Blog Trang 497

Nguyên nhân sâu răng và cách phòng ngừa

Sâu răng gần như là một bệnh mắc phải do điều kiện môi trường, vì vậy các yếu tố tại chỗ là nguyên nhân cơ bản và chủ yếu của bệnh sâu răng còn nguyên nhân tổng quát chỉ là những yếu tố nguy cơ.

Nguyên nhân sâu răng

  • Nguyên nhân tại chỗ

Cần tối thiểu 4 yếu tố chính đồng thời tương tác với nhau để tạo nên sang thương sâu. Đó là: răng nhạy cảm, vi khuẩn (mảng bám), chất đường và thời gian (Keyes, 1969).

  • Tính nhạy cảm của răng

Điều hiển nhiên là phải có sự hiện diện của răng trong môi trường miệng, sau đó một số yếu tố làm tăng tính nhạy cảm của răng đối với sự khởi phát sâu răng ở mỗi cá thể như:

  • Vị trí của răng trên cung hàm

+ Răng mọc lệch lạc, xoay dễ bị sâu hơn răng mọc thẳng hàng.

+ Nhóm răng hàm bị sâu nhiều hơn nhóm răng cửa.

  • Đặc điểm hình thái học

+ Mặt nhai bị sâu nhiều nhất vì có nhiều rãnh lõm.

+ Mặt bên cũng dễ bị sâu vì men răng ở vùng cổ mỏng, giắt thức ăn.

+ Mặt trong, ngoài ít bị sâu hơn vì trơn láng.

  • Thành phần cấu tạo của răng

Răng bị khiếm khuyết trong cấu tạo như thiểu sản men, ngà rất dễ bị sâu.

  • Mòn răng

Răng bị mòn phần men cũng dễ bị sâu hơn (mòn răng có thể do chải răng sai phương pháp, móc răng giả, nghiến răng, ăn nhai lâu ngày…).hình răng sâu đến tủy răng

  • Tuổi răng

Răng mới mọc kém cứng, dễ bị tác dụng của acid, với thời gian men răng được tái khoáng hoá làm chúng đề kháng hơn với acid.

  • Vi khuẩn

Đây là nguyên nhân cần thiết để khởi đầu cho bệnh sâu răng, tuy không có loại vi khuẩn đặc biệt gây sâu răng, nhưng không phải tất cả vi khuẩn trong miệng đều gây ra sâu răng. Vi khuẩn bao gồm lượng mảng bám, các chất biến dưỡng và độc tố của nó.

Tùy theo vai trò gây sâu răng, các vi khuẩn được chia làm hai nhóm:

  • Vi khuẩn tạo acid

Các loại vi khuẩn này lên men carbohydrate tạo ra acid, làm pH giảm xuống < 5, sự giảm pH liên tục có thể đưa đến sự khử khoáng trên bề mặt răng, làm mất vôi ở các mô cứng của răng, quá trình sâu răng bắt đầu xảy ra, nhóm này gồm:

+ Lactobacillus acidophillus: hiện diện với số lượng ít, nhưng lại tạo ra acid có pH thấp rất nhanh trong môi trường.

+ Streptococcus mutans: đây là tác nhân chủ yếu gây ra sự thành lập mảng bám, dính trên bề mặt răng và nếu có sự hiện diện cùng lúc hai yếu tố chất đường, thời gian thì sẽ có đủ điều kiện thuận lợi để khởi phát sang thương sâu; sau đó L. acidophillus làm sang thương tiến triển xuống bên dưới bề mặt.

+ Actinomyces: cũng có thể gây sâu răng.

  • Vi khuẩn giải protein

Làm tiêu hủy chất căn bản hữu cơ sau khi mất vôi.

  • Thực phẩm

Là những thức ăn cần thiết mà cơ thể hấp thu vào để sống và hoạt động. Tuy nhiên, thực phẩm cũng là một yếu tố liên quan đến bệnh sâu răng, vì đó cũng là chất dinh dưỡng của vi khuẩn. Tùy theo loại thực phẩm, tính chất của thực phẩm và chế độ sử dụng nó, mà có thể sâu răng hoặc không.

  • Carbohydrat

Các chất bột, đường là loại thực phẩm gây sâu răng nhiều nhất. Trong đó đường là loại thực phẩm chủ yếu gây sâu răng và làm gia tăng sâu răng, đặc biệt là loại đường sucrose, đây là chất ưa thích của vi khuẩn gây sâu răng, nó chuyển hoá thành acid và chính sự sinh acid này làm mất khoáng men. Điều quan trọng là khả năng gây sâu răng không phải do số lượng đường, mà do số lần sử dụng và thời gian đường bám dính trên răng. Đường trong trái cây, rau (xilitol, sorbitol) ít gây sâu răng hơn đường trong bánh kẹo. Tinh bột không phải là nguyên nhân đáng kể, vì trong nước bọt có enzyme amylase biến tinh bột thành đường rất chậm.

  • Protid

Các loại Protid nguyên thủy ít gây sâu răng, ngược lại những loại protid được chế biến làm tăng sâu răng do tính chất bám dính của nó.

  • Lipid

Các chất béo không gây sâu răng.

Những thực phẩm có tính chất xơ ít gây sâu răng, trong lúc những thực phẩm mềm dẻo, dính vào răng thì dễ gây sâu răng hơn.

Chế độ ăn đầy đủ, đúng bữa, không ăn vặt sẽ giảm được sâu răng.

  • Thời gian

Vi khuẩn gây sâu răng sau khi nhiễm vào môi trường miệng, tự nó sẽ không gây sâu răng được mà cần phải có chất đường giúp cho sự chuyển hoá của vi khuẩn, tuy nhiên sâu răng không phụ thuộc vào số lượng, số lần sử dụng đường mà phụ thuộc vào thời gian đường và mảng bám vi khuẩn tồn tại trên bề mặt răng, thời gian tồn tại càng lâu thì vi khuẩn chuyển hoá đường thành acid càng nhiều và acid tấn công gần như thường xuyên trên bề mặt răng làm mất khoáng men.

Tuy nhiên, quá trình mất khoáng có thể phục hồi hoặc giảm mức độ nhờ các thành phần khác nhau trong nước bọt, tốc độ tiết.

  • Nước bọt

Là môi trường hoạt động của các vi khuẩn trong miệng, nước bọt tiết càng nhiều càng giảm sâu răng (trung bình một ngày nước bọt tiết ra 1.500cc, khi ngủ lượng nước bọt tiết ra giảm đồng thời việc chải rửa vi khuẩn và chất carbohydrat ở mức tối thiểu, vì vậy sâu răng tăng trong giờ nghỉ).

Ngoài ra tính chất nước bọt lỏng hay quánh cũng ảnh hưởng đến bệnh sâu răng, nước bọt càng quánh thì sâu răng càng cao.

Nước bọt giữ vai trò:

  • Trung hòa acid: trên bề mặt men răng luôn luôn xảy ra hai hiện tượng trái ngược nhau: sự tạo acid bởi vi khuẩn và sự trung hòa acid bởi nước bọt.
  • Sát khuẩn: ngăn cản sự phát triển của vi sinh vật nhờ các chất lysozyme, lactoperosidase, lactofferrin chứa trong nước bọt.
  • Chải rửa: làm sạch răng thường xuyên, với sự phối hợp cử động của môi, má và lưỡi v…, làm chậm quá trình hình thành mảng bám.
  • Tái khoáng hóa: nhờ thành phần calci, phosphate trong nước bọt có thể tích tụ ở men trong giai

đoạn sớm của sang thương sâu răng, khả năng này sẽ tăng lên nếu có sự hiện diện của fluor.

  • Nguyên nhân tổng quát

Đây là những yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sâu răng

  • Nòi giống (chủng tộc, dân tộc)

Theo quan niệm ngày xưa cho rằng có một vài chủng tộc có sức đề kháng tốt với sâu răng, nhưng ngày nay quan niệm đó không còn giá trị mà sâu răng tuỳ thuộc nhiều vào môi trường sống và vùng địa lý hơn là chủng tộc. Một số người thuộc chủng tộc ít sâu răng trở nên nhạy cảm với sâu răng khi di trú đến nơi có nền kinh tế phát triển, thói quen dinh dưỡng và nền văn hoá khác nơi họ sống trước đó. Thí dụ dân sống ở Bắc cực ít bị sâu răng hơn dân sống ở ôn đới, nhiệt đới (châu Âu, châu Á) vì để chống lạnh họ thường dùng thức ăn loại lipid hơn, nhưng khi di trú đến châu Âu, tình trạng sâu răng của họ cũng thay đổi theo nơi đó.

  • Di truyền

Hiện nay vẫn chưa được chứng minh rõ ràng. Tuy nhiên, người ta nhận thấy trẻ em ít bị sâu răng thường cha mẹ có răng tốt hoặc ngược lại và người ta cho rằng sâu răng có ảnh hưởng rất rõ với môi trường gia đình, do thói quen của trẻ được hình thành rất sớm và ảnh hưởng chủ yếu từ gia đình. Đặc biệt trong vấn đề giáo dục, dinh dưỡng và chăm sóc con của người mẹ.

  • Phái tính

Thông thường nam ít sâu răng hơn nữ, có thể do nữ ăn vặt nhiều hơn, mặt khác nữ còn chức năng thai nghén, cho con bú, rối loạn nội tiết…và nữ mọc răng sớm hơn nam.

  • Tuổi

Người ta nhận thấy bệnh sâu răng không phát triển đều đặn trong suốt đời, thường lứa tuổi từ 4-8 bị sâu nhiều, ở giai đoạn này những răng sữa bị phá hủy rất nhanh và nhiều. Từ 11 – 19 tuối, các răng vĩnh viễn bắt đầu bị sâu nhiều.

Video minh họa tiến triển của sâu răng

  • Nghề nghiệp

Tuy chưa được chứng minh rõ ràng chỉ nhận thấy công nhân làm việc ở các nhà máy

đường, xí nghiệp bánh kẹo dễ bị sâu răng.

  • Yếu tố nội tiết

Khi tuyến yên, tuyến cận giáp hoạt động kém sẽ ảnh hưởng đến sự thành lập men, ngà gây nên tình trạng răng bị thiểu sản men, men ngà bất toàn hoặc rối loạn nội tiết ở tuổi dậy thì, thai nghén…

  • Bệnh toàn thân

Những bệnh thời gian kéo dài như sởi, thương hàn… dẫn đến vệ sinh răng miệng kém đưa đến sâu răng, hoặc ở bệnh nhân bị chứng khô miệng (xerostomia), xạ trị tuyến nước bọt, tiểu đường…, tỉ lệ sâu răng tăng.

  • Kinh tế – văn hoá – xã hội

Ảnh hưởng gián tiếp qua đời sống, sinh hoạt và nhận thức của con người, văn hoá càng cao thì nhận thức của con người được nâng cao về mọi mặt. Kinh tế phát triển mọi nhu cầu cũng gia tăng, đặc biệt là gia tăng mức tiêu thụ đường sẽ ảnh hưởng đến tỉ lệ bệnh sâu răng. Xã hội càng phát triển, các dịch vụ chăm sóc y tế, các chương trình phòng bệnh được quan tâm nhiều hơn…

Bệnh viêm tủy răng là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến đau nhức răng
Bệnh viêm tủy răng là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến đau nhức răng

 

Cách phòng ngừa bệnh sâu răng

Để phòng tránh bệnh sâu răng trước hết phải vệ sinh răng miệng sau khi ăn, trước khi đi ngủ. Hạn chế ăn thức ăn chứa nhiều đường hoặc chải răng đúng cách ngay sau khi ăn Trẻ em trong thời kỳ mọc răng, thay răng càng phải đặc biệt quan tâm đến hàm răng, như cho trẻ ăn đủ chất tạo răng, đánh răng và dạy trẻ biết đánh răng cho mình. Dùng kem đánh răng có chứa flourine, có thể dùng thêm nước súc miệng diệt khuẩn sau bữa ăn. Những phụ nữ mang thai cần bổ sung calcium để trẻ sinh ra không bị thiếu chất tạo răng. Mọi người cũng cần khám răng định kỳ 6 tháng/lần để kịp thời phát hiện những biến đổi của răng, có các biện pháp điều trị phù hợp.

 

Có thể Bài viết Chữa đau răng nhanh nhất, hiệu quả nhất không dùng thuốc sẽ có ý nghĩa với bạn.

Nguyên nhân dẫn đến bệnh trĩ

Bệnh sinh

Trĩ là một bệnh do nhiều yếu tố, hiện nay 2 thuyết về nguồn gốc phát sinh ra bệnh trĩ được nhiều người chấp nhận. Điều kiện tiên quyết của bệnh trĩ là quá trình thoái hoá dây chằng treo ( thuyết cơ học) và hay sự rối loạn chức năng của các Shunt động- tĩnh mạch mao mạch trĩ ( thuyết huyết động). Thuyết cơ học giải thích triệu chứng sa. Thuyết huyết động giải thích quá trình viêm và chảy máu .Một số yếu tố thúc đẩy đã đựoc công nhận hoặc có tính chất gợi ý khởi phát kích thích và làm nặng thêm cơ chế này.

Thuyết cơ học

Trĩ nội được giữ tại chỗ đúng vị trí nhờ các giải sơ cơ có tính đàn hồi. Khi có hiện tượng thoái hoá keo thì các dải này nhẽo dần dẫn đến đứt hoặc tình trạng các mô lỏng lẻo. Thành tĩnh mạch không được tổ chức bao quanh nâng đỡ sinh ra trĩ. Hiện tượng thoái hoá này bắt đầu từ độ tuổi 20 bởi vậy bệnh trĩ ít thấy ở trẻ em. Khi đã có sự trùng nhẽo đứt và áp lực trong khoang bụng tăng lên do táo bón kinh niên, rối loạn đại tiên hay các nguyên nhân khác thì các búi trĩ nội phồng to bị đẩy ra ngoài hậu môn. Lúc đầu trĩ còn nằm trong lòng hậu môn nhưng khi các dải treo đứt hẳn chúng sa ra ngoài và thường xuyên nằm ngoài ống hậu môn.

Thuyết huyết động

Được mô tả theo các nghiên cứu mô học và quan sát trên kính hiển vi điện tử, thuyết này liên quan đến cả tuần hoàn động- tĩnh mạch. Diện vi tuần hoàn của ống hậu môn chứa các Shunt động- tĩnh mạch có khả năng phản ứng với với các kích thích nội tiết hoặc sinh lý thần kinh.

Các Shunt động- tĩnh mạch chia thành 2 nhóm:

  • Các Shunt đông tĩnh mạch ở tuần hoàn nông dưới niêm mạc đóng lại khi nghỉ ngơi cho phép sự trao đổi máu trong mô. Khi chúng nở ra đột ngột dưới tác động của các kích thích làm gia tăng lượng máu trong động – tĩnh mạch trĩ, kết quả là mô không được nuôi dưỡng. Hiện tượng này đi kèm theo sự co thắt mạch và làm gia tăng áp lực đột ngột và giãn đám rối tĩnh mạch trĩ, điều này giải thích tại sao chảy máu trong bệnh trĩ lại là máu đỏ tươi do đám rối tĩnh mạch giãn ra và chứa đầy máu động mạch. Các triệu chứng lâm sàng có thể nặng lên do viêm nhiễm và huyết khối, khi dòng máu tĩnh mạch bị tắc nghẽn bởi gắng sức do táo bón do trĩ sa…
  • Toàn bộ các Shunt động – tĩnh mạch tượng trưng cho một nguồn máu có thể đầy ngập dưới sự điều khiển của thần kinh tạng.

Bệnh nguyên

Nguyên nhân của bệnh trĩ chưa được chắc chắn, khi nói về nguyên nhân gây bệnh những yếu tố sau thường hay đuợc đề cập đến :

  • Yếu tố gia đình và đẻ nhiều
  • Yếu tố nòi giống
  • Yếu tố nghề nghiệp (phải đứng, ngồi lâu… ) , một số môn thể thao như đua ngựa..
  • Yếu tố tâm sinh lý: Bực bội , buồn vui quá mức, lao động trí óc căng thẳng…
  • Rối loạn lưu thông ruột: Hiện tượng táo bón, ỉa chảy làm tăng áp lực do đó niêm mạc hậu môn dễ trượt xuống
  • Tuổi: Tuổi càng nhiều càng dễ mắc
  • Giới: Nữ nhiều hơn nam, ở Việt nam ngược lại
  • Các bệnh của hậu môn, đại tràng: Viêm đại tràng mạn, viêm loét đại trực tràng chảy máu, lỵ amíp mạn tính…
  • Chế độ ăn : Ăn nhiều các chất cay, nóng, uống rượu hoặc cà phê quá nhiều

Ngoài ra còn một số yếu tố khác như: Béo phì, đái tháo đường là những yếu tố thuận lợi dễ phát sinh ra bệnh trĩ.

Những Nhiễm Trùng Cơ Hội Bạn Có Thể Gặp Khi Bị HIV?

Nếu bạn bị HIV, việc điều trị sớm bằng thuốc kháng retrovirus sẽ giúp hệ miễn dịch của bạn và cho phép bạn giữ sức khỏe tốt. Tuy nhiên, HIV không được điều trị trong nhiều năm sẽ gây hại cho hệ miễn dịch của bạn và có thể dẫn đến các nhiễm trùng cơ hội. “Cơ hội” có nghĩa là chúng tận dụng hệ miễn dịch yếu hơn của người bị HIV. Những người có hệ miễn dịch khỏe mạnh sẽ không bị ảnh hưởng bởi chúng.

HIV tấn công các tế bào CD4, tìm và tiêu diệt vi khuẩn, virus, nấm và các vi trùng khác. Nếu không có đủ tế bào CD4 để chống lại chúng, nhiễm trùng có thể dẫn đến bệnh tật, ung thư và các vấn đề về não cũng như thần kinh. Một số nhiễm trùng cơ hội nhất định là dấu hiệu cho thấy HIV của bạn đã trở thành AIDS.

Nếu số lượng tế bào CD4 của bạn giữ ở mức cao, các nhiễm trùng cơ hội sẽ ít có khả năng trở thành vấn đề. Đó là lý do tại sao bạn phải tiếp tục uống thuốc HIV của mình.

Nếu số lượng tế bào CD4 của bạn thấp, bác sĩ có thể muốn bạn uống thuốc phòng ngừa ngoài các loại thuốc kháng retrovirus của bạn để giảm nguy cơ bị ốm. Nếu bạn bị ốm, bạn có thể uống thuốc để giúp cơ thể bạn chống lại một số nhiễm trùng này.

hình ảnh virus hiv
Hình ảnh virus hiv

Nhiễm Trùng Cơ Hội Thường Gặp

Hầu như bất kỳ bệnh nào cũng có thể trở thành nhiễm trùng cơ hội khi hệ miễn dịch của bạn yếu. Một số phổ biến hơn những cái khác, và tùy thuộc vào số lượng tế bào CD4 của bạn, một số có khả năng xảy ra hơn.

  • Nhiễm nấm Candida (tưa miệng): nhiễm nấm trong miệng, họng hoặc âm đạo.
  • Cryptococcus neoformans (crypto): một loại nấm có thể dẫn đến viêm màng não, một tình trạng viêm nghiêm trọng của màng bao quanh não và tủy sống.
  • Cryptosporidiosis và microsporidiosis: nhiễm trùng của các động vật vi sinh gọi là protozoa làm rối loạn ruột của bạn.
  • Virus Cytomegalovirus (CMV): một loại virus gây bệnh về mắt và có thể dẫn đến mù lòa. Nó cũng có thể gây tiêu chảy nặng và loét.
  • Virus herpes simplex: một nhóm virus gây ra vết loét quanh miệng (mụn nước lạnh) và trên bộ phận sinh dục.
  • Mycobacterium avium complex (MAC): vi khuẩn gây sốt, rối loạn tiêu hóa và giảm cân nghiêm trọng.
  • Pneumocystis pneumonia (PCP): một loại nấm gây ra nhiễm trùng phổi chết người.
  • Bệnh não đa ổ tiến triển (PML): một loại virus ảnh hưởng đến não của bạn.
  • Toxoplasmosis: một bệnh do ký sinh trùng gây ra có thể dẫn đến viêm não, là tình trạng viêm của não, cũng như thị lực mờ và tổn thương mắt.
  • Bệnh lao (TB): một nhiễm trùng vi khuẩn tấn công phổi của bạn. Nó cũng có thể xâm nhập các cơ quan khác và dẫn đến viêm màng não.

Nam giới có khả năng phát triển một loại ung thư gọi là sarcoma Kaposi cao gấp ba lần so với phụ nữ.

Phụ nữ có khả năng mắc một số nhiễm trùng như HPV có thể dẫn đến ung thư hệ sinh sản như ung thư cổ tử cung cao hơn.

Phòng Ngừa

Cách quan trọng nhất để ngăn ngừa nhiễm trùng cơ hội là uống thuốc HIV của bạn và giữ cho số lượng tế bào CD4 không bị thấp. Nếu bạn bắt đầu với số lượng tế bào CD4 thấp (dưới 200 tế bào mỗi microliter máu), bạn có thể thực hiện các bước để giảm khả năng mắc những nhiễm trùng này.

  • Uống thuốc HIV của bạn và đi khám bác sĩ định kỳ để đảm bảo rằng chúng đang hoạt động và hệ miễn dịch của bạn vẫn mạnh mẽ.
  • Uống các loại thuốc khác và tiêm phòng theo khuyến cáo của bác sĩ.
  • Rửa và nấu tất cả thực phẩm của bạn thật kỹ. Tránh thịt và trứng sống hoặc chưa chín, và sữa chưa tiệt trùng. Vệ sinh và khử trùng tay, dao, thớt và bề mặt làm thực phẩm của bạn.
  • Có người khác xử lý phân mèo hoặc nhặt phân chó, hoặc sử dụng găng tay nếu bạn làm. Giữ mèo ở trong nhà để chúng không mang vi khuẩn có thể gây hại cho bạn.
  • Sử dụng khăn trên các thiết bị tập thể dục chung và một khăn khác để lau khô cơ thể bạn.
  • Cố gắng không nuốt nước trong bể bơi, hồ hoặc suối.
  • Nếu bạn là phụ nữ, hãy thực hiện các kiểm tra vùng chậu và xét nghiệm Pap định kỳ để phát hiện nhiễm trùng, tiền ung thư và ung thư.

Chẩn Đoán và Điều Trị

Bạn có thể thực hiện các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm để tìm hiểu các vi khuẩn nào đã có trong cơ thể bạn. Điều này sẽ giúp bác sĩ biết bạn cần loại thuốc hoặc vaccine nào ngoài thuốc HIV của bạn.

Nếu bạn có số lượng tế bào CD4 thấp, hãy ghi chép lại các triệu chứng của bạn và chú ý đến:

  • Sốt kéo dài trên 2 ngày
  • Tiêu chảy nặng
  • Khó thở
  • Giảm cân
  • Thay đổi thị lực
  • Vấn đề với miệng, da hoặc hô hấp

Gọi cho bác sĩ khi bạn có triệu chứng mới hoặc bất thường. Đừng chờ đến lần khám tiếp theo của bạn.

Bởi vì virus HIV sao chép nhanh chóng hơn khi bạn có một nhiễm trùng cơ hội, việc điều trị sớm là rất quan trọng. Điều này sẽ giúp bạn tránh những hậu quả nghiêm trọng của nhiễm trùng cũng như bảo vệ hệ miễn dịch của bạn.

Hãy tuân theo tất cả các liệu trình điều trị. Đừng bỏ dở giữa chừng. Bác sĩ của bạn cũng có thể kê thuốc để ngăn ngừa nhiễm trùng quay trở lại, và nếu hệ miễn dịch của bạn hồi phục, bạn có thể ngừng uống thuốc đó.

Ung thư phổi thứ phát (ung thư di căn vào phổi)

Tên khác: ung thư di căn vào phổi, ung thư phổi di căn.

Căn nguyên

Di căn vào phổi của ung thư (carcinom) và ung thư dạng tuyến (adenocarcinom) từ ống tiêu hoá, từ hệ thống tiết niệu, từ các mô tuyến (tuyến vú, cơ quan sinh dục, tuyến giáp). Những sarcom (ung thư mô liên kết), những ung thư hắc tố (u melanom) và bệnh bạch cầu cấp tính cũng hay có di căn ở phổi.

Chẩn đoán

Dựa trên phát hiện ung thư nguyên phát ở các cơ quan vừa kể trên và trên phim chụp X quang lồng ngực.

X quang: hình ảnh X quang của ung thư di căn ở phổi có nhiều vẻ khác nhau:

  • Nốt (hoặc cục) đơn độc, khó phân biệt với ung thư phổi nguyên phát.
  • Nhiều bóng mờ hình tròn (hình ảnh”thả bóng bay”), thường thấy ở cả hai bên phổi.
  • Viêm mạch bạch huyết carcinom (viêm mạch bạch huyết ung thư): hình ảnh phổi bị thâm nhiễm (vết mò) lan toả, thành mạng lưới.

Xét nghiệm đặc biệt

  • Những dấu ấn ung thư: kháng nguyên ung thư-phôi thai, .V…
  • Xét nghiệm mô học: lấy bệnh phẩm qua nội soi phế quản, hoặc bằng chọc-sinh thiết qua thành ngực dưới sự hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính.

Điều trị

Có thể phẫu thuật cắt bỏ khối u di căn dạng nốt đơn độc khi khối ung thư nguyên phát đã được cắt bỏ trong những điều kiện tốt. Ngoài ra, sử dụng liệu pháp hoá chất, liệu pháp hormon, hoặc các thuốc ức chế miễn dịch tuỳ theo typ ung thư nguyên phát.

Đau mắt cá chân – Nguyên nhân, triệu chứng và xử trí

Có nhiều nguyên nhân gây đau mắt cá chân. Bạn thường có thể tự giảm đau. Nhưng hãy gặp bác sĩ nếu cơn đau không cải thiện.

Cách tự giảm đau mắt cá chân

Nếu bạn đến gặp bác sĩ về cơn đau mắt cá chân, họ thường sẽ gợi ý cho bạn thử những cách sau:

Nên

  • Nghỉ ngơi và nâng cao mắt cá chân khi có thể.
  • Đặt một túi đá (hoặc túi đậu đông lạnh) bọc trong khăn lên mắt cá chân trong tối đa 20 phút mỗi 2 đến 3 giờ.
  • Đi giày rộng, thoải mái, với gót thấp và đế mềm.
  • Sử dụng đế lót mềm hoặc miếng đệm gót trong giày.
  • Quấn băng quanh mắt cá chân để hỗ trợ nó.
  • Thử các bài tập kéo giãn nhẹ nhàng thường xuyên.
  • Sử dụng thuốc giảm đau như paracetamol hoặc gel ibuprofen (hoặc viên ibuprofen nếu cần).

Không nên

  • Không đi bộ hoặc đứng lâu.
  • Không đi giày cao gót hoặc giày chật, mũi nhọn.

    Đau mắt cá chân
    Đau mắt cá chân

Nhà thuốc có thể giúp đỡ cơn đau mắt cá chân

Bạn có thể hỏi dược sĩ về:

  • Thuốc giảm đau tốt nhất để dùng.
  • Đế lót và miếng đệm cho giày.
  • Có cần gặp bác sĩ hay không.

Lời khuyên không khẩn cấp: Hãy gặp bác sĩ nếu:

  • Cơn đau mắt cá chân khiến bạn không thể thực hiện các hoạt động bình thường.
  • Cơn đau ngày càng nặng hoặc thường xuyên trở lại.
  • Cơn đau không cải thiện sau khi điều trị tại nhà trong 2 tuần.
  • Bạn có cảm giác tê hoặc mất cảm giác ở chân.
  • Bạn bị tiểu đường và đau chân – các vấn đề về chân có thể nghiêm trọng hơn nếu bạn bị tiểu đường.

Hành động ngay lập tức: Đi đến trung tâm điều trị khẩn cấp hoặc A&E nếu:

  • Bạn bị đau mắt cá chân dữ dội.
  • Bạn cảm thấy choáng váng, chóng mặt hoặc buồn nôn vì cơn đau.
  • Mắt cá chân hoặc chân của bạn đã thay đổi hình dạng hoặc ở một góc kỳ lạ.
  • Bạn nghe thấy tiếng snap, tiếng nghiền hoặc tiếng nổ khi bị thương.
  • Bạn không thể đi lại.

Đây có thể là dấu hiệu của việc gãy mắt cá chân.

Những gì chúng tôi có nghĩa là cơn đau dữ dội

Nguyên nhân phổ biến gây đau mắt cá chân

Đau mắt cá chân thường do tập thể dục quá mức hoặc đi giày quá chật.

Các triệu chứng của bạn cũng có thể cho bạn biết nguyên nhân gây đau mắt cá chân.

Các triệu chứng và nguyên nhân có thể gây đau mắt cá chân.

Triệu chứng Nguyên nhân có thể
Đau, sưng, bầm tím, bắt đầu sau khi tập luyện cường độ cao hoặc lặp đi lặp lại Chấn thương mắt cá chân
Đau ở mắt cá chân và gót chân, đau ở bắp chân khi đứng trên mũi chân Viêm gân Achilles
Đỏ và sưng, đau âm ỉ Viêm túi hoạt dịch
Đau nhói đột ngột, sưng, tiếng nổ hoặc snap trong lúc bị thương, khó đi lại, mắt cá chân ở góc kỳ lạ Gãy mắt cá chân

Nếu bạn không chắc chắn nguyên nhân gây đau mắt cá chân của mình

Đừng lo lắng nếu bạn không chắc vấn đề là gì.

Hãy làm theo hướng dẫn trên trang này và gặp bác sĩ nếu cơn đau không cải thiện trong 2 tuần.

Vậng quyết – Triệu chứng bệnh Đông y

Khái niệm

Vậng quyết là chỉ chứng trạng có đặc trưng đột ngột ngã lăn hôn mê bất tỉnh nhân sự, tứ chi quyết lạnh, chốc lát lại tỉnh. Sau khi tỉnh không có những di chứng như mất tiếng, miệng mắt méo xếch hoặc bán thân bất toại.

Chứng “Bạc quyết” trong sách Nội kinh cho đến đời sau nói đến các chứng “Uất mạo”, “Khí quyết”, “Huyết quyết”, “Đàm quyết”, “Thực quyết”, “Thử quyết”, “Tửu quyết”, “Hôn quyết”, “Hôn vâng”, Hôn phọc” đều thuộc phạm vi chứng Vậng quyết.

Vậng quyết khác với chứng “Thần hôn” (tinh thần hôn mê) vì loại Thần hôn là triệu chứng kéo dài do thần chí rối loạn khó hồi phục. Chứng Vậng quyết với chứng “Huyễn vâng” Cũng khác nhau vì Huyễn vâng là đầu choáng mắt hoa nhìn mọi vật quay cuồng không ổn định, thậm chí không đứng vững, nhưng không có triệu chứng tinh thần không tỉnh táo. Chứng hôn mê ngã lăn của chứng Giản tuy chốc lát tỉnh dần nhưng khi phát bệnh thì tứ chi co giật, mắt miệng cũng co kéo, hàm răng cắn chặt, miệng mửa ra bọt trắng, cũng khác với chứng Vậng quyết cần phải phân biệt.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Văng quyết do khí hư: Có chứng hôn mê choáng váng đột ngột, sắc mặt trắng nhợt, hơi thở nhỏ khẽ, ra mồ hôi, chân tay lạnh, chất lưỡi nhạt, mạch Trầm Nhược.
  • Vậng quyết do huyết hư: Có chứng trạng Vậng quyết đột ngột, sắc mặt tái xanh, môi miệng không tươi, hơi thở chậm chạp, mắt hãm không có tia sáng, mặt đỏ môi tía, lưỡi đỏ hoặc tía tôi, mạch Trầm Huyền
  • Vậng quyết do âm hư Can vượng: Có chứng đầu choáng mắt hoa, nóng nảy dễ cáu giận, choáng váng ngã lăn không nói được, mặt đỏ, mắt đỏ, chân tay run rẩy, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Huyền Tế Sác.
  • Vậng quyết do đờm trọc che lấp ở trên: Có chứng choáng váng ngã lăn đột ngột, bất tỉnh nhân sự, trong họng có tiếng đờm khò khè như kéo cưa, nôn mửa ra bọt dãi, tứ chi quyết lạnh, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Huyền Hoạt.
  • Vậng quyết do trúng phải thử tà : Có chứng ngã lăn hôn mê đột ngột, thở suyễn không nói được, mình nóng, chân tay quyết, vã mồ hôi lạnh không dứt, sắc mặt đỏ bừng hoặc tái xanh, hàm răng hơi cắn chặt hoặc há miệng, lưỡi đỏ mà khô, mạch Hồng Sác hoặc Hư Sác mà Đại.

Phân tích

  • Chứng Vậng quyết do khí hư với chứng Vậng quyết do huyết hư.Đều thuộc loại Hư chứng nhưng một loại là huyết hư, một loại là khí hư. Vậng quyết do khí hư thường là nguyên khí suy hao dẫn đến dương khí thiếu thôn, tông khí hạ hãm, Tỳ khí không thăng dẫn đến đột nhiên ngã lăn hôn mê. Vậng quyết do huyết hư phần nhiều do băng huyết hoặc mửa dữ dội, hoặc sau khi đẻ bị ngoại thương mất huyết quá nhiều đến nỗi khí theo huyết thoát, cơ năng không vận chuyển. Vậng quyết do khí hư phần nhiều dụ phát do phiền lao quá mức vì lao thì khí hao, hoặc gặp lúc hãi sợ lo buồn vì buồn thì khí tiêu, sợ thì khí hãm xuống. Vậng quyết do huyết hư thường xảy ra ở lúc đứng lên đột ngột hoặc ngồi xuống đột ngột, hoặc sau khi bị mất huyết. Khí thuộc dương, dương khí hư yếu mất sự sưởi ấm nện chân tay quyết lạnh; không khả năng Vệ ngoại thì tự ra mồ hôi; tông khí hãm xuống thì thở khẽ, đoản hơi bất túc khi hút vào, hoặc là hơi thở sắp ngừng, sau khi tỉnh dậy thì tiếng nói thấp khẽ. Khí là soái của huyết, huyết mạch ngưng sáp nên mặt môi tím tái, cho nên các chứng tứ chi quyết nghịch, ra mồ hôi lạnh và dính, đoản hơi thở khẽ, mặt môi tím tái là những biểu hiện chủ yếu của Vậng quyết do khí hư. Huyết thuộc âm, âm huyết bất túc, huyết không dâng lên trên cho nên sắc mặt trắng nhợt, môi nhợt không tươi, đó là những chứng trạng chủ yếu của Vậng quyết do huyết hư. về lưỡi và mạch của hai chứng này cũng khác nhau. Vậng quyết do khí hư mạch Trầm Nhược hoặc Kết Đại, nặng hơn thì mạch Vi muốn tuyệt. Vậng quyết do huyết hư mạch nhỏ nhưsợi tơ hoặc Tế Sác vô lực, nặng hơn thì Phù Đại rỗng không. Vậng quyết do khí hư điều trị theo phép bể khí hồi dương dùng phương Hồi dương cấp cứu thang. Vậng quyết do huyết hư điều trị theo phép ích khí liễm âm bổ dưỡng khí huyết dùng phương Sinh mạch tán hoặc Nhân sâm dưỡng vinh thang gia giảm.
  • Chứng Vậng quyết do huyết khí nghịch lên với chứng Vậng quyết do âm hư Can vượng: Can là tạng cứng cỏi chủ thăng và chủ động. Vậng quyết do huyết khí nghịch lên thường do cáu giận hại Can, khí cơ bị nghịch loạn, huyết theo khí bôc lên đầu dồn lên trên quấy rối thần minh. Tố vấn – Sinh khí thông thiên luận viêt: “Quá giận thì hình khí tuyệt mà huyết trào lên trên khiến người ta Bạc quyết”. Vậng quyết do âm hư Can vượng là do lo toan thái quá ưu uất không quyết định ngấm ngầm hao Can âm. Hoặc là Thận âm vốn khuy không nuôi dưỡng được Can, Can âm bất túc, âm không chế dương, Can dương quá găng phát sinh Vậng quyết. Loại trên là do tình chí cực độ, khí nghịch huyết thăng thuộc thực chứng, loại sau là âm hư dương cang thuộc loại bản hư tiêu thực. Vậng quyết do huyết khí thượng nghịch, thể chất của người bệnh khỏe mạnh, phát bệnh gấp gáp, ngã lăn hôn mê đột ngột biểu hiện các chứng hàm răng cắn chặt, ngực đầy thở gấp, tứ chi quyết lạnh, mặt đỏ môi tía… Sau khi tỉnh dậy thường là cười khóc thất thường, vả lại có lúc thay đổi về tình chí tái phát luôn. Còn Vậng quyết do âm hư Can vượng thể trạng người bệnh vốn suy yếu thường xuyên đầu chướng tai ù, hai mắt khô rít, mặt và má đỏ bừng, mồ hôi trộm, di tinh thường dụ phát khi bị kích thích về tình chí. Mạch và lưỡi của hai chứng này cũng khác nhau. Vậng quyết do huyết khí nghịch lên lưỡi đỏ hoặc tía tối, mạch Trầm Huyền.
  • Vậng quyết do âm hư Can vượng lưỡi sáng không có rêu, mạch Huyền Tế Sác. Vậng quyết do huyết khí nghịch lên điều trị theo phép sơ Can giáng nghịch, hoạt huyết thông ứ dùng phương Thông ứ tiễn hợp với Tiêu dao tán. Vậng quyết âm hư Can vượng điều trị nên dục âm tiềm dương bổ ích Can Thận dùng phương Tri bá Địa hoàng hoàn.
  • Chứng Vậng quyết do đờm trọc che lấp với chứng Vậng quyết do thử tà trúng vào: cả hai đều là Thực chứng nhưng biểu hiện về nguyên nhân cơ chế bệnh không giống nhau. Vậng quyết do đờm trọc che lấp ở trên là do đơm thấp vốn thịnh lại vì cáu giận khí nghịch đờm úng tắc, thanh khiếu bị che lấp. Vậng quyết do thử tà trúng vào người là do thử tà xâm phạm vào trong, nhiệt uất khí nghịch vít tắc thanh khiếu quấy rối thần minh.

Chứng Vậng quyết do đờm trọc che lấp lên ở trên trước khi phát bệnh phần nhiều có dấu hiệu báo trước như: đầu choáng mắt hoa, chòng chành như ngồi xe ngồi thuyền, hễ cất nhắc thì choáng váng càng nặng, hoặc buồn nôn, nôn mửa đầu nặng như bị bọc, tiếp đó là ngã lăn hôn mê đột ngột, bất tỉnh nhân sự, trong họng có tiếng đờm, thở thô khóe miệng chảy dãi, sau đó thì tĩnh dần, Vậng quyết nói chung không nặng lắm nhưng dễ tái phát. Còn Vậng quyết do thử tà trúng vào người phần nhiều sinh ra trong ngày nóns nực gay gắt hoặc làm việc ở nơi nhiệt độ cao đột nhiên vậng quyết, người bệnh hàm răng cắn chặt, mình nóng, mặt đỏ, nặng hơn thì nói sảng, mạch Hồng Sác. Nếu là nội bế ngoại thoát còn có thể xuất hiện sắc mắt trắng nhợt, mồ hôi lạnh ra không dứt, tứ chí quyết nghịch, tay xòe miệng há mạch Hư Sác Đại. Vậng quyết do đờm trọc che lấp ở trên điều trị nên hành khí quét đờm dùng phương Đạo đàm thang. Vậng quyết do thử tà trúng vào người điều trị nên tân lương khai khiếu dùng phương Tử tuyết đan. Nội bế ngoại thoát thì nên chữa chung cả thoát và bế dùng phương Sinh mạch tán hợp với Bạch hổ thang gia giảm.

Chứng Vậng quyết tuy có rất nhiều chứng hậu nhưng nói chung không ngoài hai chứng Hư và Thực, về chứng Thực tất cả những trường hợp khí thịnh hữu dư khí nghịch xông lên huyết theo khí bốc lên hoặc khí nghịch kiêm đờm hoặc thử tà uất át đến nỗi thanh khiếu bế tắc phát sinh Vậng quyết, về Hư chứng phần nhiều do khí huyết bất túc, thanh dương phát triển huyết không dâng lên tinh minh không được nuôi dưỡng gây nên. Thực chứng thì thể trạng khỏe mạnh, khí úng tắc thở thô, cấm khẩu tay nắm chặt, mạch Trầm Thực hoặc Trầm Phục. Hư chứng thì thể trạng hư yếu, mắt trũng không có tia sáng, mặt nhợt, thở khẽ, vã mồ hôi chân tay lạnh, lưỡi nhợt, mạch Vi hoặc Tế Sác vô lực. Chứng trị vâng bổ – Quyết chứng có viết: “Quyết mà cấm khẩu, răng cắn chặt đó là Thực quyết. Quyết mà miệng há vã mồ hôi đó là Hư quyết”. Thực chứng Vậng quyết điều trị theo phép khư tà tỉnh thần, khai khiếu. Hư chứng Vậng quyết điều trị theo phép bổ dưỡng khí huyết để cứu vãn quyết nghịch.

Trích dẫn y văn

  • Có người vốn không đau ốm gì, đột ngột như người chết, mình không rung động lìm lịm không biết gì, mắt nhắm không ngủ được, cấm khẩu không nói được hoặc chỉ phảng phất biết người, sợ nghe tiếng người nói chỉ như dạng bị choáng, chốc lát lại tỉnh… đó là do ra mồ hôi quá nhiều, huyết ít khí dồn lên huyết, một mình dương đi lên mà không trở xuống, khí úng vì lạnh nên không lưu thông vì thế mà vẻ như chết. Khí đi qua huyết quay về thì âm dương lại thông cho nên thoáng chốc lại tỉnh gọi là uất mạo, cũng gọi là Huyết quyết. Phụ nữ gặp nhiều trường hợp này nên điều trị bằng Bạch vi thang, Thương công tán (Y quán – Chủ khách hiện nghi).
  • Chứng Tử quyết tức như kinh nói thuộc loại nhiệt quyết… bệnh nhẹ vẫn còn biết người, bệnh nặng thì quay cuồng ngã lăn đột ngột mê man bất ngờ hoặc phiền táo không nói được, hoặc đờm dãi như rót hoặc thở suyễn phát nhiệt hoặc khái thâu hoặc thổ huyết. Nhưng xét thấy đại tiện khô ráo, mạch Thực, ưa thức lạnh, đó là chứng thấp nhiệt bị úng ởtrên nên dùng loại như Trừu tân ẩm để giúp nhanh bỏ hỏa (Cảnh Nhạc toàn thư – Quyết nghịch).
  • Chứng Vưu quyết là người bệnh vốn có giun đũa ở Vị lại nhiễm lạnh thương Vị hoặc đói không được ăn, giun tìm ăn mà ngoi lên, hoặc là chứng ngoại cảm không nên phát hãn lại cứ phát hãn bừa đến nỗi Vị khí hư hàn giun ngoi lên vùng Cách, lưỡi khô họng ráo, ngậm nước mà không muốn nuốt, phiền táo hỗn loạn, chân tay quyết lạnh, bất tỉnh nhân sự, thậm chí mửa ra giun nên dùng Lý trung an vưu thang (Chứng trị vâng bổ – Quyết chứng).
  • Chứng Sắc quyết có hai loại: Một là bạo thoát, hai là động huyết. Chứng Bạo thoát của sắc quyết thì người bệnh vốn hư ngẫu nhiên do một việc k)’ ngộ mà gắng sức làm hết mình, hoặc do kéo dài tình dục mà bị kiệt tinh cho nên cuối cùng là khí theo tinh thoát đi đột ngột không quay trở về thuộc dạng cấp cứu… phải dùng ngay Độc sâm thang đổ cho uống hoặc cứu huyệt Khí hải vài mươi mồi để phục hồi dương khí may ra cứu vãn (Cảnh Nhạc toàn thư – Quyết nghịch).
  • Có người trong lúc đi tiểu tiện đột ngột choáng váng ngã lăn cũng là loại âm dương khí thoát (Thạch thất bí lục).

Viêm quanh Implant – viêm mô mềm, viêm và tiêu xương

I.   ĐỊNH NGHĨA

Viêm quanh Implant là tình trạng viêm mô mềm, viêm và tiêu xương xung quanh Implant.

II.    NGUYÊN NHÂN

  • Vi khuẩn trong mảng bám.
  • Các yếu tố gây tích tụ mảng bám

+ Cement gắn cầu, chụp trên Implant dư thừa quanh trụ Implant.

+  Phục hình sai quy cách.

+ Vị trí Implant không thích hợp.

+ Thiếu mô lợi sừng hóa quanh Implant.

+ Lỏng kết nối trụ phục hình với trụ Implant….

– Quá tải lực nhai gây mất cân bằng về sinh cơ học từ đó gây tiêu xương quanh Implant.

III.     CHẨN ĐOÁN

  1. Chẩn đoán xác định
    • Lâm sàng
      • Niêm mạc xung quanh Implant nề, đỏ.
      • Khi thăm khám quanh Implant có hiện tượng chảy máu,
      • Có dịch tiết: Giai đoạn viêm nặng có thể có dịch tiết ở túi quanh
      • Tăng độ sâu túi xung quanh
    • Cận lâm sàng

X quang: Có biểu hiện mất xương xung quanh Implant.

  1. Chẩn đoán phân biệt

Viêm quanh Implant chẩn đóan phân biệt với Viêm lợi quanh Implant, và dựa vào các triệu chứng dưới đây:

Triệu chứng Viêm quanh Implant Viêm lợi quanh Implant
Lợi nề đỏ + +
Chảy máu lợi tự nhiên +/- +/-
Chảy máu lợi khi thăm khám + +
Tăng độ sâu túi quanh Implant +
Dịch rỉ viêm + +/-
X quang: Tiêu xương quanh Implant +

IV.     ĐIỀU TRỊ

  1. Nguyên tắc
    • Loại bỏ tác nhân gây bệnh và ổ viêm nhiễm xung quanh
    • Giảm độ sâu của túi quanh
    • Ghép xương trong trường hợp tiêu nhiều xương quanh
  2. Điều trị cụ thể
  • Tùy theo mức độ mất xương xung quanh Implant mà có thể có các mức độ xử trí khác Nếu xương chưa bị mất quá 2 mm thì việc điều trị có thể giới hạn ở mức độ lấy cao răng, mảng bám và kiểm soát mảng bám kết hợp làm sạch Abutment, chỉnh sửa cấu trúc phục hình nếu cần và hướng dẫn bệnh nhân tăng cường vệ sinh răng miệng.
  • Có thể dùng các tác nhân kháng khuẩn toàn thân (Amoxicillin, Metronidazole, Tetracycline, Clindamycin) hoặc tại chỗ (sợi Tetracycline, tinh thể Monocycline và Gel Chlorhexidine) và dùng nước súc miệng chứa
  • Nếu xương đã bị mất quá 2 mm nhưng vẫn chưa quá ½ chiều dài của Implant cần điều trị phẫu thuật lấy bỏ tổ chức viêm nhiễm xung quanh Implant, làm sạch bề mặt Implant và có thể tiến hành ghép xương để tái tạo tổ chức xương đã mất. Bề mặt Implant có thể được làm sạch bằng các chất hóa học (Gel Metronidazole), các phương pháp cơ học sử dụng bàn chải và bột đánh bóng, sử dụng lazer cũng cho kết quả tốt. Sau khi bề mặt Implant được làm sạch có thể tiến hành ghép xương nhằm khôi phục khối lượng xương đã mất. Nếu không ghép xương thì làm nhẵn bề mặt nhám của Implant đã bị bộc lộ nhằm giảm sự tích tụ mảng bám lên bề mặt Implant.
  • Nếu xương bị mất quá ½ chiều dài của Implant thì tốt nhất nên tháo Implant ra, phát triển xương tại chỗ và chờ để có thể đặt lại Implant mặc dù trên lý thuyết có thể ghép lại xương vào phần xương đã tiêu tuy nhiên trên thực tế tỷ lệ thành công của phương pháp này rất thấp.

V.    TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG

  1. Tiên lượng

Đối với tình trạng viêm quanh Implant ở giai đoạn ban đầu có nguyên nhân do cấu trúc phục hình hoặc lực nhai quá tải thì tiên lượng điều trị rất khả quan, tuy nhiên đối với tình trạng viêm quanh Implant ở giai đoạn tiến triển trên bệnh nhân bị bệnh viêm quanh răng hoặc không xác định được nguyên nhân gây bệnh thì kết quả điều trị ít khả quan và bệnh vẫn có nguy cơ tiến triển dẫn đến việc phải tháo bỏ Implant.

  1. Biến chứng

Đào thải Implant.

VI.  PHÒNG BỆNH

  • Tuân thủ đúng quy trình phẫu thuật đặt Implant và phục hình răng.
  • Hướng dẫn bệnh nhân tăng cường vệ sinh răng miệng, kiểm sóat mảng bám răng.
  • Khám định kỳ để phát hiện tổn thương sớm và điều trị kịp thời, nhất là ở các trường hợp nguy cơ cao như bệnh nhân có tiền sử viêm quanh răng, bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường, hút thuốc lá, điều trị corticoid kéo dài,….

Seretide Accuhaler/Diskus

Seretide Accuhaler/Diskus
Seretide Accuhaler

SERETIDE ACCUHALER/DISKUS

GLAXOWELLCOME

Accuhaler (bột hít qua đường miệng): hộp 60 liều.

THÀNH PHẦN

cho 1 liều
Salmétérol xinafoate 50 mg
Fluticasone propionate 100 mg

 

cho 1 liều
Salmétérol xinafoate 50 mg
Fluticasone propionate 250 mg

 

cho 1 liều
Salmétérol xinafoate 50 mg

DƯỢC LỰC

Cơ chế tác động:

Seretide bao gồm salmeterol và fluticasone propionate có cơ chế tác động khác nhau. Salmeterol giảm co thắt phế quản (kiểm soát triệu chứng) và fluticasone propionate có tác dụng kháng viêm (kiểm soát căn nguyên bệnh) và phòng ngừa các đợt cấp. Seretide có thể đáp ứng một trị liệu thuận tiện hơn cho bệnh nhân cần điều trị bằng thuốc chủ vận bêta và  corticosteroid đường hít. Cơ chế tác động của hai hoạt chất lần lượt được trình bày dưới đây: Salmeterol:

Salmeterol là thuốc chủ vận thụ thể bêta 2 chọn lọc tác dụng kéo dài (12 giờ) với 1 chuỗi dài gắn kết với vị trí bên ngoài của thụ thể. Các đặc tính dược lý của salmeterol làm cho việc phòng  ngừa triệu chứng co thắt phế quản do histamin duy trì ít nhất 12 giờ, hiệu quả hơn khi cũng dùng liều khuyến cáo các thuốc chủ vận bêta 2 thường quy tác dụng ngắn.

Các thử nghiệm in vitro cho thấy rằng salmeterol có tác động ức chế mạnh và kéo dài việc phóng thích từ phổi người các chất chuyển hóa trung gian từ dưỡng bào như histamine, leukotrienes và prostaglandin D2.

Ở người, salmeterol ức chế đáp ứng với những dị nguyên hít phải ở pha sớm và pha chậm, việc tác động này duy trì trong 30 giờ sau một liều duy nhất, khi tác động giãn phế quản không còn nữa. Liều duy nhất salmeterol làm suy giảm sự mẫn cảm phế quản. Các đặc tính này cho thấy rằng salmeterol có tác động cộng thêm, ngoài tác động giãn phế quản, nhưng dấu hiệu lâm sàng còn chưa được rõ ràng. Cơ chế này khác với tác động kháng viêm của corticosteroid.

Fluticasone propionate:

Fluticasone propionate dùng đường hít với liều khuyến cáo có tác động kháng viêm của glucocorticoid trong phổi, giúp cải thiện triệu chứng và giảm cơn hen cấp, không có tác dụng phụ nào như khi dùng corticosteroid đường toàn thân.

Lượng hormon thượng thận tiết ra hàng ngày vẫn được duy trì trong giới hạn bình thường trong quá trình điều trị dài hạn với fluticasone propionate đường hít, ngay cả khi dùng liều khuyến cáo cao nhất ở trẻ em và người lớn. Sau khi chuyển từ các steroid đường hít khác sang fluticasone propionate, lượng hormon tiết ra hàng ngày dần dần được cải thiện, mặc dù trước kia hay hiện tại có dùng gián đoạn các steroid đường uống, như vậy cho thấy chức năng thượng thận trở về hoạt động bình thường khi dùng fluticasone propionate đường hít. Dự trữ thượng thận vẫn duy trì bình thường trong quá trình điều trị dài hạn fluticasone propionate đường hít khi đo bằng sự gia tăng bình thường trong một test kích thích. Tuy nhiên, sự suy yếu dự trữ thượng thận tồn tại sau các điều trị trước đó có thể kéo dài đáng kể và yếu tố này cũng cần được lưu ý (xem Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng).

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Không có bằng chứng trên động vật hay người cho thấy việc dùng salmeterol và fluticasone propionate với nhau bằng đường hít ảnh hưởng đến dược động của từng thành phần thuốc. Do đó về mặt dược động học, các thành phần có thể được xem xét riêng biệt.

Dù rằng nồng độ Seretide trong huyết tương rất thấp, nhưng không thể lọai trừ khả năng tương tác với các chất nền khác hay các thuốc ức chế CYP 3A4.

Salmeterol:

Salmeterol tác động tại chỗ trong phổi do đó nồng độ hoạt chất trong huyết tương thấp hơn nồng độ điều trị. Ngoài ra, có hạn chế về các dữ liệu dược động học của salmeterol, do khó  khăn về mặt kỹ thuật để xét nghiệm thuốc trong huyết tương vì nồng độ thuốc ở liều điều trị trong huyết tương rất thấp (khoảng 200 pg/ml hay thấp hơn). Sau khi dùng liều thông thường với salmeterol xinafoate, hydroxynaphthoic có thể được phát hiện trong hệ tuần hoàn, đạt  nồng độ hằng định khoảng 100 ng/ml. Nồng độ này có thể lên tới gấp 1000 lần trong các trường hợp ngộ độc. Không thấy tác động có hại nào quan sát thấy trong các điều trị dài hạn thường xuyên (trên 12 tháng) ở bệnh nhân tắc nghẽn đường thở.

Fluticasone propionate:

Sau khi tiêm đường tĩnh mạch, dược động của Fluticasone propionate tương ứng với liều. Fluticasone propionate được phân bố rộng khắp cơ thể (Thể tích phân bố đạt khoảng 300 l) và có độ thanh thải rất cao (đạt tới 1,1 l/phút) qua đường gan.

Nồng độ đỉnh trong huyết tương giảm khoảng 98% trong vòng 3-4 giờ, và chỉ còn nồng độ huyết tương thấp liên quan với thời gian bán thải, khoảng 8 giờ.

Sau khi dùng đường uống Fluticasone propionate, 87-100% liều được đào thải qua phân.

Sau khi dùng liều 1 hay 16 mg, tương ứng có đến 20 và 75% được đào thải trong phân dạng hợp chất ban đầu.

Độ khả dụng sinh học tuyệt đối là không đáng kể (< 1%) do sự kết hợp giữ việc hấp thu không hoàn toàn từ đường tiêu hóa và chuyển hóa lần đầu qua gan nhiều.

Sau khi dùng liều hít, độ khả dụng sinh học tuyệt đối toàn bộ của Fluticasone propionate: là 12- 26% phụ thuộc vào dạng trình bày.

Việc hấp thu Fluticasone propionate: chủ yếu qua phổi, khởi đầu nhanh, sau đó kéo dài. Tỉ lệ gắn kết protein là 91%.

Fluticasone propionate: được chuyển hóa mạnh nhờ enzym CYP 3A4 thành dẫn xuất carboxylic bất hoạt.

Các dữ liệu sẵn có về dược động học ở trẻ em tương tự với kết quả nghiên cứu ở người lớn.

AN TOÀN TIỀN LÂM SÀNG

Salmeterol xinafoate và fluticasone propionate đã được nghiên cứu nhiều trong các thử nghiệm độc tính trên động vật. Độc tính chỉ xảy ra khi dùng quá liều điều trị cho người và liên quan đến thuốc chủ vận bêta 2 và glucocorticosteroid.

Trong các nghiên cứu dài hạn, Salmeterol xinafoate gây các u lành tính ở cơ trơn mạc treo buồng chứng và tử cung trên chuột cống.

Do động vật gặm nhấm dễ bị các u lành tính do thuốc, salmeterol không được xem là thuốc gây ung thư có hại cho người.

Việc dùng kết hợp salmeterol xinafoate và fluticasone propionate gây ra một vài triệu chứng tim mạch khi dùng liều cao. Ở chuột cống, viêm cơ tim tâm nhĩ nhẹ và viêm động mạch vành trung tâm là các tác động thoáng qua liên quan với liều bình thường. Ở chó, khi dùng kết hợp, nhịp tim tăng nhanh hơn là khi dùng salmeterol đơn thuần.

Không có tác động tim mạch ngoại ý nặng nào quan sát thấy khi nghiên cứu ở người. Trên động vật, việc kết hợp 2 hoạt chất không làm gây ra thêm các độc tính khác.

CHỈ ĐỊNH

Seretide được chỉ định trong điều trị phòng ngừa các bệnh lý tắc nghẽn đường hô hấp có thể hồi phục, bao gồm hen phế quản ở trẻ em và người lớn, khi việc sử dụng phối hợp (thuốc giãn phế quản và corticosteroid đường hít) là thích hợp.

Chỉ định này có thể bao gồm:

  • Bệnh nhân điều trị duy trì hiệu quả với thuốc chủ vận bêta tác dụng kéo dài và corticosteroid đường hít.
  • Bệnh nhân vẫn còn triệu chứng, dù đang điều trị bằng corticosteroid đường hít.
  • Bệnh nhân đang điều trị giãn phế quản thường xuyên.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Seretide chống chỉ định dùng cho bệnh nhân có tiền sử quá mẫn với bất kỳ thành phần nào của thuốc.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Việc điều trị bệnh tắc nghẽn đường thở thường nên theo chương trình điều trị bậc thang và  đáp ứng của bệnh nhân với thuốc nên được theo dõi lâm sàng và bằng các test đo chức năng hô hấp.

Seretide không dùng điều trị triệu chứng cấp tính, như một thuốc giãn phế quản có tác động nhanh và ngắn hạn (như salbutamol). Bệnh nhân nên được khuyên phải luôn luôn dự phòng các thuốc điều trị triệu chứng cấp.

Việc gia tăng sử dụng thuốc giãn phế quản tác dụng ngắn hạn để điều trị triệu chứng hen phế quản, làm cho việc kiểm soát hen phế quản khó khăn hơn.

Việc giảm kiểm soát cơn hen phế quản đột ngột và tăng dần có khả năng đe dọa đến tính mạng và bệnh nhân nên được khuyên đến bác sĩ tái khám và nên cân nhắc đến việc tăng liều corticosteroid. Tương tự, khi liều dùng hiện tại của Seretide thất bại trong việc kiểm soát bệnh tắc nghẽn đường thở, bệnh nhân nên được khuyên đi tái khám bác sĩ trong những trường hợp này.

Nên cân nhắc dùng thêm một corticosteroid và dùng thêm kháng sinh nếu có hiện tượng nhiễm trùng xảy ra.

Không nên ngưng đột ngột việc điều trị với Seretide.

Cũng như với thuốc đường hít chứa corticosteroid khác, Seretide nên được dùng thận trọng trên bệnh nhân lao tiến triển hay lao tiềm ẩn.

Seretide nên được dùng thận trọng trên bệnh nhân bị nhiễm độc giáp.

Một số hiếm trường hợp glôcôm và tăng nhãn áp đã được báo cáo sau khi dùng corticosteroid đường hít.

Nên thận trọng khi cho bệnh nhân chuyển sang dùng Seretide, đặc biệt nếu thấy có lý do nghi ngờ bị suy thượng thận từ các trị liệu steroid toàn thân trước đó.

Lái xe và vận hành máy móc:

Không có nghiên cứu chuyên biệt nào về tác động của Seretide trên khả năng này, nhưng dược lý thuốc không cho thấy ảnh hường nào.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Việc dùng thuốc trong thai kỳ và khi cho con bú chỉ nên cân nhắc khi hiệu quả mong muốn cho người mẹ cao hơn các nguy cơ có thể xảy ra cho thai nhi và cho trẻ.

Hiện không có đầy đủ kinh nghiệm về việc sử dụng salmeterol và fluticasone propionate trên phụ nữ có thai và cho con bú.

Trong các nghiên cứu ở động vật về độc tính thuốc trên khả năng sinh sản, dù dùng đơn thuần hay phối hợp, cho thấy các tác động trên thai nhi chỉ được ghi nhận khi dùng thuốc chủ vận bêta và glucocorticosteroid đường toàn thân liều cao.

Các kinh nghiệm lâm sàng với các thuốc cùng nhóm cho thấy không có bằng chứng nào về tác động có liên quan tới liều điều trị. Cả salmeterol hay fluticasone propionate không cho thấy khả năng gây độc cho sự di truyền.

Nồng độ của salmeterol và fluticasone propionate trong huyết tương sau khi dùng liều điều trị dạng hít rất thấp và do đó nồng độ thuốc trong sữa mẹ cũng rất thấp. Điều này cũng được ghi nhận trên các động vật nghiên cứu, nồng độ thuốc đo được trong sữa rất thấp. Không có dữ liệu sẵn có về nồng độ thuốc trong sữa mẹ.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Dù rằng nồng độ Seretide trong huyết tương rất thấp, nhưng không thể lọai trừ khả năng tương tác với các chất nền khác hay các thuốc ức chế CYP 3A4.

Nên tránh dùng các thuốc chẹn thụ thể bêta chọn lọc và không chọn lọc trên bệnh nhân có bệnh lý tắc nghẽn đường thở có thể hồi phục được, trừ khi có các lý do bắt buộc phải dùng.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Do Seretide bao gồm salmeterol và fluticasone propionate, có thể có các loại và mức độ các phản ứng phụ khác nhau liên quan với từng thành phần thuốc. Không có bằng chứng nào về các tác dụng cộng thêm khi dùng cùng lúc hai hoạt chất này.

Sau đây là các tác dụng liên quan với salmeterol hay fluticasone propionate:

Salmeterol:

Các phản ứng phụ về mặt dược lý của thuốc chủ vận bêta như run, đánh trống ngực và nhức đầu, đã được báo cáo, nhưng các phản ứng này thường thoáng qua và giảm khi đã dùng thuốc thường xuyên.

Loạn nhịp tim (bao gồm rung nhĩ, nhịp nhanh trên thất và ngoai tâm thu) có thể xảy ra thường trên bệnh nhân nhạy cảm.

Có báo cáo về triệu chứng đau khớp và phản ứng quá mẫn, bao gồm nổi mẩn, phù và phù mạch.

Hiếm khi có đau cơ. Fluticasone propionate:

Khàn giọng và nhiễm nấm candida miệng và họng có thể xảy ra ở một vài bệnh nhân. Phản ứng quá mẫn da đã được báo cáo.

Cả hai triệu chứng khàn giọng và tần suất nhiễm nấm candida có thể giảm bằng cách súc miệng với nước sau khi dùng salmeterol và fluticasone propionate.

Triệu chứng nhiễm nấm candida có thể được điều trị bằng thuốc kháng nấm tại chỗ trong khi vẫn tiếp tục dùng salmeterol và fluticasone propionate.

Cũng như các trị liệu đường hít khác, có thể có xảy co thắt phế quản nghịch thường với triệu chứng khò khè gia tăng ngay sau khi dùng thuốc. Nên điều trị tức thời với một thuốc giãn phế quản đường hít tác dụng nhanh. Nên ngừng dùng salmeterol và fluticasone propionate, bệnh nhân nên được thăm khám và dùng phương pháp điều trị thay khác khi cần.

Các thử nghiệm lâm sàng về salmeterol và fluticasone propionate: Các phản ứng không mong muốn thường được báo cáo là:

Khàn giọng/nói khó, kích ứng họng, nhức đầu, nhiễm candida miệng và họng và đánh trống ngực.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Thuốc chỉ dùng đường hít qua miệng.

Bệnh nhân nên được thông báo rằng Seretide phải được dùng thuờng xuyên để đạt hiệu quả tối ưu, ngay cả khi không có triệu chứng.

Bệnh nhân nên được khuyên tái khám thường xuyên, nhờ vậy hiệu quả tối ưu của Seretide được dùng sẽ duy trì và chỉ thay đổi theo y lệnh. Liều nên được chuẩn độ cho tới liều thấp nhất mà vẫn duy trì hiệu quả kiểm soát triệu chứng.

Liều khuyến cáo:

Người lớn và trẻ em trên 12 tuổi:

Một nhát xịt (50 mg salmeterol và 100 mg flucasone propionate) ngày 2 lần ; hay Một nhát xịt (50 mg salmeterol và 250 mg flucasone propionate) ngày 2 lần ; hay Một nhát xịt (50 salmeterol và 500 flucasone propionate) ngày 2 lần.

Trẻ em từ 4 tuổi trở lên:

Một nhát xịt (50 mg salmeterol và 100 mg flucasone propionate) ngày 2 lần. Không có tài liệu sẵn có về việc dùng Seretide cho trẻ dưới 4 tuổi.

Nhóm bệnh nhân đặc biệt:

Không cần chỉnh liều cho bệnh nhân lớn tuổi hay bệnh nhân bị suy thận hay suy gan.

Hướng dẫn sử dụng:

Mở nắp dụng cụ. Đặt phần miệng của dụng cụ vào miệng và ngậm môi lại. Sau đó hít liều thuốc vào và đóng dụng cụ lại.

Mức chỉ liều trên Accuhaler chỉ ra số liều còn lại.

QUÁ LIỀU

Không có dữ liệu sẵn có từ các thử nghiệm lâm sàng về việc quá liều Seretide, tuy nhiên tài liệu về quá liều cho cả hai họat chất như sau:

Dấu hiệu và triệu chứng quá liều salmeterol là run, nhức đầu và nhịp nhanh. Thuốc đối kháng thích hợp là các thuốc chẹn thụ thể bêta chọn lọc trên tim, nên được dùng thận trọng trên bệnh nhân có tiền sử co thắt phế quản. Khi việc điều trị bằng Seretide phải ngưng do quá liều thành phần chủ vận bêta của thuốc, nên cân nhắc việc sử dụng liệu pháp steroid thay thế thích hợp.

Dùng quá liều khuyến cáo fluticasone propionate đường hít có thể gây suy chức năng thượng thận tạm thời.

Không cần thiết phải điều trị cấp cứu vì chức năng thượng thận sẽ hồi phục trong vài ngày, bằng cách đo nồng độ cortisol huyết tương. Tuy nhiên, nếu liều cao hơn liều khuyến cáo được tiếp tục dùng kéo dài, có thể gây ra các mức độ suy thượng thận. Việc theo dõi sự hồi phục của thượng thận là cần thiết. Trong trường hợp việc quá liều fluticasone propionate trong Seretide có thể vẫn được tiếp tục với liều thích hợp nhằm kiểm soát triệu chứng (xem phần Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng).

BẢO QUẢN

Bảo quản dưới 30oC, nơi khô.

Nguyên nhân gây rụng tóc

Rụng Tóc Là Gì?

Tóc mọc khắp nơi trên da người, ngoại trừ những nơi như lòng bàn tay và lòng bàn chân, mi mắt và rốn, nhưng nhiều sợi tóc rất mảnh nên gần như không thể nhìn thấy.

Tóc được cấu tạo từ một loại protein gọi là keratin, được sản xuất trong các nang tóc ở lớp ngoài của da. Khi các nang tóc sản xuất các tế bào tóc mới, các tế bào cũ sẽ bị đẩy ra qua bề mặt da với tốc độ khoảng 15 cm mỗi năm. Tóc mà bạn thấy thực sự là một chuỗi các tế bào keratin đã chết. Trung bình, một người trưởng thành có khoảng 100.000 đến 150.000 sợi tóc và mất tới 100 sợi mỗi ngày; việc tìm thấy vài sợi tóc rụng trên lược không nhất thiết là lý do để lo lắng.

Vào bất kỳ thời điểm nào, khoảng 90% tóc trên da đầu của một người đang phát triển. Mỗi nang tóc có một chu kỳ sống riêng có thể bị ảnh hưởng bởi độ tuổi, bệnh tật và nhiều yếu tố khác nhau. Chu kỳ sống này được chia thành ba giai đoạn:

  • Anagen: giai đoạn tóc mọc tích cực, thường kéo dài từ 2 đến 8 năm
  • Catagen: giai đoạn chuyển tiếp của tóc, kéo dài 2 đến 3 tuần
  • Telogen: giai đoạn nghỉ ngơi, kéo dài khoảng 2 đến 3 tháng; vào cuối giai đoạn nghỉ ngơi, tóc sẽ rụng và một sợi tóc mới thay thế nó, và chu kỳ phát triển bắt đầu lại.

Khi con người già đi, tốc độ mọc tóc của họ sẽ chậm lại.

Có nhiều loại rụng tóc, còn được gọi là alopecia:

  • Alopecia involutional là một tình trạng tự nhiên mà tóc dần mỏng đi theo tuổi tác. Nhiều nang tóc chuyển sang giai đoạn nghỉ ngơi, và các sợi tóc còn lại trở nên ngắn hơn và ít hơn về số lượng.
  • Alopecia androgenic là một tình trạng di truyền có thể ảnh hưởng đến cả nam và nữ. Nam giới mắc tình trạng này, được gọi là rụng tóc kiểu nam, có thể bắt đầu rụng tóc từ những năm thanh thiếu niên hoặc đầu những năm 20. Nó được đặc trưng bởi đường viền tóc rút xuống và sự biến mất dần dần của tóc từ đỉnh đầu và vùng trán. Phụ nữ mắc tình trạng này, được gọi là rụng tóc kiểu nữ, không có sự mỏng thấy rõ cho đến khi họ ở độ tuổi 40 hoặc muộn hơn. Phụ nữ trải qua sự mỏng chung trên toàn bộ da đầu, với sự rụng tóc đáng kể nhất ở đỉnh đầu.
  • Alopecia areata là một loại rụng tóc xảy ra khi hệ thống miễn dịch của bạn nhầm lẫn tấn công các nang tóc, nơi tóc bắt đầu phát triển. (Ảnh: Dr P. Marazzi/Science Source)

Alopecia areata thường bắt đầu đột ngột và gây ra rụng tóc từng mảng ở trẻ em và người trẻ tuổi. Tình trạng này có thể dẫn đến sự rụng tóc hoàn toàn (alopecia totalis). Tuy nhiên, ở khoảng 90% người mắc tình trạng này, tóc sẽ mọc trở lại trong vài năm.

Nguyên nhân gây rụng tóc
Nguyên nhân gây rụng tóc
  • Alopecia universalis gây ra sự rụng tóc toàn bộ cơ thể, bao gồm cả lông mày, lông mi và lông mu.
  • Trichotillomania, thường thấy nhất ở trẻ em, là một rối loạn tâm lý trong đó một người tự nhổ tóc.
  • Telogen effluvium là sự mỏng tạm thời của tóc trên da đầu xảy ra do sự thay đổi trong chu kỳ mọc tóc. Một số lượng lớn tóc vào giai đoạn nghỉ ngơi cùng một lúc, gây ra sự rụng tóc và sau đó là sự mỏng. Tìm hiểu thêm về nguyên nhân gây ra telogen effluvium.
  • Alopecia sẹo dẫn đến mất tóc vĩnh viễn. Các tình trạng da viêm (viêm mô tế bào, viêm nang lông, mụn trứng cá) và các rối loạn da khác (như một số dạng lupus và lichen planus) thường dẫn đến sẹo làm hỏng khả năng tái sinh của tóc.
  • Alopecia kéo. Sử dụng lược nóng và buộc tóc quá chặt cũng có thể dẫn đến mất tóc vĩnh viễn.
  • Alopecia sẹo trung tâm. Đây là loại phổ biến nhất ở phụ nữ da đen. Điều này thường xuất hiện dưới dạng một vùng hói nhỏ ở trung tâm da đầu, vùng này sẽ phát triển theo thời gian.

Nguyên nhân gây rụng tóc

Các bác sĩ không biết tại sao một số nang tóc lại được lập trình để có chu kỳ phát triển ngắn hơn so với những nang khác. Tuy nhiên, một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến tình trạng rụng tóc:

  • Hormone, chẳng hạn như mức độ androgen (hormone nam) bất thường, thường được sản xuất bởi cả nam và nữ.
  • Gen, từ cả cha và mẹ, có thể ảnh hưởng đến khuynh hướng của một người đối với rụng tóc kiểu nam hoặc nữ.
  • Căng thẳng, bệnh tật và sinh con có thể gây ra rụng tóc tạm thời. Nấm da do nhiễm trùng nấm cũng có thể gây ra rụng tóc. Tìm hiểu những gì bạn có thể làm để giúp đảo ngược tình trạng rụng tóc do căng thẳng.
  • Thuốc, bao gồm cả thuốc hóa trị được sử dụng trong điều trị ung thư, thuốc chống đông máu, thuốc chẹn beta-adrenergic được sử dụng để kiểm soát huyết áp và thuốc tránh thai, có thể gây ra rụng tóc tạm thời.
  • Bỏng, chấn thương và tia X có thể gây ra rụng tóc tạm thời. Trong những trường hợp như vậy, sự phát triển tóc bình thường thường trở lại khi vết thương lành, trừ khi có sẹo được hình thành. Khi đó, tóc sẽ không bao giờ mọc lại.
  • Bệnh tự miễn có thể gây ra alopecia areata. Trong alopecia areata, hệ thống miễn dịch hoạt động mạnh lên vì lý do không rõ và ảnh hưởng đến các nang tóc. Ở hầu hết những người mắc alopecia areata, tóc mọc trở lại, mặc dù có thể tạm thời rất mảnh và có thể có màu sáng hơn trước khi màu sắc và độ dày trở lại bình thường.
  • Thủ tục thẩm mỹ, chẳng hạn như gội đầu quá thường xuyên, uốn tóc, tẩy trắng và nhuộm tóc có thể góp phần vào sự mỏng tóc chung bằng cách làm cho tóc yếu và giòn. Bện tóc chặt, sử dụng cuộn hoặc máy uốn tóc nóng, và chạy lược qua những lọn tóc chặt có thể cũng làm hỏng và gãy tóc. Tuy nhiên, những thủ tục này không gây hói. Trong hầu hết các trường hợp, tóc mọc trở lại bình thường nếu nguồn gốc của vấn đề được loại bỏ. Tuy nhiên, tổn thương nghiêm trọng cho tóc hoặc da đầu đôi khi gây ra những vùng hói vĩnh viễn.
  • Điều kiện y tế. Bệnh tuyến giáp, lupus, tiểu đường, thiếu máu do thiếu sắt, rối loạn ăn uống và thiếu máu có thể gây rụng tóc. Thường thì, khi tình trạng cơ bản được điều trị, tóc sẽ quay trở lại trừ khi có sẹo như trong một số dạng lupus, lichen planus hoặc rối loạn nang.
  • Chế độ ăn uống. Chế độ ăn uống ít protein hoặc chế độ ăn hạn chế calo nghiêm trọng cũng có thể gây ra rụng tóc tạm thời. Tìm hiểu thông tin về các loại thực phẩm có thể giúp ngăn ngừa rụng tóc.
  • Thiếu vitamin. Thiếu vitamin A, B, C, D và E, cũng như sắt và kẽm, đã được liên kết với tình trạng rụng tóc

Thuốc Bisacodyl

Tên chung: bisacodyl

Tên thương mại: Dulcolax, Correctol, Bisacolax, Bisac-Evac, Alophen, Fleet Bisacodyl, Feen-A-Mint

Bisacodyl là gì và được sử dụng để làm gì?

Bisacodyl là một loại thuốc nhuận tràng kích thích. Nó kích thích các cơ trong thành ruột non và đại tràng để tạo ra một cơn đại tiện. Nó cũng thay đổi mức độ nước và điện giải trong ruột, làm tăng lượng chất lỏng, từ đó tạo ra hiệu ứng giống như thuốc nhuận tràng.

Bisacodyl được sử dụng để giảm tạm thời táo bón và sự không đều trong việc đi đại tiện. Sản phẩm này thường tạo ra cơn đại tiện trong khoảng 6 đến 12 giờ.

Các tác dụng phụ của bisacodyl là gì?

Các tác dụng phụ của bisacodyl bao gồm:

  • Cơn đau bụng
  • Tiêu chảy
  • Buồn nôn
  • Nôn mửa
  • Chóng mặt
  • Đau rát trực tràng
  • Mất cân bằng nước và điện giải

Liều lượng cho bisacodyl là gì?

  • Viên nén
    • Người lớn và trẻ em từ 12 tuổi trở lên: Uống từ 1 đến 3 viên (5 – 15 mg) mỗi ngày, cùng với một cốc nước.
    • Trẻ em từ 6 đến dưới 12 tuổi: Uống 1 viên mỗi ngày, cùng với một cốc nước.
    • Trẻ em dưới 6 tuổi: Hỏi ý kiến bác sĩ.
  • Viên đạn trực tràng
    • Người lớn và trẻ em từ 12 tuổi trở lên: Bóc vỏ và đưa 1 viên đạn vào trực tràng hàng ngày như một liều duy nhất. Giữ lại trong 15 đến 20 phút.
    • Trẻ em từ 6 đến dưới 12 tuổi: Bóc vỏ và đưa ½ viên đạn vào trực tràng hàng ngày như một liều duy nhất.
    • Trẻ em dưới 2 tuổi: Hỏi ý kiến bác sĩ.
  • Enema
    • Người lớn và trẻ em từ 12 tuổi trở lên: Sử dụng 1 chai (1,25 oz) như một liều duy nhất.
    • Trẻ em dưới 12 tuổi: Hỏi ý kiến bác sĩ.

Thuốc nào tương tác với bisacodyl?

Không có tương tác thuốc đáng kể nào được biết đến liên quan đến việc sử dụng bisacodyl.

Mang thai và cho con bú

  • Chưa có nghiên cứu đầy đủ nào được thực hiện để xác định việc sử dụng bisacodyl an toàn và hiệu quả cho phụ nữ mang thai.
  • Không biết bisacodyl có được bài tiết trong sữa mẹ hay không; do đó, cần sử dụng cẩn thận cho các bà mẹ đang cho con bú.

Tôi nên biết gì thêm về bisacodyl?

Các dạng bisacodyl-oral nào có sẵn?

Bisacodyl có sẵn dưới dạng viên nén bao tan trong ruột 5 mg, viên đạn trực tràng 10 mg và enema chứa 10 mg bisacodyl cho mỗi 1,25 oz dung dịch enema.

Tôi nên bảo quản bisacodyl-oral như thế nào?

Viên nén bisacodyl nên được bảo quản ở nhiệt độ từ 20°C đến 25°C (68°F đến 77°F) và tránh ẩm. Viên đạn và dung dịch enema yêu cầu bảo quản dưới 30°C (86°F).

Tóm tắt

Bisacodyl là một loại thuốc không cần kê đơn được sử dụng để điều trị táo bón và sự không đều trong việc đi đại tiện. Các tác dụng phụ của bisacodyl bao gồm cơn đau bụng, tiêu chảy, buồn nôn, nôn mửa, chóng mặt, đau rát trực tràng và mất cân bằng nước và điện giải. Bisacodyl không có tương tác thuốc nào được biết đến. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng bisacodyl nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Giải phẫu hộp sọ não

Cấu trúc và các thành phần trong hộp sọ

Xương đầu gồm có 2 phần là xương mặt và xương sọ. Xương sọ có cấu trúc dạng hộp gọi là hộp sọ, đó là một cấu trúc cứng có một thể tích hữu hạn và hằng định ở người trưởng thành, trong hộp sọ có 3 thành phần thể tích chính lấp kín; đó là tổ chức não, máu và dịch não tủy. Giữa các thành phần này có một tỷ lệ thể tích nhất định và có mối liên quan mật thiết, tạo nên các hàng rào sinh học đảm nhận vai trò bảo vệ, dinh dưỡng và điều hòa nội môi cho não.

Tỷ lệ thể tích của các thành phần trong hộp sọ:

+ Não: 80% = 1.400ml.

+ dịch não tủy: 10% = 150ml.

+ Máu: 10% = 150ml.

Não

Sự phát triển của não: não trẻ em sơ sinh nặng khoảng 300g, 1 tuổi khoảng 800g và trọng lượng não tăng rất nhanh trong 2 năm đầu cuộc đời, ở lứa tuổi 20 – 25 tăng chậm hợn và dừng lại ở 65 tuổi, sau đó cùng với sự lão hóa của cơ thể trọng lượng của não giảm dần do mât nước, ở người trưởng thành trọng lượng trung bình của não khoảng 1.370g.

Cấu trúc của não: não gồm vỏ não và các tổ chức dưới vỏ. vỏ não được các rãnh não chia thành các thùy: thuỳ trán, thùy đỉnh, thùy chẩm, thùy thái dương. Trong mỗi thùy các rãnh nhỏ lại chia thành các hồi não. vỏ não đảm nhận nhiều chức năng cao cấp như tư duy, trí nhớ, cảm xúc, lời nói, chữ viết… điều hành các chức năng khác của cơ thể như vận động, cảm giác, phản xạ, thực vật – dinh dưỡng thông qua sự liên kết khăng khít giữa các vùng của não.

Não nằm trong hộp sọ cùng máu và dịch não tủy nhưng “não không bơi lội trong dịch não tủy”.

Máu

Lượng máu trong hộp sọ chỉ nhằm đảm bảo dinh dưỡng cho não.

Lượng máu trong não: trung bình mỗi phút có 700 – 750ml máu chảy qua não và đảm bảo một lưu lượng tuần hoàn 50 – 55ml/100gam não/phút. Đây là những chỉ số hằng định cho dù chức năng hoạt động của não ở mức nào.

Thời gian máu chảy qua não khá nhanh (khoảng 3 giây), máu chảy qua màng não lâu hơn (khoảng 9 giây). Nhụ cầu oxy của não bằng 18 – 20% mức tiêu thụ ôxy của toàn cơ thể. Mức tiêu thụ glucose chiếm tỷ lệ tương tự so với toàn thân; não không có dự trữ glycogen, do đó, não rất cần máu tuần hoàn liên tục cung cấp glucose.

Lưu lượng máu não được điều hòa bởi phân áp carbon dioxyd, phân áp oxy, các yếu tố thần kinh và hiệu ứng Bayliss.

Dịch não tủy

Dịch não tủy không màu trong suốt, được sản xuất ra từ các đám rối mạch mạc; ngoài ra dịch não tủy còn được sản xuất từ màng ống nội tủy, màng nhện và một phần do tế bào não bài tiết qua các khoang quanh mạch đi vào trong não. Sau khi được bài tiết, dịch não tủy được chứa đựng trong các não thất, bể chứa quanh não, khoang dưới nhện, các khoang này nối thông với nhau và có áp lực dịch não tủy hằng định.

Trong não thất có khoảng 25ml dịch não tủy (toàn bộ dịch não tủy trong cơ thể người lớn là 125 – 150ml; trẻ em 50ml). Hàng ngày dịch não tủy được thay toàn bộ 3 – 4 lần. Tốc độ sản sinh dịch não tủy khoảng 0,35ml/phút (tương đương 500ml/ngày). Độ pH dịch não tủy = 7,4 – 7,6; áp lực 10 – 15cmH20 (khi nam) và 15 – 20cmH2O (khí ngồi). Thành phần dịch não tủy gồm: protein 15mg/dl; cholesterol < 1mg/dl; dự trữ kiềm 10 – 27mEq/dl; glucose 70 – 75mg/dl; urê 20 – 50mg/dl, acid béo 43mg/dl; acid uric toàn phần 4mg/dl; phosphat 9mg/dl; calci 5mg/dl; natriclorua 70mg/dl; bạch cầu lympho 1 – 3 tê bào/1mm3; tỷ trọng riêng 1,006 – 1,009.

Dịch não tủy là một dịch trong không màu, số lượng từ 60 – 100ml, tỷ trọng 1,005, pH = 7,4 – 7,6.

Chức năng quan trọng nhất của dịch não tủy là đệm đỡ cho não bộ trong hộp sọ cứng, tỷ trọng của não và dịch não tủy là tương đương nhau, nên não như được trôi nổi trong Khi có chấn thương vào hộp sọ sẽ làm cho toàn bộ não chuyển động đồng thời tránh được tổn thương não. dịch não tủy còn đóng vai trò là bể chứa, điều hòa, thích nghi với những thay đổi thể tích của não, của máu. Sự thay đổi tính chất, thành phần, đặc tính của dịch não tủy có liên quan đến bệnh lý của não. Thực tế trên lâm sàng, người ta thường dựa vào biến đổi về dịch não tủy làm căn cứ chẩn đoán bệnh lý thần kinh.

Thuyết Monro – Kellie và ứng dụng trong lâm sàng

Mối quan hệ áp lực nội sọ, khối lượng dịch não tủy, máu, mô não và áp lực tưới máu não (CPP) được gọi là học thuyết Monro – Kellie hoặc giả thuyết Monro – Kellie (Monro – Kellie Doctrin). Giả thuyết Monro – Kellie cho rằng khoang sọ là một khoảng không cứng, không thể nén được và thể tích bên trong hộp sọ là một hằng số cố định. Sọ và các thành phần của nó (máu, dịch não tủy, và mô não) tạo ra một trạng thái cân bằng thể tích, khi có gia tăng bất kỳ nào về thành phần thể tích của một trong các thể tích trên thì sọ phải được bù đắp bởi sự sụt giảm về thể tích của thành phần khác.

Thể tích trong hộp sọ

 

Các vùng đệm của não bao gồm dịch não tủy và thể tích máu, vùng đệm phản ứng với sự gia tăng về khối lượng của các thành phần nội sọ còn lại. Ví dụ, sự xuất hiện khối choán chỗ nội sọ (ví dụ như tụ máu ngoài màng cứng) sẽ được bù đắp bởi sự dịch chuyển đi xuống của CSF và máu tĩnh mạch. Cơ chế đền bù có thể duy trì một ICP bình thường đối với bất kỳ sự thay đổi về thể tích ít hơn khoảng 100 – 120ml.

Thuyết Monro – Kellie có nhiều ứng dụng trong lý thuyết và trong lâm sàng bao gồm:

  • Về mặt lý thuyết: thuyết Monro – Kellie tạo tiền đề cho các giả thiết khác như cơ chế tự điều hòa thể tích dịch não tủy, tự điều hòa thể tích máu não, cơ chế điều hoà thể tích và lưu lượng máu não.
  • Về mặt chẩn đoán: giúp tư duy chẩn đoán và giải thích các triệu chứng tăng áp lực nội sọ gây nên.
  • Ứng dụng rất nhiều trong điều trị, đặc biệt trong điều trị tăng áp lực nội sọ (ví dụ như phải lấy bỏ khối choán chỗ, để đầu cao dễ dàng cho dòng dịch não tủy đi xuống).

Đồ thị tăng áp hộp sọ

  • Giai đoạn 1 – 2: giai đoạn còn bù

Khi một trong 3 thành phần thể tích tăng thì 2 thành phần còn lại sẽ giảm để đảm bảo cho áp lực nội sọ hằng định.

  • Giai đoạn 3 – 4: giai đoạn mất bù

Khi cơ chế bù trừ đã bị khai kiệt, một sự gia tăng thể tích nhỏ của các thành phần thể tích trong hộp sọ cũng có thể làm áp lực nội sọ tăng mạnh.

Độ dốc của đường cong phụ thuộc vào tổ chức hộp sọ nào gia tăng thể tích. Nếu là máu hoặc dịch não tủy, cả 2 đều khó có thể nén, do đó, độ dốc sẽ dốc hơn. Nếu tổ chức não tăng thể tích ví dụ như trong u não, đường cong sẽ ít dốc hơn vì tổ chức não dễ bị nén hơn.

Các vùng liên diện

Lịch sử khái niệm

Cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học nói chung và y học nói riêng, miễn dịch học ngày càng được nhận diện vị trí rất quan trọng của nỏ trong nền y học và nhất là trong các ngành học lâm sàng. Ngay từ năm 1887, mới phát minh đầu tiên về vaccin phòng bệnh dại của Louis Pasteur, loài người được trang bị một phương pháp điều trị hữu hiệu mà trước đó những người nhiễm virus dại như không phương cứu chữa. Đó là thành tựu đầu tiên khai sinh ra ngành miễn dịch lâm sàng và từ đó phát triển không ngừng. Bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận được của vaccin phòng dại, người ta lập tức cũng thấy một số tác hại của nó khiến cho các nhà miễn dịch học đương thời không thể bỏ qua được. Bởi vì ở một số người sau khi được tiêm vaccin phòng dại, tuy tránh được bệnh dại nhưng thấy xuất hiện một số triệu chứng thân kinh phổ biên như bị liệt do tổn thương hệ thần kinh trung ương gây nên. Năm 1936, River và cs đã nghiên cứu sậu về hiện tượng này rồi đi đến một kết luận cho rằng vaccin phòng dại có thể gây ra một tai biến viêm não tuỷ lan toả cấp tính, kéo theo tình trạng mất myelin của hệ thân kinh trung ương. Cũng từ đó, bệnh lý miễn dịch trong hệ thần kinh bắt đầu được quan tâm nghiên cứu.

Trước đây người ta cho rằng hệ thần kinh trung ương gần như không có đáp ứng miễn dịch. Quan điểm trên có xuất xứ từ những nhận xét về kết quả ghép mô vào các cơ quan khác nhau trong cơ thể. Các mô đồng loại được ghép vào trong não thường thành công hơn so với ghép vào dưới da (Murphy và star, 1923).

Năm 1930, Theiler lại thấy rằng, khi tiêm virus sốt vàng vào não chuột, virus sốt vàng phát triển rất thuận lợi ở đấy hơn là tiêm truyền chúng vào các cơ quan khác của chuột. Điều đó càng củng cố quan điểm cho rằng não không có phản ứng miễn dịch và gần như được cách ly khỏi hệ thống miễn dịch.

Ngày nay, quan điểm trên không còn được tồn tại nữa. Các công trình nghiên cứu về đáp ứng miễn dịch trong hệ thần kinh gần đây đã chứng minh rằng, tuy các mảnh ghép tôn tại lậu hơn ở trong não so với các cơ quan khác, nhưng cuối cùng nó vẫn bị đào thải băng nhiêu đường do các phản ứng miễn dịch tương tự như ở các cơ quan khác; tuy vậy, nó vân duy trì một thực tại cho rằng tính miễn dịch trong hệ thần kinh trung ương chỉ được phát động một cách miễn cưỡng.Tính chất quan trọng bậc nhất ở đây là trong não bình thường không thây có mặt của các tế bào có chức năng miễn dịch, chỉ có một vài tê bào lympho, không có hạch bạch huyết và mạch bạch huyết thông thường. Mặc dụ năm 1970, Prineas khi nghiên cứu vê siêu cấu trúc của tổ chức não, ông ta có thấy các cấu trúc thành mỏng tronc) khoang Virchow – Robin đóng vai trò như mạch bạch huỵết trong não. Sự vắng mặt của các to chức dạng lympho trong não phản ánh một thực tế cho rằng não bình thường không được tiếp nhận với các kích thích kháng nguyên. Sự thiếu cả về các tế bào có thẩm quyên miên dịch và các kích thích kháng nguyên nói lên rằng, bình thường não không tổng hợp não kháng thể. Điêu đó không có nghĩa là hệ thần kinh trung ương không có sự bảo vệ chống lại với các tác nhân gây bệnh, mà ngược lại nó được bảo vệ một cách vững chắc thông qua vai trò rất quan trọng cùa hàng rào ngăn cách nó với tuần hoàn máu gọi là hàng rào máu – não. Một trong các vùng liên diện trong sọ chính là hàng rào máu – não, còn gọi là rào chắn sinh học, ngoài ra còn có hàng rào máu – dịch não tủy, hàng rào dịch não tủy – máu. Do đó, mức độ an toàn của hệ thần kinh trung ương phụ thuộc chủ yếu vào sự toàn vẹn của hàng rào máu – não. Trong bệnh lý thần kinh, hàng rào máu não bị phá vỡ và quá trình viêm cho phép các tế bào có thẩm quyền miễn dịch và kháng thể từ máu đi vào hệ thần kinh trung ương, kéo theo quá trình tổng hợp nên kháng thể, lúc đó não trở nên một cơ quan có khả năng sinh một đáp ứng miễn dịch.

Có 3 vùng liên diện quan trọng trong não cần được nhắc tới, đó là các hàng rào sinh học:

  • Hàng rào máu – dịch não tủy (hệ thống đám rối mạch mạc).
  • Hàng rào dịch não tủy – máu (các hạt Pacchioni).
  • Hàng rào máu – não.

Các vùng liên diện

Hàng rào máu – não

  • Hàng rào máu – não thực chất là rào chắn sinh học giữa máu và dịch não tủy, giữa dịch não tủy và mô não.
  • Có tính thấm chọn lọc rất cao với một số chất, từ đó đảm nhận hai chức năng chính là bảo vệ mô thần kinh không bị các chất độc, chất lạ xâm nhập, điều hòa dinh dưỡng và duy trì tính hằng định của môi trường cho tế bào não hoạt động.
  • Có tính thấm cao với nước, C02, 02 và các chất hòa tan trong lipid; có tính thấm thấp với Na+, K+, H+ và hầu như không thấm protein và các chất hữu cơ có phân tử lượng cao.

+ Các chất đi từ máu vào dịch não tủy rồi vào mô não có hệ số thấm < 1.

+ Các sản phẩm chuyển hóa đi từ mô não đến dịch não tủy rồi đến máu có hệ số thấm > 1.

  • Để đánh giá chức năng bảo vệ, người ta đưa ra hệ số thấm, hệ số thấm là tỷ số giữa nồng độ chất ở trong mô/nồng độ chất đó ở trong máu.

Hàng rào máu – dịch não tủy (hệ thống đám rối mạch mạc)

Hầu hết dịch não tủy được bài tiết ở đám rối mạch mạc, đặc biệt là đám rối mạch mạc của não thật bên. Đám rối mạch mạc được cấu tạo bởi các tế bào biểu mô hình trụ hoặc hình khối giống nhự cấu trúc ống lượn xa và ống góp ở thận, có chức năng duy trì sự cân bằng các thành phần hóa học của dịch não tủy. Do được bài tiết theo hai chiều nên dịch não tủy không những được sản xuất liên tục mà còn giúp vận chuyển các chất chuyển hóa từ hệ thần kinh trung ương vào trong máu.

Cấu trúc hàng rào máu

Hàng rào dịch não tủy – máu

Hàng rào dịch não tủy – máu còn gọi là các hạt Pacchioni, đây là cấu trúc lồi ra của màng nhện chui qua màng cứng vào xoang tĩnh mạch não.

Xoang tĩnh mạch

Hội chứng Adams – Stokes – Morgani và phương pháp đặt máy tạo nhịp

Hội chứng Adams – Stokes – Morgani là hội chứng rối loạn nặng sự dẫn truyền của hệ thống thần kinh tự động ở trong tim. Đó là biến chứng của sự cắt ngang hoàn toàn dẫn truyền nhĩ – thất (ta còn gọi là blốc nhĩ – thất hoàn toàn).

Theo nhiều tác giả khác nhau, hội chứng Adams – Stokes – Morgani gặp ở các bệnh nhân có blốc nhĩ – thất hoàn toàn từ 38% đến 70% (Penton, Miller, Levine, 1956; Rowe, White, 1958; V. s. Savelev, 1961, v.v…). Cuộc sống của bệnh nhân bị blốc nhĩ – thất hoàn toàn với biến chứng hội chứng Adams – Stokes – Morgani thường không kéo dài quá hai năm (theo Katz, 1941) Hội chứng Adams – Stokes – Morgani được biểu hiện ra như sau: trên nền tim đập chậm của sự phân ly nhĩ – thất, thấy ở bệnh nhân xuất hiện các dấu hiệu sau đây (theo Vaquez, 1926):

– Chóng mặt, tri giác lơ mơ (trong từ 3 đến 7 giây đồng hồ).

– Mê hoàn toàn (từ 7 đến 17 giây đồng hồ), da bệnh nhân tím tái.

– Co giật, đồng tử giãn to, ngừng hô hấp (từ 20 đến 45 giây đồng hồ)

Trong quá trình xảy ra hội chứng này không sờ thấy mạch và không thấy tim đập ở bệnh nhân. Khi hết cơn, mạch đập lại và nghe thấy tim đập. Parkinson (1941) chia bệnh nhân với hội chứng Adams – Stokes – Morgani làm 3 nhóm sau đây:

– Nhóm tim ngừng đập (asystoile ventriculaire),

– Nhóm tim đập nhanh (tachycardie ventriculaire)

– Nhóm hỗn hợp (bắt đầu bằng tim đập nhanh, sau ngừng đập)

Trong hội chứng Adams – Stokes – Morgani, nhóm tim đập nhanh thường có nhiều nguy hiểm hơn nhóm tim ngừng đập. Theo Robertson và Mathews (1952), trung bình, các bệnh nhân ở nhóm tim đập nhanh thường bị chết vào tuần lễ thứ 9 sau cơn thứ nhất của hội chứng Adams – Stokes – Morgani.

Ở những bệnh nhân có bệnh cảnh lâm sàng của blốc nhĩ – thất hoàn toàn (tim đập chậm 40 – 50 lần một phút, tĩnh mạch cổ nổi và đập, tim to, tiếng thứ hai phân đôi, v.v… kèm theo với các dấu hiệu blốc nhĩ – thất trên băng ghi điện tim), cần phải cảnh giác và theo dõi sát sao để điều trị kịp thời hội chứng Adams – Stokes – Morgani có thể xảy ra.

Khi đã có cơn của hội chứng Adams – Stokes – Morgani xảy ra, phải tiến hành điều trị kịp thời theo ba giai đoạn sau đây:

Tại nơi xảy ra cơn Adams – Stokes – Morgani:

– Xoa bóp tim ngoài lồng ngực;

– Hô hấp nhân tạo bằng phương pháp “miệng thổi vào miệng” qua một lần gạc hay vải xô mỏng;

– Chườm lạnh lên đầu bệnh nhân;

– Tiêm thuốc trợ tim – mạch;

– Nếu có điều kiện, có thể sử dụng máy tạo nhịp tim để ngoài lồng ngực, tuy nhiên, biện pháp này chỉ có hiệu quả trong hai phút kể từ khi cơn Adams – Stokes – Morgani mới xảy ra.

Tại phòng mổ:

– Gây mê;

– Mở ngực, xoa bóp tim trực tiếp;

– Phá rung tim;

– Đặt máy tạo nhịp tim (électrostimulateur hay pacemaker);

– Tiếp tục chườm lạnh lên đầu bệnh nhân;

– Tiêm thuốc trợ tim mạch;

– Truyền dung dịch natri bicacbonat, urê, v.v…

Tại phòng hậu phẫu:

– Tiếp tục duy trì máy tạo nhịp tim vĩnh viễn;

– Tiếp tục chườm lạnh lên đầu;

– Tiếp tục tiêm thuốc trợ tim-mạch;

– Tiếp tục truyền natri bicacbonat, urê.

Có chỉ định máy tạo nhịp tim trong các trường hợp sau đây:

Chỉ định tuyệt đối đặt máy tạo nhịp tim:

– Các cơn của hội chứng Adams – Stokes – Morgani xảy ra liên tục;

– Hội chứng Adams – Stokes – Morgani phát triển cấp tính.

Chỉ định mổ tương đối:

– Nhịp tim chậm với hiện tượng suy tuần hoàn tiến triển;

– Suy tuần hoàn ẩn, chỉ xuất hiện khi làm việc gắng sức.

Chống chỉ định đặt máy tạo nhịp tim trong các trường hợp sau đây:

  1. Chống chỉ định tuyệt đối: Trạng thái biến đổi thoái hóa nặng trong các cơ quan, bộ phận do bệnh kéo dài lâu ngày gây nên như xơ cơ tim, xơ thận, xơ gan.
  2. Chống chỉ định tương đối:

– Già trên 70 tuổi, không đủ sức chịu phẫu thuật mở lồng ngực;

– Mạch nhanh dai dẳng, không có hội chứng Adams – Stokes – Morgani và suy tuần hoàn.

Chỉ định được mở rộng từ khi người ta chế tạo ra được các máy tạo nhịp tim không cần phải mở lồng ngực khi đặt nó.

Máy tạo nhịp tim có thể đặt tạm thời trong một thời gian nào đó (ngắn hạn), nhưng cũng có thể đặt vĩnh viễn trong một thời gian dài từ 6 đến 12 năm, tùy theo loại máy. Có loại máy tạo nhịp tim hoạt động theo yêu cầu, nghĩa là máy chỉ hoạt động khi tim đập chậm, và máy ngừng hoạt động khi nhịp tim đập trở lại bình thường.

Có hai loại phương pháp đặt máy tạo nhịp tim sau đây: (hình 55, 56)

  1. Các phương pháp đặt máy tạo nhịp tim gián tiếp: (1)

– Máy tạo nhịp tim với điện cực đặt ở ngoài da (a)

– Máy tạo nhịp tim với điện cực đặt ở ngoài tim (b)

– Máy tạo nhịp tim với điện cực đặt ở trong thực quản (c)

Hình 56. Các phương pháp đặt máy tạo nhịp tim gián tiếp
Hình 56. Các phương pháp đặt máy tạo nhịp tim gián tiếp
  1. Các phương pháp đặt máy tạo nhịp tim trực tiếp (các điện cực gắn trực tiếp vào cơ tim hay đưa vào trong buồng tim): (2)

– Máy tạo nhịp tim đơn cực (vởi 1 cục gắn vào cơ tim) (a)

– Máy tạo nhịp tim 2 cực (với 2 cực gắn vào cơ tim) (b)

– Máy tạo nhịp tim không dây (c)

– Máy tạo nhịp tim với điện cực gắn vào tâm thất phải v.v… (d)

Từ năm 1975, Liên Xô đã chế tạo và sử dụng thành công các máy tạo nhịp tim có mang nhiên liệu nguyên tử RECS A-l (radioélectrocardio – stimulateur Atome – 1). Trong các máy tạo nhịp tim này, người ta đặt bộ phận cung cấp nhiên liệu nguyên tử Pu – 238 (Plutonium – 238 médical) có thời gian bán phân hủy là 87,5 và đảm bảo hoạt động được trên 20 năm, không bị nhiễm xạ trong thời gian dùng nó.

Cái chủ yếu của phương pháp tạo nhịp tim nhân tạo trong điều trị chứng blốc nhĩ – thất đã có hay chưa có biến chứng các cơn hội chứng Adams – Stokes – Morgani là nhờ dòng điện kích thước với những tiêu chuẩn nhất định, người ta ức chế sự hoạt động tự động của các tâm thất và bắt chúng phải làm việc theo một tần số nhịp
mới đã được quy định của mỗi loại máy tạo nhịp tim (thường là 72 nhịp trong một phút). Đặc biệt, máy chỉ hoạt động khi các xung kích thích của dòng điện từ máy phát ra phải vượt nhanh hơn nhịp tự phát của các tâm thất. Hiện tượng bắt buộc các tâm thất phải làm việc theo những kích thước nhân tạo trong điều kiện blốc nhĩ – thất đã được Starzl chứng minh trong thực nghiệm và được gọi là “hiện tượng qui phục nhịp tim” (1955).

Tại Bệnh viện Chợ Rẫy (từ năm 1976 đến 1980) chúng tôi đã đặt máy tạo nhịp tim mới (loại Medtronic TM Model 6917 Sutureless Myocardial lead) và thay pin mới cho các máy tạo nhịp tim có các pin sắp hết hạn cho 9 bệnh nhân với kết quả tốt. Hiện nay, đặt máy tạo nhịp tim là công việc thường xuyên và hằng ngày của các bệnh viện có chuyên khoa tim mạch nội – ngoại khoa.

Hình 56. Các phương pháp đặt máy tạo nhịp tim trực tiếp
Hình 56. Các phương pháp đặt máy tạo nhịp tim trực tiếp

Tác dụng phụ của thuốc ARV, cách xử trí ở trẻ nhiễm HIV

Trong điều trị, nói chung, các loại thuốc đều có các tác dụng phụ. Đặc biệt trong điều trị HIV, liệu pháp điều trị kháng tích cực (HAART) yêu cầu phải phối hợp 3 loại thuốc kháng, vì vậy tác dụng phụ không thể tránh khỏi. Các tác dụng phụ của thuốc kháng thậm chí sẽ gặp nhiều hơn khi cần phải điều trị phối hợp thêm các thuốc khác, như trong trường hợp điều trị bằng ARV cần phải phối hợp với Cotrimoxazole để dự phòng nhiễm trùng cơ hội hoặc phối hợp với Rifampicin để điều trị bệnh lao. Tác dụng phụ của thuốc ARV bao gồm 2 loại chính:

Tác dụng phụ (tác dụng ngoài ý muốn); Tương tác thuốc.

Phần lớn các tác dụng phụ xuất hiện trong vài tuần điều trị đầu tiên và giảm dần theo theo thời gian.

A.  CÁC TÁC DỤNG PHỤ

Các tác dụng phụ nghiêm trọng

1.  Phát ban

Nguyên nhân: hay gặp do nhóm NNRTI, đặc biệt là NVP, ít gặp hơn là EFV.

Biểu hiện lâm sàng:

  • Thường xảy ra trong vòng 2-8 tuần đầu điều trị.

Phát ban:

  • Mức độ 1 (Nhẹ): Ban đỏ;
  • Mức độ 2 (Trung bình): Ban sẩn lan tỏa hoặc bong tróc da khô khu trú;
  • Mức độ 3 (Nặng): Ban đỏ toàn thân hoặc bọng nước phồng rộp hoặc tróc da ướt;
  • Mức độ 4 (Nặng đe dọa tính mạng): Tổn thương cả niêm mạc và các hốc tự nhiên, Hội chứng Steven Johnson, Ban đỏ đa dạng.

Xét nghiệm: Tăng các men gan (aminotransferase).

Xử trí:

  • Theo dõi người bệnh chặt chẽ và đánh giá mức độ phát
  • Điều trị triệu chứng, sử dụng kháng histamine

Xử trí về điều trị ARV theo mức độ phát ban như sau:

  • Phát ban nhẹ hoặc trung bình: có thể tiếp tục điều trị ARV, dùng thuốc kháng dị ứng, nhưng phải theo dõi sát. Nếu phát ban ổn định tiếp tục phác đồ ARV cũ.
  • Phát ban nặng:

+ Ngừng thuốc ARV gây tác dụng phụ nhưng vẫn điều trị bằng 2 thuốc còn lại. Riêng tác dụng phụ của NVP cần ngừng ngay NVP nhưng vẫn tiếp tục 2 thuốc còn lại trong 7 ngày;

+ Điều trị triệu chứng;

+ Khi các triệu chứng ổn định thay NVP bằng EFV;

+ KHÔNG nên dùng lại NVP cho trẻ trong tương lai.

– Phát ban nặng đe doạ tới tính mạng:

+ Ngừng tất cả các thuốc ARV, nhập viện hoặc chuyển tuyến;

+ Điều trị triệu chứng;

+ Bắt đầu lại ARV khi các triệu chứng ổn định, tuỳ từng trường hợp có thể thay NVP bằng EFV, hoặc thay sang phác đồ 3 NRTI hoặc PI;

+ KHÔNG nên dùng lại NVP cho trẻ trong tương lai.

2.  Phản ứng quá mẫn

Nguyên nhân: hay gặp do ABC hoặc NVP.

Biểu hiện lâm sàng:

  • ABC: sốt, mệt mỏi, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng, viêm họng, ho, khó thở; phát ban (thường là nhẹ) có thể có hoặc không; các triệu chứng tiến triển xấu dần đi ngay sau khi dùng ABC, thường xảy ra trong vòng 6-8 tuần.
  • NVP: Các triệu chứng toàn thân gồm sốt, đau cơ, đau khớp, viêm gan, có phát ban hoặc không.

Xét nghiệm:

  • Tăng các men gan;
  • Tăng số lượng bạch cầu ái toan.

Xử trí:

Dừng ngay lập tức tất cả các thuốc ARV;

Điều trị các triệu chứng;

  • Khi các triệu chứng ổn định, bắt đầu lại ARV nhưng thay ABC hoặc NVP bằng thuốc ARV khác;
  • KHÔNG nên dùng lại NVP hoặc ABC cho bệnh nhân trong tương lai.

3.  Viêm gan cấp

Nguyên nhân: hay gặp do nhóm NNRTI, đặc biệt là NVP, hiếm hơn là EFV, các NRTI hoặc nhóm PI

Biểu hiện lâm sàng:

  • Vàng da, mệt mỏi, chán ăn;
  • Gan to;
  • Các triệu chứng dạ dày ruột;
  • Có thể có các biểu hiện quá mẫn (phát ban, sốt, các triệu chứng hệ thống), thường xảy ra trong vòng 6-8 tuần.

Xét nghiệm:

  • Tăng các men gan

+ Mức độ 1 (Nhẹ): Tăng 1,25 – 2,50 lần so với bình thường;

+ Mức độ 2 (Trung bình): Tăng 2,5 – 5 lần so bình thường;

+ Mức độ 3 (Nặng): Tăng 5 – 10 lần so bình thường;

+ Mức độ 4 (Nặng đe dọa tính mạng): Tăng > 10 lần so bình thường.

  • Tăng bilirubin.

Nên xét nghiệm ALT trước khi điều trị. Xét nghiệm HBsAg và antiHCV nếu có điều kiện.

Xử trí:

  • Độ 1 và 2: Tiếp tục sử dụng NVP, theo dõi chặt chẽ ALT 2 tuần/lần.
  • Độ 3: Ngừng thuốc gây độc. Nếu do NVP ngừng ngay Tiếp tục uống 2 thuốc còn lại trong 7 ngày sau đó thay NVP bằng EFV nếu ALT đã cải thiện. Nếu như ALT vẫn chưa cải thiện thì ngừng tiếp 2 thuốc còn lại. Chỉ điều trị lại ARV và thay NVP bằng EFV khi ALT đã cải thiện.

– Mức độ 4

+ Có thể ngừng tất cả các ARV, nhập viện;

+ Điều trị các triệu chứng;

+ Theo dõi men gan, bilirubin;

+ Khi các triệu chứng đã ổn định: Bắt đầu lại ART nhưng đổi ARV có tác dụng phụ sang ARV thay thế (ví dụ thay NVP bằng EFV) hoặc bắt đầu lại phác đồ ARV hiện dùng nhưng theo dõi sát; nếu các triệu chứng xuất hiện lại, thay thế ARV khác

Nếu do NVP thì KHÔNG nên dùng lại NVP cho trẻ trong tương lai.

4.  Viêm tụy cấp

Nguyên nhân: Nhóm NRTI, đặc biệt là d4T, ddI; hiếm hơn là 3TC. Biểu hiện lâm sàng:

  • Buồn nôn và nôn nặng;
  • Đau bụng nhiều;
  • Có thể kết hợp với nhiễm toan lactic.

Xét nghiệm:

  • Tăng amylase của tụy;
  • Tăng lipase.

Xử trí:

  • Ngừng tất cả các thuốc
  • Điều trị các triệu chứng.
  • Nếu có thể, theo dõi trong huyết thanh amylase tụy,
  • Ngay khi các triệu chứng ổn định, bắt đầu lại ART nhưng thay thế bằng thuốc NRTI khác, nên dùng thuốc không có độc tính với tụy.

5.  Nhiễm toan lactic

Nguyên nhân: Nhóm NRTI, đặc biệt là d4T. Biểu hiện lâm sàng:

Mệt mỏi và yếu cơ;

Các biểu hiện tiêu hoá (buồn nôn, nôn, tiêu chảy, gan to, chán ăn, chậm lên cân và/hoặc sút cân đột ngột không giải thích được);

Có thể có viêm gan hoặc viêm tụy;

Các biểu hiện hô hấp (thở nhanh và khó thở);

Các triệu chứng thần kinh (bao gồm yếu cơ).

Xét nghiệm:

Tăng khoảng trống anion;

  • Nhiễm toan lactic;
  • Tăng các men gan;
  • CPK,

Xử trí:

Dừng tất cả các thuốc ARV;

Điều trị các triệu chứng;

  • Các triệu chứng kết hợp với nhiễm toan lactic có thể tiếp tục hoặc nặng dần lên mặc dù đã ngừng liệu ARV;
  • Khi các triệu chứng đã ổn định, bắt đầu lại điều trị ARV nhưng thay bằng thuốc NRTI khác có nguy cơ độc cho ty thể ít hơn (ví dụ: ABC hoặc AZT).

6.  Thiếu máu nặng, giảm bạch cầu Nguyên nhân: hay gặp do AZT Biểu hiện lâm sàng:

  • Da xanh, niêm mạc nhợt nhạt nặng, nhịp tim nhanh;
  • Mệt mỏi nhiều;
  • Thiếu máu thường xảy ra trong 4-6 tuần đầu sử dụng AZT;
  • Cần loại trừ các nguyên nhân khác gây ra thiếu máu hoặc suy tủy.

Xét nghiệm:

  • Hemoglobin thấp

+ Mức độ 1 (Nhẹ): 85 – 100g/l

+ Mức độ 2 (Trung bình): 75 – 85g/l

+ Mức độ 3 (Nặng): 65 – 75g/l

+ Mức độ 4 (Nặng đe dọa tính mạng): Hgb < 65g/l.

  • Bạch cầu trung tính thấp.

Xử trí:

  • Độ 1 và 2:

+ Tiếp tục dùng AZT. Bổ sung vi chất: vitamine B12, viên sắt, acid folic, tư vấn về chế độ ăn;

+ Xét nghiệm CTM máu lại sau 1, 3 tháng. Nếu tình trạng người bệnh ổn định hoặc cải thiện thì tiếp tục dùng AZT và tư vấn về khẩu phần ăn thích hợp.

  • Mức độ 3 và 4:

+ Thay AZT bằng d4T hoặc ABC sau khi loại trừ các nguyên nhân khác có thể gây thiếu máu, suy tuỷ;

+ Truyền khối hồng cầu hoặc máu toàn phần khi có chỉ định;

+ Bổ sung vi chất, vitamine B12, viên sắt, acid folic.

7.  Ngộ độc hệ thống thần kinh trung ương nặng và kéo dài: Nguyên nhân: thường do EFV.

Biểu hiện lâm sàng: Rối loạn giấc ngủ, trầm cảm, thay đổi hành vi.

Xử trí: uống vào buổi sáng hoặc thay bằng NVP.

Các tác dụng phụ nặng, phát hiện muộn

1.  Rối loạn phân bố mỡ (d4T, các PI)

Biểu hiện lâm sàng: Mất mỡ và/hoặc tích tụ mỡ ở các vùng riêng biệt trên thân mình:

  • Tăng mỡ quanh bụng, ụ mỡ sau lưng, phì đại tuyến vú;
  • Mất mỡ ở các chi, mông, mặt, xảy ra ở các mức độ khác nhau;
  • Thường xuất hiện sau điều trị từ 6-12 tháng hoặc có thể lâu hơn.

Xét nghiệm:

  • Tăng triglycerid máu;
  • Tăng cholesterol máu;
  • Mức HDL thấp;
  • Tăng đường máu.

Xử trí:

Thay thế ABC hoặc AZT cho d4T có thể ngăn sự tiến triển của teo mỡ;

  • Thay thế thuốc PI bằng NNRTI có thể giảm các bất thường của lipid trong máu.

2.  Bệnh thần kinh ngoại vi nặng (d4T, ddI; hiếm hơn 3TC) Biểu hiện lâm sàng:

  • Bệnh lý thần kinh liên quan d4T có thể xuất hiện sau 3-12 tháng điều trị;
  • Đau, ngứa, tê cóng bàn tay hoặc bàn chân, không đi được;
  • Mất cảm giác ở phần xa của chi;
  • Yếu cơ nhẹ và mất phản xạ gân xương có thể xảy ra.

Xử trí:

  • Kiểm tra các thuốc khác đang dùng có thể gây độc với thần kinh như isonazid (cho uống thêm vitamin B6);
  • Chỉ ngừng thuốc NRTI nghi ngờ và thay thế bằng một thuốc NRTI khác mà không có độc tính với thần kinh như AZT, ABC hoặc TDF.

CÁC THUỐC TƯƠNG TÁC THUỐC ARV

1. Rifampicin

Tương tác với APV, LPV/r (hoặc NFV, SQV, DLV, IDV: những thuốc này hiện nay chưa có ở Việt Nam)

+ Cơ chế: Kích thích chuyển hóa, ức chế protease hoặc nồng độ delavirdine.

+ Khuyến nghị: Tránh sử dụng đồng thời các thuốc này.

– Tương tác với EFV, RTV, SQV/r, NVP

+ Cơ chế: Kích thích chuyển hóa, giảm mức các thuốc ức chế protease hoặc NVP.

+ Khuyến nghị: Có thể dùng kết hợp. Cân nhắc tăng liều EFV khi sử dụng với Rifampicin.

2.  Clarithromycin:

  • Tương tác với LPV/r:

+ Cơ chế: Ức chế chuyển hóa – nồng độ clarithromycin tăng.

+ Khuyến nghị: Chỉ điều chỉnh liều clarithromycin khi có suy thận.

  • Tương tác với EFV, NVP:

+ Cơ chế: Kích thích chuyển hóa – giảm nồng độ clarithromycin.

+ Khuyến nghị: Hiệu quả điều trị và dự phòng MAC có thể bị giảm.

3.  Ketoconazole

  • Tương tác với LPV/r:

+ Cơ chế: ức chế chuyển hóa, nồng độ ketoconazole tăng.

+ Khuyến nghị: Sử dụng thận trọng với liều ketoconazole > 200 mg/ngày.

4.  Gancyclovir

  • Tương tác với ddI: Mức ddI tăng gần 100%.

+ Khuyến nghị: Theo dõi tác dụng phụ liên quan đến ddI.

5.  Kháng sinh quinolone

  • Tương tác với ddI:

+ Cơ chế: Sự ion dương hóa làm giảm đáng kể nồng độ các thuốc quinolone.

+ Khuyến nghị: Sử dụng các thuốc có điện tích dương ít nhất 2 giờ sau khi uống quinolone.

6.  TDF

  • Tương tác với ddI

+ Cơ chế: Nồng độ ddI tăng.

+ Khuyến nghị: Giảm liều ddI xuống 250mg mỗi ngày.

7.  Carbamazepine, Phenobarbital, Phenytoin

  • Tương tác với IDV, SQV và một số thuốc ARV khác gây giảm nồng độ IDV, SQV và một số thuốc ARV khác.

+ Khuyến nghị: Thận trọng khi dùng đồng thời, xem xét dùng thuốc ARV thay thế; theo dõi tác dụng của các thuốc chống co giật.

8.  Rifabutin

  • Tương tác với EFV:

+ Cơ chế: Kích thích chuyển hóa, giảm đáng kể nồng độ rifabutin/ Mức EFV có thể giảm.

+ Khuyến nghị: Tăng liều rifabutin. Không cần thay đổi liều EFV.

  • Tương tác với DLV:

+ Cơ chế: Kích thích chuyển hóa, giảm đáng kể nồng độ delavirdine.

+ Khuyến nghị: Tránh sử dụng đồng thời hai loại thuốc này.

  • Tương tác với RTV, LPV/r, SQV/r, IDV, NFV, APV

+ Cơ chế: ức chế chuyển hóa, tăng đáng kể nồng độ Rifabutin/ Kích thích chuyển hóa, nồng độ saquinavir có thể giảm

+ Khuyến nghị: Giảm liều Rifabutin. Cân nhắc tăng liều Indinavir nếu đây là thuốc PI duy nhất; không thay đổi liều của các thuốc PI khác.

Biologics (Lớp thuốc sinh học)

Thuốc sinh học (biologics) là gì?

Thuốc sinh học (biologics) là sản phẩm được sản xuất từ các sinh vật sống hoặc chứa các thành phần của sinh vật sống. Thuốc sinh học bao gồm nhiều loại sản phẩm khác nhau được chiết xuất từ người, động vật hoặc vi sinh vật thông qua công nghệ sinh học.

Các loại thuốc sinh học bao gồm vắc-xin, máu, các thành phần của máu, tế bào, dị ứng tố, gen, mô, và protein tái tổ hợp. Sản phẩm sinh học có thể chứa protein điều khiển hoạt động của các protein khác và các quá trình tế bào, gen điều khiển sản xuất các protein thiết yếu, hormone người đã được chỉnh sửa, hoặc các tế bào sản xuất các chất ức chế hoặc kích hoạt các thành phần của hệ miễn dịch.

Thuốc sinh học đôi khi được gọi là các chất điều chỉnh phản ứng sinh học vì chúng thay đổi cách thức hoạt động của các hành động nội bào và tế bào sinh học tự nhiên.

Thuốc sinh học được sử dụng để làm gì?

Thuốc sinh học được sử dụng để điều trị nhiều bệnh và tình trạng, và là những liệu pháp tiên tiến nhất hiện có. Một số thuốc sinh học được sử dụng để điều trị bệnh Crohn, viêm đại tràng loét, viêm khớp dạng thấp, và các bệnh tự miễn khác.

Các thuốc sinh học hiện có đã cách mạng hóa điều trị ung thư, làm chậm hoặc đảo ngược tiến trình của các tình trạng liên quan đến miễn dịch, thay đổi cuộc sống của những người mắc bệnh hiếm gặp, và mang lại hy vọng cho nhiều bệnh nhân trước đây không có phương pháp điều trị hiệu quả cho tình trạng của họ.

Ví dụ về các ứng dụng y tế của thuốc sinh học bao gồm:

  • Nhiều loại ung thư
  • Viêm khớp dạng thấp (RA)
  • Viêm cột sống dính khớp
  • Bệnh Crohn
  • Viêm đại tràng loét
  • Bệnh vẩy nến
  • Tiểu đường
  • Bệnh xơ cứng nhiều rãnh (MS)
  • Đột quỵ
  • Lupus ban đỏ hệ thống
  • Thoái hóa điểm vàng liên quan đến tuổi tác
  • Bệnh võng mạc tiểu đường
  • Phòng ngừa viêm phổi
  • Thiếu máu
  • Chứng đau nửa đầu mạn tính
  • Viêm gan B
  • Bệnh hemophilia
  • Phòng ngừa virus hợp bào hô hấp (RSV)
  • Phòng ngừa HPV
  • Vắc-xin virus varicella
  • Thiếu hormone tăng trưởng
  • Loãng xương
  • Hen phế quản dị ứng
  • Mày đay vô căn mạn tính
  • Vô sinh
  • Phòng ngừa bệnh não mô cầu
  • Bệnh xơ nang
  • Tán huyết cấp tính vào ban đêm

Tác dụng phụ của thuốc sinh học là gì?

Tác dụng phụ của một loại thuốc sinh học phụ thuộc vào loại thuốc sinh học cụ thể và phương pháp đưa thuốc vào cơ thể.

Hầu hết các loại thuốc sinh học có khả năng gây ra các phản ứng dị ứng quá mẫn. Các loại thuốc sinh học được sử dụng cho viêm khớp dạng thấp, bệnh vẩy nến và các rối loạn liên quan đến miễn dịch khác sẽ ức chế hệ miễn dịch và làm tăng nguy cơ nhiễm trùng. Do một số loại thuốc sinh học được tiêm, chúng cũng có thể gây ra các phản ứng tại chỗ tiêm. Các loại thuốc sinh học khác được truyền tĩnh mạch và có thể gây ra các phản ứng truyền. Những tác dụng phụ này được tổng hợp từ các tác dụng phụ được liệt kê cho nhiều loại thuốc sinh học. Mỗi loại thuốc sinh học có hồ sơ tác dụng phụ riêng và có thể gây ra hoặc không gây ra các tác dụng phụ được liệt kê ở đây.

Các tác dụng phụ phổ biến của thuốc sinh học bao gồm:

  • Phản ứng dị ứng
  • Phản ứng tại chỗ tiêm
  • Ớn lạnh
  • Yếu đuối
  • Tiêu chảy
  • Buồn nôn
  • Nôn
  • Phát ban
  • Ngứa
  • Mức đường huyết cao
  • Ho
  • Táo bón

Các tác dụng phụ khác của thuốc sinh học bao gồm:

  • Khó thở
  • Phù ngoại biên
  • Đau đầu
  • Sốt
  • Đau nhức và đau cơ
  • Giảm cảm giác thèm ăn
  • Tăng mức triglycerid
  • Mất ngủ
  • Đau bụng
  • Đau lưng
  • Chóng mặt
  • Phản ứng truyền

Các tác dụng phụ nghiêm trọng của thuốc sinh học bao gồm:

  • Huyết áp thấp
  • Phản vệ (anaphylaxis)
  • Nhiễm trùng nghiêm trọng
  • Ung thư
  • Bệnh huyết thanh
  • Viêm tuyến giáp tự miễn
  • Huyết khối động mạch và tĩnh mạch
  • Suy tim sung huyết
  • Chảy máu
  • Bệnh phổi kẽ
  • Viêm gan
  • Sự hình thành kháng thể
  • Viêm ruột kết
  • Thủng tiêu hóa
  • Viêm niêm mạc
  • Viêm miệng
  • Thiếu máu
  • Giảm số lượng bạch cầu
  • Suy giáp

Các chế phẩm nào có sẵn cho thuốc sinh học?

Các loại thuốc sinh học được tiêm hoặc truyền tĩnh mạch vì chúng là protein dễ bị tiêu hóa nhanh chóng và bị inactivate nếu được đưa vào miệng. Do đó, các loại thuốc sinh học được cung cấp dưới dạng bột để truyền hoặc dung dịch để tiêm.

Các loại thuốc nào tương tác với thuốc sinh học?

Các loại thuốc sinh học, chẳng hạn như adalimumab (Humira), ảnh hưởng đến hệ miễn dịch có thể làm giảm hiệu quả của vắc-xin. Các vắc-xin sống, bao gồm cả vắc-xin attenuated, không nên được sử dụng trong khi bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc sinh học ảnh hưởng đến hệ miễn dịch. Bệnh nhân nên hoàn thành tất cả các tiêm chủng được khuyến nghị trước khi nhận các loại thuốc sinh học này. Việc sàng lọc trước đối với bệnh lao tiềm ẩn (TB) thường được khuyến nghị.

Các nhiễm trùng nghiêm trọng có khả năng xảy ra nhiều hơn khi các loại thuốc sinh học ức chế hệ miễn dịch được kết hợp với các loại thuốc khác cũng ức chế hệ miễn dịch.

Thuốc sinh học có an toàn để sử dụng trong thai kỳ hoặc khi cho con bú không?

Hầu hết các loại thuốc sinh học chưa được nghiên cứu đầy đủ trên phụ nữ mang thai hoặc phụ nữ đang cho con bú. Một số loại thuốc sinh học, chẳng hạn như follitropin alpha (Gonal f), nivolumab (Opdivo) và pembrolizumab (Keytruda), có thể gây hại cho thai nhi do cơ chế hoạt động của chúng và kết quả từ các nghiên cứu trên động vật. Một số loại thuốc sinh học có thể xuất hiện trong sữa mẹ. Các bà mẹ đang cho con bú nên quyết định cùng với bác sĩ của họ xem có nên ngừng hoặc dừng thuốc sinh học hay không, vì nhiều loại thuốc được bài tiết vào sữa mẹ và có thể gây ra rủi ro về tác dụng phụ nghiêm trọng cho trẻ sơ sinh.

Các tên thương mại và tên chung nào có sẵn cho thuốc sinh học?

Dưới đây là danh sách các ví dụ về thuốc sinh học thương mại và tên chung có sẵn tại Mỹ:

  • Abatacept (Orencia)
  • Abciximab (ReoPro)
  • AbobotulinumtoxinA (Dysport)
  • Adalimumab (Humira)
  • Adalimumab-atto (Amjevita)
  • Ado-trastuzumab emtansine (Kadcyla)
  • Aflibercept (Eylea)
  • Agalsidase beta (Fabrazyme)
  • Albiglutide (Tanzeum)
  • Aldesleukin (Proleukin)
  • Alemtuzumab (Campath, Lemtrada)
  • Alglucosidase alfa (Myozyme, Lumizyme)
  • Alirocumab (Praluent)
  • Alteplase, cathflo activase (Activase)
  • Anakinra (Kineret)
  • Asfotase alfa (Strensiq)
  • Asparaginase (Elspar)
  • Asparaginase erwinia chrysanthemi (Erwinaze)
  • Atezolizumab (Tecentriq)
  • Basiliximab (Simulect)
  • Becaplermin (Regranex)
  • Belatacept (Nulojix)
  • Belimumab (Benlysta)
  • Bevacizumab (Avastin)
  • Bezlotoxumab (Zinplava)
  • Blinatumomab (Blincyto)
  • Brentuximab vedotin (Adcetris)
  • Canakinumab (Ilaris)
  • Capromab pendetide (ProstaScint)
  • Certolizumab pegol (Cimzia)
  • Cetuximab (Erbitux)
  • Collagenase (Santyl)
  • Collagenase clostridium histolyticum (Xiaflex)
  • Daclizumab (Zenapax)
  • Daclizumab (Zinbryta)
  • Daratumumab (Darzalex)
  • Darbepoetin alfa (Aranesp)
  • Denileukin diftitox (Ontak)
  • Denosumab (Prolia, Xgeva)
  • Dinutuximab (Unituxin)
  • Dornase alfa (Pulmozyme)
  • Dulaglutide (Trulicity)
  • Ecallantide (Kalbitor)
  • Eculizumab (Soliris)
  • Elosulfase alfa (Vimizim)
  • Elotuzumab (Empliciti)
  • Epoetin alfa (Epogen/Procrit)
  • Etanercept (Enbrel)
  • Etanercept-szzs (Erelzi)
  • Evolocumab (Repatha)
  • Filgrastim (Neupogen)
  • Filgrastim-sndz (Zarxio)
  • Follitropin alpha (Gonal f)
  • Galsulfase (Naglazyme)
  • Glucarpidase (Voraxaze)
  • Golimumab (Simponi)
  • Golimumab injection (Simponi Aria)
  • Ibritumomab tiuxetan (Zevalin)
  • Idarucizumab (Praxbind)
  • Idursulfase (Elaprase)
  • IncobotulinumtoxinA (Xeomin)
  • Infliximab (Remicade)
  • Infliximab-dyyb (Inflectra)
  • Interferon alfa-2b (Intron A)
  • Interferon alfa-n3 (Alferon N Injection)
  • Interferon beta-1a (Avonex, Rebif)
  • Interferon beta-1b (Betaseron, Extavia)
  • Interferon gamma-1b (Actimmune)
  • Ipilimumab (Yervoy)
  • Ixekizumab (Taltz)
  • Laronidase (Aldurazyme)
  • Mepolizumab (Nucala)
  • Methoxy polyethylene glycol-epoetin beta (Mircera)
  • Metreleptin (Myalept)
  • Natalizumab (Tysabri)
  • Necitumumab (Portrazza)
  • Nivolumab (Opdivo)
  • Obilotoxaximab (Anthim)
  • Obinutuzumab (Gazyva)
  • Ocriplasmin (Jetrea)
  • Ofatumumab (Arzerra)
  • Olaratumab (Lartruvo)
  • Omalizumab (Xolair)
  • OnabotulinumtoxinA (Botox)
  • Oprelvekin (Neumega)
  • Palifermin (Kepivance)
  • Palivizumab (Synagis)
  • Panitumumab (Vectibix)
  • Parathyroid hormone (Natpara)
  • Pegaspargase (Oncaspar)
  • Pegfilgrastim (Neulasta)
  • Peginterferon alfa-2a (Pegasys)
  • Peginterferon alfa-2b (PegIntron, Sylatron)
  • Peginterferon beta-1a (Plegridy)
  • Pegloticase (Krystexxa)
  • Pembrolizumab (Keytruda)
  • Pertuzumab (Perjeta)
  • Ramucirumab (Cyramza)
  • Ranibizumab (Lucentis)
  • Rasburicase (Elitek)
  • Raxibacumab
  • Reslizumab (Cinqair)
  • Reteplase (Retavase)
  • Rilonacept (Arcalyst)
  • RimabotulinumtoxinB (Myobloc)
  • Rituximab (Rituxan)
  • Romiplostim (Nplate)
  • Sargramostim (Leukine)
  • Sebelipase alfa (Kanuma)
  • Secukinumab (Cosentyx)
  • Siltuximab (Sylvant)
  • Tbo-filgrastim (Granix)
  • Tenecteplase (TNKase)
  • Tocilizumab (Actemra)
  • Trastuzumab (Herceptin)
  • Ustekinumab (Stelara)
  • Vedolizumab (Entyvio)
  • Ziv-aflibercept (Zaltrap)

Tóm tắt

Thuốc sinh học là sản phẩm được sản xuất từ các sinh vật sống hoặc chứa các thành phần của sinh vật sống. Các loại thuốc sinh học bao gồm protein tái tổ hợp, mô, gen, dị ứng tố, tế bào, thành phần máu, máu và vaccine. Thuốc sinh học được sử dụng để điều trị nhiều bệnh và tình trạng khác nhau, chẳng hạn như thiếu máu, chứng đau nửa đầu mạn tính, viêm gan B, hemophilia, phòng ngừa virus hợp bào hô hấp (RSV), phòng ngừa HPV, viêm khớp dạng thấp, và bệnh viêm ruột.

Co giật do thiếu oxy

Hệ thần kinh trung ương rất nhạy cảm với sự thiếu cung cấp oxy, tế bào thần kinh chỉ chịu được thiếu oxy dưới 5 phút, nếu quá 5 phút sẽ gây tổn thương não không hồi phục. Vì vậy bất kỳ một nguyên nhân nào gây cản trở sự cung cấp oxy cho cơ thể nói chung và não bộ nói riêng, đều có thể dẫn đến cơn co giật. Cơn co giật xảy ra rất đột ngột làm ngỡ ngàng những người xung quanh; bệnh nhân hầu như ngừng thở; da và niêm mạc tím tái; rối loạn vận động, phản xạ, cảm giác, thị giác, thính giác…; đồng thời bệnh nhân kích thích vật vã, co giật và dẫn tối mất ý thức; điện não không thấy phức bộ co giật động kinh. Cơn thiếu oxy não cấp tính xảy ra đột ngột và hồi phục trong vài phút.

Lâm sàng thường gặp những rối loạn hô hấp do bệnh lý đường hô hấp gây ra như viêm phế quản – phổi tắc nghẽn, viêm phế quản cấp, viêm phế quản mạn, hen phế quản đợt cấp, phế quản – phế viêm, tâm phế mạn…

Rối loạn hô hấp do chèn ép cấp tính phổi và màng phổi như tràn dịch, tràn khí, tràn máu màng phổi.

Các trường hợp co thắt thanh – khí quản ở trẻ nhỏ do khóc nhiều gây nên thiếu oxy não. Quan sát trẻ thấy da và niêm mạc tím tái, bất động, cánh mũi phập phồng và ngừng thở ngắn. Cơn kéo dài từ 1 – 2 phút, sau đó trẻ hồi phục dần, thở nhanh dần, da và niêm mạc dần dần hồng hào trở lại.

Điều trị cấp cứu: bằng mọi biện pháp phải khai thông đường thở, để bệnh nhân nằm đầu cao 20 – 25°, dùng thuốc giãn cơ phế quản, hút đờm dãi, đưa oxy vào phổi qua bóp bóng hoặc thở máy, nếu cần thiết phải mở khí quản kết hợp với kháng sinh tại chỗ và kháng sinh toàn thân, hút dịch, hút khí màng phổi để giải phóng chèn ép.

Viêm Phổi do Tụ Cầu khuẩn và Viêm phổi do Liên Cầu Khuẩn

Viêm Phổi do Tụ Cầu khuẩn

Căn nguyên

Tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus). Tần suất viêm phổi do nhiễm tụ cầu khuẩn tăng lên trong những thời kỳ có dịch cúm. Viêm phổi thường xẩy ra ở những đối tượng yếu sức, bị suy giảm miễn dịch, điều trị nội trú hoặc phải làm thông khí hỗ trợ dài hạn, đặc biệt hay gặp ở những đối tượng nghiện ma tuý tiêm trích theo đường tĩnh mạch, và trước đó đã bị nhiễm tụ cầu khuẩn-huyết. Thể viêm phổi do căn nguyên này thường nhanh chóng bị những biến chứng: tràn dịch màng phổi, viêm màng phổi mủ (tích mủ màng phổi), áp xe phổi, tràn khí màng phổi.

Triệu chứng: (xem: viêm phổi do phế cầu khuẩn ở phần trên)

X quang: X quang lồng ngực cho thấy nhiều mảng phổi bị đặc, nói chung không phải chỉ là đặc thuỳ hoặc phân thuỳ. Hình ảnh các hang rỗng, nhỏ, đôi khi có mức nước (chứa dịch ở bên trong) là dấu hiệu điển hình.

Xét nghiệm cận lâm sàng: đờm của bệnh nhân chứa rất nhiều cầu khuẩn Gram dương, đôi khi thấy cả ở bên trong tế bào. Cấy máu dương tính trong 30% số trường hợp. Kháng sinh đồ rất quan trọng đối với thái độ xử trí trong điều trị.

Tiên lượng

Dè dặt (tỷ lệ tử vong vào khoảng 30%). Tích mủ màng phổi tương đối hay gặp.

Điều trị

Trong khi chờ đợi kết quả kháng sinh đồ, nên sử dụng một thuốc penicillin bán tổng hợp kháng-penicillinase (như oxacillin 2 g, cứ 4 giờ tiêm một lần theo đường tĩnh mạch) hoặc vancomycin với liều 0,5 g, cứ 6 giờ một lần tiêm tĩnh mạch trong vòng ít nhất 2 tuần. Dẫn lưu tích mủ màng phổi nếu xẩy ra (xem: viêm màng phổi mủ). Hút khí ra nếu có tràn khí màng phổi.

Viêm phổi do Liên Cầu Khuẩn (viêm phổi do Streptococcus Pneumoniae)

Căn nguyên: nói chung do liên cầu khuẩn tan huyết bêta, thuộc mhóm A.

Triệu chứng: viêm phổi do liên cầu khuẩn có thể là biến chứng của bệnh cúm, bệnh sởi, bệnh tinh hồng nhiệt và viêm amiđan. Triệu chứng của bệnh cũng giống với bệnh viêm phổi do phế cầu khuẩn. Trong một nửa số trường hợp viêm phổi do liên cầu khuẩn có tràn dịch màng phổi kèm theo và tràn dịch thường cũng bị nhiễm khuẩn. Diễn biến của bệnh có thể rất nặng, và tích mủ màng phổi là một biến chứng tương đối hay gặp.

Điều trị: benzylpenicillin (penicillin G) 2-4 triệu đơn vị tiêm theo đường tĩnh mạch cứ 4 giờ một lần, và dẫn lưu tích mủ màng phổi nếu biến chứng này xẩy ra.

Thuốc Atropine sulfate – dùng cho mắt, Isopto Atropine

TÊN CHUNG: ATROPINE SULFATE – NHÃN KHOA (AT-roe-peen SUL-fate)
TÊN THƯƠNG HIỆU: Isopto Atropine
Các mục: Công dụng thuốc | Cách sử dụng | Tác dụng phụ | Thận trọng | Tương tác thuốc | Quá liều | Ghi chú | Liều bị lỡ | Bảo quản

CÔNG DỤNG:

Thuốc này được sử dụng trước khi khám mắt (ví dụ, đo khúc xạ) và để điều trị một số tình trạng mắt (ví dụ, viêm màng bồ đào). Nó thuộc nhóm thuốc kháng cholinergic. Atropine hoạt động bằng cách làm giãn (mở rộng) đồng tử của mắt.

CÁCH SỬ DỤNG:

Để sử dụng thuốc nhỏ mắt, trước tiên hãy rửa tay. Để tránh nhiễm bẩn, không chạm đầu ống nhỏ vào mắt hoặc bất kỳ bề mặt nào khác. Nếu bạn đang đeo kính áp tròng, hãy tháo chúng ra trước khi nhỏ thuốc. Đợi ít nhất 15 phút trước khi đeo lại kính áp tròng. Ngửa đầu ra sau, nhìn lên và kéo mí mắt dưới xuống để tạo thành túi. Giữ ống nhỏ trực tiếp trên mắt và nhỏ một giọt vào túi. Nhìn xuống và nhẹ nhàng nhắm mắt trong 1-2 phút. Đặt một ngón tay ở góc mắt gần mũi và áp nhẹ trong 2 đến 3 phút. Điều này sẽ ngăn thuốc thoát ra ngoài. Cố gắng không chớp mắt và không dụi mắt. Lặp lại các bước này cho mắt còn lại nếu được chỉ định hoặc nếu liều là hơn 1 giọt. Nếu bạn sử dụng thuốc này theo lịch trình đều đặn, hãy sử dụng thường 2 đến 4 lần mỗi ngày hoặc theo chỉ định của bác sĩ.
Không rửa ống nhỏ. Đậy nắp sau mỗi lần sử dụng. Không sử dụng dung dịch nếu nó chuyển sang màu nâu, đục hoặc có các hạt.
Nếu bạn sử dụng loại thuốc nhỏ mắt khác (ví dụ, thuốc nhỏ hoặc thuốc mỡ), đợi ít nhất 5-10 phút trước khi sử dụng các thuốc khác. Sử dụng thuốc nhỏ mắt trước khi dùng thuốc mỡ để cho phép thuốc nhỏ vào mắt.
Nếu bạn sử dụng thuốc này đều đặn, hãy đảm bảo không bỏ lỡ liều nào để đạt hiệu quả tốt nhất. Để giúp bạn nhớ, hãy sử dụng nó vào cùng thời gian mỗi ngày. Tiếp tục sử dụng trong suốt thời gian đã được chỉ định.
Thông báo cho bác sĩ nếu tình trạng của bạn không cải thiện hoặc tồi tệ hơn.

TÁC DỤNG PHỤ:

Cảm giác nóng rát/đỏ mắt, kích ứng mắt hoặc mờ mắt tạm thời có thể xảy ra. Nếu bất kỳ tác dụng phụ nào kéo dài hoặc trở nên tồi tệ, hãy thông báo ngay cho bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn.

Hãy nhớ rằng bác sĩ của bạn đã kê đơn thuốc này vì họ đánh giá lợi ích lớn hơn nguy cơ tác dụng phụ. Nhiều người sử dụng thuốc này không gặp phải tác dụng phụ nghiêm trọng.

Thông báo ngay cho bác sĩ nếu có bất kỳ tác dụng phụ nào ít gặp nhưng nghiêm trọng xảy ra: chóng mặt, ngất xỉu, tăng áp lực mắt/đau/sưng/chảy dịch.

Thông báo ngay cho bác sĩ nếu có bất kỳ tác dụng phụ hiếm nhưng rất nghiêm trọng xảy ra: thở chậm hoặc nông, thay đổi tâm trạng/tinh thần (ví dụ, lú lẫn, kích động), nhịp tim nhanh/bất thường.

Phản ứng dị ứng rất nghiêm trọng với thuốc này là rất hiếm. Tuy nhiên, nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào của phản ứng dị ứng nghiêm trọng, bao gồm: phát ban, ngứa/sưng (đặc biệt là ở mặt/lưỡi/họng), chóng mặt nghiêm trọng, khó thở, hãy tìm trợ giúp y tế ngay lập tức.

Đây không phải là danh sách đầy đủ các tác dụng phụ có thể xảy ra. Nếu bạn nhận thấy bất kỳ tác dụng nào khác không được liệt kê ở trên, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn.

THẬN TRỌNG:

Trước khi sử dụng atropine, hãy thông báo cho bác sĩ hoặc dược sĩ nếu bạn bị dị ứng với nó; hoặc với các alkaloid belladonna (ví dụ, scopolamine); hoặc nếu bạn có bất kỳ dị ứng nào khác. Sản phẩm này có thể chứa các thành phần không hoạt động, có thể gây phản ứng dị ứng hoặc các vấn đề khác. Trao đổi với dược sĩ của bạn để biết thêm chi tiết.

Thuốc này không nên được sử dụng nếu bạn có một số tình trạng y tế nhất định. Trước khi sử dụng thuốc này, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ nếu bạn mắc: bệnh tăng nhãn áp.

Trước khi sử dụng thuốc này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết về tiền sử bệnh lý của bạn, đặc biệt là: các bệnh về mắt khác, hội chứng Down, tổn thương não hoặc bại liệt co cứng (ở trẻ em).

Sau khi nhỏ thuốc này, tầm nhìn của bạn có thể bị mờ tạm thời. Không lái xe, sử dụng máy móc hoặc thực hiện bất kỳ hoạt động nào đòi hỏi tầm nhìn rõ ràng cho đến khi bạn chắc chắn rằng bạn có thể thực hiện các hoạt động này một cách an toàn.

Thuốc này có thể khiến mắt bạn nhạy cảm hơn với ánh sáng. Bảo vệ mắt của bạn khi ra ngoài trời sáng bằng kính râm.

Cần thận trọng khi sử dụng thuốc này cho trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ vì chúng có thể nhạy cảm hơn với tác dụng của thuốc. Không để thuốc này vào miệng trẻ. Nhớ rửa tay sau mỗi lần sử dụng.

Trong thời kỳ mang thai, chỉ nên sử dụng thuốc này khi thật cần thiết. Thảo luận về rủi ro và lợi ích với bác sĩ.

Chưa rõ liệu thuốc này có đi vào sữa mẹ hay không. Tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi cho con bú.

TƯƠNG TÁC THUỐC:

Bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn có thể đã biết về bất kỳ tương tác thuốc có thể xảy ra và đang theo dõi bạn về các tương tác đó. Không bắt đầu, ngừng hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không hỏi ý kiến họ trước.

Trước khi sử dụng thuốc này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết về tất cả các sản phẩm kê đơn và không kê đơn/sản phẩm thảo dược mà bạn có thể đang sử dụng, đặc biệt là: một số loại thuốc chống loạn nhịp tim (ví dụ: quinidine, procainamide), thuốc kháng histamine (ví dụ: diphenhydramine, meclizine), thuốc chống co thắt (ví dụ: dicyclomine), một số loại thuốc điều trị bệnh Parkinson (ví dụ: thuốc kháng cholinergic như benztropine, trihexyphenidyl), thuốc ức chế MAO (isocarboxazid, linezolid, methylene blue, moclobemide, phenelzine, procarbazine, rasagiline, selegiline, tranylcypromine), các loại thuốc mắt khác, thuốc chống trầm cảm ba vòng (ví dụ: amitriptyline).

Tài liệu này không bao gồm tất cả các tương tác có thể xảy ra. Do đó, trước khi sử dụng sản phẩm này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết về tất cả các sản phẩm mà bạn đang sử dụng. Giữ một danh sách tất cả các loại thuốc của bạn bên mình và chia sẻ danh sách đó với bác sĩ và dược sĩ.

QUÁ LIỀU:

Thuốc này có thể gây hại nếu nuốt phải. Nếu nghi ngờ bị nuốt hoặc quá liều, hãy liên hệ ngay với trung tâm kiểm soát chất độc hoặc phòng cấp cứu. Các triệu chứng quá liều có thể bao gồm: da đỏ/khô, mờ mắt, nhịp tim nhanh/bất thường, sốt, thay đổi tâm trạng/tinh thần (ví dụ: ảo giác), mất phối hợp.

GHI CHÚ:

Không chia sẻ thuốc này với người khác.

LIỀU BỊ LỠ:

Nếu bạn đang sử dụng thuốc này theo lịch trình đều đặn và bỏ lỡ một liều, hãy sử dụng ngay khi bạn nhớ ra. Nếu gần đến thời gian dùng liều tiếp theo, hãy bỏ qua liều đã quên và tiếp tục lịch trình dùng thuốc như bình thường. Không dùng gấp đôi liều để bù lại.

BẢO QUẢN:

Bảo quản ở nhiệt độ từ 46-80 độ F (8-27 độ C), tránh nhiệt và ánh sáng. Không để đông lạnh. Giữ tất cả các loại thuốc tránh xa trẻ em và vật nuôi.
Nếu bạn sử dụng các hộp chứa dùng một lần, hãy loại bỏ bất kỳ thuốc không sử dụng ngay sau khi dùng.
Không xả thuốc xuống bồn cầu hoặc đổ vào cống trừ khi được yêu cầu làm vậy. Loại bỏ sản phẩm này đúng cách khi nó đã hết hạn hoặc không còn cần thiết. Tham khảo dược sĩ hoặc công ty xử lý chất thải địa phương để biết thêm chi tiết về cách loại bỏ sản phẩm an toàn.

Cắt ống dẫn trứng: Ưu điểm, Nhược điểm và Những điều cần biết

Cắt ống dẫn trứng là gì?

Cắt ống dẫn trứng, còn được biết đến với tên gọi cắt ống dẫn trứng, là một loại phẫu thuật giúp bạn không bao giờ có khả năng mang thai. Nếu bạn đang cân nhắc việc thực hiện, điều quan trọng là hiểu quy trình và những lợi ích, bất lợi trước khi đưa ra quyết định.

“Ống dẫn” đề cập đến ống dẫn trứng của bạn, và “cắt” có nghĩa là thắt lại. Ống dẫn trứng là những ống mỏng kết nối mỗi buồng trứng của bạn với tử cung (dạ con). Chúng còn được gọi là ống buồng trứng. Chúng là những lối đi cho các trứng chưa được thụ tinh. Trong một ca cắt ống dẫn trứng, bạn sẽ trải qua phẫu thuật để cắt hoặc chặn các ống dẫn trứng của bạn. Bằng cách đó, các trứng được giải phóng từ buồng trứng mỗi chu kỳ không thể gặp và được thụ tinh bởi tinh trùng.

Cắt ống dẫn trứng là một phương pháp kiểm soát sinh sản vĩnh viễn liên quan đến phẫu thuật để cắt hoặc chặn ống dẫn trứng của bạn.

Cắt ống dẫn trứng là một ca phẫu thuật chặn các ống bằng một vết cắt nhỏ, thắt lại, kẹp hoặc băng. Bằng cách này, các trứng được giải phóng từ buồng trứng của bạn không thể đi qua tử cung để cấy ghép. Chúng cũng không thể gặp gỡ tinh trùng và trở thành trứng đã thụ tinh. Cắt ống dẫn trứng cũng được gọi là triệt sản vì nó khiến việc mang thai từ hoạt động tình dục trở nên không thể. Cắt ống dẫn trứng tồn tại mãi mãi.

Cắt ống dẫn trứng và cắt bỏ ống dẫn trứng hai bên

Một phẫu thuật tương tự cũng làm cho việc mang thai trở nên không thể gọi là cắt bỏ ống dẫn trứng hai bên. Trong một ca cắt bỏ ống dẫn trứng, bác sĩ phẫu thuật sẽ lấy ra toàn bộ hoặc một phần ống dẫn trứng của bạn. “Hai bên” là cách nói “cả hai bên.” Trong một ca cắt bỏ ống dẫn trứng hai bên, bác sĩ phẫu thuật sẽ lấy đi cả hai ống. Điều này quan trọng vì người ta vẫn có thể mang thai với chỉ một ống. Khi cả hai ống được lấy đi, trứng của bạn không thể đến tử cung hoặc gặp gỡ tinh trùng, và bạn sẽ không thể mang thai.

Quy trình cho cắt bỏ ống dẫn trứng hai bên và cắt ống dẫn trứng tương tự nhau, và rủi ro của chúng cũng tương tự. Sau cả hai ca phẫu thuật, hiếm khi có trường hợp trứng đã thụ tinh cấy vào ngoài tử cung (còn gọi là thai ngoài tử cung). Tuy nhiên, một số nhà khoa học nghĩ rằng nguy cơ có thai ngoài tử cung thấp hơn nếu bạn thực hiện cắt bỏ ống dẫn trứng hai bên so với cắt ống dẫn trứng.

Lý do chính mà một số người chọn cắt bỏ ống dẫn trứng hai bên thay vì cắt ống dẫn trứng là vì cắt bỏ ống dẫn trứng hai bên có thể làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng.

Phần trên của ống dẫn trứng của bạn có những “ngón tay” nhỏ, được gọi là fimbriae. Khi bạn rụng trứng, fimbriae vẫy xung quanh để “bắt” trứng và dẫn nó vào ống. Các nhà khoa học hiện nay nghĩ rằng một số ung thư buồng trứng bắt đầu từ những khối u nhỏ nổi trong ống dẫn trứng. Khi fimbriae “vẫy,” các tế bào này được truyền vào buồng trứng, nơi chúng bắt đầu phát triển thành ung thư. Việc lấy đi các ống của bạn ngăn chặn chúng truyền các tế bào ung thư vào buồng trứng.

Các nhà khoa học nghĩ rằng cắt ống dẫn trứng cũng làm giảm nguy cơ bị ung thư buồng trứng, nhưng không hiệu quả bằng cắt bỏ ống dẫn trứng hai bên. Việc lấy đi buồng trứng ngăn ngừa ung thư buồng trứng, nhưng có thể gây ra nhiều tác dụng phụ vì buồng trứng sản xuất hormone ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong sức khỏe của bạn. Cắt bỏ ống dẫn trứng hai bên thường không có nhiều tác dụng phụ.

Cả cắt ống dẫn trứng và cắt bỏ ống dẫn trứng hai bên đều là những biện pháp vĩnh viễn, và những người thực hiện các ca phẫu thuật này cần chắc chắn rằng họ không bao giờ muốn có thai nữa. Đôi khi, bác sĩ có thể cố gắng đảo ngược cắt ống dẫn trứng bằng cách khâu lại ống, nhưng không có cách nào để cố gắng đảo ngược cắt bỏ ống dẫn trứng hai bên.

Việc có nên thực hiện cắt ống dẫn trứng hay cắt bỏ ống dẫn trứng hai bên là một quyết định cá nhân. Lựa chọn của bạn có thể phụ thuộc vào bảo hiểm của bạn và những gì nó chi trả, chi phí, tác dụng phụ, cũng như tình trạng y tế và mục tiêu của bạn. Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn có thể giúp bạn suy nghĩ về quy trình nào phù hợp với bạn.

Ưu điểm của cắt ống dẫn trứng

  • Vĩnh viễn. Đây là một điểm cộng lớn nếu bạn không muốn có con hoặc không muốn có thêm con.
  • Hiệu quả. Chỉ khoảng 1 trong 200 người đã thực hiện cắt ống dẫn trứng mang thai. Điều đó có nghĩa là ít hơn 1%.
  • Không ảnh hưởng đến hormone của bạn. Nó sẽ không thay đổi chu kỳ kinh nguyệt của bạn hoặc gây ra mãn kinh. Và nó không gây ra các tác dụng phụ mà thuốc tránh thai có thể gây ra, như thay đổi tâm trạng, tăng cân hoặc đau đầu, hoặc những tác dụng phụ đôi khi gây ra bởi vòng tránh thai, như chuột rút, chu kỳ nặng hơn hoặc chảy máu.
  • Bạn không cần phải nhớ làm gì. Bạn không cần phải đặt vòng tránh thai, uống thuốc, sử dụng bao cao su hoặc đếm ngày trên lịch để tránh mang thai. Điều này có thể khiến bạn cảm thấy thoải mái hơn về hoạt động tình dục.
  • Có thể giảm nguy cơ ung thư buồng trứng. Các nhà khoa học không chắc chắn lý do chính xác tại sao điều này xảy ra, nhưng nghiên cứu đã chỉ ra rằng cắt ống dẫn trứng có thể giảm đáng kể nguy cơ ung thư loại này.
  • Nếu mang thai sẽ là một rủi ro sức khỏe cho bạn, hoặc nếu bạn hoặc bạn đời có một rối loạn di truyền có thể gây rủi ro khi truyền cho con cái, cắt ống dẫn trứng có thể là lựa chọn phù hợp cho bạn.

Nhược điểm của cắt ống dẫn trứng

  • Vĩnh viễn. Mặc dù có thể đôi khi được đảo ngược bằng phẫu thuật, nhưng điều đó không phải lúc nào cũng khả thi. Chỉ khoảng một nửa số người thực hiện việc đảo ngược có khả năng mang thai. Trừ khi bạn chắc chắn rằng bạn sẽ không bao giờ muốn có thai, cắt ống dẫn trứng không phải là lựa chọn phù hợp cho bạn.
  • Trong một số trường hợp, có thể đảo ngược cắt ống dẫn trứng. Nhưng đó là một ca phẫu thuật lớn cần vài ngày trong bệnh viện.
  • Có khả năng cao bạn sẽ không thể đảo ngược. Điều này phụ thuộc vào phương pháp được sử dụng cho cắt ống dẫn trứng, thời gian thực hiện và liệu các ống có bị tổn thương quá nhiều để đảo ngược hay không.
  • Việc đảo ngược cắt ống dẫn trứng làm tăng nguy cơ thai ngoài tử cung.
  • Không bảo vệ chống lại các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Bạn sẽ cần phải sử dụng bao cao su để ngăn ngừa các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bao gồm cả HIV.
  • Mang thai. Điều này hiếm khi xảy ra, nhưng cắt ống dẫn trứng có thể thất bại. Nếu các ống của bạn không hoàn toàn đóng lại, bạn có thể mang thai.
  • Có thể dẫn đến thai ngoài tử cung. Nếu bạn mang thai, bạn có khả năng cao hơn bị thai ngoài tử cung, loại thai xảy ra ở một nơi khác ngoài tử cung, thường là trong một trong các ống dẫn trứng. Thai ngoài tử cung có thể làm vỡ ống, dẫn đến chảy máu nghiêm trọng. Bạn sẽ cần phẫu thuật ngay lập tức để khắc phục.
  • Có rủi ro từ phẫu thuật. Vấn đề rất hiếm xảy ra, nhưng loại phẫu thuật này có thể gây chảy máu hoặc tổn thương ruột, bàng quang hoặc mạch máu lớn.
  • Sau khi cắt ống dẫn trứng, bạn có thể có sự suy giảm nhanh chóng hormone estrogen và progesterone. Liệu điều này có xảy ra thường gây tranh cãi, nhưng nó được gọi là hội chứng sau cắt ống dẫn trứng (PTLS). Các triệu chứng tương tự như mãn kinh: bốc hỏa, đổ mồ hôi ban đêm, khô âm đạo, thay đổi tâm trạng, khó ngủ, giảm ham muốn tình dục và chu kỳ không đều. Hoặc bạn có thể có chu kỳ nặng và đau đớn

Thủ tục cắt ống dẫn trứng

Quyết định thực hiện cắt ống dẫn trứng là một quyết định lớn vì nó có nghĩa là bạn sẽ không bao giờ có khả năng mang thai từ hoạt động tình dục nữa. Đầu tiên, bác sĩ, y tá hoặc cố vấn của bạn sẽ nói chuyện với bạn để đảm bảo bạn hiểu cách thủ tục này sẽ ảnh hưởng đến bạn, cả hiện tại lẫn tương lai. Họ thường sẽ hỏi bạn một số câu hỏi để đảm bảo rằng không ai đang ép buộc bạn phải thực hiện cắt ống dẫn trứng. Họ cũng sẽ giải thích quy trình, các rủi ro và phục hồi, và trả lời bất kỳ câu hỏi nào mà bạn có thể có.

Bạn có thể chọn thực hiện cắt ống dẫn trứng bất kỳ lúc nào. Một số người quyết định thực hiện cắt ống dẫn trứng trong quá trình sinh mổ hoặc trong thủ tục phá thai, hoặc khi họ thực hiện một ca phẫu thuật khác ở cùng khu vực trên cơ thể. Bạn cũng có thể thực hiện cắt ống dẫn trứng ngay sau khi sảy thai hoặc sinh con. Nếu bạn quyết định thực hiện thủ tục sau khi sinh, bạn nên thực hiện trong tuần đầu tiên sau khi em bé của bạn ra đời. Sau đó, tốt nhất là bạn nên cho mình một thời gian để hồi phục sau khi sinh trước khi thực hiện cắt ống dẫn trứng.

Tùy thuộc vào việc bạn chỉ thực hiện cắt ống dẫn trứng, thực hiện một ca phẫu thuật khác cùng lúc, hoặc sinh con, thủ tục này có thể xảy ra tại bệnh viện hoặc phòng khám phẫu thuật ngoại trú. Có một số loại thủ tục cắt ống dẫn trứng khác nhau:

Cắt ống dẫn trứng nội soi

Loại phẫu thuật này sử dụng những vết cắt rất nhỏ để rút ngắn thời gian phục hồi và giảm nguy cơ nhiễm trùng của bạn. Thủ tục này có thể diễn ra tại bệnh viện hoặc phòng khám ngoại trú.

Trước tiên, bạn sẽ được truyền IV với thuốc để giúp bạn thư giãn. Bạn sẽ được tiêm một loại thuốc làm cho bạn “ngủ” (gây mê) hoặc một mũi thuốc gây tê vào lưng hoặc bụng. Khi bạn không còn cảm thấy gì, bác sĩ của bạn sẽ tạo một vết cắt nhỏ gần rốn của bạn. Sau đó, họ sẽ bơm khí vào bụng của bạn để dễ nhìn hơn và đưa một camera nhỏ, gọi là ống nội soi, qua vết cắt.

Tiếp theo, bác sĩ sẽ tạo một vết cắt nhỏ khác gần xương mu của bạn, khoảng nơi bắt đầu của lông mu, để tiếp cận ống dẫn trứng của bạn. Họ sẽ đặt một băng hoặc kẹp nhỏ quanh mỗi ống để đóng lại hoặc sử dụng dòng điện để niêm phong chúng. Bạn sẽ được khâu một vài mũi để đóng các vết cắt của mình. Toàn bộ quy trình cắt ống dẫn trứng nội soi mất khoảng nửa giờ.

Sau khi phẫu thuật, họ sẽ theo dõi bạn trong vài giờ để đảm bảo bạn ổn. Thông thường, mọi người có thể về nhà khoảng 4 giờ sau khi thực hiện cắt ống dẫn trứng nội soi. Loại thủ tục này mất ít thời gian hồi phục hơn vì các vết cắt rất nhỏ.

Hiếm khi, có thể xảy ra sự cố trong quá trình cắt ống dẫn trứng nội soi, khiến bác sĩ phải chuyển sang thực hiện phẫu thuật mở bụng, nơi họ sẽ tạo ra những vết cắt lớn hơn. Điều này xảy ra với ít hơn 1 trong 100 người thực hiện cắt ống dẫn trứng nội soi.

Phẫu thuật mở bụng

Phẫu thuật mở bụng là một loại cắt ống dẫn trứng cường độ cao hơn so với cắt ống dẫn trứng nội soi. Thủ tục này thường được thực hiện khi ai đó đang thực hiện cắt ống dẫn trứng đồng thời với việc sinh con bằng phương pháp sinh mổ (C-section).

Với thủ tục này, bác sĩ sẽ tạo ra một vết cắt lớn hơn ở bụng của bạn, thường dài khoảng 2-5 inch. Sau đó, họ sẽ nâng tử cung và ống dẫn trứng của bạn lên qua vết cắt này, và sử dụng một vòng hoặc kẹp để buộc ống dẫn trứng lại. Trong quá trình sinh C-section, bác sĩ của bạn đã tạo một vết cắt vào bụng và lấy tử cung của bạn để sinh em bé. Họ sẽ sử dụng cùng một vết cắt để tiếp cận ống dẫn trứng của bạn cho thủ tục cắt ống dẫn trứng.

Khi ống dẫn trứng của bạn đã được buộc lại, bác sĩ sẽ khâu các vết cắt lại. Hầu hết mọi người cần ở lại bệnh viện một hoặc hai đêm sau khi thực hiện phẫu thuật mở bụng. Nếu bạn vừa sinh con bằng phương pháp C-section, bạn có thể đã ở lại bệnh viện trong vài đêm. Vì quy trình phẫu thuật mở bụng lớn hơn so với cắt ống dẫn trứng nội soi, nên sẽ mất nhiều thời gian hơn để hồi phục, thường là vài tuần.

Cắt ống dẫn trứng mini-laparotomy

Loại phẫu thuật cắt ống dẫn trứng này còn được gọi là mini-lap. Nó thường được thực hiện nếu bạn quyết định thực hiện cắt ống dẫn trứng ngay sau khi sinh con. Nếu bạn sinh mổ, bác sĩ của bạn có khả năng cao hơn để đề nghị thực hiện phẫu thuật mở bụng trong quá trình sinh, vì họ đã cắt vào bụng bạn để sinh em bé. Nhưng nếu bạn sinh con theo phương pháp tự nhiên, bạn có thể thực hiện phẫu thuật mini-lap sau khi em bé ra đời.

Đối với thủ tục này, bạn sẽ được tiêm thuốc gây tê ngoài màng cứng hoặc thuốc gây tê tủy sống — đây là khi bác sĩ tiêm thuốc gây tê trực tiếp vào tủy sống của bạn để bạn không cảm thấy gì từ bụng trở xuống. Một số người được tiêm thuốc gây tê ngoài màng cứng trong quá trình chuyển dạ để giúp giảm cơn đau khi sinh. Nếu bạn đã được tiêm thuốc gây tê ngoài màng cứng trong quá trình sinh, họ có thể để lại thuốc đó và thực hiện cắt ống dẫn trứng trong khi bạn vẫn còn tê.

Do tử cung của bạn phình to khi bạn mang thai, tử cung và ống dẫn trứng của bạn gần rốn ngay sau khi bạn sinh con. Bác sĩ sẽ tạo một vết cắt gần rốn của bạn và đưa ống dẫn trứng ra qua vết cắt. Sau đó, họ sẽ khâu ống dẫn trứng lại, đưa chúng trở lại và khâu vết cắt lại.

Nếu bạn thực hiện phẫu thuật cắt ống dẫn trứng mini-lap khi bạn không vừa mang thai gần đây, bạn vẫn sẽ được tiêm thuốc gây tê ngoài màng cứng hoặc thuốc gây tê tủy sống để không cảm thấy gì. Trong trường hợp này, bác sĩ sẽ tạo vết cắt ở bụng dưới gần xương mu của bạn, khoảng nơi bắt đầu của lông mu. Họ có thể buộc ống dẫn trứng lại bằng chỉ khâu, vòng hoặc kẹp.

Tiệt sản qua nội soi

Trước đây, tiệt sản qua nội soi là một lựa chọn khác để thực hiện cắt ống dẫn trứng. Nó còn được gọi là Essure hoặc Adiana. Đối với tiệt sản qua nội soi, một nhà cung cấp dịch vụ y tế sẽ đặt một cuộn dây kim loại nhỏ, được thiết kế đặc biệt vào bên trong mỗi ống dẫn trứng. Theo thời gian, kim loại sẽ kích thích bên trong ống và gây ra sự hình thành mô sẹo. Sau khoảng 3 tháng, sẽ có quá nhiều mô sẹo đến mức ống dẫn trứng sẽ hoàn toàn bị chặn lại.

Ưu điểm lớn nhất của tiệt sản qua nội soi là nó có thể bịt kín ống dẫn trứng mà không cần phẫu thuật. Nhà cung cấp dịch vụ y tế sẽ đặt cuộn dây kim loại trực tiếp vào ống dẫn trứng bằng cách đi qua âm đạo của bạn. Quy trình này có thể được thực hiện ngay trong văn phòng hoặc phòng khám của bác sĩ. Không có vết cắt nào trên cơ thể của bạn và bạn không cần phải gây mê.

Thật không may, có nhiều tác dụng phụ hơn từ tiệt sản qua nội soi so với những gì các bác sĩ nghĩ. Một số người bị chảy máu quá nhiều trong kỳ kinh nguyệt của họ, và một số người khác cần phải thực hiện cắt ống dẫn trứng thông thường vì tiệt sản qua nội soi của họ không hiệu quả.

Sự hồi phục sau cắt ống dẫn trứng

Một trong những ưu điểm lớn nhất của cắt ống dẫn trứng là bạn không cần phải lo lắng về biện pháp tránh thai nữa, vì cắt ống dẫn trứng được coi là biện pháp tránh thai vĩnh viễn. Sau khi thực hiện thủ tục, bạn sẽ cần thời gian để hồi phục. Hầu hết mọi người có thể trở lại các hoạt động bình thường trong vòng một tuần. Sau đó, bạn sẽ cần phải chăm sóc bản thân, bao gồm:

  • Nghỉ ngơi và không thực hiện bất kỳ hoạt động nặng nào trong ít nhất một tuần.
  • Hạn chế quan hệ tình dục trong khoảng 1-2 tuần.
  • Tránh bồn tắm nóng hoặc hồ bơi trong ít nhất 2 tuần.
  • Theo dõi cơn đau và thuốc uống giảm đau.

Đôi khi, có thể có một số rủi ro và biến chứng từ cắt ống dẫn trứng, bao gồm:

  • Chảy máu
  • Nhiễm trùng
  • Phản ứng với thuốc gây mê
  • Vết cắt trở nên lớn hơn, có thể để lại sẹo
  • Mặc dù rất hiếm, nhưng có thể xảy ra thai ngoài tử cung

Nếu bạn gặp bất kỳ dấu hiệu bất thường nào, chẳng hạn như sốt cao hoặc chảy máu nhiều hơn bình thường, hãy liên hệ với nhà cung cấp dịch vụ y tế ngay lập tức.

Kết luận

Cắt ống dẫn trứng là một phương pháp tránh thai vĩnh viễn cho những người đã sinh con hoặc không có ý định mang thai trong tương lai. Thực hiện cắt ống dẫn trứng có thể giúp bạn giảm bớt lo lắng về việc mang thai không mong muốn và mang lại sự an tâm trong các hoạt động tình dục của bạn. Hãy nói chuyện với nhà cung cấp dịch vụ y tế của bạn để biết thêm thông tin về những lợi ích và rủi ro của cắt ống dẫn trứng.

Bạn cũng sẽ có sẹo từ việc cắt ống dẫn trứng. Nếu bạn đã thực hiện một thủ thuật nội soi, sẹo của bạn sẽ rất nhỏ. Nếu bạn đã thực hiện phẫu thuật mở bụng hoặc mini-lap, sẹo từ việc cắt ống dẫn trứng của bạn sẽ lớn hơn. Bác sĩ của bạn sẽ hướng dẫn bạn cách chăm sóc các vết cắt (vị trí rạch) để sẹo của bạn hồi phục tốt.

Hội chứng sau cắt ống dẫn trứng

Sau khi cắt ống dẫn trứng, một số người trải qua sự giảm nhanh chóng trong các hormone estrogen và progesterone. Tình trạng này được gọi là hội chứng sau cắt ống dẫn trứng (PTLS). Các vấn đề này bao gồm chu kỳ kinh nguyệt nặng hơn hoặc đau hơn trước, chảy máu từ tử cung hoặc âm đạo khi bạn không có kỳ kinh, chu kỳ không đều, hội chứng tiền kinh nguyệt (PMS), đau lưng hoặc vùng chậu, đau khi quan hệ tình dục và đau đầu.

Nếu bạn có PTLS, bạn cũng có thể có các triệu chứng giống như thời kỳ mãn kinh: bốc hỏa, đổ mồ hôi ban đêm, ít ẩm ướt hơn trong âm đạo, thay đổi tâm trạng, khó ngủ hoặc thay đổi nhu cầu tình dục. Một số nhà khoa học nghĩ rằng điều này liên quan đến sự giảm mức hormone estrogen và progesterone sau khi cắt ống dẫn trứng.

Cho đến nay, các nhà khoa học chưa thấy những vấn đề này xảy ra thường xuyên hơn ở những người đã cắt ống dẫn trứng so với những người chưa thực hiện. Hãy nói chuyện với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nếu bạn gặp bất kỳ vấn đề nào sau khi cắt ống dẫn trứng. Họ có thể thực hiện các xét nghiệm để xác định tình trạng của bạn và điều trị các triệu chứng của bạn.

Cắt ống dẫn trứng thường an toàn, nhưng điều quan trọng là phải biết về những rủi ro và biến chứng; ít hơn 2 người trong 100 có biến chứng. Cơ hội bạn gặp phải biến chứng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm loại thủ tục bạn thực hiện; liệu bạn có thực hiện phẫu thuật trong quá trình sinh con hay không; nếu bạn có tiểu đường, lạc nội mạc tử cung hoặc bệnh viêm vùng chậu; và nếu bạn đã từng có phẫu thuật khác ở khu vực đó trước đó. Những biến chứng có thể xảy ra sau khi cắt ống dẫn trứng bao gồm:

  • Nhiễm trùng. Bạn có thể bị nhiễm trùng ở vị trí mà bác sĩ rạch vào da của bạn, ở các mũi khâu hoặc ở ống dẫn trứng. Gọi cho bác sĩ của bạn ngay lập tức nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu nhiễm trùng nào. Những dấu hiệu này bao gồm sốt, sưng, đỏ hoặc phát ban gần các vết cắt từ phẫu thuật, chảy máu từ âm đạo có mùi khác với kỳ kinh của bạn, tiết dịch có mùi hôi, ớn lạnh hoặc cảm giác như bạn sắp ngất xỉu.
  • Phản ứng với thuốc gây mê. Bất kỳ lúc nào bạn thực hiện phẫu thuật, có thể xảy ra phản ứng xấu với thuốc được sử dụng để khiến bạn ngủ.
  • Tổn thương các cơ quan khác. Mặc dù hiếm, nhưng bạn có thể gặp phải chấn thương ở mô hoặc các cơ quan xung quanh ống dẫn trứng của mình, bao gồm tử cung, bàng quang hoặc ruột. Nếu bác sĩ của bạn sử dụng dòng điện để đóng kín ống dẫn trứng, bạn có thể bị bỏng trên da, các cơ quan hoặc mô gần đó.
  • Đau bụng hoặc vùng chậu. Cơn đau này có thể kéo dài ngay cả sau khi bạn hồi phục từ việc cắt ống dẫn trứng.
  • Hối tiếc. Cắt ống dẫn trứng là một quyết định vĩnh viễn. Một số người có thể cắt ống dẫn trứng và sau đó quyết định rằng họ muốn mang thai sau tất cả. Trong một nghiên cứu, hơn 1 trong 10 người đã cắt ống dẫn trứng hối tiếc vì đã làm vậy sau này. Những người cảm thấy bị ép buộc thực hiện phẫu thuật có khả năng hối tiếc cao hơn. Nếu bạn thay đổi ý định sau này, đôi khi có thể thực hiện phẫu thuật để cố gắng thông ống hoặc nối lại ống dẫn trứng của bạn, hoặc bạn có thể thử mang thai bằng phương pháp thụ tinh ống nghiệm (IVF). Tuy nhiên, những lựa chọn này chỉ thành công khoảng một nửa thời gian và có thể rất đắt đỏ.

Mặc dù hiếm, nhưng đôi khi phẫu thuật không hoàn toàn chặn ống dẫn trứng của bạn. Thậm chí còn hiếm hơn, ống có thể tự nối lại với nhau. Nếu điều này xảy ra, có khả năng mang thai, vì một quả trứng có thể vẫn đi qua và gặp tinh trùng.

Nếu bạn mang thai sau khi đã cắt ống dẫn trứng, bạn có khả năng cao gặp phải thai ngoài tử cung, khi một quả trứng đã thụ tinh cấy vào nơi khác ngoài tử cung. Quả trứng có thể gây hại cho cơ thể bạn khi nó phát triển, và nếu nó nằm trong ống dẫn trứng, ống có thể bị vỡ. Đây là một tình huống y tế khẩn cấp.

Nếu bạn đã cắt ống dẫn trứng và bạn đang hoạt động tình dục với những người sản xuất tinh trùng, bạn nên đến ngay phòng cấp cứu nếu có bất kỳ dấu hiệu nào của thai ngoài tử cung. Những dấu hiệu này bao gồm các triệu chứng mang thai như ốm nghén (buồn nôn), chảy máu từ âm đạo khi bạn không có kỳ kinh và đau dữ dội ở một bên bụng hoặc ở một bên vai.

Các phương pháp tránh thai khác

Bạn có hơn một khả năng khi nói đến việc tránh thai, vì vậy điều quan trọng là phải cân nhắc các lợi ích và bất lợi của tất cả các lựa chọn tránh thai của bạn. Lên tới 20% những người đã cắt ống dẫn trứng cuối cùng lại muốn không làm vậy, đặc biệt là những người trẻ hơn 30 tuổi.

Có nhiều cách để ngăn ngừa thai, bao gồm theo dõi sự rụng trứng và không quan hệ tình dục không an toàn khi bạn biết tinh trùng có thể thụ tinh cho một quả trứng. Nhưng phương pháp nhận thức về khả năng sinh sản này không đáng tin cậy bằng các hình thức tránh thai khác.

Các phương pháp rào cản có thể ngăn ngừa thai và một số có thể giảm nguy cơ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Chúng bao gồm:

  • Bao cao su
  • Vòng chắn
  • Nắp cổ tử cung
  • Chất diệt tinh trùng

Các lựa chọn hormone (với estrogen và progestin hoặc chỉ progestin) hiệu quả hơn các phương pháp rào cản và bao gồm:

  • Viên uống bạn dùng vào cùng một thời điểm mỗi ngày
  • Băng dán bạn thay mỗi tuần
  • Vòng âm đạo bạn thay một lần mỗi tháng
  • Tiêm bạn nhận mỗi 3 tháng

Nếu bạn không chắc chắn về việc muốn một cái gì đó vĩnh viễn nhưng vẫn muốn một lựa chọn hiệu quả mà bạn không thể làm sai, hãy xem xét những lựa chọn lâu dài này cho việc tránh thai:

  • IUD. Một dụng cụ đặt trong tử cung là một loại biện pháp tránh thai hồi phục lâu dài (LARC). Bác sĩ của bạn sẽ đặt thiết bị nhựa nhỏ hình chữ T vào tử cung của bạn. Nó có thể ở lại từ 3-10 năm, tùy thuộc vào loại bạn chọn. IUD có hiệu quả hơn 99% trong việc ngăn ngừa thai và là hình thức tránh thai hiệu quả nhất ngoài các phương pháp phẫu thuật như cắt ống dẫn trứng.

IUD đồng (ParaGard) không có hormone. Nó ngăn ngừa thai vì đồng kích thích một phản ứng miễn dịch khiến tử cung không an toàn cho tinh trùng và trứng. Bạn có thể sử dụng nó để ngăn ngừa thai trong tối đa 10 năm.

Một chuyên gia y tế phải đặt và lấy IUD của bạn ra, nhưng bạn có thể yêu cầu tháo nó bất cứ lúc nào. Bạn không cần phải đợi đến ngày hết hạn.

  • Cấy ghép. Đây là một loại LARC khác. Bác sĩ của bạn sẽ đặt một thanh nhựa khoảng kích thước của que diêm dưới da của cánh tay trên của bạn. Nó giải phóng một liều hormone progestin liên tục và có thể ở lại trong tối đa 3 năm, nhưng bạn có thể tháo nó ra bất cứ khi nào bạn muốn.
  • Phẫu thuật cắt ống dẫn tinh. Đây là một loại biện pháp tránh thai dành cho nam giới và những người được xác định là nam khi sinh. Trong thủ thuật, bác sĩ sẽ cắt và bịt kín các ống dẫn tinh đến tinh dịch. Cắt ống dẫn tinh là một phẫu thuật xâm lấn tối thiểu, vì vậy nó là một thủ tục an toàn hơn so với cắt ống dẫn trứng. Nếu đối tác của bạn quyết định thực hiện, họ có thể làm trong khi tỉnh táo.

Những điều cần nhớ

Phẫu thuật cắt ống dẫn trứng cũng được gọi là cắt ống dẫn trứng, và đây là một cách an toàn để đảm bảo rằng bạn không bao giờ mang thai. Có nhiều loại cắt ống dẫn trứng mà bạn có thể chọn, nhưng tất cả đều chặn các ống dẫn trứng đưa trứng từ buồng trứng đến tử cung, để trứng không thể gặp tinh trùng và được thụ tinh. Nếu bạn chắc chắn rằng bạn không muốn mang thai, việc cắt ống dẫn trứng có thể là một lựa chọn tránh thai an toàn và đáng tin cậy cho bạn.

Câu hỏi thường gặp về cắt ống dẫn trứng

Bạn có còn có kinh nguyệt sau khi cắt ống dẫn trứng không?

Có, bạn sẽ vẫn có kỳ kinh sau khi cắt ống dẫn trứng. Buồng trứng của bạn vẫn sẽ rụng trứng (rụng trứng) và tử cung của bạn vẫn sẽ xây dựng một lớp lót và thải ra khi bạn có kỳ kinh. Chỉ có điều là trứng không thể đến tử cung hoặc gặp tinh trùng.

Nhiều người sẽ bị chảy máu hoặc có hiện tượng chảy máu từ âm đạo khoảng một tháng sau phẫu thuật. Có thể mất từ 4-6 tuần để kỳ kinh của bạn trở lại. Kỳ kinh đầu tiên sau khi cắt ống dẫn trứng có thể nặng hơn hoặc đau hơn bình thường.

Nếu bạn đã thực hiện phẫu thuật cắt ống dẫn trứng cùng lúc với việc sinh con, sẩy thai hoặc phá thai, có thể mất nhiều thời gian hơn để kỳ kinh của bạn trở lại đều đặn. Đặc biệt nếu bạn đang cho con bú, kỳ kinh của bạn có thể không trở lại ngay lập tức. Điều này liên quan đến sự thay đổi hormone của bạn sau khi mang thai và có thể không bị ảnh hưởng bởi việc cắt ống dẫn trứng của bạn.

Cắt ống dẫn trứng có đau không?

Bạn không nên cảm thấy đau trong suốt quá trình phẫu thuật cắt ống dẫn trứng. Bạn sẽ hoàn toàn “ngủ” từ thuốc mê toàn thân, hoặc bạn sẽ nhận được thuốc gây tê. Nếu bạn có thủ thuật mini-lap, bạn có thể sẽ nhận được thuốc tê ngoài màng cứng hoặc tủy sống – đây là khi thuốc tê được đưa trực tiếp vào tủy sống của bạn để bạn không cảm thấy gì.

Khi thuốc tê hết tác dụng, bạn có thể cảm thấy một số khó chịu hoặc đau đớn. Điều này sẽ phụ thuộc vào loại phẫu thuật cắt ống dẫn trứng mà bạn đã thực hiện, cơ thể của bạn và liệu bạn có đang hồi phục từ việc sinh con hay không. Nếu bạn đã thực hiện cắt ống dẫn trứng nội soi, bạn có thể cảm thấy đầy hơi do khí mà họ đã đưa vào để làm cho các cơ quan của bạn dễ thấy hơn. Bạn cũng có thể có cảm giác đau ở bụng hoặc vai khi khí thoát ra. Các vết cắt (vết mổ) của bạn có thể cảm thấy đau hoặc khó chịu, hoặc bạn có thể cảm thấy đau hoặc co thắt ở bụng. Một số người nói rằng cơn đau này giống như cơn đau khi hành kinh.

Bác sĩ hoặc y tá của bạn sẽ nói chuyện với bạn trước khi bạn về nhà về cách quản lý bất kỳ cơn đau nào trong quá trình hồi phục. Hãy chắc chắn nói với bác sĩ của bạn nếu bạn vẫn còn cảm thấy đau vài ngày sau phẫu thuật. Gọi ngay cho bác sĩ nếu bạn bị đau bụng nghiêm trọng không thuyên giảm sau 12 giờ hoặc ngày càng tồi tệ hơn.