Blog Trang 488

Dấu hiệu, chăm sóc và điều trị bệnh Sởi

Bệnh Sởi là bệnh nhiễm virus, rất dễ lây, thường gặp ở trẻ em, đặc điểm là viêm long ở kết mạc mắt, niêm mạc đường hô hấp và tiêu hoá, sau đó phát ban đặc hiệu ngoài da.

Bệnh thường lưu lại những biến chứng nặng ở trẻ em.

MẦM BỆNH

Mầm bệnh thuộc nhóm ARN Paramyxovirus, người là ký chủ tự nhiên. Virus được tìm thấy trong dịch ở họng và máu bệnh nhân ở cuối thời kỳ ủ bệnh và một thời gian ngắn sau khi phát ban. Nó có thể sống ít nhất 34 giờ trong không khí, không chịu được sự khô ráo. Có thể cấy virus trên tế bào thận người và nhau người.

DỊCH TỄ

  • Nguồn bệnh

Trẻ bị bệnh, đặc biệt là trong giai đoạn đầu trước khi phát ban.

  • Đường lây truyền

Khi bệnh nhân hắt hơi, ho, nói chuyện, các hạt dịch nhầy trong chứa đầy virus bắn ra ngoài, lơ lửng trong không khí và bám vào đường hô hấp trên của người khác.

  • Khối cảm thụ

Tất cả trẻ em chưa có miễn dịch đều có thể nhiễm virus, lứa tuổi bị nhiều nhất là 2-6 tuổi.

Bệnh dễ phát thành dịch theo chu kỳ 2-4 năm một lần. Tuy nhiên, người ta vẫn gặp bệnh ở khắp nơi và quanh năm, mùa mưa nhiều hơn mùa nắng.

BỆNH SINH

Virus xâm nhập tế bào niêm mạc của đường hô hấp trên, sau đó thoát vào máu và tăng sinh trong tê bào hệ lưới mô bào. Virus lan truyền qua đường máu đến da, ban đỏ chính là viêm vách huyết quản, nơi có sự lắng đọng kháng nguyên – kháng thể. Sự hoại tử tế bào thượng bì và sự có mặt các tế bào khổng lồ có nhiều nhân là đặc trưng của các thương tổn.

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

Thời kỳ ủ bệnh: 10-12 ngày.

Thời kỳ khởi phát: (Thời kỳ viêm long) 4-5 ngày.

Hội chứng nhiễm khuẩn:

Xuất hiện sốt 38,5-40°C, kèm theo mệt mỏi, nhức đầu, đau cơ khớp.

Xuất tiết niêm mạc:

Triệu chứng luôn có ở mắt: Đỏ kết mạc, chảy rntóc mắt, phù mi mắt, sợ ánh sáng.

ở mũi: Sổ mũi, hắt hơi, hiếm khi chảy máu cam.

ở thanh, phế quản: Khàn tiếng, ho khan, hay có đồm, khò khè.

ở hệ tiêu hoá: Tiêu chảy, đôi khi đau bụng nhẹ.

Dấu Koplik:

Rất đặc thù cho bệnh sởi: ở niêm mạc má ngang với răng hàm 1, niêm mạc màu đỏ hồng, trên có những chấm trắng nhỏ. Dấu koplik tồn tại 24-48 giờ và mất đi 1 ngày sau khi phát ban ở da.

Dấu hiệu Koplik trong bệnh sởi
Dấu hiệu Koplik trong bệnh sởi

Thời kỳ toàn phát: (Thời kỳ phát ban). Từ 5-7 ngày.

Trước khi nổi ban, nhiệt độ tăng vọt lên cao.

Ban có đặc điểm:

Ban hồng, tròn, 3-6 mm, rải rác hay từng đám.

Bắt đầu ở chân tóc, sau tai, rồi lan dần đến nơi khác theo thứ tự: mặt, cổ, lưng, bụng và các chi, sau khi lan khắp cơ thể, ban có thể tồn tại 2-3 ngày rồi lặn đi theo thứ tự như khi lên ban, để lại các vết thâm như các vết da hổ.

Khi ban xuất hiện, các dấu hiệu lâm sàng khác giảm dần.

Hình ảnh trẻ bị sởi
Hình ảnh trẻ bị sởi

Hồi phục

Bệnh nhân ăn uống khá hơn, tổng trạng hồi phục lại dần.

Về lâm sàng có thể có:

  • Sởi lành tính.
  • Sởi ác tính: Phát ban ít, có hội chứng ác tính (sốt cao, mê sảng, xuất huyết, tiểu ít…), dễ đi đến tử vong.

BIẾN CHỨNG

  • Viêm phổi

Hoặc do chính virus sởi, hoặc do bội nhiễm phế cầu, liên cầu, tụ cầu vàng, Haemophilus Influenzae…

Bệnh nhân vẫn tiếp tục sốt sau khi phát ban, ho, phổi có ran.

  • Viêm tai giữa

Xảy ra trong thời kỳ phát ban hay hồi phục. Bệnh nhân sốt cao, tai chảy mủ vàng, nếu can thiệp trễ màng nhĩ có thể bị thủng.

  • Viêm thanh quản

Có thể xuất hiện sớm trong thời kỳ viêm long hoặc trễ trong thời kỳ hồi phục. Bệnh nhân bị phù nề thanh quản, khàn tiếng, khó thở.

  • Viêm não tuỷ

Hiếm gặp nhưng biến chứng trầm trọng vì có thể dẫn đến tử vong.

  • Một số biến chứng khác

Cam tẩu mã.

Hoại tử môi, miệng, má.

Loét giác mạc do thiếu vitamin A.

Suy dinh dưỡng do kiêng ăn không đúng cách.

CHẨN ĐOÁN

Dựa vào các yếu tố.

Dịch tễ học: Tiếp xúc (+), không tiêm chủng ngừa.

Lâm sàng

Sốt.

Xuất tiết.

Dấu Koplik.

Tính chất ban.

Xét nghiệm

Tìm tế bào Warthin • Pinkeldey (tế bào khổng lồ đa nhân) ở dịch xuất tiêt.

Phản ứng huyết thanh học: Gia tăng hiệu giá 4 lần ở 2 lần thử có ý nghĩa chẩn đoán.

Phân lập virus trong chất tiết.

ĐIỀU TRỊ

Chưa có thuốc đặc trị.

Điều trị ở đây chủ yếu là chữa triệu chứng, săn sóc, ngăn ngừa và điều trị biến chứng.

  • Dinh dưỡng: Thức ăn đầy đủ, dễ tiêu, chú ý cung cấp vitamin A.
  • Vệ sinh răng miệng, da, mắt để tránh nhiễm khuẩn, lở loét
  • Điều trị triệu chứng

Hạ sốt: Acetaminophen.

Cho uống nhiều nước.

Giảm ho: Dextromethophan, Codein…

Không dùng thuốc kháng sinh khi chưa có chỉ định.

  • Điều trị các biến chứng

Bội nhiễm: Kháng sinh.

Viêm thanh quản: cho thở oxy.

DỰ PHÒNG

Vệ sinh cá nhân và vệ sinh hoàn cảnh sống.

Cách ly trẻ bệnh.

Chủng ngừa theo lịch.

CHĂM SÓC BỆNH NHÂN BỊ BỆNH SỞI

Nhận định

  • Tình trạng hô hấp:

Quan sát da, móng tay, chân, kiểu thở, tình trạng tăng tiết.

Nếu bệnh nhân suy hô hấp cần thông khí cho thở o xy.

Bệnh sởi có biến chứng viêm  phổi, viêm não tuỷ

  • Tình trạng tuần hoàn:

Mạch.

Huyết áp.

Cần theo dõi mạch, huyết áp 30 phút/1 lần, 1 giờ/1 lần, 3 giò/1 lần.

  • Tình trạng phát ban:

Đặc biệt là thời kỳ toàn phát.

Trước khi phát ban có dấu hiệu Koplik.

Đầu tiên ban mọc sau tai, sau lan dần ra hai bên má, cổ, ngực, bụng và ở phần chi trên.

24 giờ sau ban lan ra sau lưng, hông và chi dưới.

Sau 2 — 3 ngày ban lan toàn thân.

Ban màu hồng nhạt, ấn vào mất đi.

Xen kẽ là những chỗ da lành.

  • Tình trạng chung:

Đo nhiệt độ.

Viêm long:

+ ở mắt.

+ ở mũi.

+ ở đường hô hấp.

Khám họng: Tìm dấu Koplik.

Theo dõi ý thức, vận động.

Đo nước tiểu 24 giờ.

Có kế hoạch chăm sóc thích hợp, để thực hiện kịp thời chính xác đầy đủ các xét nghiệm cơ bản.

Nếu bệnh nhân hôn mê phải cho ăn qua ống thông dạ dày.

Xem bệnh án để biết:

+ Chẩn đoán.

+ Chỉ định thuốc.

+ Xét nghiệm.

+ Các yêu cầu theo dõi khác.

+ Yêu cầu dinh dưỡng: Có thể cho bệnh nhân ăn đường miệng không.

Lập kế hoạch chăm sóc

Bảo đảm thông khí.

Theo dõi tuần hoàn.

Theo dõi các biến chứng.

Thực hiện các y lệnh:

Theo dõi các dấu hiệu sinh tồn. Phát hiện các dấu hiệu bất thường để xử lý kịp thời. –

Chầm sóc hệ thống cơ quan, nuôi dưỡng.

Giáo dục sức khoẻ.

Thực hiện kế hoạch chăm sóc

Bảo đảm thông khí:

Đặt bệnh nhân nằm ngửa, đầu nghiêng một bên.

– Đề phòng hít phải chất nôn, chất xuất tiết.

Cho thở oxy.

Theo dõi nhịp thở, tình trạng tăng tiết, sự tím da, môi và đầu ngón.

Hút đờm nhớt. Tuỳ tình trạng bệnh nhân.

Theo dõi tuần hoàn:

Lấy mạch, huyết áp, nhiệt độ ngay khi tiếp nhận bệnh nhân, báo cáo ngay bác sĩ. Chỉ dùng thuốc nâng huyết áp khi bệnh nhân có tụt huyết áp mặc dù đã truyền dịch đủ.

Tuỳ tình trạng bệnh nhân và chỉ định của bác sĩ.

Chuẩn bị ngay dịch truyền qua đường tĩnh mạch, thuốc nâng huyết áp, dụng cụ truyền dịch để thực hiện theo y lệnh của bác sĩ.

Theo dõi sát mạch, huyết áp, nhiệt độ 30 phút/ 1 lần, 1 giờ/ llần, 3 giờ/ 1 lần.

  • Theo dõi, ngừa biến chứng:

Viêm phổi.

Viêm tai giữa.

Viêm thanh quản.

Viêm não tuỷ.

Cam tẩu mã.

Viêm ruột kéo dài.

Loét giác mạc mắt.

Suy dinh dưỡng nặng.

Để phát hiện kịp thòi và báo cáo bác sĩ điều trị các biến chứng

  • Thực hiện các y lệnh của bác sĩ chính xác, kịp thời:

Thuốc.

Các xét nghiệm.

Theo dõi dấu hiệu sinh tồn.

  • Chăm sóc hệ thống cơ quan, nuôi dưỡng:

Lau mát nếu có sốt cao.

Co giật: Giữ an toàn bệnh nhân, cho thuốc chống co giật theo chỉ định.

Giữ ấm cho bệnh nhân.

Biết được diễn tiến của bệnh.

Sốt cao là có bội nhiễm và cần lau mát.

Cho bệnh nhân nghỉ ngơi: Trẻ thường quấy khóc, bứt rứt.

Vệ sinh răng, miệng, da, mắt: Súc miệng chà răng, rửa tay sạch, dùng kháng sinh nhỏ mắt, tắm rửa sạch sẽ để tránh những trường hợp nhiễm khuẩn lở loét như nhọt ở da, loét ép. Đặc biệt là vi khuẩn yếm khí tấn công gây cam tẩu mã.

Theo dõi đau nhức vùng tai, vùng xương chũm, có chảy nước mủ hôi không ? Chăm sóc tai nếu có viêm tai giữa.

Theo dõi phân và dấu hiệu mất nước nếu tiêu chảy kéo dài. Bù nước, điện giải.

Tẩy uế phân, nước tiểu.

Nuôi dưỡng:

+ Không nên kiêng cữ thái quá, dùng thức ăn có nhiều đạm, dễ tiêu để tăng mức độ dinh dưỡng, đặc biệt là vitamin A nên cho uống vitamin A để tránh cho trẻ bị mù mắt.

+ Không cho ăn được phải nuôi bằng truyền dịch hoặc cho ăn qua thông dạ dày để bệnh nhân có đủ chất dinh dưỡng.

Giáo dục sức khoẻ:

Ngay từ khi bệnh nhân mới vào, phải hướng dẫn nội quy khoa phòng cho bệnh nhân.

Bằng thái độ dịu dàng để bệnh nhân an tâm điều trị.

Tránh tiếp xúc với trẻ lên Sởi.

Cách ly trẻ bệnh tại bệnh viện.

Chủng ngừa Sởi: khi 9 tháng tuổi. Thuốc chủng là virus Sởi sống giảm độc lực. Cần chú ý đối với trẻ có bệnh cấp tính hoặc trẻ bị suy giảm miễn dịch. Hiện nay, thuốc chủng Sởi có thể phối hợp vổi các loại thuốc chủng ngừa khác như sốt bại liệt, ho gà, uốn ván, bạch hầu; Hiệu lực các loại thuốc này không bị giảm đi.

Đánh giá

Được đánh giá là chăm sóc tốt nếu:

Thông thường Sởi bay theo trình tự như khi xuất hiện, để lại những vết thâm trên mặt da.

Bệnh nhân ăn uống khá hơn, tổng trạng hồi phục lại dần.

Phương thuốc Bổ khí trong Đông y và cách Hiểu sâu sắc

Trung y danh từ khí liên quan đến khá nhiều doanh khí, vị khí, cốc khí, chân khí, nguyên khí, thận khí, thanh khí, trọc khí…Còn có khí ngũ tạng chưa nói, bổ khí tễ là khí gì? Trên thực tế danh từ khí này là kết hợp của 3 khí. Bởi gọi 3 khí chính là tông khí, trung khí, nguyên khí. Tông khí là ở trong ngực, trong bể khí, đản trung là bể khí, trung khí chính là khí tỳ vị, còn chính là nguyên khí, tức thận khí. Nhưng thực chất chính là hai loại khí, tại sao vậy? Vì bên trên Tông khí là cốc khí của cơ thể tương hợp với đại khí, tức gọi là “ chân khí giả, sở thụ tự thiên, dữ cốc khí bình nhi sung thân giả dã”. Trên thực tế là khí thở của người. Nhưng là Trung y khi suy xét khí thở của cơ thể, suy xét đằng sau cốc khí, vì con người không có cốc khí thì không cách nào hấp thu đại khí vào được, cơ thể người không có khí, dưỡng khí bên ngoài có thể hít vào được không? Không được. Nghe giống chuyện đùa nhưng là sự thực. Từ chỗ này cũng có thể thấy Trung y đặc biệt nhấn mạnh nội nhân, nhân mạnh điều kiện bên trong. Nên suy xét từ phương diện này, tông khí và trung khí có thể nói là một, là chuyện của điều kiện nội tại, nên nhiều từ khí vậy, trên thực tế chỉ còn là vấn đề của Trung khí và Thận khí. Mà trong bổ trung ích khí nói nhiều là vấn đề trung khí, cũng chính là bổ khí tỳ vị, cũng bao gồm phế khí. Con người được khí từ cốc (đồ ăn), ngũ tạng đều bẩm khí từ cốc, con người dựa vào thủy cốc mà sống, nên cốc khí chính là dựa vào tinh vi của thủy cốc mà hóa sinh. là qua trung tiêu mà ra, nên “ ẩm nhập  vu vị, du dật tinh khí, thượng du vu tỳ, tỳ khí tán tinh, thượng quy vu phế, thông điều thủy đạo, thương du bàng quang, thủy tinh tứ bố, ngũ kinh binh hành”. Nó là qua tỳ vị sau đó đi đến phế.  Do phế chủ khí toàn thân, thông điều bách mạch, mà nguồn gốc của phế khí ở tỳ vị, nên bổ khí chủ yếu mà nói là bổ khí của tỳ vị. Do đó chứng khí hư nói ở đây chủ yếu tương đồng với chứng tỳ, phế hư.

Trên thực tế chứng khí hư chính là nói chứng tỳ phế lưỡng hư. Ví dụ nói, khí hư, mệt mỏi vô lực là tỳ hư. Tỳ chủ cơ nhục nên tỳ hư thì nặng nề vô lực, mệt mỏi, là vì tỳ chủ tứ chi, tỳ khí bất túc, không thể dưỡng tứ chi. Tại sao nói “ hình bất túc giả, ôn chi dĩ khí”? vì tỳ chủ cơ nhục là nguồn sinh khí, qua phế phân bố toàn thân, nên “ tỳ khí túc tắc cơ nhục phong mãn”. Hình bất túc là do khí hư nên ôn cái khí. Còn nữa, do khí hư, khí thì đoản, hơi tý là suyễn, nên động nói là thở gấp. Đồng thời do khí hư, sắc mặt trắng xám, tức trắng mà không tươi cũng thuộc khí hư. Khí hư chủ yếu thuộc tỳ nên ăn uống không ngon. Do trung khí bất túc dẫn đến phế khí bất túc nên không muốn nói chuyện, ngại nói, đồng thời thanh âm giảm. Vì thanh âm do dương khí phát ra, nên nói nhiều hao khí, nói chuyện quá nhiều thì thương khí. Đồng thời do khí bất túc thanh âm giảm mà nhỏ. Vấn đề này trên lâm sàng cần chú ý, thanh âm thấp nhỏ, không phải nghe từ họng bệnh nhân vì có khi bệnh nhân vốn thanh âm đã cao, mà nên nghe ở cuối câu của họ, nên chú ý ngữ âm có phải trong trẻo, đặc biệt là cuối câu có phải trước sau như như một không, cuối câu không đủ thì là khí hư. Còn trong tình trạng bình thường càng nói càng nhanh thì e rằng nói 1 câu cũng không hết, sao lại vậy? vì khí của họ không đủ, muốn nhanh chóng nói ra mấy câu này cho xong, không phải biểu hiện của tranh luận kích động lẫn nhau mà là xuất hiện trong điều kiện bình thường. Nên cần hay lắng nghe, nghe kỹ, vừa nghe là đã nghe ra rồi.

Nhân sâm vị thuốc Bổ khí trong Đông y
Nhân sâm vị thuốc Bổ khí trong Đông y

Còn tạo thành tiếng sôi bụng, đại tiểu tiện đều không thay đổi. Trung khí bất túc, tỳ vị, phế thăng thanh giáng trọc, thông điều thủy đạo thất điều. Còn có trường hợp, thoát giang, sa tử cung ở trên đã bàn. Trên thực tế sa nội tạng là do khí hư mà thành, vì Trung y không hiểu được là dây chằng hay tạng bị sa xuống, nhưng thông qua bổ khí thì có thể giải quyết vấn đề sa xuống. Sa dạ dày, sa gan, thậm chí sa thận đến thoát giang, sa tử cung… đều thông qua bổ khí để điều trị, khi nói về bổ trung ích khí thang sẽ nói lại vấn đề này.

Ngoài ra còn vài kiêm chứng, không phải là chứng trạng thường thấy của khí hư, không phải chứng chủ yếu, nên ở đây không bàn. Như tâm hoảng tâm quý, cũng có thể có huyết hư cũng có thể có khí hư, tâm khí bất túc thì thấy tâm quý. Còn 1  vấn đề chính là cam ôn trừ nhiệt, khí hư phát nhiệt, không chắc khí hư đều phát nhiệt nhưng khí hư có thể phát nhiệt, vấn đề này bàn cụ thể trong phương tễ.

Về rêu lưỡi, mạch tượng khá dễ nhận ra, thường dễ nhớ nhật là lưỡi có hằn răng là khí hư. Nhưng lưỡi của khí hư còn phải chú ý 1 cái, chính là lưỡi nhạt, có hằn răng. Nếu người gầy, lưỡi đỏ, thì không phải vấn đề khí hư. Đến mức lưỡi bè chính là khí hư dần sang đến dương hư. Đây chính là khí hư, chủ yếu bổ khí. Điều trị chủ yếu đều là tỳ hư vị hư, trung khí bất túc sinh ra.

Bên dưới nói về nguyên tắc phối ngũ. Nguyên tắc phối ngũ bổ khí, chủ yếu dùng cam ôn ích khí, đây chính là nội dung bắt đầu nhấn mạnh. Vị ngọt quy kinh tỳ, dễ lý giải. Vì sao cần “lao giả ôn chi”? vì lao tắc hao khí. Vì sao thuốc dùng thuốc ôn? Nếu khí thuộc dương, tại sao không dùng thuốc nhiệt? vì thiếu hỏa mới sinh khí, “thiếu hỏa sinh khí, tráng hỏa thực khí”, “thiếu hỏa chi khí tráng, tráng hỏa chi khí suy”. Nên khi bổ khí, cần nắm rõ điểm này, đây là thiếu hỏa ôn. Khi bổ khí thường cần phối ngũ một chút thuốc hành khí, lý khí, là vì khi khí hư công năng vận hành, thăng giáng của bản thân bất túc, chỉ dùng thuốc bổ khí dễ sinh ra khí ủng. Khí hư, động lực đã không đủ, lại dùng thuốc cam ôn, 1 là hoãn thì tắc ở đó, một là sau ủng khí cơ không thông, thì càng bị ảnh hưởng, khiến tỳ vị càng nhược, công hiệu phương dược cũng không dễ phát huy được. Do đó khi bổ khí, thường nhất định phối ngũ với thuốc hành khí và lý khí. Vì khí là ôn, ôn dược quá nhiều, hoặc ôn dược dùng trong thời gian quá dài sẽ ảnh hưởng đến huyết. Do đó khi bổ khí, cần phối hợp thuốc bổ huyết. Có khi không thấy rõ thiếu máu nhưng sẽ thấy huyết h. Ví dụ vừa nói mặt khí hư là trắng xám, mặt huyết hư là vàng úa, nhưng cũng thấy trắng mà hơi tối, từ góc độ này cũng cần bổ một chút huyết. Từ lý luận trên, huyết là do khí sinh, khí hư tự nhiên là trung tiêu tỳ vị hư, vậy trung tiêu tỳ vị hư thì chỉ là không thể sinh khí? Khí huyết đều xuất ở tỳ vị, chỉ là khi thấy chỉ thấy được khí hư không thấy được huyết hư, nên chúng ta bổ khí không bổ huyết. Nhưng có những khi xem xét từ phương diện này chúng ta cũng thêm một chút thuốc bổ huyết thích hợp. Đây là mấy phương diện phối ngũ chủ yếu.

Tóm lại, trước đây trong bổ khí còn nói 1 câu này “ tỳ là gốc sinh khí”, khí nói ở đây là trung khí, là do tỳ vị sinh ra, nên tỳ là nguồn sinh khí. “ phế là then cửa của chủ khí”, nên trong bổ khí chú ý hai chữ này, cũng chính là nói tại sao khi dùng bổ khí dùng lượng nhỏ thuốc lý khí, hành khí.

Bổ khí là bổ cái gì? Khí chủ yếu của cơ thể có quan hệ giữa tiên thiên và hậu thiên, nguyên khí tiên thiên tàng ở thận, khí của thủy cốc hậu thiên hóa sinh ở tỳ vị, do khí tỳ vị đưa lên phế, lại hít vào đại khí tụ ở ngực, trên thực tế còn là hai cái. Nên lần trước nói “tỳ là nguồn sinh khí, phế là then chốt của chủ khí”, ở đây còn có một câu có thể biết được, “ thận là gốc của nguyên khí”. Nên 3 loại khí nói đoạn đầu trên thực tế là hai loại, do đó trong bổ khí chủ yếu là chữa tỳ, tỳ phế. Bổ khí tễ ở đây chủ yếu là tỳ phế khí hư. Bàn về vấn đề nguyên tắc phối ngũ của bổ khí một chút, chủ yếu là dựa theo lý luận của cam ôn, vì cam ôn có thể bổ trung bổ tỳ, ôn năng sinh khí, tức thiếu hỏa sinh khí.

Làm Thế Nào Để Điều Trị Bệnh Giảm Mật Độ Xương?

Khi bạn bị giảm mật độ xương (osteopenia), xương của bạn yếu hơn so với trước đây, nhưng không đủ yếu để được chẩn đoán là loãng xương (osteoporosis). Đó là một tình trạng mà xương của bạn mỏng manh đến mức dễ gãy. Nếu xương của bạn tiếp tục mỏng đi theo thời gian, tình trạng giảm mật độ xương có thể biến thành loãng xương.

Nhưng điều này không nhất thiết phải xảy ra. Một loạt các phương pháp điều trị cho bệnh giảm mật độ xương và những thói quen lành mạnh có thể giúp củng cố xương của bạn, làm chậm quá trình giảm mật độ xương và ngăn ngừa loãng xương.

Loãng xương là bệnh lý xương khớp có tính chất toàn thân do chất lượng xương bị giảm
Loãng xương là bệnh lý xương khớp có tính chất toàn thân do chất lượng xương bị giảm

Tự Chăm Sóc Bệnh Giảm Mật Độ Xương

Nếu bạn có xương khỏe mạnh, một lối sống lành mạnh có thể giúp giữ cho chúng vẫn như vậy. Nếu bạn đã bị giảm mật độ xương, những lựa chọn lối sống tương tự có thể làm giảm khả năng bạn mắc loãng xương. Hãy cân nhắc những mẹo sau để duy trì sức khỏe của xương:

Giảm Mật Độ Xương và Tập Thể Dục

Giống như cơ bắp, xương trở nên mạnh mẽ hơn khi bạn sử dụng chúng. Những bài tập tốt nhất cho xương là các bài tập chịu trọng lực, yêu cầu cơ thể bạn làm việc chống lại trọng lực. Điều này bao gồm đi bộ, leo cầu thang, nhảy múa và nâng tạ.

Giảm Mật Độ Xương và Chế Độ Dinh Dưỡng

Để có xương khỏe mạnh, bạn cần một chế độ ăn giàu canxi và vitamin D. Các thực phẩm giàu canxi bao gồm:

  • Sản phẩm từ sữa như sữa chua, sữa ít béo và phô mai
  • Rau xanh như bông cải xanh và cải thìa
  • Cá mòi và cá hồi có xương
  • Đậu phụ

Cơ thể bạn tự sản xuất vitamin D khi ánh sáng mặt trời chiếu vào da. Nếu bạn dành một vài phút ngoài trời dưới ánh nắng mỗi ngày, bạn sẽ có được ít nhất một phần vitamin D mà bạn cần. Tuy nhiên, đừng ở ngoài quá lâu — điều này làm tăng nguy cơ mắc ung thư da. Một số thực phẩm tự nhiên có vitamin D, trong khi một số thực phẩm khác như ngũ cốc và sản phẩm từ sữa được bổ sung thêm. Nguồn cung cấp tốt bao gồm:

  • Cá như cá hồi, cá ngừ và cá thu
  • Dầu gan cá
  • Gan bò
  • Phô mai
  • Lòng đỏ trứng
  • Ngũ cốc ăn sáng, nước trái cây, sản phẩm từ sữa, sữa chua và bơ thực vật được bổ sung

Đừng hút thuốc và hạn chế đồ uống có cồn. Nếu bạn hút thuốc, hãy cố gắng bỏ. Nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa việc hút thuốc lá và mật độ xương thấp hơn.

Nếu bạn uống rượu, hãy làm điều đó một cách điều độ. Điều này có nghĩa là không hơn một ly mỗi ngày cho phụ nữ và hai ly mỗi ngày cho nam giới. Uống quá nhiều bia, rượu vang hoặc rượu mạnh có thể làm mất cân bằng lượng canxi trong cơ thể bạn và thay đổi cách cơ thể sản xuất hormone và vitamin cần thiết cho xương khỏe mạnh. Uống quá nhiều cũng làm tăng khả năng bạn bị ngã, dẫn đến nguy cơ gãy xương.

Giảm Mật Độ Xương và Giảm Lượng Muối và Caffeine

Cả hai có thể làm cơ thể bạn mất nhiều canxi và xương hơn. Cà phê và nước ngọt có chứa caffein đã được liên kết với bệnh giảm mật độ xương, vì vậy hãy cố gắng giảm bớt hoặc chuyển sang loại không chứa caffein. Kiểm tra nhãn của thực phẩm đóng gói để xem có bao nhiêu muối (hoặc natri) trong một phần ăn.

Những Cách Khác Để Quản Lý Bệnh Giảm Mật Độ Xương Tại Nhà

Nguy cơ gãy xương khi bạn bị giảm mật độ xương là rất cao. Giảm nguy cơ ngã bằng cách:

  • Loại bỏ những vật cản trong nhà có thể khiến bạn vấp ngã, chẳng hạn như thảm lỏng hoặc dây điện
  • Thêm lan can vào tường phòng tắm hoặc bồn tắm
  • Giới hạn việc sử dụng thuốc ngủ
  • Đeo kính hoặc kính áp tròng nếu cần

Thuốc Điều Trị Bệnh Giảm Mật Độ Xương

Trong một số trường hợp, đặc biệt nếu bạn đã gãy xương, bác sĩ có thể kê thuốc để giảm nguy cơ loãng xương và ngăn ngừa thêm gãy xương. Các loại thuốc có thể điều trị bệnh giảm mật độ xương hoặc ngăn ngừa loãng xương bao gồm:

  • Bisphosphonates. Những loại thuốc này làm chậm quá trình tự nhiên của cơ thể trong việc phá vỡ xương. Bạn có thể giữ được mức xương hiện tại hoặc thậm chí tăng một chút mật độ xương. Bisphosphonates là những loại thuốc chính mà bác sĩ sử dụng để ngăn ngừa và điều trị loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh. Chúng bao gồm axit alendronic (Fosamax), axit ibandronic (Boniva), axit risedronic (Actonel) và axit zoledronic (Reclast). Hầu hết bisphosphonates là viên uống mà bạn thường dùng một lần một tuần hoặc một lần một tháng. Nhưng Reclast có dạng tiêm, thường là một lần mỗi năm.
  • Liệu pháp thay thế hormone. Trước đây là phương pháp điều trị phổ biến để ngăn ngừa mất xương, nhưng bác sĩ hiếm khi sử dụng bây giờ vì nghiên cứu cho thấy nó làm tăng khả năng xuất hiện cục máu đông ở chân và phổi, cùng với các vấn đề sức khỏe khác. Đôi khi, nếu liệu pháp thay thế hormone giúp ai đó với triệu chứng mãn kinh, bác sĩ có thể khuyên họ tiếp tục dùng để ngăn ngừa mất xương. Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn để xem liệu bạn có nên xem xét liệu pháp này hay không.
  • Teriparatide (Forteo). Nó hoạt động giống như một hormone do tuyến cận giáp của bạn sản xuất. Đây là loại thuốc đầu tiên giúp cơ thể tạo ra mô xương mới. Bạn dùng nó hàng ngày dưới dạng tiêm dưới da.
  • Raloxifene (Evista). Loại thuốc này có thể ngăn ngừa và điều trị loãng xương. Nó cũng có thể làm giảm khả năng mắc ung thư vú, nhưng các nhà khoa học cần thêm nghiên cứu để xác định điều đó. Đây là viên uống mà bạn dùng một lần mỗi ngày.

Mỗi loại thuốc này có rủi ro và tác dụng phụ riêng, vì vậy hãy chắc chắn bạn đã nói chuyện với bác sĩ về cách chúng sẽ ảnh hưởng đến bạn trước khi dùng.

Các Phương Pháp Điều Trị Tự Nhiên cho Bệnh Giảm Mật Độ Xương

Bác sĩ của bạn có thể kê thuốc nếu bạn đã gãy xương. Nhưng nhiều người thử nhiều loại thực phẩm bổ sung dinh dưỡng và thảo mộc trước khi họ có gãy xương để củng cố xương của họ. Những loại chính là canxi và vitamin D.

Thực Phẩm Bổ Sung Giảm Mật Độ Xương

Hầu hết người lớn nên tiêu thụ từ 1,000-1,200 miligam canxi và 600-800 đơn vị quốc tế (IU) vitamin D mỗi ngày. Vitamin D giúp cơ thể bạn hấp thụ nhiều canxi hơn, và cả hai chất dinh dưỡng hỗ trợ sức khỏe xương tổng thể của bạn. Nếu bạn không nhận đủ canxi và vitamin D trong chế độ ăn uống của mình và bạn không dành nhiều thời gian dưới ánh nắng mặt trời, hãy hỏi bác sĩ xem bạn có nên uống bổ sung hay không. Nhiều loại có sẵn mà không cần kê đơn, mặc dù bác sĩ của bạn có thể kê cho bạn nếu cần.

Các thực phẩm bổ sung dinh dưỡng khác có thể giúp củng cố xương, nhưng cho đến nay, có rất ít nghiên cứu cho thấy chúng hiệu quả như thế nào. Những thực phẩm bổ sung này bao gồm:

  • Boron
  • Đồng
  • Dehydroepiandrosterone (DHEA)
  • Axit eicosapentaenoic (EPA) và axit docosahexaenoic (DHA) — hai axit béo omega-3 có trong cá
  • Axit folic, vitamin B6 và vitamin B12
  • Mangan
  • Silicon
  • Strontium
  • Kẽm

Các loại thảo mộc có thể hữu ích bao gồm:

  • Cây cohosh đen
  • Cỏ đuôi ngựa
  • Hoa clover đỏ

Trước khi bạn dùng bất kỳ thực phẩm bổ sung thảo dược hoặc dinh dưỡng nào, hãy nói chuyện với bác sĩ về chúng.

Những Điểm Cần Nhớ

Ai cũng mất một số mật độ xương khi họ già đi, nhưng nếu không điều trị, bệnh giảm mật độ xương có thể tiến triển thành loãng xương. Nếu bạn không nhận đủ canxi và vitamin D qua chế độ ăn uống của mình, bác sĩ có thể khuyên bạn nên bổ sung để tăng cường lượng chất dinh dưỡng cần thiết cho xương. Nhưng nếu bạn đã gãy xương, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn có thể khuyên bạn nên dùng thuốc kê đơn để giúp ngăn ngừa mất xương hơn nữa và giảm nguy cơ gãy xương trong tương lai.

Câu Hỏi Thường Gặp Về Bệnh Giảm Mật Độ Xương

Làm thế nào để ngăn ngừa bệnh giảm mật độ xương tiến triển?

Giữ cho cơ thể hoạt động và nhận đủ canxi và vitamin D qua chế độ ăn uống và thực phẩm bổ sung để giữ cho triệu chứng bệnh giảm mật độ xương của bạn không trở nên tồi tệ hơn.

Cây bông trang đỏ – Tác dụng chữa bệnh của hoa bông trang đỏ

Cây bông trang đỏ thân gỗ nhỏ, phát triển nhiều cành, lá dày. Hoa màu đỏ hồng, mọc ở ngọn cành, cụm hoa đẹp. Cây bông trang đỏ mọc hoang và được trồng làm cảnh vì có hoa đẹp, thu hái hoa từ tháng 5 đến tháng 10. Theo Đông y, hoa bông trang đỏ được dùng làm thuốc chữa bệnh. Hoa có vị đắng hơi ngọt, tính mát, tác dụng thanh nhiệt giải độc, hành khí giảm đau, hoạt huyết tán ứ, chữa kiết lỵ, khí hư, thống kinh, ho ra máu, viêm phế quản, xuất huyết.

Cây bông trang đỏ mọc hoang và được trồng làm cảnh vì có hoa đẹp
Cây bông trang đỏ mọc hoang và được trồng làm cảnh vì có hoa đẹp

* Thuốc ứng dụng:

Bài 1. Thuốc chữa bệnh mẩn ngứa

+ Hoa bông trang đỏ 20g
+ Kê 10g
+ Rau sam 15g
(Tất cả đã sấy khô).
Các vị thuốc cho vào nồi cùng 600ml nước, đun nhỏ lửa. Chắt lấy 200ml nước đặc. Người bệnh chia 3 lần uống trong
ngày, mỗi lần 60ml trước bữa ăn. Uống liền 3-5 ngày.
+ Hoa bông trang đỏ 20g
+ Ké đầu ngựa 15g
+ Mã đề 15g
+ Rễ cỏ tranh 10g
Thuốc sắc uống như bài trên.
Bên ngoài dùng ngải cứu 100g, lá sả 50g, hương nhu 50g, lá bưởi, lá chanh mỗi thứ 30g, cho vào nồi to, thêm 5.000ml nước đun sôi kỹ để nguội tắm cho người bị mẩn ngứa.
Bài 2. Thuốc chữa bệnh thống kinh
+ Hoa bông trang đỏ 15g
+ ích mẫu 30g
+ Ngải cứu 20g
+ Nghệ vàng (Tất cả đã sấy khô). 20g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 600ml nước đun nhỏ lửa. Chắt lấy 200ml nước đặc, bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống trong ngày, mỗi lần 60ml trước bữa ăn. uống 3 ngày liền trước kỳ kinh 5 ngày.

+ Hoa bông trang đỏ 15g
+ Hạt hẹ 12g
+ Hạt tía tô 6g
+ Đường đỏ (Tất cả đã sấy khô). 20g
Các vị thuốc cho vào nồi cùng 500ml nước đem đun sôi kỹ. Chắt lấy 200ml nước đặc, bỏ bã. Người bệnh uống ngày 3 lần, mỗi lần 60ml trước bữa ăn. kinh 5 ngày.
Uống 3 ngày liền trước kỳ
Bài 3. Thuốc chữa bệnh kiết lỵ
+ Hoa bông trang đỏ 15g
+ Rau sam 10g
+ Lá mơ tam thể 15g
+ Lá mã đề (Tất cả đã sấy khô). 10g
Các vị thuốc cho vào nồi cùng 500ml nước đun nhỏ lửa. Chắt lấy 200ml nước đặc. Cho người bệnh uống 3 lần trong
ngày, mỗi lần 60ml, trước bữa ăn. Cần uống liền 3-5 ngày.
Bài 4. Thuốc chữa bệnh ho ra máu
+ Hoa bông trang đỏ 15g
+ Cỏ nhọ nồi 15g
+ Lá huyết dụ 10g
+ Gừng khô 5g

+ Lá mã đề                            10g

(Tất cả đã sấy khô).

Các vị thuốc sao cháy đen, cho vào nồi cùng 500ml nước đun nhỏ lửa. Chắt lấy 200ml nước đặc. Người bệnh uống ngày 3 lần mỗi lần 60ml, uống lúc đói. cần uống 5-7 ngày liền.

Bài 5. Thuốc chữa bệnh kinh nguyệt không đều

+ Hoa bông trang đỏ             15g

+ ích mẫu                               25g

+ Củ gấu                                 10g (chế)

+ Nghệ vàng                            10g (sao thơm)

(Tất cả đã sấy khô).

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 500ml nước đun nhỏ lửa. Chắt lấy 200ml nước đặc. uống trước kỳ kinh 7 ngày, cần uống 3-5 ngày liền.

Viêm màng não do vi khuẩn

Những đặc điểm chung về Viêm màng não do vi khuẩn:

Căn nguyên vi khuẩn gây Viêm màng não mủ:

Phân loại theo mức độ phổ biến:

  • Những vi khuẩn gây Viêm màng não mủ thường gặp: màng não cầu, influenzae, phế cầu…
  • Những vi khuẩn gây Viêm màng não mủ ít gặp: E. coli, tụ cầu, liên cầu…
  • Những vi khuẩn gây Viêm màng não mủ hiếm gặp: Proteus, trực khuẩn mủ xanh, Salmonella, Listeria, ..

Phân loại theo lứa tuổi:

Các nghiên cứu của các tác giả trên thế giới phân chia các lứa tuổi rất khác nhau. Tuy nhiên, có thể khái quát chung như sau:

  • Trẻ sơ sinh (< 2 tháng tuổi): trực khuẩn đường ruột (E. ..), Streptococcus nhóm B, Listeria monocytogenes…
  • Trên 2 tháng – 18 tuổi: influezae, màng não cầu, phế cầu, E. coli, tụ cầu…
  • 18 – 50 tuổi: màng não cầu, phế cầu…
  • Trên 50 tuổi: phế cầu, L. monocytogenes…

Dưới đây là nghiên cứu về căn nguyên gây Viêm màng não mủ của một số tác giả để tham khảo:

Căn nguyên vi khuẩn gây Viêm màng não mủ theo lứa tuổi (tỷ lệ %).

Vikhuẩn Theo Shield (1983) Theo Roos và cs (1991)
< 2 tháng tuổi 2 tháng -6 tuổi > 6 tuổi ≤1 tháng 1 tháng -15 tuổi > 15 tuổi
H. influezae 1 – 2 40 – 60 5 0 – 3 40 – 60 1 -3
N. meningitidis (MNC) 0 – 1 20 – 30 25 – 40 0 – 1 25 – 40 10 – 35
St. pneumoniae (phế cầu) 1 – 4 10 – 30 40 – 50 0 – 5 10 – 20 30 – 50
E. coli và TK gram (-) 30 – 50 1 – 4 5 – 10 50 – 60 1 – 2 1 – 10
Strep. (Liên cầu) nhóm B 30 – 40 2 – 5 1 – 3 20 – 40 2 – 4 5
Listeria 2 – 8 1 – 2 5 2 – 10 1 – 2 5
Tụ cầu khuẩn 2 – 5 1 – 2 5 – 10 5 1 – 2 5 – 15
Các VK khác 5 – 10 5 – 10 5 -10

Căn nguyên vi khuẩn thường gặp gây Viêm màng não mủ theo lứa tuổi có thể được mô hình hoá như sau:

Phân loại căn nguyên theo cơ địa: Căn nguyên vi khuẩn thường gặp gây Viêm màng não mủ theo cơ địa (Gây Viêm màng não mủ thứ phát)

Cơ địa Vi khuẩn thường gặp
–  Nghiện rượu.- Đái đường.

–  Viêm tai giữa.

–  Giảm sức đề kháng MD.

–  Sau mổ cắt lách.

–  Sau chấn thương, VT sọ não.

–  Sau phẫu thuật thần kinh.

–  Có bệnh van hai lá.

Phế cầu, Listeria.Phế cầu, Listeria, S.aureus.

Phế cầu, TK đường ruột, S. aureus. Listeria.

Listeria, H. influenzae.

Phế cầu, TK đường ruột, S. aureus, H. influezae.

S. aureus, TK Gram (-).

S. epidermidis, S. aureus.

Đường xâm nhập của vi khuẩn vào màng não:

Tuỳ theo sự xâm nhập của vi khuẩn vào màng não, người ta chia thành hai loại Viêm màng não:

+ Viêm màng não mủ nguyên phát:

Do màng não cầu từ mũi họng xâm nhập vào màng não.

Có thể do các nguyên nhân sau:

+ Viêm màng não mủ thứ phát:

  • Vi khuẩn từ ổ viêm gần màng não, màng tuỷ xâm nhập vào, như ổ viêm tai, viêm xương chũm, viêm xương sọ, viêm xoang, viêm hốc mắt, viêm cơ dọc theo cột sống… Mầm bệnh thường là influenzae, phế cầu, tụ cầu, liên cầu… xâm nhập vào màng não qua tiếp cận hoặc qua đường bạch huyết.
  • Vi khuẩn từ một ổ viêm ở xa (như ổ đinh râu, viêm phổi, viêm nội tâm mạc, nhiễm khuẩn tử cung, nhiễm khuẩn ruột, nhiễm khuẩn tiết niệu…) gây nhiễm khuẩn huyết và vi khuẩn vượt qua hàng rào mạch máu – màng não vào màng não. Mầm bệnh ở những trường hợp này thường là: phế cầu, influenzae, tụ cầu, liên cầu, trực khuẩn mủ xanh, E. coli, Salmonella…
  • Do vết thương hoặc phẫu thuật vùng sọ não, cột sống… hoặc do thủ thuật chọc ống sống gây nhiễm khuẩn. Mầm bệnh thường gặp là: tụ cầu, liên cầu, trực khuẩn mủ xanh…

Đặc điểm chung về lâm sàng của Viêm màng não do vi khuẩn:

+ Hội chứng nhiễm khuẩn – nhiễm độc:

  • Thường là khởi phát cấp diễn, có khi dữ dội với biểu hiện: sốt cao liên tục, gai rét, nhức đầu, đâu mỏi cơ khớp… Khi có nhiễm khuẩn huyết thường có sốt dao động, có cơn rét run, gan và lách to, v.v… Một số trường hợp có thể có sốc nội độc tố, truỵ mạch, huyết áp tụt, đái ít…
  • Xét nghiệm máu: tuỳ theo loại mầm bệnh, nhưng thường có bạch cầu tăng, bạch cầu đa nhân (neutrophil) tăng…

+ Hội chứng màng não:

Thường là phát triển nhanh, rầm rộ, tương đối đầy đủ triệu chứng:

  • Nhức đầu dữ dội, nôn dễ dà Trẻ em thường nôn, bỏ bú, ngủ gà, quấy khóc, thở không đều, da tím tái, hay có co giật…
  • Cứng gáy (+), Kernig (+), Brudzinski (+)… Trẻ em có “tư thế cò súng”, xu hướng sợ ánh sáng và tiếng động, thóp phồng, có “tiếng rên màng não”…
  • Có những biểu hiện tăng áp lực nội sọ.
  • Dịch não tuỷ điển hình của Viêm màng não mủ là nước đục; protein tăng cao (1 – 2 g/lít); glucoza giảm thấp, đôi khi chỉ còn vết; tế bào có hàng nghìn cái/mm3máu, trong công thức tế bào đa số là bạch cầu đa nhân, có nhiều tế bào thoái hoá, tế bào mủ. Những trường hợp không điển hình, dịch não tuỷ có thể trong, có máu hoặc màu vàng ..

+ Có thể tìm thấy ổ nhiễm khuẩn tiên phát như viêm tai, viêm xương chũm, viêm xoang, đinh râu, viêm phổi, viêm đường tiết niệu, viêm tử cung, âm đạo…

Biến chứng – di chứng và tử vong của Viêm màng não do vi khuẩn:

+ Biến chứng:

  • Tổn thương dây thần kinh sọ não: trong Viêm màng não mủ có thể tổn thương các dây thần kinh sọ não như dây II, III, IV, VI, VII, ..
  • áp xe não, áp xe dưới màng cứng, ổ tụ mủ dọc huyết quản, viêm tắc tĩnh mạch, viêm quanh mạch máu não…
  • Tắc nghẽn dịch não tuỷ và dày dính màng não gây cản trở lưu thông dịch não tuỷ, hội chứng não nước.
  • Ngoài ra còn các biến chứng ngoài hệ thần kinh, tuỳ theo căn nguyên vi khuẩn gây ra như sốc độc tố, xuất huyết phủ tạng (gặp trong nhiễm khuẩn huyết, Viêm màng não do màng não cầu), viêm khớp, viêm nội tâm mạc, viêm ngoại tâm mạc, viêm thận, viêm phổi…

+ Di chứng:

Sau khi bị Viêm màng não mủ, nhất là các trường hợp được chẩn đoán điều trị muộn, có thể gặp các di chứng sau:

  • Lác, điếc, câm, mù, hội chứng não nước…
  • Tổn thương thần kinh khu trú gây liệt (liệt 1 chi, liệt nửa người, liệt hai chi dưới, tổn thương dây thần kinh sọ não…).
  • Giảm trí nhớ, sa sút trí tuệ, rối loạn tâm thần…
  • Động kinh

+ Tử vong:

Những năm gần đây, tỷ lệ tử vong trung bình ở nhiều nước trong Viêm màng não do màng não cầu là 7-10%, do phế cầu là 30%, do H. influenzae là 10-14%… Nguyên nhân tử vong do:

  • Sớm: suy hô hấp, phù não nặng, sốc không hồi phục…
  • Muộn: biến chứng nhiễm khuẩn nặng ở não và ngoài não (áp xe não, viêm phổi, viêm thận, loét rộng và suy kiệt, trạng thái mất não kéo dài dẫn đến suy não…).

Chẩn đoán Viêm màng não do vi khuẩn cần dựa vào các yếu tố sau:

  • Hội chứng nhiễm khuẩn – nhiễm độc thường cấp tính, nặng.
  • Hội chứng màng não rõ, phát triển nhanh và tương đối đủ triệu chứng.
  • Dịch não tuỷ đục, protein tăng, glucoza giảm nhiều, tế bào tăng (thường hằng nghìn tế bào/mm3) đa số bạch cầu đa nhân và nhiều tế bào thoái hoá, mủ. Cấy dịch não tuỷ: có thể tìm thấy vi khuẩn gây bệnh. Tuy nhiên, trường hợp không điển hình, dịch não tuỷ có thể trong, có máu hoặc vàng chanh…

Khi dịch não tuỷ trong, có thể vẫn là Viêm màng não mủ ở giai đoạn sớm mức độ nhẹ (dịch não tuỷ chưa đục), nhưng thường gặp là Viêm màng não mủ “mất đầu” (là Viêm màng não mủ nhưng đã được điều trị phủ đầu bằng kháng sinh) và Viêm màng não mủ đang phục hồi. Tuy nhiên cần chẩn đoán phân biệt với các Viêm màng não nước trong khác hoặc phản ứng màng não. Khi dịch não tuỷ có máu, có thể là Viêm màng não mủ có xuất huyết màng não (thường do màng não cầu…), nhưng cần chẩn đoán phân biệt với xuất huyết dưới nhện do căn nguyên khác hoặc do lỗi kỹ thuật khi chọc ống sống thắt lưng.

Khi dịch não tuỷ màu vàng chanh: có thể là Viêm màng não mủ có xuất huyết, hồng cầu đang thoái hoá hoặc Viêm màng não do lao…

Nguyên tắc chung điều trị Viêm màng não do vi khuẩn:

* Điều trị đặc hiệu:

  • Cần kết hợp chẩn đoán căn nguyên và điều trị đặc hiệu bằng kháng sinh sớm. Khi có bệnh nhân nghi ngờ Viêm màng não mủ, phải nhanh chóng soi đáy mắt, chọc ống sống thắt lưng lấy dịch não tuỷ nhuộm, soi trực tiếp và nuôi cấy vi khuẩn Sau đó cần dùng kháng sinh sớm, không nên đợi đến khi có kết quả vi khuẩn mới dùng kháng sinh. Khi chẩn đoán nghi ngờ giữa Viêm màng não mủ với các loại Viêm màng não khác, thái độ lựa chọn điều trị tốt nhất là điều trị theo hướng Viêm màng não mủ. Sau đó một vài ngày kiểm tra lại dịch não tuỷ, đánh giá tiến triển của bệnh để đề xuất phương hướng điều trị tiếp theo.
  • Chọn kháng sinh theo mầm bệnh và theo kháng sinh đồ. Khi chưa rõ mầm bệnh, cần chọn kháng sinh có phổ tác dụng rộng. Nên chọn loại kháng sinh ngấm tốt qua màng não. Nếu kháng sinh khuếch tán kém vào màng não, nhưng nhậy với mầm bệnh thì phải dùng liều cao (ví dụ: penixilin, ..). Một số loại vi khuẩn đa kháng thuốc với nhiều loại kháng sinh (như trực khuẩn mủ xanh, tụ cầu vàng…), cần chỉ định các kháng sinh ít hoặc chưa bị kháng như fluoroquinolon, ceftazidim, vancomyxin, imipenem, meropenem…
  • Tốt nhất nên dùng các kháng sinh theo đường truyền tĩnh mạch. Không nên đưa thuốc trực tiếp vào ống sống.
  • Lựa chọn kháng sinh còn tuỳ thuộc vào cơ địa của bệnh nhân, tình hình kháng thuốc tại dịa phương, kinh nghiệm điều trị của thầy thuốc… Do vậy, không thể có một phác đồ chung, áp dụng cho mọi bệnh nhân. Dưới đây chỉ là những gợi ý:

Lựa chọn kháng sinh điều trị Viêm màng não mủ ( Theo Greenwood B.M., 2000):

Loại VK Kháng sinh Đường vào Người lớn Trẻ em T.gian (ngày)
Màng não cầu Penixilin G TM (BT) 2 triệu UI x 4 lần/ngày 1 triệu UI x 4 lần/ngày 7
Phế cầu Penixilin G Hoặc TM, (BT) TM 4 triệu UI x 4 lần/ngày 1 triệu UI x 4 lần/ngày 10 -14
Ceftriaxon 2 – 4g/ngày 100mg/kg/ng 10 – 14
H.influenzae Ceftriaxon hoặcChloramphenicol TM TM, (BT) 100mg/kg/ng 25mg/kg x 4 lần/ngày 77
Không rõ Ceftriaxon hoặc Chloramphenicol TM TM, (BT) 5 g/ngày500mg x 4 100mg/kg/ng 25mg/kg x 4 10 -1410 – 14
lần/ngày lần/ngày

Ghi chú: Trên đây là gợi ý lựa chọn kháng sinh và liều dùng theo bệnh nhân nước ngoài. Khi vận dụng ở Việt Nam nên điều chỉnh liều thích hợp trong điều kiện thực tế. Riêng chloramphenicol ở trẻ sơ sinh: không dùng quá 50 mg/kg/24 giờ.

* Điều trị triệu chứng:

  • Chống phù não: bằng dung dịch manitol 15 – 20% truyền tĩnh mạch nhanh hoặc magie sulfat…
  • An thần, chống co giật bằng diazepam, phenobarbital…
  • Chống sốc và truỵ tim mạch bằng truyền dịch, .. Khi có sốc nội độc tố (hay gặp trong Viêm màng não và nhiễm khuẩn huyết do màng não cầu) cần dùng corticoid (prednisolon, dexamethazol) liều cao, ngắn ngày truyền tĩnh mạch, isuprel…
  • Chống suy thở: đặt bệnh nhân nằm tư thế dẫn lưu, hút đờm rãi, thở ..
  • Khi sốt cao, nhất là đối với trẻ em cần đề phòng sốt cao co giật, nên cho hạ sốt bằng đắp khăn mát, cởi bớt quần áo, thoáng gió… Khi cần, có thể hạ sốt bằng paracetamol và kết hợp với các thuốc an thần.
  • Nuôi dưỡng tốt, đề phòng và chống loét v…
  • Xử trí các biến chứng:

Khi dày dính màng não: dùng corticoid cho vào ống sống.

áp xe não: cần phải phẫu thuật.

Viêm tắc tĩnh mạch não, hội chứng đông máu nội mạch (DIC): dùng heparin liệu pháp…

Viêm màng não do màng não cầu (Meningococcal meningitis):

VMN do Màng não cầu là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây theo đường hô hấp. Màng não cầu có thể gây ra nhiều thể bệnh như viêm mũi họng, Viêm màng não, nhiễm khuẩn huyết…

Dịch tễ học:

+ Mầm bệnh:

  • Màng não cầu (Neisseria meningitidis) thuộc họ Neisseriaceae, giống Nesseria – là song cầu khuẩn hình hạt cà phê nằm trong tế bào
  • Vi khuẩn không có ngoại độc tố, khi chết giải phóng ra nội độc tố.
  • Sức chịu đựng kém với các tác động lý, hoá (50oC/5 phút, 100oC/30 giây, tia cực tím diệt vi khuẩn trong khoảnh khắc. Các thuốc khử trùng đều dễ diệt vi khuẩn).
  • Vi khuẩn có kích thước 0,6 -1,0 micromet, có vỏ polysaccarit, ái khí, không di động, không tạo thành nha bào, nhuộm bắt màu Gram âm.
  • Dựa vào cấu trúc của vỏ polysaccarit người ta chia ra các nhóm huyết thanh, ký hiệu là A, B, C, D, X, Y, Z, 29E, Ngoài ra còn có các nhóm H, I, K, L.
  • Các nhóm huyết thanh lại được chia thành các các typ huyết thanh căn cứ vào cấu trúc kháng nguyên protein màng ngoài bề mặt (OMP – outer membran protein).

+ Nguồn bệnh: nguồn bệnh duy nhất là người, có thể là bệnh nhân hoặc người mang vi khuẩn không triệu chứng. Cần chú ý những bệnh nhân không điển hình hoặc người mang khuẩn không triệu chứng là nguồn lây rất quan trọng về dịch tễ.

+ Đường lây:

Bệnh lây đường hô hấp, thường lây do tiếp xúc trực tiếp với người mang khuẩn khi nói chuyện, hôn… Những người bị viêm mũi, họng thường dễ bị mắc bệnh.

+ Cơ thể cảm thụ:

Mọi người đều có thể mắc bệnh nhưng trẻ chưa có kháng thể dễ mắc bệnh hơn. Sau khi mắc bệnh để lại miễn dịch bền vững với cùng týp huyết thanh (hoặc miễn dịch chéo trong cùng nhóm). Những năm gần đây người ta đã chứng minh là người mang vi khuẩn không triệu chứng cũng sinh được kháng thể bảo vệ.

  • Cơ chế bệnh sinh:

  • Màng nào cầu bám vào niêm mạc đường hô hấp trên nhờ những lông. Sau đó xâm nhập qua niêm mạc nhờ men Màng não cầu tiết ra men kháng IgA. Bình thường màng não cầu không bị thực bào, muốn thực bào phải opsonin hoá. Nếu sức đề kháng của cơ thể tốt, nhất là vòng bạch huyết quanh miệng không bị thương tổn do viêm nhiễm, thì màng não cầu chỉ gây viêm mũi – họng hoặc thậm chí chỉ cư trú ở đó mà không gây bệnh.
  • Từ họng, màng não cầu vượt qua hàng rào bạch huyết vào máu rồi vượt hàng rào mạch máu – não để vào khoang não tuỷ. Trường hợp hãn hữu màng não cầu có thể từ mũi, họng qua xương sàng (qua vùng khứu giác) nhất là khi có chấn thương xương sàng để vào màng não.

Khi vi khuẩn vào máu sẽ gây nhiễm khuẩn huyết, khi vào khoang não tuỷ sẽ gây viêm màng não. ở màng não chúng gây viêm cả 3 màng (màng cứng, màng nhện và màng nuôi) lúc đầu tiết ra dịch rỉ viêm, sau đó nhanh chóng thành mủ. Mủ đặc lại có thể bít tắc các lỗ thông dịch gây tắc dịch não tuỷ và dẫn tới não nước, dịch mủ có thể chèn ép vào dây thần kinh II, III, IV, VI, gây mù và lác mắt.

  • Trong các mao quản, màng não cầu nằm trong tế bào nội mạc. Do vậy chúng có thể gây tắc và vỡ mạch, gây xuất huyết. Hoại tử tổ chức cũng do tắc mạch.
  • Phản ứng kháng nguyên – kháng thể – bổ thể gây độc tế bào, huỷ hoại tế bào đồng thời gây đông máu rải rác nội mạch và gây những xuất huyết lớn. Khi nội độc tố giải phóng ra, có thể dẫn tới sốc nội độc tố.
  • Lâm sàng Viêm màng não do màng não cầu: Nung bệnh từ 1-10 ngày (trung bình 5-7 ngày). Lâm sàng của nhiễm khuẩn do màng não cầu rất đa dạng, có nhiều thể bệnh: viêm mũi họng, nhiễm khuẩn huyết, viêm màng não… và có các thể bệnh kết hợp. Viêm màng não do màng não cầu có thể gây ra Viêm màng não đơn thuần hoặc Viêm màng não – não (còn gọi thể phù não kịch phát).
  • Viêm màng não đơn thuần: Viêm màng não thường xảy ra sau viêm mũi họng hoặc nhiễm khuẩn huyết nhưng cũng có thể ngay những triệu chứng đầu tiên đã là triệu chứng của viêm màng não.
  • Hội chứng nhiễm khuẩn – nhiễm độc: sốt đột ngột 39oC – 40oC. Có thể sốt liên tục hoặc sốt theo kiểu 2 Mệt mỏi, đau đầu nhiều.
  • Hội chứng màng não: xuất hiện sớm, điển hình và đầy đủ các triệu chứng: nhức đầu dữ dội, nôn vọt, táo bón. Khám thấy: nằm ở tư thế cò súng (thường gặp ở trẻ  em do tăng trương lực các cơ gấp – tư thế giảm đau), dấu hiệu cứng gáy (+), Kernig (+), Brudzinski (+), vạch màng não (+).
  • Dịch não tuỷ:

. Điển hình: áp lực tăng cao, đục mủ; protein tăng cao, glucose và natri clorua giảm; tế bào tăng cao và chủ yếu là bạch cầu đa nhân.

. Không điển hình: nước trong do: thể nhẹ hoặc đã được điều trị (còn gọi viêm màng não mủ “mất đầu”). Nếu vàng chanh hoặc lẫn máu: thể xuất huyết màng não.

  • Viêm màng não-não (viêm màng não thể phù não kịch phát): Ngoài những triệu chứng của viêm màng não đơn thuần thì nổi bật lên các triệu chứng của phù não kịch phát: hôn mê, vật vã kích thích kèm theo những triệu chứng của hội chứng tăng áp lực nội sọ nặng. Mạch chậm huyết áp tăng vọt (tăng nhưng dao động). Rối loạn hô hấp nặng. Soi đáy mắt thấy phù nề gai thị cả hai bên trong đó tĩnh mạch giãn, động mạch co. Đôi khi có xuất huyết võng mạc. Bệnh nhân tử vong do suy hô hấp vào những giờ đầu, hiếm hơn vào ngày thứ 2 – 3 hoặc thậm chí ngày thứ 5 – 7 của bệnh.
  • Các thể bệnh khác do màng não cầu gây ra:
  • Thể viêm mũi họng biểu hiện bằng sốt đột ngột 38oC – 39oC, đau đầu – đau rát họng, sổ mũi nước trong hoặc mủ. Khám thấy: xung huyết amidale, màn hầu, xung huyết và phù nề thành sau của họng, có những điểm nhú xung huyết và có thể phủ một lớp mủ; niêm mạc mũi xung huyết đỏ và có mủ. Diễn biến lành tính: viêm mũi họng và sốt kéo dài 5 – 7 ngày; các hạch lympho trở về bình thường sau 14 – 16 ngày. Về xét nghiệm: bạch cầu máu ngoại vi tăng, bạch cầu đa nhân trung tính tăng. Khoảng 30 – 50% viêm mũi họng kết hợp với viêm màng não hoặc nhiễm khuẩn huyết.
  • Thể nhiễm khuẩn huyết đơn thuần: bệnh xảy ra đột ngột và rầm rộ. Sốt cao đột ngột 40oC – 41oC. Sốt cao liên tục hoặc dao động mạnh kèm theo những cơn rét Bệnh nhân kêu đau đầu, đau mỏi các cơ, khớp toàn thân. Ngoại ban là một dấu hiệu có giá trị chẩn đoán. Ban được gọi là ban xuất huyết-hoại tử (hay “tử ban”). Ban có thể xuất hiện rất sớm sau 5 – 15 giờ hoặc muộn hơn sau vài ngày.

Đặc điểm của ban: lúc đầu là những nốt dát sần giống như sởi sau vài giờ chuyển thành các đốm xuất huyết-hoại tử. Gan, lách to ra nhanh, sờ thấy mềm. Huyết áp càng những ngày sau càng giảm rõ và có thể tụt trong trường hợp sốc. Xét nghiệm thấy bạch cầu máu ngoại vi tăng cao và chuyển trái. Tốc độ máu lắng tăng cao.

  • Nhiễm khuẩn huyết kịch phát: (còn gọi: thể sốc hay nhiễm khuẩn huyết sét đánh): biểu hiện của các triệu chứng nhiễm khuẩn huyết và sốc nội độc tố xuất hiện sớm, tử vong nhanh. Cơ chế: trước kia cho là suy thượng thận cấp gây hội chứng Waterhouse – Friderichsen. Ngày nay giải thích bằng sốc nội độc tố do rối loạn vi tuần hoàn kết hợp với sự phát triển của hội chứng đông máu rải rác nội mạch (DIC).
  • Ngoài ra, có thể có các thể kết hợp như: viêm màng não + nhiễm khuẩn huyết (chiếm 25 – 50% những trường hợp nhiễm khuẩn màng não cầu toàn thân). Thể hiếm gặp: thể phổi, thể viêm khớp, viêm mống mắt thể mi…

Biến chứng:

  • Liệt các dây thần kinh: II, III, IV, VII, VIII dẫn tới mù, lác, điếc.
  • Viêm cơ tim, viêm màng
  • Dày dính màng não (do dùng kháng sinh muộn).

Nếu dày dính gây tắc nghẽn ở cao (ở lỗ Monro, lỗ Luschka hoặc ống Sylvius) dẫn tới phân ly protein (tăng cao) và tế bào (bình thường) và cuối cùng là não nước.

  • ở huyết quản:

. Bít tắc gây hoại tử.

. Xuất huyết (đặc biệt khi có đông máu rải rác nội mạch).

  • Những biến chứng gây tử vong sớm:

. Suy hô hấp do phù não nặng.

. Truỵ tim mạch.

. Chảy máu ồ ạt do đông máu rải rác nội mạch.

+ Lâm sàng:

  • Chẩn đoán:

  • Sốt cao đột ngột, rét run, viêm họng (50% trường hợp các thể có viêm họng kèm theo).
  • Hội chứng màng não hoặc tụt huyết áp.
  • Ban dạng xuất huyết hoại tử.

+ Xét nghiệm:

  • Máu ngoại vi: bạch cầu tăng (bạch cầu đa nhân tăng), tốc độ máu lắng tăng.
  • Vi sinh vật: nuôi cấy tìm màng não cầu ở máu, dịch não tuỷ, dịch nốt phỏng (ở ban xuất huyết hoại tử), nhầy họng. Cũng có thể nhuộm Gram và soi tươi, nhưng ít giá trị.

Chú ý: khi chỉ thấy Neisseria ở nhầy họng thì phải loại trừ các Neisseria khác không phải màng não cầu. Nếu cấy máu và dịch não tuỷ thấy Neisseiria thì chắc chắn là bệnh do màng não cầu.

+ Dịch tễ: nhiều người bị (thành dịch).

  • Điều trị, dự phòng:

  • Điều trị: Màng não cầu hiện nay vẫn còn nhạy cảm với các kháng sinh thông thường, trừ sulfamid đã có thông báo kháng thuốc.
  • Kháng sinh được lựa chọn là penicilin Có thể kết hợp với chlorocid (chloramphenicol).
  • Nếu kháng với penicilin có thể dùng: ampixilin, methicilin, lincocin, carbenicilin, oxacilin và các cephalosporin thế hệ III
  • Dự phòng: hiện nay đã có vắcxin polysaccarit kết hợp màng não cầu nhóm A, C, Y và W Vắcxin đối với nhóm B đang nghiên cứu. Vắcxin chỉ định tiêm phòng cho trẻ em và người lớn có nguy cơ nhiễm bệnh.

Viêm màng não do H. influenzae:

Dịch tễ học:

+ Mầm bệnh:

Vi khuẩn này được Pfeiffer phát hiện ra năm 1892 trong một vụ dịch cúm, vì vậy còn tên gọi là vi khuẩn Pfeiffer hoặc “vi khuẩn cúm”. H. influenzae là một cầu trực khuẩn (trực khuẩn ngắn: 1 – 1,5 0,3àm), thường xếp thành chuỗi vài ba vi khuẩn, không di động, bắt màu Gram (-), thường có vỏ. H. influenzae mọc tốt ở môi trường ái khí nhưng cũng có thể mọc trong môi trường kị khí. Trong môi trường nuôi cấy, H. influenzae có 3 dạng là:

  • Dạng M: khuẩn lạc nhày
  • Dạng S: khuẩn lạc nhẵn nhụi, không nhày
  • Dạng R: khuẩn lạc có nhiều hình thái, xù xì.

ở dạng S, vi khuẩn có vỏ, dựa vào cấu tạo vỏ, chia H. influenzae thành 6 týp, ký hiệu là a, b, c, d, e và f. H. influenzae gây Viêm màng não thường là týp b (ký hiệu là Hib).

+ Nguồn bệnh: là người.

+ Đường lây: là đường hô hấp qua tiếp xúc trực tiếp.

+ Sức thụ bệnh và miễn dịch:

  • Bệnh lưu hành trên toàn thế giới, hầu hết gặp ở trẻ 2 tháng đến 3 tuổi, cũng có thể gặp ở trẻ > 5 tuổi. Gần đây, do việc sử dụng kháng sinh rộng rãi ở trẻ nhỏ, nên bệnh có xu hướng gặp nhiều hơn ở lứa tuổi trưởng thà
  • Sau mắc bệnh hoặc sau khi dùng vắcxin có miễn dịch là kháng thể diệt khuẩn và có thể có kháng thể kháng vỏ vi khuẩn. Kháng thể truyền được qua nhau

Đặc điểm lâm sàng Viêm màng não do influenzae:

VMN và nhiễm khuẩn huyết do influenzae thường gặp ở trẻ nhỏ (2 tháng tuổi – 6 tuổi) và 95% do Hib. Người lớn có thể gặp Viêm màng não do H. influenzae, nhưng hiếm và 50% là H. influenzae không định týp.

  • Khởi phát thường là đột ngột, nhưng có thể từ từ (thường là sau những bệnh viêm đường hô hấp trên, viêm tai, viêm xương chũm, viêm ..).
  • Hội chứng nhiễm khuẩn – nhiễm độc nặng: sốt cao đột ngột, sốt liên tục…
  • Hội chứng màng não rõ: nôn, ngủ lịm, lơ mơ, bán hôn mê hoặc hôn mê, thóp phồng, tư thế cò súng…. Dịch não tuỷ: điển hình của Viêm màng não mủ.
  • Thường có xuất huyết dưới da dạng chấm, đốm và thường có sốc. Hay có thiếu máu (do huyết tán trong lòng mạch và xuất huyết).
  • Ngoài Viêm màng não mủ, influenzae còn có thể gây ra các thể bệnh khác kèm theo: nhiễm khuẩn huyết, viêm phế quản – phổi, viêm mủ màng phổi, viêm khớp mủ, viêm tuỷ xương, viêm màng trong tim, màng ngoài tim, viêm mũi – họng, viêm xoang, viêm tai…

Điều trị và dự phòng:

  • Điều trị đặc hiệu: dùng ampixilin, hoặc kết hợp ampixilin với Khi nghi ngờ H. influenzae kháng với ampixilin và chloramphenicol thì dùng cephalosporin thế hệ III (ceftriaxon hoặc cefotaxim…). Trước khi bệnh nhân ra viện, có thể dùng rifampixin để đảm bảo diệt hết vi khuẩn.
  • Điều trị dự phòng khẩn cấp cho trẻ em tiếp xúc với bệnh nhi: để bảo vệ cho trẻ em (cùng nhà trẻ, mẫu giáo…) tiếp xúc với bệnh nhi (trẻ có nguy cơ cao), cần phải điều trị dự phòng khẩn cấp bằng rifampixin 20 mg/kg/ngày (liều cao nhất: 600 mg/ngày) trong 4 ngày.
  • Dự phòng đặc hiệu: hiện nay đã có vắcxin với influenzae týp b (Hib), dùng cho trẻ dưới 2 tuổi (vắcxin dùng riêng hoặc kết hợp với bạch hầu, ho gà, uốn ván).

U tuyến nước bọt dưới hàm

I.   ĐỊNH NGHĨA

Là khối u của tuyến nước bọt dưới hàm.

II.    NGUYÊN NHÂN

Chưa rõ ràng.

III.     CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

Lâm sàng

  • Toàn thân

Chỉ có biểu hiện toàn thân rõ rệt khi u bội nhiễm.

  • Tại chỗ

Cơ năng

+ Thường không đau hoặc đau ít.

+  Khi u to gây khó ăn uống, nuốt, nói….

Thực thể

+ Khám thấy khối sưng vùng tuyến dưới hàm ranh giới rõ, mật độ chắc, di động cùng với tuyến, da trên u bình thường nếu không bội nhiễm

+  Trong miệng có thể sờ thấy u ở sàn miệng.

Cận lâm sàng

  • Giải phẫu bệnh lý: sinh thiết có giá trị hơn chọc hút.
  • CT-Scanner: thấy rõ ranh giới, kích thước , mật độ u nằm trong tuyến
  • X quang: có bơm thuốc cản quang ống tuyến thấy hình ảnh bàn tay ôm bong trên phim mặt thẳng

Chẩn đoán phân biệt

  • Hạch viêm dưới hàm: ranh giới phân biệt với tuyến
  • Viêm tuyến mạn tính: tuyến phì đại và xơ hóa.

IV.     ĐIỀU TRỊ

  1. Nguyên tắc

Cắt toàn bộ u và tuyến dưới hàm tương ứng.

  1. Điều trị cụ thể

Phẫu thuật cắt toàn bộ u và tuyến đường ngoài miệng

  • Vô cảm
  • Rạch da vùng dưới hàm.
  • Bóc tách bộc lộ u và tuyến
  • Cắt toàn bộ u và tuyến dưới hàm tương ứng
  • Kiểm soát vùng phẫu thuật
  • Đặt dẫn lưu kín.
  • Khâu phục hồi
  • Kháng sinh

V.    TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG

Tiên lượng

  • U tuyến dưới hàm thường lành tính nên phẫu thuật triệt để đem lại kết quả điều trị tốt
  • Ít tái phát và chuyển dạng ác tính.

Biến chứng

  • U bội nhiễm có thể gây đau sốt ảnh hưởng chức năng ăn uống nói….
  • Các biến chứng của phẫu thuật cắt u và tuyến dưới hàm: tê lưỡi…..

VI.     PHÒNG BỆNH

Khám chuyên khoa răng hàm mặt định kỳ để phát hiện sớm dấu hiệu của bệnh.

Phương pháp đơn giản chữa khỏi đau đầu hiệu nghiệm

Đau đầu là một trong những bệnh thường gặp, đau đầu thường chia ra các loại sau: thần kinh, tinh thần, hoảng sợ, mạch máu thông không tốt, trong đó bệnh đau đầu vì công năng thần kinh thường gặp nhiều nhất. Các loại đau đầu thường xuất hiện quá trình tái phát mạn tính. Y học Trung Quốc chia làm hai loại lớn: một là ngoại cảm tà khí, hai là tạng phủ nội thương. Phương pháp điều trị cũng khác nhau.

Nội dung điều trị

  1. Bồn chồn, lo lắng, u uất.v.v… đều không có lợi cho việc chữa bệnh đau đầu, người bệnh phải cố gắng kiềm chế và khắc phục những trạng thái tinh thần nói trên. Luôn luôn tươi cười là một phương thuốc chữa bệnh đau đầu rất tốt.
  2. Những người làm việc phải cúi đầu nhiều, cần thường xuyên vận động thân thể, thả lỏng các cơ ở cổ.
  3. Tích cực tham gia tập luyện thể dục với những động tác nhẹ nhàng.
  4. Tránh uống những loại thực phẩm nóng, kích thích như thuốc lá, rượu, cà phê, sôcôla, cay đắng.v.v.. Nên ăn uống thanh đạm, ăn nhiều hoa quả, rau xanh.
  5. Phải ngủ đầy đủ, nếu mất ngủ phải chữa ngay.
  6. Đột nhiên thấy đau đầu dữ dội, chân tay lạnh toát, nôn mửa, không thuộc phạm vi tự điều trị, phải đưa đi bệnh viện cấp cứu.

    Đau đầu là một triệu chứng phổ biến
    Đau đầu là một triệu chứng phổ biến

Phương pháp tự điều trị đau đầu

Phương thuốc hiệu nghiệm

  1. Nguyên sâm 50 gam, cô đặc để uống.
  2. Cỏ mắt phượng 5 gam, sắc trong 2 phút, uống 2 lần.
  3. Hoàng kỳ sống 30 gam, xích tiểu thảo 10 gam, sắc uống làm 2 lần. Vùng cho người đau đầu vì có thể mỏi mệt.
  4. Cà cuống, câu đằng, tử hà xa, mỗi thứ 18 gam, nghiền thành bột, mỗi lần uống một gam, ngày 3 lần, uống với nước ăn. Dùng cho người yếu thập thân thể yếu đuối, đau lưng, chân mỏi.

    Vị thuốc Hoàng kỳ
    Vị thuốc Hoàng kỳ

Phương pháp ăn uống

  1. Một con gà mái nhỏ, xích tiểu thảo 10 gam, cho thêm gia vị nấu ăn.
  2. Trứng gà lộn 1 quả, 7 quả táo tầu, cùi nhãn 5 quả, nấu chín để ăn mỗi ngày 2 lần.
  3. Bạch quả sống cả vỏ 60 gam, sau khi đập vỡ, chia làm hai lần sắc uống.

Phương pháp điều trị bên ngoài

Phương pháp chấm bột thuốc vào mũi.

Bạch chỉ 30 gam, xuyên khung 15 gam, tế tần 10 gam, thăng ma 10 gam, bạc hà 6 gam, băng phiến 3 gam đều nghiền thành bột, dùng bông đã khử trùng chấm một ít rồi đưa vào lỗ mũi, đau đầu bên phải thì chấm vào lỗ mũi bên phải, đau đầu bên trái chấm vào lỗ mũi bên trái.

Đắp thuốc vào huyệt: hạt thầu dầu 30 gam, nhũ hương 5 gam, muối 5 gam, giã nhỏ đắp vào thái dương, lấy băng dính dính lại.

Phương pháp ấn huyệt: trần bốn huyệt: phong trì (ở hai chỗ lõm dưới xương đầu trên cơ cổ) thái dương, ấn đường (ở giữa hai lông mày) hợp cốc (ở mu bàn tay, chỗ cơ cao nhất giữa ngón cái và ngón trỏ) dùng đầu ngón tay ấn nhẹ từ 3-5 phút, mỗi ngày 1 – 2 lần. Phương pháp ấn huyệt cũng có thể làm khỏi đau tức thì.

Phương pháp ngâm tay vào nước nóng.

Mỗi ngày ngâm tay vào nước nóng 45 – 50°c vài lần, nước phải ngập trên cổ tay, mỗi lần 30 phút, luôn giữ cho nước nóng.

Vị thuốc Bạch chỉ
Vị thuốc Bạch chỉ

Những việc cần lưu ý khi bị đau đầu

Phụ nữ có thai, người bị huyết áp cao, bị bệnh tim không được tuỳ tiện sử dụng thuốc đau đầu, nếu không sẽ dẫn đến hậu quả xấu, vì vậy phải thận trọng khi dùng thuốc.

Viên thuốc tránh thai dễ gây bệnh đau đầu và làm cho bệnh nặng thêm, người dùng thuốc tránh thai cần phải ngừng một thời gian để quan sát sự thay đổi của bệnh đau đầu.

Một số người chỉ dựa vào các loại thuốc đau đầu như viên giảm đau paracetamol kết hợp codein, Nếu cứ dùng lâu sẽ thành ra nghiện thuốc, ngày nào không uống thuốc, cơ thể mệt mỏi, tinh thần không phấn chấn, nhức đầu khó chịu. Người bệnh cần chú ý khắc phục hoặc thay thuốc.

Tác dụng của tắm hơi với tim mạch và điều cần chú ý khi tắm

Nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản cho thấy tắm hơi có tác dụng tốt với tim mạch. Bác sĩ c. Tei và các cộng sự tại trường Đại học Kago – shima đã phát hiện một điều lý thú: Tắm hơi làm cho máu lưu thông tới tim tốt hơn và do vậy phòng ngừa được các bệnh tim mạch.

Người ta nhận thấy nếu tắm hơi khô ở nhiệt độ 60°c trong 15 phút, sau đó nằm trùm chăn tiếp 30 phút sẽ làm cho huyết áp giảm nhẹ và tăng được lượng máu nuôi dưỡng cơ tim.

Với những người đã có các yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch như tăng huyết áp, đau thắt ngực, rối loạn lipid máu, đái tháo đường, hút thuốc lá… thì tắm hơi chắc chắn sẽ có tác dụng tốt. Bác sĩ c. Tei cho rằng: “Có thể đánh giá tắm hơi thường xuyên có hiệu quả như là tập thể dục”.

Tắm hơi có tác dụng tốt cho bệnh tim mạch
Tắm hơi có tác dụng tốt cho bệnh tim mạch

Người Việt Nam chưa có tập quán tắm hơi, tuy nhiên có thể áp dụng cách tắm nước nóng ấm cũng có tác dụng tốt tương tự như tắm hơi vậy. Tắm hơi, ngoài tác dụng của nhiệt độ cao còn có tác dụng của các loại tinh dầu thơm, càng dễ tạo cảm giác thư giãn cho cơ thể.

Tắm nước nóng cũng có thể coi là một biện pháp thư giãn. Nên tắm nước nóng cả về mùa hè. Dưới tác dụng của nhiệt độ cao, hệ thống tĩnh mạch dưới da giãn nở nên có tác dụng làm huyết áp giảm đi một cách đáng kể, lưu lượng tuần hoàn tăng lên và sự trao đổi nhiệt độ sẽ làm thân nhiệt tăng dần lên. Nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy dưới tác dụng của nhiệt độ cao, với những người mạch nhanh tim cũng đập chậm lại; thở sâu và nhanh hơn làm tăng thông khí phổi, giúp cung cấp oxy nhiều hơn, tăng mức tiêu thụ oxy tế bào và một điều quan trọng, nước nóng có tác dụng làm đỡ mệt mỏi, tạo được cảm giác thư giãn… Người già yếu khi có cảm giác gai rét ớn lạnh nên tắm nước nóng dưới vòi hoa sen hoặc nếu có điều kiện tắm ngâm trong bồn nước nóng sẽ có cảm giác dễ chịu ngay lập tức. Có thể coi đây như một biện pháp chống cảm lạnh.

Người già cần chú ý, nếu tắm nước lạnh, cơ thể thường có phản xạ co mạch ở ngoài da làm cho lượng máu tập trung vào bên trong cơ thể. Ngoài ra, còn có thể gây một loạt các phản ứng thần kinh vận mạch khác, có thể làm huyết áp tăng cao và các phản xạ co thắt mạch đột ngột ở não và tim, dễ gây các biến chứng tim mạch như nhồi máu cơ tim, đột quỵ…

Cần chú ý, không tắm nước nóng hay tắm hơi ngay sau khi ăn no gây ảnh hưởng đến quá trình tiêu hoá của bạn.

Sau khi tắm hơi hoặc tắm nước nóng, cần tránh gió lùa.

Một trường hợp khác cần lưu ý, khi bạn đang bị mề đay dị ứng, bị các bệnh ngoài da như nấm da, lang ben… thì không nên tắm nước nóng. Tắm nước nóng sẽ gây cho bạn cảm giác ngứa dữ dội hơn.

Đặc biệt, người bệnh tăng huyết áp đang điều trị bằng các thuốc hạ huyết áp và người đau thắt ngực điều trị bằng các thuốc giãn mạch cần chú ý không nên tắm nước nóng quá lâu có thể làm giãn mạch quá mức gây hạ huyết áp quá thấp có thể nguy hiểm.

Thuốc Biorphen (phenylephrine hydrochloride)

Thuốc generic: phenylephrine hydrochloride
Tên thương mại: Biorphen

Biorphen (phenylephrine hydrochloride) là gì và nó hoạt động như thế nào?

Biorphen (phenylephrine hydrochloride) là một chất chủ vận thụ thể alpha-1 adrenergic, được sử dụng để điều trị huyết áp thấp quan trọng về mặt lâm sàng (hạ huyết áp) chủ yếu do giãn mạch trong bối cảnh gây mê.

Các tác dụng phụ của Biorphen là gì?

Các tác dụng phụ của Biorphen bao gồm:

  • Buồn nôn,
  • Nôn mửa, và
  • Đau đầu.

Liều lượng cho Biorphen là gì?

Hướng dẫn liều lượng và sử dụng chung

Trong quá trình sử dụng Biorphen:

  • Sửa chữa sự thiếu hụt thể tích mạch máu.
  • Sửa chữa tình trạng toan máu. Tình trạng toan máu có thể làm giảm hiệu quả của phenylephrine.
  • Các sản phẩm thuốc tiêm tĩnh mạch cần được kiểm tra bằng mắt để phát hiện các hạt và sự đổi màu trước khi sử dụng. Không sử dụng nếu dung dịch có màu hoặc đục, hoặc nếu nó chứa hạt. Vứt bỏ bất kỳ phần nào chưa sử dụng.

Các loại thuốc nào tương tác với Biorphen?

Các tương tác làm tăng hiệu ứng tăng huyết áp

Hiệu ứng tăng huyết áp của Biorphen sẽ tăng lên ở những bệnh nhân đang sử dụng:

  • Inhibitor monoamine oxidase (MAOI)
  • Oxytocin và các thuốc kích thích oxytocin
  • Thuốc chống trầm cảm ba vòng
  • Angiotensin, aldosterone
  • Atropine
  • Corticosteroid, chẳng hạn như hydrocortisone
  • Các chất ức chế transporter norepinephrine, chẳng hạn như atomoxetine
  • Alcaloid ergot, chẳng hạn như methylergonovine maleate

Các tương tác làm giảm hiệu ứng tăng huyết áp

Hiệu ứng tăng huyết áp của Biorphen sẽ giảm ở những bệnh nhân đang sử dụng:

  • Chất đối kháng α-adrenergic
  • Các chất ức chế phosphodiesterase loại 5
  • Các chất đối kháng α- và β-mixed
  • Các chất chẹn kênh canxi, chẳng hạn như nifedipine
  • Benzodiazepines
  • Các chất ức chế ACE
  • Các tác nhân ức chế giao cảm có tác động trung ương, chẳng hạn như reserpine, guanfacine

Biorphen có an toàn khi sử dụng trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú không?

Dữ liệu từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát và các phân tích tổng hợp về việc sử dụng tiêm phenylephrine hydrochloride ở phụ nữ mang thai trong quá trình sinh mổ chưa xác định được nguy cơ thuốc liên quan đến dị tật bẩm sinh lớn và sảy thai.

Các nghiên cứu này không xác định được tác động xấu đến kết quả của người mẹ hoặc điểm Apgar của trẻ sơ sinh.

Không có dữ liệu về việc sử dụng phenylephrine trong ba tháng đầu hoặc thứ hai của thai kỳ.

Không có dữ liệu về sự hiện diện của tiêm phenylephrine hydrochloride hoặc các chuyển hóa của nó trong sữa mẹ hoặc sữa động vật, tác động lên trẻ sơ sinh đang bú mẹ, hoặc tác động lên sản xuất sữa.

Lợi ích về phát triển và sức khỏe của việc cho con bú nên được xem xét cùng với nhu cầu lâm sàng của người mẹ đối với tiêm phenylephrine hydrochloride và bất kỳ tác động bất lợi tiềm tàng nào đến trẻ sơ sinh đang bú mẹ từ tiêm phenylephrine hydrochloride hoặc từ tình trạng của người mẹ.

Tóm tắt

Biorphen (phenylephrine hydrochloride) là một chất chủ vận thụ thể alpha-1 adrenergic, được sử dụng để điều trị huyết áp thấp quan trọng về mặt lâm sàng (hạ huyết áp) chủ yếu do giãn mạch trong bối cảnh gây mê. Các tác dụng phụ của Biorphen bao gồm buồn nôn, nôn mửa, và đau đầu.

Ong mật – Tác dụng chữa bệnh của mật ong, sữa ong chúa

ONG MẬT

Tên khác: Ong muỗi, ong khoái (tên gọi ở miền Bắc), ong ruồi (miền Nam) Tên khoa học: Apis cerana Fabricius (ong mật, ong châu Á), Apis dorsata (ong khoái), Apis florea (ong ruồi). Apis mellifera (ong châu Âu, loài nhập nội).

Họ Ong mật (Apidae)

MÔ TẢ

Côn trùng cánh màng, đít có nọc, có chiều dài toàn thân 1-1,5 cm, hút mật hoa để chế biến thành mật ong.

Ong muỗi có cơ thể nhỏ làm mật có màu trắng, ong khoái to hơn cho mật màu vàng. Ong ruồi có thân mình nhỏ dẹt cho mật màu vàng nâu. Ong châu Âu có kích thước lớn hơn các loài nêu trên.

Trong đàn ong, có ong chúa dài 2 – 2,5cm, to hơn các con ong khác, chuyên làm nhiệm vụ sinh sản. Ong đực dài 1,5 – l,7cm, chỉ giao phối với ong chúa rồi chết. Ong thợ có bộ phận sinh dục bị thoái hóa, không còn khả năng thụ tinh, chỉ làm nhiệm vụ hút mật hoa rồi luyện với nước bọt có chứa enzym để thành mật ong, sản sinh sữa đặc biệt từ những hạch ở đầu để nuôi ong chúa, tiết chất sáp từ hạch bụng để xây tổ và nhiều công việc khác trong tổ như gắn các tầng sáp, hàn kín các khe hở, chống đỡ kẻ thù xâm nhập.

PHÂN BỐ, NƠI SỐNG

Ong mật sống thành đàn có tổ chức với số lượng đông hàng chục ngàn đến hàng trăm ngàn con. Tình trạng ong mật sống hoang còn rất ít mà chủ yếu được nuôi từ lâu trong cả nước. Những tỉnh nuôi nhiều ong là Hưng Yên, Hải Dương, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lâm Đồng, trong đó đặc biệt thành nghề truyền thống có Hưng Yên, Hải Dương. Người ta cho rằng muốn thành công trong việc nuôi ong, cần phải có 4 điều tốt như nguồn mật tốt, giống tốt, chăm sóc tốt, khai thác tốt.

Nếu có điều kiện, có thế di chuyển đàn ong đến những vùng có nhiều hoa theo từng mùa, từng vụ.

BỘ PHẬN DÙNG, THU HOẠCH, CHẾ BIẾN

Mật ong: là mật hoa được ong nhào quện và cô đặc lại, với tỷ lệ nước khoảng 15 – 20%. Đó là một chất lỏng sền sệt, màu vàng, thơm đặc trưng, vị ngọt đậm, để lâu có đường kết tinh gọi là châu.

Mùa thu hoạch mật ong tốt nhất vào xuân – hạ (miền Bắc), mùa khô (miền Nam). Người ta thường đốt rễ cây khô lấy khói lùa vào tổ ong. Khói sẽ làm ong cay khó chịu mà bay ra khỏi tổ. cắt lấy tầng sáp chứa đầy mật rồi bóp, vắt hoặc ép lấy mật. Lọc kỹ. Mật thu được bằng cách này thường có chất lượng kém vì lẫn sáp, các tạp chất khác, đôi khi cả ấu trùng.

Muốn có mật tốt, cần cắt tầng sáp thành những miếng nhỏ, đem phơi nắng. Sáp sẽ mềm và mật sẽ chảy xuống đồ đựng, ở các cơ sở nuôi ong có tính công nghiệp, người ta lấy mật ong bằng cách cho tầng sáp vào máy ly tâm rồi vận hành. Cách này có ưu điểm là giữ nguyên được tầng sáp (ong không phải xây lại tổ) và mật thu được có chất lượng tốt.

Sữa ong chúa là mật và phấn hoa được ong bào chế làm chất dự trữ và thức ăn chủ yếu cho ong chúa, ấu chúa. Đó là một chất lỏng sánh, màu trắng đục đến vàng ngà, có giá trị cao nhất trong tổ ong.

Ngoài ra, nhiều sản phẩm khác của ong cũng được sử dụng như sáp ong, keo ong, nọc ong, phấn hoa do ong mang về.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Mật ong chứa đường với tỷ lệ cao (glucose, levulose, một ít saccharose), protid, các muối Ca, Fe, p, Mg, các vitamin Bl, B2, B6, pp, acid panthotenic, các men. 100g mật ong cung cấp cho cơ thể 335 calo.

Sữa ong chúa chứa nhiều acid amin, có nhiều loại cơ thể không tổng hợp được như cystein, threonin, phenylalanin, valin…, acid hữu cơ, vitamin B2, chất béo, enzym, các kích thích tố, muối khoáng.

CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Mật ong, tên thuốc trong y học cổ truyền là bách hoa tinh, bách hoa cao hay phong mật, là một vị thuốc có giá trị bồi dưỡng cao. Trẻ em uống đều đặn hàng ngày, mỗi ngày 1 – 2 thìa cà phê mật ong sẽ chóng lớn, trừ được nhiều bệnh thông thường. Người mới ốm khỏi muốn bồi bổ cơ thể thường dùng mật ong đánh với trứng gà hoặc ngâm rau thai với mật ong. Đối với người bệnh lao, kết hợp với dùng thuốc, người ta thường cho uống mật ong mỗi ngày 100 – 150g để mau chóng hồi phục sức khỏe, làm tăng lượng hồng cầu. Những người cao tuổi thường xuyên uống mật ong có thể kéo dài được tuổi thọ.

Mật ong
Mật ong

Mật ong nguyên chất để càng lâu càng đặc quánh là môi trường mà nhiều vi khuẩn và nấm mốc không thể phát triển được. Đó là loại thuốc có tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm đã được công nhận từ lâu. Trẻ em đang bú sữa mà bị nấm làm tưa lưỡi, dùng mật ong bôi hàng ngày sẽ mau khỏi. Mật ong trộn với bột của hoa hồng đỏ bôi chữa những vết lở loét ở miệng, lợi, lưỡi. Những vết thương, vết mổ được đắp bằng mật ong sẽ chóng khô, sạch, không mùi hôi vì mật ong hút nước và diệt vi khuẩn.

Mật ong được dùng chữa viêm loét dạ dày, tá tràng rất tốt với tác dụng làm se nhanh chóng, vì nó làm giảm và đưa độ acid của dịch vị trở lại bình thường, nên làm dịu các cơn đau và với độ sánh đặc cao đã bao che vết loét làm mau lành. Một số dạng thuốc chữa viêm loét dạ dày khá tốt như cao dạ cẩm hoặc mật ong – nghệ vàng – trứng gà.

Mật ong còn được dùng làm tá dược trong nhiều loại thuốc tễ, rượu bổ để cho ngọt, dễ uống. Mật ong cũng được bào chế thành dạng tiêm chống histamin.

Chú ý: Những người bị bệnh đái đường, phát ban không được dùng mật ong.

Sữa Ong Chúa Tươi làm đẹp da mặt
Sữa Ong Chúa Tươi

Sữa ong chúa (sữa chúa, phong nhũ tinh) là loại thuốc bổ cao cấp, có vị ngọt, hơi khé cổ, có tác dụng tăng trọng, kích thích và điều hòa, được dùng cho người già yếu, người mới ốm khỏi, phụ nữ yếu mệt sau khi đẻ, trẻ em suy dinh dưỡng; ngoài ra, thuốc còn cải thiện hệ thống miễn dịch, giảm hiện tượng “stress” và kìm hãm một số vi khuẩn gây bệnh.

Liều dùng hàng ngày: 2 – 3ml, dưới dạng thuốc viên.

Dùng ngoài, dạng kem sữa ong chúa 3% bôi hàng ngày làm da dẻ mịn màng, chữa tàn nhang, trứng cá ở phụ nữ, viêm da có mủ và chàm nhẹ ở trẻ sơ sinh.

Theo tài liệu nước ngoài, sữa ong chúa còn có khả năng điều hòa kinh nguyệt và kích thích sinh dục trong một số trường hợp.

Chú ý: Những người bị bệnh cao huyết áp, bệnh về huyết quản, dị ứng với thuốc, bệnh hen, bệnh Addison, phụ nữ đang hành kinh không được dùng sữa ong chúa.

Ngoài ra, các sản phẩm khác của ong mật như sáp (phong lạp) cũng được dùng chữa băng huyết (20g sáp tán nhỏ, uống với rượu hâm nóng), phối hợp với nhựa thông (lượng bằng nhau) nấu cho tan, bôi chữa nứt nẻ đầu ngón tay, ngón chân; dùng để bao các loại thuốc tễ, thuốc hoàn to bảo quản lâu dài.

Keo ong được dùng dưới dạng xông hơi, viên ngậm để điều trị cúm, viêm họng, viêm phế quản, chứng hôi hơi thở. Dầu keo ong gồm keo ong 40% trộn với dầu thực vật 60%, bôi chữa các thể chàm, mụn nhọt, eczema…

Nọc ong chữa được nhiều bệnh như cao huyết áp, đau cột sống, viêm dây thần kinh, viêm đa khớp bằng cách cho ong đốt trực tiếp tại chỗ giống như hình thức châm cứu. Nọc ong được chê thành thuốc tiêm, nhũ dịch, dầu bôi.

Nọc ong có tính độc, không được tự ý sử dụng mà phải theo sự hướng dẫn và theo dõi của thày thuốc. Phụ nữ có thai, người bị bệnh lao, bệnh gan không được dùng nọc ong.

Phấn hoa do ong mang về có vị nhạt, không độc, có tác dụng bổ dưỡng, tăng cường sức chống đỡ với bệnh tật, chữa suy dinh dưỡng dưới dạng thỏi phấn gọi là “viên phấn hoa”. Hoặc trộn phấn hoa (25g) với mật ong (50g) mà dùng.

BÀI THUỐC

  • Chữa suy nhược thần kinh, thận yếu, di mộng tinh: Mật ong (90%) trộn với cao kim anh (10%). Ngày dùng 2 – 3 lần, mỗi lần 30ml vào trước mỗi bữa ăn và trước khi đi ngủ.
  • Chữa sỏi thận: Mật ong (10g), dịch ép của chanh (1 quả). Trộn đều với ít nước sôi. Ngày uống hai lần. (Kinh nghiệm của ông Tôn Thất Đảng, Hội nuôi ong Đà Nẵng).
  • Chữa cảm, cúm, ho có đờm, viêm phổi: Mật ong (250g), tép bưởi (500g). Cho tép bưởi vào một ít rượu, ngâm một đêm. Đun nhỏ lửa cho bay hết rượu, rồi trộn với mật ong. Ngày uống hai lần, mỗi lần 10 – 20g.
  • Thuốc bổ, làm ăn ngon, dễ ngủ, tăng cân, tăng lực, giảm cholesterol: Sữa ong chúa (2,5%), dịch chiết rễ đinh lăng (5%), mật ong (15%), cồn (10%) và tá dược vừa đủ 100%. (Sữa ong chúa – đinh lăng).

Ảnh hưởng của giới tính tới bệnh lý và sức khỏe?

Nữ thường thọ cao hơn nam. Sở dĩ có ưu thế /1 1 sinh học này là vì hormon trên cơ thể nữ  giới, hormon này hầu như có thể bảo vệ họ không bị tổn hại bởi bệnh tim, mà bệnh tim lại là chứng bệnh gây tử vong hàng đầu trong nam giới. Căn cứ một bản điều tra gần đây cho thấy, tuổi thọ khác nhau giữa nam và nữ ở chỗ tỉ lệ nam giới hút thuốc lá nhiều hơn nữ, khiến nam dễ bị mắc phải chứng bệnh do thuốc lá gây nên. Nhưng nếu theo xu thế hiện nay ngày càng nhiều chị em hút thuốc lá thì khoảng cách chênh lệch về cao tuổi giữa nam và nữ sẽ ngày càng được rút ngắn, tới một ngày nào đó, sẽ không còn chênh lệch nữa.

Tuy nhiên có đa số chứng bệnh cũng “tấn công” cả nam lẫn nữ, chỉ trừ chứng bệnh do bộ phận sinh dục khác nhau. Nhưng cũng có một số bệnh chỉ uy hiếp đối với những giới tính riêng biệt. Khi tìm hiểu nguyên nhân căn bệnh, cần nhớ tới khác nhau về bẩm sinh, thí dụ : khi chị em hơn 60 tuổi bị chứng đau lưng, đa số do loãng xương, trừ khi tế bào ung thư vú đã di căn tới lưng. Nhưng triệu chứng này xuất hiện trên nam giới cùng tuổi thì cần chú ý xem có phải viêm khớp không ? hay do tế bào ung thư tiền liệt tuyến di căn tới xương của lưng.Tập luyện đúng cách rất cần thiết với người tăng huyết áp

Dưới đây xin giới thiệu những chứng bệnh thường xuất hiện trên những giới tính khác nhau :

  • Viêm bể thận vi khuẩn cấp tính (Acute Bacterial Pyelone Phritis) : hệ tiết niệu bị viêm nhiễm bắt đầu từ bàng quang, sau đó lan tràn tới thận, do nữ dễ mắc chứng bệnh viêm bàng quang, nên nữ mắc chứng bệnh này chiếm đa số, nếu chị em phát hiện ưa rùng mình, sốt, đau lưng, buồn nôn, nên chú ý có phải bàng quang gây nên không Nếu có xuất hiện trên nam giới thường do tiền liệt tuyến gây nên.
  • Xơ cứng động mạch : chứng bị tắc nghẽn động mạch trên các bộ phận trên cơ thể chiếm hàng đầu trong 10 chứng bệnh gây tử vong cao nhất trong các nước phương tây. (ung thư xếp thứ hai). Thông thường, nữ trước thời mãn kinh không mắc chứng bệnh này, trừ phi bị chứng tiểu đường, huyết áp cao, đông máu, hay có thói quen hút thuốc và uống thuốc ngừa thai. Tình hình với cánh đàn ông cũng tương tự. Cho nên đối với chị em còn hành kinh dưới 50 tuổi, khi phát hiện bị đau ở ngực, thì nghi ngờ mắc chứng tim không cao lắm. Nếu chị em đó từng làm phẫu thuật mổ bỏ tử cung và hai buồng trứng, sau đó không bổ sung hormon, thì khả năng mắc bệnh tim cũng cao như nam giới.
  • Tuy nhiên hàng năm có khoảng vài trăm ngàn phụ nữ mắc chứng bệnh cần mổ bỏ tử cung. Tôi thật ngạc nhiên sao chị em hiểu biết về từ “phẫu thuật tử cung” sao quá ít. Giả sử tử cung cắt bỏ và buồng trứng được giữ lại, tuy không còn hành kinh, thì cũng không có hiện tượng thời mãn kinh. Kinh nguyệt cần sự tồn tại của tử cung mới có thể phát sinh, vì nơi đây chính là nơi trú của kinh nguyệt. Còn thời mãn kinh là chỉ khi buồng trứng bị cắt bỏ không còn tạo ra hormon, mới phát sinh. Cho nên chỉ cần giữ lại buồng trứng dù chỉ một chút cũng không dễ mắc chứng bệnh xơ cứng động mạch.
  • Khác thường về tính miễn dịch tự thân, khi hệ miễn dịch bị rối loạn, sẽ quay trở lại tác dụng kháng bệnh thành tác dụng gây bệnh, tế bào cảnh vệ lúc này sẽ xem tế bào lành thành những vi khuẩn, virus hay tế bào ung thư mà ra sức tiêu diệt. Chứng bệnh trên xâm phạm nữ nhiều hơn nam, có một số quan trọng như sau :
  1. Cường tuyến giáp lồi mắt (bệnh Grave) là hiện tượng cường giáp, người bệnh lồi mắt, dị cảm mạnh và dễ bị kích động.
  2. Viêm thấp khớp : nguy cơ tàn phế.
  3. Chứng luput ban đỏ dạng hệ thống (SLE) : Cuối cùng sẽ khiến động mạch toàn thân bị viêm, phát bệnh tuỳ theo vị trí mạch máu bị viêm nhiễm, nếu ở tim, kết quả có thể là hẹp tim, trong não sẽ là trúng gió, thận sẽ bị đau đớn và trong nước tiểu có máu…. Vì vậy khi nhiều bộ phận trên cơ thể nữ thanh niên xuất hiện một triệu chứng không liên quan tới bộ phận đó, cần nghĩ ngay tới chứng bệnh này.
  4. Hội chứng ống cổ tay : nguyên nhân bệnh có lẽ do hệ miễn dịch, là một dây thần kinh trên cổ tay bị đè bởi những tổ chức sưng to xung quanh, khiến tay người bệnh không có sức và đau đớn. Thông thường cần mổ, cắt bỏ tổ chức bị sưng, nhưng khi chị em mang thai mắc chứng bệnh này, sau khi sinh con sẽ tự khỏi.
  5. Viêm kết tràng :một thứ viêm ruột, gây đau lâu ngày, co thắt, tiêu chảy hay táo bón (hay cả hai). Nguyên nhân do rối loạn hệ miễn dịch.
  6. Bệnh Raynaud : mạch máu tiếp xúc không khí lạnh nên bị co thắt, một khi nhiệt độ giảm xuống, ngón tay chân và mũi sẽ trắng bệch và đau. Đây là chứng bệnh miễn dịch, nữ mắc bệnh nhiều hơn nam.
  7. Nhược cơ nặng : là một chứng bệnh của hệ miễn dịch. Người bệnh có hiện tượng yếu cơ, nhất là cơ điều khiển di động của nhãn cầu, nuốt và hô hấp, nữ mắc chứng bệnh này cao hơn nam giới,có điều là chỉ phát bệnh sau khi mắc chứng bệnh nặng khác hay bị cơn sốc về tinh thần.
  • Ung thư : đa số đều có tác hại tương tự đối với nam lẫn nữ. Tuy cũng có một số có phân biệt giới tính, thí dụ, dưới đây là một số chứng bệnh mà nam mắc nhiều hơn nữ ung thư thực quản, tỉ lệ mắc bệnh của nam cao hơn nữ gấp 3 lần; ung thư thận gấp 2 lần ; ung thư họng gấp 4 lần ; ung thư môi gấp 2 lần ; ung thư dạ dày gấp 2 lần; ung thư lưỡi gấp 7 lần !
  • Cá nhân tôi nghĩ rằng : sở dĩ nam mắc những chứng bệnh trên nhiều như vậy là vì họ có hút thuốc lá, thuốc tẩu, thuốc hít, thuốc nhai. Tuy nhiên nếu nữ cũng hút thì tỉ lệ mắc chứng bệnh trên cũng không ít hơn nam giới.

Còn các chứng bệnh dưới đây thì nữ mắc nhiều hơn nam :

  • Ung thư vú : tỉ lệ nữ mắc chứng này cao hơn nam tới 150 lần, tuy nhiên không chỉ có nữ mắc chứng bệnh này mà thôi. Trên lâm sàng cũng có nam bệnh nhân, cho nên tôi xin nhấn mạnh rằng tất cả mọi người khi phát hiện khối u trên bất kỳ một chỗ của cơ thể cũng cần chú ý kiểm tra, trong đó bao gồm cả vú.
  • Ung thư tuyến giáp :tỉ lệ nữ mắc bệnh cao hơn nam gấp 3 lần, nhưng có cách chữa khỏi, khi phát hiện có có khối u lạ, khi không đau càng phải chú ý hơn, cần nhanh chóng tìm tới bác sĩ.
  • Bệnh túi mật : nữ dễ bị ung thư túi mật, sỏi mật, viêm mật. Đó là vì do hormon sản sinh tác dụng với chất mật mà gây nên. Thuốc uống ngừa thai cũng dễ khiến chị em mắc chứng bệnh về túi mật, cho nên khi bị đau ở bụng trên bên phải, và ngày thường lại có

Uống thuốc ngừa thai, chớ quên khả năng mắc bệnh nêu trên.

  • Nhức đầu (nhức một bên) : cũng có thể do hormon mà ra, nhưng khi tới thời mãn kinh chứng bệnh sẽ tự động biến mất.
  • Không chịu được chất Lactose : Do cơ thế thiếu một chất men (còn gọi là chất men phân giải Lactose), để tiêu hoá những Lactose trong thức ăn, nên gây ra chứng bệnh này, khi ta uống sữa hay sản phẩm của sữa, cơ thể không phân giải Lactose theo thường lệ. Gây nên sình bụng no hơi, tiêu chảy…do Lactose ở lại trong ruột.
  • Phổi tắc nghẽn : do huyết khối trong tĩnh mạch đột nhiên tách ra một phần đi vào trong phổi, gây tắc đối với mạch máu trong phổi. Người bệnh thấy đau ngực, ho ra đờm có máu, sốt nhẹ, nếu huyết khối to còn có thể nguy hiểm tới tính mạng. Vì huyết khối thường được hình thành tại tĩnh mạch ở đùi hay xương chậu, cho nên nữ mắc bệnh này nhiều hơn nam. Hiện tượng mang thai dễ gây tĩnh mạch nơi đùi bị giãn nở, viêm hố chậu lâu ngày khiến tĩnh mạch nơi đó sinh bệnh. Cho nên nam thanh niên khi bị đau ở ngực, nên kiểm tra về bệnh tim, còn nữ thì nên kiểm tra tắc nghẽn về phổi.
  • Van tim bất thường : đây là bệnh do một trong bốn van của tim có kết cấu khác thường hay bị bất cân bằng về chức năng, người bệnh cảm thấy đau ngực không rõ nguyên nhân, thở sốc, nhịp tim nhanh, nhức một bên đầu, đôi khi còn có giật mình, nên phụ nữ trẻ khi bị như vậy chớ nên bỏ qua, đừng cho là không có gì trong điện tâm đồ cứ xem như do thần kinh, mà nên nhắc bác sĩ chú ý về vấn đề trên, chỉ cần kiểm tra bằng siêu âm tim thì biết ngay.
  • Xơ cứng rải rác (MS) : đây là một chứng bệnh dị thường về thần kinh. Nữ nhiều hơn nam đôi chút, đa số xuât hi4ư trong thời đầu thành niên, sau đó thành mãn tính, tiềm ẩn và phát triển ngày càng ghê gớm. Cuối cùng dẫn tới nhiều chứng bệnh về thần kinh. Nếu là bạn gái trẻ, phát hiện thị lực của mình khi tốt khi xấu, tứ chi đôi lúc tê cứng, yếu sức hay đau nhức, thì nên chú ý về chứng bệnh này.
  • Loãng xương : chị em tuổi cao thường gặp nhất. Do chất can xi trong xương mất dần theo năm tháng, khiến xương trở nên giòn và dễ gãy. Tuy nhiên những đàn ông nghiện rượu cũng dễ mắc chứng bệnh này, nhất là những người SỢ rượu làm hại dạ dày nên uống nhiều loại thuốc chế toan càng phải chú ý. Cho nên khi bạn đã tới thời mãn kinh, đột nhiên thấy đau lưng, hay khi ho gắng sức khiến xương eo bị nứt, hay bắt đầu bị cong lưng, rút bớt thân cao, cho thấy bạn đang mắc chứng bệnh loãng xương
  • Loét hệ tiêu hóa : tỉ lệ mắc chứng bệnh này chênh lệch giữa nam và nữ cũng giống như xơ cứng động mạch, nghĩa là thời còn hành kinh phụ nữ ít khi mắc bệnh này. Bởi vậy khi các bạn này thấy đau ở bụng trên nên nghĩ tới bệnh túi mật, chớ không phải loét hệ tiêu hoá. Nhưng dù nam hay nữ chỉ cần thường xuyên dùng nhiều thuốc aspirin hay thuốc giảm đau, steroids, cũng dễ gây loét đường ruột.
  • Bệnh truyền nhiễm qua quan hệ tình dục : phát sinh cả nam lẫn nữ, triệu chứng không khác nhau, tỉ lệ mắc bệnh hơi khác. Khi một nam giao hợp với một nữ bị bệnh lậu, tỉ lệ bị truyền nhiễm là 1/5. Nhưng ngược lại thì tỉ lệ nữ mắc bệnh sẽ cao gấp 2-2,5 lần của nam. Tỉ lệ mắc bệnh siđa của nam thì cao hơn nữ, đây không liên quan gì tới cơ chế sinh lý bẩm sinh mà là vì nam thích giao hợp qua hậu môn và có thói quen tiêm chích nhiều hơn nữ.

Sau khi hiểu rõ giới tính có tính quan trọng đối với việc chẩn trị như thế nào, nhưng các bạn chớ nên quên một điều là cơ chế ảnh hưởng nhiều tới cơ năng sinh vật của con người, giới tính chỉ là một trong số đó mà thôi.

 

Bệnh Viêm khớp do lậu – Nguyên nhân, triệu chứng, điều trị

Căn nguyên

Lậu cầu theo đường máu xâm nhập vào trong một ổ khớp từ một tổn thương lậu cấp tính, hoặc từ tổn thương mạn tính tuy hiếm hơn (từ viêm tuyến tiền liệt, viêm túi tinh, viêm mào tinh ở nam giới, viêm tử cung-vòi trứng ở nữ giới do lậu cầu). Viêm khớp do bệnh lậu cũng có thể xuất hiện ở trẻ còn bú sau một bệnh mắt có mủ hoặc ở một trẻ em gái sau khi bị viêm âm hộ âm đạo do lậu cầu. Trong trường hợp bệnh lậu được điều trị đúng cách thì biến chứng viêm khớp chỉ hãn hữu mới xảy ra.

Triệu chứng

Viêm khớp thường hay xảy ra 3-6 ngày (có thể tới 2 tháng) sau nhiễm lậu cầu cấp tính, với tỷ lệ mắc bệnh ở nữ giới trẻ tuổi trội hơn (ở những đối tượng này thường bệnh lậu không được chẩn đoán). Người ta phân biệt:

Viêm khớp nhiễm lậu cầu: khởi phát thường đột ngột, trước đó có đau khớp di chuyển không điển hình, rồi bỗng nhiên khu trú ở một hoặc hai khớp lớn. Bệnh nhân hay bị sốt cao tới 38°-39°C. Hiếm thấy những trường hợp nhiễm khuẩn huyết thực sự do lậu cầu. Viêm khớp do lậu cầu phát triển trong 1-2 ngày, thường chỉ ở một khớp hoặc ít khớp, và diễn biến cũng giống như các viêm khớp nhiễm khuẩn khác, nếu lịhông được điều trị kịp thời, sẽ tiến tới phá huỷ khớp.

  • Viêm khớp mạn tính tái tạo: có thể diễn biến tiếp sau viêm khớp cấp tính hoặc biểu hiện mạn tính ngay từ đầu. Xương, sụn, và các bộ phận khác của khớp là bao khớp và các dây chằng là vị trí của những tổn thương không hồi phục gây ra bởi quá trình viêm mạn tính và dẫn tới cứng khớp. Chụp X quang thấy sụn khớp bị mòn, khe khớp bị hẹp, xuất hiện gai xương và hình ảnh loãng xương.
  • Bệnh thấp do lậu cầu: có thể mang tính chất của một trường hợp viêm đa khớp dạng thấp hoặc viêm cột sống dính khớp.
  • Những biểu hiện kết hợp: có thể thấy viêm bao hoạt dịch, đôi khi đơn độc, hoặc viêm túi thanh dịch tiết dịch rỉ viêm ở dưới gân Achille (gân gót), dưới xương gót, trước xương bánh chè.

Xét nghiệm cận lâm sàng

  • Cấy máu: đôi khi dương tính vào lúc khởi đầu của viêm khớp nhiễm khuẩn. Cũng có thể tìm thấy lậu cầu ở một tổn thương da.
  • Hoạt dịch (dịch khớp): có thể là dịch trong, hoặc đục, hoặc mủ thật sự (nếu có trên 3.000 bạch cầu/pl với 80% là bạch cầu hạt trung tính). Đôi khi có thể nhìn thấy lậu cầu trong xét nghiệm hiển vi trực tiếp, và cấy hoạt dịch cho kết quả dương tính trong 30% số trường hợp viêm khớp nhiễm khuẩn (chọc hút dịch khớp trước khi cho kháng sinh).

Chẩn đoán phân biệt với những trường hợp sau đây:

  • Viêm khớp nhiễm khuẩn khác, không phải lậu cầu.
  • Viêm đa khớp dạng thấp phản ứng huyết thanh âm tính: thể viêm khớp này rất khó chẩn đoằn phân biệt với bệnh thấp do lậu.
  • Hội chứng Reiter: cũng khó chẩn đoán phân biệt với viêm khớp do lậu vì viêm niệu đạo cũng tham gia vào bệnh cảnh lâm sàng của bệnh lậu.
  • Thấp khớp cấp: khác với viêm khớp do bệnh lậu bởi tiền sử và diễn biến.

Điều trị

Penicillin G (10 triệu đơn vị mỗi ngày, trong 8-10 ngày), hoặc trong trường hợp không dung nạp (dị ứng với penicillin) thì cho tetracyclin (250 mg 4 lần mỗi ngày). Cefoxitin trong trường hợp mầm bệnh sản xuất được penicillinase (enzym phá huỷ penicilin).

Hương phụ

Tên khoa học:

Cyperus rtundus Linn. Họ khoa học: Họ Cói (Cyperaceae).

Tiếng Trung: 香附

Tên Hán Việt khác:

Sa thảo, Phu tu (Biệt Lục), Bảo linh cư sĩ, Bảo tuyết cư sĩ (Ký Sự Châu), Nguyệt tuy đa (Kim Quang Minh Kinh), Tam lăng thảo, Tước đầu hương (Đường Bản Thảo), Thảo phụ tử, Thủy hương lăng, Thủy ba kích, Thủy sa, Sa kết, Tục căn thảo (Bản Thảo Đồ Kinh), Hạo, Đài, Hầu sa (Nhĩ Nhã), Địa mao (Quang Nhã), Địa lại căn, Lôi công đầu (Cương Mục), Hương lăng, Phụ mễ, Thử sa, Hồi đầu thanh, Tước não hương (Hòa Hán Dược Khảo), Chế hương phụ, Thất hương bĩnh, Thủy tam lăng,

Hương phụ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Cỏ cú, Củ gấu, Cỏ gấu (Dược Liệu Việt Nam).

Cây Hương phụ
Cây Hương phụ

Mô tả:

Cây cỏ sống lâu năm, cao 10-60cm, có thân rễ nằm dưới đất, phát triển thành hình thoi, dài 2-4cm, đường kính 0,5-1cm, vỏ ngoài mầu nâu thẫm hoặc nâu đen, có nhiều đốt, trên đốt có lông, bên trong mầu nâu nhạt, mùi thơm. Lá nhỏ hẹp dài bằng thân, ở giữa lưng có gân nổi, cứng bóng, phần dưới lá ôm thân cây. Cụm hoa đơn hay k p, có 3-5 lá bắc tỏa rộng ra, dài hơn cụm hoa nhưng có khi ngắn. Các hoa cũng có trục nhẵn mang 3-20 hoa nhỏ. Mỗi hoa nhỏ khoảng 30 hoa, nhưng cũng có thể thay đổi từ 8-70 hoa, trục hoa nhỏ có cánh. Vảy hoa hình trái xoan, tù. Nhị 3, bao phấn hình dải thuôn. Vòi nhụy dài bằng hay vượt bầu, đầu nhụy 3, dài. Quả bế có 3 cạnh, màu xám. Ra hoa từ mùa hè tới mùa đông.

Địa lý:

Cây mọc hoang dại.

Thu hái, sơ chế:

Thu hái vào tháng 2-3 vào 8-9. Đem về phơi khô, đốt cháy lông và rễ con, tiếp tục phơi hoặc sấy tới độ ẩm dưới 13%.

Phần dùng làm thuốc:

Thân rễ (thường gọi là củ).

Mô tả dược liệu:

Thân rễ hình thoi, dài 1-3,5cm, rộng 0,4-1cm. Mặt ngoài màu đỏ sẫm hay nâu đen, có nhiều đốt ngang, mang lông cứng màu nâu và vết tích của rễ con. Mặt cắt ngang có lớp biểu bì mỏng, mô mầm vỏ màu hồng nhạt, tượng tầng mảnh, trung trụ màu nâu sẫm chiếm gần 1/2 bán kính. Mùi thơm vị hơi cay. Loại mọc ở bãi biển, củ to mập, chắc thơm, sạch lông, thịt hồng hào là tốt (Dược Tài Học).

Hương phụ
Hương phụ

Cách chế:

Dùng sống thì đi lên Cách mạc, lồng ngực, thông suốt ra ngoài bì phu, dùng chín thì chạy xuống Can và Thận suốt ra eo lưng và chân, sao đen thì chỉ huyết, tẩm Đồng tiện sao thì vào phần huyết mà bổ hư, tẩm nước Muối sao thì vào phần huyết mà nhuận táo, sao với Thanh diêm thì bổ cho khí của Thận, tẩm Rượu sao thì lưu hành khắp kinh lạc, tẩm Dấm sao thì tiêu tích tụ, tẩm nước Gừng sao thì tiêu đờm ẩm. Lại có phép khác: cho vào thuốc lương huyết thì tẩm Đồng tiện sao đen, cho vào thuốc điều liềm thì tẩm Dấm sao đen, cho vào thuốc tiêu thức ăn tích trệ thì sao vàng.

Bảo quản:

Đậy kín. Dễ sâu mọt. Hương phụ chế không nên bào chế nhiều, chỉ nên dùng đủ trong vòng 15-20 ngày.

Thành phần hóa học:

+ b-Pinene, Camphene, 1,8-Cineole, Limonene, p-Cymene, Selinatriene, b- Selinene, a-Cyperone, b-Cyporene, Patchoulenone, a-Rotunol, Cyperol, Isocyperol, Copadiene, Eppoxyguane, Cyperolone, Rotundone, Kobusone, Isokobusone, Glucose, Fructose (Trung Dược Học).

+ Glucose 8,3%, Fructose 9,1%, Starch 1-1,7%, Essential oil 0,65-1,4% (Shoaib A m và cộng sự, J Pharm. Sci V A R 1967, 8: 35 (C A 1970, 72: 24693r).

+ b-Pinene, Camphene, 1,8-Cineole, p-Cymene, Cyperene, Selinatriene, b- Selinene, Patchoulenone Trvedi B và cộng sự, Collection Czech Chem Commun 1964, 29: 1675 (C A 1964, 61: 5697h).

+ Cyperol, Isocyperol (Hikino H và cộng sự, Tetra Lett 1967, 15 (12): 1929).

+ Copadiene, Epoxyguaine, Cyperolone, Rotundone (Kapadia V H và cộng sự, Tetra Lett 1967, 47: 1661).

+ Rotunol (Hikino H và cộng sự, Tetra Lett 1969, 32: 2741).

Tác dụng dược lý:

+ Nước sắc Hương phụ có tác dụng ức chế tử cung, có tác dụng giống như ‘Đương Qui Tố’ nhưng yếu hơn. Tinh dầu có hoạt tính nhẹ của kích thích tố nữ, vì vậy, Hương phụ thường được dùng làm thuốc điều kinh (Trung Dược Học).

+ Cồn chiết xuất Hương phụ có tác dụng kháng viêm, giảm đau, giải nhiệt nhẹ. Có tác dụng an thần đối với trung khu thần kinh (Trung Dược Học).

+ Nước sắc Hương phụ có tác dụng cường tim và hạ áp (Singh N và cộng sự, Indian J Med Res 1970, 58 (1): 103).

Cồn chiết xuất Hương phụ có tác dụng ức chế trực tiếp cơ trơn của hồi trường (Singh N và cộng sự, Indian J Med Res 1970, 58 (1): 103).

+ Dịch chiết Hương phụ chích vào khoang bụng chuột với liều 100mg,kg, thấy có tác dụng kháng viêm (Gupta M, B, India J Med Res 1971, 59: 76).

+ Nước sắc Hương phụ có tác dụng ức chế đối với tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn lỵ Sonner và nột số nấm (Trung Dược Học).

Liều dùng:

4 – 12g

Kiêng kỵ:

+ Kỵ sắt (Lôi Công Bào Chích Luận).

+ Uống nhiều làm nâng khí lên (Thang Dịch Bản Thảo).

+ Phàm âm sự [kinh nguyệt] đến trước kỳ, huyết nhiệt

+ Tinh huyết khô mà bế lại, kinh nguyệt đến trước kỳ, huyết hư, nội nhiệt: cấm dùng (Dược Phẩm Vậng Yếu).

+ Âm hư, huyết nhiệt, kinh nguyệt sớm thuộc nhiệt: cấm dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

+ Khí hư mà có nội nhiệt: không dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Khí vị:

Vị đắng, ngọt, cay, hơi ôn, không độc, vào phần khí của kinh Túc quyết âm, cũng vào cả kinh Thủ thái âm, khí hậu hơn vị, âm ở trong dương, tính giáng xuống, lại có người nói: dương ở trong âm, kỵ sắt, được Ô dược thì tốt.

Chủ dụng:

Khoan khoái phần khí, khai uất, trục ứ, điều kinh, chữa hoắc loạn thổ nghịch, sơ thông Can khí, giúp Tỳ vận hóa tiêu thức ăn cũ, cầm tiết tả, chế với Đồng tiện thì điều hòa huyết nhiệt, kinh nguyệt ứ lại, sao đen thì cầm được huyết băng, huyết rong, trong phương chữa khí huyết của Phụ nữ cần phải dùng nó là vì nó có công khai uất, tan trệ (vì tính phụ nữ thường hay phẫn uất). Có thuyết nói nó có khả năng đầy đặn da lông, phá tan hàn khí và bệnh mẩn ngứa ngoài da, hư nhiệt trong lồng ngực, là thuốc chữa hết thảy mọi bệnh khí.

Hợp dụng:

Gặp được Sâm, Truật thì bổ khí, được Quy, Thục thì bổ huyết, được Mộc hương thì thông trệ, hòa được khí của Trung tiêu, được Đàn hương thì chỉnh lý phần khí làm tỉnh tạng Tỳ, được Trầm hương thì thăng giáng được mọi khí, được Xuyên khung, Thương truật thì giải được mọi chứng uất, được Chi tử, Hoàng liên thì giải được nhiệt, được Phục thần thì làm cho Tâm và Thận giao thông với nhau, được Hồi hương, Phá cố chỉ thì đưa khí trở về nguồn gốc, được Tam lăng, Nga truật thì tiêu mòn tích khối, được Hậu phác, Bán hạ thì khơi chỗ bế tắc, tiêu trướng đầy, được Tử tô, Thông bạch thì giải tán tà khí, được Ngải diệp thì làm ấm tử cung.

Nhận xét:

Hương phụ dùng làm thuốc chủ yếu cho phụ nữ, là vì phụ nữ thường hay uất, nhiều trệ, hiềm là vị cay, tính táo dùng nhiều thì tôn khí huyết, nên dùng vào trong thuốc điều kinh thì phải tẩm Đồng tiện sao qua, lại dùng kèm với Đương quy, Thục địa mới có thể không lo ngại.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Nhân trai trực chỉ phương”

Bài Ngải phụ noãn cung hoàn

Ngải diệp 120g, Hoàng kỳ 80g, Hương phụ 240g, Ngô thù 40g, Đương quy 120g, Xuyên khung 80g, Bạch thược 80g, Địa hoàng 40g, Quan quế 20g, Tục đoạn 60g.

Cùng tán nhỏ, thêm Mật làm hoàn, liều uống 16-20g, ngày 2 lần.

Chữa phụ nữ tử cung hư lạnh, đới hạ, bạch dâm, sắc mặt vàng bủng, chân tay đau mỏi, ăn kém, đau bụng, hành kinh không đều, lảu năm hiếm muộn.

“Diệp thị nữ khoa chứng trị” Bài Địch đàm hoàn

Bài Địch đàm hoàn

Bạch truật 80g, Hương phụ 40g, Bán hạ 40g, Thần khúc 20g, Xuyên khung 40g, Bạch linh 20g, Quất hồng 16g, Cam thảo 8g.

Cùng tán nhỏ, thêm Hồ làm hoàn, liều uống 12-16g, ngày 2 lần. Có tác dụng bổ Tỳ, trừ thấp đàm.

Chữa phụ nữ hiếm muộn do đàm thấp ứ trệ.

“Diệp thiên sĩ nữ khoa”

Bài Hương phụ đạo đàm thang

Xương truật 8g, Bạch linh 16g, Hương phụ 8g, Chỉ xác 12g, Trần bì 12g, Thiên nam tinh 8g, Bán hạ 12g, Cam thảo 4g, Sinh Khương chấp 5 ml.

Cùng tán nhỏ 8 vị trên, dùng Khương trấp và Mật làm hoàn, liều uổng 12-16g, ngày 2 lần.

Có tác dụng trừ thấp, đạo đàm.

Chữa phụ nữ kinh bế hoặc hành kinh lượng ít, khí hư ra nhiều, thể trạng béo mập, sức yếu.

“Cảnh Nhạc toàn thư”

Bài Sài hồ sơ can tán

Bạch thược 12g, Xuyên khung 8g, Hương phụ 8g, Sài hồ 8g, Chỉ xác 8g, Chích thảo 4g. sắc, chia uống 2 lần trong ngày.

Có tác dụng sơ Can, hành khí, hoạt huyết, chỉ thống.

Trị các chứng Can khí uất kết, ngực sườn đau tức, hàn nhiệt vãng lai.

“Đan Khê tâm pháp”

Bài Việt cúc hoàn

Xuyên khung 8g, Xương truật 12g, Hương phụ 12g, Chi tử 2g, Thần khúc 12g. Thường đổi thành thuốc thang, sắc, chia uống 2 lần trong ngày.

Có tác dụng hành khí, giải uất, hoạt huyết.

Chữa ngực bụng đầy, nôn mửa, tiêu hóa kém.

Hòa tê cục phương”

Bài Hương tô tán

Hương phụ 16g, Tử tô diệp 16g, Trần bì 8g, Cam thảo 4g. Thường chuyển thành thuốc thang, sắc, chia uống 2 lần trong ngày.

Chữa cảm mạo 4 mùa, phát sốt, ớn lạnh, nhức đầu, không mồ hôi, ngực bĩ đầy, biếng ăn.

“Thiên gia diệu phương”

Bài Tiêu cam bách hợp thang

sắc, chia uống 3 lần trong ngày. Có tác dụng sơ Can, giải uất, tư âm, nhuận táo, dưỡng tâm thần.

Chữa suy nhược thần kinh, hư phiền, mất ngủ.

Bàn luận: Bài này là hợp dụng của 3 bài: Tiêu giao tán, Cam mạch đại táo thang, và Bách hợp địa hoàng thang gia giảm để chữa suy nhược thần kinh có kết quả tốt.

“Hướng dẫn sử dụng các bài thuốc”

Bài Ngũ tích tán

Trần bì 6g, Bán hạ 6g, Bạch linh 6g, Bạch truật 10g, Xuyên khung 4g, Đương quy 6g, Bạch thược 6g, Hậu phác 6g, Ma hoàng 4g, Cát cánh 4g, Quế chi 4g, Bạch chỉ 4g, Chỉ xác 6g, Can Khương 4g, Đại táo 2 quả, Hương phụ 6g, Cam thảo 4g.

Chữa các bệnh rối loạn ở ổ bụng, nửa người trên nóng, nửa dưới lạnh, viêm Dạ dày, viêm ruột, đau eo lưng, kinh nguyệt không thuận, bạch đón, sán khí, thần kinh tọa.

Tác dụng chữa bệnh của Hoa Hòe

HÒE

Tên khác:             Hòe hoa, hòe mễ, lài luồng (Tày)

Tên khoa học: Stypnolobium japonicum (L.) Schott

Họ Đậu                (Fabaceae).

MÔ TẢ

Cây nhỏ hay cây nhỡ, có thân cành hình trụ, nhẵn, vỏ lúc đầu màu lục nhạt sau hơi nứt nẻ, màu xám nhạt, có những chấm trắng. Lá mọc so le, kép lông chim gồm nhiều lá chét mép nguyên, mặt trên nhẵn, mặt dưới nhạt hơi có lông.

Cụm hoa mọc thành chùm dài phân nhánh ở đầu cành; hoa nhỏ nhiều màu trắng hoặc vàng nhạt, đài hình chuông, tràng có cánh cờ rộng, nhị 10 rời nhau.

Quả đậu nhẵn, thắt lại giữa các hạt; hạt 2 – 5, hơi dẹt, màu đen bóng.

Mùa hoa quả: tháng 5-11.

PHÂN BỐ, NƠI MỌC

Trên thế giới, hòe phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, được trồng nhiều ở một số nước Đông Nam Á, Trung Quốc và Nhật Bản.

Ở Việt Nam, hòe được trồng ở các tỉnh phía Bắc và sau đó, được đưa vào trồng ở các tỉnh Tây Nguyên và ven biển miền Trung. Tỉnh có nhiều hòe nhất là Thái Bình. Cây thường được trồng xen với các cây cho quả trong vườn gia đình.

BỘ PHẬN DÙNG, THU HÁI, CHẾ BIẾN

Nụ hoa thu hái chủ yếu vào tháng 5 – 7 ở những chùm hoa có từ 5 đến 10 hoa nở, chọn những nụ có màu vàng lục vào buổi sáng. Không thu hoạch nụ quá sớm, hàm lượng hoạt chất hình thành thấp, nếu để muộn, năng suất dược liệu không cao và hàm lượng hoạt chất giảm. Sau đó, phơi nắng nhẹ hoặc sấy lửa nhỏ và thật nhanh cho khô để bảo đảm phẩm chất. Khi dùng, để sống hoặc sao vàng, sao cháy.

Hoa hòe và quả hòe cũng được dùng. Hoa đã nở và quả chín lấy vỏ quả, còn hạt để phát triển trồng. Các bộ phận được dùng tươi hoặc phơi, sấy khô.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Nụ hòe chứa rutin với hàm lượng 20 – 30%, sophorin A, B, C, sophoradiol, betulin. Rutin còn có trong nhiều bộ phận khác của cây như hoa đã nở, quả, hạt, lá, gỗ. Hàm lượng rutin có thể giảm dần từ dược liệu để sống qua sao vàng đến sao cháy.

Quả hòe chứa quercetin, genistein, sophoricosid, kaempferol, sophorose.

Hạt hòe chứa flavonoid toàn phần, alcaloid cytisin, chất béo.

Lá hòe có protein và lipid.

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Rutin và quercetin trong hòe có tác dụng tăng cường sức đề kháng, giảm tính thẩm thấu của mao mạch, hồi phục tính đàn hồi của mao mạch đã bị tổn thương.

Ngoài ra, chúng còn có tác dụng chống viêm, hạ huyết áp, hạ cholesterol máu, cầm máu. Quercetin còn làm giãn mạch vành, cải thiện tuần hoàn tim.

CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Hòe được dùng làm thuốc trong cả y học hiện đại lẫn y học cổ truyền.

Y học hiện đại dùng rutin là chủ yếu để cầm máu trong trường hợp xuất huyết, đề phòng xơ vữa mạch máu, tăng huyết áp, thiểu năng tuần hoàn não.

Liều dùng hàng ngày: Viên rutin 0,02g dùng riêng hoặc phối hợp với vitamin c 0,05g (viên rutin C): mỗi lần 1 – 2 viên, ngày 2 – 3 lần.

Trong y học cổ truyền, nụ hòe được gọi là hòe mễ, là một vị thuốc “mát” được dùng trong những trường hợp “nhiệt”. Ngày dùng 8 – 16g hãm với nước sôi hoặc sắc uống làm thuốc cầm máu để chữa ho ra máu, chảy máu cam, băng huyết, đại tiện ra máu, nôn ra máu.

Hoa hòe, tên thuốc là hòe hoa, cũng có tác dụng như nụ hòe với liều dùng hàng ngày là 10 – 20g dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác.

Quả hòe, tên thuốc là hòe giác, để sống, uống mỗi ngày 10g dưới dạng nước sắc chữa sốt xuất huyết khi sốt đã lui nhưng còn xuất huyết nhẹ, chảy máu dưới da, chảy máu chân răng. Nếu đem sao tồn tính rồi hãm hoặc sắc uống lại chữa đại tiện ra máu. Quả hòe tán bột, trộn với tiết dê làm thành bánh, phơi khô, mỗi lần uống 8g với rượu vào các lúc đói chữa trĩ sưng đau (Nam dược thần hiệu).

Dùng ngoài, quả hòe phối hợp với khổ sâm (lượng bằng nhau), giã nhỏ, tán rây thành bột mịn, hòa với nước làm thành bánh, đắp chữa lòi dom.

Chú ý: – Phụ nữ có thai không được dùng quả hòe vì dễ bị sẩy thai.

  • Người cao tuổi bị tăng huyết áp dùng hòe mễ rất tốt, vừa nhẹ nhàng, êm dịu, vừa làm bền chắc thành mạch chống hiện tượng phình võ, xuất huyết.

BÀI THUỐC

  • Chữa cao huyết áp, đầu óc căng thẳng, khó ngủ, đau đầu: Hòe mễ (10g, sao thơm), hạ khô thảo (12g, sao vàng), cúc hoa vàng (5g, sấy khô, vò nát vụn). Tất cả giã nhỏ, trộn đều, hãm với 1000ml nước sôi trong 15 phút, uống làm nhiều lần trong ngày.

Hoặc hòe mễ (100g sao vàng), thảo quyết minh (100g, sao đen). Trộn đều, tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày dùng 2 – 3 lần, mỗi lần 5g hãm uống.

Hoặc hòe mễ (12g), kỷ tử, cúc hoa vàng, quyết minh tử, thục địa, huyền sâm, hoài sơn, trạch tả, ngưu tất (mỗi vị cũng 12 g). sắc uống trong ngày.

  • Chữa cao huyết áp, đau mắt: Hòe mễ (10g), lá sen hoặc ngó sen (10g), cúc hoa vàng (4g). Tất cả nghiền nhỏ, sắc uống ngày một thang.
  • Chữa đại tiện ra máu: Hòe mễ (20g, sao), trắc bách diệp (20g, sao) chỉ thực hoặc chỉ xác (12g), hoàng liên (8g), kinh giới tuệ (8g, sao đen). Tất cả thái nhỏ, sắc uống làm hai lần trong ngày.
  • Chữa viêm ruột, trĩ nội: Quả hòe (100g), kim ngân hoa (100g), cam thảo dây (12g), nghệ vàng (10g). Quả hòe sao kỹ đến khi có màu tím sẫm, tán bột. Các dược liệu khác phơi khô, tán bột. Trộn đều. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 8g vào lúc đói. (Kinh nghiệm của lương y Am, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình).

Bài thuốc ứng dụng từ hoa hòe

Theo Đông y, hoa hòe có vị đắng, nhạt, mùi thơm, tính bình. Tác dụng hạ nhiệt, mát huyết, cầm máu, sáng mắt, bổ não, hạ huyết áp, lương huyết, chỉ huyết, chữa nôn ra máu, chảy máu cam, kiết lỵ ra máu, trĩ ra máu, băng huyết, đau mắt đỏ, xuất huyết cấp tính do viêm thận, xuất huyết ở phổi, phòng đứt mạch máu não.

Hòe hoa điều trị vẩy nến
Hòe hoa điều trị vẩy nến

Bài 1. Thuốc chữa bệnh đi ngoài ra máu

+ Hoa hòe (sao cháy) 15g
+ Rau diếp cá 12g
+ Địa du (sao đen) 10g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 500ml nước, đun kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh chia 3 lần, uống hết trong ngày trước bữa ăn, mỗi lần uống 60ml nước thuốc, cần uống liền 5-7 ngày.

Bài 2. Thuốc chữa bệnh đầu choáng váng

+ Hoa hòe (sao vàng) 15g

+ Hạt muồng (sao thơm) 12g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 400ml nước, đun sôi kỹ, chắt lấy 200ml nước đặc. Người bệnh chia 3 lần, uống sau bữa ăn. Cần uống liền 7 ngày.

Bài 3. Thuốc chữa bệnh sốt xuất huyết

+ Hoa hòe                              12g

+ Cỏ mực                               10g

+ Hạt muồng (sao thơm) 15g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 400ml nước. Đun kỹ lấy 180ml nước đặc. Người bệnh chia 3 lần, uống hết trong ngày vào lúc đói. Cần uống liên tục 3-5 ngày.

Bài 4. Thuốc chữa bệnh cao huyết áp

+ Hoa hòe 9g
+ Hạ khô thảo 6g
+ Đỗ trọng 15g
+ Mã đề 10g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 500ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 200ml nước đặc. Người bệnh chia làm 3 lần uống hết trong ngày vào lúc đói. cần uống liền 5-7 ngày.

Bài 5. Thuốc chữa bệnh huyết áp cao bị chóng mặt, nôn

+ Hoa hòe 9g
+ Đỗ trọng 15g
+ Huyền sâm 10g
+ Hạt muồng 8g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 500ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 200ml nước đặc. Người bệnh chia làm 3 lần uống hết trong ngày vào lúc đói. cần uống liên tục 5-7 ngày.

Bài 6. Thuốc chữa xuất huyết cấp tính do viêm thận

+ Hoa hòe                             30g

+ Hy thiêm                            30g

Cho thuốc vào nồi cùng 350ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 150ml nước đặc. Chia thuốc làm 3 lần uống hết trong ngày vào lúc đói. Cần uống liên tục trong 3 ngày.

Bệnh Sán Diphyllo Bothrium Latum

TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀ CHẨN ĐOÁN

  1. Tác nhân gây bệnh:

Tác nhân gây bệnh là Diphyllobothrium latum. Đó là một loại sán to, dài 2-10m, ký sinh ở ruột non của người, chó, mèo, lợn. Sau khi đã trưởng thành về mặt sinh dục, sán dẻ trứng, trứng được bài xuất ra ngoài cùng với phân. Nếu trứng rơi vào nước, thì sau 3-5 tuần sẽ hình thành phôi ở trong trứng. Thời hạn phát triển của phôi tuỳ thuộc vào nhiệt độ và các diều kiện khác. Phôi đã chín, mao ấu trùng coracidium hình cầu, có phủ lông mao và ba đôi móc. Mao ấu trùng chui ra khỏi trứng qua một lỗ của nắp trứng đã mở ra.

Vật chủ trung gian thứ nhất là một loài tôm nước ngọt Cyclopes nuốt phải ấu trùng coracidium. Sau khi bị tôm nuốt, mao ấu trùng rụng hết lông, nhờ có móc nó xuyên qua thành ruột vào xoang của tôm. Sau 2-3 tuần, ấu trùng I biến thành tiền vĩ ấu trùng (giai đoạn II) hình bầu dục, dài 0,5-0,6mm, có đuôi hình cầu với 6 móc phôi.

Vật chủ trung gian thứ hai là các loài cá nước ngọt ăn tôm Cyclopes. Trong ruột cá, những con tôm Cyclopes bị nuốt vào sẽ bị tiêu hoá, ấu trùng II xâm nhập qua thành ruột vào sâu trong mô, dừng lại ở những chỗ khác nhau (cơ lưng, cơ bụng, gan, trứng cá) và biến thành vĩ ấu trùng (giai đoạn III). Có thể có tới 250 vĩ ấu trùng trong cơ thể một con cá. Cá lớn có thể bị lây khi ăn các cá nhỏ hơn. Cho nên cá lớn thường bị nhiễm ấu trùng III nặng hơn cá con.

Người bị lây khi ăn thịt cá và trứng cá sống hoặc nấu chưa chín. Trong ruột người, ấu trùng III biến thành ký sinh vật trưởng thành sống ở đoạn trên của ruột non. ớ một người có thế có một vài con sán Diphyllobothrium latum; ở những nơi có bệnh này phổ biến, thì hàng chục, hàng trăm con có thể ký sinh ở một người. Thời gian chúng sống ở trong cơ thể vật chủ cuối cùng có thể kéo dài 15-20 năm.

  1. Chẩn đoán bằng xét nghiệm:

Chẩn đoán căn cứ vào sự phát hiện trứng trong phân. Đôi khi có một đoạn sán dài được bài xuất ra theo phân; sau đó số lượng trứng trong phân giảm rõ rệt hoặc sẽ không thấy trứng trong một thời gian. Cho nên, nếu không thấy trứng mà nghi là bị bệnh sán Diphylobothrium, thì phải tiến hành xét nghiệm lại sau 5-10 ngày.

QUÁ TRÌNH TRUYỀN NHIỄM

  1. Nguồn truyền nhiễm:

Là con người, chó cũng có một vai trò nhất định, lợn, mèo và các dã thú (cáo, gấu) giữ một vai trò nhỏ hơn.

Vật chủ trung gian là tôm nước ngọt, vật chủ bổ sung là nhiều loại cá nước ngọt, cá vàng, cá hồi, cá bống.

  1. Yếu tố truyền nhiễm:

Duy nhất là thịt cá và trứng cá còn sống hoặc nửa sống nửa chín,

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ

Con người giữ một vai trò chủ yếu trong việc hình thành các ổ bệnh sán Diphyllobothrium latum ở những vùng có nhiều hồ ao, vùng ven sông; ổ bệnh xẹp đi khi nước thải thôi không chảy vào (Thuỵ Sĩ)

Cũng đã phát hiện ra những ổ bệnh thiên nhiên ở những nơi mà nguồn truyền nhiễm chủ yếu là các động vật hoang dại (gấu, cáo) làm lây bệnh cho tôm cá. Đó cũng là một nguyên nhân làm cho người bị lây bệnh.

Tại những nơi có ổ bệnh này thì hay bị lây nhất là người đánh cá. ở các nơi có tập quán ăn cá sống, bệnh sán này lan truyền rộng rãi. Cá ở hồ thường bị lây nhiều hơn cá ở sông, cho nên dân chúng sống cạnh hồ bị lây nhiều hơn ở ven sông.

Tình trạng vệ sinh của các nơi tập trung dân, mức độ sông, hồ bị nhiễm phân từ các hố xí xây ở trên bờ bị nước mưa dồn xuống sông hồ; mật độ cá và mức độ phát triển của nghề cá, cách thức nấu cá ở địa phương… đều có một vai trò quan trọng trong việc lây lan bệnh sán này.

CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ CHỐNG BỆNH

  1. Các biện pháp phòng bệnh:

Phòng bệnh sán này trước hết nhằm bảo vệ môi trường bên ngoài, đặc biệt là sông, hồ không bị nhiễm phân từ đất liền và tàu thuyền rơi vào. cần phải có biện pháp hợp lý để tập trung và xử lý phân, cần phải làm công tác tuyên truyền giáo dục vệ sinh trong dân chúng ở vùng bị nhiễm sán nặng. Dân chúng phải hiểu những giai đoạn phát triển của sán, phương thức lây bệnh và cách phòng bệnh. Phải tẩy sán cho những người bị nhiễm nhiều nhất và cả cho chó nếu cần, nhất là những người đi xây dựng những hồ và đập chứa nước.

Không ăn cá chưa được nấu chín, ấu trùng của sán này chịu đựng kém nhiệt độ cao, các dung dịch muối; điều này được sử dụng để diệt sán ở cá. Nếu đun nóng cá bị nhiễm ấu trùng, ở nhiệt độ 45-46° trong 10 phút, ở nhiệt độ 50-51° trong 5 phút, thì sẽ diệt được ấu trùng này ở cá. Nếu bảo quản cá bị nhiễm sán trong nước đá ở tủ lạnh gia dinh, thì ấu trùng chết sau 14 ngày.

Nếu ngâm cá trong dung dịch muối 20% hoặc dung dịch bão hoà, hay sát muối khô lên cá, cũng sẽ làm cho ấu trùng sán mất tính linh hoạt sau 24 giờ. Cá muối không nguy hiểm sau khi đã ướp trong nưdc muối từ 2-7 ngày, tuỳ theo cần nặng của cá.

  1. Tẩy sán Diphyllobothrium bằng cao triết dương xỉ đực, hạt bí đỏ, acridin. ở thể bệnh thiếu máu, thì trước khi tẩy sán, phải điều trị bằng sinh tố B12.

Cách tiệt trùng bình sữa cho trẻ

Việc tiệt trùng tất cả các dụng cụ cho trẻ ăn, bao gồm bình và núm vú, là rất quan trọng cho đến khi trẻ ít nhất 12 tháng tuổi.

Điều này sẽ bảo vệ trẻ khỏi nhiễm trùng, đặc biệt là tiêu chảy và nôn mửa.

Trước khi tiệt trùng, bạn cần:

  • Rửa bình, núm vú và các dụng cụ cho ăn khác bằng nước nóng có xà phòng ngay sau khi cho ăn.
  • Sử dụng bàn chải bình sạch để làm sạch bình (chỉ sử dụng bàn chải này cho việc rửa bình), và một bàn chải nhỏ để làm sạch bên trong núm vú. Bạn cũng có thể lộn ngược núm vú rồi rửa chúng trong nước xà phòng nóng. Không sử dụng muối để làm sạch núm vú, vì điều này có thể nguy hiểm cho trẻ.
  • Xả sạch tất cả dụng cụ bằng nước lạnh chảy sạch trước khi tiệt trùng.

Nếu bạn muốn, bạn có thể cho dụng cụ cho trẻ ăn vào máy rửa bát để làm sạch. Việc cho dụng cụ qua máy rửa bát sẽ làm sạch chúng nhưng không tiệt trùng. Hãy chắc chắn rằng bình, nắp và núm vú đều hướng xuống dưới. Bạn có thể muốn rửa núm vú riêng bằng tay để đảm bảo chúng hoàn toàn sạch sẽ.

Lời khuyên về cách làm sạch dụng cụ cho trẻ ăn áp dụng cho tất cả các dụng cụ, dù bạn đang sử dụng sữa mẹ đã vắt hay sữa công thức.

Cách tiệt trùng dụng cụ cho trẻ ăn

Có nhiều cách để tiệt trùng dụng cụ cho trẻ ăn. Bao gồm:

  • Dung dịch tiệt trùng nước lạnh
  • Tiệt trùng bằng hơi nước
  • Luộc

Dung dịch tiệt trùng nước lạnh

  • Làm theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
  • Để dụng cụ cho ăn trong dung dịch tiệt trùng ít nhất 30 phút.
  • Thay dung dịch tiệt trùng mỗi 24 giờ.
  • Đảm bảo không có bọt khí bị trapped trong bình hoặc núm vú khi cho vào dung dịch tiệt trùng.
  • Máy tiệt trùng của bạn nên có nắp nổi hoặc cần để giữ tất cả dụng cụ dưới dung dịch.

Tiệt trùng bằng hơi nước (máy tiệt trùng điện hoặc lò vi sóng)

  • Việc tuân theo hướng dẫn của nhà sản xuất là rất quan trọng, vì có nhiều loại máy tiệt trùng khác nhau.

Tiệt trùng bằng cách luộc

  • Đảm bảo rằng các vật dụng bạn muốn tiệt trùng theo cách này là an toàn để luộc.
  • Luộc dụng cụ cho ăn trong một nồi nước lớn ít nhất 10 phút, đảm bảo tất cả đều ở dưới bề mặt nước.
  • Đặt hẹn giờ để bạn không quên tắt bếp.
  • Nhớ rằng núm vú thường bị hỏng nhanh hơn với phương pháp này. Thường xuyên kiểm tra xem núm vú và bình có bị rách, nứt hoặc hỏng không.

Sau khi bạn đã hoàn thành việc tiệt trùng

  • Tốt nhất là để bình và núm vú trong máy tiệt trùng hoặc nồi cho đến khi bạn cần chúng.
  • Nếu bạn lấy chúng ra, hãy đặt núm vú và nắp ngay lập tức lên bình.
  • Rửa và làm khô tay trước khi xử lý dụng cụ đã tiệt trùng. Tốt hơn nữa, hãy sử dụng kẹp tiệt trùng.
  • Lắp ráp các bình trên bề mặt sạch sẽ, đã khử trùng hoặc nắp úp của máy tiệt trùng

Thuốc dung dịch aluminum acetate

Tên thuốc: dung dịch aluminum acetate

Tên thương mại: Domeboro Astringent Solution Powder Packets, Pedi-Boro Soak Paks, Gordon’s Boro-Packs

Nhóm thuốc: Chất làm se

Dung dịch aluminum acetate là gì, và nó được sử dụng để làm gì?

Dung dịch aluminum acetate là một loại thuốc không kê đơn (OTC) được sử dụng để giảm tạm thời các kích ứng da do côn trùng cắn, viêm da tiếp xúc, nấm chân, và cây thường xuân độc, cây sồi hoặc cây sumac.

Aluminum acetate được áp dụng lên da như một dung dịch kháng khuẩn để giảm ngứa, cảm giác nóng rát và viêm từ các kích ứng da, và thúc đẩy quá trình lành thương.

Aluminum acetate là một dung dịch astringent, là một chất có khả năng co thắt mô bằng cách làm cho chất lỏng di chuyển ra xa khu vực da nơi nó được áp dụng. Điều này khiến cho vùng da trở nên khô, cứng lại và hình thành một lớp bảo vệ, cho phép mô bên dưới được phục hồi. Aluminum acetate có thể giúp làm khô mụn trên da nhờn và cũng có thể hữu ích trong việc lành các vết rạn da và sẹo.

Tác dụng phụ của dung dịch aluminum acetate là gì?

Cảnh báo

  • Không sử dụng nếu bạn quá mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào của aluminum acetate.
  • Nếu kích ứng và viêm da kéo dài hơn một tuần hoặc trở nên tồi tệ hơn sau khi sử dụng aluminum acetate, hãy ngừng sử dụng và liên hệ với bác sĩ.

Các tác dụng phụ phổ biến của aluminum acetate bao gồm:

  • Kích ứng tại chỗ
  • Ngứa
  • Cảm giác nóng rát tạm thời
  • Da khô
  • Viêm da

Gọi cho bác sĩ ngay lập tức nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng nào khi sử dụng thuốc này:

  • Các triệu chứng tim nghiêm trọng bao gồm nhịp tim nhanh hoặc mạnh, cảm giác lắc lư trong ngực, khó thở và chóng mặt đột ngột;
  • Đau đầu dữ dội, nhầm lẫn, nói ngọng, yếu đuối nghiêm trọng, nôn mửa, mất phối hợp, cảm thấy không ổn định;
  • Phản ứng nghiêm trọng của hệ thần kinh với cơ bắp rất cứng, sốt cao, đổ mồ hôi, nhầm lẫn, nhịp tim nhanh hoặc không đều, run rẩy, và cảm giác như sắp ngất xỉu; hoặc
  • Các triệu chứng mắt nghiêm trọng bao gồm thị lực mờ, nhìn hầm hố, đau hoặc sưng mắt, hoặc nhìn thấy quầng sáng xung quanh ánh sáng.

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra từ việc sử dụng thuốc này. Gọi cho bác sĩ để được tư vấn y tế về các tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc phản ứng bất lợi.

Liều lượng của dung dịch aluminum acetate là gì?

Thành phần gói tạo thành thành phần hoạt tính aluminum acetate khi kết hợp với nước

Bột cho dung dịch (Domeboro)

Mỗi gói chứa aluminum sulfate tetradecahydrate 1347mg và calcium acetate monohydrate 952mg

  • 1 gói/16 oz nước = 0,16%
  • 2 gói/16 oz nước = 0,32%
  • 3 gói/16 oz nước = 0,48%

Bột cho dung dịch (Pedi-Boro)

Mỗi gói chứa aluminum sulfate tetradecahydrate 1191mg và calcium acetate monohydrate 839mg

  • 1 gói/16 oz nước = 0,13%
  • 2 gói/16 oz nước = 0,26%
  • 3 gói/16 oz nước = 0,41%

Bột cho dung dịch (Gordon’s Boro-Packs)

Mỗi gói chứa aluminum sulfate 49% và calcium acetate 51%

Người lớn và trẻ em:

Điều kiện da viêm

Chỉ định sử dụng như băng ướt hoặc ngâm để giảm tạm thời kích ứng da do cây thường xuân độc/cây sồi/cây sumac, côn trùng cắn, nấm chân, viêm da tiếp xúc

  • Băng ướt/đắp: Áp dụng lên vùng da bị ảnh hưởng trong 15-30 phút; tái áp dụng khi cần thiết
  • Ngâm: Ngâm vùng bị ảnh hưởng trong 15-30 phút mỗi 8 giờ khi cần thiết

Cách sử dụng

  • Domeboro hoặc Pedi-Boro: Hòa tan 1-3 gói trong 16 oz nước
  • Gordon’s Boro-Packs: Hòa tan 1-2 gói trong 16 oz nước

Ngộ độc

Aluminum acetate được áp dụng tại chỗ khó có khả năng gây hấp thu hệ thống đáng kể hoặc bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng nào. Không có thông tin về ngộ độc đường miệng của aluminum acetate, nhưng có khả năng gây hại nếu uống phải.

Thuốc nào tương tác với dung dịch aluminum acetate?

Hãy thông báo cho bác sĩ về tất cả các loại thuốc bạn đang sử dụng, để họ có thể tư vấn cho bạn về bất kỳ tương tác thuốc nào có thể xảy ra. Không bao giờ bắt đầu sử dụng, đột ngột ngừng lại, hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự hướng dẫn của bác sĩ.

Dung dịch aluminum acetate không có các tương tác nghiêm trọng, nghiêm trọng vừa, hoặc nhẹ với các loại thuốc khác được liệt kê. Các tương tác thuốc được liệt kê ở trên không phải là tất cả các tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về tương tác thuốc, hãy truy cập Trình kiểm tra tương tác thuốc RxList.

Điều quan trọng là luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ, hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe về tất cả các loại thuốc theo toa và thuốc không kê đơn mà bạn sử dụng, cũng như liều lượng của mỗi loại, và giữ một danh sách thông tin. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về thuốc.

Thai kỳ và cho con bú

Có sự hấp thu hệ thống hạn chế từ việc sử dụng tại chỗ, tuy nhiên, không có dữ liệu về việc sử dụng aluminum acetate tại chỗ trong thời kỳ mang thai. Chỉ sử dụng nếu lợi ích cho mẹ lớn hơn nguy cơ tiềm tàng cho thai nhi. Chưa biết liệu aluminum acetate tại chỗ có được bài tiết qua sữa mẹ hay không. Sử dụng cẩn thận nếu bạn đang cho con bú và tránh áp dụng vào vùng núm vú. Luôn tham khảo ý kiến nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe trước khi sử dụng bất kỳ sản phẩm OTC nào nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Còn điều gì khác tôi nên biết về dung dịch aluminum acetate?

Sử dụng dung dịch aluminum acetate chính xác theo hướng dẫn trên nhãn. Không sử dụng băng kín trên aluminum acetate tại chỗ. Aluminum acetate chỉ dành cho sử dụng bên ngoài, tránh tiếp xúc với mắt. Bảo quản aluminum acetate an toàn, tránh xa tầm với của trẻ em. Trong trường hợp quá liều, hãy tìm kiếm sự trợ giúp y tế hoặc liên hệ với Trung tâm Chống độc.

Tóm tắt

Dung dịch aluminum acetate là một loại thuốc tại chỗ không kê đơn (OTC) được sử dụng để giảm tạm thời các kích ứng da do côn trùng cắn, viêm da tiếp xúc, nấm chân, và cây thường xuân độc, cây sồi hoặc cây sumac. Nó cũng được sử dụng để giảm ngứa, cảm giác nóng rát và viêm do kích ứng da, và thúc đẩy quá trình lành thương. Các tác dụng phụ phổ biến của aluminum acetate bao gồm kích ứng tại chỗ, ngứa, cảm giác nóng rát tạm thời, da khô và viêm da. Sử dụng cẩn thận nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Suy động mạch mạc treo ruột trên

Tên khác: thiếu máu tiểu tràng cục bộ, thiếu máu ruột cục bộ, thiếu máu địa phương ở ruột.

Định nghĩa

Thiếu máu ở những đoạn ruột bình thường vốn do động mạch mạc treo ruột trên cung cấp.

Căn nguyên

Xơ vữa động mạch, huyết khối (dễ xảy ra trong những điều kiện sau: lưu lượng tim thấp, sử dụng thuốc digitalis, tình trạng sốc, hội chứng đông máu nội mạch), nghẽn mạch từ nguồn gốc tâm nhĩ trái (rung nhĩ, khuyết tật van tim), hoặc huyết khổĩ thành tim nhồi máu cơ tim, viêm quanh nút động mạch và những bệnh mạch máu khác, thiếu hụt kháng thrombin III, sử dụng thuốc tránh thai uống, hội chứng kháng phospholipid. Huyết khối tĩnh mạch mạc treo ruột trên (từ nguồn gốc suy tim, bệnh đa hồng cầu, ứ trệ ở tĩnh mạch cửa) không phải là nguyên nhân hay gặp của nhồi máu ruột. Căn nguyên hiếm gặp hơn, xảy ra ở phụ nữ trẻ tuổi, là chèn ép thân động mạch tạng bởi dây chằng cung của cơ hoành.

Giải phẫu bệnh

Động mạch mạc treo ruột trên cung cấp máu cho một phần tuỵ tạng, toàn bộ tiểu tràng và phần phải của đại tràng. Khi động mạch này bị xơ vữa, thì đoạn động mạch bị xơ cứng khu trú gần nguyên uỷ của thân động mạch chính. Thiếu máu sẽ gây ra những tổn thương sau:

  • Nhồi máu(hoại thư, hoại tử chảy máu): là do huyết khối làm tắc cấp tính động mạch mạc treo ruột trên. Tổn thương từng đoạn, màu đỏ tím. Thành ruột bị hoại tử, phù nề, và thâm nhiễm do máu (nhồi máu qua thành ruột). Người ta còn mô tả những trường hợp nhồi máu ruột lan toả, không qua thành ruột, không liên quan tới một khu vực mạch máu nhất định nào và cũng không có bất kỳ chỗ tắc mạch hoặc nghẽn mạch nào. Những trường hợp này xảy ra trong hoàn cảnh sốc kéo dài, giảm oxy mô, hoặc do tai biến của những thuốc co mạch.
  • Loét:là di chứng của tắc động mạch cấp tính hoặc hậu quả của một quá trình mạn tính. Ở tiểu tràng, vết loét hình tròn, giới hạn rõ rệt, kích thước thay đổi. Xét nghiệm hiển vi thấy có mô hạt thâm nhiễm do những đại thực bào chứa đầy
  • Hẹp:do xơ hoá một đoạn thành ruột, là di chứng của tắc động mạch cấp tính.

Triệu chứng

THIẾU MÁU RUỘT CỤC BỘ MẠN TÍNH

Đau thắt bụng sau bữa ăn: thường khó phân biệt với cơn đau thắt ngực do tim. Thường nghe bụng thấy có tiếng thổi.

Gày yếu:thứ phát do ăn không ngon miệng, hoặc do kém hấp thu tuy hiếm hơn.

X quang bụng không chuẩn bị: có thể thấy hình ảnh vết vôi hoá (calci hoá) mạch máu.

Chụp động mạch:là xét nghiệm chủ yếu cho phép phát hiện những chỗ hẹp ở thân chính của động mạch mạc treo ruột trên hoặc các nhánh của động mạch này.

Chụp siêu âm Doppler những động mạch trong ổ bụng có thể phát hiện thấy những biến đổi bất thường ở các thân động mạch.

Ớ phụ nữ trẻ tuổi có một thể bệnh hiếm gặp là chèn ép thân động mạch tạng bởi dây chằng cung của cơ hoành. Bệnh nhân, với tình trạng toàn thân tốt, nhưng hay kêu đau bụng vùng thượng vị với cường độ và thời gian kéo dài thay đổi, đôi khi kèm theo buồn nôn và nôn. Đôi khi có thể nghe thấy tiếng thổi ở hõm thượng vị. Chẩn đoán chủ yếu bằng chụp động mạch.

THIẾU MÁU RUỘT CỤC BỘ CẤP TÍNH: nhồi máu mạc treo ruột hoặc ngập máu bụng):

Nhồi máu thường xảy ra nhất ở những đối tượng trên 60-70 tuổi. Bệnh khỏi phát dữ dội với: đau bụngghê gốm kèm theo hạ huyết áp, giảm thể tích máu nhanh chóng, dẫn tới tình trạng sốc. Đau bụng thường khu trú ở hố chậu phải. Mới đầu bụng mềm, nghe bụng thấy dấu hiệu tăng nhu động. Sau đó, bụng chướng căng, trỏ lại yên lặng và có những dấu hiệu viêm phúc mạc với tăng bạch cầu trong máu và cô đặc máu.

Chụp X quang bụng không chuẩn bị đôi khi cho hình ảnh đặc biệt với những quai ruột cản quang nằm im không chuyển động (hoàn toàn không có khí trong ruột). Thường nhất là thấy các dấu hiệu tắc ruột cơ học hoặc do liệt ruột. Thụt baryt cóthể thấy chỗ hẹp ở đại tràng phải.

Chụp động mạch:phát hiện thấy tắc mạch nặng (quá 50% lòng động mạch), ít nhất xảy ra ở 2-3 nhánh lớn của động mạch mạc treo ruột trên. Chụp cắt lớp vi tính phát hiện được những vùng nhồi máu ở ruột và ở mạc treo.

Tiên lượng và điều trị:tỷ lệ tử vong của nhồi máu mạc treo ruột không được phẫu thuật đạt tới 80%. Điều trị bằng cắt đoạn ruột và phục hồi mạch máu cũng vẫn có tỷ lệ tử vong cao. Nếu khỏi, vẫn có khả năng di chứng hẹp ruột do sẹo.

Điều trị

THỂ MẠN TÍNH: tránh những bữa ăn thịnh soạn. Những thuốc giãn mạch gốc nitrit nói chung ít hiệu quả. Loại bỏ nghẽn mạch bằng phẫu thuật hoặc tạo hình động mạch được chỉ định khi hẹp ở lỗ nguyên uỷ hoặc ở một trong những nhánh lớn của động mạch mạc treo ruột trên.

THỂ CẤP TÍNH HOẶC NHỒI MÁU MẠC TREO RUỘT: phẫu thuật cắt bỏ cấp cứu đoạn ruột bị hoại tử và phục hồi lại động mạch có thể vẫn có kết quả nếu được thực hiện trước 12 giờ kể từ lúc các triệu chứng bắt đầu xuất hiện. Trên thực tế chẩn đoán thường hiếm khi được đặt ra trước thời hạn này. Nếu phải cắt bỏ ruột trên một đoạn dài thì về sau bệnh nhân có thể bị chứng kém hấp thu. Cho các thuốc tan huyết khối và phục hồi lại dòng máu trong động mạch mạc treo ruột trên.

GHI CHÚ: người ta mô tả một thể bệnh thiếu máu ruột cục bộ (thiếu máu địa phương ở ruột) không do tắc động mạch, xảy ra sau khi dòng máu trong các mạch mạc treo ruột bị giảm vì tình trạng sốc kéo dài hoặc do chạy tim phổi nhân tạo. Thiếu cấp máu trong trường hợp này có thể dẫn tới hoại tử thành đại tràng và viêm phúc mạc.