Blog Trang 489

Bệnh thận đa nang tự chủ (ADPKD)

Bệnh thận đa nang tự chủ (ADPKD) là một tình trạng di truyền khiến cho các túi nhỏ chứa đầy dịch, gọi là nang, phát triển trong thận.

Mặc dù trẻ em mắc Bệnh thận đa nang tự chủ thường sinh ra đã mang tình trạng này, nhưng hiếm khi gây ra vấn đề rõ rệt cho đến khi các nang lớn đủ để ảnh hưởng đến chức năng của thận.

Trong hầu hết các trường hợp, điều này không xảy ra cho đến khi một người ở độ tuổi từ 30 đến 40.

Ít phổ biến hơn, trẻ em hoặc người cao tuổi có thể có triệu chứng rõ rệt do Bệnh thận đa nang tự chủ.

Khi Bệnh thận đa nang tự chủ đạt đến giai đoạn này, nó có thể gây ra nhiều vấn đề khác nhau, bao gồm:

    • Đau bụng
    • Tăng huyết áp (tăng huyết áp)
  • Máu trong nước tiểu (tiểu máu), điều này có thể không luôn rõ ràng với mắt thường
  • Nhiễm trùng đường tiết niệu (UTIs) nghiêm trọng
  • Sỏi thận

Chức năng thận có thể dần dần suy giảm cho đến khi mất quá nhiều chức năng dẫn đến suy thận.

Nguyên nhân gây ra Bệnh thận đa nang tự chủ

Bệnh thận đa nang tự chủ do một lỗi di truyền gây rối loạn sự phát triển bình thường của một số tế bào trong thận và gây ra sự phát triển của các nang.

Các lỗi trong một trong hai gen khác nhau được biết đến là nguyên nhân gây ra Bệnh thận đa nang tự chủ.

Các gen bị ảnh hưởng là:

  • PKD1, chiếm khoảng 78% các trường hợp
  • PKD2, chiếm khoảng 15% các trường hợp

Cả hai loại Bệnh thận đa nang tự chủ đều có các triệu chứng tương tự, nhưng thường nghiêm trọng hơn ở PKD1.

Một đứa trẻ có khả năng 1 trong 2 (50%) phát triển Bệnh thận đa nang tự chủ nếu một trong các bậc phụ huynh có gen PKD1 hoặc PKD2 bị lỗi.

Bệnh thận đa nang tự chủ lặn (ARPKD) là một loại bệnh thận hiếm hơn mà chỉ có thể di truyền nếu cả hai bậc phụ huynh mang gen bị lỗi. Trong loại này, các vấn đề thường bắt đầu sớm hơn, trong thời thơ ấu.

Bệnh thận đa nang tự chủ không di truyền

Trong tối đa 1 trong 4 (25%) trường hợp, một người phát triển Bệnh thận đa nang tự chủ mà không có lịch sử gia đình biết đến về tình trạng này.

Điều này có thể là do tình trạng này chưa bao giờ được chẩn đoán ở một người thân, hoặc một người thân mắc bệnh có thể đã qua đời trước khi triệu chứng của họ được nhận ra.

Trong khoảng 1 trong 10 trường hợp Bệnh thận đa nang tự chủ, đột biến phát triển lần đầu tiên ở người bị ảnh hưởng. Chưa rõ nguyên nhân gây ra điều này.

Người bị ảnh hưởng có thể truyền gen bị lỗi cho con cái theo cách tương tự như người đã thừa hưởng từ cha mẹ.

Ai bị ảnh hưởng

Bệnh thận đa nang tự chủ là tình trạng di truyền phổ biến nhất ảnh hưởng đến thận, mặc dù vẫn còn tương đối hiếm.

Ước tính có tới 1 trong mỗi 1000 đến 2500 người ở Vương quốc Anh mắc Bệnh thận đa nang tự chủ. Điều này có nghĩa là có thể có từ 30.000 đến 70.000 người ở Vương quốc Anh mắc tình trạng này.

Điều trị Bệnh thận đa nang tự chủ

Hiện tại không có phương pháp chữa trị cho Bệnh thận đa nang tự chủ, tuy nhiên:

  • Một lối sống lành mạnh có thể giúp bảo vệ chức năng thận của bạn.
  • Nhiều phương pháp điều trị có sẵn để quản lý các vấn đề gây ra bởi tình trạng này.

Hầu hết các vấn đề, chẳng hạn như tăng huyết áp, đau và UTIs, có thể được điều trị bằng thuốc, mặc dù bạn có thể cần phải phẫu thuật để loại bỏ bất kỳ sỏi thận lớn nào phát triển.

Nếu tình trạng này đạt đến mức mà thận không thể hoạt động đúng cách, có 2 lựa chọn điều trị chính:

  • Lọc máu, nơi một máy được sử dụng để thay thế chức năng của thận.
  • Ghép thận, nơi một quả thận khỏe mạnh được lấy từ một người hiến sống hoặc đã qua đời gần đây và được cấy ghép vào người bị suy thận.

Một loại thuốc gọi là tolvaptan có thể được sử dụng để làm chậm sự hình thành của các nang và bảo vệ chức năng thận.

Triển vọng

Triển vọng cho Bệnh thận đa nang tự chủ rất khác nhau. Một số người trải qua suy thận ngay sau khi bệnh được chẩn đoán, trong khi những người khác có thể sống phần còn lại của cuộc đời với thận hoạt động tương đối tốt.

Trung bình, khoảng một nửa số người mắc Bệnh thận đa nang tự chủ cần điều trị cho suy thận khi họ đạt 60 tuổi.

Ngoài suy thận, Bệnh thận đa nang tự chủ cũng có thể gây ra một số vấn đề khác có thể nghiêm trọng, chẳng hạn như nhồi máu cơ tim và đột quỵ do huyết áp cao, hoặc chảy máu trong não (xuất huyết dưới nhện) do phình mạch trong thành mạch máu ở não (phình mạch não).

Thận

Thận là hai cơ quan hình hạt đậu nằm ở hai bên lưng cơ thể, ngay dưới xương sườn.

Vai trò chính của thận là lọc các sản phẩm chất thải từ máu và đưa chúng ra khỏi cơ thể qua nước tiểu.

Thận cũng đóng một vai trò quan trọng trong:

  • Giúp duy trì huyết áp ở mức khỏe mạnh.
  • Giữ cân bằng muối và nước.
  • Sản xuất hormone cần thiết cho sự sản xuất máu và xương.

Phòng và chữa trị bệnh ỉa chảy trẻ em

ĐIỀU TRỊ VÀ CHỌN KHÁNG SINH CHO TRẺ ỈA CHẢY

  1. Ỉa chảy cùng cần điều trị triệu chứng

Sau khi trẻ có hiện tượng ỉa chảy, rất nhiều ông bố) bà mẹ đều mong thầy thuốc nhanh chóng cho thuốc cầm ngay cho trẻ nhưng như vậy là  điều trị không đúng. Bởi vì, trong thời gian cấp tính của ỉa chảy có chứa rất nhiều vi sinh vật gây bệnh và các độc tố đối với đường ruột, uống thuốc cầm tả là ức chế sự nhu động của ruột, kéo dài làm trì trệ việc thải phân ra ngoài, tức là một lượng lớn vi sinh vật gâv bệnh đình trệ lưu lại trong khoang ruột, các độc tố bị đường ruột hấp thụ. Do vậy cho uống thuốc cầm tả quá sớm là không có lợi đối với trẻ. Nếu như thời gian mắc bệnh tương đối dài, triệu chứng ngộ độc đã tiêu hết, dùng kính hiển vi kiểm tra phân đi ra thấy bạch cầu rất ít, thì có thể cho uống albumin Tannate 0,15 – 0,3g, mỗi ngày uống 3 lần, Bismutb hypo Carbonate 0,15 – 0,3g, mỗi ngày 3 lần.

Nôn mửa là một trong những biểu hiện lâm sàng khi ngộ độc acid. Sau khi truyền loại dung dịch tính kiềm có chứa sodium bicarbonate hoặc Sodium lactate vào đa số trẻ bị nôn đều giảm nhẹ và hết nôn. Nếu như nôn không giảm nhẹ thì sau khi nôn xong có thể tiêm vào bắp loại thuốc cắt nôn Wintermin.

Bụng đầy hơi là triệu chứng thường thấy của ỉa chảy. Phần lớn là do vi khuẩn trong đường ruột phân giải chất đường sinh ra thể khí quá nhiều mà gây ra trướng bụng, triệu chứng này đánh rắm nhiều là khỏi. Nếu như trướng bụng mà càng ngày càng nặng thì phải đo lại kali trong huyết thanh, nếu kali thấp hơn 3,5 mEg/lít, hoặc điện tâm đồ biểu hiện kali huyết thấp, có thể chẩn đoán đó là chứng huyết thấp kali, truyền nhỏ giọt dung dịch Kcl vào tĩnh mạch thì triệu chứng trướng bụng sẽ dần dần giảm nhẹ. Những bệnh nhân ỉa chảy loại nhẹ, có thể uống loại thuốc Mistura Pepsơni 2,5 – 5ml, ngày uống 3 lần, Bioíerminum 0,3g mỗi ngày 3 lần.

  1. Liệu pháp châm cứu

Châm cứu một hiệu quả điều trị rất độc đáo đối với bệnh ỉa chảy.

Châm cứu để điều trị ỉa chảy đối với trẻ con thường chia làm hai loại, đó là loại cấp tính và loại mãn tính.

  • Ỉa chảy cấp tính

ỉa chảy do hàn: đau bụng, sôi bụng, thích hơ nóng và thích xoa bóp, phần lớn đi phân loãng nước nhiều, phân lạnh, ít mùi, đái ít màu trắng trong, người mát không khát nước hoặc thích uống nóng, có lúc ngớ ngẩn, rêu lưỡi trắng mượt, mạch trầm. Lấy huyệt Đại tràng du, Thiên khu, Thượng cự hư, Tiểu trường du, Hạ cự hư, Hợp cốc, châm cứu thêm huyệt Trung quản, Thần khuyết. Nếu tỳ hư ỉa chảy nặng thì thêm huyệt Túc tam lí; huyệt Quan nguyên (bổ sung nhiệt); nếu ăn không tiêu thêm huyệt Kiến lí; nếu nôn mửa thêm huyện Nội quan, nặng thì cứu huyệt Trung quản; nếu như có thêm ngoại cảm phong hàn thì thêm huyệt Đại chùy, Phong môn.

Ỉa chảy do nhiệt: đau buốt trong bụng, đau là muốn đi ỉa ngay, phân ra loãng màu vàng, thối tệ, hậu môn đỏ, đi tiểu ít, nước tiểu hơi đỏ, người sốt, khát nước, bụng cồn cào khó chịu, rêu lưỡi vàng lầy nhầy, mạch huyền. Dùng các huyệt: Đại tràng du, Thiên khu, Thượng cự hư, Tiểu tràng du, Hạ cự hư, Hợp cốc, Nội đình. Nếu như bệnh nhân ỉa chảy nặng có thương âm thì thêm các huyệt cầm tả, Trường cường, Âm lăng tuyền hoặc tiêm thêm Tây y. Nếu có hiện tượng ăn không tiêu thì thêm huyệt Kiên lí, Vị du.

  • ỉa chảy mãn tính

ỉa chảy do tỳ hư: ỉa chảy kéo dài, tay chân mỏi mệt, tinh thần uể oải, dạ dày co bóp yếu, sắc mặt tái nhợt, hậu môn tự xệ xuống, bụng hơi trướng, mạch chậm và mờ. Dùng các huyệt Tỳ du, Trung quản, Khí hải, Thiêm khu, Túc tam lí, Tam âm giao (đều là phương pháp bổ sung nhiệt). Nếu là người có bị ngoại cảm thì thêm huyệt Đại chùy, Phong trì ^bổ sung nhiệt); nếu ăn không tiêu thì thêm Hạ quản, Kiến lí.

Ỉa chảy do thận hư: cứ đến canh 5 chảy lỏng 2 – 3 lần, sắc mặt đen sẫm, phân loãng như nước, chân sợ lạnh, thần sắc ủ rũ, mạch trầm yếu vô lực. Lấy huyệt Tỳ du, Trung quản, Khí hải, Thiên khu, Túc tam lí, Tam âm giao, Thận du, Mạch môn, Quan nguyên (đều là phương pháp bổ sung nhiệt). Bệnh nhân kèm thêm ngoại cảm thêm huyện Đại chùy; ăn không tiêu thêm huyệt Hạ quản, Kiến lí (đều là bổ sung nhiệt).

  1. Liệu pháp xoa bóp

Liệu pháp xoa bóp chữa ỉa chảy cho trẻ con, thường là xoa bóp ở bụng 100 – 300 lần (khoảng 3 phút), chủ yếu là tiêu thực, hòa vị và kiện tỳ chỉ tả. Chủ trị đau bụng, trướng bụng, tiêu hóa không tốt, nôn mửa.

Xoa bóp ở rốn 100 – 300 lần (khoảng 3 phút) là chỉ tả (ngừng ỉa chảy). Chủ trị đau bụng, ỉa chảy.

Xoa bóp ở Thiên khu 100 – 300 lần (khoảng 3 phút) là hành khí chỉ thống (cắt cơn đau). Chủ trị: trướng bụng, đau bụng, ăn không tiêu.

Xoa và bóp bụng 3 – 5 lần, làm cho hành khí, giảm đau, ruột căng đều. Chủ trị đau bụng, ỉa chảy.

Bấm huyệt Tỳ du, Vị du, Kiện tỳ hòa vị, ích khí chỉ tả.

Xoa bóp 7 khớp xương, tăng thanh, giảm đục. Chủ trị đi tả, thoát giang, bí đại tiểu tiện. Xoa bóp 100 – 300 lần.

Xoa bóp ở xương đuôi rùa 100 – 300 lần, chủ trị chứng thoát giang, đi tả, bí tiện.

Xoa bóp tì kinh 100 – 300 lần (khoảng 3 phút) tác dụng kiện tỳ, điều vị, ích khí chỉ tả.

Nếu khí hư thì xoa bóp thêm túc tam lí, 100 – 300 lần (khoảng 3 phút) xoa bụng 100 – 500 lần, xoa bóp quan nguyên 100 – 500 lẫn.

Nếu ăn không tiêu thì xoa bóp trung quản 100 – 500 lần, kiến lí 100 – 300 lần (khoảng 3 phút).

Nếu đi tả vì hư hàn, xoa bóp thêm Thương tam quan 100 lần (1 phút) bấm ở Ngoại lao cung 100 – 300 lần (khoảng 3 phút).

  1. Yêu cầu chất kháng sinh đối với trẻ ỉa chảy

Không phải tất cả trẻ con hễ ỉa chảy đều là điều trị bằng thuốc kháng sinh. Bởi vì ỉa chảy loại nhẹ đa 30  đều là do chăm sóc ăn uống không hợp lí mà dẫn đến, thuộc loại ỉa chảy không phải do cảm nhiễm, những trẻ như vậy mà dùng kháng sinh không những vô hiệu, mà ngược lại có tác dụng phụ. Vì rằng thuốc kháng sinh dùng uống phần lớn chất kháng sinh dải rộng dễ dẫn đến tổ chức khuẩn của đường ruột mất tác dụng mà đi ỉa nặng thêm. Viêm ruột do virut cũng không dùng thuốc kháng sinh. Vì vậy thuốc kháng sinh chỉ dùng diệt vi khuẩn, nhất là bệnh ỉa chảy do bị nhiễm bởi vi khuẩn xâm nhập gây nên và bệnh viêm ruột do chân khuẩn gây nên. Do đó, trẻ con đi ỉa chảy không những phải kiểm tra phân bằng kính hiển vi, mà còn phải nuôi cấy vi khuẩn của phân, nếu có vi khuẩn gây bệnh sinh trưởng, thì cần phải thí nghiệm dị ứng thuốc, căn cứ kết quả thí nghiệm dị ứng thuốc, lựa chọn loại thuốc hữu hiệu, như vậy việc điều trị mới đạt được hiệu quả tốt. Trước khi có báo cáo kết quả thí nghiệm dị ứng thuốc và nuôi cấy vi khuẩn của phân, thầy thuốc phải căn cứ thời vụ phát bệnh, lứa tuổi biểu hiện lâm sàng và kiểm tra phân bằng kính hiển vi tiến hành chẩn đoán nguyên nhân gây bệnh dựa vào kinh nghiệm lâm sàng, chọn dùng loại thuốc kháng sinh điều trị khả năng tốt nhất, sau khi có kết quả báo cáo lại tiến hành điều chỉnh.

  1. Lựa chọn dùng thuốc kháng sinh

Chủng loại thuốc kháng sinh rất nhiều, loại nào là thích hợp dùng để điều trị bệnh ỉa chảy của trẻ con? Dưới đây chúng tôi xin lần lượt giới thiệu để mọi người nắm được.

– Trực khuẩn đại tràng gây bệnh và sản sinh độc tố viêm ruột.

Hai loại trực khuẩn đại tràng sinh sôi nảy nở trong khoang ruột, không xâm phạm tổ chức thành ruột, cho nên cần chọn loại thuốc mà đường ruột khó hấp thụ như Gentamicin, Kanamycine, Neomycine và Polymycine E.

Neomycine: 50 – 60mg/kg thể trọng/ ngày, uống chia làm 3 – 4 lần.

Polymycine E: 5 – 10 vạn đơn vị/kg thể trọng/ ngày, uống chia 3 – 4 lần.

Kanamycine: 50mg/kg thể trọng/ ngày. Uống chia làm 3 – 4 lần.

Gentamicin: 1 – 2 vạn đvị/kg thể trọng/ngày, uống chia làm 3 – 4 lần.

– Trực khuẩn đại tràng xâm nhập gây viêm ruột và vi khuẩn kiết lỵ

Hai loại vi khuẩn gây bệnh này đều có thể xâm phạm tổ chức thành ruột, cho nên chọn loại thuốc mà đường ruột có thể hấp thụ sẽ có hiệu quả tốt. Như Furaxane, Hoàng liên tố, Gentamicin, Aminobenzil Penicilline, Pipera fluoric acid, Khải Phúc Long, liệu trình 5 – 7 ngày.

Aminobenzil Penicilline: 50 – 150mg/kg thể trọng/ ngày, chia làm 2 – 3 lần, cho vào bình nhỏ giọt truyền vào tĩnh mạch.

Gentamicin: 0,2 – 0,4 vạn đvị/kg thể trọng/ ngày, chia làm 2 – 3 lần cho vào bình nhỏ giọt truyền vào tĩnh mạch hoặc tiêm bắp. (Vì nó có tổn hại đến chức năng thận và tai, cho nên không phải là loại thuốc được chọn dùng hàng đầu).

Furaxane (thuốc đặcArị bệnh lỵ): 8 – 10mg/kg thể trọng/ ngày, uống chia làm 3 – 4 lần, có thể cho thêm Methoxi benzyl, Methadiazine (TMP) 5 – 10mg/kg thể trọng/ ngày chia làm 2 lần uống sáng và tối.

Hoàng liên tố: 10 – 20mg/kg thể trọng/ngày. Uống chia làm 3 – 4 lần.

Đơn thuốc Sulfamith: 25 – 50mg/kg thể trọng/ ngày, chia 2 lần uống sáng và tối.

Pipera fluoric acid: 8 – 10mg/kg thể trọng/ ngày, uống chia làm 2 lần, dùng cho trẻ con phải hết sức cẩn thận.

Khải phúc long: 50 – 100mg/kg thể trọng/ ngày, truyền nhỏ giọt vào tĩnh mạch, chia làm hai lần.

  • Viêm ruột do vi khuẩn trong đoạn hồng tràng

Vi khuẩn trong hỗng tràng rất nhạy cảm đối với Chloromycetine, Erythromycin, Furoxone và thuốc kháng khuẩn Aminoglycoside, Erythromycin còn có đặc hiệu. Trong nước ứng dụng Gentamicin và Furoxone đạt hiệu quả tốt, liệu trình là 5 ngày.

Erythromycin: 30 – 50mg/kg thể trọng/ ngày, uống chia làm 4 lần.

Chloromycetine: 25 – 50mg/kg thể trọng/ ngày, uống chia làm 4 lần. .

  • Viêm kết tràng tiểu tràng do vi khuẩn Hyèresen

Đa số loại khuẩn này rất nhạy cảm đối với Erythromycin và thuốc Sulfanilamide.

  • Viêm ruột do khuẩn Salmonelỉa thương hàn

Vì loại khuẩn này phần lớn chủng đã nhờn thuốc, do đó phần lớn là dùng hai loại thuốc kháng sinh trở lên cùng kết hợp để điều trị, trừ bệnh nhân bị nhẹ thì có thể dùng một loại thuốc điều trị. Thuốc kháng sinh thường dùng là: Aminobenzil Penicilline, phương thuốc Sulfamith, Erythromycin, Kanamycine, và Polymycine E. Cũng có những tài liệu đưa tin loại thuốc kháng sinh không thể rút ngắn quá trình mắc bệnh, cũng không thể rút ngắn thời gian diệt khuẩn,chủ trương không dùng thuốc kháng sinh để điều trị cho bệnh nhân viêm đường ruột và bệnh nhân bị khuẩn xâm nhập.

  • Dịch tả

Có thể dùng các loại thuốc Furaxane, Mycine mạnh, Chloromycetine, đơn thuốc Sulfamith và Hoàng liên tố để điều trị, liệu trình 3 ngày.

Mycine mạnh: 6mg/kg thể trọng/ ngày. Uống chia làm 2 lần.

  • Viêm ruột do cầu khuẩn chuỗi nho màu vàng

Ngừng sử dụng các thuốc kháng sinh đang dùng, chọn dùng Penicilline II loại mới, Vancocin, trực khuẩn Peptid, chọn Kanamycine liệu trình 7-10 ngày.

Penicilline II loại mới: 50 – 100mg/kg thể trọng/ ngày, chia làm 2 lần, cho vào ống nhỏ giọt truyền vào tĩnh mạch.

Tiên phong Nystatium II hoặc IV: 50 – 100mg/kg thể trọng/ ngày, chia làm 2 lần truyền nhỏ giọt vào tĩnh mạch.

Vancocin: 12,5 – 25mg/kg thể trọng/ ngày, chia làm 2 lần truyền nhỏ giọt vào tĩnh mạch.

Trực khuẩn Peptid: 600 – 1600 đvị/kg thể trọng/ ngày, chia làm 4 lần tiêm bắp.

Kanamycine: 15 – 30mg/kg thể trọng/ ngày, chia làm 2 lần truyền vào tĩnh mạch hoặc tiêm bắp.

  • Viêm màng ruột

Ngừng các loại kháng sinh đang dùng, chọn dùng Vancocin hoặc thuốc Metronidazol.

Vancocin: 20 – 40mg/kg thể trọng/ ngày, chia đều 3 lần uống, liệu trình là 1 – 2 tuần.

Metronidazol: 15mg/kg thể trọng/ ngày. Chia đều uống 3 lần, liệu trình 7 ngày. Hoặc 15mg/kg thể trọng/ ngày, chia đều ra 3 lần, truyền nhỏ giọt vào tĩnh mạch, liệu trình 3 – 5 ngày.

– Viêm ruột do nấm

Ngừng các loại kháng sinh đang dùng, uống Nystatinum hoặc Chlotrimazone, liệu trình 7 – 10 ngày.

Nystatinum: 5 – 10 vạn đơn vị/kg thể trọng/ ngày, chia đều 3 lần uống.

Chlotrimazone: 30 – 60mg/kg thể trọng/ ngày, chia đều 3 lần uống.

ĐIỀU TRỊ BỆNH BỘI NHIỄM CỦA ỈA CHẢY

  1. Bị nhiễm ngoài đường ruột

Bị nhiễm ngoài đường ruột thường là nguyên nhân gây bệnh ỉa chảy của trẻ sơ sinh, cho nên đồng thời với điều trị ỉa chảy cần phải khống chế hết sức tích cực cảm nhiễm ngoài đường ruột, có một số trẻ điều trị khỏi cảm nhiễm ngoài đường ruột, thì ỉa chảy sẽ khỏi.

  1. Bệnh thiếu vitamin A

Có thể dùng dịch tiêm vitamin AD tiêm sâu vào bắp, mỗi lần 0,5 – lml, cứ mỗi 0,5ml có chứa 25000 đvị quốc tế vitamin A, 2500 đvị quốc tế vitamin D, mỗi ngày một lần, tiêm liền 2 – 3 ngày. Nếu bệnh trạng chuyển biến tốt, có thể uống viên AD dầu gan cá. Đề phòng con mắt bị nhiễm có thể dùng thuốc nhỏ mắt Chloramphinecol 0,25% nhỏ vào mắt. Nếu giác mạc xuất hiện chỗ loét, thì phải dùng đồng thời nhỏ Atropine 1% đề phòng hồng mạc tuột ra và dính liền.

  1. Dinh dưỡng không tốt

Dinh dưỡng không tốt là bệnh thiếu dinh dưỡng mãn tính, cho nên việc điều trị sẽ tương đối khó, nhất là thiếu dinh dưỡng ở mức độ vừa và nặng. Trưâc hết phải trừ khử nguyên nhân gây bệnh, điều chỉnh ăn uống, căn cứ năng lực tiêu hóa của trẻ mà tăng dần dần chất dinh dưỡng, cho uống các loại men tiêu hóa. Đối với trẻ dinh dưỡng không tốt ở mức độ vừa và nặng có thể truyền huyết tương hoặc toàn huyết với lượng ít và nhiều lần.

  1. Viêm da do tã lót

Do khi trẻ đại tiểu tiện, chậm thay tã lót, hoặc tã lót giặt không khô, gây mẩn ngứa ở vùng hậu môn trẻ.

Tích cực điều trị ỉa chảy, năng thay tã lót, đại tiện xong là dùng nước ấm rửa sạch hậu môn, dùng khăn bông mềm lau khô, bôi lên loại kem. Nếu chỗ mông có lở loét, có thể dùng bóng đèn sấy hoặc dùng đèn chiếu tia tử ngoại, chú ý tránh làm bỏng da, khi có dịch thẩm thấu thì dùng bông hút ẩm, sau khi khô thì bôi lớp kem oxit kẽm có chứa 0,5% Nystatium.

SỰ NHẬN THỨC VÀ ĐIỀU TRỊ CỦA ĐÔNG Y ĐỐI VỚI BÊNH ỈA CHẢY

  1. Nhận thức

Đông y gọi ỉa chảy là tiết tả, do tỳ vị mất chức năng điều tiết mà dẫn đến đại tiện ra phân loãng hoặc là đi ra như nước, số lần đại tiện tăng nhiều đó là chứng bệnh chủ yếu của nó. Nguyên nhân gây bệnh và cơ chế phát bệnh của nó như sau:

  • Trẻ con ở giai đoạn sơ sinh phát triển nhanh chóng, cần có nguồn dinh dưỡng sung túc để đáp ứng nhu cầu của cơ thể. Chức năng tì vị của trẻ còn rất yếu, sự điều tiết của thần kinh đối với đường ruột dạ dày cũng còn kém. Rất nhiều bà mẹ muốn cho con lớn nhanh, cho con ăn uống không điều độ, cho ăn đồ lạnh, cho ăn các chất béo dầu mỡ, gây nên một gánh nặng rất lớn cho dạ dày và đường ruột của trẻ. Như vậy không những không hấp thụ được những thức ăn đã ăn vào, mà ngược lại gây tổn thương cho tì vị, người ta gọi đó là “đau dạ dày do bội thực”. Tỳ (lá lách) bị tổn thương không thể vận hóa, dạ dày bị tổn thương không bóp nghiền thức ăn tiêu hóa, từ đó hỗn tạp mà đi xuống, rồi đi vào đại tràng mà sinh ra ỉa chảy. Cho trẻ ăn sớm quá những thức ăn quá thô, hoặc cho ăn uống những thức ăn sinh lạnh, dầu mỡ đều gây tổn thương bên trong tì vị của trẻ, từ đó dẫn đến ỉa chảy.
  • Bị cảm bởi ngoại tà (tà khí bên ngoài)

Ngoại tà ở đây là chỉ “phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa” dẫn đến tì vị hỗn loạn mà hình thành ỉa chảy.

Người xưa nói: “Vô thấp bất thành tả, thấp đa hoặc trọng tả” (không ẩm không có ỉa chảy, ẩm nhiều thì ỉa chảy nặng). Bởi vì tỳ ưa táo (khô) mà ghét thấp (ẩm), ẩm ướt dễ gây tổn thương cho tỳ dương, làm cho tỳ mất đi sự vận hành bình thường, nước ẩm hỗn tạp cùng đi vào đại tràng, thành ra ỉa chảy.

Thời tiết khí hậu và ỉa chảy có quan hệ mật thiết với nhau. Đặc biệt là mùa hè viêm nhiệt, trẻ con ra mồ hôi nhiều, lượng nước trong cơ thể giảm thấp, những chất phế thải trong cơ thể thải ra không thông suốt kịp thời, những chất phế thải này kích thích vào dạ dày, ruột mà hình thành ỉa chảy. Ngoài ra, khi cho trẻ ăn sữa, vú sữa, bình sữa sát trùng không đầy đủ cũng rất dễ gây ra ỉa chảy.

  • Tỳ vị yếu

Tỳ vị của trẻ vốn còn rất yếu, hoặc là do bẩm sinh yếu, nhưng đa số là do sau khi sinh ra nuôi dưỡng, chăm sóc không chu đáo mà dẫn đến. Trẻ con ăn uống bừa bãi, thức ăn sống lạnh, tổn thương lớn đến tỳ vị. Chức năng của tỳ là vận tải chuyển hóa chất dinh dưỡng trong thức ăn. Chức năng của vị (dạ dày) là dung nạp và tiêu hóa các thức ăn ăn vào. Tỳ vị mất chức năng điều tiết ấy, thì nước uống vào sẽ nằm lại ở tì vị mà trở thành thấp tà (tà khí ẩm thấp), thức ăn ăn vào sẽ nằm lại ở tỳ vị mà trở thành tích trệ, đồng thời đi vào đại tràng mà gây ra ỉa chảy. ía chảy kéo dài, lâu sẽ làm cho tỳ vị càng yếu thêm, không thể đem chất dinh dưỡng chuyển đến toàn thân, sẽ dễ dàng gây ra những bệnh tật khác.

  • Tỳ thận dương hư

Bệnh này còn nặng hdn so với bệnh tỳ vị yếu, thuộc về ỉa chảy do hàn. Nói chung phần lớn là trẻ yếu do bẩm sinh, hoặc là trong khi điều trị bệnh cho uống quá nhiều các loại thuốc khổ hàn công phạt, hoặc là sau khi phát bệnh điều dưỡng không thỏa đáng, hoặc là ỉa chảy kéo dài mãi mà hình thành tổn thương tỳ thận dương.

Ngoài ra, cũng do đặc điểm phủ tạng của trẻ còn non yếu, bệnh tình biến đổi nhiều, ỉa chảy kéo dài tổn thương khí dịch, dễ thường xảy đến những biến chứng “thương âm”, “thương dương”.

  1. Điều trị
  • Điều trị ỉa chảy do ăn

Biểu hiện lâm sàng ỉa chảy do ăn: trướng bụng, đau bụng. Trước khi ỉa khóc quấy, ỉa xong giảm đau, phân có mùi thối chua, hoặc như trứng thối, dạng lỏng, loãng màu vàng sẫm, trong phân có lẫn thức ăn chưa tiêu hết, hoặc những giọt sữa, có thể có ít niêm dịch, ọ hoi mùi thiu chua, buồn nôn, không chịu ăn uống, ngủ không yên giấc, rêu lưỡi mỏng vàng hoặc đặc dính. Chữa trị chủ yếu là tiêu thực, chống đình trệ, trung hòa, cầm tả. Phương thuốc dùng “Bảo hòa hoàn gia giảm”. Cụ thể các vị thuốc là Tiêu sơn tra, Lục thần khúc, Pháp bán hạ, Phục linh, Trần bì, Liên kiều, Sao mạch nha, Củ cải. sắc nước mỗi ngày một tễ, chia ra uống 3 lần. Nếu bệnh do bú sữa gây ra là chính thì dùng Sao mạch nha, Sao cốc nha, Sa nhân. Nếu bệnh do ăn thịt tích lại không tiêu thì dùng Tiêu sơn tra. Nếu bệnh do ăn thức ăn chế biên băng bột mì tích lại thì dùng củ cải. Nếu bệnh do ăn các loại ngũ cốc tích lại thì dùng thần khúc. Trường hợp bệnh tình tương đối nặng thì dùng thêm Kê nội kim (màng mề gà), Nga truật. Đại tiện ra nhiều nước, thì thêm Trạch tả, Xa tiền tử (gói vào sắc), kèm theo nôn mửa thì thêm Hoắc hương, nước gừng tươi, trường hợp bệnh nhân tỳ vị vốn yếu, sắc mặt xanh xao vàng vọt, thần thái mệt mỏi mất sức, rêu lưỡi trắng nhạt thì thêm Bạch truật, Sinh cốc nha, Y dĩ nhân.

– Điều trị ỉa chảy do phong hàn

Biển hiện lâm sàng của ỉa chảy phong hàn: bụng trướng đau, thích hơ ấm, xoa bóp, phân đi ra loãng dạng bọt, màu vàng nhạt, không mùi, bụng kêu lục ục, miệng khát nhưng không muốn uống, <hoặc ớn nóng ớn lạnh, rêu lưỡi mỏng trắng. Điều trị: lấy sơ phòng tán hàn, hóa thấp trung hòa làm chính. Phương thuốc chọn bài Hoắc hương chính khí tán gia giảm. Cụ thể các vị thuốc là Hoắc hương, Tô diệp, Bạch chỉ, Phúc bì, Hậu phác, Trần bì, Bán hạ, Sinh khương, Phục linh, Thương truật. sắc nước, ngày một tễ, chia làm 3 lần uống. Bệnh nhân đi tiểu ít, thêm Trạch tả, Trừ linh, Xa tiền tử (sắc cả bao); Bệnh nhân đau vùng thắt lưng kịch liệt, bụng sôi ùng ục, thì thêm gừng nướng Sa nhân, Thảo đậu khấu.

ĂN UỐNG CHO BỆNH NHI ỈA CHẢY

Liệu pháp ẩm thực rất có tác dụng trong việc điều trị các loại bệnh, là điều không thể coi nhẹ, phân phối ẩm thực một cách khoa học và hợp lí có thể làm tăng thêm sức đề kháng cho cơ thể bệnh nhân, sớm phục hồi sức khỏe. Đối với người lớn như vậy thì đối với trẻ thơ cũng thế.

Trẻ con sau khi bị ỉa chảy, liệu pháp ẩm thực là vô cùng quan trọng, mục đích của nó là giảm nhẹ gánh nặng cho đường tiêu hóa, tạo điều kiện cho đường tiêu hóa đã quá mệt mỏi được “nghỉ ngơi” một thời gian. Đối với người đi ỉa chảy nhẹ, ngoài nuôi bằng sữa mẹ có thể rút ngắn thời gian bú sữa, như trước khi bị ỉa chảy, mỗi ngày bú 20 phút thì sau khi ỉa chảy giảm xuống là 10 – 15 phút; trẻ cho bú bằng thủ công thì hoặc là giảm bớt lượng sữa cho ăn mỗi lần, hoặc giảm bớt số lần cho ăn sữa mỗi ngày. Bởi vì sữa bò nguyên đối với trẻ thơ rất khó tiêu hóa, có thể đổi sang dùng loại sữa bò đã khử mỡ, sữa chua hoặc sữa bò đã pha loãng, như một phần sữa bò thêm một phần nước gọi là sữa bò 1:1, hai phần sữa bò thêm một phần nước gọi là sữa bò 2:1, tỉ lệ sữa bò chiếm càng ít càng dễ tiêu hóa.

Những đứa trẻ đã cho ăn thêm thực phẩm phụ, nên tạm ngừng cho ăn những thức ăn khó tiêu hóa và những thức ăn chứa nhiều loại mỡ béo, làm như vậy có thể giảm nhẹ phụ tải cho đường tiêu hóa. Bệnh nhi đi ỉa chảy nặng, nếu tiết tả kèm theo mất nước vừa và nặng, thì phải tạm thời giảm ăn, bác sĩ có thể căn cứ mức độ mất nước và tình trạng dinh dưỡng quyết định giảm ăn từ 6 – 12 giờ (nhưng thời gian giảm ăn không được quá dài), đồng thời căn cứ mức độ và tính chất mất nước mà tiến hành truyền dịch bổ sung vào tĩnh mạch. Sau khi qua giảm ăn, trẻ nuôi dưỡng bằng sữa mẹ vẫn tiếp tục bú sữa mẹ, thời gian cho bú sữa từ từ kéo dài. Trẻ có thể được nuôi bằng cháo gạo đặc (1 lạng gạo cho nước vào ninh đến còn 300ml) sữa bò khử mỡ pha loãng, lượng sữa từ ít đến nhiều, nồng độ từ loãng đến đặc. Sau khi tăng thêm thức ăn tuy số lần đại tiện có tăng lên, nhưng đường ruột hấp thụ với lượng ăn vào trở thành tỉ lệ thuận. Thường thường sau 5 – 7 ngày là khôi phục ăn uống bình thường. Viêm ruột do virut phần lớn là thiếu hụt Dicarbohydrase (chủ yếu là lactase) có thể đổi cho ăn sữa bò chua. Chờ cho hoàn toàn khỏi ỉa chảy, lại phục hồi nuôi dưỡng cho ăn như ban đầu.

DỰ PHÒNG BỆNH ỈA CHẢY

Các bậc phụ huynh sau khi hiểu rõ nguyên nhân xảy ra ỉa chảy, là có thể có được cách đề phòng bệnh ỉa chảy cho trẻ.

Vì hiện nay vacxin phòng bệnh, vacxin phòng dịch chưa có thể đủ dùng, cho nên biện pháp dự phòng tổng hợp là rất quan trọng.

  1. Nuôi dưỡng bằng sữa mẹ sẽ giảm thấp tỉ lệ bệnh ỉa chảy

Vì sữa mẹ, bất cứ từ góc độ dinh dưỡng, hay là từ góc độ vệ sinh, đều là loại thực phẩm tốt nhất của trẻ sơ sinh.

  1. Dần dần cho thêm thức ăn phụ, đề phòng rối loạn chức năng của ruột

Trẻ sơ sinh sinh trưởng và phát triển rất nhanh, sau khi sinh được 5 tháng thể trọng đã tăng gấp 2 lần, nhiệt lượng và dinh dưỡng cần thiết cho sinh trưởng và phát triển tương đối nhiều. Các loại sữa đã không thể đáp ứng được nhu cầu của trẻ, cho nên những trẻ em được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ hay là nuôi dưỡng thủ công, khi lượng sữa mỗi ng^ỵ đạt đến 1000ml hoặc lượng sữa mỗi lần đạt đến 200ml thì đều cần phải cho thêm thực phẩm phụ trợ (gọi tắt là ăn phụ) mới có thể đảm bảo được sinh trưởng và phát triển bình thường cho trẻ sơ sinh. Ngoài ra, cho ăn phụ trợ cũng là đặt cơ sở cho trẻ tập nhai thức ăn rắn. Thời gian cắt sữa hoàn toàn là sau khi sinh 10-12 tháng. Để phòng ngừa cần thêm thức ăn phụ trợ gây rối loạn chức năng đường tiêu hóa, phải tuân theo những nguyên tắc như: lượng từ ít đến nhiều, từ loãng đến đặc, từ mịn đến thô. Mỗi lần chỉ thêm một loại, cho thích ứng trong một thời gian, nếu trẻ đã quen ăn bình thường, số lần đại tiện và phân bình thường, rồi lại suy nghĩ thêm loại thứ 2. Nếu sau khi cho thêm thức ăn phụ, mà số lần đại tiện tăng thêm, tràng thái phân cũng khác thường, thì lập tức tạm hoãn cho thêm, chờ cho sau khi đại tiện bình thường, lại bắt đầu cho ăn một ít. Việc cho ăn phụ trợ thêm, không thể nóng vội, thời gian trẻ đang ôm hoặc là khi thời tiết nóng nực viêm nhiệt rất dễ bị ỉa chảy, cần phải hoãn việc cho ăn thêm. Do về thể chất, tính thèm ăn và khả năng tiêu hóa của trẻ khác nhau rất lớn, không thể so bì lẫn nhau được, cần phải phân biệt quan tâm. Khi bắt đầu cho ăn phụ thêm, do trẻ con chưa có thói quen nuốt những thức ăn không tự chảy vào, thường thường dùng lưỡi để đẩy thức ăn ra, nếu ta dùng chiếc thìa con đem thức ăn đưa đến phía sau vòm miệng là có thể nuốt xuống, như vậy sẽ dần dần hình thành thói quen nuốt xuống.

  1. Cải thiện tập quán vệ sinh, giảm bót cơ hội cảm nhiễm đường ruột

Bệnh từ cửa miệng vào, tức là nói các vi sinh vật gây bệnh, thường thường thông qua thức ăn hoặc là nước uống ô nhiễm đi vào đường tiêu hóa gây ra cảm nhiễm. Cho nên rèn luyện thành thói quen vệ sinh tốt, tăng cường vệ sinh ăn uống là một việc làm vô cùng quan trọng. Trẻ con nuôi dưỡng bằng nguồn thức ăn ngoài là chính còn phải tăng cường khử trùng dụng cụ ăn uống. Do vậy, người trông coi trẻ, cần phải giáo dục và giúp đỡ trẻ trước khi ăn, sau khi đại tiểu tiện cần phải rửa tay bằng xà phòng. Bình sữa, vú sữa và dụng cụ ăn, sau khi rửa sạch rồi phải luộc sôi khử trùng, vú sữa luộc sôi không nên quá 5 phút đề phòng lão hóa. Không được cho trẻ uống sống ăn sống, hoa quả cần rửa thật sạch. Sữa, thức ăn, bình sữa, dụng cụ ăn của trẻ con ăn, cần phải để trong lồng úp đề phòng ruồi nhặng đậu vào.

  1. Làm tốt công tác cách ly, tiêu độc

Đề phòng phân của trẻ ỉa chảy trong có chứa một lượng lớn vi sinh vật gây bệnh truyền lan ra gây nên cảm nhiễm,-đặc biệt virut dạng vành gây viêm ruột, trực khuẩn đại tràng gây bệnh viêm ruột. Vi trùng Salmonella thương hàn gây viêm ruột và vi khuẩn lỵ có tính truyền nhiễm rất mạnh, dễ hình thành và lưu hành trong các nhà trẻ và ở khoa nhi, cho nên cần phải cách li giữa trẻ em ỉa chảy do cảm nhiễm với trẻ em đi ỉa chảy không phải do cảm nhiễm. Trước khi chăm sóc trẻ, sau khi thay tã lót, sau khi xử lí chất thải ra, cần phải rửa tay bằng xà phòng thật sạch, đề phòng bị lây nhiễm lẫn nhau. Những chất thải ra cần áp dụng một số phương pháp sau đây tiến hành tiêu độc:

  • Một phần chất thải, cho hai phần dịch bột tẩy trắng 2% hoặc 1/5 phần bột khô bột tẩy trắng, khuấy trộn đều để lắng sau 2 giờ đổ đi. nếu không có bột tẩy trắng, có thể dùng vôi sống thay thế.
  • Một phần chất thải, cho 1/2 phần dịch tẩy rửa 1% khuấy trộn đồng đều, để lắng sau 10 phút đổ đi.
  1. Nhân viên nhà bếp phải kiểm tra sức khỏe đinh kỳ, tiêu trừ nguồn lây truyền

Nghiêm khắc chấp hành luật vệ sinh thực phẩm, nhân viên dạy trẻ và nhân viên nấu ăn nhà trẻ phải định kì kiểm tra sức khỏe. Nếu phát hiện nhân viên nhà bếp, nhân viên nuôi dậy có các bệnh truyền nhiễm đường ruột như kiết lỵ, thương hàn, viêm gan siêu vi trùng hoặc là mang vi trùng, mang siêu vi trùng thì dứt khoát phải điều cách ly.

Rau bó xôi là thực phẩm bổ máu tốt cho sức khỏe

Phần lớn những người bệnh thiếu máu đều là do thiếu sắt, khi đó có người, thậm chí cả bác sĩ cũng khuyên: “Trong rau bó xôi có nhiều chất sắt, bạn nên ăn nhiều loại rau này”. Thực ra nói như vậy thật sai lầm.

Trước hết, hàm lượng chất sắt có trong rau bó xôi không cao, mỗi 100 gam rau bó xôi chỉ có 2,5 mg chất sắt. Hàm lượng chất sắt cao nhất có trong các loại thực phẩm như các loại nấm, mộc nhĩ, các loại tảo (rong, bèo), như hàm lượng chất sắt có trong 100 gam mộc nhĩ và nấm khô lần lượt là 185 mg và 32 mg, trong mỗi 100 gam hải đới và tảo cao[1] lần lượt là 150 mg và 32 mg; hàm lượng chất sắt cũng rất cao trong gan dê, gan lợn, gan bò, cứ mỗi 100 gam gần đó có chứa tới 6,6 – 25 mg chất sắt. Trong các loại đỗ, cứ mỗi 100 gam đỗ tương có chứa 11 mg chất sắt; trong mỗi 100 gam gạo nếp, tẻ, ngô cũng có chứa 3,4 – 6,7 mg chất sắt; trong các loại rau xanh như mỗi 100 gam rau cần, 100 gam cải dầu, 100 gam rau giền cũng có chứa 4,8 – 8,5 mg sắt. Lượng sắt có chứa trong các loại rau này còn cao hơn trong rau bó xôi.

Ngoài ra, điểm quan trọng hơn còn ở chỗ: Chất sắt có chứa trong rau bó xôi khó được cơ thể hấp thu hơn, hơn nữa rau bó xôi còn có khả năng ảnh hưởng đến sự hấp thu chất sắt của các loại thực phẩm khác.

Rau bó xôi
Rau bó xôi

Chúng ta đều biết, trong rau bó xôi còn có chứa chất oxalate, nó rất dễ kết hợp với các kim loại sắt và calcium sinh thành loại muối oxalate cơ thể không hấp thu được. Qua nghiên cứu của các nhà khoa học chứng tỏ chất sắt trong rau bó xôi vào trong đường ruột được hòa tan và chỉ được cơ thể hấp thu 1% thôi, còn 99% số chất sắt còn lại đều kết hợp với chất oxalate thành chất phức hợp không tan trong nước đã mất đi giá trị dinh dưỡng của nó. Còn tỉ lệ hấp thu chất sắt của cơ thể đối với trứng gà, rau hẹ, sữa bò và thịt của các loại cá lần lượt là 3%, 8%, 10% và 11%; tỉ lệ hấp thu chất sắt có trong gan động vật và trong thịt trâu, thịt bò lại càng cao hơn, lần lượt là 18,5% và 22%. Không những vậy, nếu ăn lẫn rau bó xôi với những loại thực phẩm giàu chất sắt khác thì chất oxalate có trong rau bó xôi sẽ còn kết hợp với chất sắt có trong những thực phẩm đó, ảnh hưởng đến sự hấp thu chất sắt của cơ thể trong các loại thực phẩm này. Cho nên những người bệnh thiếu máu nếu coi rau bó xôi là thức ăn hỗ trợ cho người thiếu máu do thiếu sắt thì không những không có hiệu quả bổ sung chất sắt và chữa bệnh, ngược lại sẽ còn ảnh hưởng đến hiệu quả của các thực phẩm giàu chất sắt khác, thậm chí đến cả thuốc bổ máu bằng viên sắt nữa.

Ung thư lưỡi: Triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Ung thư lưỡi là gì?

Đây là một trong nhiều loại ung thư khoang miệng. Giống như các loại ung thư khác, nó xảy ra khi các tế bào phân chia mất kiểm soát và hình thành một khối u.

Có hai loại. Một loại gọi là ung thư lưỡi miệng vì nó ảnh hưởng đến phần lưỡi mà bạn có thể thò ra ngoài. Loại còn lại xảy ra ở gốc lưỡi, nơi lưỡi kết nối với họng của bạn. Loại này, được gọi là ung thư họng miệng, thường được chẩn đoán sau khi nó đã lan đến các hạch bạch huyết ở cổ.

Ung thư lưỡi ít phổ biến hơn so với nhiều loại ung thư khác. Hầu hết những người mắc bệnh này là người lớn tuổi. Nó hiếm gặp ở trẻ em.

Triệu chứng của ung thư lưỡi

Một trong những dấu hiệu đầu tiên của ung thư lưỡi là một mảng trắng hoặc đỏ, cục u, hoặc vết loét ở bên lưỡi của bạn mà không biến mất.
Bạn cũng có thể gặp:

  • Đau ở hoặc gần lưỡi
  • Thay đổi giọng nói, như khàn tiếng
  • Khó khăn khi nuốt hoặc nhai hoặc khi di chuyển hàm hoặc lưỡi
  • Tê lưỡi hoặc miệng
  • Sưng hàm
  • Đau họng kéo dài
  • Cảm giác như có thứ gì đó mắc kẹt trong họng
  • Hạch bạch huyết sưng ở cổ
  • Ho ra máu
  • Giảm cân
  • Đau tai
  • Chảy máu trong miệng
  • Khối u ở phía sau miệng, họng, hoặc cổ

Nếu bạn có một vết loét trên lưỡi hoặc trong miệng mà không cải thiện trong vài tuần, hãy gặp bác sĩ.

Nếu vấn đề xảy ra ở gốc lưỡi, bạn có thể không nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào. Nha sĩ của bạn có thể phát hiện dấu hiệu ung thư lưỡi trong một cuộc kiểm tra, hoặc bác sĩ của bạn có thể nhận thấy điều gì đó trong một cuộc khám sức khỏe định kỳ.

Nguyên nhân gây ung thư lưỡi

Virus papilloma ở người (HPV) có thể gây ra các loại ung thư ở gốc lưỡi. HPV cũng có thể lây nhiễm vào vùng sinh dục của bạn và gây ra ung thư cổ tử cung, ung thư dương vật và ung thư trực tràng. Nhiễm HPV là loại nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất. Có nhiều loại HPV khác nhau. Những loại làm tăng nguy cơ mắc ung thư được gọi là HPV nguy cơ cao.

Những yếu tố khác có thể làm tăng khả năng mắc ung thư lưỡi bao gồm:

  • Sử dụng thuốc lá
  • Sử dụng rượu
  • Răng bị mẻ
  • Không chăm sóc răng miệng và nướu
  • Nhai trầu, thường phổ biến ở Nam và Đông Nam Á
  • Tiền sử cá nhân về một số loại ung thư
  • Chế độ ăn uống kém
  • Gen của bạn cũng có thể đóng một vai trò trong việc liệu bạn có khả năng mắc ung thư lưỡi hay không.

Ung thư lưỡi phổ biến hơn ở nam giới và những người được chỉ định là nam khi sinh hơn ở phụ nữ và những người được chỉ định là nữ khi sinh. Bạn cũng có nhiều khả năng mắc bệnh hơn nếu bạn 45 tuổi trở lên và có hệ miễn dịch yếu.

Chẩn đoán ung thư lưỡi

Bác sĩ của bạn sẽ kiểm tra miệng và hỏi về các triệu chứng của bạn. Sau đó, họ có thể đề nghị kiểm tra để chẩn đoán ung thư lưỡi, bao gồm:

  • Xét nghiệm hình ảnh: Các xét nghiệm này, như X-quang, CT, MRI và PET, chụp những bức ảnh chi tiết về miệng của bạn, bao gồm vị trí và kích thước của khối u. Bạn cũng có thể cần thực hiện một lần nuốt bari, một loại X-quang mà bạn uống một chất lỏng gọi là bari. Nó làm cho các dấu hiệu của ung thư dễ thấy hơn trên X-quang.
  • Sinh thiết: Bác sĩ của bạn cũng có thể lấy một mẫu mô từ miệng của bạn để xét nghiệm (sinh thiết). Họ có thể sử dụng các kỹ thuật khác nhau để lấy mẫu, bao gồm:
  • Sinh thiết chổi: Trong phương pháp này, bác sĩ sử dụng một chiếc chổi cứng để thu thập tế bào từ lưỡi của bạn, di chuyển chổi theo chuyển động tròn.
  • Sinh thiết cắt: Đây là khi bác sĩ thực hiện một vết cắt nhỏ hình bầu dục trên lưỡi để loại bỏ mẫu mô.
  • Nội soi: Trong xét nghiệm này, bác sĩ sẽ đưa một ống mỏng được gắn đèn và camera vào mũi và xuống họng của bạn, nơi họ sẽ tìm kiếm các dấu hiệu của ung thư. Một lần nội soi cũng có thể cho thấy liệu ung thư đã lan ra các khu vực khác trong họng của bạn hay chưa.

Chẩn đoán cũng giúp bác sĩ xác định giai đoạn ung thư lưỡi của bạn, có nghĩa là kích thước của khối u và liệu nó đã lan ra hay chưa. Hiểu giai đoạn ung thư của bạn cũng cung cấp thông tin về:

  • Mức độ nghiêm trọng của ung thư
  • Khả năng sống sót của bạn
  • Phương pháp điều trị nào sẽ hiệu quả nhất cho bạn
  • Các thử nghiệm lâm sàng

Bác sĩ sử dụng nhiều hệ thống phân loại khác nhau, nhưng TNM là hệ thống được sử dụng nhiều nhất trong báo cáo ung thư. Trong hệ thống này:

  • “T” mô tả kích thước và phạm vi của khối u chính được gọi là khối u nguyên phát.
  • “N” mô tả số lượng hạch bạch huyết của bạn có ung thư.
  • “M” mô tả liệu ung thư của bạn đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể chưa (di căn).

Hệ thống TNM cũng sử dụng một loạt các số sau mỗi chữ cái để cung cấp thêm thông tin về ung thư, như kích thước của khối u chính.

Điều trị ung thư lưỡi

Phương pháp điều trị của bạn sẽ phụ thuộc vào vị trí và kích thước của khối u.

  • Phẫu thuật: Trong cuộc phẫu thuật này, được gọi là cắt lưỡi (glossectomy), bác sĩ phẫu thuật sẽ lấy đi toàn bộ hoặc một phần của lưỡi, tùy thuộc vào kích thước của khối u. Họ cũng sẽ loại bỏ một số tế bào lành xung quanh lưỡi của bạn. Nếu có vẻ như ung thư đã lan ra các hạch bạch huyết, bác sĩ phẫu thuật có thể lấy một số mô này (gọi là cắt hạch cổ). Sau phẫu thuật, bạn có thể cần trị liệu vật lý và phục hồi chức năng cho các vấn đề về nói và nuốt.
  • Phẫu thuật tái tạo: Bác sĩ sử dụng loại phẫu thuật này để khôi phục các phần của khuôn mặt hoặc miệng cần phải lấy đi trong một cuộc phẫu thuật ung thư. Họ sẽ lấy xương hoặc mô khỏe mạnh từ các bộ phận khác của cơ thể và sử dụng nó để thay thế các phần của lưỡi, môi, mặt và các khu vực khác.
  • Xạ trị: Phương pháp điều trị này sử dụng các chùm năng lượng mạnh từ X-quang, proton hoặc các phương pháp khác vào các vị trí cụ thể trên cơ thể bạn để tiêu diệt các tế bào ung thư.
  • Hóa trị: Với phương pháp điều trị này, bạn sẽ uống thuốc trước hoặc sau khi phẫu thuật ung thư để kiểm soát sự phát triển của tế bào ung thư hoặc tiêu diệt các tế bào còn sót lại.
  • Liệu pháp nhắm mục tiêu: Liệu pháp nhắm mục tiêu tiêu diệt các tế bào ung thư bằng cách tấn công các hóa chất cụ thể bên trong chúng. Bác sĩ có thể sử dụng nó để điều trị ung thư lưỡi đã tái phát hoặc lan ra ngoài khối u.
  • Liệu pháp miễn dịch: Nếu bạn bị ung thư lưỡi giai đoạn tiến triển và các phương pháp điều trị khác không hiệu quả, bác sĩ có thể đề nghị liệu pháp miễn dịch. Nó hoạt động bằng cách giúp hệ miễn dịch của bạn xác định và tiêu diệt các tế bào ung thư.

Bạn cũng có thể muốn xem xét tham gia một thử nghiệm lâm sàng cho ung thư lưỡi, nơi bạn sẽ có cơ hội thử một phương pháp điều trị mới. Hãy nói chuyện với nhóm chăm sóc sức khỏe của bạn nếu bạn quan tâm đến việc tham gia thử nghiệm lâm sàng.

Sau bất kỳ phương pháp điều trị nào, bạn sẽ cần kiểm tra định kỳ để đảm bảo ung thư không tái phát.

Ung thư lưỡi có thể chữa khỏi không?

Càng sớm được bác sĩ chẩn đoán ung thư lưỡi của bạn, bạn càng có khả năng điều trị thành công. Tỷ lệ sống sót tương đối 5 năm cho ung thư lưỡi là 69,7%. Con số này đại diện cho số lượng người mắc ung thư lưỡi còn sống sau 5 năm.

Biến chứng của điều trị ung thư lưỡi

Điều trị ung thư lưỡi có thể gây ra các vấn đề sức khỏe khác. Dưới đây là một số vấn đề:

Biến chứng phẫu thuật:

  • Chảy máu
  • Nhiễm trùng
  • Một lối đi bất thường hình thành giữa miệng của bạn và da trên mặt
  • Vấn đề về phát âm
  • Khó nuốt
  • Đau khi nuốt

Biến chứng xạ trị:

  • Viêm niêm mạc trong miệng và ống tiêu hóa
  • Tổn thương da
  • Nhiễm trùng da do vi khuẩn (viêm mô tế bào)
  • Thay đổi vị giác
  • Miệng khô
  • Xơ hóa
  • Tổn thương thần kinh trong miệng
  • Chết xương ở hàm dưới
  • Tuyến giáp hoạt động kém (suy giáp)

Biến chứng hóa trị:

  • Nhiễm trùng
  • Viêm niêm mạc trong miệng
  • Vấn đề với tuyến nước bọt
  • Thay đổi vị giác
  • Đau
  • Mất nước (mất nước)
  • Suy dinh dưỡng
  • Phòng ngừa ung thư lưỡi

Chúng tôi biết rằng nhiều trường hợp ung thư gốc lưỡi là do HPV. Một số điều có thể giúp bạn giảm khả năng mắc loại ung thư này bao gồm:

  • Tiêm vắc-xin HPV, tùy thuộc vào độ tuổi của bạn. Hãy nói chuyện với bác sĩ về các lựa chọn của bạn.
  • Nếu bạn có hoạt động tình dục, hãy sử dụng bao cao su latex mỗi khi quan hệ tình dục.
  • Không sử dụng thuốc lá dưới bất kỳ hình thức nào.
  • Không nhai trầu.
  • Tránh uống rượu nặng hoặc thường xuyên.
  • Chăm sóc răng miệng và nướu một cách tốt nhất.

Kết luận

Đối mặt với một căn bệnh nghiêm trọng như ung thư lưỡi có thể gây lo lắng, nhưng có nhiều cách để đối phó. Hãy hỏi bác sĩ về ung thư của bạn và các phương pháp điều trị, đồng thời tìm kiếm các nguồn thông tin đáng tin cậy. Giữ liên lạc với bạn bè và gia đình, tham gia họ vào cuộc sống của bạn và chấp nhận sự giúp đỡ từ họ. Cuối cùng, hãy tìm một người để trò chuyện, như một cố vấn hoặc nhóm hỗ trợ, người có thể cung cấp hỗ trợ quý giá trong thời gian khó khăn này.

Bệnh U nội sọ

  1. Đại cương.

Tần suất:

Trước năm 1884, u não chỉ được phát hiện sau khi mổ tử thi. Bennet và Gotli (1884) lần đầu tiên đã chẩn đoán xác định và lấy bỏ thành công u não.

Giltchenco N. (1889) đã công bố một trường hợp u não thất IV và từ đó trở đi các công trình về u não ngày một nhiều.

ở thời kỳ đầu phát triển của chuyên ngành Phẫu thuật thần kinh, tỉ lệ chết sau mổ u não rất cao (chiếm 75 – 90%) và do vậy người ta quan niệm u não là bệnh của tử thần. Đầu thế kỷ XX, Oppenheim đã viết rằng, sự hồi phục sức khoẻ sau phẫu thuật u não “có thể đếm trên đầu ngón tay”. Còn Serpa tiến hành tổng kết các trường hợp mổ u não trong vòng 10 năm (từ 1913 – 1923) đã viết “hầu như không có bệnh nhân nào mà phẫu thuật đem lại khả năng lao động cho họ và làm cho họ trở thành những thành viên có ích cho xã hội”.

Ngày nay, nhờ các tiến bộ trong chẩn đoán, phẫu thuật và hồi sức sau mổ nên tỉ lệ tử vong sau mổ u não đã giảm rất nhiều và không còn là điều lo ngại cho người bệnh cũng như đối với các nhà Phẫu thuật thần kinh.

U não chiếm tỉ lệ khá cao từ 5 – 8% so với các u trong cơ thể. Theo Greenberg và cộng sự, tại Mỹ, u não tính chung cho mọi lứa tuổi là 4,2 – 5,4/100.000 người dân/năm.

Các yếu tố gây tăng áp lực nội sọ:

ở người bình thường, 90% khoang sọ là tổ chức não, 10% là dịch não tuỷ và máu trong lòng mạch.

Sự tăng thể tích các thành phần trong hộp sọ có thể dẫn tới tăng áp lực nội sọ (ALNS), các yếu tố đó bao gồm:

  • Dịch não tuỷ (DNT):

DNT được sinh ra từ đám rối màng mạch ở các não thất bên, qua lỗ Monro vào não thất III (NT3). Từ NT3, DNT qua cống Sylvius xuống hoà với DNT ở não thất IV (NT4). Từ NT4, DNT qua khe Luschka để ra khoang dưới nhện của não và qua lỗ Magendie xuống khoang dưới nhện của tuỷ.

DNT được hấp thu nhờ các hạt Pacchioni. Sự sản sinh và hấp thu DNT là hai quá trình luôn cân bằng nhau, nhờ vậy mà số lượng DNT tương đối hằng định (bình thường số lượng DNT là 130 – 170 ml, trong đó một nửa ở khoang dưới nhện của tuỷ) và ALNS ít thay đổi (bình thường ALNS của người lớn ở tư thế nằm ngang là 10 – 15 mmHg).

Nếu u não gây chèn tắc đường dẫn DNT (tắc lỗ Monro hoặc cống Sylvius), các não thất bên sẽ ứ dịch, giãn to và gây tăng ALNS.

  • Kích thước và vị trí của u:

Khối u phát triển, choán chỗ và bành chướng trong hộp sọ làm cho ALNS tăng cao. U càng lớn, ALNS càng tăng.

Vị trí u não giữ vai trò quan trọng. Ví dụ: một khối u nhỏ, kích thước chỉ khoảng 3 cm 2 cm 1 cm nhưng ở cạnh cống Sylvius và gây tắc cống Sylvius sẽ làm cho ALNS tăng cao hơn rất nhiều so với u ở vùng trán có kích thước lớn hơn nhiều, vì các u này nằm xa đường dẫn DNT.

  • Phù não: đặc điểm u não là phù quanh Các tế bào não quanh u chứa đầy nước làm cho thể tích khối choán chỗ tăng lên và do vậy ALNS tăng cao.

Phù quanh u chỉ được xác định trên phim chụp cắt lớp vi tính (CLVT) và hay gặp trong các trường hợp u phát triển từ tế bào thần kinh đệm. Kazner (1981) chia 3 mức độ phù quanh u trên ảnh CLVT :

+ Phù độ I : rìa phù quanh u rộng 2 cm.

+ Phù độ II : rìa phù rộng trên 2 cm có thể tới nửa bán cầu đại não.

+ Phù độ III : vùng phù rộng tới nửa bán cầu đại não thậm chí phù cả sang bán cầu đối bên.

Phân loại u não.

  • Tỉ lệ:

Về tính chất tổ chức học thì tỉ lệ các loại u não theo các tác giả có khác nhau. Xin giới thiệu 4000 trường hợp u não của Zulch (1979), tỉ lệ các loại u não như sau:

Tổ chức học của u não Tỉ lệ (%)
Medulloblastoma U nguyên bào tuỷ 3, 8
Spongioblastoma U nguyên bào xốp 7, 0
Oligodendroglioma U tế bào thần kinh đệm ít nhánh 8, 2
astrocytoma U tế bào hình sao. 6, 2
Glioblastoma U nguyên bào thần kinh đệm. 10, 3
Ependymoma U màng ống nội tuỷ. 3, 3
Plexus papilloma U đám rối màng mạch. 0, 5
Pinealoma U tuyến tùng. 0, 4
Neurinoma U thần kinh. 7, 3
Gangliocytoma U tế bào thần kinh hạch. 12, 3
Meningioma U màng não. 18, 0
Angioblastoma U nguyên bào mạch máu. 1, 3
Neurofibroma U xơ thần kinh. 0, 1
Sarcoma Ung thư nguyên phát. 2, 1
Chondroma U sụn. 0, 3
Lipoma U mỡ. 0, 1
osteoma Craniopharyngioma Pituitary adenoma Teratoma Metastatic tumours Tuberculoma U xương sọ.U sọ hầu.

U tuyến yên. U quái.

U di căn tới não. U củ lao

0, 52, 5

8, 0

2, 9

4, 0

0, 7

  • Phân loại u ở hệ thống thần kinh trung ương (TKTW):

Johannes Muller (1838), Bressler (1839) và Borst (1902) đã mô tả các loại u não nhưng mãi sau này Beiley (1932) và Cushing (1935) mới phân loại u hệ thần kinh trung ương và đưa ra 14 loại u khác nhau.

Dự thảo đầu tiên về phân loại một cách thống nhất các u hệ thống TKTW được báo cáo tại hội nghị Quốc tế các nhà hình thái học về thần kinh được tổ chức tại Oa-sinh-tơn (Mỹ) vào năm 1978 và Zulch (1979) đã cho xuất bản cuốn sách chuyên khảo về phân loại u ở hệ thống TKTW. Ngoài ra, người ta còn chia 4 mức độ để tiên lượng về mặt lâm sàng sau khi đã phẫu thuật lấy bỏ u. Sự phân chia này giúp các nhà phẫu thuật thần kinh tiên lượng được bệnh và lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp.

Độ I : sau khi lấy hết u, người bệnh sống 5 – 10 năm hoặc lâu hơn.

Độ II : sống sau phẫu thuật 3 – 8 năm.

Độ III : sống sau phẫu thuật 2 – 3 năm.

Độ IV : sống sau phẫu thuật 6 – 15 tháng.

Triệu chứng:

  • Triệu chứng não chung:
    • Đau đầu:
  • Đau đầu gặp 80 – 90% các trường hợp u não. Đau đầu có thể cục bộ hoặc toàn thể.

+ Đau đầu cục bộ là do u đè ép trực tiếp vào dây thần kinh sọ não (TKSN) như dây V, X, XII; hoặc do u đè vào các xoang tĩnh mạch, các mạch máu não, màng não cứng và xương sọ… gây nên phản xạ co thắt các huyết quản và màng não.

Đau đầu cục bộ đôi khi biểu hiện như cơn đau nửa đầu dễ nhầm với bệnh Migrain.

+ Đau đầu toàn thể là hậu quả của tăng ALNS do u quá lớn hoặc gây tắc đường dẫn DNT như u ở NT3, u ở NT4 gây đè ép cống Sylvius.

– Tính chất đau: người bệnh có cảm giác đau sâu ở trong đầu, cảm giác đầu muốn “vỡ làm đôi” hay “như đội mũ chật”, đôi khi cảm giác đau rất mơ hồ không rõ vị trí đau… Khi đau đầu dữ dội, người bệnh thường ôm đầu rên rỉ, kêu la, có khi đau quá đờ người ra.

Đau đầu trong u não có tính chất cơn, giữa các cơn người bệnh cảm giác dễ chịu hơn. Đôi khi một thời gian dài không đau đầu. Xu hướng chung là đau đầu ngày một tăng lên và thường xuyên hơn.

Các cơn đau đầu biểu hiện rõ rệt trong u hố sọ sau và u trong não thất. Đau thường xuất hiện vào lúc sáng sớm trong lúc người bệnh còn đang thiu thiu ngủ.

Đau đầu tăng thường kèm theo nôn, buồn nôn, chóng mặt và choạng vạng ý thức.

  • Đau đầu là triệu chứng của nhiều bệnh, chẩn đoán nguyên nhân nhiều khi khó khăn. Những trường hợp đau đầu dữ dội, đau từng cơn và đau tăng về buổi sáng sớm, đau tăng khi căng thẳng thần kinh hoặc đau sâu ở trong đầu… cần nghĩ tới u não.
    • Nôn: 65 – 68% các trường hợp u não có biểu hiện nôn. Nôn là biểu hiện của tăng ALNS hoặc kích thích trung tâm nôn. Nôn trong u não có đặc điểm là nôn vọt, nôn vào buổi sáng sớm, nôn không liên quan với bữa ăn, nôn vào lúc đói và nôn tăng khi thay đổi tư thế đầu đột ngột.

Thường nôn khi đau đầu tăng. U ở NT4, u ở hành não và tiểu não thì nôn không phải chỉ do tăng ALNS mà còn do kích thích vào trung khu nôn ở hành não. U ở hố sọ sau thường hay gây nôn hơn là u ở bán cầu đại não.

  • Chóng mặt: Gặp 50%. Chóng mặt có thể đồng thời với nôn hoặc buồn nôn. Chóng mặt hay gặp u ở hố sọ sau; chóng mặt thường kèm theo rối loạn thăng bằng, người bệnh có dáng đi như người say rượu, lảo đảo, hai chân dang rộng và có xu hướng ngã lệch về bên có u.
  • ứ phù đĩa thị:

Là triệu chứng khách quan, gặp 70 – 80% các trường hợp u não.

Tần xuất ứ phù đĩa thị phụ thuộc vào vị trí và kích thước khối u; phụ thuộc vào mức độ tăng ALNS và khám ở giai đoạn sớm hay muộn. Người ta cho rằng có 2 yếu tố gây ứ phù đĩa thị đó là yếu tố cơ học và yếu tố nhiễm độc.

  • Yếu tố cơ học: do ALNS tăng cao hoặc do u đè trực tiếp vào dây thần kinh thị giác, gây cản trở dòng máu từ võng mạc trở về dẫn tới ứ phù đĩa thị.
  • Yếu tố nhiễm độc: gặp trong các trường hợp u ác tính di căn từ nơi khác đến. Mặc dù u có kích thước nhỏ nhưng đã gây ứ phù đĩa thị mức độ nặng mà chưa có biểu hiện tăng ứ phù đĩa thị xuất hiện muộn khi u to gây tăng ALNS. Biểu hiện sớm nhất của ứ phù đĩa thị là giảm thị lực, người bệnh phàn nàn là nhìn mờ, có điểm mù không nhìn thấy… do vậy đã có một số trường hợp u não được đến khám và điều trị chuyên khoa mắt.

ứ phù đĩa thị có thể ở một bên mắt. Nếu u đè ép lâu có thể giãn tới teo dây thần kinh thị giác (gặp trong hội chứng Foster-Kennedy trong u não vùng trán).

ứ phù đĩa thị hay gặp u hố sọ sau (u dưới lều) hơn là u bán cầu đại não (u trên lều).

  • Co giật động kinh: Gặp 30 – 40% các trường hợp u não, được biểu hiện dưới các dạng như cơn động kinh toàn thể, cơn động kinh cục bộ và cơn thân não.
  • Cơn động kinh toàn thể: có liên quan chặt chẽ với vị trí của Người ta cho rằng 41 – 50% cơn động kinh gặp trong u vùng thái dương; 34% ở vùng trán và 29% u ở thuỳ đỉnh. U tiểu não ít khi có cơn động kinh.

Cơn động kinh đôi khi là triệu chứng đầu tiên và cũng là triệu chứng duy nhất của u não. Một số người bệnh hoàn toàn khoẻ mạnh, đột nhiên xuất hiện cơn động kinh toàn thể, đi khám bệnh và được chụp cắt lớp vi tính phát hiện khối u đã khá lớn ở trong não.

Tần số cơn động kinh ở các bệnh nhân cũng khác nhau, có khi một vài tuần hoặc hàng tháng mới xuất hiện một vài cơn động kinh. Cá biệt có bệnh nhân xuất hiện nhiều cơn động kinh trong một ngày và trở thành động kinh liên tục, nặng hơn chuyển thành trạng thái động kinh (status epilepsia).

  • Cơn động kinh cục bộ (cơn Jackson) hay gặp u ở rãnh trung tâm hoặc u ở thuỳ thái dương. Biểu hiện cơn cục bộ là co giật một nửa người; có khi co giật một tay hoặc chỉ co giật cơ mặt ở phía đối bên với u não.
  • Cơn thân não: Jackson mô tả đầu tiên cơn co giật thân não trong các u tiểu não và ông gọi là cơn tiểu não (cerebella fits). Sau này người ta cho rằng đó là cơn thân não, chúng thể hiện bằng những cơn co cứng mất não và kèm theo rối loạn nghiêm trọng chức phận sống (rối loạn hô hấp và tim mạch). U tiểu não gây nên cơn thân não là hậu quả u lớn đè ép vào thân não.

Ngoài các cơn co giật nói trên, người ta còn quan sát thấy trong u não một số tình trạng kịch phát khác như: cơn cảm giác Jackson (cơn tê dại không biết đau một nửa người); cơn ngủ rũ (narcolepsia); cơn động kinh nhỏ; tình trạng ảo giác, ảo thính, ảo khứu, ảo thị; các cơn thực vật như đau nội tạng, đau hạ vị, đau thắt ngực, đau vùng trước tim; cơn vã mồ hôi, bồn chồn, sợ sệt, mất ngủ…

  • Triệu chứng thần kinh khu trú (TKKT):

Những triệu chứng TKKT (còn gọi là triệu chứng ổ – focal neurologic symptoms) sau đây giúp ta xác định được u ở bán cầu não bên nào như rối loạn vận động (bại liệt 1/2 người), rối loạn cảm giác và phản xạ ở một nửa người; cơn co giật động kinh cục bộ; giãn đồng tử một bên; tổn thương dây thần kinh sọ não…

  • U não thuỳ trán: Biểu hiện chủ yếu là thay đổi tâm thần như trầm cảm (depression); lãnh đạm (apathy) đôi khi biểu hiện ngủ lịm (lethargy) hoặc rối loạn nhân cách. Một số bệnh nhân u não lúc đầu được đến khám và vào điều trị tâm thần.

Có thể gặp hội chứng Foster-Kennedy: biểu hiện teo dây thần kinh thị giác bên có u và ứ phù đĩa thị ở phía đối bên.

  • U thuỳ thái dương: Biểu hiện ảo thính, bệnh nhân (BN) cảm thấy có tiếng ồn hay tiếng ve kêu hoặc tiếng người khác nói ở trong đầu; ảo khứu và ảo thị là do u đè ép vào hồi móc.

Đôi khi những biểu hiện trên là triệu chứng báo trước cơn động kinh nhỏ.

Rối loạn ngôn ngữ như mất lời, mất nhớ ngôn ngữ (aphasia amnestique) khi u ở phần sau thuỳ thái dương; hoặc biểu hiện mất nhớ ngôn ngữ giác quan nếu u ở vùng Wernicke.

Có thể sụp mi, giãn đồng tử một bên và bại liệt 1/2 người đối bên do u chèn ép vào cuống não.

  • U thuỳ chẩm: Biểu hiện giảm thị lực và bán manh cùng bên. Nếu u lớn đè ép lên tiểu não sẽ xuất hiện triệu chứng của tiểu não như run; rối loạn dáng đi, quá tầm, quá hướng; rung giật nhãn cầu; đau đầu vùng chẩm lan về phía hốc mắt…
  • U trong não thất: U có thể xuất hiện ở não thất bên, NT3 và U ở NT3 và NT4 gây tắc đường dẫn DNT nên não thất bên ứ dịch, giãn to gây tăng ALNS, biểu hiện chung là đau đầu phát sinh từng cơn; buồn nôn và nôn; ứ phù đĩa thị.
  • U ở NT3: biểu hiện đau đầu đồng thời có thể quan sát thấy các triệu chứng dưới đồi như: ăn nhiều, uống nhiều; rối loạn sinh dục, rối loạn chuyển hoá nước, rối loạn chuyển hoá muối và đường; rối loạn giấc ngủ.
  • U ở NT4: biểu hiện đau đầu chóng mặt có hệ thống; nôn nhiều, nấc (syngultus); rối loạn hô hấp và tim mạch.
  • U ở não thất bên: gặp khoảng 1% so với các u não nói chung, u thường phát triển từ đám rối màng mạch hoặc từ màng ống nội tuỷ (ependymoma), cũng có thể là u màng não hoặc u tế bào hình ..

Triệu chứng: đau đầu từ từ, đau sâu trong não. Đôi khi đau cấp tính dữ dội do tăng ALNS đột ngột, hoặc do chảy máu trong u. Có thể nôn, buồn nôn; thay đổi tâm thần kinh; u to có thể chèn ép bó tháp gây liệt 1/2 người; co giật động kinh…

 Các phương pháp chẩn đoán cận lâm sàng:

  • Chụp sọ qui ước:

Có thể thấy một số biểu hiện sau:

  • Hình ảnh tăng ALNS: ở trẻ nhỏ giãn rộng các đường khớp sọ và dấu hiệu “ấn ngón tay” (impressiones digitatae ); hố yên giãn rộng hoặc mòn vẹt các mỏm yên trước và mỏm yên
  • Hình ảnh đóng vôi: hình đóng vôi lấm tấm hoặc thành những nốt đậm hay gặp trong u màng não, u sọ hầu và u tế bào thần kinh đệm ít nhánh.
  • Hình ảnh dày xương (hyperosteosis): u màng não nằm sát xương sọ có phản ứng dầy xương ở vòm sọ (nếu u cạnh đường giữa) hoặc dày xương cánh bướm (nếu u ở nền sọ trước).
  • Hình tiêu xương: u góc cầu tiểu não làm mỏng bản nền và mỏm yên sau; u dây VIII làm rộng lỗ ống tai trong và mòn bờ trên xương đá.
    • Chụp động mạch não:

Trước khi máy chụp cắt lớp vi tính (CLVT) ra đời, chụp động mạch não (ĐMN) là phương pháp chẩn đoán cận lâm sàng chủ yếu và có giá trị cao để xác định vị trí u não.

Chụp động mạch cảnh trong để xác định u ở bán cầu đại não và chụp động mạch đốt sống thân nền để xác định u hố sọ sau.

Căn cứ vào sự chèn đẩy của ĐMN có thể xác định được vị trí của u não.

  • Chụp cắt lớp vi tính:

Máy chụp CLVT do nhà vật lý người Anh Hounsfield phát minh vào năm 1972 và nhận giải thưởng Nobel 1979.

Chụp CLVT cho biết chắc chắn vị trí và kích thước u. Vì u có cấu trúc tổ chức học khác nhau nên mức độ hấp thu tia X của mỗi loại u cũng khác nhau, nhờ vậy mà trên ảnh CLVT người ta còn phân biệt được tính chất tổ chức học của u (u màng não hay u thần kinh đệm…), và điều này đã giúp các nhà phẫu thuật thần kinh lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp và giúp tiên lượng bệnh. Trong các trường hợp u không rõ, trên ảnh CLVT u có tỉ trọng thấp hơn so với mô não lành, để nhìn rõ u hơn người ta phải tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch, u sẽ bắt cản quang và nhờ vậy nhìn rõ ranh giới của u.

Kazner E. (1980) và cộng sự đã chụp CLVT cho 3750 trường hợp u não nhận thấy rằng việc chẩn đoán tổ chức học của u trên ảnh CLVT đúng 84% đối với u màng não; 83% u loại glioblastoma; 90% đối với u tuyến yên và 80% u di căn tới não.

Chụp cộng hưởng từ (magnetic resonance imeging-MRI): Trong chẩn đoán u não thì chụp CLVT và chụp cộng hưởng từ (CHT) cho giá trị tương tự nhau. Ưu điểm của chụp CHT là chụp được ở nhiều bình diện khác nhau, phát hiện được u còn rất nhỏ mà trên ảnh CLVT không xác định được. Ngoài ra, chụp CHT còn cho biết rõ mối liên quan của u với tổ chức xung quanh. Do vậy trong điều kiện mà ảnh CLVT không cho biết đầy đủ tính chất và mối liên quan của u, nên chụp CHT để xác định u rõ hơn.

Điều trị:

  • Phẫu thuật:

Mục đích của phẫu thuật là làm sao lấy hết tổ chức u mà ít gây tổn thương tổ chức não lành.

Kỹ thuật mổ u não hiện nay đã tiến bộ rất nhiều như kỹ thuật mổ vi phẫu; mổ định vị lập thể; mổ bằng tia laser… Tuy nhiên, những u ở sâu xâm lấn vào các

động mạch não, vào nền sọ, vào trung khu hô hấp và tim mạch ở hành tuỷ thì việc lấy bỏ hết u là không có khả năng. Do vậy, tuỳ theo vị trí u mà phẫu thuật có thểvđạt được những khả năng sau:

  • Lấy bỏ triệt để
  • Lấy bỏ một phần
  • Chỉ mở sọ giải áp hoặc dẫn lưu DNT từ não thất bên vào ổ bụng hoặc vào tâm nhĩ phải của tim nhằm kéo dài sự sống cho người bệnh.
    • Điều trị bằng tia xạ: Mục đích là dùng tia xạ để diệt nốt phần u (trong những trường hợp u ác tính) còn lại mà phẫu thuật không lấy bỏ được hết và ngăn chặn (nếu u phát triển chậm) không cho u phát triển tái phát như u tuyến yên, u sọ hầu, u thần kinh đệm ít nhánh…
  • Điều trị bằng hoá chất:

Hoá trị liệu dùng trong những trường hợp u ác tính phát triển nhanh như glioblastoma; astrocytoma độ III và độ IV… các hoá chất gồm: endoxan (cyclophosphamide); 5-FU (5-fluoro uracyle); mythramycine hoặc methotrexate (aethopterin)..

Xem thêm:

Tập thư giãn – Cách tuyệt vời làm giảm nguy cơ bệnh tim mạch

Thư giãn là gì?

Thư giãn là một phương pháp đưa cơ thể vào trạng thái nghỉ ngơi một cách chủ động nhằm mục đích phục hồi sức lực, trí lực… của cơ thể.

Vai trò của thư giãn với tim mạch như thế nào?

Thư giãn không chỉ có tác động tích cực đối với hệ thần kinh mà còn có ích đối với hệ tim mạch vốn bị chi phối nhanh chóng của hệ thống thần kinh nội tiết. Thư giãn tốt không chỉ làm thần kinh dịu đi mà còn làm nhịp tim chậm lại, tạo điều kiện cho lượng máu nuôi dưỡng cơ tim nhiều hơn.

Bạn hãy tưởng tượng như vừa trút bỏ được gánh nặng công việc
Bạn hãy tưởng tượng như vừa trút bỏ được gánh nặng công việc

Thư giãn như thế nào?

Có hai phương pháp thư giãn: Thư giãn cơ thể và thư giãn tâm thể.

Thư giãn cơ thể là thư giãn nhằm mục đích đưa toàn bộ cơ bắp, khớp xương, dây chằng… vào trạng thái thả lỏng, giãn cơ… bằng cách chủ động. Để làm việc này, bạn có thể nằm ngửa ở trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, hãy tâm niệm ” Cơ thể ta đang thư giãn hoàn toàn” thật chủ động làm cho tất cả cơ bắp, khớp xương… ở trạng thái thả lỏng. Bạn hãy tưởng tượng như cơ thể bạn đang được bay bổng lên cao, gạt đi hết mọi lo lắng… cơ bắp sẽ được nghỉ ngơi một cách hoàn toàn. Bạn hãy tưởng tượng như vừa trút bỏ được gánh nặng công việc, mọi lo toan phiền toái trong cuộc sống đời thường…

Nếu bạn đang làm việc ở cơ quan thì hãy áp dụng thư giãn cơ thể ở tư thế ngồi có dựa lưng. Bạn hãy ngồi ở tư thế thật sự thoải mái, tránh các động tác làm co cơ.

Thư giãn tâm thể (còn gọi là thiền) là thư giãn nhằm mục đích đưa toàn bộ trí óc vào trạng thái “vô thức”. Để tập động tác này, bạn có thể nằm hoặc ngồi xếp bằng theo tư thế hoa sen. Hãy chọn điều kiện hoàn toàn yên tĩnh, cố gắng loại bỏ mọi tạp niệm. Đây là biện pháp điều ý đưa cơ thể vào trạng thái vô thức kết hợp với động tác thở bụng sâu, thở ra từ từ. Giai đoạn đầu của việc tập thư giãn tâm thể có thể tập trung vào việc “điều tức” – tức là điều hoà hơi thở. Khi đã tập thuần thục, hơi thở sẽ được tự động điều chỉnh. Có thể tập trung suy nghĩ vào vùng đan điền (rốn), bằng cách điều khí, bạn còn có thể làm cho khí huyết lưu thông một cách có chủ ý: ví dụ, bạn hãy tập trung nghĩ rằng bàn tay ta đang nóng ấm dần lên, một thời gian sau bạn sẽ đạt được kết quả như vậy.

Cần kết hợp cả hai trạng thái thư giãn cơ thể với thư giãn tâm thể. Sau khi thư giãn, cơ thể ở trạng thái thoải mái, sức lực và trí lực được phục hồi một cách tích cực.

Âm nhạc có tác dụng tích cực với sức khoẻ con người
Âm nhạc có tác dụng tích cực với sức khoẻ con người

Ngoài các hình thức trên, người ta còn áp dụng nhiều cách thư giãn như thư giãn bằng âm nhạc. Nếu bạn mệt mỏi về trí óc và sức lực, bạn có thể nghe một bản nhạc êm dịu mà bạn thật sự ưa thích. Âm nhạc có tác dụng tích cực với sức khoẻ con người, đây là điều đã được khẳng định.

Một chuyến picnic sau một thời gian lao động căng thẳng thật sự là điều cần thiết cho bạn để lấy lại sinh lực và niềm vui cuộc sống. Thật là không khoa học khi bạn quanh năm suốt tháng vùi đầu vào công việc mà không dành riêng cho mình một thời gian nghỉ ngơi thích hợp. Nghỉ ngơi đúng cách, đó cũng là điều mà bạn cống hiến cho xã hội.

Ăn uống đủ chất mang lại sinh lực cho cuộc sống của bạn chứ không phải chỉ là cái thú ẩm thực cho riêng bạn. Chất dinh dưỡng, vitamin, khoáng chất… sẽ giúp bạn thư giãn chống lại stress.

Cổ nhân có câu: “Một đêm mất ngủ bằng mười ngày ngủ bù”. Giấc ngủ cũng thật sự quan trọng. Không mấy ai có thể được như tướng Napoleon, người mà chỉ cần ngủ 4 tiếng mỗi ngày mà vẫn làm việc bình thường. Đó chỉ là một trong những trường hợp cá biệt mà thôi. Chúng ta cần ngủ tối thiểu 7 – 8 giờ mỗi ngày. Buổi trưa cũng cần ít nhất 15-30 phút ngủ để lấy lại sự tỉnh táo cho thần kinh.

Chúc bạn tìm được cho mình phương pháp thư giãn thích hợp.

Đột quỵ – Triệu chứng và điều trị mới nhất

Khởi phát đột ngột các khiếm khuyết thần kinh do cơ chế mạch máu: 85% do thiếu máu; 15% do xuất huyết nguyên phát [dưới nhện (Chương 19) và trong nhu mô não]. Các khiếm khuyết do thiếu máu được hồi phục nhanh chóng gọi là cơn thiếu máu não thoáng qua (TIA); 24 h thường được xem như là ranh giới giữa TIA và đột quỵ dù có nhồi máu mới xảy ra hay không, mặc dù hầu hết TIAs kéo dài khoảng giữa 5 và 15 phút. DDịnh nghĩa mới được đưa ra gần đây phân loại tất cả các nhồi máu não như là đột quỵ không quan tâm đến thời gian xảy ra triệu chứng. Đột quỵ là nguyên nhân hàng đầu gây mất chức năng thần kinh ở người lớn; 200,000 trường hợp tử vong mỗi năm ở Mỹ. Có thể thực hiện nhiều biện pháp để hạn chế tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong thông qua phòng ngừa và can thiệp khẩn cấp.

SINH LÝ BỆNH

Hầu hết đột quỵ do thiếu máu do tắc nghẽn huyết khối các mạch máu não lớn; huyết khối có thể có nguồn gốc từ tim, cung động mạch chủ hoặc những sang thương động mạch khác như động mạch cảnh. Hầu như các sang thương thiếu máu nhỏ, sâu thường liên quan đến bệnh lý mạch máu nhỏ bên trong (đột quỵ do nhồi máu ổ khuyết). Đột quỵ lưu lượng thấp được nhận thấy với hẹp nặng đoạn gần và tuần hoaonf bổ sung không đủ do giai đoạn hạ áp lực hệ thống.. Hầu hết xuất huyết thường do vỡ phình mạch hoặc các mạch máu nhỏ trong mô não. Sự thay đổi trong Phục hồi sau đột quỵ chịu ảnh hưởng của các mạch máu phụ, huyết áp, vị trí đặc biệt và cơ chế tắc nghẽn mạch máu; nếu dòng máu được phục hồi trước khi các tế bào não chết đáng kể, bệnh nhân có thể chỉ có các triệu chứng nhất thời, vd: cơn thiếu máu nõa thoáng qua (TIA).

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

Đột quỵ do thiếu máu

Khởi phát bất ngờ, đột ngột các triệu chứng thần kinh khu trú là điển hình cho đột quỵ do thiếu máu cục bộ. Nhiều bệnh nhân có thể không đòi hỏi hỗ trợ vì hiếm khi đau và có thể mất khả năng phán đoán điều gì sai (mất nhận thức bệnh tật)

Các triệu chứng phản ánh phạm vi mạch máu liên quan (Bảng 18-1).

Mất thị lực một mắt tạm thời (mù thoáng qua) là một dạng đặc biệt của TIA do thiếu máu cục bộ võng mạc; bệnh nhân mô tả một bóng tối giảm dần trong thị trường .

BẢNG 18-1 ĐỊNH VỊ GIẢI PHẪU TRONG ĐỘT QUỴ

Dấu hiệu và triệu chứng
Bán cầu đại não, Mặt bên (ĐM não giữa)

Liệt nửa người
Khiếm khuyết cảm giác nửa người
Mất ngôn ngữ nói (Broca’s)—nói ngập ngừng do khó tìm từ để nói
và vẫn hiểu được lời nói
Mất ngôn ngữ cảm nhận (Wernicke’s)—mất khả nặng định danh, không hiếu được lời
nói, lời nói líu ríu khó hiểu.
Chứng thờ ơ nửa bên, mất dùng động tác
Bán manh đồng danh và hoặc mất thị lực góc phần tư
Mắt và đầu xoay về phía tổn thương

Bán cầu đại não, Mặt giữa (ĐM não trước)

Liệt bàn chân và cẳng chân kèm hoặc không kèm liệt nhẹ cánh tay
Mất cảm giác vỏ não ở chân
Phản xạ mút và co quắp các ngón
Tiểu không kiểm soát
Mất khả năng đi lại

Bán cầu đại não, Mặt sau (ĐM não sau)

Bán manh đồng danh
Mù vỏ não
Suy giảm trí nhớ
Mất cảm giác nặng, đau tự phát, rối loạn cảm giác, múa vờn
Thân não, Não giữa (ĐM não sau)
Liệt dây TK số III và liệt nửa người đối bên
Yếu/Liệt chuyển động mắt theo chiều dọc
Rung giật nhãn cầu vào trong , mất định hướng

Thân não, Chỗ nối cầu hành, (ĐM thân nền)

Liệt mặt
Mắt liệt nhìn ra ngoài
Liệt đồng vận hai mắt
Khiếm khuyết cảm giác nửa mặt

Thân não, chỗ nối cầu hành (ĐM thân nền)

Hội chứng Horner
Giảm cảm giác đau nhiệt nửa người (có hoặc không có vùng mặt)
Thất điều

Thân não, Hành tủy bên (ĐM đốt sống)

Chóng mặt, rung giật nhãn cầu
Hội chứng Horner (co đồng tử, sụp mi, giảm tiết mồ hôi)
Thất điều, ngã về bên tổn thương
Giảm cảm giác đau nhiệt nửa người (có hoặc không có vùng mặt) 

Hội chứng lỗ khuyết (Đột quỵ mạch máu nhỏ)

Thường gặp nhất là:
 Liệt nhẹ vận động đơn thuần nửa mặt, tay và chân (bao trong hoặc cầu não)
 Đột quỵ cảm giác đơn thuần (trước vùng dưới đồi)
 Thất điều liệt nhẹ nửa người (cầu não hoặc bao trong)
 Loạn vận ngôn-hội chứng bàn tay vụng về (cầu não hoặc gối bao trong).

Xuất huyết nội sọ

Nôn ói và ngủ gà thường xảy ra trong một số trường hợp, và đau đầu trong một nửa trường hợp. Các dấu hiệu và triệu chứng thường không xác định phạm vi một mạch máu. các nguyên nhân rất khác nhau nhưng liên quan đến tăng huyết áp thường gặp nhất (Bảng 18-2). Xuất huyết do tăng huyết áp điển hình xảy ra trên những vùng sau:
 Bèo sẫm: Liệt nửa người đối bên thường kèm với bán manh đồng danh.  Vùng dưới đồi: Liệt nửa người với khiếm khuyết cảm giác nổi bật.  Cầu não: liệt tứ chi, đồng tử như đầu kin, giảm chuyển động mắt theo chiều ngang.

Tiểu não: đau đầu, nôn ói, dáng đi thất điều.

Khiếm khuyết thần kinh tiến triển nặng dần qua 5-30 phút gợi ý chảy máu

ĐIỀU TRỊ Đột quỵ

Những nguyên tắc quản lý được trình bày trong Hình. 18-1. Đột quỵ cần phân biệt với các chẩn đoán tiềm ẩn, gồm co giật, đau đầu migraine, khối u và rối loạn chuyển hóa.
 Hình ảnh học. Sau khi ổn định ban đầu, CT scan không chất cản quang cấp cứu cần để phân biệt đột quỵ do nhồi máu với xuất huyết. Với đột quỵ do thiếu máu lớn, bất thường trên CT thường biểu hiện trong vòng vài giờ đầu, những nhồi máu nhỏ có thể khó nhìn thấy trên CT. Hình ảnh học mạch máu CT hoặc MR (CTA/ MRA) và
truyền dịch có thể giúp biểu lộ tắc nghẽn mạch máu và mô có nguy cơ nhồi máu.

BẢNG 18-2 NGUYÊN NHÂN XUẤT HUYẾT NỘI SỌ

NGUYÊN NHÂN XUẤT HUYẾT NỘI SỌ

MRI khuếch tán có độ nhạy cao xác định đột quỵ do thiếu máu trong vòng vài phút sau khởi phát.

ĐỘT QUỴ THIẾU MÁU NÃO CẤP TÍNH:

Mục đích điều trị để cải thiện hoặc giảm thiểu nhồi máu mô gồm: (1) hỗ trợ y khoa, (2) tiêu sợi huyết và kỹ thuật nội mạch, (3) thuốc chống kết tập tiểu cầu, (4) kháng đông và (5) bảo vệ thần kinh.
Quản lý y khoa về đột quỵ và TIAHÌNH 18-1 Quản lý y khoa về đột quỵ và TIA. Các hộp góc tròn là các chẩn đoán; góc vuông là các can thiệp. Các con số là tỷ lệ phần trăm trong các trường hợp đột quỵ. ABCs,cấp cứu đường thở, hô hấp, tuần hoàn; BP, huyết áp; CEA, Cắt bỏ nội mạc động mạch cảnh; ICH, xuất huyết trong não; SAH, xuất huyết khoang dưới nhện; TIA, cơn thiếu máu não thoáng qua
HỖ TRỢ Y KHOA Tối ưu hóa tưới máu vùng nửa tối do thiếu máu xung quanh ổ nhồi máu.

 Không được hạ huyết áp nhanh đột ngột (làm nặng hơn tình trạng thiếu máu sẵn có) và chỉ trong những trường hợp cực kỳ cần mới tiến hành hạ huyết áp từ từ (vd: tăng huyết áp ác tính với huyết áp > 220/120 hoặc nếu đã thực hiện tiêu sợi huyết mà huyết áp vẫn > 185/110 mmHg).

Nên duy trì thể tích nội mạch với dung dịch đẳng trương vì hạn chế dịch hiếm khi giúp ích. Liệu pháp thẩm thấu với mannitol có thể cần để kiểm soát phù trong nhồi máu lớn, những dung dịch đẳng trương phải được thay thế để tránh giảm thể tích.

Trong nhồi máu (hay xuất huyết) tiểu não, tình trạng bệnh nhân xấu đi nhanh chóng có thể do chèn ép thân não và não úng thủy, đòi hỏi can thiệp ngoại thần kinh.

TIÊU SỢI HUYẾT VÀ KỸ THUẬT CAN THIỆP NỘI MẠCH

Khiếm khuyết thiếu máu kéo dài <3 giờ, và không có xuất huyết theo tiêu chuẩn trên CT, liệu pháp tiêu sợi huyết có thể hữu ích với yếu tố hoạt hóa plasminogen mô tái tổ hợp (rtPA) tiêm mạch (Bảng 18-3).

Dựa trên các tài liệu gần đây, rtPA tiêm mạch được dùng tại một sô trung tâm y khoa khi khiếm khuyết kéo dài 3–4.5 giờ, nhưng chưa được chấp nhận tại Mỹ và Canada.

BẢNG 18-3 DÙNG YẾU TÔ HOẠT HÓA PLASMINOGEN MÔ TÁI TỔ HỢP TIÊM TĨNH MẠCH (rtPA) CHO ĐỘT QUỴ THIẾU MÁU CẤP (AIS)a

Chỉ định Chống chỉ định
Chẩn đoán lâm sàng đột quỵ
Khởi phát các triệu chứng trong ≤3 giờ cho thuốc
CT scan không thấy xuất huyết hoặc phù não >1/3 vùng ĐM não giữa chi phối
Tuổi ≥18
Cam kết đồng thuận bởi bệnh nhân hoặc người giám hộ
Huyết áp duy trì >185/110 mmHg dù trị liệu
Tiểu cầu <100,000; HCT <25%; glucose <50 hoặc >400 mg/dL
Dùng heparin trong vòng 48 giờ và PTT kéo dài, hoặc tăng INR
Các triệu chứng cải thiện nhanh chóng
Đột quỵ hoặc tổn thương đầu trong vòng 3 tháng; xuất huyết nội sọ trước đó
Phẫu thuật lớn trong 14 ngày trước đó
Các triệu chứng đột quỵ nhỏ
Xuất huyết tiêu hóa trong 24 ngày trước đó
Nhồi máu cơ tim gần đây
Hôn mê hoặc lơ mơ

Dùng rtPA

Đặt hai đường truyền tĩnh mạch ngoại biên (tránh đặt đường truyền trung tâm hoặc động mạch) Xem xét sử dụng hợp lý rtPA
Truyền 0.9 mg/kg đường tĩnh mạch (tối đa 90 mg) như tiêm truyền nhanh tổng liều 10% , theo sau bởi tổng liều còn lại trong 1 giờ.
Theo dõi huyết áp thường xuyên.
Không điều trị thuốc chống huyết khối khác trong 24 giờ.
Đối với giảm trạng thái thần kinh hoặc huyết áp không kiểm soát, ngừng truyền, sử dụng Huyết tương kết tủa lạnh, và chụp lại não khẩn cấp
Tránh đặt thông niệu đạo ≥ 2 giờ

aĐọc quảng cáo cài trên gõi thuốc Activase (yếu tố hoạt hóa plasminogen mô) vầ danh sách đầy đủ các chống chỉ định và liều lượng.
Từ viết tắt: BP: huyết áp; HCT:dungtíchhồng cầu; INR, chỉ số bình thường hóa quốc tế.; MCA: Động mạch não giữa; PTT, thời gian Thromboplastin từng phần

Đột quỵ thiếu máu do tác nghẽn các mạch máu lớn trong sọ dẫn đến tăng cao tỷ lệ mắc bệnh và tử vong; thuốc tiêu sợi huyết nội động mạch có thể giúp ích với các bệnh nhân có tắc nghẽn này (thời gian <6 giờ) hoặc cắt hút huyết khối tắc nghẽn (thời gian <8 giờ) sử dụng trong thời gian chụp hình mạch máu não khẩn cấp tại các trung tâm chuyên khoa.

THUỐC CHỐNG KẾT TẬP TIỂU CẦU

• Aspirin (đến 325 mg/ngày) là an toàn và tuy nhỏ những xác định lợi ích trong đột quỵ do thiếu máu cấp tính.
KHÁNG ĐÔNG
• các thử nghiệm không ủng hộ việc sử dụng heparin hoặc các thuốc kháng đông khác cấp tính trên bệnh nhân đột quỵ cấp.

BẢO VỆ THẦN KINH

• Hạ thân nhiệt hiệu quả trên bệnh nhân hôn mê theo sau ngưng tim nhưng không có nghiên cứu đầy đủ trên bệnh nhân đột quỵ. các thuốc bảo vệ thần kinh khác không cho thấy lợi ích trong các thử nghiệm trên người mặc dù các dự liệu trên động vật nhiều triển vọng.

CÁC TRUNG TÂM ĐỘT QUỴ VÀ PHỤC HỒI

• Bệnh nhân được chăm sóc tại các đơn vị đột quỵ toàn diện, sau đó được phục hồi chức năng cải thiện kết cục về thần kinh và giảm tỷ lệ tử vong.

XUẤT HUYẾT NÃO CẤP TÍNH

• CT đầu không cản quang để xác định chẩn đoán.
• Xác định và điều trị nhanh chóng các bệnh lý đông máu.
• Gần 50% bệnh nhân chết, tiên lượng dựa vào thể tích và vị trí khối máu tụ.
• Những bệnh nhân lơ mơ hoặc hôn mê thường được điều trị tăng ICP. Điều trị phù và ảnh hưởng của khối máu tụ với các tác nhân thẩm thấu có thể cần thiết; glucocorticoids không giúp ích.
• Nên hội chẩn với ngoại thần kinh để đánh giá khẩn cấp máu tụ tiểu não; ở các vị trí khác, không có dự liệu cung cấp về can thiệp ngoại khoa.

ĐÁNH GIÁ: XÁC ĐỊNH NGUYÊN NHÂN ĐỘT QUỴ

Mặc dù quản lý ban đầu trên bệnh nhân đột quỵ do nhồi máu cơ tim cáp và TIA không dựa vào nguyên nhân, việc tìm nguyên nhân cần thiết để giảm nguy cơ tái phát (Bảng 18-4); nên chú ý đặc biệt rung nhĩ và xơ vữa động mạch cảnh như là những nguyên nhân đã được chứng minh là chiến lược phòng ngừa thứ phát. Gần 30% bệnh nhân đột quỵ vẫn chưa được xác định mặc dù mở rộng đánh giá.

Khám lâm sàng nên tập trung vào hệ thống mạch máu ngoại biên và mạch máu vùng cổ. Xét nghiệm thường quy gồm X quang ngực và ECG, tổng phân tích nước tiểu, Công thức máu đầy đủ/tiểu cầu, điện giải đồ, glucose, tốc độ lắng máu, xét nghiệm lipid máu, PT, PTT, và xét nghiệm huyết thanh giang mai. Nếu nghi ngờ tình trạng tăng đông, cần chỉ định các xét nghiệm đông máu sâu hơn.

Đánh giá hình ảnh học bao gồm MRI não (so sánh với CT, tăng độ nhạy cảm với nhồi máu nhỏ ở vỏ não và thân não;

BẢNG 18-4 NGUYÊN NHÂN ĐỘT QUỴ DO THIẾU MÁU

Nguyên nhân thường gặp Nguyên nhân ít gặp
Huyết khối

Đột quỵ ổ khuyết (mạch máu
nhỏ)
Huyết khối mạch máu lớn
Mất nước

Tắc nghẽn do huyết khối

Động mạch đến động mạch
Chỗ chia đôi ĐM cảnh
Cung ĐM chủ
Mổ xẻ ĐM
Huyết khối do tim
Rung nhĩ

Huyết khối thành tim

Nhồi máu cơ tim
Bệnh cơ tim dãn nở

Tổn thương van

Hẹp hai lá
Van cơ học
Viêm nội tâm mạch nhiễm trùng

Thuyên tắc nghịch thường

Thông liên nhĩ
Còn lỗ bầu lục

Phình vách liên nhĩ

Phản âm tự động

Rối loạn tăng đông

Thiếu protein C
Thiếu protein S
Thiếu Antithrombin III
Hội chứng kháng phospholipid
Đột biến yếu tố V Leiden
a
Đột biến Prothrombin G20210a
Bệnh ác tính hệ thống
Thiếu máu hồng cầu hình liềm
β-Thalassemia
Đa hồng cầu nguyên phát
Hồng ban lupus hệ thống
Tăng Homocysteine máu
Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối
Đông máu nội mạch lan tỏa
Rối loạn protein máu
Hồi chứng cầu thận
Bệnh đại tràng kích thích
THước tránh thai

Huyết khối xoang tính mạchb

Loạn sản xơ hóa cơ

Viêm mạch máu

Viêm mạch máu hệ thống [PAN, bệnh viêm
u hạt đa mạch (Wegener’s), Takayasu’s,
viêm động mạch tế bào khổng lồ]
Viêm mạch máu CNS nguyên phát
Viêm màng não (giang mai, lao, nấm, vi
khuẩn, zoster)

Do tim

Vôi hóa van hai lá
U nhầy nhĩ
U trong tim
Viêm nội tâm mạc Marantic
Viêm nội tâm lạc Libman-Sacks

Co mạch xuất huyết dưới nhện

Thuốc: cocaine, amphetamine

Bệnh Moyamoya

Sản giật

aChủ yếu gây huyết khối xoang tĩnh mạch.

bCó thể liên quan đến bệnh lý tăng đông.
Từ viết tắt: CNS, hệ thần kinh trung ương; PAN, viêm đa động mạch nút

MR hoặc CT mạch máu (đánh giá mức độ thông thoáng cacsmachj máut rong sọ, động mạch cảnh ngoài sọ và các động mạch đốt sống; xét nghiệm động mạch cảnh không xâm lấn (siêu âm “duplex”, kết hợp siêu âm mạch máu với đánh giá Doppler đặc tính dòng máu chảy); hoặc hình ảnh học mạch máu não (“tiêu chuẩn vàng” để đánh giá các bệnh lý mạch máu trong và ngoài sọ). Với nghi ngờ nguyên nhân do tim, chỉ định siêu âm tim chú ý có shunt phải -trái, và theo dõi chắc năng tim Holter 24 giờ hoặc thời gian dài.

PHÒNG NGỪA ĐỘT QUỴ NGUYÊN PHÁT VÀ THỨ PHÁT

Các yếu tố nguy cơ

Xơ vữa động mạch là một bệnh lý hệ thống ảnh hưởng đến động mạch trong toàn bộ cơ thể. Nhiều yếu tố gồm tăng huyết áp, đái tháo đường, tăng lipid máu, và tiền căn gia đình ảnh hưởng đến nguy cơ đột quỵ và TIA (Bảng 18-5). Yếu tố nguy cơ huyết khối tại tim là rung nhĩ, nhồi máu cơ tim, bệnh van tim, và bệnh cơ tim. Tăng huyết áp và đái tháo đường cũng là yếu tố nguy cơ đặc biệt đối với đột quỵ lỗ khuyết và xuất huyết trong nhu mô não. Hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ tiềm ẩn đối với tất cả cơ chế mạch máu của đột quỵ. Xác định các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi và can thiệp phòng ngừa để giảm nguy cơ có lẽ là cách tiếp cận tốt nhất đối với đột quỵ nói chung.

BẢNG 18-5 CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỘT QUỴ

CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỘT QUỴ
aNSố lượng cần được điều trị phòng ngừa 1 lần đột quỵ mỗi năm. Phòng ngừa kết cục tim mạch khác khoong được nói đến ở đây .
Từ viết tắt: N/A, không thể áp dụng

BẢNG 18-6 KHUYẾN CÁO ĐỒNG THUẬN VỀ PHÒNG NGỪA CHỐNG HUYẾT KHỐI TRONG RUNG NHĨ
Đột quỵ bảng aĐiểm CHADS2 được tính như sau: 1 điểm cho tuổi > 75, 1 điểm cho tăng huyết áp, 1 điểm cho suy tim sung huyết, 1 điểm cho đái tháo đường, và 2 điểm cho đột quỵ hoặc TIA; Tổng cộng là điểm CHADS2.
Nguồn: Được thay đổi từ DE Singer và cộng sự: Ngực 133:546S, 2008; với sự chấp nhận.

Các thuốc kháng tiểu cầu

Các thuốc chống kết tập tiểu cầu coa thể phòng ngừa huyết khối xơ vữa, gồm TIA và đột quỵ, bằng cách ức chế hình thành sự kết tập tiểu cầu trong lòng động mạch. Aspirin (50–325 mg/ngày) ức chế thromboxane A2, một prostaglandin gây co mạch và kết tập tiểu cầu. Aspirin, clopidogrel (khóa thụ thể ADP của platelet), và kết hợp aspirin với dipyridamole giải phóng kéo dài (ức chế tiểu cầu lấy adenosine) là thuốc chống tiểu cầu thường được sử dụng nhất. Nói chung, thuốc chống tiểu cầu giảm nguy cơ đột quỵ mới 25–30%. Mỗi bệnh nhân từng bị đột quỵ do huyết khối xơ vữa hoặc TIA và không có chống chỉ định nên dùng thuốc chống tiểu cầu thường xuyên vì nguy cơ đột quỵ khác trung bình mỗi năm 8–10%. Lựa chọn aspirin, clopidogrel, hay dipyridamole them aspirin phải cân bằng với sự thật là các thuốc sau hiệu quả hơn aspirin nhưng giá thành thì cao hơn.

Đột quỵ do thuyên tắc

Trên bệnh nhân rung nhĩ, chọn lựa giữa phòng ngùa bằng kháng đông hay aspirin được xacs định dựa theo tuổi và các yếu tố nguy cơ; các yếu tố nguy cơ đưa ra cân bằng với lợi ích của thuốc kháng đông (Bảng 18-6).

Liệu pháp kháng đông đối với Đột quỵ không do tim

Dữ liệu không ủng hộ sử dụng warfarin kéo dài để phòng ngừa đột quỵ huyết khối xơ vữa đối với bệnh lý mạch máu não trong và ngoài sọ.

Tái thông động mạch cảnh

Thủ thuật cắt bỏ nội mạc động mạch cảnh giúp ích nhiều bệnh nhân hệp động mạch cảnh có triệu chứng nặng (>70%); giảm nguy cơ tương đối ~65%. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ đột quỵ tiền phẫu >6% đối với phẫu thuật, không còn lợi ích nữa. Đặt stent nội mạch là chỉ định khẩn cấp; phương pháp này còn tranh luận như với bệnh nhân nên đặt stent hay there remains controversy as to who should receive a stent or undergo cắt bỏ nội mạc động mạch. Kết quả phẫu thuật trên bệnh nhân hẹp động mạch cảnh không triệu chứng ít cải thiệt, và liệu pháp y khoa giảm các yếu tố nguy cơ xơ vữa và thuốc chống tiểu cầu nhìn chung được khuyến cáo trên nhóm bệnh nhân này.

Bệnh Fabry là gì? Nguyên nhân, triệu chứng, điều trị

Bệnh Fabry di truyền trong gia đình và có thể có nhiều triệu chứng khác nhau, bao gồm đau ở tay và chân cùng với một loại phát ban đặc trưng.

Khi bạn mắc bệnh Fabry, một loại chất béo nhất định tích tụ trong tế bào của cơ thể bạn. Nó làm hẹp các mạch máu của bạn, có thể gây tổn thương cho da, thận, tim, não và hệ thần kinh.

Bác sĩ có thể gọi bệnh Fabry là “rối loạn lưu trữ”. Nó thường bắt đầu từ thời thơ ấu và phổ biến hơn ở nam giới so với nữ giới. Bệnh Fabry có thể gặp ở tất cả các nhóm sắc tộc, chủng tộc và nhân khẩu học.

Có những phương pháp điều trị có thể tạo ra sự khác biệt trong cảm giác hàng ngày của bạn. Nhận được sự hỗ trợ từ gia đình và bạn bè cũng là rất quan trọng.

Nguyên nhân

Bạn bị bệnh Fabry từ cha mẹ của bạn. Nó được truyền qua gen.

Vấn đề là cơ thể bạn không thể tạo ra một enzyme gọi là alpha-galactosidase A, cần thiết để phân giải các chất béo như dầu, sáp và axit béo. Khi bạn mắc bệnh Fabry, bạn hoặc sinh ra mà không có enzyme đó hoặc enzyme không hoạt động đúng cách.

Triệu chứng

Bạn có thể nhận thấy các triệu chứng như:

  • Đau và cảm giác nóng rát ở tay và chân, triệu chứng trở nên tồi tệ hơn khi tập thể dục, sốt, thời tiết nóng hoặc khi bạn mệt mỏi
  • Các đốm nhỏ, đỏ đậm thường xuất hiện giữa rốn và đầu gối
  • Tầm nhìn mờ
  • Mất thính lực
  • Nghe thấy tiếng ồn trong tai
  • Đổ mồ hôi ít hơn bình thường
  • Đau bụng, đi tiêu ngay sau khi ăn

Bệnh Fabry có thể dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng hơn, đặc biệt ở nam giới. Tuy nhiên, nữ giới mang gen Fabry hoặc là người mang gen cũng có thể có các triệu chứng của Fabry xuất hiện khác nhau. Phụ nữ mắc bệnh có nguy cơ nghiêm trọng về các biến chứng từ bệnh Fabry, cũng như tổn thương cơ quan, và nên được khám sức khỏe thường xuyên bởi bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

Các vấn đề có thể bao gồm:

  • Nguy cơ cao hơn về cơn đau tim hoặc đột quỵ
  • Vấn đề thận nghiêm trọng, bao gồm suy thận
  • Huyết áp cao
  • Suy tim
  • Tim phình to
  • Loãng xương

Chẩn đoán

Có thể mất một thời gian dài để được chẩn đoán bệnh Fabry. Điều này là vì triệu chứng của Fabry thường phổ biến với nhiều bệnh khác và có thể ảnh hưởng đến nhiều bộ phận khác nhau của cơ thể.

Nhiều người mắc bệnh Fabry không được chẩn đoán cho đến nhiều năm sau khi họ có triệu chứng đầu tiên. Họ thường đã gặp nhiều bác sĩ khác nhau về nhiều triệu chứng khác nhau và đôi khi được chẩn đoán sai.

Nếu lịch sử gia đình của bạn cho thấy bạn có thể có nguy cơ mắc bệnh Fabry, bạn nên hỏi bác sĩ về việc xét nghiệm gen.

Khi bạn gặp bác sĩ, họ sẽ thực hiện một cuộc kiểm tra thể chất và hỏi bạn những câu hỏi như:

  • Bạn cảm thấy như thế nào?
  • Điều gì đang khiến bạn lo lắng?
  • Bạn đã nhận thấy triệu chứng nào?
  • Khi nào những triệu chứng đó bắt đầu?
  • Những bệnh lý nào có trong gia đình bạn?
  • Bạn đã gặp bác sĩ khác về vấn đề này chưa? Họ đã nói gì với bạn?

Nếu bác sĩ nghĩ rằng có thể là bệnh Fabry, họ sẽ yêu cầu bạn thực hiện xét nghiệm máu để đo mức độ alpha-galactosidase A hoặc xét nghiệm DNA.

Câu hỏi cho bác sĩ của bạn

Khi bác sĩ nói rằng bạn mắc bệnh Fabry, đó có thể là lần đầu tiên bạn nghe về nó. Bạn có thể có rất nhiều câu hỏi, đặc biệt nếu bạn đã cố gắng tìm hiểu nguyên nhân gây ra triệu chứng của mình trong một thời gian dài.

Bạn có thể bắt đầu bằng cách hỏi bác sĩ những câu hỏi như:

  • Làm thế nào bạn chẩn đoán bệnh Fabry?
  • Nó đã ảnh hưởng đến cơ thể tôi như thế nào?
  • Bạn đã điều trị cho bao nhiêu người mắc bệnh Fabry?
  • Có những bác sĩ khác nào mà bạn muốn tôi gặp không?
  • Bạn khuyên tôi điều trị gì?
  • Làm thế nào để chúng ta biết được liệu điều trị có hiệu quả không?
  • Những tác dụng phụ nào có thể xảy ra?
  • Có những người khác trong gia đình tôi cần xét nghiệm gen để xem họ có mắc bệnh không?
  • Trẻ em của tôi có khả năng mắc bệnh Fabry không?

Điều trị

Có hai phương pháp điều trị bằng thuốc. Phương pháp phổ biến nhất là liệu pháp thay thế enzyme (ERT). Những enzyme này được truyền qua đường tĩnh mạch và thay thế enzyme mà bạn thiếu hoặc không hoạt động đúng cách. Điều này cho phép cơ thể bạn phân giải các chất béo như nó cần. Nó cũng sẽ giúp giảm đau và các triệu chứng khác mà bệnh Fabry gây ra. Bạn sẽ có thể đến một trung tâm ngoại trú vài tuần một lần để tiêm enzyme vào tĩnh mạch.

Một lựa chọn mới hơn là thuốc uống migalastat (Galafold). Nó khác với ERT ở chỗ nó làm ổn định các enzyme không hoạt động. Điều này cũng giúp giảm thiểu tác động của bệnh lên các cơ quan của bạn.

Bởi vì bệnh này ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể và có thể gây tổn thương cho nhiều cơ quan, bác sĩ của bạn có thể cũng sẽ khuyên bạn dùng:

  • Thuốc giảm đau (thuốc theo toa hoặc không theo toa), thường là do tổn thương dây thần kinh
  • Thuốc cho các vấn đề dạ dày, chẳng hạn như chậm tiêu
  • Thuốc chống đông máu hoặc các loại thuốc khác cho nhịp tim không đều hoặc các vấn đề về tim khác
  • Thuốc huyết áp, cũng giúp bảo vệ thận của bạn

Bạn có thể cần chạy thận hoặc cấy ghép thận nếu bệnh Fabry đã gây ra tổn thương nghiêm trọng cho thận.

Bạn cũng có thể mong đợi sẽ được kiểm tra định kỳ để theo dõi tình trạng sức khỏe của mình. Những kiểm tra này có thể bao gồm:

  • Xét nghiệm máu, nước tiểu và hormone tuyến giáp
  • EKG (điện tâm đồ). Một y tá hoặc nhân viên y tế khác sẽ gắn các miếng dán mềm, dính lên các phần khác nhau của cơ thể bạn. Những miếng dán này đo tín hiệu điện từ tim của bạn và có thể cho biết nhịp tim của bạn và liệu nó có nhịp điệu khỏe mạnh hay không.
  • Siêu âm tim. Đây là một siêu âm của tim bạn. Nó có thể cho thấy tất cả các bộ phận của tim bạn có khỏe mạnh không và liệu nó có đang bơm tốt không.
  • MRI não. MRI, hay hình ảnh cộng hưởng từ, tạo ra hình ảnh của các cơ quan và cấu trúc bên trong cơ thể bạn.
  • CT đầu. CT, hay chụp cắt lớp vi tính, là một loại X-quang mạnh mẽ tạo ra hình ảnh chi tiết bên trong cơ thể bạn.
  • Kiểm tra thính lực và mắt
  • Kiểm tra chức năng phổi để xem bạn hít vào và thở ra bao nhiêu không khí, và bao nhiêu oxy đến được máu của bạn.

Chăm sóc bản thân

Hãy chăm sóc bản thân tốt. Làm những điều mà bạn thích, dành thời gian với những người bạn cảm thấy thoải mái, và tiết kiệm năng lượng cho những điều thực sự quan trọng với bạn. Một phần trong đó có thể liên quan đến việc nói “không” thường xuyên hơn và cho mọi người biết điều gì sẽ giúp bạn.

Gia đình và bạn bè của bạn có thể không biết nhiều về bệnh Fabry. Hãy giúp họ hiểu những gì đang diễn ra với bạn. Đôi khi, khi mọi người mắc các tình trạng sức khỏe nghiêm trọng, họ cảm thấy trầm cảm hoặc lo âu vì tình trạng này quá khó khăn để đối phó. Bác sĩ của bạn nên kiểm tra cảm xúc của bạn, nhưng bạn có thể muốn đề cập đến điều đó và yêu cầu được giới thiệu đến một nhà tư vấn. Nói chuyện với ai đó có thể giúp ích.

Những điều cần mong đợi

Mặc dù không có thuốc chữa cho bệnh Fabry, nhưng việc điều trị có thể giúp kiểm soát các triệu chứng của bạn.

Mặc dù bạn có thể không cảm thấy ốm hoặc dường như không gặp vấn đề gì, nhưng điều quan trọng là bạn phải theo dõi các phương pháp điều trị và xét nghiệm như bác sĩ gợi ý.

Các Bài Tập Vận Động cho Viêm Khớp Dạng Thấp (RA)

Tại Sao Nên Thực Hiện Các Bài Tập Tăng Cường Biên Độ Vận Động cho RA?

Cứng khớp là một đặc điểm nổi bật của viêm khớp dạng thấp. Khi bạn thường xuyên cho khớp của mình di chuyển qua biên độ vận động tự nhiên đầy đủ, bạn sẽ giảm thiểu tình trạng cứng khớp và giữ được sự linh hoạt. Bạn có thể thực hiện những bài tập này mỗi ngày, ngay cả khi khớp của bạn bị đau – miễn là bạn thực hiện nhẹ nhàng.

Cổ

Xoay đầu của bạn từ từ sang bên phải, sau đó sang bên trái. Giữ trong 10 giây. Lặp lại 3-5 lần. Tiếp theo, nghiêng đầu về bên phải, hướng tai về phía vai càng xa càng tốt. Giữ trong 10 giây. Sau đó, nghiêng đầu sang bên trái. Lặp lại 3-5 lần.

Vai

Nằm ngửa trên mặt phẳng với cánh tay đặt bên hông. Nắm lấy cẳng tay bên phải bằng tay trái. Từ từ nâng cánh tay bên phải lên trên cao nhất có thể. Sử dụng tay trái để đẩy nhẹ hơn một chút. Giữ trong 10 giây. Lặp lại với cả hai cánh tay từ 3 đến 5 lần.

Ngón Tay

Mở rộng bàn tay của bạn với các ngón tay và ngón cái dang rộng. Tạo hình “O” bằng cách chạm đầu ngón tay trỏ vào đầu ngón cái. Sau đó, đưa các ngón tay trở về vị trí dang rộng. Lặp lại với từng ngón tay. Lặp lại với cả hai tay 10 lần.

Cổ Tay

Để cánh tay của bạn thả lỏng ở bên hông. Gập cánh tay trái ở khuỷu tay để tạo thành một góc vuông với lòng bàn tay hướng vào trong. Nhẹ nhàng nắm chặt thành nắm tay. Gập cổ tay để di chuyển bàn tay vào trong càng xa càng tốt. Giữ trong 10 giây. Thư giãn và mở các ngón tay, sau đó duỗi cổ tay và bàn tay ra xa khỏi thân mình càng xa càng tốt. Giữ trong 10 giây. Thư giãn và lặp lại 3-5 lần.

Gập Khuỷu Tay

Khi cánh tay trái của bạn thả lỏng bên hông, sử dụng tay phải nắm lấy cẳng tay trái. Gập khuỷu tay trái đến mức tối đa. Nhẹ nhàng đẩy nó thêm một chút với tay phải. Giữ trong 10 giây. Lặp lại 3 đến 5 lần ở mỗi bên.

Duỗi Khuỷu Tay

Nằm ngửa trên mặt phẳng. Đặt một chiếc khăn cuộn dưới khuỷu tay phải để nâng cẳng tay lên một chút khỏi sàn. Gập khuỷu tay sao cho bàn tay chạm vào vai. Từ từ thư giãn cánh tay, mở khuỷu tay ra xa nhất có thể. Giữ trong 10 giây. Lặp lại ở cả hai bên từ 3 đến 5 lần.

Hông

Nằm ngửa với chân duỗi thẳng và cách nhau khoảng 15 cm. Chỉ ngón chân của bạn hướng lên trần nhà. Trượt một chân sang bên càng xa càng tốt nhưng vẫn cảm thấy thoải mái. Giữ trong 10 giây, sau đó trượt trở lại vị trí ban đầu trong khi ngón chân vẫn hướng lên. Lặp lại 10 lần với mỗi chân.

Gối

Ngồi trên ghế đủ cao để bạn có thể đung đưa chân. Giữ đùi trên ghế và duỗi một chân ra phía trước bạn. Giữ trong 10 giây. Sau đó, gập đầu gối và đưa bàn chân càng xa về phía dưới ghế càng tốt. Giữ trong 10 giây. Lặp lại từ 3 đến 5 lần với mỗi chân.

Cổ Chân

Nằm trên một bề mặt hỗ trợ toàn bộ cơ thể nhưng cho phép chân bạn treo xuống ngay dưới đầu gối. Nằm trên giường có thể là một lựa chọn tốt. Để ngón chân của một chân chỉ xuống dưới, và từ từ xoay bàn chân theo hình tròn theo chiều kim đồng hồ, sau đó ngược chiều kim đồng hồ. Lặp lại 10 lần ở mỗi bên.

Tiếp theo, hãy tưởng tượng bạn có một chiếc bút chì giữa các ngón chân. Viết toàn bộ bảng chữ cái bằng chữ viết thường, một lần với mỗi chân.

Ngón Chân

Ngồi trên ghế bắt chéo chân với mắt cá chân phải đặt trên đầu gối trái. Giữ gót chân bằng tay trái. Sử dụng tay phải để gập bàn chân và nhẹ nhàng kéo các ngón chân về phía sau càng xa càng tốt. Giữ trong 10 giây. Bây giờ nhẹ nhàng đẩy bàn chân và các ngón chân xuống và về phía trước. Giữ trong 10 giây. Lặp lại từ 3 đến 5 lần ở cả hai bên.

Thuốc Bimatoprost (Latisse, Lumigan)

Bimatoprost là gì và cơ chế hoạt động của nó là gì?

Bimatoprost là một loại thuốc tổng hợp (do con người tạo ra) có cấu trúc tương tự và bắt chước tác động của các hóa chất tự nhiên (prostaglandin) do cơ thể sản xuất. Nó được sử dụng để giảm áp lực nội nhãn (IOP) và tăng cường sự phát triển của lông mi.

Cơ chế hoạt động chính xác của bimatoprost vẫn chưa được biết đến. Bimatoprost có thể làm giảm IOP bằng cách tăng cường dòng chảy của thủy dịch ra khỏi mắt ở những người bị glaucoma góc hẹp. Thủy dịch dư thừa có thể gây tổn thương dây thần kinh thị giác và mất thị lực. Nó cũng có thể làm tăng sự phát triển của lông mi bằng cách kéo dài thời gian giai đoạn phát triển của lông mi.

FDA đã phê duyệt Lumigan vào tháng 3 năm 2001 và Latisse vào tháng 12 năm 2008.

Tên thương mại nào có sẵn cho bimatoprost?

  • Latisse
  • Lumigan

Bimatoprost có sẵn dưới dạng thuốc generic không?

Không

Tôi có cần đơn thuốc để sử dụng bimatoprost không?

Tác dụng phụ của bimatoprost là gì?

Các tác dụng phụ phổ biến bao gồm:

  • Ngứa mắt
  • Tăng trưởng lông mi
  • Kích ứng mắt
  • Khô mắt
  • Đỏ mắt
  • Làm tối lông mi và làm tối ngược lại vùng da quanh mắt

Bimatoprost cũng có thể gây ra sự đổi màu nâu vĩnh viễn trong phần màu của mắt và sự phát triển lông ở các vùng khác trên cơ thể mà nó tiếp xúc.

Liều lượng cho bimatoprost là gì?

Liều lượng khuyến nghị của bimatoprost để giảm IOP là một giọt Lumigan 0,01% hoặc 0,03% vào mắt bị ảnh hưởng một lần mỗi ngày vào buổi tối. Việc sử dụng thường xuyên hơn có thể làm giảm hiệu quả giảm IOP. Sự giảm IOP bắt đầu khoảng bốn giờ sau khi sử dụng và tác dụng tối đa xảy ra trong khoảng 8 đến 12 giờ.

Chế độ liều khuyến nghị để tăng cường sự phát triển lông mi là một giọt Latisse 0,03% được thoa đều bằng dụng cụ lên vùng da của mi mắt trên tại gốc lông mi của mỗi mắt mỗi tối.

Thuốc hoặc thực phẩm bổ sung nào tương tác với bimatoprost? Bimatoprost nên được sử dụng ít nhất năm phút trước hoặc sau khi sử dụng các thuốc nhỏ mắt khác. Việc sử dụng bimatoprost để tăng trưởng lông mi có thể làm tăng hoặc giảm tác dụng của các thuốc tương tự prostaglandin được sử dụng để điều trị IOP tăng.

Dung dịch bimatoprost chứa benzalkonium chloride, có thể được hấp thụ bởi kính áp tròng mềm. Kính áp tròng nên được tháo ra trước khi thoa bimatoprost. Kính áp tròng có thể được lắp lại sau 15 phút kể từ khi sử dụng bimatoprost.

Bimatoprost có an toàn để sử dụng nếu tôi đang mang thai hoặc cho con bú không?

Việc sử dụng bimatoprost trong thời kỳ mang thai chưa được đánh giá đầy đủ.

Hiện chưa biết liệu bimatoprost có được bài tiết qua sữa mẹ hay không.

Tôi còn cần biết điều gì về bimatoprost?

Các dạng bimatoprost nào có sẵn? Dung dịch (nhỏ mắt): 0,01% và 0,03%

Tôi nên bảo quản bimatoprost như thế nào? Dung dịch nên được bảo quản ở nhiệt độ từ 2°C đến 25°C (36°F đến 77°F).

Tóm tắt

Bimatoprost (Latisse, Lumigan) là một loại thuốc được kê đơn để điều trị glaucoma góc hẹp và tăng chiều dài lông mi bằng cách kéo dài giai đoạn phát triển của lông mi. Các tác dụng phụ, tương tác thuốc, cảnh báo và biện pháp phòng ngừa, cũng như thông tin hiệu quả trong thai kỳ nên được xem xét trước khi sử dụng loại thuốc này.

Virus Zika – Triệu chứng bệnh, cách ngăn ngừa

Virus Zika Là Gì? Làm Thế Nào Để Bạn Bị Nhiễm?

Virus Zika xuất hiện tại Hoa Kỳ vào năm 2016, với sự lây truyền tại địa phương được báo cáo ở Miami, FL và Brownsville, TX.

Virus này gây ra các dị tật bẩm sinh ở trẻ sơ sinh sinh ra từ một số phụ nữ mang thai bị nhiễm bệnh, bao gồm cả chứng đầu nhỏ (microcephaly), trong đó trẻ sơ sinh có đầu phát triển kém và bị tổn thương não. Zika cũng đã được liên kết với hội chứng Guillain-Barre, một tình trạng mà hệ thống miễn dịch tấn công các dây thần kinh. Virus chủ yếu lây lan qua muỗi, mặc dù đã có một số trường hợp lây truyền qua đường tình dục được báo cáo.

CDC vẫn tiếp tục phát đi các cảnh báo du lịch cho phụ nữ mang thai ở các quốc gia nơi bệnh đang lan rộng.

Virus Zika Là Gì? Làm Thế Nào Để Tránh Nhiễm?

Virus Zika, lần đầu tiên được xác định ở Uganda vào năm 1947, được truyền qua muỗi Aedes, cùng loại muỗi mang bệnh sốt dengue, sốt vàng và virus chikungunya. Một con muỗi cắn một người bị nhiễm và sau đó truyền virus cho những người khác mà nó cắn. Các đợt bùng phát không xảy ra bên ngoài châu Phi cho đến năm 2007, khi virus lây lan đến Nam Thái Bình Dương.

Zika cũng có thể lây lan qua quan hệ tình dục, thường là sau khi một người đi đến khu vực có đợt bùng phát Zika và mắc virus. Cả phụ nữ và nam giới bị nhiễm đều có thể truyền virus cho bạn tình – ngay cả khi họ chưa biểu hiện triệu chứng nhiễm bệnh, theo CDC. Ngoài ra, phụ nữ mang thai bị nhiễm có thể truyền virus cho thai nhi của họ.

Một số nghiên cứu cũng cho thấy virus có thể được tìm thấy trong máu, tinh dịch, nước tiểu, và nước bọt của những người bị nhiễm, cũng như trong dịch thể ở mắt.

Các Triệu Chứng Của Virus Zika Là Gì?

Bệnh có thể gây ra sốt, phát ban, đau khớp, và đỏ mắt (viêm kết mạc hoặc mắt hồng). Nhưng hầu hết mọi người sẽ không biết họ mắc bệnh.

“Chỉ khoảng 1 trong 5 người bị nhiễm virus sẽ biểu hiện triệu chứng,” theo lời Adalja. “Đại đa số không có triệu chứng gì cả.”

Các triệu chứng có thể xuất hiện trong khoảng từ 3 đến 14 ngày sau khi bị muỗi nhiễm cắn, theo CDC. Chúng có thể kéo dài từ vài ngày đến khoảng một tuần.

Hãy gọi cho bác sĩ của bạn nếu bạn phát triển triệu chứng và bạn sống ở hoặc đã từng đến khu vực có sự lây lan của virus Zika, đặc biệt nếu bạn đang mang thai. Phụ nữ mang thai có triệu chứng Zika vào bất kỳ thời điểm nào trong thai kỳ nên được xét nghiệm Zika.

Khi một người đã bị nhiễm, các nhà khoa học tin rằng họ có khả năng được bảo vệ khỏi những nhiễm trùng trong tương lai.

Virus Zika Có Giống Với Các Bệnh Lây Truyền Qua Muỗi Khác, Như Sốt Dengue, Chikungunya, Hay Virus West Nile Không?

Tất cả đều có thể gây ra một loạt triệu chứng giống như cúm với mức độ nghiêm trọng khác nhau và có thể kéo dài từ vài ngày đến hơn một tuần. Giống như Zika, rất ít người bị nhiễm sốt dengue hoặc virus West Nile sẽ biểu hiện triệu chứng. Mặc dù cùng một loại muỗi lây truyền Zika cũng lây truyền sốt dengue và chikungunya, nhưng nhiều loại muỗi khác nhau cũng lây truyền virus West Nile.

Zika cũng là virus duy nhất trong số này được biết đến là lây truyền qua quan hệ tình dục.

Virus Zika Được Điều Trị Như Thế Nào?

Không có phương pháp điều trị đặc hiệu, nhưng hầu hết những người có triệu chứng đều đáp ứng tốt với các loại thuốc không cần kê đơn để giảm đau. Bệnh thường tự khỏi trong vòng một tuần hoặc hơn.

CDC khuyến cáo những người bị nhiễm nên nghỉ ngơi nhiều, uống đủ nước để tránh mất nước, và dùng acetaminophen để giảm sốt và đau. Aspirin hoặc các loại thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs) không nên được sử dụng cho đến khi bệnh sốt dengue được loại trừ, nhằm giảm nguy cơ chảy máu, theo cơ quan này.

Hiện chưa có vaccine chống lại Zika, nhưng Viện Y tế Quốc gia đang thử nghiệm một loại vaccine trên người.

Mối Liên Hệ Giữa Zika, Chứng Đầu Nhỏ và Thai Kỳ Là Gì?

Zika gây ra chứng đầu nhỏ ở trẻ sơ sinh sinh ra từ những phụ nữ mang thai bị nhiễm virus, theo CDC. Chứng đầu nhỏ làm chậm sự phát triển đầu của trẻ, gây ra tổn thương não nghiêm trọng, đôi khi dẫn đến tử vong, và có thể dẫn đến sảy thai hoặc thai chết lưu.

Virus Zika Gây Ra Nỗi Hoảng Sợ Ở Brazil

Virus Zika đã gây ra sự hoảng loạn ở Brazil kể từ khi lần đầu tiên xuất hiện tại đây vào tháng 5 năm 2015. Hơn 2,100 trẻ sơ sinh ở Brazil đã được sinh ra với chứng đầu nhỏ (microcephaly) hoặc các dị tật bẩm sinh khác liên quan đến Zika. Vào thời điểm đó, Brazil và một số quốc gia khác đã khuyên phụ nữ nên hoãn mang thai.

Mặc dù có nhiều nguyên nhân gây ra chứng đầu nhỏ ở trẻ sơ sinh, bao gồm các bệnh nhiễm trùng trong thai kỳ, các vấn đề di truyền và tiếp xúc với các chất độc hại trong thai kỳ, CDC cho biết nghiên cứu đã cung cấp đủ bằng chứng để chứng minh rằng Zika là một trong những nguyên nhân đó. Nghiên cứu đã gợi ý rằng nhiễm virus trong giai đoạn đầu nhất của thai kỳ, khi các cơ quan của em bé vẫn đang hình thành, dường như liên quan đến những kết quả xấu nhất.

Tuy nhiên, một số nghiên cứu đang cho thấy rằng thai nhi cũng có thể bị tổn thương do nhiễm virus trong giai đoạn sau của thai kỳ, và có bằng chứng mới nổi rằng chứng đầu nhỏ không phải là dị tật bẩm sinh duy nhất liên quan đến Zika. Trong một báo cáo khác, CDC mô tả năm loại dị tật bẩm sinh, bao gồm cả chứng đầu nhỏ nghiêm trọng, mà là đặc trưng cho Zika hoặc hiếm khi xảy ra với các bệnh nhiễm trùng khác ở phụ nữ mang thai. Chúng bao gồm:

  • Giảm lượng mô não với các mảng canxi cho thấy tổn thương não
  • Tổn thương ở phía sau của mắt
  • Phạm vi chuyển động hạn chế ở các khớp, chẳng hạn như chân khoèo
  • Căng cơ quá mức, khiến việc di chuyển bị hạn chế

Những ảnh hưởng này ở trẻ sơ sinh được gọi là hội chứng Zika bẩm sinh.

Kể từ tháng 7 năm 2018, CDC đã xác nhận có hơn 2,474 phụ nữ mang thai ở Mỹ bị nhiễm Zika và hơn 4,900 phụ nữ mang thai ở các vùng lãnh thổ của Mỹ. Kể từ năm 2019, không có trường hợp Zika nào được xác nhận từ các vùng lãnh thổ của Mỹ.

Cơ quan này khuyên rằng những phụ nữ và nam giới đã sống hoặc đi du lịch ở các khu vực có sự lây nhiễm Zika và có bạn tình mang thai nên sử dụng bao cao su hoặc kiêng quan hệ tình dục trong thời gian mang thai.

Tất cả phụ nữ mang thai ở Mỹ nên được đánh giá khả năng tiếp xúc với Zika trong mỗi lần khám thai, theo CDC, và tất cả phụ nữ mang thai có khả năng tiếp xúc nên được đề nghị xét nghiệm Zika.

Những Quốc Gia Nào Có Trong Cảnh Báo Du Lịch Của CDC Dành Cho Phụ Nữ Mang Thai?

CDC khuyến nghị rằng phụ nữ mang thai và các cặp đôi có kế hoạch mang thai trong vòng 3 tháng tới nên tham khảo ý kiến nhà cung cấp dịch vụ y tế trước khi đi du lịch đến bất kỳ quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào nơi có sự lây truyền Zika đang diễn ra.

Danh sách các quốc gia có thể được tìm thấy trên trang web của CDC. Nhưng điều quan trọng là cần nhớ rằng danh sách này thường xuyên thay đổi và cần được xem xét thường xuyên khi các quốc gia trở nên có nguy cơ thấp hơn hoặc các quốc gia khác được thêm vào danh sách.

Scott C. Weaver, PhD, Đề Xuất Cảnh Giác Cho Phụ Nữ Mang Thai

Scott C. Weaver, PhD, giám đốc Viện Nhiễm Trùng và Miễn Dịch Nhân Đạo, Trường Y Texas tại Galveston, đặc biệt lo ngại về những phụ nữ mang thai đi du lịch.

“Đặc biệt trong tam cá nguyệt đầu tiên hoặc đầu tam cá nguyệt thứ hai, việc đến một khu vực có virus Zika đang lưu hành là rất rủi ro,” ông nói. “… Tôi chắc chắn sẽ không khuyến nghị phụ nữ mang thai đi du lịch đến những khu vực có dịch bệnh đang diễn ra.”

Các cặp đôi đang cố gắng có em bé nên chờ một vài tháng để mang thai nếu một trong hai người đã đi du lịch đến khu vực có Zika đang lây lan — ngay cả khi họ không có nhiễm trùng đã được xác nhận, theo CDC. Cơ quan này khuyên phụ nữ nên chờ 2 tháng và nam giới nên chờ ít nhất 6 tháng sau khi có khả năng tiếp xúc, ngay cả khi nam giới không có triệu chứng.

Nam giới và nữ giới đã đi du lịch đến các khu vực có sự lây lan của Zika được khuyên nên thực hiện quan hệ tình dục an toàn hoặc kiêng cữ trong 6 tháng sau khi trở về. Khuyến nghị này áp dụng bất kể họ có đang cố gắng mang thai hay không, và bất kể họ có xuất hiện triệu chứng của Zika hay không.

Cách duy nhất để ngăn ngừa hoàn toàn nhiễm Zika trong thời gian mang thai là không đi du lịch đến những khu vực có nguy cơ Zika và sử dụng các biện pháp phòng ngừa hoặc tránh quan hệ tình dục với người vừa đi du lịch đến khu vực có nguy cơ.

Nếu Tôi Đang Mang Thai Và Đã Đi Du Lịch Đến Những Khu Vực Này Thì Sao?

Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn. Họ sẽ kiểm tra sức khỏe của em bé và bạn sẽ được sàng lọc các triệu chứng của virus. Nếu bạn có triệu chứng, các bệnh khác như sốt xuất huyết (dengue) hoặc chikungunya có thể được loại trừ.

Phụ nữ mang thai đã đi du lịch đến khu vực có Zika có thể được đề nghị xét nghiệm 2 đến 12 tuần sau khi trở về, ngay cả khi họ chưa xuất hiện triệu chứng, theo CDC.

Phụ nữ mang thai có Zika nên được siêu âm mỗi 3 đến 4 tuần để theo dõi sự phát triển của em bé, cơ quan này cho biết.

Nếu Tôi Không Có Kế Hoạch Mang Thai Thì Sao?

Để giảm nguy cơ lây truyền qua đường tình dục, phụ nữ có khả năng tiếp xúc với Zika nên sử dụng bao cao su bên cạnh phương pháp kiểm soát sinh sản thường dùng hoặc kiêng cữ trong ít nhất 8 tuần, theo CDC.

Nam giới có khả năng tiếp xúc, ngay cả khi họ không có triệu chứng Zika, nên sử dụng bao cao su hoặc kiêng cữ trong ít nhất 6 tháng.

CDC cho biết rằng việc phát hiện sự lây lan địa phương của Zika là khó khăn, vì một người có thể không có triệu chứng trong tối đa 2 tuần sau khi nhiễm virus, nếu có. Hơn nữa, việc chẩn đoán và điều tra các trường hợp có thể mất vài tuần.

Muỗi Aedes, loài muỗi lây lan Zika, được tìm thấy ở mọi quốc gia tại Bắc, Trung và Nam Mỹ ngoại trừ hai nước: Canada và vùng lãnh thổ đại lục Chile.

Làm Thế Nào Để Bạn Được Xét Nghiệm Zika?

Có hai cách để xét nghiệm Zika. Một xét nghiệm tìm kiếm các mảnh mã di truyền của virus ở những người có nhiễm trùng hoạt động. Nhưng sau khi cơ thể tiêu diệt nhiễm trùng, điều này mất khoảng 2 tuần sau khi triệu chứng xuất hiện, xét nghiệm đó sẽ không còn hiệu lực.

FDA đã phê duyệt việc sử dụng khẩn cấp một phiên bản nâng cao hơn của xét nghiệm này có thể phân biệt liệu một người có bị sốt xuất huyết, chikungunya hay Zika, thay vì phải thực hiện ba xét nghiệm khác nhau. Phiên bản mới này đang có tại các phòng thí nghiệm đủ điều kiện, theo CDC.

Vì 80% người nhiễm Zika không có triệu chứng, nhiều người không biết khi nào họ bị nhiễm và sẽ không đủ điều kiện để xét nghiệm này.

Một xét nghiệm khác tìm kiếm các protein gọi là kháng thể do hệ miễn dịch sản xuất để chống lại virus. Nó có thể phát hiện kháng thể trong máu lên đến 3 tháng sau khi một người bị nhiễm.

Nhưng xét nghiệm này không rất đặc hiệu. Nó có thể nhầm lẫn cho thấy một người đã từng bị Zika nếu họ đã nhiễm các virus khác, bao gồm sốt xuất huyết và chikungunya. Kết quả xét nghiệm dương tính hoặc không rõ nghĩa có nghĩa là sẽ phải thực hiện một xét nghiệm tiếp theo do CDC hoặc một phòng thí nghiệm được CDC ủy quyền thực hiện.

FDA đã phê duyệt xét nghiệm này và CDC đang phân phối nó đến các phòng thí nghiệm đủ điều kiện.

Việc xét nghiệm dịch ối ở phụ nữ mang thai cũng có thể được thực hiện, mặc dù không rõ liệu xét nghiệm này sẽ hoạt động hiệu quả như thế nào đối với Zika, theo CDC.

Zika Có Thể Gây Ra Các Tình Trạng Sức Khỏe Khác Không?

Trong những trường hợp hiếm hoi, Zika đã được liên kết với hội chứng Guillain-Barre. Rối loạn này có thể gây ra liệt một phần hoặc hoàn toàn, thường bắt đầu ở chân, thường là tạm thời. Sự gia tăng của bệnh này đã được ghi nhận ở các khu vực như Polynesia thuộc Pháp và Brazil, nơi đã xảy ra dịch Zika. Các nghiên cứu ngày càng cho thấy có mối liên hệ giữa hội chứng này và Zika.

Nghiên cứu hiện tại của CDC cho thấy rằng Guillain-Barre có mối liên hệ mạnh mẽ với Zika, tuy nhiên chỉ một tỷ lệ nhỏ trong số những người bị nhiễm thực sự mắc phải.

Có thể có mối liên hệ giữa Zika và một rối loạn tự miễn dịch gọi là viêm não tủy cấp tính lan tỏa (ADEM), theo nghiên cứu được trình bày tại hội nghị của Học viện Thần kinh Mỹ. Hệ miễn dịch của một người mắc rối loạn này tấn công lớp myelin bao quanh các sợi thần kinh trong não và tủy sống, tương tự như bệnh xơ cứng đa hệ (multiple sclerosis).

Các bác sĩ vào tháng 3 năm 2016 đã báo cáo trường hợp đầu tiên của sự sưng não liên quan đến Zika, ở một người đàn ông 81 tuổi đi du lịch trên một chuyến du thuyền ở Nam Thái Bình Dương. Người đàn ông sốt và rơi vào hôn mê. Họ được chẩn đoán mắc viêm màng não não, hay sưng các màng bao phủ não và tủy sống. Virus Zika đã được phát hiện trong dịch tủy sống của họ. Người đàn ông đã hồi phục sau 38 ngày trong bệnh viện.

Cuối năm đó, CDC thông báo trường hợp tử vong đầu tiên liên quan đến Zika ở Puerto Rico, của một người đàn ông 70 tuổi đã chết vào tháng 2 vì tình trạng giảm tiểu cầu nặng, dẫn đến số lượng tiểu cầu trong máu thấp có thể gây ra xuất huyết nội.

Làm Thế Nào Để Tôi Ngăn Ngừa Zika?

Nếu bạn có kế hoạch đi du lịch đến các khu vực bị ảnh hưởng, hãy tránh muỗi cắn bằng cách sử dụng thuốc xịt chống muỗi suốt cả ngày. Ngoài ra, hãy mặc áo dài tay và quần dài, cả trong nhà và ngoài trời.

CDC khuyến nghị sử dụng thuốc xịt chống muỗi đã được Cơ quan Bảo vệ Môi trường (EPA) đăng ký có chứa DEET, picaridin, IR3535, dầu khuynh diệp chanh (para-menthane-diol) hoặc 2-undecanone. Nếu bạn đang sử dụng kem chống nắng, hãy bôi kem chống nắng trước và thuốc xịt chống muỗi sau.

Bảo Vệ Xung Quanh Nhà Bạn

Xung quanh nhà, hãy sử dụng màn chắn trên cửa sổ và cửa ra vào, và loại bỏ nước đọng — trong lốp xe, xô, chậu cây, và các chậu hoa, chẳng hạn — vì muỗi đẻ trứng gần nước.

Ngay cả những người không biết họ bị Zika cũng có thể lây lan bệnh. Weaver cho biết rằng những người đã đi du lịch đến các khu vực bị ảnh hưởng nên rất cảnh giác với việc bị muỗi cắn khi họ trở về nhà. CDC cũng khuyến nghị sử dụng bao cao su hoặc kiêng cữ trong 8 tuần cho phụ nữ hoặc 6 tháng cho nam giới để tránh lây truyền qua đường tình dục.

Thiếu và thừa Vitamin cơ thể sẽ ra sao

So với các dưỡng chất khác, nhu cầu Vitamin của cơ thể chỉ chiếm từ vài trăm microgam đến vài chục miligam mỗi ngày, nhưng Vitamin lại đóng một vai trò quan trọng trong nhiều hoạt động của cơ thể. Chẳng hạn, Vitamin A (beta caroten) là những chất cần thiết cho sự sống, nếu thiếu chúng sẽ ảnh hưởng đến quá trình oxy hoá, làm giảm sức đề kháng của cơ thể, dễ gây viêm và dị ứng. Vitamin A và D tham gia vào quá trình cấu tạo nên hormon… Chính vì thế, khi bị thiếu hay thừa Vitamin, nhiều hoạt động của cơ thể  sẽ bị ỳ trệ, sức khoẻ không bảo đảm.

Những người khoẻ manh, ăn uống đủ chất và căn đối sẽ không bao giờ bị thiếu Vitamin. Nhưng không phải lúc nào mọi việc cũng diễn ra hoàn hảo. Có khá nhiều nguyên nhân dẫn đến thiếu Vitamin, trong đó có nguyên nhân không do ý muốn, chẳng hạn ở người cao tuổi, do khả năng hấp thu kém nên dễ bị thiếu Vitamin B9 và B12, dẫn đến giảm trí nhớ và lú lẫn. Trẻ sinh non thường thiếu Vitamin A, D, E, K (vì những Vitamin này tan trong dầu nên khó đi qua nhau thai)…

Ăn uống đủ chất và căn đối sẽ không bao giờ thiếu Vitamin
Ăn uống đủ chất và căn đối sẽ không bao giờ thiếu Vitamin

Một nguyên nhân quan trọng gây thiếu Vitamin chính là bệnh tật và nghiện ngập. Những người nghiện thuốc lá, rượu, đang điều trị hoá trị liệu, xạ trị liệu hoặc bị bệnh mạn tính như tiểu đường, suy thận, viêm gan, bệnh đường ruột, quá trình hấp thu và đồng hoá bị rối loạn… bao giờ cũng bị xếp vào nhóm thiếu Vitamin trường diễn do ruột và các cơ quan tiêu hoá không thể hoặc hấp thụ rất ít Vitamin. Bên cạnh đấy, khi dùng thuốc trị bệnh như corticoid, thuốc chống lại tính acid của dạ dày, kháng sinh, thuốc hướng tâm thần, thuốc chống ung thư… trong thời gian dài, cơ thể bạn không thể đủ Vitamin được.

Nhưng một số người bị thiếu Vitamin do ăn uống lệch lạc, không đủ chất, kém khoa học… chiếm lượng nhiều nhất. Dùng quá nhiều với thời gian dài những thực phẩm tinh chế như bánh mì trắng, bột tinh chế, sữa tách chất béo… thường mất nhiều Vitamin. Thực phẩm đóng hộp do phải qua khâu xử lý chiếu tia để khử khuẩn nên mất một phần Vitamin. Chuẩn bị và chế biến thực phẩm không đúng cách như ngâm lâu trong nước, nấu quá nhiều nước cũng sẽ làm Vitamin hao hụt. Các chế độ ăn đặc biệt cũng là thủ phạm khiến cơ thể thiếu Vitamin, chẳng hạn chế độ ăn không có chất xơ thường gây thiếu Vitamin B9, Vitamin C; chế độ ăn chay gây thiếu Vitamin B12, Vitamin D; chế độ ăn giảm béo làm giảm lượng muối khoáng và Vitamin đưa vào cơ thể.

Do lo lắng thiếu Vitamin, bạn lại bổ sung Vitamin dưới dạng thuốc hay thực phẩm quá nhiều, sẽ dẫn đến thừa. Việc thừa Vitamin có hại cho sức khoẻ không kém gì thiếu. Chẳng hạn khi thiếu Vitamin PP sẽ làm kém trí nhớ, ù tai, ngủ kém, loét miệng, khô da, rối loạn tiêu hoá… nhưng nếu thừa Vitamin PP có thể sẽ làm tăng khả năng đông máu gây tắc mạch, co thắt động mạch, cao huyết áp…

Thiếu Vitamin C sẽ làm quá trình tổng hợp collagen bị khiếm khuyết, gây chậm liền vết thương, vỡ thành mao mạch, răng và xương không tốt… nhưng thừa Vitamin c lại có thể gây toan máu, làm gia tăng nguy cơ bị sỏi thận. Thiếu Vitamin B1 dễ gây bệnh Beriberi với những dấu hiệu tổn thương thần kinh…, nhưng nếu thừa Vitamin B1 gây dị ứng, choáng. Thiếu Vitamin A gây suy giảm miễn dịch, tăng mắc các bệnh nhiễm khuẩn, gây tổn thương mắt… nhưng thừa Vitamin A gây đau đầu, mệt mỏi, buồn nôn, rụng tóc, khô da, rối loạn kinh nguyệt… Thiếu Vitamin D sẽ dẫn tới còi xương ở trẻ nhỏ, loãng xương ở người cao tuổi… nhưng thừa Vitamin D sẽ làm tăng calci máu, có thể dẫn tới hậu quả làm calci hoá các mô cơ thể, bao gồm cả mô tim, phổi, thận và gây đau khớp, co giật, sỏi thận…

Để đảm bảo cung cấp đủ lượng Vitamin cho cơ thể, chỉ cần có chế độ ăn đa dạng, cân đối và hợp lý hàng ngày. Không nên lạm dụng các Vitamin dưới dạng thuốc, trừ những trường hợp cần thiết và phải có chỉ định của bác sĩ.

Khớp cắn hở

I.   ĐỊNH NGHĨA

Là tình trạng các răng đối diện trên cung răng không có độ cắn trùm lên nhau theo mặt phẳng đứng khi hai hàm ở tư thế khớp cắn trung tâm, khớp cắn hở có thể xảy ra ở phía trước hoặc phía sau hoặc phối hợp.

II.    NGUYÊN NHÂN

  1. Loại cắn hở do răng

Do thói quen xấu bất lợi cho hàm răng

+  Thói quen mút ngón tay kéo dài: Trẻ em có thói quen mút tay kéo dài sau 4 tuổi.

+ Thói quen đẩy lưỡi: Khi lưỡi đặt ở vị trí ra trước và giữa các răng cửa trên và răng cửa dưới thường xuyên sẽ gây ra khớp cắn hở.

– Do các bệnh gây trở ngại đường thở qua mũi

+ Thở miệng do viêm amiđan.

+  Thở miệng do VA.

+  Thở miệng do thói quen và do các bệnh lý khác …

– Cản trở mọc răng: Do cứng khớp, răng không mọc đủ chiều cao thân răng.

  1. Loại cắn hở do xương hàm
    • Sự phát triển bất thường của xương hàm trên.
    • Sự phát triển bất thường của xương hàm dưới
    • Sự phát triển bất thường của cả xương hàm trên và xương hàm dưới

III.     CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

Khớp cắn hở do răng

  • Hỏi bệnh

Có thói quen xấu như tật đẩy lưỡi, mút ngón tay, thở miệng…

  • Lâm sàng

Ngoài mặt: không có triệu chứng đặc trưng.

Trong miệng

+ Có biểu hiện các răng đối diện không tiếp xúc nhau theo chiều đứng ở tư thế cắn trung tâm:

+ Có thể có thể có cắn hở ở một hoặc nhiều răng ở vùng các răng trước nhưng các răng sau có tiếp xúc.

+ Có thể có biểu hiện cắn hở ở vùng các răng phía sau, nhưng các răng trước có tiếp xúc.

+ Có thể có biểu hiện cắn hở cục bộ ở cả vùng răng trước và răng sau.

+ Răng cửa trên có thể ngả trước.

+  Có thể có hẹp cung răng trên.

+ Có thể răng chưa mọc hết chiều cao thân răng.

  • Cận lâm sàng

Mẫu hàm thạch cao

+  Không có sự tiếp xúc của các răng đối diện tại vùng răng có khớp cắn hở.

+ Có thể giảm chiều rộng cung răng hàm trên trong trường hợp kém phát triển cung răng trên do thói quen đẩy lưỡi.

X quang

+ Phim sọ nghiêng (Cephalometrics): có hình ảnh cắn hở, góc xương hàm dưới bình thường.

+  Phim toàn cảnh: có thể thấy hình ảnh răng bị cứng khớp không mọc hết chiều cao thân răng.

Khớp cắn hở do xương hàm

  • Lâm sàng
  1. Ngoài mặt
    • Kiểu mặt dài.
    • Tầng mặt dưới: tăng.
  2. Trong miệng

Có cắn hở

+     Cắn hở ở vùng răng phía trước, hoặc

+     Cắn hở ở vùng răng sau, hoặc

+     Cắn hở ở cả vùng răng trước và sau.

– Cung răng trên: thường có biểu hiện hẹp.

  • Cận lâm sàng
  • Mẫu hàm thạch cao

+  Không có sự tiếp xúc của các răng đối diện tại vùng răng có khớp cắn hở.

+ Thường giảm chiều rộng cung răng hàm trên.

  • Phim sọ nghiêng (Cephalometrics)

+ Góc mặt phẳng hàm dưới ( GoGn-SN): lớn.

+ Góc ANB: có thể tăng (trường hợp tương quan xương hàm loại II) hoặc giảm (trường hợp tương quan xương hàm loại III).

Chẩn đoán phân biệt

Khớp cắn hở có các biểu hiện trên lâm sàng và X quang rõ rệt, vì vậy không cần chẩn đoán phân biệt.

IV. ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc

Đóng khớp cắn hở, tạo tương quan hai hàm tối ưu.

Điều trị cụ thể

  • Khớp cắn hở do răng
  • Giai đoạn sớm của răng hỗn hợp, từ 6-8 tuổi

Loại bỏ thói quen xấu

+ Loại bỏ thói quen mút ngón tay: Quấn băng dính chống thấm nước vào ngón tay, hoặc dùng khí cụ chống mút ngón tay.

+ Loại bỏ thói quen đẩy lưỡi: dùng khí cụ rào chặn lưỡi, hoặc hướng dẫn trẻ tập lưỡi.

+  Loại bỏ thói quen thở miệng: Điều trị các bệnh lý liên quan gây trở ngại thở đường mũi, hoặc phối hợp dùng khí cụ chống thở miệng.

Giai đoạn muộn của răng hỗn hợp (sau 8 tuổi) và giai đoạn răng vĩnh viễn

  • Điều trị loại bỏ thói quen xấu như giai đoạn sớm
  • Kết hợp điều trị với khí cụ gắn chặt

+    Gắn mắc cài hai hàm.

+    Đặt dây cung thích hợp.

+    Sử dụng chun liên hàm theo chiều đứng đóng cắn hở.

+    Có thể phối hợp làm trồi và làm lún các răng.

– Làm chụp thân răng bị cứng khớp cho đạt được khớp cắn bình thường nếu cắn hở do răng cứng khớp.

  • Khớp cắn hở do xương hàm

Bệnh nhân đang trong thời kỳ tăng trưởng

  • Sử dụng khí cụ có máng cắn phía sau tạo lực tác động làm lún các răng sau, làm cho xương hàm dưới xoay ra trước và lên trên làm đóng cắn hở, đồng thời hạn chế sự phát triển của xương hàm theo chiều đứng
  • Sử dụng khí cụ Headgear kéo cao làm lún các răng hàm hàm trên, làm cho xương hàm dưới xoay ra trước và lên trên đóng cắn hở.
  • Bệnh nhân trưởng thành

Khi bệnh nhân đã ở tuổi trưởng thành, thì tùy mức độ cắn hở do xương mà có thể áp dụng phương pháp điều trị khác nhau.

  • Mức độ nhẹ hoặc trung bình có thể bù trừ được

+  Gắn mắc cài hai hàm.

+    Đặt dây cung thích hợp.

+    Sử dụng chun liên hàm theo chiều đứng đóng cắn hở.

+    Sử dụng vít neo chặn làm lún và làm trồi các răng.

– Mức độ nặng không thể bù trừ được

+     Gắn mắc cài hai hàm.

+     Đặt dây cung thích hợp.

+     Sắp xếp lại các răng để chuẩn bị cho phẫu thuật.

+     Phẫu thuật chỉnh hình có thể xương hàm trên hoặc xương hàm dưới hoặc cả hai để đóng cắn hở.

V.    TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG

  1. Tiên lượng
    • Cắn hở do răng: nếu điều trị đúng phác đồ trên thì sẽ có kết quả tố Nếu không điều trị kịp thời thì có thể chuyển thể thành cắn hở do xương và điều trị phức tạp hơn.
    • Cắn hở do xương: điều trị phức tạp hơn. Tuy vậy, thực hiện đúng phác đồ trên thì đa số các trường hợp có kết quả tốt, nhưng vẫn có một tỷ lệ tái phát.
  2. Biến chứng
    • Mòn răng, tiêu xương ổ răng, viêm quanh răng, sâu răng…
    • Đau khớp thái dương hàm.
    • Rối loạn chức năng khớp thái dương hàm.

VI.     PHÒNG BỆNH

Khám răng miệng định kỳ để phát hiện sớm và điều trị kịp thời.

Những thói quen có hại khi trẻ xem tivi cần sửa đổi ngay

Thời gian xem tivi không nên quá dài. Có một số bậc cha mẹ thích để cho trẻ con cùng xem tivi với mình hoặc đem việc xem tivi ra để dỗ trẻ con. Kỳ thực, việc này rất không có lợi cho mắt của trẻ em. Xem tivi không giống như xem xinê, hình ảnh trên phim xinê là những hình ảnh trên phim nhựa, còn xem tivi là trực tiếp với nguồn sáng, có tác dụng kích thích nhất định đối với mắt, thêm nữa màn ảnh lại hẹp, ánh sáng nhấp nháy không ổn định, dễ làm cho mắt bị mỏi mệt. Đặc biệt là trẻ em, đang ở vào giai đoạn quan trọng của việc sinh trưởng phát dục, giác mạc của nhãn cầu tương đối mỏng, lực của cơ mắt tương đối yếu, thuỷ tinh thể cũng chưa phát triển đầy đủ. Nếu xem tivi một thời gian dài, dễ làm cho giác mạc bị kích thích, hạ thấp năng lực điều tiết của thuỷ tinh thể, dẫn đến viêm giác mạc, cận thị và các bệnh khác về mắt. Cho nên, trẻ em 1 – 2 tuổi không được xem tivi quá nửa tiếng đồng hồ, trẻ em từ 3 – 6 tuổi không được xem tivi quá một tiếng đồng hồ. Trẻ em trên 7 tuổi cũng không nên ngồi xem tivi quá lâu. Học sinh trung học chỉ nên xem tivi khoảng 2 tiếng đồng hồ là vừa.

Không nên ngồi xem tivi quá gần. Trẻ em xem tivi thì nên ngồi cách xa tivi một khoảng cách thích hợp khoảng từ 2 đến 4 mét.

Những chú ý khi trẻ xem tivi
Những chú ý khi trẻ xem tivi

Ánh sáng trong phòng xem tivi không nên quá mờ. ánh sáng quá mờ dễ làm cho người xem bị cận thị. Tốt nhất thì nên đặt một ngọn đèn nhỏ màu đỏ ở đằng sau phía trái tivi.

Không nên xem một cách không chọn lọc. Các bậc cha mẹ cần chú ý chọn lọc chương trình thích hợp cho trẻ.

Sau bữa ăn không nên xem tivi ngay. Sau bữa ăn mà ngồi xem tivi ngay sẽ không có lợi cho việc thúc đẩy sự hấp thụ tiêu hoá .

Không nên ngồi vẹo lưng. Trẻ em ngồi xem tivi thường ngồi trong ghế bành, nhưng phải luôn chú ý nhắc chúng ngồi cho ngay ngắn, nếu không sẽ dễ dẫn đến vẹo cột sống, biến dạng cột sống.

Không nên quên tẩm bổ. Trẻ em thường xuyên xem tivi, cần phải bổ sung một cách thích đáng những thực vật có hàm lượng vitamin A phong phú như gan lợn, trứng gà, cà rốt v.v…

Không nên xem xong là đi ngủ ngay. Sau khi xem xong tivi, nên để cho các em khe khẽ dụi mắt hoặc dạy các em làm thể dục đôi mắt bằng cách chớp mắt nhiều lần, đi đánh răng, rửa mặt, rửa chân rồi hãy đi ngủ.

Không nên đêm nào cũng xem tivi, ảnh hưởng đến giấc ngủ, mất thì giờ học tập.

Không nên làm ồn, ảnh hưởng đến người khác, gây thành thói quen xấu.

Không nên để cho các em nằm xem tivi. Trẻ em là khán giả nhiệt tình nhất của màn ảnh nhỏ, có những bậc cha mẹ trẻ cứ thích cho con nằm trên giường hoặc trên ghế sô-pha xem tivi, cho rằng như vậy là để cho con được thoải mái. Kỳ thực là ngược lại, đối với sức khỏe của trẻ em rất có hại. Bởi vì một thời gian dài phải ngoẹo cổ và nhìn nghiêng, dễ dẫn đến cơ bắp ngoài mắt và tiệp trạng thể ở trong nhãn cầu bị co hẹp, tạo thành quầng mắt, nhãn cầu bị giãn đau, kết mạc bị xung huyết, thậm chí thị giác mơ hồ, thị lực giảm sút. do trực cơ trong ngoài, tà cơ trên dưới của nhãn cầu phát triển chưa thành thục, nên dễ bị mệt, nghiêm trọng hơn thì những cơ bắp nói trên do phát triển chưa hoàn chỉnh nên dẫn đến mắt nhìn lệch. Còn nữa, khi người ta nằm, đại bộ phận cơ bắp của toàn thân được thả lỏng việc hô hấp và tuần hoàn máu của cơ thể bị chậm hơn, hệ thống thần kinh trung khu đại não dần dần đi vào trạng thái bị ngưỡng chế, lúc đó, nằm xem tivi thì sẽ tổn hại đến sức khỏe. Cho nên, xin có lời khuyên các bậc cha mẹ, vì sức khỏe bản thân con cái của bạn, tuyệt đối không nên để cho trẻ em nằm xem tivi.

Không nên bế trẻ con xem tivi màu. Có một số bậc cha mẹ trẻ bế con xem tivi màu, như vậy đối với sức khỏe của hài nhi là bất lợi. Bởi vì màn huỳnh quang của tivi bị điện cao áp xung kích, sẽ sản sinh ra tia X quang, và trong tình hình bức xạ cao áp của tivi màu , tia sáng phát ra càng nhiều hơn. Theo khoa học đo được cho biết, đối với tia X quang thì trẻ em mẫn cảm hơn người lớn rất nhiều. Thường xuyên bị tia X quang chiếu vào người sẽ có hại cho sức khỏe của trẻ em, dẫn đến làm cho trẻ em biếng ăn, không thích thú với việc ăn uống, dinh dưỡng không đủ, thậm chí còn ảnh hưởng đến việc phát triển trí lực của trẻ em. Cho nên, khi xem tivi màu không nên bế trẻ con.

Cây cúc vạn thọ và tác dụng chữa bệnh Hoa cúc vạn thọ

Cây cúc vạn thọ thân thảo, cho hoa đẹp màu vàng cam. Cây được trồng làm cảnh và lấy hoa làm thuốc chữa bệnh. Theo Đông y, hoa cúc vạn thọ có vị đắng mùi thơm tính mát, thanh tâm giáng hỏa, tiêu đờm, chữa bệnh đường hô hấp, đau mắt, viêm khí quản, ho gà, viêm miệng hàm, đau răng, dùng ngoài chữa viêm vú, viêm tuyến mang tai, viêm mủ da.

Cây cúc vạn thọ thân thảo, cho hoa đẹp màu vàng cam.
Cây cúc vạn thọ thân thảo, cho hoa đẹp màu vàng cam.

* Thuốc ứng dụng:

Bài 1. Thuốc chữa bệnh ho gà

+ Hoa cúc vạn thọ                 15g

+ Hoa đu đủ đực                    10g

+ Húng chanh                        10g

+ Đường phèn                        20g

Các loại hoa rửa sạch, cùng đường phèn cho vào bát, đặt vào nồi hấp cách thủy. Khi hoa chín nhừ, vắt lấy nước đặc. Người bệnh chia 3 lần uống trong ngày trước khi ăn. cần uống liền 5 ngày.

Bài 2. Thuốc chữa đau răng

+ Hoa cúc vạn thọ 30g

+ Lá nhãn 10g

Các thứ thuốc sấy khô tán nhỏ, thành bột. Người bệnh viên thuốc bằng hạt ngô đặt vào chỗ răng đau. Ngày 3-4 lần. cần làm liền 3-5 ngày.

+ Bồ kết 10g

+ Hoa cúc vạn thọ 30g

+ Lá lốt 20g

Các vị thuốc sấy khô tán bột mịn. Người bệnh viên thuốc bằng hạt đỗ đặt vào chỗ răng đau, ngày 3-4 lần. cần làm liên tục 3-4 ngày.

Bài 3. Thuốc chữa đau mắt

+ Hoa cúc vạn thọ tươi 20g

+ Lá dâu tươi 30g

Cho các vị thuốc vào nồi, thêm 300ml nước đun sôi kỹ. Cho người bệnh xông hơi thuốc vào mắt đau, khi nước nguội dùng rửa mắt đau, ngày làm 1 lần. cần làm liên tục 2-3 ngày.

Bài 4. Thuốc chữa bệnh viêm vú

+ Hoa cúc vạn thọ 15g

+ Hạt gấc (lấy nhân) 15g

+ Lá đại tươi 2 lá

+ Rượu trắng 10ml

Các vị thuốc giã nhỏ, cho rượu vào trộn đều, đắp lên chỗ đau. Trước khi đắp cần hâm thuốc cho hơi nóng. Ngày thay thuốc 1 lần.

+ Hoa kim ngân tươi 30g

+ Hoa cúc vạn thọ tươi 30g

Cả hai thứ rửa sạch, giã nhỏ, đắp vào chỗ đau. Ngày thay thuốc 1 lần.

Bài 5. Thuốc chữa bệnh quai bị

+ Hoa cúc vạn thọ tươi 30g

+ Lá đại tươi  30g

Cả hai thứ rửa sạch, giã nhỏ, đắp vào chỗ sưng đau, ngày thay thuốc 1 lần. cần làm liên tục 2-3 ngày.

Nốt (cục) đơn độc ở phổi

Định nghĩa: Trên phim chụp X quang lồng ngực có hình ảnh đặc phổi là một nốt mờ duy nhất, hình tròn, không lan tới rốn phổi và trung thất và thường hay gặp khó khăn trong chẩn đoán phân biệt.

Bảng 6.8. Nốt mờ đơn độc ở phổi: các tiêu chuẩn để phân biệt lành tính với ác tính

Nốt mờ đơn độc ở phổi:
Nốt mờ đơn độc ở phổi:

Căn nguyên

  • u hạt do nhiễm tác nhân vi sinh: u nấm aspergillus, u lao, u nấm histoplasma, u          nấm coccidioidomyces, V..V..
  • u ác tính: ung thư phế quản phổi nguyên phát hoặc thứ phát (di căn duy nhất), ung thư tiểu phế quản-phế nang, u
  • u lành tính: u tuyến phế quản, u loạn sản phôi, u sụn, u xơ, u mỡ.
  • Viêm mạch máu, nhất là trong bệnh
  • Dị dạng: lỗ rò động-tĩnh mạch trong phổi, u nang do giãn phế quản.
  • Những nguyên nhân khác nữa: hít phải dịch (viêm phổi dạng mỡ), rối loạn miễn dịch (nốt dạng thấp), nhồi máu phổi, áp xe, kén sán.

Triệu chứng

Về những tiêu chuẩn lâm sàng và X quang để phân biệt giữa nốt mờ lành tính với ác tính, xem bảng ở phía trên.

Xét nghiệm

Hỏi tiền sử và khám thực thể sâu cho phép định hướng chẩn đoán và chọn lựa những xét nghiệm thích hợp để chỉ định thực hiện.

  • Chụp X quang lồng ngực, phía mặt (hướng trước-sau) và nghiêng, chụp cắt lớp, và nhất là chụp cắt lớp vi tính. Điều quan trọng là tìm được những phim đã chụp từ trước để so sánh: một nốt mờ sau 2 năm không thấy tăng đường kính thì có nhiều khả năng là lành tính.
  • Test bì: với tuberculin, histoplasmin, coccidioidin.
  • Soi phế quản, nhất là khi nốt có đường kính > 2
  • Xét nghiệm tế bào trong đòm, tìm trực khuẩn lao.
  • Chọc dò bằng kim qua lồng ngực tới nốt mờ, nếu nốt này khu trú ở vùng nông, rồi xét nghiệm tế bào.
  • Tìm kiếm ung thư nguyên phát.
  • Mở lồng ngực thăm dò: có thể là biện pháp duy nhất để chẩn đoán căn nguyên.

Điều trị

  • Nếu đối tượng dưới 50 tuổi và nếu tổn thương có khả năng lành tính: chụp X quang mỗi tháng một lần để kiểm tra theo dõi trong 6 tháng. Nếu đường kính của nốt mờ tăng lên, thì nên can thiệp. Nếu nốt mờ không tiến triển, thì chụp X quang để kiểm tra tiếp tục 6 tháng một lần.
  • Nếu đối tượng trên 50 tuổi và những yếu tố tiền sử và X quang làm nghi ngờ nốt mờ là ác tính, thì phẫu thuật thăm dò.
  • Nếu có những dấu hiệu chắc chắn nốt mờ là ác tính thì phẫu thuật cắt bỏ ngay.

GHI CHÚ: 54% những nốt mờ đơn độc ở phổi là các u hạt. 28% là ung thư phế quản-phổi, 7% là u loạn sản phổi, 4% là di căn ung thư vào phổi, và 2% là u tuyến của phế quản.

Cách chữa Táo bón đơn giản tại nhà đặc biệt hiệu quả

Táo bón là một loại bệnh phân bị khô cứng khó ỉa, thời gian đại tiện rất lâu, muốn ỉa mà không ỉa được. Thông thường sau khi ăn cơm 48 tiếng mà không đại tiện thì coi là bệnh táo bón. Nhưng vì thói quen đại tiện của mọi người không giống nhau, phải căn cứ vào thói quen đại tiện của từng người và khi đại tiện có dễ dàng hay không mới có thể phán đoán chính xác được người đó có bị táo bón hay không.

Đông y cho rằng táo bón không những có quan hệ đến việc công năng truyền dẫn của đại tràng thiếu cân bằng mà còn có quan hệ mật thiết với việc nhận, vận chuyển lên, xuống của tì vị, nhiệt độ và công năng khí hoá của thận thất thường. Đông y chia táo bón làm hai loại hư và thực, thực có nhiệt bí và khí bí, hư có hư bí và lãnh bí. Người bị nhiệt bí thì mặt đỏ, người nóng, mồm thối, môi lở, nước tiểu vàng, người bị khí bí hay ợ hơi, tức ngực, đau bụng. Người bị hư bí đều do khí huyết không đủ, hoặc là sắc mặt xanh xao, mệt mỏi yếu đuối, tới gần nhà vệ sinh thì mệt mỏi, vã mồ hôi, đại tiện không khô lắm đó là táo bón do khí hư. Sắc mặt xanh xao, váng đầu, tim đập mạnh, mắt hoa, đó là táo bón huyết hư. Đặc trưng của người thuộc lãnh bí là dương khí hư tổn, nước tiểu trong, chân tay lanh, thích nóng, sợ lạnh.

táo bón ở trẻ em
Táo bón ở trẻ em

Nội dung chữa bệnh táo bón

Đầu tiên phải xây dựng lòng tin khôi phục công năng lí bình thường, luyện thành thói quen hàng ngày đi ỉa đúng giờ, dù có đại tiện được hay không thì đúng giờ cũng vào nhà vệ sinh, để xây dựng phản xạ điều kiện.

Người ăn ít thì nên ăn nhiều những thứ dễ đại tiện như rau xanh, đỗ vàng, khoai lang.

Người ăn nhiều thịt cá, nên ăn nhiều loại rau xanh, hoa quả như táo, hồng, nho, bưởi, lê, cam, quýt, chuối tiêu, hẹ, đậu, khổ qua, dưa chuột, rau cần, mâng.v.v…

Uống nhiều nước sôi. Chất lượng và số lần đại tiện có quan hệ chặt chẽ với lượng nước uống, nếu trong ruột giữ một lượng nước đầy đủ để làm nhão phân, đại tiện sẽ dễ dàng.

Sinh hoạt phải có nền nếp, tránh kích thích về tinh thần.

Phải phân biệt rõ tính chất của táo bón, nhằm đúng bệnh mà chọn phương pháp chữa bệnh.

Thể chất kém, khả năng co bóp của cơ bụng kém, nên tham gia lao động chân tay hoặc rèn luyện thể duc.

Phương pháp chữa bệnh táo bón

Phương thuốc hiệu nghiệm

  1. Bạch thược sống 30 gam, cam thảo sống 12 gam, sắc uống ngày 2 lần, dùng cho người nhiệt bí.
  2. Hạt cải củ 6 gam, bồ kết 3 gam, nghiền nhỏ để uống, dùng cho người khí bí.
  3. Vừng 100 gam, lá chè 5 gam, đại hoang 10 gam, nghiền nhỏ để uống, ngày hai lần, dùng cho người huyết hư.
  4. Cứu hoàng kỳ 30 gam, đảng sâm sao, 15 gam, hoài sơn dược 30 gam, bạch thược sống 30 gam, cam thảo sống 12 gam, sắc uống, ngày hai lần, dùng cho người khí hư.
  5. Nụ hoa quỳ 15 gam, quả dâu 30 gam, mật ong 30 gam, hai vị trên sắc lấy nước đặc, cho thêm mật ong quấy đều để uống, ngày 2 lần, dùng cho người lãnh bí.
  6. Quyết minh tử 9 gam, sắc uống, ngày 2 lần.
  7. Sinh địa 30 gam, sắc uống, ngày 2 lần.
  8. Quả hồ đào 30 gam, mỗi tối ăn trước khi đi ngủ.
  9. Phương thuốc 6-8 dùng cho người táo bón theo thói quen.
  10. Hạt vừng đỏ 30 gam (giã nhỏ), đường phèn 15 gam, cô đặc uống dần.
  11. Một ít hạt thông rang thơm bỏ vỏ, ngày 2 lần, ăn lúc đói, mỗi lần 15 gam.
  12. Phương thuốc 9-10 hợp với người tuổi già bị táo.

    Hạt vừng có tác dụng chữa táo bón
    Hạt vừng có tác dụng chữa táo bón

Phương pháp ăn uống

  • Khoai tây giã lấy nước, mỗi sáng sớm lúc đói bụng uống 50 gam
  • Nước rau xanh 200 gam, dầu vừng 50 gam, nấu chín ăn nóng.
  • Vừng đen 30 gam, chuối tiêu 250 gam, vừng đen rửa sạch, rang chín dở, lấy chuối tiêu chấm, vừng ăn.
  • Mộc nhĩ trắng 10 gam, gạo tẻ 100 gam, đại táo 10 quả, đường phèn 30 gam, cùng nấu cháo dễ ăn, ngày một lần.

Chữa bệnh bên ngoài

  1. Mỗi ngày trước khi đại tiện lấy ngón tay cái ấn huyệt nội đình (ở kẽ ngón chân thứ hai và thứ ba) mỗi lần 2-3 phút.
  2. Lấy tay xoa bụng xuôi theo kim đồng hồ sáng tối 2 lần, mỗi lần từ 5-10 phút.
  3. Lấy xà phòng vót nhọn, nhét vào hậu môn, nằm nghỉ một lát rồi đi đại tiện.
  4. Lấy một ít bột đại hoàng, cho dấm quấy thành hồ, đắp vào rốn, lấy băng dính dính lại.

Những việc cần lưu ý

  1. Táo bón chỉ là một loại triệu chứng, rất nhiều bệnh mạn tính có thể gây nên táo bón, vì vậy chữa táo bón không phải là chữa tận gốc mà chỉ là giải quyết hiện tượng bề mặt, cần tìm ra nguyên nhân chủ yếu dẫn đến táo bón, nhằm đúng bệnh chữa bệnh thì mới có thể giải quyết vấn đề táo bón một cách triệt để.
  2. Có một số người thích ăn sữa bò, thực phẩm làm từ sữa, trứng.v.v. kỳ thực những loại thực phẩm này càng làm táo bón thêm trầm trọng, nên ít ăn là tốt.
  3. Có một số bệnh nhân thích dùng thuốc nhuận tràng, kì thực dùng quá nhiều thuốc nhuận tràng làm cho tính nhậy cảm của đường ruột giảm đi, tạo tính ỷ lại vào thuốc nhuận tràng.
  4. Người tuổi già sức yếu, khí huyết suy nhược, không nên vì một lúc nhẹ nhõm mà cố tháo thụt, để khỏi tổn thương chính khí, bệnh tình thêm trầm trọng.
  5. Phụ nữ có thai phải thận trọng khi dùng thuốc nhuận tràng, để tránh ảnh hưởng thai nhi, thậm chí còn gây sẩy thai.

Hướng dẫn nuôi con bằng sữa mẹ kết hợp sữa công thức

Nhiều bà mẹ không đủ sữa cho con bú, nên phải cho con bú thêm sữa sản xuất theo công nghiệp. Việc cho Bé bú thêm như vậy có thể là tạm thời mà cũng có thể là lâu dài.

Thực hiện theo 2 cách như sau :

CÁCH 1 – Trước khi cho con bú, pha sẵn một bình sữa để vào trong nồi hầm hoặc ủ khăn nước nóng cho sữa ấm vào khoảng 37°c. Cân bé trước khi cho bú mẹ. Sau khi Bé bú mẹ xong, cân lại để biết Bé bú thiếu bao nhiêu, rồi căn cứ vào bảng mức ăn của trẻ em đã biết, cho Bé bú thêm sữa bình cho đủ.

Tuy cho bú 6 lần 1 ngày như vậy rất bận, nhưng sẽ kích thích được các tuyến sữa của mẹ làm việc và tới một – ngày nào đó sẽ đủ sữa cho Bé bú mà không cần bú bình thêm nữa.

CÁCH 2 – Cho Bé bú xen kẽ, một lần bú mẹ, một lần bú bình, nhưng chú ý bữa sữa đầu tiên phải là bú mẹ vì lúc đó mẹ nhiều sữa nhất. Bữa cuối trong ngày nên thu xếp thời gian thế nào để Bé cũng được bú mẹ.

Bé bú 2 thứ sữa như vậy nên phân có thể không ổn định : có thể giống như khi bú mẹ hoặc giống như phân các trẻ bú bình, hoặc lúc thế này, lúc thế kia. Hiện tượng đó là bình thường, không có điều gì đáng lo ngại. Các bà mẹ thường áp dụng cách cho trẻ bú xen kẽ 2 thứ sữa như vậy, để chuẩn bị cai sữa mẹ cho cháu bé.

  • Để Bé phát triển về cảm giác như : vị giác, nhận biết được mầu sắc, mùi của từng loại thức ăn.
  • Tập nhai, tập ăn bằng thìa, uống bằng ly, tách.
  • Tập hòa đồng với mọi người, ngồi ăn cùng cả nhà.

Sự thay đổi các món ăn và được ăn các món ăn mới lạ cũng kích thích sự muốn ăn và sự tiêu hóa.

Từ tháng thứ 4, có thể cho Bé ăn theo kiểu “nếm” cho biết, mỗi thứ một tí. Không nên ép Bé nếu Bé không muốn, vì như thế sẽ gây cho Bé tâm lý sợ ăn sau này.

Bé tập ăn thức ăn đa dạng như thế nào ? Các bác sĩ và các bà mẹ có kinh nghiệm cổ thể góp ý với bạn. Sau đây, chỉ là sự gợi ý, không phải là chế độ ăn bắt buộc cho tất cả các trẻ em.

  • 3 tháng tuổi (đã hết 3 tháng, bắt đầu vào tháng thứ 4)

5 bữa gồm : 4 bữa sữa mẹ hoặc bú bình và 1 bữa sữa pha bột. Mỗi bữa của Bé có lượng chất ăn bằng 160 g. 3 tới 4 giờ một bữa. Bữa sữa pha bột nên cho Bé ăn vào buổi chiều. Pha 1 thìa cà phê bột vào sữa (xem cách pha ở chương sau). Sau bữa ăn, nên cho Bé uống thêm một ít nước cam.

Bé ăn sữa pha bột sẽ ngủ dậy muộn hơn mọi khi.

Nuôi con bằng sữa mẹ kết hợp sữa công thức
Nuôi con bằng sữa mẹ kết hợp sữa công thức
  • 4 tháng tuổi (bắt đầu vào tháng thứ 5)

3 bữa sữa, 1 bình sữa + nước rau, 1 bình sữa pha bột : tất cả là 5 bữa, mỗi bữa 180 g.

Bữa rau nên ăn vào giữa ngày gồm rau nấu nhừ hoặc nghiền nát cho hơi mặn. Từ 2 tới 4 thìa rau nghiền vào khoảng 50 – 100 g rau. Nếu tăng rau thì bớt sữa.

Lịch các bữa ăn như sau :

Bữa 1 : bình sữa

Bữa 2 : bình sữa

Bữa 3 : bình sữa + rau

Bữa 4 : bình sữa

Bữa 5 : sữa + bột

Nếu cho Bé ăn 4 bữa thì lượng thức ăn mỗi bữa nhiều hơn khi cho ăn 5 bữa và bữa ăn sữa + rau vào buổi trưa.

Lượng bột mỗi ngày : 2 thìa cà phê.

Có thể cho Bé uống thêm nước cam.

  • 5 tháng

4 bữa gồm : 2 bữa sữa; 1 bữa thức ăn có cá, thịt nghiền và trứng, 1 bữa súp rau. Sau mỗi bữa có thể ăn thêm tráng miệng. Mỗi bữa khoảng 200 g.

Bữa ăn ở tuổi 5 tháng có sự thay đổi quan trọng : mỗi ngày Bé ăn 4 bữa là gần giống như người lớn rồi. Rất có thể, đối với một số trẻ, bác sĩ khuyên nên vẫn giữ chế độ ăn của các trẻ 4 tháng tuổi thêm một thời gian nữa.

Đến tuổi này, Bé đã phải làm quen với việc ăn bằng thìa để ăn rau, thịt nghiền, lòng đỏ trứng chín nghiền. Nên cho Bé ăn ít một, ngày đầu mỗi lần súc cho Bé một nửa thìa cà phê; 8 ngày sau súc cả thìa; 1 tháng sau cho 2 thìa mỗi lần ăn và mỗi tuần ăn 2 lần. Sau 5 tháng, cho Bé ăn 2 lần trong tuần, thịt nghiền nhỏ. Mỗi lần ăn 2 thìa. Có thể dùng thịt jambon đã bỏ mỡ đem nghiền rồi cho cháu bé ăn.

Mỗi tuần, Bé có thể ăn 1 hay 2 bữa cá. Độ 20 g cá nghiền với rau, mỗi bữa.

Ngoài ra, Bé ăn tráng miệng 1/2 quả chuối nghiền, sáng và chiều. Những loại quả có hột như lê, táo cần phải bỏ hột cẩn thận rồi xay. Bé cũng có thể ăn yaourt, một ít bơ, kem.

Về bột, chỉ nên cho cháu ăn bữa sáng. Chiều nên ăn súp.

Chế độ ăn trong ngày có thể như sau :

  • Sáng : bình sữa pha hoặc không pha bột.
  • Trưa : rau nghiền + trứng, thịt, cá, tráng miệng : chuối hoặc táo hoặc 1/2 ly
  • Chiều : bình sữa.
  • Tối : súp rau + tráng miệng.

Ngoài các bữa ăn, có thể cho Bé uống thêm nước trái cây.

  • 6 tháng

4 bữa gồm 2 bữa sữa; 1 bữa thịt nghiền với trứng hoặc cá và tráng miệng; 1 bữa rau nghiền và tráng miệng.

Chế độ ăn của trẻ 6 tháng giống chế độ của trẻ 5 tháng nhưng nhiều hơn, vào khoảng 225 g mỗi bữa trong đó có 30 g thực phẩm có prôtêin như thịt, cá, trứng.

Nuôi con bằng sữa mẹ kết hợp sữa công thức
Nuôi con bằng sữa mẹ kết hợp sữa công thức

Chế độ ăn trong ngày có thể như sau :

Sáng : 1 bình sữa pha bột.

Trưa : thịt thường hoặc thịt jambon nghiền với cá, trứng; 1/2 ly yaourt.

Chiều : bình sữa.

Tối : súp rau.

  • 7 tháng

Chế độ ăn như trẻ 6 tháng nhưng tăng lượng thực phẩm có prôtêin lên 60 g, tăng thêm rau.

Bé có thể ăn bánh bích-quy bẻ nhỏ hoặc nghiền vụn cho vào sữa.

  • 8 tháng

Chế độ ăn 4 bữa có thể như sau :

  • Sáng : sữa.
  • Trưa : rau, thịt nghiền. Ở tuổi này, Bé có thể ăn các loại thịt bò, bê, cừu, jambon, trứng, cá, yaourt, phó-mát.
  • Chiều : sữa và 1 bánh bích-quy.
  • Tối : cháo đặc, súp nấu với bột Tráng miệng : quả, yaourt.

Ngoài bữa ăn, cho Bé uống nước thêm.

  • 9 tháng

Tới độ tuổi này Bé có thể ăn riêng từng thứ thực phẩm, không cần phải xay chung với nhau như trước. Trong đĩa hoặc bát ăn, để thịt riêng, cá riêng, rau riêng… để tập cho Bé khả năng nhận biết mùi vị và mầu sắc của từng thứ. Thí dụ : màu khoai tây khác màu cà rốt v.v… Tuy vậy, các thức ăn vẫn phải nghiền nhừ.

  • 11 tháng

Ở độ tuổi này, Bé bắt đầu biết nhai. Khoai tây, trước kia phải nghiền nhừ như bột, nay có thể dằm bằng thìa, có những miếng nhỏ Bé có thể nhai lấy. Cần phải chú ý cho Bé tập từ từ, mới đầu ăn những miếng nhỏ khoai, chuối… rồi dần dần cho ăn những miếng lớn hơn. Tuy vậy, Bé chưa ăn cả miếng thịt được.

Bé đã thích tự mình cầm thức ăn đưa lên miệng nên dễ đánh đổ làm bẩn tay v.v… nhưng tỏ ra rất thích thú.

  • 12 tháng

Chế độ ăn : 4 bữa, mỗi bữa khoảng 225g.

Nên cho Bé ăn thêm : óc, trứng làm bánh flan với sữa. Bé đã ăn được cả cái trứng, lòng trắng và lòng đỏ; trái cây cắt thành miếng nhỏ. Bé cũng thích được ngồi ăn cùng cả gia đình và thỉnh thoảng được người lớn cho nếm món này món kia.

  • 15 tháng

Điểm mới : ăn được thịt cắt nhỏ hạt lựu.

Chế độ ăn mỗi ngày 4 bữa 225 g.

  • Sáng : sữa + bánh.
  • Trưa : cơm, canh rau, trứng, 50 g thịt hoặc cá, trái cây.
  • Chiều : sữa + bích quy + mật hoặc mứt.
  • Tối : súp hoặc cháo đặc và tráng miệng yaourt hay bánh
  • 18 tháng

Lương thực phẩm hơi tăng hơn trước. Bé có thể ăn theo giờ giấc của các anh chị.

Sáng : ăn điểm tâm.

Trưa : cơm trưa có thịt, rau trong các món người lớn ăn.

Chiều : một tách sữa hay yaourt và bánh.

Tối : cơm tối và tráng miệng.

  • 2 Tuổi

Bé ăn được mọi thực phẩm giống như người lớn và bắt đầu thích các món lạ. Bé từ chối những món đã ăn mãi hồi trước đây và thích các món mới như dưa chuột, tôm, bít-tết, sà lách trộn dầu giấm v.v…

Nói tóm lại là ở tuổi này. Bé đã biết thưởng thức món ăn ngon và muốn được thay đổi thức ăn như người lớn. Tuy vậy, tuyệt đối không được cho Bé ăn những món gì có rượu.

Trên đây là những nét phác họa sự thay đổi trong chế độ ăn của trẻ với độ tuổi lớn dần của chúng. Tuy nhiên, không phải tất cả các trẻ đều giống hệt nhau. Có đứa trẻ 3 tháng, khi được cho ăn sữa cho thêm ít bột vào bữa tối tỏ ra rất thích và ngủ yên cả đêm, khiến bố mẹ cũng được một giấc ngon tới sáng. Lại có những trẻ khác, tới tháng thứ 6 vẫn chỉ bú được sữa mà thôi. Việc tăng lượng thức ăn mỗi bữa, tập cho Bé ăn bằng thìa, cho ăn các chất đặc hơn hoặc thịt cá cắt thành miếng v.v… phải thực hiện từ từ và tùy thuộc vào mỗi trẻ, mỗi khác.