Blog Trang 501

Cách chữa Thiếu sữa sau sinh bằng các loại trà

Thiếu sữa sau khi sinh là để chỉ hiện tượng sản phụ sau khi sinh do kích thích đầu vú không đủ hay vì một lý do nào đó mà lượng sữa tiết ra không đủ để nuôi dưỡng em bé. Bệnh này nếu không xử lý kịp thời sẽ ảnh hưởng đến dinh dưỡng cho em bé. Đây là cách gọi tên bệnh theo Tây y. Đông y gọi bệnh này là “tắc sữa” hoặc “thiếu sữa”. Nguyên nhân gây bệnh, thứ nhất là do khí huyết hư nhược, nguồn sữa không tốt, thứ hai là do gan.

Những điều cần ghi nhớ về dưỡng sinh

Các vị thuốc Đông y như nhân sâm, đương quy, a giao v.v… đều có tác dụng tạo máu dần dần. Nếu cho những vị thuốc trên vào pha uống cùng trà sẽ có thể điều trị giảm bớt chứng sau khi sinh bị thiếu sữa.

Các loại trà nên sử dụng

  • Trà hạch đào

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Lấy 5-15 cái nhân hạch đào; 1,5 -1 gam trà xanh, 25 gam đường trắng. Đem ngâm tất cả các nguyên liệu trên cùng nhau, rồi đun sôi lên khoảng 5 phút, khuấy đều là được. Mỗi ngày làm 1 lần, chia làm 2 lần để uống.

Công dụng chữa trị: Bổ thận, ích phổi, cầm ho.

Chú ý: Món trà trên dùng để điều trị chứng cơ bắp đau nhức, hư nhược, thở dốc, sau khi sinh chân tay yếu đuối, bệnh viêm phế quản mãn tính.

Vị thuốc Hoàng kỳ
Vị thuốc Hoàng kỳ
  • Trà bổ sữa

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Lấy 30 gam hoàng kỳ tươi, 15 gam đương quy, 12 gam tri mẫu, 12 gam huyền sâm, 6 gam xuyên sơn giáp sấy khô, 3 cái lộ lộ thông loại to, khô; 12 gam semen vaccariae. Tất cả các loại nguyên liệu trên nấu cùng với mướp.

Công dụng chữa trị: Bổ khí huyết, thông tắc sữa.

Chú ý: Món này thích hợp với những phụ nữ sau khi sinh khí huyết kém, tắc kinh lạc, thiếu sữa.

  • Trà thông tuyến sữa

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 9 gam semen vaccariae sấy khô, 9 gam xuyên sơn giáp sấy khô, bột thiên hoa; 4,5 gam thân đương quy; mộc thông, cam thảo mỗi thứ 9 gam. Cho tất cả các nguyên liệu trên vào nồi cùng một cái chân giò nấu nhừ lên, cho 750 ml nước, đun lấy 250 ml nước thuốc là được, chia làm 2 lần uống khi đói.

Công dụng chữa trị: Lợi sữa.

Chú ý: Món trên dùng để trị bệnh phụ nữ sau khi sinh mất sữa.

  • Trà lợi sữa

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Hoàng kỳ, thục địa mỗi thứ 24 gam; 15 gam đương quy; xuyên khung, cẩu tử, thông thảo, semen vaccariae mỗi thứ 6 gam, lá trà đủ dùng. Cho vào nấu cùng với chân giò lợn.

Công dụng chữa trị: ích khí dưỡng huyết, thông lợi sữa.

Chú ý: Món trên thích hợp với phụ nữ khí huyết hư nhược, thiếu sữa.

Vị thuốc Đương quy
Vị thuốc Đương quy

Những điều cần ghi nhớ

Để đề phòng sau khi sinh thiếu sữa, cần chú ý mấy điều sau đây:

  • Khẩu vị ăn không nên quá nhạt. Nhiều phụ nữ trong khi mang thai không ăn rau, chỉ ăn cơm và trứng, ăn quá nhạt, khiến mất cân bằng dinh dưỡng. Thực ra, phụ nữ có thai hàng ngày cần ăn uống đầy đủ lượng vitamin và vi sinh tố, cần ăn nhiều loại thực phẩm có chứa nhiều hàm lượng vi chất sắt, đồng, kẽm, iốt, magiê, phốt pho, mangan v.v…
  • Phụ nữ có thai không nên ăn kiêng. Thực ra, sau khi sinh cần ăn uống thực phẩm có đầy đủ chất dinh dưỡng, đa dạng, chỉ ăn một hoặc hai loại thức ăn không những không đáp ứng đầy đủ nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể, mà còn không có lợi cho việc tiết sữa.
  • Sau khi sinh nên thường xuyên ăn canh gà, canh xương, canh chân giò và canh cá sẽ có lợi cho việc tiết sữa, nhưng đồng thời cũng cần an nhiều thịt, vì chất dinh dưỡng có trong thịt nhiều hơn chất dinh dưỡng trong canh rất nhiều.
  • Không nên ăn quá nhiều trứng gà. Từ góc độ hấp thụ chất dinh dưỡng của cơ thể mà nói, sản phụ mỗi ngày chỉ ăn hai đến ba quả trứng, nếu ăn quá nhiều sẽ không tốt cho tiêu hoá.

Chẩn đoán và điều trị các triệu chứng ngoài thực quản ở bệnh nhân cao tuổi bị bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Các triệu chứng ngoài thực quản của Bệnh trào ngược dạ dày thực quản bao gồm hen suyễn, ho mạn tính, viêm họng mạn tính, v.v. Bệnh trào ngược dạ dày thực quản phổ biến ở bệnh nhân hen suyễn, với 34% đến 89% bệnh nhân mắc Bệnh trào ngược dạ dày thực quản. Bệnh trào ngược dạ dày thực quản được coi là một yếu tố kích thích tiềm ẩn cho hen suyễn. Trào ngược họng đề cập đến hiện tượng trào ngược dịch dạ dày vào họng, dẫn đến các triệu chứng liên quan đến họng. Một phần lớn các triệu chứng như viêm họng mạn tính, ho mạn tính, khản tiếng, ho khan, thanh lọc họng, cảm giác nghẹn (globus hystericus), và khó nuốt nhẹ có thể do trào ngược họng gây ra. Tuy nhiên, các triệu chứng họng liên quan đến Bệnh trào ngược dạ dày thực quản không đặc hiệu, và cần phải loại trừ các yếu tố không phải trào ngược trước khi chẩn đoán các bệnh liên quan đến trào ngược. Chuyên gia tương ứng có thể đánh giá xem có tồn tại các bệnh khác như bệnh về họng hoặc phổi hay không. Các cơ chế mà Bệnh trào ngược dạ dày thực quản gây ra các triệu chứng ngoài thực quản bao gồm kích thích trực tiếp mô thanh quản và họng bởi nội dung dạ dày trào ngược, phản xạ phế vị được kích thích, sự nhạy cảm của đường thở do trào ngược gây ra, và sự hít phải vi mô các nội dung dạ dày vào đường thở trên.

Nhiều thử nghiệm lâm sàng đã cho thấy điều trị bằng thuốc ức chế bơm proton (PPI) có thể cải thiện triệu chứng hen suyễn và triệu chứng trào ngược họng ở những bệnh nhân có triệu chứng trào ngược điển hình. Tuy nhiên, đối với những bệnh nhân không có triệu chứng trào ngược điển hình, điều trị bằng PPI không cải thiện kết quả hen suyễn và triệu chứng trào ngược họng. Tính hiệu quả của liệu pháp ức chế axit đối với các triệu chứng ngoài thực quản liên quan đến Bệnh trào ngược dạ dày thực quản vẫn còn gây tranh cãi.

Trong dân số người cao tuổi, hiện tại vẫn thiếu các nghiên cứu lâm sàng quy mô lớn về điều trị cho bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản cao tuổi có triệu chứng ngoài thực quản. Kết quả từ các nghiên cứu quy mô nhỏ đã cho thấy PPIs có hiệu quả trong điều trị cho bệnh nhân cao tuổi có triệu chứng trào ngược thanh quản-họng. Một nghiên cứu đa trung tâm triển khai trên 264 bệnh nhân có triệu chứng trào ngược thanh quản-họng cho thấy các nhóm tuổi khác nhau có sự cải thiện đáng kể cả về triệu chứng trào ngược và triệu chứng trào ngược thanh quản-họng sau khi điều trị bằng lansoprazole, và không có sự khác biệt đáng kể về mức độ cải thiện giữa người cao tuổi và người trẻ tuổi. Một nghiên cứu lâm sàng ở Trung Quốc với 66 bệnh nhân Bệnh trào ngược dạ dày thực quản có triệu chứng ngoài thực quản (bao gồm ho, viêm họng và hen suyễn) đã được điều trị bằng esomeprazole trong 8 tuần. Kết quả nghiên cứu cho thấy cả bệnh nhân cao tuổi và trẻ tuổi đều có sự cải thiện đáng kể về thời gian tiếp xúc với axit và triệu chứng qua nội soi sau điều trị, và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm, cho thấy PPI có hiệu quả điều trị tốt hơn đối với bệnh nhân cao tuổi có viêm thực quản trào ngược và triệu chứng ngoài thực quản, và không có sự khác biệt đáng kể so với bệnh nhân trẻ tuổi. Do đó, đối với những bệnh nhân cao tuổi có triệu chứng trào ngược điển hình như hen suyễn, ho mạn tính và viêm họng mạn tính, PPI có thể được xem xét cho điều trị chẩn đoán.

Ý kiến đồng thuận 20: Bệnh trào ngược dạ dày thực quản có thể là nguyên nhân của hen suyễn, ho mạn tính và viêm họng mạn tính (các mức độ khuyến nghị: A+, 50%; A, 45%; A−, 2%. Mức độ bằng chứng: Chất lượng trung bình).

Ý kiến đồng thuận 21: Đối với bệnh nhân cao tuổi bị hen suyễn, ho mạn tính và viêm họng mạn tính nghi ngờ mắc trào ngược dạ dày-thực quản, có thể xem xét PPI cho điều trị chẩn đoán (các mức độ khuyến nghị: A+, 52%; A, 39%; A−, 9%. Mức độ bằng chứng: Chất lượng thấp).

Khám Dây thần kinh khứu giác (dây I)

Nhắc lại giải phẫu – chức năng

Neuron khứu giác thứ nhất nằm ở phần niêm mạc mũi, từ đây có khoảng trên 20 sợi thần kinh đi qua các lỗ của mảnh sàng xương bướm (lamina cribrosa ossis ethmoidalis) tới hành khứu (bulbi olíactorii). Neuron thứ hai bắt đầu ả hành khứu, các sợi của chúng tạo thành dải khứu (tractus oltactorius) đi tới trung tâm khứu giác bậc 1 (trigonum oltactorii) nằm ở vách trong suốt (septum pellicidum), sau đó đi tới trung tâm khứu giác vỏ não ở thuỳ thái dương cả hai bên (gyrus hypocampi), cơ bản ở hồi móc (uncus). Chức năng của dây I là ngửi, nhận biết mùi.

Khám dây I

– Dụng cụ khám: các chất có mùi khác nhau như nước hoa, cà phê, dầu gió, thuốc lá… được đựng trong ống nghiệm; không nên dùng các chất có mùi hắc, gắt như amoniac hoặc dấm thanh…

Khám Dây thần kinh khứu giác

  • Tư thế bệnh nhân: bệnh nhân ở tư thế ngồi hoặc nằm thoải mái, nhắm cả 2 mắt, khám từng bên mũi một.
  • Thao tác khám:

+ Thầy thuốc bịt từng bên mũi bệnh nhân.

+ Đưa ống nghiệm đựng chất có mùi từ xa vào lỗ mũi còn lại. Yêu cầu bệnh nhân khi nào ngửi thấy mùi thì nói là có.

+ Cách đánh giá kết quả khám theo ba yếu tố: một là khoảng cách nhận biết mùi (khoảng cách từ ống nghiệm tới mũi bệnh nhân khi bệnh nhân nhận biết được mùi); thứ hai là sự nhận biết mùi của bệnh nhân có đúng không (thầy thuốc hỏi bệnh nhân đó là chât gì); thứ ba là yêu cầu bệnh nhân so sánh khả năng nhận biết mùi của hai bên mũi.

  • Đánh giá kết quả:

+ Bình thường: bệnh nhân nhận biết được chính xác mùi cùa chất cần nhận biết.

+ Triệu chứng học dây I:

. Giảm khứu (hyposmie) hoặc mất khứu giác (anosmie): nguyên nhân thường gặp là u, viêm mũi gây tổn thương neuron thứ nhất; tổn thương dải khứu do viêm màng não, u hô sọ trước, chấn thương gây vỡ nền sọ trước, u thần kinh đệm hoặc u màng não của dây khứu giác, u tuyến yên hoặc rối loạn phân ly…

. Ảo khứu (olfactive hallucination): thường bệnh nhân cảm nhận được các mùi rất khó chịu (hôi, hắc…); thường gặp ảo khứu trong các cơn động kinh thái dương, u thuỳ trán hoặc u thuỳ thái dương.

Cần lưu ý rằng nhận thức khứu giác và nhận thức vị giác có liên quan chặt chẽ với nhau. Mất vị giác (ageusie) có thể làm cho bệnh nhân có cảm giác như mất khứu kèm theo và ngược lại.

Bệnh Ưa Chảy Máu – Triệu chứng, chẩn đoán, điều trị

Định nghĩa

Bệnh di truyền kiểu lặn, liên kết giới tính, do mẹ truyền cho con trai, với đặc điểm là thiếu các yếu tố kháng ưa chảy máu A và B dẫn tới những tai biến chảy máu kéo dài, tự phát, hoặc xảy ra sau những chấn thương rất nhẹ.

Căn nguyên

BỆNH ƯA CHẢY MÁU A HOĂC BỆNH ƯA CHẢY MÁU KINH ĐIÊN (trong số 5.000 tới 10.000 trẻ em trai ra đời thì có 1 trường hợp bị bệnh này): bệnh xảy ra do thiếu yếu tố VIII, còn gọi là yếu tố kháng ưa chảy máu A, yếu tố này là thiết yếu trong quá trình tạo thromboplastin.

BỆNH ƯA CHẢY MÁU B HOẶC BỆNH CHRISTMAS (trong số 25.000 tới 50.000 trẻ trai ra đòi thì có 1 trường hợp bị bệnh này): bệnh xảy ra do thiếu yếu tố IX. cần phải phân biệt bệnh này với bệnh ưa chảy máu A vì biện pháp điều trị hai bệnh khác nhau.

Gen chi phối những yếu tố VIII và IX nằm trên nhiễm sắc thể X, bệnh ưa chảy máu chỉ biểu hiện ở nam giới. Ngoài ra:

  1. Bệnh bao giờ cũng được di- truyền từ người mẹ dị hợp tử mang gen bất thường (gọi là người lành mang gen bệnh).
  2. Người mẹ lành mang gen bệnh di truyền bệnh cho một nửa số con trai của mình, trong khi không con gái nào bị mắc bệnh, nhưng một nửa số con gái này lại là người lành mang gen bệnh.
  3. Những nam giới bị bệnh ưa chảy máu không di truyền bệnh, cho con trai của mình.

Trong 30% các trường hợp người ta không tìm thấy tiền sử bệnh trong gia đình (khả năng biến dị).

Triệu chứng

Bệnh ưa chảy máu biểu hiện chủ yếu bởi đặc điểm bệnh nhân bị chảy máu ngay cả khi bị những chấn thương cực kỳ nhẹ. Mức độ chảy máu lại không tương xứng với chấn thương gây ra. Trong những thể nhẹ, xu hướng chảy máu có thể chỉ được phát hiện nhân một can thiệp ngoại khoa, kể cả những can thiệp nhỏ (nhổ răng, cắt amiđan). Những dấu hiệu lâm sàng phụ thuộc vào mức độ thiếu hụt các yếu tố. Diễn biến của bệnh thường cách quãng bởi những thời kỳ thuyên giảm.

  1. Chảy máu trong cơ: tiếp theo bởi hình thành khối máu tụ, ví dụ tụ máu trong cơ thắt lưng (cơ đái), thể hiện bởi triệu chứng đau lan qua đùi xuống tới khớp gối, và bởi một khối u mềm trong hố chậu.
  2. Chảy máu trong khớp (tràn máu khớp): hay xảy ra khi bệnh nhi ở tuổi từ 5 đến 10 tuổi, và hay xảy ra nhất ở những khớp lớn (khớp gối, khớp khuỷ, khớp cổ chân, khớp vai). Tai biến này có thể để lại di chứng hạn chế vận động và bệnh khớp tàn phế.
  3. Chảy máu dưới da, dưới niêm mạc (ví dụ khi tiêm thuốc gây tê để nhổ răng).
  4. Những vị trí chảy máu khác: đái máu, chảy máu đường ruột (nhất là ở trẻ còn bú), chảy máu sau phúc mạc (đôi khi nguy kịch), ho ra máu (khái huyết).

Xét nghiệm cận lâm sàng

  1. Thời gian cephalin hoạt hoá (thời gian cephalin-kaolin): bao giờ cũng bị kéo dài ít nhiều. Test này nhạy hơn test thời gian máu đông: với những thể bệnh vừa phải, thời gian máu đông kinh điển có thể vẫn bình thường, nhưng thời gian cephalin hoạt hoá thì bao giờ cũng kéo dài.
  2. Thời gian máu đông:test kinh điển này kém nhạy, và cần phải bỏ vì test có thể vẫn bình thường trong bệnh ưa chảy máu thể trung bình (nặng vừa phải). Tuy nhiên, thời gian này bao giồ cũng kéo dài trong những thể nặng.
  3. Các yếu tố đông máu: trong bệnh ưa chảy máu A thì yếu tố VIII giảm, trong bệnh ưa chảy máu B thì yếu tố IX giảm. Mức độ trầm trọng của bệnh phụ thuộc vào mức giảm các yếu tố này: khi hàm lượng ở dưới mức 2% của giá trị bình thường thì sẽ gây ra chảy máu nặng (thể nặng), nếu hàm lượng nằm giữa 2-5% thì được coi là thể vừa phải (trung bình), và nếu hàm lượng nằm giữa 10 và 30% thì được cho là thể nhẹ.
  4. Những test sau đây đều bình thường: thời gian chảy máu (trừ trường hợp bệnh nhân dùng aspirin), thời gian prothrombin (thời gian Quick), lực kháng mao mạch, hàm lượng fibrinogen, và số lượng tiểu cầu.
  5. Tìm kháng thể kháng yếu tố VIII hoặc kháng yếu tố IX, những kháng thể này có thể xuất hiện sau khi truyền máu cho bệnh nhân.
  6. Chẩn đoán trước sinh: có thể thực hiện được nhờ kỹ thuật gọi là phản ứng chuỗi Polymerase (“Polymerase Chain Reaction”- PCR), là kỹ thuật cho phép phân tích ADN của gen mã hoá yếu tố VIII trong những tế bào của lá nuôi lấy được bằng thủ thuật chọc màng ối bắt đầu từ tuần thứ 10 sau khi thụ thai.

Chẩn đoán máu của phôi thai thực hiện được bắt đầu từ tuần thứ 18 bằng cách định lượng những yếu tố đông máu.

Chẩn đoán căn cứ vào

  1. Xu hướng bị chảy máu sau những chấn thương cực kỳ nhẹ ở bệnh nhân nam (thường là trẻ trai). Hỏi tiền sử gia đình có người bị bệnh.
  2. Máu tụ (dưới da, niêm mạc) hoặc tràn máu khớp bị đi bị lại.
  3. Thời gian cephalin hoạt hoá kéo dài, thời gian Quick bình thường.

Biến chứng

Chảy máu trong khớp tái phát nhiều lần có thể dẫn tới di chứng khớp. Tụ máu trong cơ thắt lưng có thể giống với viêm ruột thừa cấp tính. Nếu máu tụ hình thành ở quanh các dây thần kinh lớn thì sẽ gây đau và những rối loạn về cảm giác và vận động. Kể từ năm 1985 tai biến lây truyền virus viêm gan B hoặc HIV do truyền những sản phẩm của máu trong thực tế đã không còn nữa, tuy nhiên, vẫn nên yêu cầu bệnh nhân tiêm phòng vaccin chống virus viêm gan A và B.

Tiên lượng

Chảy máu tự nhiên ít khi nguy hiểm. Ngược lại, chấn thương có thể gây ra chảy máu trong (xuất huyết nội) nguy kịch.

Điều trị

Trong trường hợp bị chảy máu, cho các yếu tố VIII và IX tuỳ theo bệnh nhân mắc bệnh ưa chảy máu thuộc typ A hoặc B. Kiểm soát

liều lượng dựa vào định lượng yếu tố bị thiếu trong quá trình điều trị thay thế. Thời gian bán huỷ của yếu tố VIII là 12 giờ, của yếu tố IX là 24 giờ.

ĐIỀU TRỊ THAY THẾ (bằng tiêm tĩnh mạch):

  1. Bệnh ưa chảy máu typ A: yếu tố VIII người tái tổ hợp hoặc lấy từ huyết tương (THP hoặc có độ tinh khiết rất cao).
  2. Bệnh ưa chảy máu typ B: yếu tố IX tách từ huyết tương. So với phân đoạn P.P.S.B, thì yếu tố IX đậm đặc có ưu điểm là bổ sung lại được yếu tố bị thiếu này với một thể tích nhỏ.
  3. Nếu có kháng thể ức chế trong máu: sau khi đã thực hiện liệu pháp thay thế mà vẫn không điều chỉnh lại được tình trạng thiếu các yếu tố VIII và IX và không làm ngừng chảy máu, thì phải nghĩ tới khả năng có các kháng thể kháng các yếu tố này xuất hiện trong máu bệnh nhân. Trên thực tế những kháng thể này xuất hiện trong máu của từ 5-10% số bệnh nhân ưa chảy máu. Điều trị: cho yếu tố VII hoạt hoá để tạo thrombin trong cả hai bệnh ưa chảy máu A và B. Yếu tố VII hoạt hoá có hiệu quả trong điều trị những trường hợp chảy máu nặng vừa phải; nếu vẫn không thành công thì có thể chỉ định thay huyết tương.
  4. Desmopressin: là một chất tổng hợp, dẫn xuất của hormon chống đái tháo, tác động bằng cách động viên yếu tố VIII từ những vị trí lưu trữ vào huyết tương, nên có tác dụng trong bệnh ưa chảy máu A nặng trung bình (khi hàm lượng yếu tố này cao hơn 5%).
  5. Truyền máu tươi:được chỉ định nhằm kiểm soát tình trạng thiếu máu.
  6. Truyền huyết tương tươi (có chứa những yếu tố VIII và IX): hoặc huyết tương lưu trữ (có chứa yếu tố IX): có điều không thuận lợi là dễ làm cho tuần hoàn bị quá tải khi phải truyền nhiều lần.

ĐIỀU TRỊ CHẢY MÁU: trong trường hợp chảy máu nhẹ, cho bổ sung yếu tố bị thiếu để đạt tối hàm lượng bằng 50% của hàm lượng bình thường. Trong trường hợp chảy máu đường ruột hoặc chảy máu sau phúc mạc, thì phải truyền bổ sung để yếu tố bị thiếu đạt ít nhất tới 75% hàm lượng bình thường. Nếu cần phải can thiệp ngoại khoa thì cũng phải đảm bảo yếu tố bị thiếu được bổ sung tới mức hàm lượng 75% này. Uống acid aminocaproic có thể có ích đề phòng ngừa chảy máu sau điều trị nha khoa.

ĐIỀU TRỊ CHẢY MÁU TRONG KHỚP: băng ép (dùng một dây cao su mềm tạo sức ép vào khớp nhờ lực đàn hồi của cao su), và bất động khớp trong một máng thạch cao. Liệu pháp corticoid có thể có hiệu quả làm cho tràn máu trong khớp được hấp thu lại. 3 đến 5 ngày sau khi đã kiểm soát được chảy máu trong khớp , thì bắt đầu thực hiện thụ động hoặc chủ động lại các động tác của khớp.

PHÒNG NGỪA CHẢY MÁU: tránh tiêm bắp thịt, sau khi tiêm tĩnh mạch phải tạo sức ép vào chỗ tiêm một thời gian lâu. Bao giờ cũng phải điều chỉnh hàm lượng của các yếu tố VIII và IX bị thiếu trước khi can thiệp ngoại khoa (kể cả nhổ răng). Yêu cầu bệnh nhân có cách sống tránh được các hoạt động có nguy cơ bị chấn thương, đặc biệt là tránh chơi một số môn thể thao. Động viên bệnh nhân tham gia vào các hoạt động của hội toàn quốc những bệnh nhân ưa chảy máu, đang có ở các nước, ở nước Pháp có thể liên lạc với Hội những bệnh nhân ưa chảy máu Pháp.

Nếu bị đau, bệnh nhân ưa chảy máu phải tránh dùng aspirin, mà thay bằng paracetamol để giảm đau, hoặc tuỳ hoàn cảnh thay bằng ibuprofene, thuốc này có ảnh hưởng ngắn hơn so với aspirin tới chức năng của tiểu cầu.

GHI CHÚ: Kháng thể kháng yếu tố VIII xuất hiện trong máu không những của bệnh nhân ưa chảy máu A được điều trị thay thế bằng yếu tố này, mà còn xuất hiện cả trong quá trình những bệnh tự miễn, hoặc bệnh tăng sinh lympho bào và ở sản phụ sau khi sinh con. Kháng thể này được gọi là “chất chống đông máu kháng yếu tố VIII”, khi xuất hiện trong máu thì bệnh nhân sẽ có nguy cơ bị chảy máu nặng. Cyclophosphamid và corticoid có tác dụng kìm hãm sự sản sinh kháng thể này, nhưng lại chống chỉ định đối với sản phụ sau khi sinh con và những bệnh nhân ưa chảy máu.

Thiếu yếu tố XI hoặc PTA “plasma thromboplastin antecedent” – tiền sử thiếu thromboplastin huyết tương) đôi khi còn gọi là bệnh Rosenthal hoặc bệnh ưa chảy máu c (không chính xác). Đây là một bệnh thiếu yếu tố đông máu khác hẳn với bệnh ưa chảy máu. Bệnh được di truyền như một tính trạng trội, không liên kết giới tính, và biểu hiện lâm sàng ở cả hai giới bởi hội chứng chảy máu lành tính. Thời gian cephalin – kaolin kéo dài và thời gian prothrombin bình thường. Yếu tố XI đậm đặc không có sẵn, nên thiếu hụt yếu tố này được điều trị bằng truyền máu hoặc huyết tương tươi.

Chứng Tâm dương thoát đột ngột trong Đông y

Chứng Tâm dương thoát đột ngột là chứng hậu nguy kịch do Dương khí của Tâm đột ngột thoát hết, Tông khí tiết ra mà xuất hiện chứng thần mất nơi tựa và dương khí muốn tuyệt. Phần nhiều là vã mồ hôi mà vong dương hoặc do ốm lâu thể trạng yếu, tuổi cao tạng khí hư suy, Tâm dương không mạnh lại cảm nhiễm phải tà khí lục dâm, lỡ cơ hội điều trị hoặc điều trị sai lầm; hoặc do lao thương quá độ gây nên bệnh.

Biểu hiện chủ yếu trong lâm sàng là mồ hôi đột ngột vã ra đầm đìa; chân tay quyết lạnh, môi miệng tím tái, đoản hơi thở nhẹ, thần trí mơ hồ thậm chí hôn mê, mạch Vi muốn tuyệt. Thường có những báo trước như hồi hộp đoản hơi, hễ động làm thì chứng bệnh nặng hơn, sợ lạnh, sắc mặt tối trệ, vùng Tâm Hung khó chịu hoặc đau, lưỡi nhạt hoặc tía tối mà non bệu, mạch Trầm Tế hoặc Kết Đại v.v…

Chứng Tâm dương thoát đột ngột thường gặp trong các bệnh “Hung TýTrúng phong”, “Quyết chứng”, “Hãn chứng”, và “Ôn bệnh”.

Cần phân biệt với “chứng Tâm dương hư”,”chứng Vong dương” và “chứng Đàm mê tâm khiếu”.

Phân tích

– Chứng Tâm dương thoát đột ngột gặp trong nhiều loại tật bệnh; Nếu thấy xuất hiện trong bệnh Hung Tý, phần nhiều do thể trạng vốn hư, Hung dương không mạnh, hoặc suốt ngày viết lách ít động, khí huyết khó lưu thông hàn tà nhân chỗ hư lọt vào, đàm và thấp làm tê nghẽn Hung dương, hoặc tình chí quá kích thích, mệt nhọc quá độ, tâm dương bị hao thương đột ngột gây nên bệnh – Đặc điểm lâm sàng là vùng ngực đau xiên ra sau lưng, hồi hộp đoản hơi, sắc mặt trắng xanh, suyễn thở không nằm được, mồ hôi ra đầm đìa, chân tay quyết lạnh thậm chí thần thức không tỉnh táo, chất lưỡi tía tối, mạch Vi muốn tuyệt, điều trị nên dương cứu nghịch, dùng bài Sâm Phụ Long Mẫu thang(Trung y chứng trạng giám biệt chẩn đoán học).

– Bệnh Trúng phong gặp chứng này đa số là chứng Trúng phong nặng, người bệnh phần nhiều tuổi cao khí huyết hư suy, Can Thận bất túc; hoặc do tức giận uất ức, uống rượu ăn no, gắng sức mang nặng v.v. phát sinh chứng này. Cũng có khi do Bế chứng điều trị không kịp thời hoặc điều trị sai lầm mà chuyển biến thành thoát chứng, tà khí thịnh, chính khí suy gây nên bệnh. Xuất hiện chứng trạng đột ngột hôn mê ngã lăn, bất tỉnh nhân sự, bán thân bất toại, miệng mắt méo xếch, hơn nữa lại có chứng miệng há, mắt nhắm, tay xoè mũi khò khè thở khẽ tứ chi lạnh, mồ hôi ra đầm đìa không ngừng, đại tiểu tiện tự són ra, lưỡi nhịu, mạch Vi muốn tuyệt v.v. Điều trị cần ích khí hồi dương, cho uống ngay Sâm Phụ thang (Phụ nhân lương phương).

– Hãn chứng trong chứng Tâm dương thoát đột ngột phần nhiều do ốm lâu, bệnh nặng, dương khí cực suy không liễm được âm, sự bảo vệ bên ngoài không bền, mồ hôi ra nhiều thành bệnh. Như sách Trương thị y thông quyển 9 viết: “Hãn chứng có Âm Dương. Dương hãn tức là Nhiệt hãn. Âm hãn tức là Lãnh hãn. Người ta chỉ biết nhiệt mới làm ra mồ hôi, mà không biết tới Hàn cũng làm ra mồ hổi. Bảo là Hàn ở đây không phải là ngoại hàn, chính là vì Dương khí hư ở bên trong thì Hàn sinh ra từ bên trong, mà trong Âm không có Dương thì âm không có chỗ dựa, mồ hôi sẽ theo khí mà tiết ra. Cho nên sợ quá, hãi quá, hoảng quá đều có thể khiến cho người ta ra mồ hôi…đó đều là dấu hiệu dương khí tiêu luôn, chân nguyên thất thủ”. Mồ hôi ra ở chứng này đa số là do chứng nguy cấp rất nặng, đột ngột ra mồ hôi không dứt, hoặc mồ hôi ra như dầu và kèm theo đoàn hơi thở khẽ, tứ chi quyết lạnh thần thức không tỉnh táo, mạch Vi muốn tuyệt hoặc mạch Đại vô lực v.v. Điều trị nên hồi dương cứu nghịch, ích khí sinh mạch, cho uống Tứ nghịch thang (Thương hàn luận) hợp với Sinh mạch Tán (Nội ngoại thương biện hoặc luận).

– Trong chứng Quyết cũng có chứng Tâm dương thoát đột ngột, người bệnh bỗng dưng hôn mê ngã lăn, bất tỉnh nhân sự, đa số kiêm chứng tứ chi quyết lạnh, sắc mặt trắng xanh, mồ hôi ra không dứt, mạch Vi muốn tuyệt… đó là biểu hiện Tâm dương suy bại, như sách “Ngụ ý thảo” viết: “Bởi vì chứng âm quyết bị trong Âm chứng, mới bị đã trúng thẳng vào Âm kinh; môi xanh, mặt trắng, ra mồ hôi lạnh khắp người, đại tiện lợi mà không khát nước, nằm co ngủ nhiều, tỉnh ra thì ngơ ngác”. Đa số do thể trạng dương khí suy hư, mệt mỏi quá độ, buồn lo sợ hãi; ra mồ hôi nhiều, ỉa chảy làm nhiều hao thương dương khí, thanh dương không thăng lên, thanh khiếu không được nuôi dưỡng mà thành bệnh; Điều trị nên bổ khí hồi dương, dùng bài Tứ vị hồi dương ẩm gia vị (Cảnh Nhạc tóan thư).

– Trong Ôn bệnh có chứng Tâm dương thoát đột ngột, đa số do cơ thể vốn Dương hư, tà nhiệt quá thịnh hun đốt Doanh âm, nghịch truyền Tâm bao gây nên; Hoặc nhiệt tà phạm vào khí phận, cả Khí và Huyết đều bị hun đốt, không điều trị kịp thời hay điều trị sai lầm, tâm dịch hao tổn đột ngột, âm khuy, Tâm dương tiết ra đột ngột cũng gây nên bệnh; khi người bệnh ở tình huống dương nhiệt quá thịnh, bất ngờ xuất hiện chứng tay chân giá lạnh, ra mồ hôi đầm đìa, tinh thần suy sụp nằm co, sắc mặt trắng xanh, mạch Tán Đại hoặc mạch Vi muốn tuyệt đó là hiện tượng Dương khí thoát đột ngột nguy hiểm. Mục Thử ôn sách Ôn bệnh điều biện viết. “Mồ hôi vã ra mà mạch Tán Đại đó là Dương khí phát tiết ra ngoài quá mức, bên trong bị hư”. Điều trị nên ích khí thu liễm tân dịch, sinh mạch cứu thoát, dùng bài Hồi dương cứu cấp thang(Thương hàn lục thư).

Chứng này đa số do ốm lâu, người già thể lực suy trẻ em bị bệnh. Ôm lâu tất hao Dương tổn Âm, tuổi cao thì tạng khí suy vi Tâm dương khuy tổn mà trẻ em là cơ thể trĩ đương, Tạng Phủ non nớt, hình và khí chưa đầy đủ, cho nên trong quá trình phát triển của tật bệnh dễ xuất hiện tình trạng Tống khí tiết ra quá lớn nên có chứng hậu nguy hiểm là Tâm Dương thoát đột ngột Tâm dương vượng thịnh, huyết dịch mới có thể lưu thông không ngừng, vòng quanh không dứt. Nếu Tâm dương thoát đột ngột thì huyết khó lưu thông, mạch lạc vướng rít, hình thành ứ huyết. Vì thế, trong quá trình diễn biến tật bệnh, chứng Tâm dương thoát đột ngột thường kèm theo các chứng trạng môi miệng và móng tay chân tím tái, mình mẩy tay chân đau hoặc tê dại, lưỡi tía tối hoặc có nốt ứ huyết, mạch sắc v.v. Lại còn thuyết “một Âm thì không sinh, một Dương thì không trưởng”, Âm kiệt thì Dương không chỗ dựa mà tản mác trôi nổi, Dương vong thì Âm không hóa sinh mà cạn hết. Cho nên chứng Tâm dương thoát đột ngột không chỉ là dương khí suy bại mà thường có cả chứng bì phu nóng, chân tay ấm, mạch Tế Sác lại ấn vào vô lực biểu hiện âm dịch hao kiệt. Tật bệnh đến lúc này, nguy cấp tột cùng, nếu không khẩn trương cứu vãn cái Dương thoát đột ngột, thu liễm ngay cái Âm sắp hết, sẽ đi đến tình thế Âm Dương chia lìa nhau.

Chẩn đoán phân biệt

– Chứng Tâm dương hư với chứng dương thoát đột ngột: “Tâm chủ huyết mạch toàn thân”, “là đại chủ của năm Tạng sáu Phủ”. Tam dương có đầy đủ tác dụng thúc đẩy huyết dịch vận hành, sưởi ấm năm Tạng sáu Phủ và tứ chi bách hài. Nếu phú bẩm tiên thiên bất túc, ốm lâu, cao tuổi tạng khí suy vi khiến cho Tâm dương khuy tổn, sức cổ động kém, không sưởi ấm cơ thể, nuôi dưỡng Tạng Phủ thì có thể xuất hiện chứng trạng hồi hộp đoản hơi, khi hoạt động thì nặng thêm, sợ lạnh, tay chân không ấm, sắc mặt tía sạm, đại tiện lỏng loãng, tiểu tiện trong dài, lưỡi nhạt hoặc tía sạm mà non bệu, rêu lưỡi trắng trơn, mạch Trầm vô lực hoặc Tế Nhược v.v. Còn chứng Tâm dương thoát đột ngột là do ngoại cảm lục dâm, lao thương quá độ hoặc bị bệnh đột ngột làm hao tán Tâm dương đến nỗi Tám dương thất thoát bất ngờ, bệnh tình khá nặng, có xu hương nguy ngập. Trên lâm sàng, ngoài những biểu hiện của chứng Tâm dương hư như đã nói ở trên, thường kèm theo các chứng hậu nguy hiểm như mồ hôi vã ra đầm đìa, chân tay quyết lạnh, môi miệng tím tái, thở yếu, thần thức mơ hồ thậm chí hôn mê, mạch Vi muốn tuyệt v.v. Hai chứng có tình thế bệnh hoãn, cấp; bệnh tình có nặng, nhẹ khác nhau.

– Chứng Vong Dương với chứng Tâm dương thoát đột ngột, cả hai đều có chứng hậu nguy hiểm trong quá trình phát triển của bệnh tật, đa số do cao tuổi ra nhiều mồ hôi, thổ tả dữ dội hoặc bị mất máu bất ngờ, Tạng khí suy vi, âm tân hao tổn, xuất hiện dưới tình huống Dương khí tiêu tan trôi nổi. Chứng Tâm dương thoát đột ngột, ngoài những chứng trạng vong dương như ra mồ hôi đầm đìa, mồ hôi trong loãng mà lạnh, da dẻ lạnh, chân tay lạnh, không khát nước, mỏi mệt nằm co, tiểu tiện trong, đại tiện nhão mạch Vi muốn tuyệt, phải có kiêm chứng hồi hộp đoản hơi, vùng ngực khó chịu và đau, thần thức mơ hồ thậm chí hôn mê biểu hiện Tâm dương suy bại. Bộ vị của chứng Tâm dương thoát đột ngột là ở Tâm, phải thấy chứng vong Dương; mà chứng Vong Dương chưa hẳn có kiêm chứng thần thức không tỉnh táo do Tâm thần thất thủ. Sự phân biệt giữa hai chứng không khó khăn gì.

– Chứng Đàm mê tâm khiếu với chứng Tâm đột ngột, cả hai đều là chứng trạng nguy hiểm rất nặng và đều xuất hiện chứng hậu nguy hiểm như hôn mê ngã lăn, bất tỉnh nhân sự. Nhưng theo nguyên nhân bệnh mà bàn, chứng Đàm mê Tâm khiếu phần nhiều do ăn uống mệt nhọc làm hại Tỳ, hoặc Can mộc hoành nghịch lấn Tỳ, Tỳ thổ mất sự kiện vận, tụ thấp sinh đàm làm nghẽn tắc kinh lạc, che lấp thanh khiếu gây nên bệnh. Còn chứng Tâm dương thoát đột ngột đa số do phú bẩm tiên thiên bất túc, ốm lâu thể trạng yếu, tuổi cao Tạng khí suy vi lại thêm các tình huống thổ nhiều, tả nhiều, mất huyết nhiều là những chứng bệnh đột ngột hao tân dịch và hại khí, Tâm dương suy bại gây nên bệnh.

Chứng Đàm mê tâm khiếu biểu hiện ngã lăn hôn mê đột ngột, bất tỉnh nhân sự, đa số kèm theo các chứng trạng hàm răng nghiến chặt, cấm khẩu không há miệng, hai tay nắm chặt, thân thể co cứng, sắc mặt tối sạm, đàm rãi úng thịnh, tĩnh mà không phiền, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Trầm Hoạt… đó là hiện tượng tà thực vít lấp ở trong, đàm trọc bị nghẽn trệ; khác hẳn với chứng Tâm dương thoát đột ngột, bất ngờ hôn mê ngã lăn, bất tỉnh nhân sự, lại kèm theo ra mồ hôi đầm đìa, mắt nhắm miệng há, tay xoè, chân tay lạnh, đoản hơi thở khẽ, đại tiểu tiện tự són ra, chân tay liệt mềm, hồi hộp sợ lạnh, mạch Vi muốn tuyệt… Đó là chứng hậu Tông khí tiết ra rất lớn. Tâm dương suy bại. Hai chứng một là tà thực bế tắc ở trong là chủ yếu chứng trạng thuộc Thực, một là Dương khí thoát đột ngột là chủ yếu, chứng trạng thuộc Hư; chẩn đoán phân biệt không khó khăn.

Trích dẫn y văn

– Tâm là đại chủ của năm Tạng sáu Phủ, nơi ở của tinh thần. Nếu Tạng kiên cố thì tà khí khó mà ẩn náu. Nếu tà khí ẩn náu thì hại Tâm, Tâm bị hại thì thần mất đi, thần mất đi thì chết (Tà khách thiên – Linh Khu).

– Ra mồ hôi do vong dương phải ố hàn, chân tay lạnh da lạnh, mồ hôi lạnh mà vị nhạt hơi dính; miệng không khát mà thích uống nóng, thở khẽ, mạch Phù Sác mà (rỗng) không. Đó là thử nghiệm (vong Âm vong Dương luận – Y học nguyên lưu luận).

– Bệnh ra mồ hôi nhiều, dương khí theo mồ hôi ra ngoài hết mà trôi nổi. Nếu không ngăn chặn kịp thời thì Dương khí tan ngay, chết lập tức. (Đại hãn – Thạch thất bí lục).

– Phàm là Hàn quyết, chân tay phải mát lạnh, mạch Trầm Vi không Sác, hoặc tuy Sác mà vô lực, hoặc sợ lạnh ưa ấm kéo áo tự mặc, hoặc hạ lợi ra nguyên đồ ăn… Tuy loại này thuộc Hư chứng, nhưng chứng giống nhiệt mà không phải nhiệt cũng nhiều. Cho nên thấy chân tay Quyết mà mạch và chứng đều không thực nhiệt, chắc chắn đó là Hàn quyết không ngờ gì nữa (Quyết môn cảnh Nhạc toàn thư).

– Nếu khô miệng, tay xoè, són đái là Hư cực mà Dương thoát đột ngột, kíp dùng liều cao Sâm Kỳ để tiếp bổ và dùng Ngải cứu dưới rốn,(Thốt trúng bạo huyết – Chứng trị chuẩn thẳng).

– Phàm trúng phong, miệng há tay xòe, mắt nhắm, són đái, tiếng khò khè như kéo cưa, tóc dựng đứng, mửa nước bọt, lắc đầu nhìn ngược, mặt đỏ như xoa phấn, hoặc sắc mặt xám đen ra mồ hôi như dầu, lần áo sờ giường, hôn mê không nói được, đều là chứng chết (Phổ tế phương – Quyển 88)

Thuốc Benzodiazepines

Benzodiazepines là gì (benzos) và chúng được sử dụng để làm gì?

Benzodiazepines là các loại thuốc do con người tạo ra, có tác dụng gây trầm cảm nhẹ đến nặng đối với các dây thần kinh trong não (hệ thần kinh trung ương) và gây an thần (buồn ngủ).

Các cơn co giật, lo âu và các bệnh khác cần điều trị bằng benzodiazepine có thể do hoạt động quá mức của các dây thần kinh trong não gây ra. Các loại thuốc này có thể hoạt động bằng cách tăng cường tác dụng của axit gamma-aminobutyric (GABA) trong não. Axit gamma-aminobutyric là một chất dẫn truyền thần kinh, một hóa chất mà các dây thần kinh trong não sử dụng để gửi thông điệp cho nhau. Axit gamma-aminobutyric làm giảm hoạt động của các dây thần kinh trong não, và việc tăng cường tác dụng của GABA bằng benzodiazepine sẽ làm giảm hoạt động của não.

Nam và nữ trưởng thành sử dụng benzodiazepines để điều trị:

  • Lo âu
  • Bồn chồn
  • Rối loạn hoảng sợ
  • Co thắt cơ
  • Cơn co giật
  • Mất ngủ
  • Cai rượu
  • Trạng thái động kinh (một rối loạn đe dọa tính mạng của não)
  • Hội chứng tiền kinh nguyệt

Các ứng dụng khác của benzodiazepines

Các loại thuốc này cũng được sử dụng để:

  • An thần trong phẫu thuật
  • Điều trị các loại rối loạn lo âu khác nhau, chẳng hạn như:
    • Rối loạn lo âu tổng quát (GAD)
    • Rối loạn lo âu xã hội (khi thuốc chống trầm cảm không hiệu quả)
    • Rối loạn hoảng sợ (khi thuốc chống trầm cảm không hiệu quả)

Các loại thuốc benzodiazepine (còn gọi là benzos) có khả năng gây nghiện và có thể dẫn đến nghiện. Việc sử dụng lâu dài cũng có thể dẫn đến tình trạng dung nạp, có nghĩa là liều thấp sẽ trở nên không hiệu quả và bệnh nhân sẽ cần liều cao hơn. Các loại thuốc này bị lạm dụng để đạt được trạng thái “phê” do tác động của chúng lên não.

Tác dụng phụ của benzodiazepines là gì?

Các tác dụng phụ phổ biến bao gồm:

  • Chóng mặt
  • Buồn ngủ
  • Nhầm lẫn
  • An thần
  • Suy giảm trí nhớ
  • Mất cân bằng cơ thể
  • Tăng hoặc giảm cảm giác thèm ăn
  • Buồn nôn
  • Nôn mửa
  • Táo bón
  • Tăng cân
  • Khô miệng
  • Giảm ham muốn tình dục
  • Mệt mỏi

Tác dụng phụ nghiêm trọng bao gồm:

  • Ức chế hô hấp
  • Phụ thuộc và lạm dụng
  • Triệu chứng cai thuốc
  • Vàng da
  • Cơn co giật
  • Tự sát
  • Nhịp tim chậm
  • Huyết áp thấp nghiêm trọng
  • Ngất xỉu
  • Akathisia (một rối loạn vận động)
  • Tăng nhịp tim

Bạn có thể uống rượu khi đang dùng benzodiazepines không?

Không. Kết hợp rượu với benzodiazepine là rất nguy hiểm. Những người uống rượu trong khi dùng loại thuốc này sẽ cảm thấy tác dụng của rượu nhanh hơn. Việc uống rượu hoặc sử dụng các loại thuốc khác có tác dụng tương tự lên hệ thần kinh trung ương (CNS) đồng thời là không an toàn, vì những loại thuốc hoặc chất này tương tác với benzodiazepines đường uống, gây ra sự trầm cảm bổ sung cho não và ức chế hô hấp.

Sự ức chế hô hấp có thể dẫn đến việc thở không đủ để cung cấp oxy cho cơ thể, điều này có thể gây tử vong. Một số ví dụ về các loại thuốc và sản phẩm làm tăng tác dụng phụ an thần hoặc nguy cơ ức chế hô hấp từ benzodiazepines bao gồm:

  • Các loại thuốc giảm đau gọi là opioid, cũng gây ức chế hô hấp, chẳng hạn như:
    • morphine (MScontin)
    • fentanyl (Duragesic)
    • oxycodone (Oxycontin)
    • hydrocodone (Zohydro ER)
    • acetaminophen/hydrocodone (Vicodin, Norco, Lorcet)
  • Các loại thuốc an thần (ví dụ: thuốc trị mất ngủ) và các loại thuốc khác gây an thần, chẳng hạn như:
    • zolpidem (Ambien, ZolpiMist)
    • Intermezzo
    • zaleplon (Sonata)
    • eszopiclone (Lunesta)
    • phenobarbital
    • nhiều loại thuốc khác

Bạn có thể nghiện benzodiazepines không?

Có, benzodiazepines hay benzos có tính gây nghiện và bạn có thể trở thành người nghiện chúng — ngay cả khi bạn uống theo đúng chỉ định của bác sĩ hoặc chuyên gia chăm sóc sức khỏe.

Những người có tiền sử lạm dụng ma túy hoặc rượu có khả năng phát triển nghiện với các loại thuốc này cao hơn. Nếu bạn sử dụng những loại thuốc này trong thời gian dài, bạn có thể phát triển tình trạng dung nạp. Điều này có nghĩa là bạn sẽ cần liều cao hơn của thuốc để điều trị tình trạng sức khỏe hoặc bệnh lý của mình vì bạn đã trở nên quen với các dạng thuốc yếu hơn. Những loại thuốc này có thể rất hiệu quả trong việc điều trị một số tình trạng, chẳng hạn như lo âu và mất ngủ; nhưng hãy cẩn thận vì bạn có thể nghiện chúng.

Tên đường phố cho các loại thuốc benzodiazepine là “Benzos” và “Downers.” Những người nghiện ma túy lạm dụng các loại thuốc này để đạt được trạng thái “phê.” Chúng có thể gây nghiện tương tự như opioid (thuốc gây nghiện như oxycodone, morphine, hydrocodone và fentanyl), cannabinoid (cần sa) và loại thuốc club GHB (gamma-hydroxybutyrate).

Chúng thường bị lạm dụng bởi thanh thiếu niên và người trẻ tuổi, những người nghiền nát thuốc và hít vào, hoặc uống viên thuốc để “phê.” Nếu bạn lạm dụng thuốc này, bạn có thể gặp các tác dụng phụ với các triệu chứng bao gồm:

  • Những giấc mơ khó chịu hoặc sống động
  • Tính dễ cáu gắt
  • Thù địch
  • Amnesia
  • Các dấu hiệu và triệu chứng cho thấy bạn có thể nghiện bao gồm:
    • Vấn đề về giấc ngủ
    • Tiêu chảy
    • Nôn mửa
    • Buồn nôn
    • Nổi da gà
    • Cử động chân không kiểm soát
    • Đau xương và cơ

Khó khăn trong việc phục hồi từ chứng nghiện benzodiazepine vì những loại thuốc này làm thay đổi hóa học trong não. Hãy liên hệ với một trung tâm điều trị nghiện ma túy nếu bạn hoặc người thân đang gặp phải tình trạng nghiện. Việc ngừng sử dụng đột ngột có thể không thành công và có thể nguy hiểm do các triệu chứng cai thuốc. Các bác sĩ và chuyên gia chăm sóc sức khỏe điều trị nghiện sẽ lập kế hoạch giảm liều để từ từ giảm dần thuốc, nhằm giảm mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng cai thuốc trong quá trình điều trị.

Các dấu hiệu và triệu chứng của quá liều bao gồm:

  • Da ẩm
  • Đồng tử giãn
  • Mạch đập nhanh và yếu
  • Hôn mê
  • Thở nông
  • Tử vong

Các triệu chứng cai thuốc của benzodiazepines là gì?

Nếu bạn ngừng uống các loại thuốc này đột ngột, bạn có thể trải qua các triệu chứng cai thuốc bao gồm:

  • Vấn đề tập trung
  • Vấn đề về giấc ngủ
  • Tính dễ cáu gắt
  • Lo âu và căng thẳng gia tăng
  • Cơn hoảng loạn
  • Rung tay
  • Nôn mửa và buồn nôn
  • Tim đập nhanh
  • Đau đầu
  • Đau và cứng cơ
  • Một loạt các thay đổi cảm nhận

Mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng cai thuốc phụ thuộc vào lượng và thời gian sử dụng benzodiazepine.

Các triệu chứng cai thuốc có thể gây chết người.

Các loại thuốc này được Cục Quản lý Ma túy (DEA) phân loại là thuốc nhóm IV. Điều này có nghĩa là chúng có khả năng và rủi ro phụ thuộc thấp hơn so với các loại thuốc mạnh hơn như codeine, testosterone, steroid đồng hóa, Vicodin (hydrocodone và acetaminophen), OxyContin (oxycodone), Adderall (amphetamine và dextroamphetamine), và Ritalin (methylphenidate).

Tất cả các loại benzodiazepines là gì?

Một số ví dụ về benzodiazepines đường uống bao gồm:

  • alprazolam (Xanax, Xanax XR)
  • clobazam (Onfi)
  • clonazepam (Klonopin)
  • clorazepate (Tranxene)
  • chlordiazepoxide (Librium)
  • diazepam (Valium, Diastat Acudial, Diastat)
  • estazolam (Prosom, thương hiệu đã ngừng sản xuất tại Mỹ)
  • lorazepam (Ativan)
  • oxazepam (Serax, thương hiệu đã ngừng sản xuất tại Mỹ)
  • temazepam (Restoril)
  • triazolam (Halcion)

Các dạng chế phẩm của benzodiazepines

Tất cả các loại benzodiazepines đường uống đều có dạng viên nén.

  • Alprazolam và clorazepate có dạng viên nén giải phóng kéo dài.
  • Alprazolam, clobazam, diazepam và lorazepam có dạng lỏng uống.
  • Alprazolam và clonazepam có dạng viên nén hòa tan trong miệng.
  • Chlordiazepoxide, oxazepam và temazepam có dạng viên nang.
  • Diazepam cũng có dạng gel trực tràng.
  • Một số benzodiazepines có dạng tiêm.

Có an toàn khi uống benzodiazepines nếu tôi đang mang thai hoặc cho con bú không?

FDA phân loại benzodiazepines là loại thuốc nhóm D trong thai kỳ, có nghĩa là benzodiazepines có thể gây hại cho thai nhi nếu được sử dụng cho phụ nữ mang thai. Nếu benzodiazepines phải được sử dụng cho phụ nữ mang thai hoặc nếu bệnh nhân có thể mang thai trong khi dùng benzodiazepines, bệnh nhân phải được thông báo về những rủi ro tiềm tàng đối với thai nhi.

Benzodiazepines cũng đi vào sữa mẹ và có thể gây ra tình trạng uể oải và giảm cân ở trẻ sơ sinh. Do đó, chúng không nên được sử dụng ở các bà mẹ đang cho con bú.

Tóm tắt

Benzodiazepine là tên của một lớp thuốc ở Mỹ. Chúng thuộc về một loại thuốc do con người tạo ra được kê đơn để điều trị lo âu, bồn chồn, cơn hoảng sợ, co giật, co thắt cơ và mất ngủ. Lorazepam (Ativan), alprazolam (Xanax) và diazepam (Valium) là ví dụ về benzodiazepines.

Thuốc chữa bệnh tiêu chảy do rối loạn tạp khuẩn ruột

Thuốc chữa bệnh tiêu chảy do rối loạn tạp khuẩn ruột còn được gọi là “thuốc có nguồn gốc vi sinh vật” hay “men tiêu hóa sống” hay “thuốc ổn định tạp khuẩn ruột”. Bởi vì, thuốc loại này thực chất có chứa các vi sinh vật giúp sự lên men tiêu hóa bình thường trong ruột chúng ta. Đặc biệt, thuốc được dùng trị tiêu chảy do rối loạn sau khi dùng kháng sinh.

Để hiểu rõ cơ chế tác dụng của thuốc, ta nên biết về hệ Tạp Khuẩn Ruột (còn gọi là khuẩn chế, flora). Hiện diện trong ruột con người có rất nhiều vi khuẩn thuộc nhiều loại, tạo thành quần thể gọi là tạp khuẩn ruột. Trong tạp khuẩn, ngoài vi khuẩn gây bệnh còn có vi khuẩn có ích. Chính các vi khuẩn có ích giúp tiêu hóa thức ăn, đặc biệt một số vi khuẩn giúp tổng hợp một số vitamin nhóm B, vitamin K… Ngoài ra, vi khuẩn có ích còn kềm chế, cạnh tranh, không cho vi khuẩn gây bệnh phát triển đến mức có thể gây bệnh. Chính các loại vi khuẩn trong hệ tạp khuẩn ruột sống chung hòa bình, kềm chế lẫn nhau tạo thế cân bằng mà hoạt động của ruột, đặc biệt, ruột già được điều hòa, không bị rối loạn. Nếu vì lý do nào đó, sự cân bằng trong hệ tạp khuẩn ruột bị đảo lộn, vi khuẩn có ích, trong đó có loại vi khuẩn giúp cho sự tiêu hóa chất đường bột được gọi là vi khuẩn saccharolytic chết đi, vi khuẩn gây bệnh tăng sinh quá đáng sẽ đưa đến rối loạn thể hiện: bị tiêu chảy, khó tiêu, chướng bụng…

Trường hợp dùng kháng sinh, đặc biệt kháng sinh uống, kháng sinh không chỉ tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh mà tiêu diệt cả vi khuẩn có ích, thậm chí tiêu diệt vi khuẩn có ích nhiều hơn, đưa đến rối loạn tạp khuẩn gây tiêu chảy.

Thuốc ổn định tạp khuẩn ruột là thuốc có tác dụng tái tạo lại sự cân bằng của hệ tạp khuẩn ruột bằng cách cung cấp, bổ sung các vi sinh vật có ích hoặc các yếu tố bị mất đi do rối loạn hệ tạp khuẩn ruột. Tức là thuốc tái tạo lại hệ bảo vệ tự nhiên của ruột mà do khiếm khuyết đưa đến tiêu chảy. Đó là các chế phẩm có chứa các vi sinh vật có ích (vi khuẩn, nấm men) đôi khi kèm theo môi trường nuôi cấy  các  vi  sinh  vật  này  (để bổ  sung vitamin nhóm B, acid lactic). Thuốc loại này còn được gọi là thuốc “probiotic” (probiotic tạm dịch là “trợ sinh” tức cung cấp các mầm sống là vi sinh vật). Thường chứa chủng vi khuẩn Lactobacillus (L. acidophilus, L. casei, L. rhamorosus…), Bifidus, nấm men Sacharomyces (S.boulardii…). Không chỉ được dùng trị tiêu chảy do rối loạn tạp khuẩn ruột (do bệnh đường tiêu hóa hay do dùng kháng sinh), các nghiên cứu gần đây cho thấy thuốc “probiotic” có thể dùng để giảm cholesterol máu (dư mỡ trong máu), giúp cải thiện tình trạng ruột không dung nạp lactose là loại đường chứa trong sữa (có một số người do trong ruột không có men lactase để tiêu hóa đường lactose nên không uống được sữa, uống vào là bị khó tiêu, tiêu chảy), đặc biệt, thuốc “probiotic” có thể kích thích hệ miễn dịch ở đường tiêu hóa. Gần đây nhất, có công trình nghiên cứu cho thấy người mẹ mang thai dùng thuốc chứa Lactobacillus và sau khi sinh vẫn tiếp tục dùng trong thời gian cho con bú, có thể giúp đứa trẻ ngừa một số bệnh dị ứng ngoài da như eczema (chàm).

Thuốc ổn định tạp khuẩn ruột được bào chế ở dạng gói bột hoặc dạng viên nang chứa bột, khi uống vào ruột, bột là các vi sinh vật sẽ hồi sinh và phát huy tác dụng. Do thuốc có nguồn gốc vi sinh vật, nên lưu ý:

  • Bảo quản thuốc nơi mát, tránh nhiệt độ
  • Nên uống với nước lã đun sôi để nguộ Không nên hòa với nước nóng trên 500C trước khi uống (nếu thuốc chứa nấm men hòa vào nước nóng trên 500C nấm men sẽ chết, xem như mất tác dụng).
  • Nếu thuốc chứa nấm men (như Bioflor) không được dùng chung với kháng sinh kháng nấm (uống chung, thuốc kháng nấm sẽ diệt nấm men).
  • Có thuốc có thể uống chung với nhiều loại kháng sinh (như Antibio, Antibiophilus) nhưng vẫn không được uống chung với tetracyclin vì sẽ cản trở sự hấp thu của tetracyclin qua niêm mạc ruột vào máu, tetracyclin mất tác dụ
  • Luôn nhớ biện pháp hàng đầu trong điều trị tiêu chảy cấp đặc biệt ở trẻ con, là bù nước và chất điện giải (tức dùng gói ORESOL), trước khi tính chuyện dùng thuốc cầm tiêu chảy.
  • Dùng chế phẩm thuốc ổn định tạp khuẩn ruột chẳng khác nào cấy lại các vi sinh vật có ích trong ruột, vì vậy, hãy nhớ đến một loại thực phẩm cũng có cơ chế tác dụng như thế, đó là yaourt (ta gọi là sữa chua). Hãy ăn yaourt khi bị rối loạn tạp khuẩn ruột hoặc để ngừa tiêu chảy do sử dụng kháng sinh uố Yaourt ngoài các chất bổ dưỡng còn chứa các yếu tố “probiotic” giúp cân bằng hệ tạp khuẩn ruột của chúng ta.

Viêm tuyến nước bọt mang tai mạn tính

I.   ĐỊNH NGHĨA

Viêm tuyến nước bọt mạn tính là loại viêm tuyến nước bọt thường gặp ở người lớn do nhiều nguyên nhân,hay gặp nhất là do vi khuẩn.

II.    NGUYÊN NHÂN

  • Vi khuẩn
  • Sỏi tuyến mang
  • Bệnh có thể được coi là biến chứng của những tổn thương tái phát do phản xạ, dị ứng, nội tiết của tuyến nước bọt.
  • Do những thâm nhiễm nguyên thủy tuyến mang tai của hội chứng Sjogren.

III.     CHẨN ĐOÁN

  1. Chẩn đoán xác định

Chẩn đoán xác định dựa vào các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và tính chất dịch tễ.

Lâm sàng

  • Ngoài miệng
    • Thường chỉ biểu hiện khi có đợt bán cấp: sưng, tức tuyến mang tai 1 hoặc cả 2 bên, đau nhiều.
    • Giữa 2 đợt sưng, tuyến mang tai chỉ hơi to hơn bình thường, sờ chắc, không đau.
  • Bệnh nhân chủ yếu thấy khó chịu nhất là lúc sáng dậy , nước bọt hơi mặn trong miệng.
  • Tình trạng trên kéo dài khoảng 1 – 2 tuầ n, có điều trị hay không cũng hết dần.

Sau vài tháng sưng đau trở lại. b.Trong miệng

  • Lỗ ống Stenon sưng đỏ.
  • Xoa nắn tuyến có mủ loãng hoặc những sợi nhầy mủ , chứa phế cầu, tụ cầu và liên cầu khuẩn chảy theo lỗ ống Stenon vào miệng

Cận lâm sàng

Hình ảnh Xquang có tiêm thuốc cản quang

  • Ống Stenon giãn to, đường kính không đều, chỗ phình, chỗ chít hẹp.
  • Những ống nhỏ trong nhu mô có thể thấy rõ , có những ổ đọng thuốc trong nang tuyến phình ra.

2. Chẩn đoán phân biệt

Viêm tuyến nước bọt mang tai do virus (quai bị): dựa vào dấu hiệu không có mủ chảy ra ở lỗ ống Stenon và tính chất dịch tễ.

IV.     ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc

  • Nâng cao thể trạng
  • Chống bội nhiễm
  • Nghỉ ngơi, hạn chế vận động

Điều trị cụ thể

  • Điều trị nội khoa:

Chỉ định: Khi tuyến chưa xơ hóa.

Điều trị bằng cách bơm rửa tuyến bằng thuốc kháng sinh, chống viêm, nước muối sinh lý.

  • Điều trị ngoại khoa

Chỉ định: Khi tuyến xơ hóa, không còn chức năng.

Điều trị bằng phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến mang tai, bảo tồn thần kinh

– Kỹ thuật

+  Vô cảm.

+ Rạch da theo đường Redon vùng mang tai.

+  Bóc tách bộc lộ thần kinh VII.

+  Cắt toàn bộ tuyến mang tai.

+ Kiểm soát vùng phẫu thuật

+ Đặt dẫn lưu kín.

+  Khâu phục hồi.

+ Kháng sinh.

V.  TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG

  1. Tiên lượng

Nếu phát hiện sớm, điều trị nội khoa sẽ cho kết quả tốt.

  1. Biến chứng
  • Áp xe tuyến mang tai
  • Viêm tấy lan tỏa

VI.     PHÒNG BỆNH

Khám chuyên khoa răng hàm mặt định kỳ để phát hiện viêm tuyến mang tai sớm và điều trị kịp thời.

Thuốc Buspirone

Buprenorphine là gì và được sử dụng để làm gì?

Buspirone là một loại thuốc được sử dụng để điều trị rối loạn lo âu hoặc để giảm các triệu chứng lo âu trong thời gian ngắn. Buspirone đặc biệt hiệu quả đối với những người bị lo âu tổng quát ở mức độ nhẹ đến vừa phải. Thuốc này không hiệu quả lắm đối với những người bị lo âu nghiêm trọng, rối loạn hoảng sợ, hoặc rối loạn ám ảnh cưỡng chế.

Buspirone cũng có thể giúp cải thiện các triệu chứng trầm cảm ở bệnh nhân bị rối loạn lo âu tổng quát.

Cơ chế tác động của buspirone không được hiểu rõ, nhưng có thể liên quan đến ảnh hưởng lên các chất dẫn truyền thần kinh, là các hóa chất mà dây thần kinh sử dụng để giao tiếp với nhau. Serotonin và dopamine là hai trong số các chất dẫn truyền thần kinh này. Buspirone có thể hoạt động bằng cách kích thích các thụ thể serotonin loại 1A trên dây thần kinh, từ đó thay đổi các tín hiệu hóa học mà dây thần kinh nhận được. Thuốc cũng có tác dụng nhỏ lên các thụ thể dopamine, nhưng điều này không đóng góp nhiều vào tác dụng của nó.

Khác với các thuốc trị lo âu thuộc nhóm benzodiazepine như diazepam (Valium), lorazepam (Ativan), alprazolam (Xanax), và clonazepam (Klonopin), buspirone không gây buồn ngủ. FDA đã phê duyệt buspirone vào tháng 9 năm 1986.

Tác dụng phụ của buspirone

Các tác dụng phụ phổ biến liên quan đến buspirone bao gồm:

  • Chóng mặt
  • Buồn nôn
  • Đau đầu
  • Lo âu
  • Cảm giác lâng lâng
  • Kích động
  • Mất ngủ

Các tác dụng phụ quan trọng nhưng ít gặp hơn bao gồm:

  • Đi đứng không vững
  • Tiêu chảy
  • Kích động
  • Yếu cơ
  • Thù địch
  • Phát ban da
  • Rung tay

Liều dùng của buspirone

Liều khởi đầu thông thường cho người lớn là 10-15 mg mỗi ngày, chia làm 2 hoặc 3 liều. Liều lượng có thể tăng thêm 5 mg mỗi 2 đến 4 ngày cho đến khi tìm được liều hiệu quả. Liều tối đa cho người lớn là 60 mg mỗi ngày, nhưng hầu hết bệnh nhân sẽ đáp ứng với liều từ 15-30 mg mỗi ngày. Mặc dù thức ăn làm tăng lượng buspirone được hấp thụ, nhưng tầm quan trọng của hiệu ứng này không rõ ràng.

Buspirone có thể được uống cùng hoặc không cùng thức ăn, nhưng tốt nhất là duy trì sử dụng đều đặn.

Thuốc nào tương tác với buspirone?

Buspirone có thể tương tác với các thuốc gọi là chất ức chế monoamine oxidase (MAO) như isocarboxazid (Marplan), phenelzine (Nardil), tranylcypromine (Parnate), và procarbazine (Matulane), được sử dụng trong điều trị các rối loạn tâm thần. Việc sử dụng buspirone cùng với những thuốc này có thể làm tăng huyết áp. Một phản ứng tương tự có thể xảy ra nếu buspirone được kết hợp với linezolid (Zyvox), một loại kháng sinh cũng là một chất ức chế MAO. Sự kết hợp của buspirone và trazodone (Desyrel), một loại thuốc chống trầm cảm, có thể gây ra các enzym gan bất thường trong máu.

Kết hợp buspirone và warfarin, một loại thuốc chống đông máu, có thể làm tăng tác dụng của warfarin và tăng nguy cơ chảy máu. Bệnh nhân dùng buspirone không nên uống nước ép bưởi, vì nước ép này (thậm chí là lâu sau khi uống buspirone) có thể làm tăng lượng buspirone trong máu, có thể dẫn đến tác dụng phụ.

Việc inactivation và đào thải buspirone chủ yếu nhờ vào các enzym gan. Các thuốc (ví dụ như erythromycin, itraconazole [Sporanox], nefazodone [Serzone]) ức chế các enzym này sẽ làm tăng nồng độ buspirone trong máu, trong khi các thuốc (ví dụ như rifampin) kích thích các enzym này sẽ làm giảm nồng độ buspirone trong máu. Nồng độ buspirone trong máu tăng có thể làm tăng tác dụng phụ, trong khi nồng độ giảm có thể làm giảm hiệu quả điều trị.

Buspirone có an toàn khi dùng trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú không?

Hiện chưa có các nghiên cứu đầy đủ về buspirone ở phụ nữ mang thai. Không rõ liệu buspirone có tiết vào sữa mẹ hay không. Tuy nhiên, vì buspirone được tiết vào sữa mẹ ở động vật, nên không nên sử dụng thuốc này cho phụ nữ đang cho con bú.

Những điều khác cần biết về buspirone

Dạng thuốc buspirone có sẵn là gì?

Viên nén: 5, 10, 15 và 30 mg.

Cách bảo quản buspirone

Viên nén nên được bảo quản ở nhiệt độ phòng, dưới 30°C (86°F).
Buspirone có sẵn dưới dạng thuốc generic, chỉ có theo toa.

Tóm tắt

Buspirone là một loại thuốc được kê đơn để điều trị các triệu chứng lo âu ngắn hạn, đặc biệt hiệu quả đối với những người bị lo âu tổng quát ở mức độ nhẹ hoặc vừa phải. Các nhà nghiên cứu không biết chính xác cơ chế hoạt động của buspirone, nhưng họ tin rằng thuốc liên quan đến các chất dẫn truyền thần kinh trong não. Buspirone không hiệu quả lắm đối với những người bị rối loạn hoảng sợ, lo âu nghiêm trọng hoặc OCD. Các tác dụng phụ phổ biến của buspirone bao gồm chóng mặt, buồn nôn, đau đầu, lo âu, lâng lâng, kích động và mất ngủ.

Rối loạn thần kinh tim là gì và cách chữa trị chứng bệnh này?

Rối loạn thần kinh tim là một danh từ chung để giải thích những hiện tượng khác thường xảy ra ở vùng tim mà thầy thuốc cũng như bệnh nhân chưa tìm ra nguyên nhân xuất phát từ đâu. Những hiện tượng đó thường là: tim đập nhanh, dễ hồi hộp hoặc tim đập chậm, dễ choáng váng, chóng mặt, ngất, loạn nhịp tim loại ngoại tâm thu, đôi khi có cảm giác đau nhói, đau tức, nặng nề ở vùng tim, khi ngủ có hiện tượng “bóng đè” (mộc đè) v.v…

Khám tim không phát hiện thấy các tổn thương thực thể ở các hệ thống van tim, trên bảng ghi điện tim không thấy có biến đổi gì rõ rệt.

Tóm lại, những hiện tượng khác thường xảy ra ở vùng tim, không có các tổn thương đến cuộc sống bình thường của toàn cơ thể, trong đại đa số các trường hợp, đều do tình trạng không ổn định của hệ thông thần kinh trung ương và một phần nào, của hệ thông thần kinh tự động ở trong tim gây ra.

Cách chữa trị rối loạn thần kinh tim như sau:

Bệnh nhân phải được nghỉ ngơi hoàn toàn trong một thời gian nhất định từ 1 đến 3 tháng ở nơi yên tĩnh, ít hoặc tốt nhất là không có tiếng động ồn ào, ở nơi đồng quê mát mẻ có không khí trong lành.

Phải kiên quyết tránh các hiện tượng kích thích quá mạnh đối vởi hệ thống thần kinh gây xúc động quá mức hoặc gây căng thẳng về tinh thần, nhất là đối với những người dễ bị xúc động, tính tình bất thường:

Tránh đọc truyện, xem phim “gay cấn”, xem hát với những vở kịch cải lương bi thảm, gây xúc động mạnh hoặc buồn bã, suy nghĩ. Tránh thức đêm và họp hành căng thẳng về ban đêm.

Không uống rượu, không hút thuốc lá, thuốc lào hoặc ăn uống nhậu nhẹt thái quá, không uống nước trà đậm hay cà phê buổi tốì làm mất ngủ. Ản nhiều rau quả tươi có nhiều sinh tố, ăn uống điều độ có đủ chất đạm, chất béo, chất bột.

Tập thể dục, thể thao điều độ và đều vào mỗi buổi sáng, các môn thể thao có lợi là môn bơi lội, chạy, chơi bóng bàn, tập uốn dẻo và các môn thể thao nhẹ khác (thái cực quyền). Nếu làm công việc bắt buộc phải ngồi hay đứng làm, phải tập trung tư tưởng, tập trung động tác liên tục, thì phải có thời gian nghỉ ngơi tích cực bằng tập thể dục giữa giờ làm việc.

Thỉnh thoảng nên đi xem các phim vui, nghe nhạc nhẹ, nghe hát v.v… Nên chơi và hát các bài nhạc, bài ca vui nhộn v.v…

Chỉ dùng thuốc một cách bất đắc dĩ. Thí dụ: khi quá xúc động, tim đập dồn dập, khó ngủ hoặc mất ngủ, có thể dùng thuốc an thần loại valium 5mg – 1 viên, nằm nghỉ ngơi, nếu buồn ngủ có thể ngủ thoải mái, uống sinh tố nhóm B, c hoăc thuốc trơ tim theo chỉ đinh của bác sĩ.

Hội Chứng Thần Kinh Cận Ung Thư và điều trị

Các rối loạn thần kinh cận ung thư (PND) là những hội chứng do ung thư ảnh hưởng tới bất kì phần nào của hệ thần kinh; không phải do ung thư di căn hoặc các biến chứng của ung thư như rối loạn đông máu, đột quỵ, bệnh lí chuyển hóa, nhiễm trùng, và tác dụng phụ của điều trị. 60% bệnh nhân có triệu chứng thần kinh trước khi chẩn đoán ung thư.

Các hội chứng cổ điển Các hội chứng không cổ điển
Viêm não tủy
Viêm não limbic
Thoái hóa tiểu não (người lớn)
Hội chứng Opsoclonus-myoclonus
Bệnh TK cảm giác bán cấp
Liệt ruột
Viêm da cơ (người lớn)
Hội chứng Lambert-Eaton
Ung thư hắc tố liên quan tới võng mạc
Viêm thân não
Hội chứng người cứng
Bệnh cơ hoại tử
Bệnh thần kinh vận động
Hội chứng Guillain-Barré
Bệnh TK hỗn hợp vận động- cảm giác bán cấp,mạn
Bệnh thần kinh liên quan tới tương bào và u limpho
Viêm mạch của thần kinh
Bệnh thần kinh tự chủ
Bệnh hoại tử cơ cấp
Viêm đa cơ
Viêm mạch của cơ
Bệnh thị thần kinh
BDUMP

Viết tắt: BDUMP, quá sản tế bào hắc tố mống mắt lan tỏa 2 bên

rối loạn thần kinh cận ung thư gặp ở 0.5–1% tổng số bệnh nhân ung thư, nhưng xảy ra ở 2–3% bệnh nhân u nguyên bào thần kinh hoặc ung thư phổi tế bào nhỏ, và 30–50% ở bệnh nhân u tuyến ức, u tủy xương có tiêu xương.

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG

Khi phát hiện hội chứng cận ung thư đặc biệt (Bảng 84-1); nên tiến hành tìm ung thư sớm, vì điều trị ở giai đoạn sớm có thể cải thiện các rối loạn thần kinh do ung thư; rất nhiều các rối loạn này cũng gặp ở người không mắc ung thư. Chẩn đoán dựa vào đặc điểm lâm sàng, loại trừ các rối loạn khác do ung thư, xét nghiệm kháng thể huyết thành hoặc kháng thể trong DNT, hoặc xét nghiệm điện não. Hầu hết các rối loạn thần kinh cận ung thư do đáp ứng miễn dịch với protein trong hệ thần kinh được bộc lộ bởi khối u. rối loạn thần kinh cận ung thư do đáp ứng miễn dịch với kháng nguyên nội bào thường kém đáp ứng với điều trị (Bảng 84-2), trong khi khối u do miễn dịch với kháng nguyên bề mặt tế bào thần kinh hoặc tại synap thần kinh-cơ thường đáp ứng với liệu pháp miễn dịch (Bảng 84-3). Với bất kì loại rối loạn thần kinh nào, nếu kháng thể kháng tế bào thần kinh âm tính, chẩn đoán dựa trên bằng chứng có ung thư và loại trừ loại trừ các rối loạn khác do ung thư. Kết hợp CT toàn thân và PET thường phát hiện được các khối u không được phát hiện bằng các xét nghiệm khác.

BẢNG 84-2 KHÁNG THỂ CỦA KHÁNG NGUYÊN NỘI BÀO, HỘI CHỨNG VÀ UNG THƯ TƯƠNG ỨNG

Kháng Thể Hội Chứng Thần
Kinh Cận Ung Thư
Ung Thư
Anti-Hu
Anti-Yo
Anti-Ri
Anti-Tr
Anti-CV2/CRMP5
Anti-Ma
Anti-amphiphysinRecoverin,kháng tế bào 2 cựcaAnti-GAD
Viêm não tủy, bệnh thần kinh cảm giác bán cấp
Thoái hóa tiểu não
Thoái hóa tiểu não, hội chứng opsoclonus
Thoái hóa tiểu não
Viêm não tủy, múa giật, viêm thị thần kinh, viêm màng bồ đào, bệnh TK ngoại vi
Viêm não limbic, vùng dưới đồi, thân não
Hội chứng người cứng, viêm não tủy
Bệnh võng mạc do ung thưBệnh võng mạc do ung thư hắc tốHội chứng người cứng, HC tiểu não
Ung thư phổi tế bào nhỏ
Vú, buồng trứng
Vú, phụ khoa, phổi
U limpho Hodgkin
Ung thư phổi tế bào nhỏ, tuyến ức
Tinh hoàn (Ma2),
khác (Ma)
Vú, phổiPhổi, ung thư hắc tốU tuyến ức

Các Rối Loạn Của Thần Kinh Trung Ương và Hạch Gai Do Ung Thư

MRI và xét nghiệm dịch não tủy có vai trò quan trọng để loại từ các biến chứng thần kinh do xâm lấn trực tiếp của ung thư. Trong hầu hết các rối loạn thần kinh, dấu hiệu trên MRI thường không đặc hiệu. Xét nghiệm dịch não tủy có thay đổi tế bào từ mức nhẹ – nặng (<200 tế bào đơn nhân, chủ yếu là lympho), nồng độ protein tăng, tăng tổng hợp Ig nội bào. 

  • Viêm não limbic đặc trưng bởi tình trạng lo lắng, trầm cảm, mất trí nhớ ngắn hạn nặng, cơn co giật cục bộ và giảm trí nhớ; MRI thường cho thấy bất thường thùy thái dương một bên hoặc 2 bên.
  • Thoái hóa tiểu não ‘’cận ung thư” khởi phát bằng triệu chứng chóng mặt, nhìn mờ, nhìn đôi, buồn nôn, nôn; một vài ngày hoặc vài tuần sau xuất hiện đau khớp, thất điều, có thể khó nuốt.
  • Hội chứng Opsoclonus-myoclonus gồm dấu hiệu mắt di động hỗn loạn, ngoài ý muốn kèm theo giật cơ; thường liên quan với thất điều.

aVai trò trực tiếp gây bệnh của kháng thể này đã được chứng minh

bAnti-VGKC là tác nhân gây bệnh của một số loại tăng TLC thần kinh.

cAnti-VGCC gây ra HC Lambert-Eaton dNghi ngờ gây bệnh.

Viết tắt: AChR, acetylcholine receptor;

AMPAR, α-amino-3-hydroxy-5-methylisoxazole-4-propionic acid receptor;

GABABR, Gamma-amino-butyric acid B receptor;

GAD, glutamic acid decarboxylase;

NMDAR, N-methyl-d-aspartate receptor

Bệnh hoại tử tủy cấp tính: Gần đây, hội chứng tủy sống cận ung thư ngày càng giảm; chưa rõ là do cải thiện trong điều trị ung thư hay do cải thiện chẩn đoán các nguyên nhân không phải do ung thư.

 Bệnh võng mạc cận ung thư liên quan đến rối loạn chức năng tế bào nón, và que đặc trưng bởi mất nhận cảm ánh sáng, màu sắc tăng dần, ám điểm trung tâm hoặc ngoại vi, quáng gà, giảm đáp ứng trên điện võng mạc.

 Bệnh hạch gai (bệnh thần kinh cảm giác) đặc trưng bởi mất cảm giác đối xứng hoặc không đối xứng, loạn cảm giác đau, giảm hoặc mất phản xạ; Tất cả các cảm giác đều bị ảnh hưởng

Rối Loạn Của Thần Kinh và Cơ

Các rối loạn này có thể xuất hiện ở bất kì thời điểm nào của bệnh ung thư. Xét nghiệm cố định miễn dịch trong máu, nước tiểu nên được cân nhắc làm ở bệnh nhân có bệnh thần kinh ngoại biên chưa rõ nguyên nhân.

Phát hiện các Ig đơn dòng thì cần làm thêm các xét nghiệm để phát hiện ung thư tế bào B, tương bào. Trong bệnh thần kinh cận ung thư, xét nghiệm kháng thể chẩn đoán chỉ giới hạn với kháng thể anti-CV2/CRMP5 và anti-Hu.

ĐIỀU TRỊ Hội Chứng Thần Kinh Cận Ung Thư

Điều trị chủ yếu tập trung vào phát hiện và kiểm soát khối u; một số bệnh nhân khi kiểm soát tốt khối u thì các triệu chứng thần kinh ổn định, thậm chí được cải thiện.

Đáp ứng khác nhau ở các bệnh nhân khi điều trị bằng corticoid và các chất ức chế miễn dịch khác.

Các rối loạn do kháng thể với các kháng nguyên bề mặt hoặc tại synap có đáp ứng tốt hơn với điều trị.

Nội Soi Đại Tràng: Những Điều Cần Biết

Nếu bác sĩ của bạn khuyên bạn nên làm nội soi đại tràng, đừng lo lắng. Bạn có thể nghĩ rằng đó sẽ là một thủ tục kinh khủng, nhưng thực tế không phải vậy. Có thể bạn sẽ không nhớ gì vì bạn sẽ không tỉnh táo khi làm thủ tục này. (Hầu hết mọi người cho rằng việc chuẩn bị cho thủ tục mới là phần tồi tệ nhất.)

Nội soi đại tràng là một cuộc kiểm tra mà bác sĩ sử dụng để nhìn vào bên trong ruột già của bạn nhằm tìm kiếm các nguyên nhân có thể gây ra những vấn đề như đau bụng, chảy máu trực tràng hoặc thay đổi thói quen đại tiện.

Nội soi đại tràng cũng được sử dụng để ngăn ngừa ung thư đại tràng, và được khuyến nghị bắt đầu thực hiện từ tuổi 45. Trong quá trình nội soi, những khối u bất thường, gọi là polyp, có thể được loại bỏ trước khi chúng chuyển thành ung thư.

Tôi Cần Làm Gì Trước Khi Khám?

Trước khi thực hiện nội soi đại tràng, bác sĩ sẽ muốn biết về bất kỳ tình trạng y tế đặc biệt nào mà bạn có thể mắc phải, bao gồm:

  • Mang thai
  • Bệnh thận
  • Các bệnh lý về phổi
  • Các bệnh lý về tim
  • Dị ứng với thuốc

Cũng hãy cho bác sĩ biết nếu bạn bị tiểu đường hoặc đang sử dụng thuốc có thể ảnh hưởng đến quá trình đông máu. Họ có thể cần điều chỉnh các loại thuốc này trước khi thực hiện thủ tục.

Tôi Cần Chuẩn Bị Như Thế Nào?

Để có một cuộc nội soi đại tràng thành công, bạn phải có ruột già sạch sẽ. Điều này có nghĩa là bạn cần phải hạn chế chế độ ăn uống ít nhất 24 giờ trước khi thực hiện thủ tục. Thường thì thực phẩm rắn sẽ không được phép, nhưng bác sĩ thường sẽ nói rằng bạn có thể uống các loại chất lỏng trong suốt, chẳng hạn như:

  • Cà phê
  • Nước dùng
  • Nước
  • Nước uống thể thao

Bước tiếp theo là làm sạch ruột. Bác sĩ có thể yêu cầu bạn làm điều này theo một trong hai cách sau:

  • Uống thuốc nhuận tràng theo toa – thường là polyethylene glycol – để gây đi ngoài.
  • Kết hợp thuốc nhuận tràng với một loạt các loại thuốc thụt.

Họ có thể yêu cầu bạn thực hiện điều này vào đêm trước khi nội soi hoặc vào đêm trước và sáng hôm sau của thủ tục. Hãy chắc chắn làm theo hướng dẫn của họ một cách chính xác.

Hãy chắc chắn sắp xếp để có người đưa bạn về nhà sau khi nội soi đại tràng. Bạn sẽ được gây mê, có nghĩa là bạn sẽ không tỉnh táo trong suốt quá trình này. Sẽ không an toàn nếu bạn lái xe hoặc vận hành máy móc trong ít nhất 8 giờ sau đó.

Nội Soi Đại Tràng Được Thực Hiện Như Thế Nào?

Trong quá trình nội soi đại tràng, bạn sẽ nằm nghiêng bên trái trên bàn khám. Bạn sẽ nhận được thuốc an thần qua IV ở cánh tay và bạn sẽ đi vào giấc ngủ.

Trong quá trình thực hiện, bác sĩ sẽ đưa một dụng cụ hình ống gọi là ống nội soi vào trực tràng của bạn. Ống này dài nhưng chỉ khoảng nửa inch đường kính. Nó có đèn và camera video ở đầu ống, giúp bác sĩ nhìn thấy niêm mạc ruột già của bạn và xác định nếu có vấn đề nào.

Ống nội soi cũng bao gồm một ống cho phép bác sĩ bơm không khí vào và làm phồng ruột của bạn. Điều này sẽ giúp họ có cái nhìn rõ hơn về ruột già và niêm mạc của nó.

Trong quá trình kiểm tra, bác sĩ có thể sử dụng một cái kẹp nhỏ trong ống nội soi để lấy mẫu nhỏ của ruột bạn để thử nghiệm, điều này được gọi là sinh thiết. Họ cũng có thể sử dụng nó để lấy đi các khối u bất thường gọi là polyp.

Điều Gì Xảy Ra Sau Khi Khám?

Toàn bộ thủ tục sẽ mất từ 20 đến 30 phút. Bạn sẽ ở lại phòng hồi sức khoảng 30 phút đến một giờ để tỉnh lại từ thuốc an thần.

Bạn có thể cảm thấy đau quặn bụng hoặc xì hơi, nhưng đây là những triệu chứng bình thường. Bạn có thể ăn uống trở lại bình thường sau khi rời khỏi phòng khám của bác sĩ.

Hãy chắc chắn rằng bạn hiểu các hướng dẫn bạn nhận được trước khi về nhà. Bạn có thể cần tránh một số loại thuốc, chẳng hạn như thuốc làm loãng máu, trong một hoặc hai ngày nếu bác sĩ đã thực hiện sinh thiết hoặc loại bỏ bất kỳ polyp nào.

Chảy máu và thủng ruột già là những vấn đề hiếm nhưng có thể xảy ra trong một cuộc nội soi đại tràng. Gọi ngay cho bác sĩ của bạn nếu bạn có bất kỳ triệu chứng nào sau đây:

  • Chảy máu nhiều hơn một chút hoặc chảy máu kéo dài lâu.
  • Đau bụng dữ dội, sốt hoặc ớn lạnh.

Xét nghiệm phát hiện đột biến gen trong bệnh máu di truyền

1. ĐẠI CƯƠNG

Bệnh máu di truyền là cụm từ chỉ các bệnh lý huyết học có thể truyền lại cho các thế hệ sau. Trong các bệnh lý huyết học di truyền, có hai nhóm bệnh phổ biến nhất và tác động lớn đến xã hội đó là bệnh hemophilia và thalassemia.

Phân tích di truyền trong bệnh hemophilia và thalassemia là sử dụng các kỹ thuật sinh học phân tử để xác định các đột biến gây bệnh; sau đó sử dụng chính đột biến này để sàng lọc cho các thành viên trong gia đính nhằm phát hiện người mang gen. Mục đích của việc tìm kiếm người mang gen là để quản lý, tư vấn tiền hôn nhân và tư vấn sinh sản, giúp họ có cơ hội sinh ra những đứa con khỏe mạnh. Đây là vấn đề then chốt trong việc kiểm soát, ngăn chặn nguồn gen bệnh lây lan ra cộng đồng.

2.    CHỈ ĐỊNH XÉT NGHIỆM PHÁT HIỆN ĐỘT BIẾN GEN TRONG BỆNH HEMOPHILIA

Có hai phương pháp phân tích di truyền để phát hiện người mang gen trong các gia đình có tiền sử hemophilia, đó là:

2.1.    Phân tích liên kết (linkage analysis)

Là sử dụng các đa hình (polymorphism) trong gen mã hóa yếu tố VIII và yếu tố IX để lần theo dấu vết của gen bệnh, không cần biết đó là đột biến gì.

Trình tự chỉ định xét nghiệm:

Chỉ định phân tích các đa hính phổ biến trên gen mã hóa yếu tố VIII và yếu tố IX trước (các đa hính phổ biến trong hemophilia A gồm G/A (exon 7), (CA)n (int22), (CA)n (int13), T/A (BclI), G/A (XbaI), C/T (BglI), A/G (HindIII), G/A (MspI); các đa hình phổ biến trong hemophilia B gồm Dde I, Mse I, Xmn I, Msp I, Taq I, Mnl I, Hha I. Sau đó, nếu các đa hính này không thể sử dụng để phân tích thì sử dụng các đa hính ìt phổ biến khác.

2.2.    Phân tích đột biến

Là tím đột biến ở người nam giới bị bệnh trong gia đính, sau đó sử dụng đột biến này để chẩn đoán tính trạng mang gen của nữ giới trong gia đính và chẩn đoán trước sinh.

Hướng dẫn chỉ định xét nghiệm phát hiện đột biến gen trong bệnh hemophilia bằng phương pháp phân tích đột biến (xem sơ đồ 1).

Sơ đồ 1: Tóm tắt thứ tự chỉ định xét nghiệm trong phương pháp phân tích trực tiếp các đột biến trong bệnh Hemophilia (tham khảo hướng dẫn chẩn đoán phân tử bệnh hemophilia của UK Haemophilia Centre Doctors’ Organisation (UKHCDO), sơ đồ chẩn đoán này đã được áp dụng ở nhiều nước):

 

3.    CHỈ ĐỊNH XÉT NGHIỆM PHÁT HIỆN ĐỘT BIẾN GEN TRONG BỆNH THALASSEMIA

3.1.    Tìm đột biến ở người bệnh

Trong bệnh Thalassemia có nhiều đột biến gen và các đột biến rất đa dạng. Để tìm đột biến gen Thalassemia, nên thực hiện theo các bước sau:

Bước 1: Tập trung sàng lọc các đột biến phổ biến

  • Những đột biến phổ biến trong α-Thalassemia: SEA, THAI, FIL, α4.2, α7, HbCs, HbQs, HbParkes;
  • Những đột biến phổ biến trong β-Thalassemia: Codon 41/42, codon 17, codon 95, codon 71/72, IVS I-5, codon 26, IVSI-1, IVSII-654, -28, -29, codon 14/15.

Bước 2: Nếu người bệnh âm tính với tất cả các đột biến phổ biến sàng lọc ở bước 1 thì cần giải trình tự gen α-globin hoặc β-globin để tìm các đột biến khác.

 

3.2.    Sàng lọc người mang gen và chẩn đoán trước sinh.

Sau khi đã tìm được đột biến gây bệnh ở người bệnh, sử dụng chính đột biến này để sàng lọc người mang gen và chẩn đoán trước sinh cho thai nhi của người nữ mang gen trong gia đình.

Cách làm sạch cọ trang điểm đúng cách

Cọ trang điểm dễ dàng trở thành nơi ẩn chứa vi khuẩn, cặn trang điểm, dầu nhờn và bụi bẩn, tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát triển và có thể gây hại cho da. Vì lý do này, bạn nên cố gắng rửa cọ trang điểm sau mỗi 7 đến 10 ngày.

Cách làm sạch cọ trang điểm đúng cách là gì?

Sử dụng các phương pháp làm sạch cọ đúng cách có thể giúp bảo vệ làn da khỏi mụn, kích ứng da và nhiễm trùng. Dưới đây là quy trình từng bước mà bạn có thể sử dụng để làm sạch cọ trang điểm hiệu quả:

  1. Rửa cọ: Bước đầu tiên là rửa đầu cọ trang điểm. Chỉ rửa phần đầu cọ dưới vòi nước ấm chảy để làm sạch cặn trang điểm còn sót lại. Hãy cẩn thận không để nước ngấm toàn bộ đầu cọ, vì nước ấm có thể làm tan keo nối giữa cán và đầu cọ.
  2. Dùng dầu gội: Ở bước này, bạn có thể sử dụng dầu gội làm sạch sâu hoặc dầu gội nhẹ. Đổ một thìa canh dầu gội vào bát nước ấm. Tránh dùng xà phòng vì có thể làm khô lông cọ.
  3. Xoay và mát-xa: Sau khi pha trộn dầu gội và nước, xoay đầu cọ trong hỗn hợp. Bạn cũng có thể mát-xa đầu cọ trong lòng bàn tay để tạo bọt nhiều hơn.
  4. Rửa lại: Rửa lại đầu cọ dưới vòi nước chảy lần thứ hai.
  5. Lặp lại quy trình: Lặp lại bước dùng dầu gội và rửa đến khi thấy nước chảy ra từ cọ trở nên trong suốt. Đây là dấu hiệu cho thấy cọ đã sạch hoàn toàn.
  6. Vắt khô: Sau khi chắc chắn rằng cọ đã sạch, dùng khăn giấy khô để vắt bớt nước thừa từ lông cọ.
  7. Phơi khô: Khi cọ đã khô hơn, đặt chúng nằm phẳng trên khăn khô, đầu cọ nhô ra ngoài, không nên để dựng đứng. Việc dựng đứng có thể khiến nước chảy xuống làm lỏng keo.

Cọ trang điểm thường khô sau một ngày hoặc qua đêm. Nếu cọ cảm thấy cứng sau khi làm sạch, hãy thoa một ít dầu xả lên lông cọ, rửa lại bằng nước và để phơi khô phẳng. Điều này có thể giúp làm mềm lông cọ.

Cách làm sạch cọ trang điểm đúng cách
Cách làm sạch cọ trang điểm đúng cách

Dùng gì để làm sạch cọ trang điểm?

Có một số sản phẩm gia dụng bạn có thể sử dụng để làm sạch cọ trang điểm, bao gồm:

  • Xà phòng rửa chén: Xà phòng rửa chén có thể loại bỏ hiệu quả cặn trang điểm đã bám cứng. Thoa xà phòng lên miếng bọt biển và chà cọ lên miếng bọt biển có xà phòng đó.
  • Giấm và chanh: Sự kết hợp giữa giấm và chanh là chất khử trùng tuyệt vời, giúp diệt khuẩn và mang lại mùi hương dễ chịu. Đổ hai thìa canh giấm trắng vào cốc nước nóng. Rửa đầu cọ trong hỗn hợp, sau đó rửa lại bằng nước ấm. Sau đó, chà đầu cọ lên nửa quả chanh để loại bỏ mùi giấm. Giấm táo cũng là một lựa chọn tốt khi kết hợp với chanh.
  • Dầu gội trẻ em: Dầu gội trẻ em có tác dụng làm sạch cọ trang điểm rất tốt và dịu nhẹ cho lông cọ. Thêm một giọt dầu gội vào nước ấm và xoay cọ trong hỗn hợp. Mát-xa lông cọ bằng tay, sau đó rửa lại bằng nước và phơi khô phẳng.

Bao lâu thì nên làm sạch cọ trang điểm?

Tần suất làm sạch cọ trang điểm phụ thuộc vào loại sản phẩm bạn sử dụng. Nếu bạn sử dụng cọ để thoa sản phẩm ướt hoặc có thành phần lỏng (như kem che khuyết điểm và kem nền), bạn nên rửa cọ ít nhất một lần mỗi tuần. Điều này giúp loại bỏ sản phẩm bám trên cọ và giúp cọ hoạt động hiệu quả hơn.

Đối với các cọ dùng quanh mắt, bạn nên rửa chúng sau mỗi hai tuần. Điều này cũng áp dụng cho các cọ dùng để thoa sản phẩm khô (như phấn mắt và bút kẻ mắt). Vùng mắt dễ bị nhiễm trùng hơn da, do đó cần chú ý làm sạch cọ thường xuyên hơn.

Các cọ dùng để thoa các sản phẩm khô như phấn phủ chỉ cần rửa mỗi tháng một lần.

Ngoài ra, hãy chú ý đến các miếng bọt biển bạn sử dụng với các sản phẩm lỏng. Giống như mọi loại bọt biển khác, chúng hấp thụ ẩm và trang điểm. Nếu bạn không giữ bọt biển sạch sẽ, nó có thể thúc đẩy sự phát triển của nấm men và vi khuẩn trên da. Hầu hết các nhà sản xuất trang điểm đều dùng chất bảo quản để ngăn điều này, nhưng nếu lớp trang điểm tích tụ qua nhiều tháng, bạn có thể bị nhiễm trùng nếu da có vết trầy xước.

Kết luận

Sử dụng cọ trang điểm bẩn có thể gây ra nhiễm trùng da, dị ứng và mụn trứng cá, nhưng điều này hoàn toàn có thể ngăn ngừa được nếu bạn làm sạch cọ thường xuyên. Tránh chia sẻ cọ trang điểm với người khác và hãy rửa cọ mà bạn sử dụng thường xuyên. Nếu bạn gặp phải phản ứng da hoặc nhiễm trùng và nghi ngờ rằng cọ trang điểm là nguyên nhân, hãy tìm đến sự trợ giúp chuyên nghiệp từ bác sĩ da liễu.

Nếu bạn nhận thấy cọ trang điểm bị mòn hoặc mất dáng, hãy cân nhắc thay mới chúng. Không nên giữ lại nếu chúng không còn hoạt động hiệu quả

Penicillin Dành Riêng Cho Bệnh Viện

Ticarcillin

Ticarpen ® (Smith Kline Becham)

Penicillin thuộc nhóm carboxypenicillin, có hoạt phổ rộng hơn các aminopenicillin và được dùng cho cả các loại vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa, colibacille, Proteus indol, Enterobacter, Moraxella, Providencia, Serratia, Acinetobacter, Bacteroides fragilis. Thuốc bị bất hoạt bởi penicillinase do tụ cầu tiết ra.

Sinh ra nhanh các chủng đề kháng; phối hợp với aminosid trong các nhiễm trùng nặng. Thử độ nhậy in vitro là cần để xác định độ nhạy của chủng vi khuẩn.

Liều dùng: để điều chỉnh khi sụy thận.

  1. Người lớn: 250mg/kg/ngày theo đường tiêm bắp hay tĩnh mạch
  2. Trẻ em 300mg/kg/ngày.

Thận trọng

  1. Khi có thai hay cho con bún lưu ý thuốc đi qua rau thai và vào sữa mẹ.
  2. Giảm liều khi suy thận.

Chống chỉ định

Đã bị mẫn cảm với penicillin.

Tác dụng phụ

Phản ứng dị ứng

Thừa natri

Thời gian máu chảy kéo dài.

PHỐI HỢP

Ticarcillin + acid clavulanic

Co. ticarciclav

Claventin ® (SmithKline Beecham)

Sự phối hợp của ticarcillin và acid clavulanic cho phép mở rộng hoạt phổ của ticarcillin tới các tụ cầu khuẩn tiết men penicillinase (trừ các chủng kháng methicillin) và nhiều loại vi khuẩn khác tiết men penicillinase. Tuy vậy, vẫn cần thử độ nhạy in vitro để xác định độ nhạy của chủng. Không được chỉ định trong các trường hợp viêm màng não.

Piperacillin

Piperacillin – tên thông dụng Pipérilline ® (Lederle)

Ureidopenicillin, được dùng trong các nhiễm trùng do các chủng nhậy cảm.

Phổ tác dụng

Cầu khuẩn gram dương: liên cầu khuẩn (gồm cả cầu khuẩn ruột và phế cầu khuẩn).

cầu khuẩn gram âm: lậu cầu khuẩn, não mô cầu.

Trực khuẩn gram âm: colibacille,

Citrobacter, Klebsiella, Enterobacter, Serratia, Proteus, Providensia,       Salmonella, Shigella, Yersina entercolitica, Pseudomonas,       aeruginosa, Acinetobacter.

Các chủng khác: Heamophilus,

Branhamella,           Clostridium, Bacteroides, Fusobacterium.

 Các chủng đề kháng: tụ cầu tiết men penicillinase, Legionella, Mycoplasma,          Chlamydiae,

Rickettsiae, Mycobacterium.

Liều dùng:       theo đường uống

200mg/kg/ngày với người lớn và tối 300mg/kg/ngày cho trẻ em trong trường hợp bị bệnh nhầy nhớt.

Thận trọng

Giảm liều khi bị suy thận.

Ngừng dùng thuốc khi thấy xuất hiện các biểu hiện dị ứng.

Khi có thai và cho con bú: lưu ý thuỗc đi qua rau thai và vào sữa mẹ.

Chống chỉ định

Đã bị dị ứng với penicillin.

PHỐI HỢP

Piperacillin + tazobactam

Tazocilline ® (Lederle)

Tazobactam là một chất ức chế beta lactamase, mở rộng hoạt phô của piperacillin.

Chỉ định: các nhiễm trùng trong Ổ bụng, khoang chậu và da do các chủng nhạy cảm; do có hoạt phô mỏ rộng, thuốc này có thể hữu ích trong các loại viêm đa khuẩn ở 0 bụng hay ở bàn chân của người bị tiểu đường; trong các nhiễm trùng ít trầm trọng dùng thuốc này có thể làm phát triển các chủng đề kháng.

CÁC UREIDOPENICILLIN KHÁC

Mezlocillin

Baypen ® (Bayer)

Có cùng hoạt phổ như piperacillin

Liều dùng: theo đường tĩnh mạch 240-300mg/kg/ngày; giảm liều khi bị suy thận.

Pivmecillinam xem mục riêng về thuốc.

Bệnh cầu thận thứ phát – Chẩn đoán và điều trị

Định nghĩa: là bệnh lý của cầu thận thứ phát sau các bệnh toàn thân.

Lupus ban đỏ rải rác

2/3 số bệnh nhân bị lupus ban đỏ rải rác, nhất là phụ nữ từ 20 đến 40 tuổi, bị tổn thương ở thận. Trong 1/3 số trường hợp, các rối loạn về thận là các triệu chứng ban đầu của bệnh chất tạo keo (collagenose). Tổn thương ở thận là do lắng đọng .các phức hợp miễn dịch lưu hành trong máu.

TRIỆU CHỨNG: rất khác nhau, từ đái ra máu và protein niệu kín đáo đến hội chứng thận hư có protein niệu cao hay suy thận tiến triển nhanh.

CHỌC DÒ-SINH THIẾT THẬN: cho phép phân biệt 5 loại tổn thương:

  • Loại I: không có tổn thương.
  • Loại II đến loại V: bệnh cầu thận có tổn thương rất nhỏ (II), ổ tổn thương tăng sinh (III), tăng sinh lan toả (IV), tổn thương màng- tăng sinh (V).

TIÊN LƯỢNG: rất khác nhau. Phụ thuộc vào kết quả sinh thiết thận. Tiên lượng xấu với các loại IV và V. Nếu không được điều trị thì có thể tiến triển thành suy thận mạn tính giai đoạn CUỐI trong vòng vài tuần; hoặc ngược lại, các tổn thương thận được giới hạn và ổn định trong nhiều năm.

ĐIỀU TRỊ: không cần điều trị các loại I và các tổn thương thận đơn độc của loại II. Với các loại III, IV và nhất là loại V cần điều trị bằng corticoid liều cao, đôi khi phải kết hợp với một thuốc gây độc tế bào.

Viêm nút quanh động mạch

2/3 số trường hợp có biến chứng ở thận.

TRIỆU CHỨNG: xuất hiện ở người còn trẻ, có vẻ khoẻ mạnh hay đã từng có các triệu chứng của một bệnh toàn thân. Tổn thương thận thể hiện bằng một viêm cầu thận cấp tiến triển nhanh, viêm cầu thận mạn tính. Huyết áp cao, đái ra máu vi thể nhiều, đôi khi đái ra máu đại thể là các triệu chứng đặc trưng của viêm nút quanh động mạch.

Chụp động mạch thận cho thấy có các vi phình động mạch.

CHỌC DÒ-SINH THIẾT THẬN: thành các động mạch trong thận bị hoại tử. Các cầu thận bị thoái hoá do bị hyalin hoá.

TIÊN LƯỢNG: rất khác nhau. Có những thể mạn tính tiến triển rất chậm sang suy thận mạn tính, những thể tiến triển từng đợt xen kẽ với những khoảng im lặng dài hoặc ngắn, những thể cấp, bán cấp hay có cao huyết áp.

ĐIỀU TRỊ: xem viêm nút quanh động mạch, cần điều trị tích cực huyết áp cao.

Bệnh Schonlein-Henoch hay ban xuất huyết do khớp

Bệnh của trẻ em và của người trẻ tuổi, nhất là nam giới, 30% số trường hợp có tổn thương thận rõ rệt và có quan hệ với bệnh Berger (xem bệnh này).

TRIỆU CHỨNG: thận bị tổn thương vài ngày sau khi bệnh khởi phát (đau bụng, đau khớp, ban xuất huyết).

Đôi khi protein niệu cao, có hội chứng thận hư, đái ra máu vi thể nhiều và có thể đái ra máu đại thể. Hiếm khi có huyết áp tăng cao.

50% số trường hợp cấp tính có nồng độ IgA trong máu tăng. Bổ thể trong huyết thanh bình thường.

CHỌC DÒ-SINH THIẾT THẬN: lắng đọng các globulin miễn dịch (chủ yếu là IgA) trong các tế bào gian mạch. Trong giai đoạn cấp tính hay ở các thể nặng có một số mảnh khuyết.

TIÊN LƯỢNG: ở trẻ nhỏ thường khỏi hoàn toàn, 50% số trường hợp bị tái phát. 25% số trường hợp ở người lớn tiến triển thành suy thận mạn tính.

ĐIỀU TRỊ: ít kết quả (xem ban xuất huyết dị ứng).

Tiểu đường- Xơ hoá cầu thận của Kimmelstiel-Wilson

TRIỆU CHỨNG: ở bệnh nhân bị tiểu đường hơn 15 năm, người ta thấy có protein niệu kèm theo đái ra máu vi thể, hiếm khi đái ra máu đại thể. Protein niệu có thể rất cao và dẫn đến hội chứng thận hư, có phù. Mức độ suy thận càng nặng thì protein niệu càng có xu hướng giảm. Thường có huyết áp tăng cao sau nhiều năm tiến triển bệnh. Thường có cả tổn thương võng mạc do tiểu đường. Viêm đa dây thần kinh do tiểu đường cũng là một biến chứng của tổn thương thận do tiểu đường.

ĐÁI RA ALBUMIN VI THỂ (30 – 300 mg/24 giò) kéo dài là một chỉ điểm của bệnh thận do tiểu đường. Các giá trị cao hơn nữa cho thấy bệnh đang tiến triển tối giai đoạn suy thận.

CHỌC DÒ-SINH THIẾT THẬN: ở giai đoạn nặng thấy có xơ hoá cầu thận lan toả (màng đáy bị dầy lên) và xuất hiện các cục Kimmelstiel- Wilson (các thể tròn, nằm giữa các mao mạch, đồng tâm, ưa acid và bên trong không chứa tế bào).

TIÊN LƯỢNG: tiên lượng bệnh thận do tiểu đường được cải thiện nhờ điều trị tăng huyết áp sớm, nhất là bằng captopril.

ĐIỀU TRỊ: điều trị thật cẩn thận huyết áp cao và nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Đến giai đoạn cuối, bệnh nhân tiểu đường chịu đựng lọc máu kém hơn người không bị tiểu đường.

Nhiễm HIV

Các triệu chứng của bệnh thận có thể xuất hiện ở giai đoạn AIDS hay ARC (Aids Related Complex- Các bệnh liên quan đến AIDS). Lúc đầu có urê huyết tăng vừa phải và protein niệu cao gợi ý có hội chứng thận hư.

Chụp siêu âm cho thấy các thận to.

Chọc dò-sinh thiết thận cho thấy có ổ xơ hoá cầu thận từng đoạn, có lắng đọng IgM và C3.

Huyết áp động mạch bình thường. Tiến triển nhanh trong vòng 3-4 tháng sang suy thận giai đoạn cuối.

Bệnh cầu thận này có thể có liên quan với nghiện heroin.

Viêm loét dạ dày tá tràng nên ăn gì để khỏi bệnh

Loét dạ dày – tá tràng là một bệnh dai dẳng, khó chữa thường gặp trong bệnh tiêu hóa.

1.1. Y học hiện đại cho là bệnh tại chỗ, nguyên nhân toàn thân, vết loét xảy ra không biết tại sao và lúc nào. Có thể ở dạ dày hoặc tá tràng (Loét tá tràng thường gặp hơn).

Triệu chứng: Đau thượng vị, có chu kỳ trong ngày, sau bữa ăn; chu kỳ trong năm, 02-03 tuần lễ về mùa rét. Đau ngay sau bữa ăn trong loét dạ dày, đau xa bữa ăn 04-05 giờ trong loét tá tràng, kèm theo ợ hơi, ợ chua hoặc ói ra một số thức ăn, gây đau tức thì. Uống Natri Bicarbonat thi giảm đau ngay.

Biến chứng: chảy máu dạ dày, thủng, hẹp môn vị, ung thư hóa.

1.2. Y học cổ truyền gọi là Vị quản thống thông thường do rối loạn về tâm lý xã hội (thất tình) do Can khí uất trệ hoặc do ăn uống. Chia làm 02 thể:

– Can khí phạm vị hay Can khắc Tỳ: Thể này thường gặp ở bệnh nhân loét hành tá tràng.

– Tỳ vị hư hàn: Thể này thường gặp ở bệnh nhân loét dạ dày.

Viêm loét dạ dày – tá tràng phát sinh ở tạng Tỳ nhưng cơ chế có liên quan với các tạng khác, nên có nhiều triệu chứng (còn gọi là Hội chứng dạ dày – tá tràng) kể cả triệu chứng đau cũng không giống nhau, ta cần biết để chọn thức ăn cho phù hợp trong Thực đơn II thì mới nâng cao được hiệu quả.

Chứng Can vị khí thống (chứng đau của co thắt môn vị): là trạng thái thần kinh dạ dày bị ảnh hưởng do phiền não, lo uất, nổi giận (Can khí uất kết), chỉ là đau do co thắt có tính chất thần kinh mà thôi, không đau như thực tích, như loét dạ dày, như ung thư dạ dày. Khi đau nhức chủ yếu là sình hơi, chướng khí, thậm chí còn ảnh hưởng tạng khí ở gần như gan, tụy. Vị trí đau là hõm ức, dùng tay xoa bóp, ấn vào đó, cảm thấy bụng dãn ra. Sau khi ợ hoặc trung tiện, bệnh tình giảm nhẹ dần. Nhưng nếu bỏ tay ra thì đau lại xuất hiện, phải qua một thời gian dài mới khỏi đau lại, đó là đặc trưng của Can khí vi thống.

Trị chứng này, ngoài Thực đơn II, còn kết hợp dùng trái quất khô hay tươi nhai cả vỏ, vì trong vỏ quất có một loại túi mềm chứa một loại dịch thể có tính năng khuếch tán, nên sau khi ăn ợ hơi được ngay, sẽ thoải mái hoặc dùng bánh quất, vỏ quýt, vỏ chanh cũng được (xem phần thực phẩm số 14).

Thực tích vị thống: đau xảy ra sau khi ăn uống qua no. Khi đau không ưng xoa bóp, càng ấn bóp càng đau. Bụng no căng, rêu lưỡi dày nhớt, muốn mửa, tháo ra những thức nhơ bẩn. Sau khi ói mửa thì giảm đau, đó là đặc trưng bệnh dạ dày có thực tích gây đau.

Trị chứng này, tốt nhất là không nên ăn no và khi đau thì nhịn ăn là hay hơn tất cả.

Chứng Vị hàn thống (đau do vị toan quá nhiều): Niêm mạc dạ dày bị vị toan kích thích, loại đau dạ dày này thường thấy khi đói, lúc đó ngực bị đè nặng, lại có nước chua tràn ngược lên. Cần được xác định mức độ vị toan khi chẩn bệnh.

Trị chứng này là khắc chế nước chua: bột Mai mực, bột Vỏ hầu (Mẫu lệ), bột Bối mẫu, bột Thạch cao đều có công hiệu ức chế chất chua, chặn cơn đau, làm lành vết loét.

Chứng Vị quản thống (chứng đau của loét dạ dày): Ban đầu chỉ đau nhè nhẹ, dần dần đau nhiều, ở hõm ức có điểm ấn thấy đau. Thường đau ngay sau lúc ăn. Nếu thức ăn cứng tiếp xúc với chỗ đau thì lại càng đau dữ dội. Lúc đầu theo thần kinh giao cảm lan tới sườn lưng ngang đấy, cho nên ở lưng cũng có cảm giác đau. Càng ấn càng đau, đó là đặc trưng của loét dạ dày.

Trị chứng này, có thể kết hợp dùng những thứ nước uống như: nước ép bắp cải (cải bắp chứa nhiều loại Vitamin đặc biệt như Vitamin U chữa loét tốt) uống nửa ly nước này, uống trước khi ăn hoặc lúc đói. Ngoài ra còn dùng bột dạ dày lợn (sấy khô tán thành bột nhuyễn) hòa với nước sôi, uống 04g trước khi ăn bữa sáng.

Chứng đau loét hành tá tràng: Đau của loét hành tá tràng thường xuất hiện sau khi ăn hai, ba giờ, có lúc người bệnh ăn no rồi ngủ hoặc đêm khuya đang ngủ bị cơn đau làm tỉnh giấc, đó là đặc trưng của chứng đau loét hành tá tràng. Vị trí đau cũng ở hõm ức, nhưng lệch sang tay phải và thấp hơn một chút.

Trị chứng này hoàn toàn giống với trị liệu loét dạ dày, chỉ có sau khi loét hành tá tràng dễ sinh ra xuất huyết, cho nên phải chuẩn bị sẵn thực phẩm phòng ngừa xuất huyết là rất cần thiết như bột củ sen, nước củ sen nên uống mát, bột Mai mực, bột Tam thất.

Lưu ý: Khi bị xuất huyết phải nằm yên chờ thầy thuốc, không nên kinh hoàng. Chỉ nằm yên là đã có thể giảm bớt xuất huyết. Khi thầy thuốc chưa tới, có thể ứng dụng những loại thực phẩm trị bệnh: Nước muối nhạt (dùng nhúm muối hòa thành nước muối nhạt như nước biển) uống chầm chậm, làm cho tình trạng nôn ói hòa hoãn, chờ đến lúc thầy thuốc đến xử trí hoặc dùng nước củ sen mài sống uống vừa cầm máu, vừa bổ máu.

Trên đây là chữa chứng đau dạ dày – hành tá tràng bằng nước uống. Tiếp theo là thức ăn dùng trong bệnh dạ dày – hành tá tràng. Về nguyên tắc ăn uống, ăn chín nhừ, ngay cả cơm cũng phải nấu dẻo, không ăn nguội lạnh hoặc ăn quá nóng. Tùy theo triệu chứng mà ăn cháo hoặc ăn cơm nhưng ăn gì cũng phải nhai thật kỹ.

viêm loét dạ dày tá tràng
viêm loét dạ dày tá tràng

 1.3. Bệnh viêm loét dạ dày tá tràng nên ăn uống như thế nào?

Thức ăn: Dạ dày đau theo kiểu nào cũng dùng cháo hoặc cơm cốc loại (lấy gạo Lứt chủ yếu): gạo Lứt 60%, đậu tương, đậu đen, đậu đỏ, ngô mỗi loại 10%. Nên chế thành bột lên men hoặc bột sao vàng tốt hơn là luộc chín (chế biến như vậy mất công nhưng có lợi về mặt tiêu hóa). Nấu cháo gạo Lứt với ngô, ăn cũng rất tốt.

– Các loại Rau câu: chứa nhiều Iot, Canxi làm ổn định thần kinh và dạ dày, nên ăn trộn với xì dầu nguyên chất.

– Khoai sọ: không làm dạ dày, ruột khó chịu mà có tác dụng tăng cường sinh lực cho tế bào cơ thể, chưng cách thủy để ăn hoặc biển đậu nấu canh hay nấu cháo ăn.

– Ngó sen: có tác dụng cầm máu. Người bị Loét dạ dày – hành tá tràng nên xay thành bột rồi nấu ăn. Cũng như ngó sen, cà rốt, hành củ, dưa chuột… có nhiều Vitamin C, Canxi làm mạnh cơ dạ dày. Vì vậy, nên ăn nhiều rau xanh, ngoài ra nên thường xuyên ăn nấm, rau mùi, rau dền, tỏi, giá đỗ, xà lách, rau diếp cá, đậu Hà Lan, lá và củ cải (trong củ cải có nhiều Diastaza của men tiêu hóa). Bột củ cải có tác dụng làm dịch vị tiết ra bình thường, có hiệu quả về chữa viêm niêm mạc dạ dày. Cắt cơn đau dạ dày do lạnh bằng ăn một ít quả vải khô, công hiệu làm ấm dạ dày.

– Cải bắp, cà chua, rong biển… có nhiều Vitamin U chống loét.

– Khoai lang, súp lơ có nhiều Kali, Vitamin chữa loét có hiệu quả và bổ dạ dày. Những thứ này nên ăn, chế biến thành rau nộm, rau luộc chấm tương, trộn vừng hoặc chiên xào bằng dầu thực vật mà ăn thì tốt.

* Nước uống: Thay nước trà bằng nước Ngải cứu, Cam thảo, Mã đề… để uống nước ép rau thì dùng cà rốt, cà chua, cải bắp, cần tây, rau diếp cá, rau mùi… hòa thêm nước táo, cam, quýt, mơ, dừa, đu đủ, xoài thì dễ uống.

Lưu ý:

– Tránh những thực phẩm kích thích như rượu, cà phê, ca cao, cà ri, hồ tiêu, ớt, gừng già, thịt dê (có tính chất nóng).

– Tránh những thực phẩm có tính chất lạnh như cua, hàu sống, vịt, trai, phổ tai, đậu xanh, mướp đắng (khổ qua).

– Tránh những thực phẩm làm tăng vị toan như giấm chua, chanh, me, mơ… rau quả tươi tuy bổ ích nhưng lại có vị chua thì không nên ăn.

– Tránh những thức ăn khó tiêu và chế biến khô. Những thức ăn quá lạnh hoặc quá nóng, người đau dạ dày đều không chịu nổi những kích thích đó.

– Tùy từng người bệnh, tùy theo bệnh trạng nặng nhẹ, cấp tính hay mạn tính mà kết hợp với phương pháp NHỊN ĂN ngắn hay dài ngày trong quá trình điều trị. Với các chứng bệnh về tiêu hóa, nhịn ăn thường mang lại kết quả mau lẹ.

1.4. Một số món ăn tốt cho người bệnh dạ dày

  1. Cháo Sa sâm gạo tẻ: Sa sâm 20g, gạo tẻ 100g, đường phèn 30g. Gạo tẻ vo sạch, Sa sâm rửa sạch. Cho tất cả vào nồi, đổ vào một lượng nước vừa đủ, nấu nhừ thành cháo. Mỗi ngày ăn một lần. Công dụng Dưỡng Âm, ích vị, lý khí, giảm đau.
  2. Canh Rau sam đỗ xanh: Rau sam tươi 120g, đỗ xanh 100g. Rau sam nhặt rửa sạch, đỗ xanh rửa sạch, cho hai thứ vào nồi đổ vào một lượng nước vừa đủ nấu thành canh. Mỗi ngày ăn một lần. Công dụng: Thanh nhiệt, hóa thấp, gảm đau.
  3. Cháo phật thủ: Phật thủ 20g, canh mễ 100g, đường trắng 50g. Phật thủ rửa sạch cho vào nồi sắc lấy nước. Canh mễ vo sạch cho vào nồi nấu thành cháo. Sau khi nấu thành cháo thì cho thêm đường và nước phật thủ vào đun nhỏ lửa, đến khi sôi thì ăn được. Mỗi ngày ăn một lần. Công dụng: Xơ gan hòa vị, lý khí, chỉ thống.
  4. Nước cam mật ong: cam 50g, mật ong 30g. Rửa sạch cam, để cả vỏ cắt thành 04 miếng, cho vào nồi, cho vào một lượng nước vừa phải, bắc lên bếp đun sôi, cho mật ong vào, vặn lửa nhỏ nấu khoảng 20 phút, bắc ra, bỏ cam, lấy nước uống. Công dụng: Bổ trung ích khí, hoãn cấp chỉ đau, nhuận táo giải độc.
  5. Tô mộc nấu trứng vịt: Tô mộc 20g, trứng vịt vỏ xanh 02 quả. Trứng vịt cho vào nồi luộc chín, bỏ vỏ, cho trứng vịt cùng Tô mộc vào nồi nấu khoảng 30 phút. Mỗi ngày ăn một lần. Công dụng: hành khí hoạt huyết, kiện tỳ ích khí.
  6. Cháo nhục thung dung nấu thịt dê: Nhục thung dung 30g, thịt dê 100, canh mễ 250g. Thịt dê rửa sạch, thái miếng nhỏ, Nhục thung dung cho vào nồi sắc trước lọc bỏ bã, lấy nước nấu cháo. Cho thịt dê, canh mễ vào nước Nhục thung dung nấu thành cháo, cho gia vị vừa ăn. Mỗi ngày ăn một lần. Công dụng: Ôn nhuận thông tiện.

Vincarutine

VINCARUTINE

LABOMED – SERP

viên nang: hộp 45 viên.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Vincamine 20 mg
Rutoside 40 mg

DƯỢC LỰC

Vincarutine có tác động trên sự chuyển hóa của tế bào thần kinh do làm tăng sức tiêu thụ oxy và giảm tỷ lệ lactate/pyruvate.

Ngoài ra còn làm tăng lưu lượng máu về các nơi bị thiếu máu cục bộ. Các đặc tính này đã được xác nhận ở người và được đưa vào các y văn. Rutoside có tác động bảo vệ thành mạch máu.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Thuốc được hấp thu nhanh và đạt nồng độ tối đa trong máu sau 2 giờ. Thuốc được đào thải qua thận gồm 5 chất chuyển hóa và vicamine không bị biến đổi.

CHỈ ĐỊNH

Được đề nghị để cải thiện các triệu chứng suy giảm trí tuệ do bệnh lý ở người già (giảm khả năng chú ý và trí nhớ).

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Tân sinh mô não với tăng áp lực nội sọ.

Phối hợp với thuốc chống loạn nhịp hoặc gây xoắn đỉnh (xem Tương tác thuốc).

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Trong di chứng của nhồi máu cơ tim và trong các rối loạn thực thể của nhịp tim, liều phải được tăng từ từ và trong thời gian điều trị phải theo dõi điện tâm đồ.

Khi ở người bệnh, tính hưng phấn thay đổi do giảm kali huyết, chỉ nên bắt đầu điều trị sau khi đã ổn định trở lại kali huyết.

Vincamine không có tác dụng hạ huyết áp lâu dài và không miễn trừ cho một điều trị đặc hiệu cao huyết áp.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Chống chỉ định phối hợp:

  • Các thuốc gây xoắn đỉnh (amiodarone, bébridil, brétylium, disopyramide, érythromycine đường tĩnh mạch, nhóm quinidine, sotalol, sultopride): tăng nguy cơ gây xoắn đỉnh.

Không nên phối hợp:

  • Các thuốc gây hạ kali huyết: amphot ricine B (đường tĩnh mạch), gluco-, minéralocorticoide (đường toàn thân), tétracosactide, thuốc lợi tiểu hạ kali huyết, thuốc nhuận trường kích thích: nguy cơ gây xoắn đỉnh (hạ kali huyết là một yếu tố tạo thuận lợi, cũng như nếu bệnh nhân đang bị chậm nhịp tim hay QT dài).

Đối với amphotéricine B, thuốc lợi tiểu, corticoide và tétracosactide: dự phòng hạ kali huyết và điều chỉnh nếu cần ; theo dõi QT ; trường hợp bị xoắn đỉnh, không dùng thuốc chống loạn nhịp (gây điện tâm thu).

Đối với các thuốc nhuận trường kích thích: thay bằng nhóm thuốc nhuận trường không kích thích.

  • Các thuốc gây xoắn đỉnh (astémizole, halofandrine, pentamidine, sparfloxacine, terfénadine): tăng nguy cơ gây xoắn đỉ Nếu cần thiết phải phối hợp, nên tăng cường theo dõi lâm sàng và điện tâm đồ.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Liều thường dùng là mỗi lần 1 viên, 3 lần/ngày vào mỗi bữa ăn.