên đốt, kích thích hoặc chèn ép vào rê thần kinh và mạch máu đi qua đó. Các triệu chứng xuất hiện từ từ, không mạnh mẽ như trong thoát vị đĩa đệm. Bệnh nhân hay đau về đêm, cảm giác kiến bò và tê bì dải da tương ứng thuộc các rễ thần kinh bị xâm phạm. Trên phim chụp X quang tư thế chếch 3/4 cột sống cổ thây mỏm móc chèn vào lỗ liên đốt. Tiến triển của đau vai – cánh tay do chồi xương mỏm móc thường diễn biến mạn tính và có những đợt tái diễn.
  • Hội chứng đau rễ thần kinh cổ: tuỳ thuộc mức độ của tác nhân gây bệnh và các rễ thần kinh tuỷ cổ (kích thích, chèn ép) sẽ xuất hiện hội chứng đau 1 rễ hoặc nhiều rễ thần kinh, có khi ở cả 2 bên; thường xuất hiện nhất là đau rễ C6, C7, C8, hiếm gặp ở C5.

+ Nếu đau rễ C5: đau ở phía ngoài bả vai tới nửa trên cánh tay, rối loạn vận động, rối loạn phản xạ của cơ nhị đầu cánh tay, cần chẩn đoán với viêm khớp bả vai – cánh tay.

+ Nếu tổn thương rễ C6: đau ở dải da từ mặt ngoài cánh tay, cẳng tay tới ngón cái và một phần ngón trỏ, đôi khi đau lan ra ngực. Các rối loạn phân bố thần kinh khu trú cho cơ nhị đầu và cơ cẳng tay. Phản xạ gân cơ nhị đầu giảm hoặc mất.

+ Hội chứng rễ C7: đau ở sau bên của vai – cánh tay tới giữa mặt sau và kéo dài tới ngón 2, 3, 4. Cảm giác đau và dị cảm cũng thấy ờ mặt trước của các ngón tay tương ứng. Rối loạn vận động cơ tam đầu cánh tay, cơ sấp tròn, cơ ô mô cái, giảm sức cơ trong động tác duỗi cẳng tay, giảm hoặc mất phản xạ cơ tam đầu, giai đoạn muộn có thể gặp teo cơ ô mô cái.

+ Hội chứng rễ C8: đau và dị cảm suốt dọc dải phía trong cánh tay, cẳng tay, bàn tay, tới ngón 4 – 5; rối loạn vận động các cơ gấp ngón tay, cơ liên đốt và các cơ ô mô út.

Chẩn đoán phân biệt hội chứng cổ – vai – cánh tay với các bệnh sau: các hội chứng chèn ép đám rối thần kinh cánh tay, hội chứng rễ do thoát vị đĩa đệm, hội chứng cơ bậc thang, hội chứng sườn – đòn, hội chứng ống – cổ tay, hội chứng đau khớp bả vai – cánh tay, hội chứng Pancoast – Tobias.

Hội chứng cổ – đầu

Hội chứng cổ – đầu xảy ra do động mạch đốt sống và giao cảm cổ bị chèn ép do nhiều yếu tố như lệch trục cột sống, trượt đốt sống, hẹp ống sống do thoái hoá cột sống cổ gây hẹp lỗ mỏm ngang.

Lâm sàng: đau đầu, có các cơn chóng mặt, rối loạn nhìn và nghe, rối loạn nuốt cũng như các rối loạn tâm lý, có thể do những biến đổi sinh – cơ học của đoạn vận động cột sống cổ, trong đó vai trò của hẹp động mạch đốt sống rất quan trọng. Các biểu hiện lâm sàng trên phụ thuộc vào tư thế của cổ và đầu, có thể đau đầu thành cơn (hay nhầm với Migraine), nuốt khó, chóng mặt, ám điểm lấp lánh, ù tai…

Hội chứng cổ – nội tạng do thoái hoá cột sống

Hội chứng cổ – tim còn gọi là cơn đau thắt tim do cổ: những thay đổi bệnh lý của hạch giao cảm cổ ảnh hưởng đến chi phối thần kinh tim qua dây X. Bệnh nhân cỏ cảm giác đau như đè nén, khoan dùi ở toàn bộ vùng tim hoặc sau xương ức, cơn đau kéo dài 60 – 90 phút, có triệu chứng báo trước bằng đau ở vùng vai, đặc biệt ở vùng liên bả. Triệu chứng đau ở vùng tim tăng lên khi cử động đầu, ho hoặc nâng một cánh tay lên. Trong cơn đau vùng tim BN thấy đánh trống ngực, nhịp tim nhanh, có thể có ngoại tâm thu; điện tim không có biến đổi đặc hiệu củạ thiêu máu cơ tim; chụp X quang thấy hư xương sụn cột sống cổ. Điều trị bằng nitroglycerin không kết quả; phong bế và kéo dãn cột sống cổ sẽ cắt được cơn đau vùng tim.

Hội chứng khe cơ bậc thang

Trong khoang hẹp giữa các cơ bậc thang trước và giữa có dây thần kinh cổ, các thân nhì của đám rối thần kinh cánh tay và động mạch dưới đòn chạy qua.

Lâm sàng: đau và dị cảm vùng mặt trong cánh tay, cẳng tay, bàn tay và ngón 4 – 5, đôi khi lan tới vùng chẩm; đau đặc biệt tăng lên khi xoay đầu về phía tay bị đau hoặc hít thở sâu, trường hợp đau lan xuống lồng ngực dễ nhầm với cơn đaụ thắt ngực. Bệnh nhân thấy yếu cơ, teo cơ ở tay và mô út, đặc biệt thấy căng các cơ ở cổ (nhất là cơ bậc thạng trước), có rối loạn mạch máu (tay trở nên tê cóng, tím tái, phù nề, lạnh đầu chi, nếu nặng thấy mất mạch quay).

Các chứng đau cổ do nhiễm khuẩn

Lao cột sống cổ: hay gặp ở người có tiền sử lao, đau cột sống cổ tăng dần lan ra các chi, co cứng các cơ cổ và cố định cổ ở một tư thế, trạng thái toàn thân suy sụp dần, có hội chứng nhiễm độc lao. Chụp X quang thường quy, chụp cắt lớp hoặc chụp cộng hưởng từ cột sống cổ cho chẩn đoán quyết định. Bệnh nhân cần được cố định và điều trị theo phác đồ chống lao.

Cốt tuỷ viêm cột sống cổ.

Viêm xương khớp nhiễm khuẩn khu trú ở cổ.

Viêm quanh khớp bả vai – cánh tay (viêm quanh khớp vai)

Đau ờ vai, khó hoạt động khớp vai, đôi khi đau lan xuống cánh tay; thường xảy ra ở người trên 40 tuổi, nguyên nhân do chấn thương hoặc vi chấn thương khớp vai. Hiện nay người ta xếp viêm quanh khớp vai vào bệnh hư khớp.

  • Lâm sàng: đau xuất hiện dần dần, nhất là khi dang tay và xoay cánh tay vào trong hoặc giơ lên đầu. Đau lan toả từ mỏm vai tới cánh tay, hạn chế vận động khớp vai rõ rệt. Bệnh nhân không thể dùng tay gãi sang vai đối diện được, nếu nặng BN có triệu chứng “khoá cứng” khớp vai, đôi khi tổn thương lan rộng xuống gây rối loạn vận động và loạn dưỡng ở bàn tay. Chụp X quang khớp vai cũng có giá trị chẩn đoán hoặc loại trừ.
  • Điều trị: có thể tiêm novocain kết hợp hydrocortison quanh khớp vai nhưng phải bảo đảm vô khuẩn tuyệt đối. Dùng các thuốc giảm đau chống viêm và corticoid đường toàn thân kết hợp với điều trị lý liệu và tập vận động.

Đau cột sống cổ do chấn thương

Chấn thương do quá cúi gây quá giãn ở phía sau và ép cột sống ở phía trước, nên có thể gãy đốt sống, rách vòng sợi phía sau, giãn dây chằng dọc sau và dây chằng liên gai; nếu tác động mạnh, các cơ ở vùng gáy có thể bị rách, đứt, tạo bọc máu tụ. Động mạch đốt sống cũng có thể bị tổn thương do chèn ép.

Chấn thương do quá ưỡn cột sống cổ làm quá căng phần mềm và đĩa đệm phía trước. Thường gặp bệnh cảnh lâm sàng của một bọc máu tụ sau hầu, với triệu chứng chính là nuốt đau. Nếu quá ưỡn cột sống cổ dễ gãy các mỏm khớp đốt sống, sai khớp đốt sống tại chỗ, có hội chứng cổ cục bộ hoặc tổn thương dây chẩm lớn; BN thấy đau ở vùng chẩm, cứng gáy, hạn chế vận động cột sống cổ.

Chấn thương do văng quật gây sai khớp, gãy xương, đau vùng gáy, hạn chế tầm vận động cột sống cổ. Hội chứng cổ – đầu sau chấn thương thường biểu hiện đau gáy dữ dội và đau thần kinh chẩm. Động mạch đốt sống cũng có thể chèn ép gây trở ngại lưu thông máu, vì vậy, có các triệu chứng của thiểu năng tuần hoàn não sau. Chụp X quang thường quy, cộng hưởng từ cột sống cổ cho chẩn xác định.

DỰ PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ

Dự phòng

Không nên cúi gấp cổ quá lâu, những nghề nghiệp phải giữ cổ ờ một tư thế, cần có chế độ tập thể dục giữa giờ (theo bài tập thể dục vận động cột sống cổ); tránh các chấn thương vào vùng đầu và vùng cột sống cổ. Chú ý khi tuyển lựa nghề nghiệp cần phải có tiêu chuẩn khám cột sống cổ.

Điều trị

Tuỳ theo căn nguyên, cơ chế tổn thương, giai đoạn cấp hay mạn mà phương hướng điều trị có thể bảo tồn, phẫu thuật hay phục hồi chức năng.

  • Điều trị nội khoa:

+ Dùng thuốc giảm đau chống viêm non steroid:

  • Voltaren 25mg X 4 viên/ngày, chia 2 lần uống sau ăn trưa và tối.

. Tilcotil 20mg X 2 viên/ngày, chia 2 lần uống sau ăn trưa và tối.

Voltaren và tilcotil có thể dùng thuốc tiêm.

+ Chống thoái hoá khớp: như viartril – s X 2 – 4 viên/ngày, chia 2 lần uống sau bữa ăn trưa và tối (hoặc golsamin liều lượng như trên).

+ Thuốc dãn cơ vân: dùng 1 trong các loại sau

  • Myonal 50mg X 2 viên/ngày, chia làm 2 lần uống sáng chiều.
  • Mydocalm: 50mg X 4 viên/ngày, chia làm 2 lần, uống sáng chiều.

+ Vitamin nhóm B: tiêm bắp hoặc uống.

+ Corticoid: solu-medrol 40mg X 1 ống/ngày, tiêm bắp sau ăn trưa, dùng 7-10 ngày (chú ý chống chỉ định của corticoid).

+ Phong bế: novocain 1% X 5ml kết hợp hydrocortison acetat hoặc methylprednisolon acetat X 2ml, cách ngày, ở các cơ sở chuyên khoa có thể tiêm ngoài màng cứng cột sống cổ.

Kết hợp phương pháp lý liệu như bó nến, điện xung, chiếu tia hồng ngoại có tác dụng rất tốt đối với giại đoạn cấp. Đai cổ mềm nhằm cố định cột sống và giảm tải trọng cho cột sống cổ; kéo dãn cột sống cổ phải hết sức thận trọng, phải loại trừ tổn thương cột sống do lao hoặc do u. Ngoài ra còn dùng thể dục liệu pháp, nắn chỉnh, xoa bóp có tác dụng tốt đối với đau cột sống cổ, nhưng phải có chỉ định chặt chẽ.

  • Điều trị phẫu thuật: thường làm cứng phía trước cột sống, phẫu thuật thoát vị đĩa đệm cột sống cổ, phẫu thuật cắt bỏ mỏm móc lỗ liên đốt. Sau phẫu thuật phải tiếp tục điều trị phục hồi chức năng.
  • Điều trị phục hồi chức năng và thể dục liệu pháp kết hợp với các biện pháp y học cổ truyền có tác dụng rất tốt đối với các hội chứng cột sống cổ.

Tóm lại, bệnh lý cột sống cổ rất đa dạng, vì vậy, trong thực hành lâm sàng đòi hỏi người thầy thuốc phải nắm vững giải phẫu, chức năng, sinh lý cột sống cổ, kết hợp khám xét lâm sàng tỷ mỉ, chu đáo, có sự hỗ trợ của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh hiện đại mới có thể chẩn đoán được các hội chứng bệnh lý cột sống cổ; từ đó có phương pháp điều trị, dự phòng đúng đắn và hiệu quả cho bệnh nhân.

Trẻ biếng ăn phải làm sao? Cho bé ăn đúng cách.

Khi bé biếng ăn là việc gây đau đầu cho các mẹ, mẹ thường lo lắng về sức khỏe, dinh dưỡng của bé, do nôn nóng mẹ thường mắc sai lầm trong cách ăn cho trẻ, dưới đây là các cách xử lý đúng khi trẻ bị biếng ăn.

1. Chỉ nên gợi ý cho bé ăn khi nó đã đói. Trẻ em thường chối bỏ thức ăn chẳng qua vì chúng chưa kịp đói. Thằng bé lười ăn của bạn hình như không bao giờ thấy đói? Cũng có thể do bạn đã không cho bé cơ hội ấy. Hãy thử trong vài ngày liền không liên tục ép bé ăn. Hãy đợi để tự bé phải nhắc đến bữa ăn.

2. Khi đã quan sát được lúc nào bé thường thấy đói, bạn hãy cho bé ăn vào những giờ cố định. Trẻ em thích cuộc sống điều độ.

3. Hãy giảm số bữa ăn. Một đứa trẻ 3 tuổi thực sự không cần đến 5 bữa mỗi ngày. Giữa bữa sáng và bữa trưa, thay vì cho ăn cháo hay một lưng cơm, bạn hãy cho bé một quả chuối hay miếng đu đủ, có thể sau đó bé sẽ ăn trưa một cách ngon lành.

Trẻ nhỏ biếng ăn khi mẹ không cho ăn đúng cách
Trẻ nhỏ biếng ăn khi mẹ không cho ăn đúng cách

4. Hãy giảm những bữa ăn vặt. Bạn thử xem liệu bé có hay ăn vặt không? Vài cái kẹo, một gói bim bim, tưởng như không là gì cả nhưng lại ảnh hưởng rất nhiều đến sự ngon miệng của trẻ.
5. Hãy giảm khẩu phần ăn của bé. Một bát cơm đầy có ngọn quả không kích thích sự thèm ăn của bé chút nào. Trái lại là đằng khác – nó khiến trẻ sợ và ngán. Sẽ hoàn toàn khác nếu trước mặt bé là một miếng thịt nho nhỏ, một chút xíu cơm và vài thìa canh. Ngần này thì có thể ăn được. Mà ngần ấy cũng đủ để một đứa trẻ hai tuổi no bụng.

6. Hãy quan tâm đến tính đa dạng của các món ăn. Nếu ngày nào bạn cũng dọn cho bé món trứng đúc thịt, thì chẳng có gì ngạc nhiên khi nó không muốn ăn. Nếu bữa sau, bạn cho bé một khúc cá rán hay một bát súp sườn hầm khoai tây, củ cải, bạn sẽ thấy là ít ra thì bé cũng thử.

7. Bạn hãy cố gắng để các món ăn bày lên bàn trông thật màu sắc và ngon lành. Bên cạnh những búp súp lơ trắng là những cánh hoa cà rốt màu cam rực, bên cạnh những khúc đậu đũa xanh có cà chua đỏ… Một sáng kiến rất hay là món salad thập cẩm: cà rốt, ớt ngọt, giá đỗ, khoai tây, dưa chuột…

8. Hãy để cho bé tự chọn. Trước khi nấu ăn, bạn hãy hỏi bé: “Con thích ăn gì nào?” và đưa ra một thực đơn mà bạn có thể làm để bé chọn. Có thể bé sẽ chẳng chọn gì cả, biết làm sao được! Nhưng cũng có thể bé sẽ thích một món nào đó.

9. Hãy chấp nhận một số ý thích trái khoáy của bé. Nếu bé nhất định đòi uống sinh tố cà chua với cam, bạn đừng lấy đó làm điều bực mình, hãy làm cho bé. Đó chẳng qua là khẩu vị. Nếu bé chỉ thích bánh mì kẹp hình tam giác hay uống sữa bằng ống hút, bạn cứ chiều theo ý thích của bé, chắc chắn rồi đến lúc bé sẽ chán.

10. Đừng ép bé ăn cái mà nó không thích. Thay vì thịt, bạn có thể cho bé ăn trứng, cá hoặc giò, xúc xích. Nếu bé sợ rau, thì thay vì bực bội, bạn hãy cho bé ăn thêm trái cây.

11. Bạn đừng cố giấu những thứ bé không thích ăn vào các món ăn. Vì chắc chắn bé sẽ phát hiện ra và sẽ không chịu ăn gì nữa. Và nguy nhất là bạn đã làm nó ghét cái món mà đến nay nó vẫn thích.

12. Bạn có thể dùng chiến thuật “bình mới rượu cũ”. Thay vì cho bé ăn thịt với cơm, bạn kẹp thịt vào bánh mì. Bạn có thể cho canh vào cốc như một thứ đồ uống thay vì để ở bát như thường lệ. Bạn thử xay trái cây rồi cho vào ngăn đá cho đông sệt lại, có thể bé sẽ thích hơn?

Chán ăn xuất phát từ tâm lý của trẻ
Chán ăn xuất phát từ tâm lý của trẻ

13. Chỉ có bé uống sau bữa ăn, chứ không để vừa ăn vừa uống, đặc biệt là trước bữa ăn. Nếu trước bữa ăn, dạ dày bé tẹo của bé đã được làm đầy bằng nước ngọt thì đương nhiên là suất ăn trưa không còn quyền cư trú trong đó nữa.

14. Cứ để cho bé ăn lâu như nó thích. Việc bé nhẩn nha cả buổi trưa không có nghĩa là bé biếng ăn. Có thể việc tự ăn vẫn là quá khó đối với bé. Thậm chí cả khi bạn thấy bữa ăn dường như không bao giờ kết thúc, thì cũng đừng tỏ ra sốt ruột. Bé chỉ cần biết là bạn muốn nó kết thúc bữa ăn, nó sẽ đẩy bát cơm ra xa ngay. Vì điều đó dễ hơn so với việc xúc cơm cho vào miệng, rồi phải ngậm, nhai, nuốt!

15. Các bạn hãy cùng ngồi ăn bên bàn ăn gia đình. Ngồi ăn một mình thật buồn chán. Nếu bố kể chuyện có một con chim đến làm tổ trong vườn nhà thế nào, mẹ thì kể một chuyện vui khi đi chợ… Thế là bé vừa ăn vừa dỏng tai nghe, quên khuấy cái bát cơm đáng ghét.

16. Bạn đừng bón cho bé, hãy để nó tự ăn. Phần lớn trẻ 2-3 tuổi sẽ ăn nhiều hơn nếu mẹ để chúng tự ăn. Nếu mẹ cứ bón mãi, dần dần bé nhận thấy rằng ăn đúng là một việc khó chịu, chẳng khác gì gội đầu hay uống thuốc, cũng là mẹ làm cho bé. Hãy làm sao để bé thấy rằng được ăn là niềm vui, giống như chơi một trò chơi vậy.

17. Bạn nên biết rằng “không” là một câu trả lời cần thiết. Không bao giờ ép bé ăn thêm thìa cơm cuối cùng. Nếu bé nói rằng nó đã no, hãy để bé đặt bát xuống, còn bạn không bình luận gì về chuyện đó.

18. Hãy để bé cùng tham gia nấu nướng. Bé sẽ thấy rau muống mà bé tự tay nhặt, hay món thịt mà bé tự tay trộn gia vị sẽ ngon hơn rất nhiều.

19. Bạn hãy quan tâm đến không khí của bữa ăn. Sự vội vã, lộn xộn, những xung khắc hàng ngày giữa bố và mẹ sẽ làm bé ăn mất ngon.

20. Bé không nhất thiết phải ăn hết khẩu phần ngay một lúc. Bạn hãy thử chia nhỏ khẩu phần của bé, ví dụ bé có thể ăn bữa giữa buổi sau lúc đi dạo, hoặc một bát cháo nhỏ trước lúc bé ra sân chơi với các bạn. Có thể không khí trong lành sẽ khiến cho món thịt bò xào mà bé rất ghét trở nên ngon hơn.

Các biện pháp tại nhà chữa chứng đau nửa đầu

Làm mát

Đặt một túi đá lên trán, da đầu hoặc cổ để giảm đau. Các chuyên gia chưa rõ tại sao phương pháp này lại hiệu quả, nhưng việc giảm lưu lượng máu có thể là một phần nguyên nhân. Bạn cũng có thể thử dùng túi gel đông lạnh hoặc khăn đã nhúng nước lạnh.

Thuốc không kê đơn

Bạn không cần toa thuốc để mua các loại thuốc giảm đau như acetaminophen, ibuprofen hoặc naproxen. Bạn cũng có thể mua các sản phẩm trị đau nửa đầu có chứa sự kết hợp của các loại thuốc giảm đau.

Caffeine có thể giảm chứng đau đầu
Caffeine có thể giảm chứng đau đầu

Caffeine

Caffeine có trong cà phê và một số thực phẩm, đồ uống khác, và nó có thể giúp bạn giảm đau nhẹ. Nó cũng có thể giúp cơ thể bạn hấp thụ các loại thuốc trị đau nửa đầu nhanh hơn. Tuy nhiên, bạn cần cẩn trọng, vì việc phụ thuộc vào caffeine có thể dẫn đến các triệu chứng cai nghiện như mệt mỏi và đau đầu nhiều hơn.

Phòng tối và yên tĩnh

Ánh sáng mạnh và tiếng ồn lớn có thể khiến cơn đau đầu của bạn trở nên tồi tệ hơn. Vì vậy, hãy tìm một nơi yên tĩnh và kéo rèm xuống khi bạn bị đau nửa đầu. Điều này có thể giúp bạn hồi phục nhanh hơn.

Tập thể dục

Đừng thử tập thể dục khi bạn đang bị đau nửa đầu, vì nó có thể làm bạn đau hơn. Nhưng khi bạn cảm thấy khỏe, việc tập luyện thường xuyên có thể ngăn ngừa các cơn đau đầu. Tập thể dục giúp cơ thể bạn giải phóng endorphin, các hóa chất chống lại cơn đau. Nó cũng giúp giảm căng thẳng và giúp bạn ngủ ngon hơn.

Magie

Khoáng chất này có trong các loại rau lá xanh đậm, ngũ cốc nguyên hạt và các loại hạt. Nó không giúp trong khi bạn đang bị đau nửa đầu, nhưng một số nghiên cứu cho thấy nó có thể ngăn chặn cơn đau nửa đầu. Bạn cũng có thể uống dạng viên, nhưng hãy luôn tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng các chất bổ sung.

Ngủ đủ giấc

Hãy có một giấc ngủ đều đặn để ngăn ngừa đau nửa đầu. Ngủ quá ít – hoặc quá nhiều – có thể gây ra đau đầu và làm giảm ngưỡng chịu đau của bạn. Cố gắng ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi đêm và cố gắng đi ngủ và thức dậy vào cùng một thời điểm mỗi ngày.

Yoga

Tập thể dục giúp tăng nhịp tim có thể ngăn ngừa chứng đau nửa đầu, nhưng cũng có thể là nguyên nhân gây đau đầu cho một số người. Tuy nhiên, yoga, với các động tác chậm hơn, là một lựa chọn an toàn. Nghiên cứu cho thấy rằng các buổi yoga đều đặn giúp giảm số lượng các cơn đau và làm chúng bớt nghiêm trọng khi xảy ra.

Vitamin B2

Nó còn được gọi là riboflavin, và bạn có thể tìm thấy nó trong sữa, phô mai, cá và thịt gà. Bạn cũng có thể uống dạng viên. Các nghiên cứu cho thấy nó có thể giúp ngăn ngừa chứng đau nửa đầu.

Quản lý tác nhân kích hoạt

Đôi khi, cơn đau nửa đầu của bạn bị kích hoạt bởi thức ăn bạn ăn hoặc các điều kiện xung quanh bạn. Tìm hiểu xem điều gì gây ra cơn đau và tránh nó. Một số yếu tố kích hoạt phổ biến bao gồm rượu vang đỏ, phô mai lâu năm, và thịt xông khói. Ánh sáng mạnh, độ cao cao và mùi mạnh cũng có thể là vấn đề.

Butterbur

Cây cỏ này đã được sử dụng từ nhiều năm để điều trị cơn đau. Nó có hiệu quả trong việc ngăn ngừa chứng đau nửa đầu không? Khi các nhà nghiên cứu xem xét tất cả các bằng chứng, họ thấy rằng việc uống chiết xuất từ cây này đã giảm số lượng và cường độ các cơn đau đầu cho một số người.

Bệnh viêm xương tủy mạn tính (viêm xương mạn tính)

Tên khác: viêm xương mạn tính

Viêm xương tuỷ có thể diễn biến mạn tính ngay từ đầu hoặc sau viêm xương tuỷ cấp tính.

Ngoài các triệu chứng của bệnh gốc, vùng xương bị viêm bao giờ cũng sưng và đau, bệnh diên biến thành cơn (đợt) cấp tính xen với các đợt thuyên giảm, đôi khi có lỗ rò.

Nguy cơ là bị thoái hoá dạng tinh bột.

Khám X quang thấy các hình ảnh xương tan (mất mô xương) khu trú, loãng xương thứ phát, đôi khi có hình ảnh xương chết (xương mục).

Chụp nhấp nháy xương thấy tăng mức gan chất phóng xạ ở xương bị tổn thương.

VIÊM XƯƠNG DO TỤ CẦU KHUẨN: tụ cầu vàng gây ra viêm xương tuỷ cấp tính, nhưng cũng có thể là nguyên nhân của viêm xương tuỷ mạn tính.

VIÊM XƯƠNG DO THƯƠNG HÀN: thường khu trú ở xương chày và cột sống, viêm xương có thể xảy ra vào thời kỳ hồi sức hoặc sau khi đã khỏi bệnh thương hàn.

VIÊM XƯƠNG DO BRUCELLA MELITENSIS: thường kết hợp với viêm khớp xương (xem: bệnh do brucella).

VIÊM XƯƠNG DO LAO: hiếm thấy viêm xương do lao mà không có viêm khớp kết hợp. Có thể viêm thuộc thể giảm mô xương với những hang lao, và thể tăng phát triển xương với bọt khí trong các xương ống và lao xương ngón tay chân (spina ventosa).

VIÊM XƯƠNG DO GIANG MAI: Từ khi sử dụng penicillin thì hiếm thấy, nhưng vẫn còn gặp ở những nước đang phát triển. Có những thể sau đây:

  • Giang mai bẩm sinh sớm: biểu hiện bởi viêm xương sụn và viêm sụn đầu xương, xảy ra ở trẻ còn bú với chứng giả liệt Parrot (gãy xương ở nơi có tổn thương giang mai, nhất là ở vai và cổ).
  • Giang mai giai đoạn hai: hay thấy đau xương là biểu hiện của những ổ viêm xương nhỏ, đôi khi kèm theo những lồi xương nhìn thấy được trên phim X quang.
  • Giang mai giai đoạn ba và bẩm sinh muộn: có các biểu hiện biến dạng xương chày thành “hình lưỡi kiếm” do các cấu trúc xương tân tạo ở dưới cốt mạc, bệnh nhân thường bị đau dữ dội. Hãn hữu xảy ra viêm xương gây thủng vòm sọ.

Điều trị: (xem: viêm xương tuỷ cấp tính).

Thuốc Binimetinib

Sử dụng, Cảnh báo, Tác dụng phụ, Liều dùng, Tương tác thuốc, Mang thai & Cho con bú, Những điều khác cần biết

Tên chung: binimetinib

Tên thương hiệu: Mektovi

Nhóm thuốc: Thuốc chống ung thư, Chất ức chế MEK

Binimetinib là gì và nó được sử dụng để làm gì?

Binimetinib là một loại thuốc chống ung thư (thuốc chống tân sinh) được sử dụng để điều trị cho người lớn bị ung thư hắc tố (melanoma), một loại ung thư da, và ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC). Binimetinib đã được FDA phê duyệt để sử dụng kết hợp với encorafenib, một loại thuốc chống ung thư khác, để điều trị melanoma có đột biến gene BRAF V600E hoặc V600K, và NSCLC có đột biến BRAF V600E, đã được xác nhận qua xét nghiệm do FDA phê duyệt. Sự kết hợp này hiệu quả hơn so với sử dụng riêng lẻ từng thuốc trong việc ức chế sự phát triển của ung thư và ngăn ngừa kháng thuốc.

Binimetinib là một loại thuốc phân tử nhỏ có khả năng xâm nhập vào tế bào và thay đổi các cơ chế cụ thể của tế bào gây ra sự phát triển của tế bào ung thư, từ đó ức chế sự phát triển của khối u. Binimetinib là một chất ức chế MEK, có khả năng ức chế hoạt động của kinase ngoại bào kích hoạt mitogen 1 và 2 (MEK1 và MEK2), hai enzyme nằm trong con đường tín hiệu BRAF, giúp thúc đẩy sự phát triển tế bào. Đột biến ở các gene BRAF V600E hoặc V600K kích hoạt MEK1 và MEK2, dẫn đến sự phát triển và nhân lên không kiểm soát của tế bào.

Binimetinib và encorafenib nhắm đến hai enzyme khác nhau (kinase) trong chuỗi tín hiệu kích hoạt bởi các đột biến BRAF. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và trên động vật về các dòng tế bào melanoma dương tính với đột biến BRAF và NSCLC dương tính với đột biến BRAF V600E cho thấy sự kết hợp giữa binimetinib và encorafenib có khả năng chống khối u tốt hơn và làm chậm sự xuất hiện của kháng thuốc trong các tế bào ung thư, so với việc sử dụng từng thuốc riêng lẻ.

Chỉ định được FDA phê duyệt của binimetinib là điều trị cho bệnh nhân trưởng thành với:

  • Ung thư hắc tố không thể cắt bỏ hoặc đã di căn có đột biến BRAF V600E hoặc V600K, được phát hiện bằng xét nghiệm được FDA phê duyệt, sử dụng kết hợp với encorafenib.
  • Ung thư phổi không tế bào nhỏ đã di căn có đột biến BRAF V600E, được phát hiện bằng xét nghiệm được FDA phê duyệt, sử dụng kết hợp với encorafenib.

Cảnh báo

  • Binimetinib, khi được sử dụng kết hợp với encorafenib, đã liên quan đến sự phát triển của các loại ung thư mới, bao gồm cả ung thư da (cutan) và không phải ung thư da. Cần đánh giá bệnh nhân về các bệnh ung thư mới trước, trong và sau khi ngừng điều trị.
  • Việc điều trị bằng binimetinib/encorafenib có thể gây bệnh cơ tim (cardiomyopathy), làm giảm phân suất tống máu thất trái (LVEF). Cần đánh giá LVEF của bệnh nhân trước khi bắt đầu điều trị và theo dõi 1 tháng sau khi khởi trị, và cứ 2 đến 3 tháng trong suốt quá trình điều trị.
  • Chưa xác định được độ an toàn của liệu pháp binimetinib/encorafenib ở những bệnh nhân có LVEF ban đầu dưới 50% hoặc giới hạn dưới của mức bình thường (LLN) theo tiêu chuẩn của cơ sở y tế.
  • Cần theo dõi chặt chẽ bệnh nhân có nguy cơ về tim mạch trong suốt quá trình điều trị.
  • Tạm ngừng, giảm liều hoặc ngừng hẳn điều trị tùy theo mức độ nghiêm trọng của phản ứng phụ.
  • Một số bệnh nhân được điều trị bằng binimetinib/encorafenib đã phát triển chứng huyết khối tĩnh mạch và/hoặc tắc nghẽn phổi. Cần theo dõi bệnh nhân và tạm ngừng, giảm liều hoặc ngừng hẳn điều trị tùy theo mức độ nghiêm trọng của phản ứng phụ.
  • Việc điều trị bằng binimetinib/encorafenib có thể gây độc cho mắt, dẫn đến các tình trạng về mắt như viêm màng bồ đào (uveitis), tắc nghẽn tĩnh mạch võng mạc (RVO), và tích tụ dịch dưới các lớp võng mạc (bệnh võng mạc thanh dịch), có thể ảnh hưởng đến thị lực.
  • Cần theo dõi sức khỏe mắt của bệnh nhân thường xuyên. Nếu bệnh nhân có triệu chứng rối loạn thị giác mới hoặc trầm trọng hơn, hoặc mất thị lực cấp tính, cần đánh giá ngay tình trạng độc tính của mắt.
  • Tạm ngừng, giảm liều hoặc ngừng hẳn điều trị tùy theo mức độ nghiêm trọng, trong trường hợp viêm màng bồ đào hoặc bệnh võng mạc thanh dịch.
  • Chưa xác định được độ an toàn của binimetinib ở những bệnh nhân có tiền sử tắc nghẽn tĩnh mạch võng mạc (RVO) hoặc có các yếu tố nguy cơ hiện tại cho RVO, bao gồm bệnh tăng nhãn áp không kiểm soát hoặc tiền sử của hội chứng tăng độ nhớt máu hoặc tăng đông máu. Nếu bệnh nhân phát triển tắc nghẽn tĩnh mạch võng mạc, cần ngừng hẳn binimetinib.
  • Đánh giá các triệu chứng hô hấp mới hoặc tiến triển không giải thích được để loại trừ khả năng bệnh phổi kẽ. Tạm ngừng, giảm liều hoặc ngừng hẳn điều trị binimetinib/encorafenib tùy theo mức độ nghiêm trọng của bệnh phổi.
  • Việc điều trị bằng binimetinib/encorafenib có thể gây độc cho gan. Cần đánh giá chức năng gan trước khi bắt đầu điều trị, và kiểm tra hàng tháng hoặc theo yêu cầu lâm sàng trong suốt quá trình điều trị. Tạm ngừng, giảm liều hoặc ngừng hẳn tùy theo mức độ nghiêm trọng của phản ứng.
  • Việc điều trị bằng binimetinib/encorafenib có thể gây tiêu cơ vân (rhabdomyolysis).
  • Cần đánh giá mức creatine phosphokinase (CPK) và creatinine của bệnh nhân trước khi bắt đầu điều trị và định kỳ sau đó theo yêu cầu lâm sàng. Nếu mức CPK tăng cao, cần đánh giá nguy cơ tiêu cơ vân.
  • Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng và mức tăng CPK, cần tạm ngừng, giảm liều hoặc ngừng hẳn điều trị.
  • Việc điều trị bằng binimetinib/encorafenib có thể gây chảy máu, bao gồm cả xuất huyết tiêu hóa và xuất huyết nội sọ. Tùy theo mức độ nghiêm trọng, cần tạm ngừng, giảm liều hoặc ngừng hẳn điều trị.
  • Binimetinib có thể gây hại cho thai nhi nếu sử dụng trong thời kỳ mang thai. Cần xác minh tình trạng mang thai ở phụ nữ có khả năng mang thai trước khi bắt đầu điều trị binimetinib. Cảnh báo phụ nữ có khả năng mang thai về nguy cơ đối với thai nhi và khuyên họ sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả trong suốt và sau quá trình điều trị theo thời gian khuyến cáo.
  • Binimetinib được sử dụng kết hợp với encorafenib. Vui lòng tham khảo thông tin kê đơn của encorafenib để biết thêm thông tin về các rủi ro liên quan đến encorafenib.

Tác dụng phụ của binimetinib là gì?

Các tác dụng phụ thường gặp của binimetinib khi sử dụng kết hợp với encorafenib bao gồm:

  • Mệt mỏi
  • Sốt (pyrexia)
  • Sưng ở các chi (phù ngoại vi)
  • Đau cơ xương khớp
  • Phù tổng quát
  • Phù cục bộ
  • Phù mặt
  • Buồn nôn
  • Nôn mửa
  • Tiêu chảy
  • Đau bụng
  • Táo bón
  • Chán ăn
  • Rối loạn vị giác (dysgeusia)
  • Khó thở (dyspnea)
  • Ho
  • Viêm phổi
  • Tích tụ dịch quanh phổi (tràn dịch màng phổi)
  • Bệnh phổi kẽ
  • Độc gan (hepatotoxicity)
  • Tiêu cơ vân (rhabdomyolysis)
  • Tăng mức creatinine
  • Tăng mức creatine phosphokinase (CPK)
  • Tăng enzyme gamma-glutamyl transferase (GGT)
  • Tăng enzyme gan alanine aminotransferase (ALT)
  • Tăng enzyme gan aspartate aminotransferase (AST)
  • Tăng enzyme phosphatase kiềm (ALK)
  • Natri máu thấp (hyponatremia)
  • Kali máu cao (hyperkalemia)
  • Canxi máu thấp (hypocalcemia)
  • Đường huyết cao (hyperglycemia)
  • Tăng enzyme lipase
  • Tăng enzyme amylase huyết thanh
  • Mức albumin trong máu thấp (hypoalbuminemia)
  • Các rối loạn về máu bao gồm:
    • Số lượng hồng cầu thấp (thiếu máu)
    • Số lượng bạch cầu (leukocyte) thấp (giảm bạch cầu)
    • Số lượng tế bào lympho thấp (giảm lympho)
    • Số lượng tế bào bạch cầu trung tính thấp (giảm bạch cầu trung tính)
    • Số lượng tiểu cầu thấp (giảm tiểu cầu)
  • Độc tính mắt bao gồm:
    • Tích tụ dịch dưới võng mạc (bệnh võng mạc thanh dịch)
    • Phù hoàng điểm
    • Bong võng mạc
    • Loạn dưỡng biểu mô sắc tố võng mạc
    • Tắc nghẽn tĩnh mạch võng mạc
    • Viêm màng bồ đào (uveitis)
    • Suy giảm thị lực
  • Phát ban
  • Ngứa (pruritus)
  • Da khô
  • Dày da (tăng sừng hóa)
  • Đỏ da (erythema)
  • Rụng tóc (alopecia)
  • Chảy máu (xuất huyết)
  • Huyết áp cao (tăng huyết áp)
  • Suy chức năng thất trái
  • Bệnh cơ tim (cardiomyopathy)
  • Rối loạn nhịp tim (arrhythmia)
  • Đau tim (nhồi máu cơ tim)
  • Chóng mặt
  • Đau đầu
  • Tổn thương thận cấp tính
  • Viêm mô mỡ dưới da (panniculitis)
  • Phản ứng quá mẫn thuốc
  • Viêm đại tràng (colitis)
  • Viêm tụy (pancreatitis)
  • Tăng cân
  • Mất ngủ
  • Bệnh dây thần kinh ngoại vi (neuropathy)
  • Yếu cơ mặt (liệt mặt)
  • Huyết khối tĩnh mạch (venous thromboembolism)
  • Huyết khối tắc nghẽn phổi (thuyên tắc phổi)
  • Ung thư nguyên phát mới

Hãy gọi cho bác sĩ ngay nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng nghiêm trọng nào dưới đây hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng trong quá trình sử dụng thuốc này:

  • Các triệu chứng tim nghiêm trọng bao gồm nhịp tim nhanh hoặc đập mạnh, rung ở ngực, khó thở, và chóng mặt đột ngột;
  • Đau đầu nghiêm trọng, lú lẫn, nói lắp, yếu nghiêm trọng, nôn mửa, mất phối hợp, cảm thấy không vững;
  • Phản ứng nghiêm trọng với hệ thần kinh bao gồm cơ bắp rất cứng, sốt cao, đổ mồ hôi, lú lẫn, nhịp tim nhanh hoặc không đều, run rẩy, và cảm giác như sắp ngất;
  • Các triệu chứng mắt nghiêm trọng bao gồm mờ mắt, nhìn hẹp, đau mắt hoặc sưng, hoặc nhìn thấy các vòng sáng xung quanh đèn.

Đây không phải là danh sách đầy đủ của tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng phụ có thể xảy ra khi sử dụng thuốc này. Hãy gọi cho bác sĩ để được tư vấn y tế về các tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc các phản ứng phụ khác.

Liều dùng của binimetinib là gì?

Viên nén

  • 15 mg

Người lớn:

Melanoma (ung thư hắc tố)

  • Được chỉ định kết hợp với encorafenib cho bệnh nhân có khối u không thể phẫu thuật hoặc di căn do đột biến BRAF V600E hoặc V600K, được phát hiện bằng xét nghiệm được FDA chấp thuận.
  • Liều lượng: 45 mg uống hai lần mỗi ngày kết hợp với encorafenib cho đến khi bệnh tiến triển hoặc xuất hiện độc tính không thể chấp nhận.
  • Tham khảo hướng dẫn sử dụng thuốc encorafenib để biết thông tin về liều lượng khuyến nghị.

Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NSCLC)

  • Được chỉ định kết hợp với encorafenib cho bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NSCLC) không thể phẫu thuật hoặc di căn với đột biến BRAF V600E, được phát hiện bằng xét nghiệm được FDA chấp thuận.
  • Liều lượng: 45 mg uống hai lần mỗi ngày kết hợp với encorafenib cho đến khi bệnh tiến triển hoặc xuất hiện độc tính không thể chấp nhận.
  • Tham khảo hướng dẫn sử dụng thuốc encorafenib để biết thông tin về liều lượng khuyến nghị.

Điều chỉnh liều lượng:

  • Nếu encorafenib bị ngừng vĩnh viễn, cũng ngừng binimetinib.
  • Khuyến nghị giảm liều binimetinib khi xảy ra phản ứng phụ:

Giảm liều lần đầu: 30 mg uống hai lần mỗi ngày.

Các điều chỉnh tiếp theo: Ngừng vĩnh viễn nếu không thể dung nạp 30 mg/ngày.

Bệnh cơ tim:

  • Giảm tuyệt đối phân suất tống máu thất trái (LVEF) trên 10% từ mức ban đầu nhưng vẫn dưới giới hạn dưới của mức bình thường (LLN): Tạm dừng điều trị trong tối đa 4 tuần, đánh giá LVEF mỗi 2 tuần.
  • Tiếp tục điều trị với liều giảm nếu LVEF đạt hoặc trên LLN và giảm tuyệt đối từ mức ban đầu là 10% hoặc ít hơn và bệnh nhân không có triệu chứng.
  • Nếu LVEF không hồi phục trong vòng 4 tuần, ngừng vĩnh viễn.
  • Suy tim sung huyết có triệu chứng hoặc giảm LVEF trên 20% so với ban đầu và dưới LLN: Ngừng vĩnh viễn.

Huyết khối tĩnh mạch:

  • Huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT) hoặc thuyên tắc phổi (PE) không phức tạp: Tạm dừng thuốc; nếu cải thiện đến mức độ 0-1, tiếp tục với liều giảm. Nếu không cải thiện, ngừng vĩnh viễn.
  • Thuyên tắc phổi đe dọa tính mạng: Ngừng vĩnh viễn.

Bệnh võng mạc thanh dịch:

  • Triệu chứng võng mạc thanh dịch/thoái hóa biểu mô sắc tố võng mạc: Tạm dừng thuốc trong tối đa 10 ngày. Nếu cải thiện và không còn triệu chứng, tiếp tục với cùng liều. Nếu không cải thiện, tiếp tục với liều giảm hoặc ngừng vĩnh viễn.

Tắc tĩnh mạch võng mạc:

  • Bất kỳ mức độ nào: Ngừng vĩnh viễn.

Viêm màng bồ đào (uveitis):

  • Mức độ 1-3: Nếu mức độ 1 hoặc 2 không đáp ứng với điều trị mắt đặc hiệu, hoặc viêm màng bồ đào mức độ 3, tạm dừng trong tối đa 6 tuần; nếu cải thiện, tiếp tục với cùng liều hoặc liều giảm. Nếu không cải thiện, ngừng vĩnh viễn.
  • Mức độ 4: Ngừng vĩnh viễn.

Bệnh phổi kẽ:

  • Mức độ 2: Tạm dừng trong tối đa 4 tuần; nếu cải thiện đến mức độ 0-1, tiếp tục với liều giảm. Nếu không hồi phục trong vòng 4 tuần, ngừng vĩnh viễn.
  • Mức độ 3 hoặc 4: Ngừng vĩnh viễn.

Độc tính gan:

  • Tăng mức độ 2 aspartate aminotransferase/alanine aminotransferase (AST/ALT): Duy trì liều binimetinib; nếu không cải thiện trong vòng 2 tuần, tạm dừng cho đến khi cải thiện đến mức độ 0-1 hoặc mức trước điều trị/ban đầu, sau đó tiếp tục với cùng liều.
  • Tăng mức độ 2 tái phát hoặc tăng mức độ 3 AST/ALT lần đầu: Tạm dừng trong tối đa 4 tuần; nếu cải thiện đến mức độ 0-1 hoặc mức trước điều trị/ban đầu, tiếp tục với liều giảm. Nếu không cải thiện, ngừng vĩnh viễn.
  • Tăng mức độ 4 AST/ALT lần đầu: Ngừng vĩnh viễn HOẶC tạm dừng trong tối đa 4 tuần; nếu cải thiện đến mức độ 0-1 hoặc mức trước điều trị/ban đầu, tiếp tục với liều giảm; nếu không cải thiện, ngừng vĩnh viễn.
  • Tăng mức độ 3 tái phát: Cân nhắc ngừng vĩnh viễn.
  • Tăng mức độ 4 tái phát: Ngừng vĩnh viễn.

Tiêu cơ vân hoặc tăng CPK:

  • Tăng CPK mức độ 4 không có triệu chứng HOẶC tăng CPK ở bất kỳ mức độ nào kèm theo triệu chứng hoặc suy thận: Tạm dừng trong tối đa 4 tuần; nếu cải thiện đến mức độ 0-1, tiếp tục với liều giảm. Nếu không hồi phục trong vòng 4 tuần, ngừng vĩnh viễn.

Da liễu:

  • Mức độ 2: Nếu không cải thiện trong vòng 2 tuần, tạm dừng thuốc cho đến mức độ 0-1; tiếp tục với cùng liều nếu xảy ra lần đầu hoặc giảm liều nếu tái phát.
  • Mức độ 3: Tạm dừng cho đến mức độ 0-1; tiếp tục với cùng liều nếu xảy ra lần đầu hoặc giảm liều nếu tái phát.
  • Mức độ 4: Ngừng vĩnh viễn.

Các phản ứng phụ khác, bao gồm xuất huyết.

Điều chỉnh liều khi dùng với encorafenib KHÔNG được khuyến nghị cho hội chứng đỏ lòng bàn tay và lòng bàn chân (PPES), khối u ác tính dương tính với đột biến RAS không da, và kéo dài QTc.

Tái phát mức độ 2 hoặc lần đầu tiên xuất hiện bất kỳ mức độ 3 nào:

  • Tạm dừng trong tối đa 4 tuần; nếu cải thiện đến mức độ 0-1 hoặc mức trước điều trị/ban đầu, tiếp tục với liều giảm.
  • Nếu không cải thiện, ngừng vĩnh viễn.

Lần đầu tiên xuất hiện bất kỳ mức độ 4 nào:

  • Ngừng vĩnh viễn HOẶC
  • Tạm dừng trong tối đa 4 tuần; nếu cải thiện đến mức độ 0-1 hoặc mức trước điều trị/ban đầu, tiếp tục với liều giảm; nếu không cải thiện, ngừng vĩnh viễn.

Tái phát mức độ 3:

  • Cân nhắc ngừng vĩnh viễn.

Tái phát mức độ 4:

  • Ngừng vĩnh viễn.

Suy gan:

  • Trung bình (bilirubin tổng cộng trên 1,5 đến 3 hoặc ít hơn một vài lần giới hạn bình thường trên (ULN) và bất kỳ mức AST nào): 30 mg uống hai lần mỗi ngày.
  • Nặng (bilirubin tổng cộng trên 3 lần ULN và bất kỳ mức AST nào): 30 mg uống hai lần mỗi ngày.

Suy thận:

  • Không quan sát thấy thay đổi lâm sàng quan trọng nào trong sự phơi nhiễm binimetinib ở bệnh nhân suy thận nặng so với bệnh nhân có chức năng thận bình thường.

Xem xét liều dùng:

Giới hạn sử dụng:

  • Không chỉ định cho bệnh nhân có melanoma BRAF kiểu hoang dã.

Lựa chọn bệnh nhân:

  • Melanoma: Xác nhận sự hiện diện của đột biến BRAF V600E hoặc V600K trong mẫu khối u trước khi bắt đầu điều trị.
  • NSCLC: Xác nhận sự hiện diện của đột biến BRAF V600E trong mẫu khối u trước khi bắt đầu điều trị.

Trẻ em:

  • An toàn và hiệu quả chưa được thiết lập.

Quá liều:

  • Quá liều binimetinib có thể làm tăng cường độ các tác dụng phụ của thuốc. Lọc máu không có khả năng hiệu quả trong điều trị quá liều. Quá liều có thể được điều trị bằng cách chăm sóc triệu chứng và hỗ trợ.

Thuốc nào tương tác với binimetinib?

  • Thông báo cho bác sĩ về tất cả các loại thuốc bạn đang sử dụng, người có thể tư vấn cho bạn về bất kỳ tương tác thuốc nào có thể xảy ra. Không bao giờ bắt đầu, đột ngột ngừng hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự khuyến nghị của bác sĩ.
  • Binimetinib không có các tương tác nghiêm trọng, nghiêm trọng, vừa phải hoặc nhẹ được liệt kê với các loại thuốc khác.
  • Các tương tác thuốc được liệt kê ở trên không phải là tất cả các tương tác có thể xảy ra hoặc tác dụng phụ. Để biết thêm thông tin về các tương tác thuốc, hãy truy cập trình kiểm tra tương tác thuốc RxList.
  • Điều quan trọng là luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ y tế về tất cả các loại thuốc theo toa và không kê toa mà bạn sử dụng, cũng như liều lượng cho mỗi loại, và giữ một danh sách thông tin. Kiểm tra với bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ y tế nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về thuốc.

Mang thai và cho con bú:

  • Binimetinib có thể gây hại cho thai nhi, dựa trên cơ chế tác dụng của nó và các nghiên cứu sinh sản trên động vật. Không có dữ liệu lâm sàng nào về việc sử dụng binimetinib ở phụ nữ mang thai.
  • Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản phải sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả trong suốt thời gian điều trị bằng binimetinib và ít nhất 30 ngày sau liều cuối cùng.
  • Không có thông tin về sự hiện diện của binimetinib hoặc các chuyển hóa hoạt động của nó trong sữa mẹ, hoặc tác động của nó đối với sản xuất sữa hoặc trẻ sơ sinh đang bú mẹ.
  • Các bà mẹ cho con bú nên tránh cho con bú trong thời gian điều trị và trong 3 ngày sau liều cuối cùng, vì có khả năng xảy ra các phản ứng phụ nghiêm trọng ở trẻ sơ sinh đang bú mẹ.

Những điều khác bạn nên biết về binimetinib:

  • Uống binimetinib cùng với encorafenib đúng như hướng dẫn.
  • Bạn sẽ cần thực hiện các xét nghiệm y tế định kỳ. Theo dõi với bác sĩ và không bỏ lỡ các cuộc hẹn của bạn.
  • Báo ngay cho bác sĩ nếu bạn nhận thấy bất kỳ mụn cóc, cục u hoặc vết thương nào mới, hoặc có sự thay đổi về màu sắc hoặc kích thước của một nốt ruồi.
  • Báo cho bác sĩ điều trị ngay lập tức nếu bạn gặp phải:
    • Triệu chứng suy tim như sưng ở các chi, mệt mỏi, nhịp tim nhanh hoặc không đều và khó thở.
    • Triệu chứng của cục máu đông trong tĩnh mạch hoặc phổi, có thể bao gồm cơn đau chân đột ngột, sưng và khó thở.
    • Thay đổi về thị lực.
    • Triệu chứng hô hấp mới hoặc trầm trọng hơn như khó thở hoặc ho.
    • Triệu chứng của tổn thương gan như vàng da, buồn nôn, nôn mửa, mất cảm giác thèm ăn, nước tiểu sẫm màu, mệt mỏi, bầm tím hoặc chảy máu.
    • Triệu chứng tiêu cơ như đau và yếu cơ bất thường hoặc mới phát sinh, và nước tiểu sẫm màu.
    • Chảy máu bất thường hoặc nghiêm trọng, hoặc triệu chứng của chảy máu bên trong như máu trong phân hoặc nước tiểu.
  • Bảo quản binimetinib an toàn, tránh xa tầm tay của trẻ em.
  • Trong trường hợp quá liều, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc Trung tâm kiểm soát chất độc.

Tóm tắt

Binimetinib là một loại thuốc chống ung thư (thuốc chống u) được sử dụng kết hợp với encorafenib trong điều trị cho người lớn mắc bệnh melanoma, một loại ung thư da, và ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC). Các tác dụng phụ phổ biến của binimetinib khi kết hợp với encorafenib bao gồm mệt mỏi, sốt (nhiệt độ cao), sưng tấy các chi (phù ngoại vi), đau cơ xương, phù toàn thân, phù cục bộ, phù mặt, buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy, đau bụng, táo bón, và các tác dụng phụ khác.

Ù tai điếc tai (nhĩ minh, nhĩ lung) Đông y và pháp, phương thuốc điều trị

Ù tai, điếc tai có liên quan mật thiết với thận, can. Linh khu mạch độ viết “Thận khí thông với tai, thận hòa thì tai nghe được ngũ âm (Thận khí thông vu nhĩ, thận hòa tắc nhĩ năng văn ngũ âm hĩ). Hải luận viết “Khi tuỷ hải không đủ thì đầu váng tai ù” (Tủy hải bất túc, tắc não huyễn, nhĩ minh). Tố vấn chí nhân yếu đại luận viết: “Khí quyết âm can vượng thì tai ù chóng mặt” (Quyết âm chi thắng nhĩ minh đầu huyễn)

Như vậy nguyên nhân gây ù tai điếc tai có thận hư tinh thiểu và can đởm hỏa vượng nhiễu tai. Trong điều trị cần bổ thận, thanh can. Người già yếu, bệnh ở tai thường có ù tai, điếc tai.

Ù tai:

Triệu chứng: Trong tai có tiếng như ve kêu hoặc nhỏ nhẹ hoặc to mạnh, tiếng ù tăng khi làm việc mệt hoặc giận dữ.

  • Ù tai do âm hư: Dưỡng âm tiềm dương (hoặc tư âm giáng hỏa).

Phương thuốc: Nhĩ lung tả từ hoàn (Lục vị hoàn gia, ngũ vị, từ thạch)

Địa hoàng         Hoài sơn               Sơn thù

Đơn bì               Trạch tả                 Phục linh

Ngũ vị tử     Từ thạch.

Phương thuốc: Đại bổ hoàn âm (Đan khê tâm pháp)

Hoàng bá              4 lạng                Tri mẫu              4 lạng

Thục địa                6 lạng                Quy bản             1 lạng

Tuỷ lợn                     1 bộ.

Ý nghĩa: Thục địa, Đương quy để tư bổ chân âm, tiềm dương chế hoả, Tủy, mật ong để bổ âm tinh, sinh tân dịch, Hoàng bá để tả tướng hoả, Tri mẫu để nhuận phế, thanh nhiệt, tư nhuận thận âm.

Vị thuốc Hoài sơn
Vị thuốc Hoài sơn
  • Ù tai do can thực: ù tai, đau đầu, đỏ mặt, dễ cáu gắi, tâm phiền, ngủ ít, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch huyền (sác).

Phép điều trị: thanh tả, can hoả.

Phương thuốc: Sài hồ thanh can tán (Cảnh nhạc toàn thư)

Sài hồ 2 đồng cân Xích thược 1.5 đồng cân
Ngưu bàng tử 2 đồng cân Đương quy 2 đồng cân
Liên kiều 2 đồng cân Xuyên khung 2 đồng cân
Hoàng cầm 2 đồng cân Chi tử 2 đồng cân
Thiên hoa phấn 3 đồng cân Phòng phong 2 đồng cân

Liên kiều để thanh can hoả, Đương quy, Xích thược, Xuyên khung để dưỡng huyết, hoạt .huyết, Sinh địa, Thiên hoa phấn để tư âm lương huyết. Ngưu bàng, Phòng phong để khu phong. Cam thảo để điều hòa các vị thuốc, hòa vị.

Điếc tai:

Triệu chứng: là mức độ nặng của ù tai, không nghe rõ âm thanh.

  • Điếc tai do thận tinh bất túc ở người dâm dục quá độ hoặc hạ nguyên suy yếu người già.

Phép điều trị: bổ âm tiềm dương (thận tinh bất túc)

Phương thuốc: Nhĩ lung tả từ hoàn, đại bổ ầm hoàn (xem ù tai)

Phép điều trị: Ôn bổ thận dương (hạ nguyên suy yếu).

Phương thuốc: Phá cố chỉ hoàn (Trung y nội khoa học – nhĩ minh nhĩ lung).

Phá cố chỉ                            Từ thạch

Thục địa                               Đương quy

Nhục quế                             Thỏ ti tử

Xuyên tiêu                            Bạch tật lê

Hồ lô ba-                               Đỗ trọng

Bạch chĩ                                Xương bỗ.

Ý nghĩa: Phá cố chỉ, Nhục quế, Hồ lô ba,. Xuy en tiêu để ôn bổ mệnh môn hỏa. Thục địa, Thỏ ti tử, Bạch tật lê, Đỗ trọng để dưỡng thận âm. Đương quy, Xuyên khung để dưỡng huyết Bạch chỉ để sơ tán phong hàn. Xương bồ để khai khiếu.

Người già điếc tai dùng Hà xa đại tạo hoàn (Y phương tập giải)

Tử hà xa, Sinh địa, Thiên môn, Mạch môn Quy bản để bổ âm, tinh, Nhân sâm để bổ nguyên khí, Ngưu tất để bổ thận hoạt huyết dẫn thuốc đi xuống, Hoàng bá đề thanh tướng hỏa ở hạ tiêu, Phục linh để kiện tỳ thảm thấp.

  • Điếc tai do can hoả thịnh.

Triệu chứng: Điếc tai, dễ cáu gắt, mặt mắt đỏ, miệng đắng, đau đầu chóng mặt, cơn bốc hoả, rêu lưỡi vàng, mạch huyền.

Phép điều trị: Thanh tả can hoả.

Phương thuốc: Sài hồ thanh can tán (xem ù tai).

Phương thuốc: Long đởm tả can thang (Y phương tập giải)

Long đỏm thảo 6g Hoàng cầm 9g
Chi tử 9g Trạch tả 12g
Mộc thông 9g Xa tiền tử 9g
Đương quy 3g Sinh địa 9g

Sài hồ                           6g              Cam thảo sống 6g.

Ý nghĩa: Long đởm thảo để tả can hoả. Hoàng cầm, Chi tử để thanh nhiệt. Trạch tả, Mộc thông, Xa tiền để thanh nhiệt, lợi thuỷ đưa nhiệt ra ngoài, Sinh địa, Đương quy để dưỡng âm, thanh nhiệt, lương huyết. Sài hồ để dẫn thuốc vào can. Cam thảo sống để thanh nhiệt điều hòa các vị thuốc.

ALBOTHYL -Trị viêm nhiễm phụ khoa

1.       ALBOTHYL

  • Điều trị tại chỗ chứng viêm hoặc nhiễm khuẩn và tổn thương tổ chức của âm đạo và cổ tử cung (thí dụ : dịch tiết do nhiễm khuẩn, Trichomonas và nấm, lo t do mũ tử cung ép), các chứng condylom nhọn, v.v…
  • Niêm mạc cổ tử cung lồi (lạc chỗ cổ tử cung).

 

BYK GULDEN

Thuốc trứng 90 mg : hộp 6 viên và 10 viên trứng. dung dịch đậm đặc 360 mg/g : chai 25 ml, 100 ml. THÀNH PHẦN

 

cho 1 viên trứng
Policresulen 90 mg
cho 1 g dịch đậm đặc
Policresulen 360 mg

CHỈ ĐỊNH

Viên trứng :

Phụ khoa :

  • Điều trị tại chỗ chứng viêm hoặc nhiễm khuẩn và tổn thương tổ chức của âm đạo và cổ tử

cung (thí dụ : dịch tiết do nhiễm khuẩn, Trichomonas và nấm, lo t do mũ tử cung ép), các chứng condylom nhọn, v.v…

  • Niêm mạc cổ tử cung lồi (lạc chỗ cổ tử cung).

Dịch đậm đặc :

Phụ khoa :

  • Điều trị tại chỗ chứng viêm hoặc nhiễm khuẩn và tổn thương tổ chức của âm đạo và cổ tử

cung (thí dụ : dịch tiết do nhiễm khuẩn, Trichomonas và nấm, lo t do mũ tử cung ép), các chứng condylom nhọn, v.v…

  • Niêm mạc cổ tử cung lồi (lạc chỗ cổ tử cung).
  • Cầm máu sau sinh thiết hay cắt bỏ polyp tử Phẫu thuật và khoa da :
  • Điều trị tại chỗ tổn thương da nhằm làm nhanh sự bong vẩy của tổ chức hoại tử, làm sạch và kích thích mau lành (như bỏng khu trú, lo t chân vì giãn tĩnh mạch, loét do nằm, quá trình viêm mạn, condylom nhọn, v…).
  • Cầm máu ở vết thương rỉ máu. Tai Mũi Họng :
  • Điều trị tại chỗ viêm niêm mạc miệng và lợi, bệnh áp-tơ.
  • Cầm máu sau khi cắt amidan hoặc chảy máu cam.

    CHỐNG CHỈ ĐỊNH

  • Trường hợp có thai, đặc biệt ở giai đoạn muộn, tránh bôi hay đặt thuốc trong cổ tử
  • Chỉ dùng Albothyl khi tuyệt đối cần thiết và phải tính đến mọi rủi ro có thể xảy ra cho mẹ và Thực nghiệm trên động vật cho thấy là thuốc không gây dị dạng. Chưa thấy tài liệu nghiên cứu về rủi ro khi dùng Albothyl ở phụ nữ có thai. Chưa biết rõ thuốc có tiết qua sữa mẹ hay không.

    THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

  • Albothyl kích thích quá trình lành vết thương. Không nên lo lắng khi tổ chức hoại tử bong ra khỏi nơi tổn thương, dù với lượng lớ
  • Người bệnh không rửa với xà phòng kích ứng hoặc giao hợp trong thời gian điều trị với
  • Như mọi thuốc khác dùng qua đường âm đạo, không dùng Albothyl trong thời gian kinh nguyệ
  • Không để Albothyl tiếp xúc với mắ
  • Khi đã dính Albothyl, phải giặt quần áo hoặc rửa giày dép với nước trước khi thuốc kịp khô.
  • Bề ngoài lốm đốm của viên trứng là do chất nền dùng làm viên trứng, không ảnh hưởng tới việc sử dụng, hiệu quả hoặc tính dung nạp

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

  • Đôi khi xảy ra kích ứng tại chỗ khi bắt đầu dùng Albothyl, nhưng triệu chứng này thường lui
  • Khi dùng chữa niêm mạc miệng, cần nhớ là độ acid cao của Albothyl có thể làm tổn hại men răng.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Viên trứng :

Nếu không có chỉ định khác :

  • Mỗi lần đặt một viên trứng, hai ngày một lầ
  • Nếu đã dùng dịch đậm đặc Albothyl thì dùng một viên trứng, hai ngày một lần vào khoảng cách giữa hai lần dùng dịch đậm đặc Albothyl. Để dễ đặt có thể làm ẩm viên trứng với chút nước, để người bệnh ở tư thế nằm ngửa rồi đưa viên trứng sâu vào âm đạo. Đặt viên trứng vào ban đêm là thực tế hơn cả. Dùng thêm khăn vệ sinh sẽ tránh thuốc dây ra quần áo hoặc giường chiếu.

Dịch đậm đặc :

Nếu không có chỉ định khác : Phụ khoa :

  • Để rửa âm đạo, pha loãng một phần dịch đậm đặc Albothyl với 5 phần nướ
  • Để bôi lên các chỗ tổn thương bề mặt hay bề sâu của tổ chức, dùng Albothyl đậm đặc không pha loãng. Bôi một lần hoặc hai lần trong tuầ Muốn bôi dịch đậm đặc Albothyl, dùng mỏ vịt, kẹp thay băng và gạc. Trước khi bôi thuốc, nên dùng dịch đậm đặc Albothyl lau sạch cổ tử cung và ống cổ tử cung để lấy hết dịch nhầy. Dùng một miếng bông, thấm dịch đậm đặc Albothyl đưa vào ống tử cung, xoay bông nhiều lần, sau đó rút ra. Bôi thuốc bằng cách nhúng miếng gạc vào dịch đậm đặc rồi đưa gạc tới tổ chức tổn thương, p nhẹ trong 1-3 phút.
  • Cũng vậy, dùng Albothyl không pha loãng để cầm máu, một miếng gạc đã nhúng thuốc được ép vào chỗ chảy máu trong 1-2 phút.

Phẫu thuật và khoa da :

  • Để cầm máu, vết thương được lau khô và ép một miếng gạc đã nhúng dịch đậm đặc Albothyl trong 1-2 phút tại nơi chảy máu. Không phải khi nào cũng cần thiết, nhưng nên lau sạch nơi vết thương sau khi xử lý với dịch đậm đặc
  • Để chữa các vết bỏng khu trú, loét do nằm và lo t chân vì giãn tĩnh mạch để làm vết thương mau bong vảy tổ chức hoại tử, cũng dùng dịch đậm đặc Albothyl theo cách nói trên. Trong các trường hợp này, nên tiếp tục điều trị với kem

Dùng trong niêm mạc miệng và lợi :

  • Sau khi chữa niêm mạc miệng và lợi với dịch đậm đặc Albothyl, cần súc miệng thật kỹ.

BẢO QUẢN

Viên trứng : Bảo quản ở nhiệt độ dưới 25oC.

ALBUTEIN 5% – 20% – 25%

Những lời khuyên về mặc trang phục đối với phụ nữ việt nam.

Mấy chục năm gần đây phụ nữ Việt Nam có xu hướng “Âu hoá” trong ăn mặc. Điều đó cũng dễ hiểu vì không những chỉ ở nước ta, mà nhiều nước Á Đông khác cũng vậy. Nhưng nói gì thì nói hiện nay chúng ta đang làm mất dần đi vốn mặc dân tộc đầy duyên dáng, độc đáo của xứ sở mình.

Gần đây, một nhà đạo diễn nữ Janet Gardner trong cuốn phim “Thế giới trong lòng địa đạo” đã nói rằng: Các bạn đang tiến Ịên con đường “rồng hoá” nhưng có điều các bạn cần hết sức chú ý, cần phải mọi cách giữ lấy bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam và nếu để mất nó thế giới sẽ nhanh chóng quên các bạn. Và chính mắt tôi đã trông thấy bà thường xuyên mặc chiếc áo cánh vải phin mỏng manh bà ba của miền Nam trong lúc đạo diễn cho bộ phim của bà. Nhìn lại các nước Á Châu trong đó có Trung Quốc, Triều Tiên, và đặc biệt là Nhật Bản hầu hết phụ nữ thường xuyên mặc các quần áo dân tộc trong lễ hội đã đành và trong cả ngày thường nữa mặc dù đời sống của họ đang ở mức rất cao so với ta. Vì vậy, các bạn hãy cùng tôi điểm lại các bộ đồ Việt Nam xem sao?

Hãy ăn mặc quần áo dân tộc Việt Nam

Tôi không khuyên các bạn ăn mặc giống như các cụ, các chị em ta ngày xưa mặc, mà có thể “biến thiên uyển chuyển” tuỳ theo sở thích của bạn.

  • Cái yếm, cái yếm đào, cái yếm trắng, cái yếm nâu màu sắc đủ kiểu. .. chính nó là cái áo nâng và che vú mà thôi nhưng nó lại rất độc đáo và “mốt” lại rất hợp vệ sinh. Tuy vậy, nó có nhược điểm là không nâng được vú lên, không mặc được áo hở cổ rộng vai.
  • Cái khăn mỏ quạ

Có lẽ chỉ có Việt Nam ta mới có cái khăn mỏ quạ, dù rằng ở các nước khác phụ nữ ai chẳng có cái khăn quàng đầu, quàng cổ nhưng khăn quàng đầu bẻ góc vuông như khăn mỏ quạ thì chưa ở đâu có. Nó vừa duyên vừa kín đáo lại vừa làm dáng vì có thể giắt lên mép khăn gấp một bông hoa hồng hay hoa nhài thơm mà tình tứ. Khi ra nắng che được nắng, khi lấm tấm mua thì che được đầu khỏi ướt còn khi cần quàng cổ cũng có thể quàng được.

  • Cái nón che mưa, che nắng, che duyên

Khỏi phải tranh cãi nữa khi mặc áo tứ thân, áo dài, áo bà ba mà không đội nón thì thật chẳng ra làm sao vì các loại áo đó đóng bộ với cái nón.

Nón Việt Nam cũng rất độc đáo và cũng nhiều thể loại, nhiều dạng, nhiều chất liệu.

Tuỳ bộ quần áo bạn mặc mà lựa chọn nón bài thơ đối với các thiếu nữ, thanh nữ. Nón quai thao rộng vành trắng với các bạn miền quan họ mặc áo tứ thân. Nón lá dừa, nón dầy và già cho các chị em nông thôn đi làm đồng ruộng. Nón bằng rộng vành cho các chị em dân tộc Mèo, Mán… và nón bằng nan mây cho các thiếu nữ, thanh nữ ở thành phố đội vừa mốt, vừa che nắng, che mưa. Với cái nắng cháy da vào mùa hè thì không gì mát mặt hơn cái nón và khi trời đổ mưa to thì cái nón có hiệu nghiệm hơn bất kỳ cái mũ nào. Còn khi không muốn cho đối phương nhìn mặt thì chỉ cần che nghiêng một chút thôi bạn đã có thể che khuất nhanh chóng khuôn mặt mình.

Hầu hết các bạn nam nữ nước ngoài đều rất muốn đội nón khi đến Việt Nam và muốn mua một chiếc về vừa làm kỷ niệm vừa là một quà tặng độc đáo cho vợ, cho mẹ hoặc em gái họ.

Vậy các bạn có định đổi nón lấy mũ không? Xin các bạn hãy suy nghĩ kỹ. Tuy vậy, nếu bạn đi xe máy thì xin bạn chớ có đội nón vì gió có thể lật nón che mặt làm bạn ngã đấy.

Bộ quần áo bà ba
Bộ quần áo bà ba
  • Bộ quần áo bà ba

Tôi đoán rằng không có bộ quần áo nào “tổng hợp đến thế” bạn chỉ cần cách điệu một chút: tay rộng, tay hẹp, sẻ 2 tà, 4 tà hay lua tua hoặc dài một chút, ngắn một chút, cổ quả tim hay cổ hơi tròn, thắt eo hay nở eo một chút là phù hợp với sở thích của bạn rồi. Chỉ có điều là không được may vải dầy mà càng mỏng càng đẹp càng dễ mê mẩn mọi người.

Có cái lạ và độc đáo nếu bạn cần thì có thể mặc áo bà ba trong tất cả mọi nơi mọi lúc kể cả trong lễ hội, họp hành đều chấp nhận được. Nói thật với các bạn nữ nhé ! Bọn con trai chúng tôi rất mê các bạn nữ mặc quần áo bà ba, trông vừa hấp dẫn, nhẹ nhàng, kín đáo, vừa duyên vô cùng, miễn là các bạn có thể mặc đủ màu sắc, thêu thùa, hoa kiểu….

Chúng tôi mà trông thấy các bạn nữ trẻ mặc áo cánh phin nõn trắng hoặc nâu mà vô tình để mưa rơi ướt vài hạt lên ngực thì nhiều anh luống cuống đấy các bạn ạ. Như anh bạn người Đức đã nói với tôi (Anh ấy là nhà phẫu thuật thẩm mỹ) rằng không hiểu sao với chiếc áo cánh Việt Nam thì có thể vừa vặn cho cả người béo, người gầy, người cao, người thấp, ai mặc vào đều rất dễ nhìn và vừa mắt mọi người.

Vậy các bạn hãy suy nghĩ xem có nên mặc hàng ngày bộ áo cánh đơn giản và vẫn đẹp không ?

Phụ nữ Việt Nam có làn da nói chung rất mịn cho nên quần áo vải phin là rất thích hợp để bảo vệ da khỏi xây xước. Mùa hè nóng nhiều bạn có thể mặc bộ áo cánh quần mỏng, thoáng mát thì dễ thông hơi mà lại rất hợp với cơ thể của bạn.

  • Chiếc áo dài tân kỳ hoặc tứ thân

Đây là chiếc áo đặc trưng riêng biệt của Việt Nam mà chẳng ai tranh cãi được. Tôi đã cố gắng dồn công sức để góp phần khôi phục và khuyến khích chị em cả nước lại mặc chiếc áo dài truyền thống này với đủ các kiểu cách điệu về chiều dài, vòng cổ, vòng tay, sẻ tà cao thấp, cổ kín, cổ hỏ, cổ cao, cổ thấp … Điều ấy không quan trọng, cái quan trọng nhất là cái dáng áo dài như các bạn đã thấy và đã mặc.Chiếc áo dài tân kỳ

Một thời “khó khăn” đã cho chiếc áo dài là cổ lỗ và người ta đã muốn cho nó vào bảo tàng vì “không Tây”, “không Tầu” như cách nghĩ của một thời không xa lắm của một số người.

Nhưng vì nó quá được khen và được ưa chuộng trên thế giới mỗi khi có đoàn phụ nữ Việt Nam với chiếc nón bài thơ trong các đoàn diễu hành liên hoan thế giới thì trong tôi ý thức dân tộc trỗi dậy và tôi đã quyết tâm đặt vấn đề với các nhà văn hoá để cuối cùng bộ tem áo dài của phụ nữ Việt Nam đã được ra đời dưới sự bảo trợ của Hội từ thiện Tấm lòng vàng Việt Nam và Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam cách đây đúng 5 năm. Sau đấy 2 năm Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã khuyến khích phong trào phụ nữ mặc áo dài khi làm việc ở công sở. Từ đấy hầu như tất cả chị em trong cả nước đã rộn ràng phấp phới tung bay tà áo dài duyên dáng, độc đáo và tế nhị, dịu dàng trên đất nước Việt Nam thanh lịch và tươi đẹp của chúng ta.

Các bạn nữ chúng ta có quyền tự hào về chiếc áo dài dân tộc của mình.

Về chiếc “quần jean”.

Sở dĩ tôi nói đến chiếc “quần jean” hay còn gọi là “quần bò” vì xuất xứ là chiếc quần của Anh, Mỹ mà những chàng trai chăn bò thường mặc vì nó được may bằng vải bông dày, thấm mồ hôi dễ, lâu rách và trườn trải bất kỳ bụi bò nào, dễ dàng hoạt động trên lưng ngựa cũng như chạy bộ.

Ngày nay, thanh niên nói chung rất ưa dùng “quần jean” vì nó thích hợp với đi du lịch, chơi thể thao, đua mô tô.

Có rất nhiều thể loại quần jean: dài, ngắn, thụng hoặc bó ống, bó mông hoặc rộng mông. Loại ngắn được thanh nữ, thiếu niên ưa thích như loại có rua tua gấu trông rất dẹp. Rất tiếc, có bạn không hiểu đúng thực dụng của chiếc “quần jean” này nên đã mặc nó cả trong lúc lễ hội, trong hội họp có tính chất trọng thể hoặc mặc ở nhà hàng ngày. Đó là một sai lầm cần tránh, nhất là cái “quần bò” của bạn không được giặt thường xuyên như thường thấy ở một số thanh niên. Ngoài ra, “quần jean” không thích hợp với các bạn có mông quá to cũng như ngược lại người gầy nhẳng mà mông thì lép.

“Quần jean” chỉ thích hợp với tuổi từ 15 đến 30 tuổi thôi tức là tuổi thanh nữ. Xin các bạn hãy chú ý “quần jean” chỉ dùng cho các hạn đi du lịch, chơi thể thao ở lứa tuổi thanh xuân.

Bộ quần áo ngủ, váy ngủ “phô” ở ngoài đường.

Một số bạn nữ kể cả già lẫn trẻ không hiểu tại sao lại nhầm lẫn đến mức chính bộ quần áo “hớ hênh” “lòng thòng” “thùng thình” ấy để mặc trong nhà hoặc đi ngủ cho thoáng mát mà các bạn lại mặc ra cả ngoài dưỡng phố thì rất không đẹp mắt chút nào. Nếu các bạn mặc như thế thì có lẽ các bạn “phớt đời” rồi và không nghĩ đến người khác khi họ nhìn vào bạn, thấy ngượng thay cho sự hố hênh đó.

Rất nhiều bạn nước ngoài lấy làm kinh ngạc khi thấy các bạn mặc bộ đồ “py gia ma” (bộ quần áo ngủ) và tiếp khách (tiếp họ hoặc khách lạ). Ở Phương Tây đó là điều cấm kỵ’. Nhưng nếu các bạn cả gan mặc ra ngoài đường thì họ càng “sợ” hơn. Đã đến lúc chúng ta phải có một luật quy định của các nhà văn hoá dân gian về cách ăn mặc trong lúc lễ hội, lễ nghi, lúc hội họp, lúc tiếp khách, lúc ra đường, lúc ở nơi công cộng, lúc tang lễ, lễ phục dân tộc… Điều ấy là phép xã giao ứng xử không thể thiếu được trong xã hội văn minh hiện nay mà ta đang phấn đấu. Ở xã hội Phương Tây và một số nước tiên tiến khác kể cả ở Việt Nam trong thời phong kiến cũng đã có quy định thành “luật pháp dân gian” từ lâu rồi.

Quần áo dùng mặc trong nhà bao giờ cũng phải đảm bảo trước hết là sạch sẽ, vệ sinh, thoáng rộng. Nếu ta đem nó đi ra đường thì trước hết thấm đẫm bụi bặm vào quần áo và vào trong cơ thể. Chỉ riêng điều đó cũng đã nhắc ta nhớ là không bao giờ được phép mặc ra đường, dù chỉ là một vài phút bộ đồ ngủ mặc trong nhà. Đó là điều tự tôn trọng chính mình và cho cả mọi người xung quanh.

Cấp cứu Cơn đau thắt ngực

Bệnh mạch vành là thể lâm sàng gây ra do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng cùng có chung một cơ chế sinh lý bệnh là sự mất cân bằng cung cầu oxy cho cơ tim.

I. ĐẠI CƯƠNG

1. Tiêu chuẩn chẩn đoán

1.1. Đặc điểm cơn đau thắt ngực qua hỏi bệnh sử

Bệnh sử cần khai thác 7 đặc điểm ở bệnh nhân có đau ngực: Vị trí : sau xương ức; Tính chất: đau thắt; Cường độ: nhẹ tới trung bình; Hướng lan: cổ, hàm dưới, vai và cánh tay; Thời gian: dưới 15 phút; Hoàn cảnh khởi phát và làm giảm đau: cơn xuất hiện khi có tăng nhu cầu tiêu thụ oxy giảm khi nghỉ và ngậm Risordan. Có thể kèm triệu chứng toàn thân. Nên phân độ theo Hội Tim mạch Canada (CCS).

1.2. khám lâm sàng

Thường không phát hiện bất thường ngoài cơn. Trong cơn đau có thể ghi nhận mặt tái, vã mồ hôi biến đổi mạch, huyết áp, tiếng T3, T4, âm thổi toàn tâm thu của hở van hai lá, ran ẩm hai đáy phổi. Dấu hiệu của xơ vữa động mạch ở các giường mạch khác.

1.3. xét nghiệm cận lâm sàng

_ ECG:ECG ngoài cơn bình thường trong 50% các trường hợp.

_ Xquanngthẳng:Thường bình thường và thường có ích trong việc chẩn đoán các nguyên nhân đau ngực ngoài tim.

_ ECgnsc:Là xét nghiệm thường được dùng nhất để làm bằng chứng khách quan cho tình trạng thiếu máu cục bộ ở tim và tiên lượng cho những bệnh nhân đã có chẩn đoán.

_ Siêâtim:Đánh giá chức năng tâm trương và tâm thu thất trái, phát hiện các rối loạn vận động vùng giúp xác định bệnh lý mạch vành mạn. Mức độ lan toả và độ nặng của các rối loạn vận động vùng cũng như chức năng tổng quát giúp chọn lựa biện pháp điều trị thích hợp

_ Xạ hìntim:Những bệnh nhân cần làm xét nghiệm này là các bệnh nhân: Block nhánh trái, đang đặt máy tạo nhịp hoặc có hội chứng kích thích sớm, ST trên ECG lúc nghỉ chênh xuống > 1mm, bao gồm những bệnh nhân có phì đại thất trái hoặc dùng thuốc như Digital. Những bệnh nhân không thể gắng sức tới mức đủ để có ý nghĩa trên ECG gắng sức.

ChụmạcvàncquangLà “ tiêu chuẩn vàng” Để chẩn đoán bệnh lý mạch vành. Có thể chuyển bệnh nhân đau ngực chụp mạch vành.

2. Chẩn đoán nguyên nhân

_  Các nguyên nhân tại tim có thể là: Xơ vữa động mạch; Bệnh lý van động mạch chủ; Bệnh cơ tim phì đại; Co thắt mạch vành; Viêm mạch vành; Huyết thuyên tắt mạch vành…

_  Các nguyên nhân ngoài tim: Thiếu máu nặng; Nhịp nhanh; Sốt; Cường giáp…

3. Chẩn đoán phân biệt

Thường rõ ràng nếu hỏi bệnh sử và thăm khám bệnh nhân thật kỹ. Trong một số trường hợp cần chẩn đoán phân biệt đau ngực do nguyên nhân do tim và ngoài tim khác.

III. ĐIỀU TRỊ

1. Nguyên tắc và mục tiêu điều trị

1.1. nguyên tắc: điều trị nguyên nhân (nếu có), tăng tưới máu cơ tim và giảm nhu cầu oxy.

1.2 mục tiêuDự phòng NMCT và tử vong và giảm cường độ và tần suất của cơn đau thắt ngực.

2. Điều trị cụ thể

2.1. điều trị các bệnh lý hay tình trạng lạm nặng thiếu máu cơ tim cục bộ

2.2. giảm yếu tố nguy cơ mạch vành và điều trị phòng ngừa thứ phát

Ngưng thuốc lá, kiểm soát huyết áp và đường huyết, giữ cân nặng lý tưởng, chế độ ăn ít chất béo, ít cholesterol, kiểm tra trị số lipid máu của bệnh nhân, phân tầng nguy cơ bằng các trắc nghiệm không xâm lấn và xâm lấn.

Bảng 1:Khuyến cáo chụp mạch vành để phân lớp nguy cơ ở bệnh nhân cơn đau thắt ngực ổn định của AHA/ACC theo nhóm (I, II) và mức chứng cứ(A, B và C)

Nhóm I

1. Bệnh nhân có CĐTNOĐ CCS 3-4 dù đang điều trị nội khoa(B) 2.Bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ cao khi thăm dò không xâm lấn(B)

3.  Bệnh nhân có CĐTN sống sót sau đột tử hoặc loạn nhịp thất nặng(B)

4.  Bệnh nhân có CĐTN với triệu chứng cơ năng và thực thể của Suy tim(C)

5.  Bệnh nhân có đặc điểm lâm sàng gợi ý bệnh mạch vành nặng (C).

Nhóm II a

1.Bệnh nhân có RLCN thất trái(EF< 45%),CĐTN CCS I HOẶC II,Có biểu hiện của thiếu máu cục bộ trên xét nghiệm không xâm lấn(C),nhưng nguy cơ không Cao ( C).

2.Bệnh nhân chưa có đầy đủ thông tin về dự hậu trên các xét nghiệm không xâm lấn( C ).

3.Bệnh nhân nguy cơ cao qua các trắc nghiệp không xâm lấn( C ). Nhóm    1. CĐTN CCS I và II chức năng thất trái còn bảo tồn( EF> 45% )

IIb   Và kết quả xét nghiệm không xâm lấn không thuộc nhóm nguy cơ cao( C).

2.CĐTN CCS III hoặc IV đáp ứng với điều trị nội và còn CCS I hoặc II ( C ). 3.CĐTN CCS I hoặc II Không dung nạp với điều trị nội đầy đủ ( C)

2.3. Điều trị đau thắt ngực

Bng 2:Hưndẫsử dụnthutronđathngđnthenhó(I, I)  và mức chứng cứ (A,B và C) theo ACC/AHA

Nhóm Chỉ định
I Aspirin khi không chống chỉ định (CCĐ) (A)
Ức chế beta là thuốc đầu tay nếu không có CCĐ (A, B)

Ức chế men chuyển cho các bệnh nhân có bệnh mach vành có kèm theo đái tháo đường và hoặc rối loạn chức năng tâm thu thát trái .(A)

Thuốc hạ LDL cholesterrol sử dụng cho các bệnh nhân có hoặc nghi ngờ có bệnh mạch vành và có LDL-C > 130mg/dL, mục tiêu điều trị là LDL < 100mg/Dl. (A)
Nitroglycerin hay nitroglycerin xịt để giảm nhanh cơn đau thắt ngực (B)
Sử dụng kết hợp thuốc ức chế canxi hay nitrate tác dụng kéo dài để giảm triệu chứng khi có chống chỉ định với thuốc ức chế beta. (B)
Sử dụng kết hợp thuốc ức chế canxi hay nitrate tác dụng kéo dài với ức chế beta khi sử dụng ban đầu bằng ức chế beta không thành công
Sử dụng kết hợp thuốc ức chế canxi hay nitrate tác dụng kéo dài với ức chế beta khi sử dụng ban đầu bằng ức chế beta có tác dụng phụ đáng kể. (C)
IIa Clopidogrel khi aspirin có chống chỉ định tuyệt đối. (B)
Thuốc ức chế canxi nondihydropyridine tác dụng dài thay thế ức chế beta ngay từ đầu. (B)
Bệnh nhân có hoặc nghi ngờ có hoặc nghi gờ có bệnh mạch vành và có LDL-C 100 _129mg/dL, có các cách điều trị:

Thay đổi lối sống và hoặc sử dụng thuốc để đạt LDL < 100mg/dL; giảm xuống <70mg/dL là mục tiêu kế tiếp.

Giảm cân và tăng hoạt động thể lực ở những bệnh nhân có hội chứng chuyển hóa

Điều trị các rối loạn lipid máu khác; xem xét sử dụng nicotinic acid hay fibric acid đối với tăng triglyceride hay giảm HDL cholesterol. (B)

Dùng thuốc ức chế men chuyển ở bệnh nhân đã xác định bệnh mạch vành hay các bệnh mạch máu khác. (B)

2.4. Tái lập mạch (Revascularization)

Bảng 3: Hướng dẫn tái thông mạch qua da (PCI) hay bắc cầu chủ vành (CABG) theo nhóm (I, II) và mức chứng cứ (A,B và C) theo ACC/AHA

Nhóm Chỉ định
I CABG cho bệnh nhân hẹp nặng thân chính trái. (A)
CABG cho bệnh nhân bệnh 3 nhánh đặc biệt EF < 0,5 (A)
CABG cho bệnh nhân bệnh 2 nhánh mạch vành trong đó có hẹp nặng đoạn gần động mạch liên thất trước và có chức năng thất trái giảm(< 50%) hay thiếu máu cơ tim trên các trắc nghiệm không xâm lấn. (A)
PCI cho các bệnh nhân không có đái tháo đường có bệnh 2 hoặc 3 nhánh mạch vành có kèm hẹp nặng động mạch liên thất trước đoạn gần với giải phẫu học thích hợp cho can thiệp qua da và chức năng tâm thu thát trái bình thường. (B)
PCI hay CABG cho bệnh nhân bệnh 1 hoặc 2 nhánh mạch vành và không có hẹp đoạn gần liên thất trước nhưng có vùng cơ tim thiếu máu diện rộng và nguy cơ cao trên các trac nghiệm không xâm lấn. (B)
CABG cho bệnh nhân sống sót sau ngưng tim hay nhịp nhanh thất ngắn có bệnh 1 hoặc 2 nhánh mạch vành và không có hẹp đoạn gần liên thất trước. (C)
PCI hay CABG cho bệnh nhân bị tái hẹp ở vị trí can thiệp cũ có vùng cơ tim thiếu máu lớn hay nguy cơ cao qua các trắc nghiệm không xâm lấn
PCI hay CABG cho bệnh nhân thất bại điều trị nội khoa và tái thông mạch với nguy cơ chấp nhận được. (B)
IIa Tái CABG cho các bệnh nhân hẹp cầu nối tĩnh mạch đặc biệt hẹp cầu nối nhánh liên thất trước. PCI có thể can thiệp tổn thuong hẹp cầu tĩnh mạch khu trú ở các bệnh nhân không thích hợp cho bắc cầu lại. (C)
PCI hay CABG cho các bệnh nhân hẹp 1 hay 2 nhánh mạch vành và không hẹp có nghĩa động mạch liên thất trước và vùng thiếu máu trung bình qua trắc nghiệm không xâm lấn. (B)

2.5 Điều trị hỗ trợ:

Tùy theo từng bệnh nhân và tùy bệnh kết hợp.

Cơn kinh hoàng (rối loạn kinh hoàng, cơn hoảng sợ cấp tính)

Tên khác: rối loạn kinh hoàng, cơn hoảng sợ cấp tính, suy nhược thần kinh-tuần hoàn (Oppenheimer), tim người lính dễ bị kích thích (Da Costa), loạn trương lực thần kinh thực vật (Wood), loạn thần kinh tim (Pickering), hội chứng gắng sức (Lewis), hội chứng Da Costa.

Định nghĩa

Những cơn hoảng sợ bị đi bị lại, với đặc điểm là bệnh nhân sợ hãi, đôi khi kinh hoàng dữ dội sợ bị một tai hoạ, hoặc bị chết đột ngột, làm cho tim đập nhanh, chóng mặt, toát mồ hôi, khó thở, mệt, run, đau và khó chịu trong lồng ngực.

Căn nguyên

Trong mô tả gốc của Da Costa, thì nguyên nhân được cho là do mất cân bằng của hệ thống thần kinh thực vật. Một số tác giả cho rằng đây là một thể chính của loạn thần kinh hoảng sợ (xem hội chứng này).

Triệu chứng

Bệnh gặp chủ yếu ở những đối tượng trẻ từ 20 đến 30 tuổi, phụ nữ mắc bệnh nhiều hơn nam giới.

CƠN KINH HOÀNG: là những cơn hoảng sợ rất giới hạn (trong vài phút tới một giờ), và bất ngờ, hoặc những cơn khó chịu dữ dội kết hợp với những triệu chứng đặc biệt sau đây:

  • Hồi hộp, nhịp tim nhanh.
  • Choáng váng, chóng mặt, cảm giác ngồi đứng không vững hoặc cảm tưởng như sắp bị bất tỉnh.
  • Cảm giác bị nghẹt thở, khó thở, tăng thông khí (xem từ này).
  • Toát mồ hôi, cơn nóng ran hoặc rét run.
  • Cảm giác sợ không tự kiểm soát được mình hoặc sắp chết.
  • Cảm giác giải thể nhân cách
  • Đau hoặc khó chịu trong lồng ngực.
  • Run, co giật cơ.

ĐÔI KHI CÓ CÁC RỐI LOẠN PHỐI HỢP KHÁC

  • Chứng sợ khoảng rộng: đối tượng sợ thấy mình ở trong một khoảng không gian rộng mở hoặc ở những nơi công cộng. Nỗi sợ này làm hạn chế bệnh nhân thay đổi chỗ, hoặc giảm nhu cầu đi kèm người khác ra khỏi nhà.
  • Các triệu chứng trầm cảm.
  • Xu hướng tự sát.
  • Sa van hai lá ở
  • Tăng năng tuyến giáp.

Chẩn đoán phân biệt

Với những bệnh tim mạch, u tế bào ưa crôm, động kinh cục bộ, giảm đường huyết, hiệu quả kích thích hệ thần kinh trung ương của thuốc (amphetamin, cocain, cafein, các thuốc co mạch), hội chứng cai nghiện (rượu, thuốc ngủ, dẫn xuất của thuốc phiện, benzodiazepin).

Điều trị

Có nhiều nhóm thuốc đã được đề nghị, nhất là fluvoxamin hoặc fluoxetin, alprazolam hoặc clonazepam, những thuốc chống trầm cảm ba nhân vòng hoặc IMAO (thuốc ức chế men mono-amino- oxydase). Tâm lý liệu pháp đôi khi cũng có ích.