Viêm phế quản mãn tính là triệu chứng viêm mãn tính của khí quản, niêm mạc cuống phổi và các bộ phận liên quan khác. Triệu chứng lâm sàng là chứng ho tái phát trong thời gian dài, ho ra đờm hoặc thở hổn hển. Bệnh tình nếu tiến triển từ từ, khí sẽ ứ đọng lại ở phổi, thậm chí động mạch phổi bị căng hoặc bị đau tim do bắt nguồn từ phổi. Đây là một loại bệnh nguy hiểm thường gặp đối với sức khỏe con người, phát bệnh nhiều, người ở độ tuổi 40-65 tuổi có tỉ lệ mắc bệnh là 15-20%.
Truyền nhiễm là nhân tố quan trọng phát sinh ra chứng viêm phế quản, ngoài ra trời lạnh và thời tiết thay đổi đột ngột cũng là nguyên nhân quan trọng khác tạo ra bệnh. Sự kích thích của trời lạnh khiến huyết quản thuộc bộ phận đường hô hấp bị co giật, khi khả năng phòng tránh bị giảm sẽ có lợi cho sự xâm nhập và sinh sôi nảy nở của các loại vi khuẩn và virus gây bệnh. ng hô hấp của con người thông thường đều có một cơ chế phòng bệnh hoàn thiện, có thể ngăn trở được sự xâm nhập của những vi khuẩn có hại gây bệnh cho cơ thể, làm đường hô hấp duy trì được trạng thái không có vi khuẩn. Khi chế độ dinh dưỡng không đúng, cơ thể nhiễm cồn mãn tính và mắc các bệnh mãn tính khác, chức năng phòng chống và miễn dịch của bộ phận đường hô hấp hoặc cơ thể bị suy giảm, từ đó sẽ có điều kiện phát sinh bệnh viêm phế quản mãn tính. Do nguyên nhân gây bệnh không giống nhau, sự yếu đi của nội tạng cũng không giống nhau, từ đó mà các triệu chứng lâm sàng sẽ khác nhau. Nên căn cứ vào bệnh tình để có sự lựa chọn các loại thuốc phù hợp.
Củ cải trắng chứa nhiều hàm lượng vitamin C và canxi, vì vậy, ăn nhiều củ cải trắng có thể chống cảm, giải tỏa căng thẳng, giảm mệt mỏi, làm sạch khí ở ruột, giải độc, lợi niệu và bổ hư v.v Nếu có các triệu chứng như tiêu hóa không tốt, axit dạ dày quá nhiều, ho nhiều, tức ngực khó thở, cảm gió, không nên ăn quá nhiều. Lấy nước cốt đã đun của củ cải trằng uống như trà sẽ có tác dụng nhuận phổi rất tốt.
Viêm phế quản ở trẻ
Những loại trà nên sử dụng
(1) .Trà củ cải
Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Củ cải trắng 100 gam, lá trà 5 gam, muối ăn vừa đủ. em củ cải cắt nhỏ cho muối ăn vào nấu chín. nước sôi vào lá trà, lấy nước cốt đổ vào nước củ cải, cho thêm muối ăn vào là có thể dùng được. Mỗi ngày uống hai thang.
Công dụng chữa trị: Giải nhiệt, chữa ho, dịu họng.
Chú ý: Phương trà này dùng cho những người bị viêm phế quản, ho ra nhiều đờm. Ngoài ra, phương trà cung có cong dụng với chứngho phong nhiệt, viêm họng. Củ cải trắng có vị ngọt mát, có công dụng làm bớt ngấy, giảm chất beo, tiều đờm, chữa ho v.v
(2) . Trà mỡ bản với mật
Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Chè xuân 60 gam, mỡ lợn thái miếng, mạch nha, mật ong mỗi thứ 120 gam. Trước tiên cho một lượng lá trà thích hợp vào nồi, cho bốn bát nước vào, đun lên cho đến khi nước cạn còn 2,5 bát, chắt lấy nước. Sau đó lấy mỡ lợn bỏ cân, cho nước cốt trà, mạch nha, mật ong vào nấu lên cho đến khi thành cao. Lấy thìa múc ra một ít cao, hòa vào cùng nước canh, mỗi ngày uống vài lần.
Công dụng chữa trị: Thanh nhiệt nhuận phổi, bổ tì dưỡng khí, chữa ho tiêu đờm.
Chú ý: Phương thuốc này dùng cho người bị hen suyễn dẫn đến hư màng phổi, viêm phế quản mãn tính.
(3) . Trà sữa hạnh nhân
Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Hạnh nhân ngọt 10 quả, đường cát trắng vừa đủ, sữa 200 mg. Trước tiên đem hạnh nhân giã nát, cho vào cốc, cho thêm một lượng đường trắng thích hợp vào, đổ nước sôi lên, đậy nắp lại để trong 15 phút, lọc để bỏ cặn, đổ nước cốt hạnh nhân vào cùng với sữa là có thể dùng được. Uống khi đói, mỗi ngày uống 1-2 lần.
Công dụng chữa trị: Nhuận phổi chữa ho.
Chú ý: Phương trà này dùng cho những người bị viêm phế quản mãn tính và ho keo dài, thể lực giảm sút, vận động mạnh nên ra mồ hồi nhiều. Chú ý: người bị ho, đờm vàng, ho ọe cẩn thận khi dùng.
Vị thuốc hạnh nhân
(4) . Trà lá dâu cầm máu
Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Lấy một lượng lá dâu đã muối khô nghiền nhỏ, cho vào bình sứ là có thể dùng được. Mỗi ngày 1-2 lần, mỗi lần lấy ra 6 gam, lấy 3 gam trà xanh, nấu thành canh hoặc đổ nước sôi vào, đợi nguội là có thể uống được.
Công dụng chữa bệnh: Thanh nhiệt giảm nóng, làm mát máu và cầm máu.
Chú ý: Phương trà này dùng với những người bị giãn mạch máu, hoặc các chứng ho do nóng phổi, đờm trong máu, kết hạt ở phổi, chảy máu cam, chảy máu răng.
(5) . Trà quýt
Phương pháp chữa bệnh bằng trà: Lá trà 2 gam, vỏ quýt khô 2 gam. Đổ nước sôi vào uống khi nóng, mỗi ngày uống một thang.
Công dụng chữa trị: Trị các chứng ho do viêm phế quản mãn tính, nhiều đờm, ngạt mũi v.v…
Chú ý: Thịt quả hồ đào có tác dụng bổ phổi, ấm phổi, chữa ho. Dùng cho những người yếu phổi hoặc phổi và thận đều yếu do ho kéo dài, thở yếu và ho do lạnh.
(6) . Trứng gà với lá trà
Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Lá trà xanh 15 gam, trứng gà 2 quả. Cho vào luộc cùng nhau, khi trứng chín bóc bỏ vỏ rồi lại cho vào luộc, ăn lá trà và trứng, mỗi ngày ăn một lần, ăn khi đói.
Công dụng chữa trị: Trị các bệnh ho do viêm phế quản, hen suyễn.
Trứng gà
Những điều cần ghi nhớ
Một là tăng cường tập thể dục: Người bị viêm phế quản mãn tính lúc rỗi rãi nên tập thể dục nhằm tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể và khả năng dự trữ của tim, phổi.
Hai là chú ý giữ ấm: Vào khi thời tiết chuyển lạnh, tránh bị nhiễm lạnh. Vì khí lạnh một mặt có thể khiến chức năng phòng bệnh của khí quản bị giảm, mặt khác có thể làm cơ bàng quan ở khí quản bị rút ngắn, sự tuần hoàn dịch huyết ở niêm mạc bị ngăn trở và sự bài tiết các chất cặn bã cũng bị ngăn trở, từ đó có thể phát sinh các bệnh truyền nhiễm.
Ba là chống cảm lạnh: Chú ý bảo vệ cơ thể, phòng chống cảm lạnh. Phải duy trì việc tập thể dục đều đặn, tốt nhất là nên bắt đầu vào mùa hè, tất nhiên bắt đầu vào mùa thu hoặc mùa đông đều được. Người có điều kiện có thể tập chịu lạnh để phòng cảm, duy trì việc rửa mặt bằng nước lạnh, rửa khoang mũi nhằm tăng khả năng chịu lạnh.
Bốn là cai thuốc: Người bị viêm phế quản mãn tính đầu tiên không những phải cai thuốc mà còn phải tránh cả việc phải hút thuốc thụ động, vì các chất hóa học ở trong thuốc như hắc ín, nicotin, axit xyanic có thể tác động tới dây thần kinh thực vật, dẫn tới hiện tượng co giật phế quản, từ đó làm tăng sự ngăn trở đối với đường hô hấp. Ngoài ra, còn có thể tổn hại tới tế bào da và trùng mao trên niêm mạc khí quản, khiến niêm mạc khí quản tiết ra nhiều chất hơn, làm giảm chức năng làm sạch của phổi, dễ dẫn tới các vi khuẩn gây bệnh sinh sôi trong phổi và khí quản, từ đó sẽ dễ mắc bệnh viêm phế quản mãn tính.
Năm là giữ gìn tốt môi trường xung quanh: Mùa đông, trong phòng ngủ cần định kì có sự thay đổi không khí, nhiệt độ, độ ẩm thích hợp là biện pháp quan trọng để giảm bệnh “già”. Cửa sổ phòng ngủ nên mở định kì để không khí lưu thông, điều này không chỉ giúp cho các loại khí có hại ra ngoài mà còn có tác dụng giảm số lượng vi khuẩn trong phòng ngủ. Tất nhiên thời gian cho mỗi lần thông gió cũng không nên quá dài, nên duy trì trong 30 phút, nhằm tránh khí ấm trong phòng bị giảm nhanh. Trong phòng ngủ nên nghiêm cấm việc hút thuốc lá, cố gắng tránh sự ô nhiễm của các loại khói dầu, khói củi, khói than. Tránh những loại khói, bụi và những loại thể khí có tính kích thích ảnh hưởng tới đường hô hấp nhằm tránh mắc chứng viêm phế quản mãn tính.
Ngoài ra, viêm phế quản mãn tính phát bệnh nhiều vào mùa đông khi thời tiết lạnh, mùa hè mắc bệnh ít hơn, có thể dùng cả các loại thuốc mùa hè và mùa đông của Đông y, đây được gọi là nguyên tắc “phục chính cố bản”, từ việc thông qua sự trợ giúp của chính khí mà tăng cường khả năng kháng bệnh của cơ thể, loại bỏ những bệnh độc, từ đó thúc đẩy quá trình hồi phục cơ năng sinh lí của cơ thể.
Viêm tai giữa mạn tính có cholesteatoma là Viêm tai giữa mạn tính trong hòm tai có biểu mô Malpighi sừng hoá. Tổ chức này có thể ở dạng túi nang ranh giới rõ hoặc phân nhánh từ thông bào này sang thông bào khác trong xương đá.
Loại tổn thương này còn khá phổ biến, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, bệnh nhân thường đến bệnh viện vì triệu chứng chảy mủ tai kéo dài.
Viêm tai giữa mạn tính có cholesteatoma là loại bệnh tích đặc biệt cần phải lưu ý đến vì:
+ Có đặc tính phát triển, ăn mòn, phá hủy các thành phần của tai giữa và các cấu trúc lân cận nhanh và mạnh nên làm suy giảm sức nghe rõ rệt và dễ đưa tới biến chứng.
+ Đặc biệt ở nước ta gặp với tỷ lệ cao trong các trường hợp Viêm tai giữa mạn tính.
NGUYÊN NHÂN
Đa số các nhà nghiên cứu thừa nhận thuyết hình thành khối cholesteatoma là do quá trình dị nhập của lớp biểu bì ống tai và màng nhĩ vào trong hòm tai qua lỗ thủng hay túi co kéo hình thành trong quá trình viêm tai.
Khối cholesteatoma phát triển như một khối u bọc, bên ngoài là một lớp màng với túi biểu mô có khả năng chế tiết các men gây ra hiện tượng ăn mòn và phá hủy xương xung quanh và một lớp màng đáy có màu sáng óng ánh. Bên trong là một khối mềm, trắng như bã đậu bao gồm các tế bào biểu mô lẫn với các tế bào mỡ và các tinh thể cholesterin.
Ban đầu khối cholesteatoma thường có kích thước nhỏ, có hình ảnh u bọc như đã được mô tả ở phần trên. Khi phát triển, khối này vỡ ra dưới áp lực của các thành phần bên trong và bị nhiễm trùng khiến có biểu hiện xuất tiết ra ngoài chất bẩn lổn nhổn như chất bã đậu và có mùi thối khẳm.
CHẨN ĐOÁN
Chẩn đoán xác định
Dựa vào triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
Lâm sàng
Toàn thân
Thường không có gì thay đổi, có thể thỉnh thoảng nhức đầu.
Nếu có đợt hồi viêm thì có hội chứng nhiễm trùng: sốt cao, môi khô, lưỡi bẩn…
Cơ năng
Đau tai:
+ Trong Viêm tai giữa mạn tính có cholesteatoma thường không có đau tai, bệnh nhân chỉ có cảm giác nặng hay váng đầu.
+ Nếu mủ tích lại ở giai đoạn hồi viêm: bệnh nhân có nhức đầu.
+ Triệu chứng đau nhức có giá trị báo hiệu nhất là khi có kèm theo chóng mặt, mất thăng bằng
Nghe kém:
+ Là triệu chứng luôn luôn có.
+ Rõ rệt cả trong trường hợp lỗ thủng nhỏ.
+ Ngày càng tăng khi bệnh kéo dài.
+ Lúc đầu nghe kém dẫn truyền sau nghe kém hỗn hợp.
+ Thường kèm theo ù tai.
Chảy mủ tai:
+ Có thể chảy nhiều hoặc ít nhưng bao giờ cũng có mùi thối khẳn.
Thực thể
Có trường hợp không có phản ứng đau vùng chũm
Khám tai:
Mủ tai:
+ Mủ thối khẳn
+ Lổn nhổn, trắng như bã đậu
+ Có các mảnh trắng, sáng óng ánh như xà cừ, khi thả vào nước không tan, nổi váng óng ánh như váng mỡ, thả vào dung dịch aldehyt acetic sẽ biến thành màu san.
Soi tai:
Lỗ thủng màng tai:
+ Thủng góc sau trên hoặc lỗ thủng nhỏ ở màng chùng, tường thượng nhĩ và thành sau ống tai xương có thể bị ăn mòn, bộc lộ đầu xương búa, xương đe, khớp đe đạp, xương bàn đạp. Miệng lỗ thủng thường có biểu bì ứ đọng, lấy sạch biểu bì thấy niêm mạc đáy nhĩ viêm sùi tạo nụ hạt. Đôi khi có polyp ở thượng nhĩ hoặc góc sau trên che khuất lỗ thủng.
+ Thủng rộng ở màng căng hoặc toàn bộ.
Bờ lỗ thủng sát khung xương, nham nhở.
Đáy có lớp màng trắng óng ánh.
Niêm mạc hòm nhĩ dày sùi thành tổ chức hạt, có mủ.
+ Tìm dấu hiệu rò mê nhĩ: gây áp lực ở ống tai ngoài gây chóng mặt hoặc động mắt.
Cận lâm sàng
Chụp cắt lớp vi tính xương thái dương
Tư thế CORONAL: đánh giá tổn thương từ trước ra sau.
Tư thế AXIAL: đánh giá tổn thương từ trên xuống dưới.
Phim CT Scaner:
+ Hình ảnh mất tường thượng nhĩ, sào bào mở rộng trong chứa đầy tổ chức viêm, tổn thương cống Fallope, ống bán khuyên, trần sào bào, tiêu huỷ xương con.
Đo thính lực:dẫn truyền: Weber nghiêng về bên bệnh, Rinne (-)
Đo thính lực đơn âm tại ngưỡng thấy nghe kém dẫn truyền nặng hoặc hỗn hợp thiên về dẫn truyền (đường khí mất 40 – 50 dB, ngưỡng nghe đường xương giảm ở các tần số cao)
Trong một số trường hợp, mặc dù có gián đoạn xương con, thính lực không giảm nhiều do tổ chức cholestearoma tạo cầu nối để đảm bảo sự liên tục của chuỗi xương con.
Soi mảnh biểu bì nhuộm Procarmin dưới kính hiển vi: phát hiện cấu trúc màng mái.
Phản ứng hóa học với Aldehyt acetic: chuyển màu xanh.
Chẩn đoán phân biệt
Thể kinh điển
Người lớn: quá trình viêm kéo dài, xương đặc ngà, khối
Trẻ em: Khối cholesteatoma lan nhanh vì xương chũm đang trong giai đoạn phát triển (choles thể way-off).
Thể khu trú
Cholesteatoma khu trú ở thượng nhĩ.
Cholesteatoma khu trú ở thượng nhĩ – nhĩ.
Thể theo tính chất của cholesteatoma
Cholesteatoma ướt:
+ Thường gặp nhất, hay gây hồi viêm.
+ Khối cholesteatoma ăn thông với ổ viêm xương có mủ, vỏ bọc ngoài bị vỡ, mùi rất thối.
Cholesteatoma khô:
+ Thường khu trú ở thượng nhĩ, lỗ thủng màng chùng, chảy mủ tai ít.
+ Khối cholesteatoma ăn thông với bên ngoài qua lỗ thủng màng nhĩ, vỏ bao ngoài còn nguyên vẹn trừ phần gần lỗ thủng.
Thể hiếm gặp
Cholesteatoma ống tai ngoài.
Cholesteatoma nguyên phát.
Cholesteatoma iatrogen.
ĐIỀU TRỊ
Cholesteatoma phá hủy xương nhanh và mạnh, dễ đưa đến các biến chứng, giảm sức nghe rõ rệt, nên việc điều trị ngoại khoa là chính, điều trị nội khoa là hỗ trợ.
Tất cả các bệnh nhân có viêm tai giữa mạn tính có cholesteatoma đều phải được thăm khám thường xuyên và lâu dài.
Phẫu thuật
Mục đích:
Lấy sạch bệnh tích.
Giữ khô hốc mổ.
Bảo tồn tối đa các cấu trúc tham gia hệ truyền âm của tai.
Ngăn ngừa và điều trị các biến chứng nếu có.
Phòng tái phát.
Việc lựa chọn loại phẫu thuật nào phụ thuộc rất nhiều yếu tố: vị trí, tính chất, độ lan tràn của bệnh tích, tình trạng thính lực, khả năng theo dõi bệnh nhân sau mổ, kinh nghiệm của phẫu thuật viên, độ tuổi của bệnh nhân.
Phương pháp:
Phẫu thuật kín: giữ lại thành sau ống tai xương.
Phẫu thuật hở: phá thành sau ống tai xương.
Cách phân loại khác:
+ Khoét rỗng đá chũm toàn phần.
+ Khoét rỗng đá chũm bán phần.
+ Phẫu thuật tiệt căn xương chũm cải biên:
+ Phẫu thuật tiệt căn xương chũm: khối Cholesteatoma lớn, lan rộng trên xương chũm quá thông bào.
Tiêu chuẩn hốc mổ tiệt căn:
Hạ thấp tường dây VII đảm bảo đáy sào bào cao hơn sàn ống tai.
Chỉnh hình cửa tai đủ rộng đảm bảo tỉ lệ Va/S.
Đảm bảo chức năng vòi tai, lót hốc mổ bằng cân cơ tránh chảy dịch về sau.
Thu hẹp diện tích hốc mổ (do lớp biểu mô phát triển nhanh hơn tổ chức dưới niêm mạc, mạch máu phát triển không đủ để nuôi dưỡng lớp biểu mô dẫn đến hoại tử, bong lớp biểu mô).
Trường hợp cholesteatoma túi khu trú ở thượng nhĩ hoặc lan vào sào đạo nhưng chưa vào sào bào hoặc xuống trung nhĩ có thể nội soi bóc cCholesteatoma.
Bên cạnh các phẫu thuật trên có thể kết hợp chỉnh hình tai giữa tái tạo màng tai hoặc chuỗi xương con một thì hoặc hai thì.
Điều trị nội khoa
Làm thuốc tai hàng ngày.
Kháng sinh toàn thân.
Cung cấp đủ dinh dưỡng.
TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG
Tiên lượng: dựa vào:
V: Cholesteatoma khu trú ở thượng nhĩ nguy hiểm hơn.
Tính chất cholesteatoma: thể ướt lan nhanh hơn, nguy hiểm hơn thể khô.
Tiến triển
Bệnh không thể tự khỏi, nếu không xử trí kịp thời có thể gây biến chứng nguy hiểm.
Biến chứng
Hồi viêm: thường xuất hiện, là bước đệm để phát sinh các biến chứng nặng nề khác.
Bệnh da không đơn thuần là một bệnh Ghẻ, Nấm, Mày đay… mà có liên quan chặt chẽ với các cơ quan nội tạng cũng như những biến đổi sinh học bên trong cơ thể. Do đó, da được xem như một tấm gương thu nhận sự kiện từ bên ngoài vào trong cơ thể và ngược lại phản ánh các biến đổi từ bên trong cơ thể ra ngoài da.
Sau đây là sơ lược về một số liên quan giữa da và nội tạng thường gặp trong chuyên khoa Da Liễu.
Một số bệnh da do nhiễm siêu vi có thể có liên quan đến nội tạng.
Bệnh Giời leo (Herpes zoster-Zona)
Tổn thương thần kinh do Zona vùng bẹn có thể gây rối loạn vận động bọng đái đưa đến tiểu khó, tiểu đau, cảm giác đau nhức ở bìu bên bị tổn thương. Tổn thương thần kinh do Zona mắt có thể làm tổn thương giác mạc.
Một tỷ lệ rất hiếm ở người cao tuổi bị Zona là có thể có ung thư nội tạng tiềm ẩn. Do đó, cần phải kiểm tra tổng quát trước những trường hợp Zona ở người cao tuổi.
Bệnh Mụn giộp (Herpes simplex-Herpès)
Bệnh Mụn giộp hay tái phát nhiều lần, thường xuất hiện đi kèm với các bệnh cảm cúm, viêm phế quản. Đối với Mụn giộp sinh dục ở phụ nữ, cần kiểm tra phết tế bào âm đạo-cổ tử cung (Pap’s smear) để phòng ngừa Ung thư cổ tử cung.
BỆNH DA VÀ NHIỄM KHUẨN
Tụ cầu khuẩn và Liên cầu khuẩn là hai tác nhân gây nhiễm khuẩn ở da rất thường gặp như Viêm nang lông, Nhọt, Chốc… cần đề phòng Viêm vi cầu thận cấp ở trẻ con khi tình trạng nhiễm khuẩn kéo dài.
Đối với một số Bệnh da bóng nước cần phải điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch lâu ngày, các loại vi khuẩn gram âm như Pseudomonas, gram dương như Tụ cầu vàng… có độc tính cao có thể gây nhiễm khuẩn da và đưa đến nhiễm khuẩn huyết.
BỆNH DA VÀ NHIỄM NẤM
Thường các bệnh Nấm cạn không liên quan đến nội tạng nhưng các bệnh Nấm sâu có thể gây tổn thương xương, phổi, não, màng não…
BỆNH DA VÀ DINH DƯỠNG
Thiếu sinh tố A
Thiếu sinh tố A có thể đưa đến bệnh Dày sừng nang lông (các chân lông đều có những nốt sừng trông giống như da gà), Loét mép, Lưỡi đỏ bóng.
Thiếu sinh tố c
Thiếu sinh tố c có thể đưa đến sự xuất hiện nốt sừng ở trước cẳng chân, bụng, sau đùi. Thiếu sinh tố c cũng có thể đưa đến ban xuất huyết nhất là ở chi dưới.
Thiếu đạm do suy dinh dưỡng
Lâu ngày sẽ đưa đến bệnh Kwashiokor.
Thiếu sinh tố pp
Lâu ngày sẽ đưa đến bệnh Pellagra.
Thiếu chất kẽm
Lâu ngày sẽ đưa đến bệnh Viêm bì đầu-cơ thể-ruột (Acrodermatitis enteropathica).
Chất Gluten có trong thức ăn (nhất là tinh bột) có liên quan đến bệnh Viêm da dạng Herpes (Dühring-Brocq)
BỆNH DA VÀ MIỄN DỊCH HỌC
Các bệnh da do rối loạn miễn dịch như Bệnh da bóng nước, Bệnh chất tạo keo (Lupus đỏ, Xơ cứng bì, Viêm nút quanh động mạch, Viêm bì cơ…) đều có thể gây tổn thương nội tạng như thận, tim, phổi, tiêu hóa, thần kinh.
Bệnh Vảy nến cũng là bệnh do nguyên nhân rối loạn miễn dịch đưa đến sự tăng sinh bất thường của lớp biểu bì, cũng có thể gây viêm khớp.
Trúng độc da do thuốc dạng nặng như Hội chứng Stevens-Johnson, Hội chứng Lyell có thể đưa đến tổn thương gan, thận, nhiễm khuẩn huyết và đi đến tử vong.
Một số bệnh da như Chàm, Mày đay, Phù mạch… cũng có nguyên nhân do miễn dịch dị ứng.
BỆNH DA CÓ LIÊN QUAN ĐẾN BỆNH ÁC TÍNH
Trước những trường hợp bệnh Viêm bì cơ ở người trên 40 tuổi, chúng ta cần phải khám tổng quát để điều tra các bệnh lý ác tính đi kèm như Ung thư vú, phổi, tiết niệu, tiêu hóa, lymphome…
Bệnh Gai đen (Acanthosis nigricans) thường liên quan đến Ung thư dạ dày, tụy tạng, trực tràng, phổi, vú, tử cung.
BỆNH DA VÀ RỐI LOẠN TIÊU HÓA
Ban xuất huyết Henoch-Schoenlein gây đau bụng dữ dội, ói, tiêu chảy…
Viêm nút quanh động mạch có thể gây viêm phúc mạc, thuyên tắc mạch treo, viêm tụy…
BỆNH DA VÀ TỔN THƯƠNG THẬN
Các bệnh da như Sarcoidosis, bệnh Hóa tinh bột hệ thống (Systemic amyloidosis), Lupus đỏ hệ thống, Xơ cứng bì… đều có thể gây tổn thương thận.
BỆNH DA VÀ RỐI LOẠN THẦN KINH, TÂM THẤN
Một số các bệnh da có liên quan ít nhiều đến yếu tố thần kinh, tâm thần như bệnh vảy nến, Mày đay, Viêm đa thần kinh, Trụi tóc (Pelade), Tật nhổ tóc ở trẻ con…
BỆNH DA VÀ RỐI LOẠN HUYẾT HỌC
Bệnh Lymphome có những biểu hiện rất đặc trưng ở da và thường dễ bị nhầm lẫn với bệnh Phong thể L.
Giảm tiểu cầu, bạch cầu, hồng cầu thường thấy trong bệnh Lupus đỏ hệ thống.
KẾT LUẬN
Như vậy, khám da liễu không đơn thuần là chỉ là khám da mà phải khám tất cả cơ quan nội tạng. Ví dụ trước một trường hợp Lupus đỏ cấp tính cần khám tim, phổi, thận… Trước một trường hợp trúng độc da do thuốc cần đánh giá mức độ tổn thương ở các cơ quan để có một nhận định về tình trạng bệnh lý. Điều này đòi hỏi Bác sĩ chuyên khoa Da Liễu phải có kiến thức và kỹ năng thực hành tốt về những bệnh nội khoa và ngoại khoa tổng quát.
Kém hấp thu disaccharid (đường đôi, tức các loại đường ăn thông thường) do thiếu hụt hoặc không có enzym tham gia vào quá trình tiêu hoá (phân giải) những chất đường này.
Căn nguyên
THIẾU HỤT ENZYM DI TRUYỀN
Không dung nạp lactose(giảm enzym lactase hoặc không có enzym lactase): ở trẻ em, những tế bào niêm mạc hỗng tràng rất giàu enzym lactase. Bình thường, enzym này sẽ giảm bớt khi trẻ được 4-5 tuổi. Ở người lớn, thiếu enzym lactase vô căn thấy trong 5-15% dân số ở châu Âu và trong 95% số người lớn ở Viễn-Đông. Chứng thiếu enzym lactase ở người lớn và vị thành niên biểu hiện bởi tính không thích ăn sữa, hoặc không dung nạp sữa, nếu ăn sữa, những đôi tượng này sẽ cảm thấy đày hơi, chướng bụng, đau bụng và ỉa chảy. Cần phân biệt thiếu lactase vô căn với thứ phát do tổn thương niêm mạc ruột (sinh thiết để xác định), nhất là trong bệnh spru và dị ứng tiêu hoá (test RAST dương tính).
Không dung nạp saccharose và isomaltose: bệnh di truyền nhiễm sắc thể thân kiểu lặn. Hay gặp ở trẻ em.
Không dung nạp glucose và galactose: hiếm gặp, bệnh di truyền nhiễm sắc thể thân kiểu lặn.
Không dung nạp trehalose: hiếm gặp, bệnh di truyền nhiễm sắc thể thân kiểu lặn.
THIẾU HỤT ENZYM MAC PHẢI: do niêm mạc hỗng tràng bị tác động bởi các bệnh sau: bệnh tạng, bệnh spru nhiệt đới, xơ hoá nang, bệnh Whipple và bệnh Crohn, bệnh do lamblia.
Sinh lý bệnh
Những đường disaccharid (đường đôi) bình thường được phân giải trong tiểu tràng bởi những enzym tương ứng. Trong trường hợp thiếu hụt các enzym này, thì những đường đôi không được thuỷ phân và tiêu hoá, nên sẽ tích tụ lại trong ruột và làm tăng áp lực thẩm thấu của môi trường ruột, áp lực thẩm thấu tăng sẽ kéo nước và các chất điện giải từ niêm mạc ruột vào lòng của tiểu tràng, kết quả là ỉa chảy acid vì lên men. Những đường disaccharid không dung nạp sẽ được bài tiết với một lượng nhỏ nguyên như thế theo phân và đôi khi cả theo nước tiểu.
Triệu chứng
THỂ DI TRUYỀN: ỉa chảy ít hoặc nhiều, kèm theo đau bụng, chướng bụng, đầy hơi. Các triệu chứng này xuất hiện ngay từ khi cho trẻ nhỏ hoặc trẻ còn bú ăn chất đường không được dung nạp. Bệnh nhi ỉa chảy phân lỏng, có bọt, nhiều chất nhày, và có thể dẫn tới mất nước cơ thể và suy dinh dưỡng nặng.
THỂ MẮC PHẢI: những triệu chứng thường bị các triệu chứng của tình trạng kém hấp thu nói chung vốn ồn ã hơn lấn át.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Xét nghiệm phân: cho thấy hiện tượng lên men quá mức, thể hiện bởi giảm pH và tăng lượng acid lactic cùng những acid béo bay hơi.
Test dung nạp: cho bệnh nhi ăn đường disaccharid không dung nạp, sẽ thấy xuất hiện lại những rổì loạn tiêu hoá. Đường cong biểu diễn tăng đường huyết dẹt. Ví dụ cho uông 50-100 g lactose, thì đường huyết chỉ tăng 0,2 g/1 (1,1 mol/i).
Test hô hấp với glucid không đánh dấu: sau khi cho bệnh nhi ăn chất đường không dung nạp, thì nồng độ khí hydro tròng hơi thở bệnh nhân tăng lên quá mức vào lúc mà chất đường bị lên men dưới tác động của những vi khuẩn ở đại tràng.
Định lượng enzym disaccharidase trong niêm mạc hồi tràng lấy ra bằng sinh thiết qua đường miệng.
Điều trị
Không ăn các loại disaccharid không dung nạp, đặc biệt là sữa và sản phẩm sữa nếu thiếu hụt enzym lactase. Trong trường hợp không dung nạp đường saccharose và isomaltose thì chỉ các loại bột ngô và bột gạo là tiêu hoá được. Cho uống những enzym bị thiếu hụt trong bữa ăn để tiêu hoá chất đường tương ứng.
GHI CHÚ: phải phân biệt không dung nạp đường lactose (đường trong sữa) với không dung nap proteỉn của sữa bò (nhất là casein, alpha-lactalbumin và beta- lactoglobulin). Trong những trường hợp này thì khi cho sữa bò vào chế độ ăn của trẻ em, sẽ gây ra những rối loạn: ỉa chảy, da tái nhợt, nhịp tim nhanh, phù Quinck, viêm mũi, hen, mày đay cấp tính, đôi khi cả sốc xảy ra vài phút sau khi ăn. Chẩn đoán được xác định khi thấy trẻ bú mẹ mà không có rối loạn nào xảy ra, và test cho ăn lại sữa bò cho kết quả dương tính. Bản chất dị ứng của tình trạng không dung nạp được chứng minh bằng phản ứng huyết thanh cho thấy có IgE đặc hiệu, và bởi test bì. Đây là một bệnh tạm thời sẽ tự khỏi sau khoảng 2 năm.
Không dung nạp sữa bò có thể gặp ở người lớn và thường kèm theo kém hấp thu, eczema, mày đay mạn tính, nhức nửa đầu. Những thể bệnh này sẽ được cải thiện nếu được điều trị bằng acid cromoglicic.
Cơ thể là một cỗ máy phức tạp. Nhiều cơ quan và hệ thống luôn hoạt động để duy trì sức khỏe. Một số chức năng quan trọng đến mức bạn không thể sống nếu chúng ngừng hoạt động. Khi các chức năng này suy yếu, các quy trình y tế đặc biệt, thường được gọi là hỗ trợ sự sống, có thể giữ bạn sống cho đến khi cơ thể sẵn sàng hoạt động trở lại. Nhưng đôi khi cơ thể không thể tiếp tục tự hoạt động.
Nếu các hệ thống sau ngừng hoạt động vì bất kỳ lý do nào, bạn sẽ cần hỗ trợ sự sống:
Phổi: Trong trường hợp gần như chết đuối, viêm phổi, dùng quá liều thuốc, cục máu đông, hoặc chấn thương hoặc bệnh nghiêm trọng về phổi như bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD), xơ nang, và các bệnh cơ hoặc thần kinh như bệnh ALS và loạn dưỡng cơ.
Tim: Ngừng tim đột ngột hoặc cơn đau tim.
Não: Đột quỵ hoặc chấn thương nặng ở đầu.
Các Loại Hỗ Trợ Sự Sống
Khi hầu hết mọi người nói về một người đang được hỗ trợ sự sống, họ thường đề cập đến máy thở, một thiết bị giúp ai đó thở. Máy thở giữ cho oxy lưu thông trong cơ thể bằng cách đẩy không khí vào phổi. Nó được sử dụng tạm thời cho các bệnh như viêm phổi, nhưng có thể cần lâu hơn cho người bị suy phổi.
Một đầu ống thông được đưa vào khí quản qua mũi hoặc miệng. Đầu còn lại nối với máy bơm điện. Một số người được tiêm thuốc để làm họ thoải mái và buồn ngủ khi sử dụng máy thở.
Khi tim của ai đó ngừng đập, bác sĩ sẽ cố gắng khởi động lại. Các phương pháp hỗ trợ sự sống bao gồm hồi sức tim phổi (CPR), giữ cho máu và oxy lưu thông trong cơ thể, sốc điện (gọi là khử rung tim) để khiến tim đập lại, và thuốc để giúp tim hoạt động.
Các hình thức hỗ trợ sự sống ít khẩn cấp hơn bao gồm lọc máu để loại bỏ độc tố khỏi máu, và ống dẫn thức ăn hoặc truyền dịch để cung cấp dinh dưỡng và nước.
Bắt Đầu Hỗ Trợ Sự Sống
Bác sĩ, y tá, và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe khác sẽ bắt đầu hỗ trợ sự sống ngay lập tức, trừ khi:
Bạn từ chối nó hoàn toàn.
Bạn đã để lại hướng dẫn bằng văn bản rằng không muốn nó.
Người có quyền quyết định thay bạn (quyền lực y tế) hoặc thành viên gia đình thân thiết nhất từ chối nó thay bạn.
Ngừng Hỗ Trợ Sự Sống
Bác sĩ thường khuyên ngừng hỗ trợ sự sống khi không còn hy vọng hồi phục. Các cơ quan không còn có thể tự hoạt động. Việc tiếp tục điều trị lúc này có thể kéo dài quá trình tử vong và cũng có thể tốn kém.
Việc chọn ngừng hỗ trợ sự sống thường có nghĩa là người đó sẽ qua đời trong vài giờ hoặc vài ngày. Thời gian phụ thuộc vào loại điều trị được ngừng. Người bệnh thường ngừng thở và qua đời ngay sau khi máy thở được tắt, mặc dù một số người có thể bắt đầu thở trở lại. Nếu họ không nhận chất lỏng, họ thường qua đời trong vài ngày sau khi ống dẫn thức ăn bị loại bỏ, mặc dù có thể sống đến một hoặc hai tuần.
Khi ai đó bất tỉnh hoặc không có ý thức rõ ràng, bác sĩ và gia đình sẽ quyết định khi nào nên ngừng các biện pháp hỗ trợ sự sống. Đây là một quyết định khó khăn, đặc biệt nếu người bệnh chưa từng thảo luận về mong muốn của mình với gia đình. Bác sĩ khuyến khích các thành viên gia đình tập trung vào những gì họ nghĩ người thân của họ sẽ muốn.
Quan trọng cần nhớ rằng nguyên nhân tử vong là tình trạng bệnh lý cơ bản, chứ không phải do việc rút hỗ trợ sự sống. Bác sĩ sẽ làm mọi cách để giữ cho người bệnh thoải mái.
Các vấn đề về lời nói và ngôn ngữ có thể làm khó khăn cho trẻ trong việc hiểu và giao tiếp với người khác, hoặc phát âm các âm thanh trong lời nói.
Trẻ em mắc các rối loạn này thường gặp khó khăn khi học đọc và viết, hoặc khi cố gắng hòa nhập xã hội và kết bạn. Tuy nhiên, điều trị giúp hầu hết trẻ em cải thiện, đặc biệt nếu bắt đầu sớm.
Người lớn cũng có thể mắc các rối loạn này. Nó có thể bắt đầu từ thời thơ ấu, hoặc họ có thể gặp phải do các vấn đề khác như chấn thương não, đột quỵ, ung thư hoặc sa sút trí tuệ.
Đối với trẻ em có rối loạn lời nói, việc hình thành các âm thanh cấu thành lời nói hoặc ghép câu có thể là một thách thức. Dấu hiệu của rối loạn lời nói bao gồm:
Khó khăn với các âm thanh p, b, m, h và w ở độ tuổi từ 1 đến 2.
Vấn đề với các âm thanh k, g, f, t, d và n trong độ tuổi từ 2 đến 3.
Khi người quen biết trẻ khó hiểu trẻ nói.
Nguyên nhân của hầu hết các rối loạn lời nói vẫn chưa được biết rõ.
Có ba loại chính:
Phát âm: Trẻ gặp khó khăn trong việc phát âm từ. Các chữ cái như p, b và m dễ học hơn. Hầu hết trẻ có thể nắm vững những âm này trước 2 tuổi. Tuy nhiên, âm r, l và th mất nhiều thời gian hơn để trẻ có thể phát âm chính xác.
Lưu loát: Trẻ có thể gặp khó khăn trong việc diễn đạt các từ và câu một cách liên tục. Nói lắp là một rối loạn về lưu loát, tức là trẻ lặp lại từ, phần từ, hoặc sử dụng các khoảng dừng bất thường. Điều này thường xảy ra khi trẻ gần 3 tuổi, khi mà trẻ suy nghĩ nhanh hơn khả năng nói. Nếu tình trạng này kéo dài hơn 6 tháng, hoặc nếu trẻ hơn 3.5 tuổi, hãy tìm sự giúp đỡ.
Giọng nói: Nếu trẻ nói quá lớn, quá nhỏ hoặc thường bị khàn giọng, có thể trẻ mắc rối loạn giọng nói. Điều này có thể xảy ra nếu trẻ nói quá lớn và với sức mạnh quá mức. Nguyên nhân khác có thể là do sự phát triển nhỏ trên dây thanh quản gọi là nốt hoặc polyp. Chúng cũng có thể do căng thẳng quá mức về giọng nói.
Rối loạn ngôn ngữ
Trẻ có sử dụng ít từ và câu đơn giản hơn so với bạn bè không? Những vấn đề này có thể là dấu hiệu của rối loạn ngôn ngữ. Đối với trẻ em mắc rối loạn này, việc tìm từ đúng hoặc nói thành câu hoàn chỉnh có thể rất khó khăn. Trẻ có thể gặp khó khăn trong việc hiểu những gì người khác nói. Trẻ có thể mắc rối loạn này nếu:
Không biết bập bẹ trước 7 tháng.
Chỉ nói một vài từ trước 17 tháng.
Không thể ghép hai từ lại với nhau trước 2 tuổi.
Gặp khó khăn khi chơi và nói chuyện với trẻ khác từ 2 đến 3 tuổi.
Có hai loại rối loạn ngôn ngữ chính. Có thể trẻ có cả hai loại.
Tiếp nhận: Đây là khi trẻ gặp khó khăn trong việc hiểu lời nói. Trẻ có thể gặp khó khăn trong việc:
Theo dõi chỉ dẫn.
Trả lời câu hỏi.
Chỉ vào đồ vật khi được hỏi.
Biểu đạt: Nếu trẻ gặp khó khăn trong việc tìm từ đúng để thể hiện bản thân, có thể trẻ mắc loại rối loạn ngôn ngữ này. Trẻ mắc rối loạn biểu đạt có thể gặp khó khăn trong việc:
Đặt câu hỏi.
Xâu chuỗi từ thành câu.
Bắt đầu và tiếp tục một cuộc trò chuyện.
Không phải lúc nào cũng có thể xác định nguyên nhân của rối loạn ngôn ngữ. Các nguyên nhân vật lý của loại rối loạn này có thể bao gồm chấn thương đầu, bệnh tật hoặc nhiễm trùng tai. Đây đôi khi được gọi là rối loạn ngôn ngữ có được.
Các yếu tố khác làm tăng khả năng gặp phải bao gồm:
Tiền sử gia đình có vấn đề về ngôn ngữ.
Sinh non.
Tự kỷ.
Hội chứng Down.
Dinh dưỡng kém.
Các bác sĩ không phải lúc nào cũng biết nguyên nhân gây ra tình trạng của trẻ. Hãy nhớ rằng, các loại rối loạn này không liên quan đến độ thông minh của trẻ. Thường thì, trẻ có rối loạn ngôn ngữ thông minh hơn mức trung bình.
Chẩn đoán và điều trị
Rối loạn lời nói và ngôn ngữ được xác định là các khuyết tật theo luật pháp. Trẻ có thể được kiểm tra và điều trị thông qua chương trình can thiệp sớm của bang hoặc trường công lập địa phương. Một số dịch vụ là miễn phí.
Trẻ có thể gặp một nhà ngôn ngữ trị liệu (SLP). SLP có thể cố gắng xác định xem trẻ:
Có thể theo dõi chỉ dẫn không.
Có thể gọi tên các đồ vật thông thường không.
Biết cách chơi với đồ chơi không.
Có thể cầm sách đúng cách không.
SLP sẽ đầu tiên kiểm tra thính lực của trẻ. Nếu thính lực bình thường, SLP sẽ thực hiện các bài kiểm tra để xác định loại rối loạn có thể có, xem đó là vấn đề tạm thời hay cần điều trị, và đề xuất kế hoạch điều trị.
Cách giúp đỡ trẻ
Trẻ em học hỏi và phát triển với tốc độ riêng của chúng. Càng nhỏ, trẻ càng có khả năng mắc sai lầm nhiều hơn. Vì vậy, bạn nên nắm rõ các cột mốc phát triển. Biết những kỹ năng mà trẻ nên đạt được ở một độ tuổi nhất định.
Để giúp trẻ phát triển kỹ năng lời nói và ngôn ngữ:
Nói chuyện với trẻ, ngay cả khi trẻ còn là sơ sinh.
Chỉ vào các đồ vật và gọi tên chúng.
Khi trẻ sẵn sàng, hãy đặt câu hỏi cho trẻ.
Phản hồi những gì trẻ nói, nhưng đừng sửa lỗi.
Đọc sách cho trẻ ít nhất 15 phút mỗi ngày.
Nếu trẻ mắc một trong các rối loạn này, đừng cho rằng trẻ sẽ tự khỏi. Tuy nhiên, điều trị giúp hầu hết trẻ cải thiện. Càng sớm càng tốt, kết quả sẽ càng tốt.
Trong thực tiễn lâm sàng, trước một khối u ổ bụng mà tìm không thấy nằm ở các tạng rỗng hoặc tạng đặc được gọi là u mạc treo, hay là khối u của phúc mạc. Mạc treo hay phúc mạc có ở khắp nơi trong ổ bụng nên bao hàm một phạm vi rất rộng. Ngày nay các phương tiện chẩn đoán hiện đại cho phép hiện hình u, định vị u chính xác hơn như: Siêu âm, chụp cắt lớp vi tính… giúp xác định chẩn đoán chính xác và cụ thể hơn. Cuối cùng, việc phẫu thuật thăm dò là quyết định nhất.
Hay gặp u lớn xuất phát từ hậu mạc cung nối dính vào cuống lách, tụy hoặc đại tràng ngang, dạ dày.
U xuất phát từ mạc treo phát triển lan rộng khắp mạc treo ruột non, xâm lấn thành ruột. Đôi khi u xuất phát từ lá thành sau phúc mạc phát triển ra ổ bụng.
Vi thể: Thấy thực chất là:
Các dạng sarcom của mô mềm: Sợi, huyết quản, cơ trơn, mô tế bào sáng, tế bào hạt vàng, sợi thần kinh, u trung mô ác, u carcinoide…
U Ivmpho ác không Hodgkin hoặc Hodgkin.
Các di căn của ung thư biểu mô mà nguyên phát rõ hoặc không rõ nguyên phát: Buồng trứng, dạ dày, tụy…
Đánh giá bilan bệnh
Các khối u được chẩn đoán là ở mạc treo, ở lá thành của phúc mạc cần được đánh giá theo các bước sau: ,
Đánh giá lâm sàng: Theo các bước trình tự của chẩn đoán u bụng, bao giờ cũng phải thăm âm đạo (ở nữ giới), trực tràng, khám kỹ tinh hoàn (ở nam giới).
Các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh:
+ Siêu âm các tạng và u.
+ Chụp cắt lớp vi tính hoặc cộng hưởng từ, có tiêm chất cản quang.
+ Chụp mạch máu (nếu cần).
Các xét nghiệm máu, nước tiểu: Để đánh giá bilan chung và một số chất chí điếm sinh học hướng tìm các khối u đặc hiệu.
PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ
Phẫu thuật
Đối với các khối u phúc mạc. điều trị chủ yếu là phẫu thuật. Các vũ khí xạ trị và hóa trị được cân nhắc để điều trị bổ sung hoặc tiếp theo.
Chuẩn bị phẫu thuật
Tẩy sạch đại tràng, ăn ít chất bã.
Chuán bị máu, các phương tiện cần thiết để thực hiện trong lúc phẫu thuật. Giái thích cho người bệnh, về mục đích, những khả nãng của phẫu thuật.
Tiến hành phẫu thuật
Nguyên tắc chung
Đánh giá đầy đủ các thương tổn.
Nhóm phẫu thuật viên có kinh nghiệm về các ung thư tiêu hóa, ổ bụng.
Kỹ thuật phẫu thuật
Mở đường giữa rộng rãi, cầm máu và bọc vết mổ cẩn thận.
Thăm dò thứ tự các tạng đặc rồi các tạng rỗng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ vĩ mô đến vi mô.
Đánh giá khả nâng cất bỏ (resreability), khả năng phẫu thuật triệt căn u đơn thuần khi u có cuống rõ của mạc nối lớn chẳng hạn, hoặc phẫu thuật triệt căn u mở rộng sang một số tạng: Một đoạn ruột non, đoạn đại tràng, đuôi tụy. lách, dạ dày… Hoặc bóc u trong vỏ tránh nguy cơ tổn thương nhiều tạng, hoặc chọn lựa phẫu thuật công phá u (debulking surgery) trong ung thư buồng trứng, tinh hoàn, u lympho ác. Khi không có khả năng lấy u cần đánh giá bilan và lấy mẫu bệnh phẩm xét nghiệm mô bệnh học. Chú ý cầm máu, khâu thật kỹ khi sinh thiết u.
Cắt bỏ u triệt căn dơn thuần: Cần chú ý cách ly các tạng xung quanh.
Cắt bo u mớ rộng triệt căn.
Bóc u trong vỏ: Ví dụ sarcom mỡ lớn. sarcom phần mềm lớn, ung thư tinh hoàn.
Phẫu thuật công phá u.
Sinh thiết một phần u lấy mẫu xét nghiệm.
Xét nghiệm trong mổ
Chọc dò các u nghi là nang dịch: Nang tụy, nang mạc treo, nang gan, nang lao… lấy dịch làm xét nghiệm sinh hóa, hoặc phết lam kính chẩn đoán tế bào học.
Lấy mẫu bệnh phẩm u đặc làm sinh thiết tức thì để xác định mô bệnh học nhanh.
Phòng các tai biến
Chảy máu: Cần khâu kỹ vùng sinh thiết u, khi mổ u lớn phải kiểm tra kỹ các lưới tuần hoàn tăng sinh.
Thúng tạng: Cần chú ý phát hiện dể giải quyết kịp thời.
Nhói máu mạc treo, nhồi máu phổi…
Theo dõi và điều trị bổ sung
Cần theo dõi sát bệnh nhân sau mổ, tùy theo bản chất u mà chỉ định điều trị bổ sung.
Xạ trị: Hay được dùng khi lấy các khối u phần mềm tiếp cận. Có thể xạ trị áp sát tại chỗ dùng kỹ thuật nạp nguồn sau (afterloading) hoặc xạ trị từ ngoài vào.
Hóa trị liệu: Dùng điều trị bổ sung hoặc điều trị chủ yếu trong u lympho ác, điều trị tạm thời khi bệnh lan rộng, cải thiện triệu chứng cho bệnh nhân.
Nhìn chung, trước một u bụng chưa xác định nguồn gốc tạng nào, ngoài vấn để chẩn đoán trước mổ khó khăn, mổ thăm dò thường xảy ra nhiều tình huống bất trắc. Cần tổ chức một kíp phẫu thuật viên ung thư tiêu hóa có kinh nghiệm để xử lý tối ưu các tình huống. Việc lập phác đồ điều trị và theo dõi cần qua hội đồng ung thư có kinh nghiệm để tìm các giải pháp hợp lý đạt kết quả cao.
Chàm là một bệnh thường gặp do nhiều nguyên nhân gây ra. Có thể xem chàm là một hội chứng hơn là một bệnh.
II- Chẩn đoán:
1/ Chẩnđoánxác định thường là:
Mụn nước trên nền hồng ban, giới hạn có thể rõ hay không rõ, ngứ
Hoặc màng da dày, lichen hóa, giới hạn không rõ.
Thương tổn thường có tính đối xứ
2/ Chẩn đoán nguyên nhân: rất khó tìm dị ứng nguyên
3/ Chẩnđoánphân biệt:
Tổ đĩa: không có hồng ban, có mụn nước sâu trong Thường ở mặt bên của ngón tay, lòng bàn tay, bàn chân.
Herpes môi hay sinh dục: mụn nước dính chum trên nền hồng ban, khởi sự ngứa sau thì hơi rát.
Zona: chum mụn nước trên nền hồng ban hơi phù nề, đau rát nhiều, thương tổn chạy dọc theo thần kinh nửa bên thân mình.
III- Điều trị:
1/ Nguyên tắc:
Tìm dị ứng nguyên gây bệnh
Tránh bôi nhiều loại thuốc vì có thể là dị ứng nguyên.
Vì chàm cũng là một phản ứng viêm nên có thể dùng thuốc kháng viêm thoa trực tiếp lên thương tổn, đó là corticoid dùng tại chỗ. Nhưng cần lưu ý đến vị trí, thể bệnh và nguyên nhân của bệnh chàm để lựa chọn thuốc bôi thích hợ
2/ Điều trị cục bộ:
Giaiđoạncấp: Rịn dịch rất nhiều vì thế không nên dùng các loại thuốc mỡ, nó sẽ làm bịt kín mặt Nên dùng dung dịch sát khuẩn nhẹ: như hexamidine, chlohexidine, thuốc tím 1/20.000 để rửa thương tổn. Sau khi rửa sạch thương tổn, có thể thoa: hồ nước hay nitrate bạc 1 – 5% để làm khô dịch tiết.
Giaiđoạnbáncấp: Có thể thoa dung dịch eosin 2% hay Milian.
Giaiđoạnmạn: Giai đoạn này thương tổn thường dày sừng da và khô, nên có thể dùng corticoid tại chỗ dạng mỡ, hay dạng kem hay dạng phối hợp với acid salicylic để tiêu sừng nhiều hơn.
3/ Điều trị toàn thân:
Thuốc kháng histamine nhóm I để chống ngứa, thuốc histamine nhóm 1 và nhóm 2 thường được phối hợp trong mày đay cơ học
Kháng sinh: dùng khi có bội nhiễm, thường là nhiễm khuẩn do Staphylococcus aureus.
Corticoid toàn thân: nên cân nhắc điều trị vì thuốc có thể gây biến chứng nặng nề. Thường chỉ dùng trong trường hợp chàm cấp ở mặt hay bàn Thuốc thường dùng là prednisolone với liều 0,5mg/kg/ngày x 3 ngày.
Chàm mạn không nên dùng corticoid liều thấp kéo dài vì khi ngưng thuốc sẽ làm cho bệnh bùng phát lạ Trong trường hợp đặc biệt khi chàm lan tỏa thì dùng methyl-prednisolone liều ngắt quãng và được thực hiện tại bệnh viện.
PUVA liệu pháp và chiếu tia UV: dùng cho chàm lòng bàn tay, bàn chân hay chàm mạn lan tỏ
Thuốc ức chế miễn dịch: mặc dầu có thể hiệu quả trên một vài ca chàm mạn lan tỏa, nhưng vì các biến chứng nặng nề của nó khiến người ta không thể chấp nhận đưa vào phác đồ điều trị.
Giải dị ứng không đặc hiệu: chích histaglobin, có tác dụng làm giảm lượng kháng thể và giảm phóng thích
4/ Nguyên nhân:
Vi khuẩn: dùng kháng sinh
Nấm: dùng griseofulvin, ketoconazole, itraconazole.
Giải dị ứng đặc hiệu: tiêm trong da dị ứng nguyên liều nhỏ tăng dần
Thiếu sinh tố: tùy trường hợp sử dụng thêm các vitamins: F, B1, B6, B12, C…
Gần đây trong một số người lưu truyền câu nói cửa miệng: “Chỉ cần ăn nhiều hồng là sẽ không bị cảm mạo”.
Nói như vậy có đúng không? Có hợp lẽ không? Trước hết, chúng ta hãy xem câu nói ‘đó bắt nguồn từ đâu.
Tác dụng quả hồng
Trong những ngày trời giá lạnh, rét mướt, cơ thể thường run lên cầm cập. Để chống lại sự xâm kích của giá rét, ngăn chặn được bệnh tật phát sinh, cơ thể tất sẽ sản sinh ra hàng loạt phản ứng sinh lí có tính chất phòng ngự, trong đó, tuyến thượng thận sẽ tăng thêm một loại kích tố (cũng gọi là hormone), người ta vẫn thường gọi là tiết ra chất adrenin. Cơ năng bình thường của tuyến thượng thận không tách rời được vitamin C. Trong thực nghiệm, các nhà khoa học đã phát hiện: Nếu thả con chuột bạch con vào trong nước lạnh, hàm lượng vitamin C trong tuyến thượng thận của chuột con sẽ dần dần giảm thiểu. Đó là vì để thúc đẩy tuyến thượng thận tiết ra loại kích tố adrenin, cần phải có sự tham dự của vitamin C, do đó mà dẫn tới sự tiêu hao và giảm thiểu vitamin C.
Có lẽ xuất phát từ sự suy lí cho rằng “hấp thu nhiều vitamin C sẽ có thể tăng cường được sức đề kháng của cơ thể đối với giá rét” cho nên mới có câu nói “Chỉ cần ăn nhiều quả hồng thì sẽ không bị cảm mạo”.
Trong các loại trái cây thì hàm lượng vitamin C trong các loại quả thảo mới, cam quít, dứa v.v… rất cao, nhưng chúng đều là những loại quả của mùa hè. Thế mà thời tiết về cuối thu đầu đông thì đã chuyển sang lạnh, là mùa mà cơ thể dễ sinh ra bệnh cảm mạo, quả hồng là quả giàu vitamin C lại đúng vào mùa này. Mùa này còn có quả táo Trung Quốc, quả lê, nhưng hàm lượng vitamin C đều rất thấp, chỉ bằng 1/3 – 1/5 vitamin C có chứa trong quả hồng. Ngoài ra, trong quả hồng còn có các chất protein, chất béo, chất canxi, phốt pho, chất sắt và nhiều loại vitamin khác nữa, nó là một loại quả hảo hạng đầu bảng.
Những câu nói cho rằng “vitamin C có thể đề phòng được bệnh cảm mạo” vẫn chỉ là một suy đoán và giả thuyết thôi chứ không thể khẳng định chắc chắn được, lại có một số nhà khoa học cho rằng vitamin C không có quan hệ trực tiếp gì với bệnh cảm mạo cả. Ngoài ra, hồng còn có chứa lượng lớn các thành phần pectin, tannin, khi hỗn hợp với dịch vị, với các chất xơ sợi thực phẩm chưa tiêu hóa và chất protein sẽ hình thành các mảnh tròn không thể tiêu hóa được và trở thành sỏi dạ dày, gây nên bệnh ở dạ dày hoặc làm trở ngại đến đường tiêu hóa. Cho nên, đối với quả hồng chỉ nên ăn ít thôi thì rất bổ, nếu ăn quá nhiều thì lại có hại. Vì vậy để bổ sung vitamin C cho cơ thể về hai mùa thu đông thì có thể chọn ăn nhiều rau cải và củ cải cũng là những thực phẩm rất giàu vitamin C đúng vào mùa vụ này. Trong mỗi 100 gam rau cải tươi có 24 mg vitamin C, mỗi 100 gam củ cải có tới 30 mg vitamin C, trong khi đó, mỗi 100 gam quả hồng chỉ có chứa 16 mg vitamin C thôi. Ngoài ra, táo tầu cũng là loại quả rất giàu vitamin C, trong mỗi 100 gam quả táo tầu tươi mới có chứa tới 380 mg vitamin C, nó cũng thu hoạch đúng vào mùa thu, hơn nữa lại rất dễ bảo quản. Vì vậy, nếu đúng là vitamin C có thể có tác dụng đề phòng được bệnh cảm mạo thì nguồn hấp thu vitamin C tốt nhất của cơ thể trong mùa đông xuân cũng không phải là quả hồng, mà chính là quả táo tầu, củ cải và rau cải.
Viêm phúc mạc cấp do thủng (tạng rỗng, vỡ ổ áp xe).
Viêm phúc mạc cấp do ổ nhiễm trùng lan rộng trong ổ bụng (viêm ruột thừa, viêm vòi trứng, viêm đại tràng Sigma, viêm túi mật).
Chẩn đoán thể điển hình viêm phúc mạc cấp toàn thể
Đau bụng dữ dội (vị trí đau ban đầu giúp chẩn đoán nguồn gốc gây viêm phúc mạc), nôn và hội chứng nhiễm trùng.
Co cứng bụng liên tục, toàn bộ, đau.
Thăm trực tràng: đau ở túi cùng Douglas.
Chụp bụng không chuẩn bị: thẳng nghiêng: liềm hơi dưới cơ hoành, hình bụng chướng hơi: mờ lan rộng, liệt ruột phản xạ.
Cận lâm sàng: công thức máu, điện giải, creatinin máu, cấy máu, nhóm máu, điện tim, XQ phổi.
Thể lâm sàng đặc biệt
Viêm phúc mạc ít triệu chứng: người cao tuổi, tình trạng toàn thân xấu, suy giảm miễn dịch, tình trạng toàn thân nặng, không thấy dấu hiệu bụng.
Viêm phúc mạc khu trú:
Ổ nhiễm trùng khỏi phát.
Hội chứng ố nung mủ sâu: sốt dao động, vẻ mặt hốc hác, tăng bạch cầu đa nhân trung tính, kèm VỚI dấu hiệu tại chỗ.
Áp xe dưới cơ hoành: bệnh cảnh sau phẫu thuật, dấu hiệu kích thích cơ hoành (ho, nấc, khó thỏ, đau vai). XQ phổi: cơ hoành lên cao, tràn dịch màng phối, xẹp phôi, CT.
Áp xe Douglas: hội chứng tiểu khung, đái buốt, mót rặn, chẩn đoán bằng chụp CT.
Viêm phúc mạc cấp sau phẫu thuật:
Hiếm và nặng: thường do thủng rò miệng nối.
Có thể có dấu hiệu: ỉa chảy, xuất huyết tiêu hóa, thiểu niệu, khí ổ bụng, rối loạn tâm thần.
Nguyên nhân
Thủng ổ loét dạ dày tá tràng: tiền sử loét dạ dày – tá tràng, đau thượng vị đột ngột,, co cứng vùng thượng vị, khí ổ bụng (75% số bệnh nhân).
Viêm phúc cấp do đại tràng: nặng vì có lẫn phân – hội chứng nhiễm trùng nặng.
Viêm phúc mạc cấp do viêm ruột thừa.
Viêm phúc mạc cấp do thủng ruột non (nhồi máu mạc treo, Crohn, loét dạ dày)
Viêm phúc mạc cấp do mật: sau can thiệp đường mật chính hay thấm mật phúc mạc, viêm túi mật hoại tử.
Viêm phúc mạc cấp ở phụ nữ: viêm vòi trứng, chửa ngoài tử cung.
Do chấn thương.
Các yếu tố tiên lượng nặng
Tình trạng toàn thân bệnh nhân.
Thời gian phát hiện được bệnh muộn.
Viêm phúc mạc cấp sau phẫu thuật, ở đối tượng người cao tuổi.
Kèm một lỗ thủng xa, kèm nguy cơ nhiễm trùng.
Điều trị
Điều trị nội khoa:
Hội chứng nhiễm trùng: kháng sinh phổ rộng, sau đó tuỳ thuộc vào kháng sinh đồ.
Điều chỉnh rối loạn nước điện giải.
Hồi sức: suy đa phủ tạng.
Điều trị ngoại khoa:
Điều trị tổn thương gây ra cắt túi mật, khâu lỗ thủng ổ loét, cắt đại tràng, hậu môn nhân tạo.
Lau rửa ổ bụng, lấy hết giả mạc.
Đóng bụng+ /-, đặt dẫn lưu.
3 trường hợp đặc biệt
Loét dạ dày tá tràng
Điều trị nội khoa: hồi sức điều chỉnh sốc giảm thể tích, rối loạn nước điện giải, hút dịch dạ dày, kháng sinh phổ rộng, điều trị ổ loét bằng đường tĩnh mạch. Chỉ định: chẩn đoán sớm < 6 giờ, sau bữa ăn cuối > 6 giờ, không có dấu hiệu nhiễm trùng nếu thất bại, phẫu thuật.
Ngoại khoa: cắt đoạn dạ dày hay khâu ổ loét.
Thuốc điều trị loét + kháng sinh.
Nguyên nhân đại tràng.
Bệnh cảnh nhiễm trùng nặng không được nôi ngay ruột.
Điều trị ngoại khoa: cắt đại tràng nôi hay không tùy tình trạng bệnh.
Áp xe: dẫn lưu ổ áp xe, điều trị ổ áp xe, tùy trường hợp có thể phẫu thuật điều trị nguyên nhân luôn hay không.
Houttuynia cordata Thunb. Họ khoa học : Lá Giấp (Saururaceae).
Tiếng trung: 魚 腥 草
Tên khác:
Trắc nhĩ căn, Rau Diếp cá, lá giấp, tập thái, ngư tinh thảo, co vầy mèo (Thái), phjắc hoảy (Tày), cù mua mía (Dao)
Ngư tinh thảo ( dấp cá)
Mô tả
Cây thảo nhỏ có thân ngầm mọc bò ngang, màu trắng, bén rễ ở các mấu. Thân trên không, đứng thẳng, cao 20 – 40cm, màu tím đỏ, có khía. Lá mọc so le, hình tim, mặt dưới màu tím, hai mặt hơi có lông, cuống lá dài có bẹ.
Cụm hoa mọc thành bông ngắn ở ngọn thân; hoa nhỏ, nhiều, màu vàng nhạt, lá bắc 4 cái màu trắng, không có bao hoa, nhị 3.
Quả nang, hạt nhẵn.
Cả cây vò ra có mùi tanh như mùi cá.
Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.
Phân biệt tính chất, đặc điểm
Thân cây giáp cá có hình trụ tròn, bẹt, cong queo, bề mặt mầu vàng nâu, có nhiều cọng dọc, chia đốt rõ ràng, trên các đốt ở phần dưới có các rễ phụ sót lại; chất giòn dễ bẻ gẫy. Lá mọc so le, phiến lá cuộn gập nhăn chun, duỗi phẳng ra có hình trái tim, bề mặt phía trên màu lục vàng đến nâu tôi, bề mặt phía dưới màu lục xám hoặc nâu xám; bóp nát ra có màu tanh cá, vị hơi chát. Loại nào là nhiều, hoàn chỉnh, màu be hồng nhạt, mùi tanh cá đậm, không có tạp chất là loại tốt.
Bảo quản
Để nơi khô ráo, thoáng gió, phòng mốc.
Thành phần hóa học
Cả cây diếp cá chứa tinh dầu, trong đó, có nhóm aldehyd và các dẫn xuất ceton như methy-l-nnonyl ceton, nhóm terpen gồm a-pinen, camphen, limonen, linalol, caryophylen, geraniol…, các acid caprinic, acid hexade- canoic, acid palmitic, acid stearic,… alcaloid cordalin, các flavonoid như rutin, quercitrin…
Tác dụng dược lý
Lá diếp cá có tác dụng kháng trực khuẩn mủ xanh trong bệnh đau mắt, ức chế thần kinh trung ương, kéo dài thời gian gây ngủ, hạn chế co giật. Hoạt chất quercitrin trong diếp cá có tác dụng lợi tiểu mạnh. Alcaloid cordalin có tác dụng kích ứng da gây phồng rộp.
Tính vị qui kinh
Tính vị: Vị chua, tính hơi hàn Quy kinh: Túc quyết âm can Can, Thủ thái âm phế
Công dụng chủ trị
Có công hiệu thanh nhiệt giải độc, tiêu sưng tiêu mủ, lợi tiểu thông hạch. Phù hợp với các bệnh đau phổi nôn ra mủ, đờm nóng, ho suyễn, nhiệt lỵ nhiệt lâm, ung nhọt độc sưng viêm lở loét…
Bài thuốc
A- Theo Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu)
Chữa đơn sưng, cả người nóng, sốt, mẩn đỏ: Diếp cá, nhọ nồi, cải rừng, xương sống, dưa chuột, khế, đơn đỏ, huyết dụ, nhài, mía dò (tất cả dùng lá, mỗi thứ 15g), xích hoa xà (3 lá), bí đao (3 miếng), củ nâu (3 miếng). Tất cả giã nát, thêm nước, vắt lấy nước cốt uống, lấy bã xoa đều khắp chỗ sưng đỏ.
Chữa trĩ sưng đau: Diếp cá (50g) nấu với nước cho đặc, đem xông, rồi đợi khi nước còn ấm, rửa sạch trĩ, đắp bã vào chỗ đau. Nếu trĩ chảy máu, lấy diếp cá (2 phần), rễ bạch cập (1 phần), phơi khô, tán bột, ngày uống 6 – 12g, chia 2 – 3 lần.
B- Theo kinh nghiệm dân gian:
Chữa đái nhắt, đái buốt: Diếp cá (20g), rau má (20g), mã đề (10g). Tất cả dùng tươi, rửa sạch, giã nát, lọc lấy nước uống trong ngày.
Chữa sốt nóng, trẻ em sài giật: Diếp cá (8g), củ sả (6g), quả xuyên tiêu (2g). Tất cả giã nát, thêm nước, gạn uống, bã đắp vào thái dương.
Chữa sởi: Diếp cá (16g), rau dệu (16g), đậu chiều (12g), cam thảo đất (12g). Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày. Thuốc chủ yếu làm sỏi phát ra bên ngoài.
Chữa viêm ruột, kiết lỵ: Diếp cá (20g), xuyên tâm liên (16g), hoàng bá (8g). Thái nhỏ, sắc uống ngày một thang.
Chữa viêm tắc tia sữa: Diếp cá (20g), lá cải trời (20g). Hai thứ dùng tươi, giã nát, thêm nước nguội, vắt lấy nước cốt mà uống; đồng thời, lấy bã dược liệu chưng nóng với ít giấm, đắp
Cấm kỵ khi dùng thuốc:
Vị thuốc này uống lâu ngày sẽ làm cho người hư nhược, tổn thương dương khí, tiêu hao tinh tuỷ. Do vậy không được uống lâu dài.
Dùng cho người đau bụng, kiết lị, phân nhầy lẫn máu mủ.
Ngư tinh thảo tửu (rượu diếp cá)
Diếp cá 20g, cho 300ml nước sắc lấy 100ml, cho thêm 100ml rượu, sắc cho tới khi còn lại 100ml. Uống nóng ngày 2 lần: sớm, tối, mỗi lần 15 – 20ml.
Dùng cho người sau khi đẻ bị tụ huyêt, sinh ra bụng dưới luôn bị đau đớn, ác bộ cực ít, màu đen tim.
Ngư tinh thảo trà (trà Diếp cá)
Rau Diếp cá 30g – Đường phèn vừa phải
Rau Diếp cá sắc lấy nước, cho đường phèn vào, uống thay trà.
Dùng cho người bị nhiệt độc nhập vào phổi gây nên sốt mãi không lui, trong lòng lo sợ không yên, miệng lúc nào cũng khát thèm nước, hoặc buồn bực, đau bụng, tưa lưỡi vàng rộm lên v.v…
Diếp cá đậu xanh sắc lấy nước, cho đường phèn vào đun 1 lát cho tan đem uống. Ngày 1 thang, uống liền 3 – 4 thang.
Dùng cho người chớm mắc ho bách nhật.
Ngư tinh thảo báo trư phế (Diếp cá ninh phổi lợn)
Diếp cá tươn 60g (nếu khô cần 20g)
Phổi lợn 200g
Phổi lợn rửa sạch sắt miếng, bỏ hết bọt đi, nấu thang cùng với Diếp cá, cho vừa muối, uống thang ăn phổi.
Dùng cho người bị ho do phế nhiệt, đờm có máu mủ hôi thối, bị lòi dom đau đớn v.v…
Ngư tinh thảo bạn oa duẩn (nộm giáp cá oa duẩn)
Oa duẩn tươi 500g, ngắt bỏ lá, tước bỏ vỏ, rửa sạch, thái sợi dài 3 – 4cm, dùng muối ăn 1 gam bóp ướp cho ra nước để dùng sau. Rau giáp cá 100g, bỏ tạp chất và những cọng rể già, rửa sạch, chần qua nước sôi, vớt ra, bóp muối để dùng sau; xếp oa duẩn thái sợi lẽn đĩa, bỏ Diếp cá lên trên, cho thêm madi, mì chính, dầu vừng, giâm, bột gừng, hành hoa v.v… trộn đều, nếm vừa là được.
Oa duẩn: là 1 loài thực vật thân cỏ, lá tròn, dai, thân cây nạc, như hình búp măng, là món rau ăn thông thường ở Trung Quốc
Dùng cho người u phổi, đau ngực, đờm có mủ, tanh hôi, phổi nhiệt bị ho, đờm vàng đặc dính, viêm phế quản cấp tính, cảm nhiễm đường tiết niệu, đái dắt v.v…
Mụn trứng cá, phần nhiều gây ra do lỗ chân lông bị nhiễm vi trùng. Ngoài ra, tuyến bã nhờn phân tiết quá thịnh cũng là một trong nguyên nhân gây ra mụn. Trong giai đọạn thời thanh xuân, thanh thiếu niên nam nữ bị kích thích bởi kích tố hoóc-môn, chất nhờn tiết ra tăng nhiều. Nếu lỗ tiết chất nhờn bị bụi bặm hoặc bị phấn trang điểm làm tắc nghẽn lâu ngày. Như vậy, dưới lỗ hổng sẽ bị chứng viêm, mọc ra những mụn trứng cá. “Chư bệnh nguyên hậu luận” nói: Người da dẻ hư yếu, xoa phấn lên mặt khiến khí phấn thấu vào da thịt, dẫn đến sản sinh mụn trứng cá. Đó chính là chỉ về tình trạng lỗ chân lông bị tắc nghẽn.
Do chất nhờn phân tiết thái quá, vả lại mặt rửa không được sạch, dẫn đến sự sinh sôi của vi trùng, biểu bì vùng mặt sẽ sản sinh mủ. Bởi thế chúng ta cần chăm sóc tốt da dẻ tính nhờn, làm cho trở lại da dẻ bình thường.
Phải giữ gìn sạch sẽ nếu có mụn
Nguyên tố gây ra mụn trên mặt
Đặc điểm của mụn trứng cá là trên vùng mặt sinh ra nhiều mẩn mụn lớn nhỏ cỡ như mũi nhọn đầu cây kim hoặc cỡ hạt gạo, hoặc lộ ra chấm đầu đen, có thể nặn ra chất đục như bã phấn, hiện tượng này phần nhiều xảy ra ở những người thanh niên nam nữ
Chứng bệnh này trong “Nội kinh” đã cổ ghi chép lại. Cát Hồng đời Tấn trong “Trửu hậu phương” nói rằng: “Niên thiếu khí thịnh, mặt dễ sinh mụn trứng cá”i từ đó nhận thức được nguyên tố bên trong gây ra bệnh có quan hệ tới tuổi tác. Y học gia Trần Sĩ Đạc cho rằng mụn trứng cá, mụn cám là do “Phế nhiệt mà phải phong, cộng thêm khí huyết không hóa mà gây ra. Ông còn nói, tuy chứng bệnh này chẳng phải đại bệnh gì, nhưng những thư sinh, kiều nữ nếu bị bệnh này, sẽ có ảnh hưởng lớn về phong thái. Ông còn đề ra một phương thuốc làm tăng vẻ đẹp và trừ mụn, trong phương dùng Bột nhẹ, Hoàng cầm, Bạch chỉ, Bạch Phụ tử, Phòng phong mỗi vị một chỉ, đều tán thành bột mịn, hỗn hợp lại, cho mật ong vào trộn, quấy đều, mỗi buổi sáng lúc rửa mặt, dùng thuốc chà mặt vài lần và lúc trước khi ngủ, lại rửa sạch mặt và lấy thuốc chà lên mặt, không quá ba ngày mụn sẽ tự nhiên tiêu mất.
Cơ thể chất tố huyết nhiệt quá thịnh là nguyên tố căn bản của sự phát sinh ra mụn, ăn uống không điều độ và ngoại tà xâm vào đó cũng là điều kiện gây bệnh, khí huyết uất kết ứ trệ, thì bệnh sẽ nặng thêm.
Sức sống người thanh niên dồi dào, khí huyết đang thịnh, có người thì chất dương nhiệt thiên thịnh, khí huyết uất trệ, vì vậy rất dễ có mụn. Nếu ăn uống lại có sở thích thiên thực, nếu như trường kỳ ăn quá nhiều về món cá, thức ăn chứa nhiều dầu mỡ hoặc thức ăn ngọt, khiến vận hóa Trung tiêu khác thường, trợ dương hóa nhiệt, huyết tùy nhiệt hành, uất kết ổ vùng mặt, đó trở thành nguyên nhân trọng yếu của sự phát sinh mụn trứng cá trên mặt.
mụn trứng cá
Chứng trạng của mụn trứng cá và cách phòng ngừa
Mụn trứng cá thông thường có hai loại hình dưới đây:
Dạng tỳ vị ẩn nhiệt. Mụn mẫn màu đỏ hoặc hơi đỏ, lúc ban đầu mụn nổi ít, dần dần tăng nhiều, mụn nổi đầu đen, có thể nặn ra chất như bã phấn, da dẻ phần nhiều thuộc loại da nhờn. Đây là loại hình thường gặp nhất, thường có hiện tượng khô miệng, táo bón, lưỡi đỏ, nên dùng cách chữa trị bằng thanh tiết tích nhiệt trong trường vị.
Dạng khí huyết uất trệ. Mụn mẫn màu đỏ hoặc đỏ xạm. Giới nữ bị chứng trạng này, lúc có kinh nguyệt bệnh sẽ nặng thêm, sau kinh nguyệt bệnh tình sẽ giảm nhẹ. Giới nam bị chứng này sắc mặt đen xạm hoặc đỏ tím. Loại hình này thường gặp nhiều ở thanh niên giỏi nữ, nên dùng chữa trị bằng cách lương huyết thanh phế, hóa ứ lý khí.
Về mặt phòng ngừa, nên chú ý, cấm không được tay nặn hoặc đưa tay sờ lên mụn, ngày thường nên chú ý ít ăn thức ăn chứa nhiều dầu mỡ, cay nóng và ngọt. Thường ăn trái cây rau quả, duy trì đại tiện thông suốt. Lúc rửa mặt, nên dùng nước ấm, mà tránh dùng nước lạnh kích thích, để giảm bớt chất nhờn bám trên mặt, làm tắc nghẽn lỗ chân lông.
Những phương thuốc chữa mụn trứng cá
ĐÔNG QUỲ TÁN PHƯƠNG
(“Ngoại đài bí yếu”)
Hiệu quả:
Chữa niên thiếu khí thịnh, mặt nổi mụn.
Thành phần dược liệu:
Đông quỳ tử, Đông qua tử, Bá tử nhân, Phục linh, mỗi vị bằng nhau.
Cách thực hiện:
Đem bốn vị dược vật trên cùng nghiền thành bột mịn, thành dạng thuốc tán.
Cách dùng:
Mỗi lần dùng khoảng 3 gam pha với nước sôi nguội uóng. Uống ba lần một ngày.
Giải thích:
Phương thuốc này là một phương cổ nghiệm chuyên dùng chữa mụn trên mặt, có hiệu quả trị liệu tốt. Trong phương, Đông quỳ tử là hạt giống chín của cây Đông quỳ, thực vật thân thảo sống một năm hoặc sống nhiều năm của họ cẩm quỳ, có vị ngọt, tính hàn, trơn tru, có thể thông đại tiện, tiêu thủy khí (“Bản thảo cương mục”), có tác dụng lợi tiểu, thông lâm, còn có thể trị mụn trên mặt (“Bản thảo cương mục”). Đông qua tử là hạt trái bí đao, mùa hạ khắp nơi đều có, có tác dụng thanh nhiệt thấu thấp, hóa đờm loại mủ, nhất là thiện về thanh phế nhiệt, khu phong trong da dẻ (“Đại Minh bản thảo”). Bá tử nhân có nhiều chất béo, nên nhuận trường thông tiện. Ngoài ra, còn có thể trừ phong thấp (“Thần Nông bản thảo kinh”). Phục linh kiện tỳ lợi tiểu. Phương thuốc này có tác dụng khu phong, thanh nhiệt, lợi thấp, thông tiện. Dùng phương thuốc này có thể khu phong nhiệt trong phế, thanh thấp nhiệt, đại tiện thông suốt, nên chữa được mụn trên mặt. ‘
PHƯƠNG THUỐC CHỮA RÔM TRÊN MẶT
Hiệu quả:
Chữa rôm trên mặt, làm cho da mặt sáng mịn.
Thành phần dược liệu:
Rễ Thổ qua.
Cách thực hiện:
Đêm rễ Thổ qua giã nhuyễn, dùng Tương thủy điều hòa.
Cách dùng:
Mỗi đêm sau khi dùng Tương thủy rửa mặt, thoa thuốc lên mặt, đến sáng hôm sau rửa sạch mặt bằng nước ấm.
Giải thích:
Thổ qua còn gọi là “Vương qua” (“Thần Nông bản thảo kinh”). Trong cuốn “Bản thảo cựơng mục” Lý Thời Trân có nói rằng: “Trong tháng ba Vương qua nảy mầm,… tháng sáu, bảy có hoa vàng nhỏ nở thành từng chùm, ra quả nhiều… lúc chín có hai màu vàng đỏ”, rễ ăn được như rau cải, có mùi vị như Sơn dược và có thể nhập dược. Phương thuốc này chỉ yêu cầu dùng rễ của Thổ qua, vì nó không những thanh nhiệt giải độc tán kết, hoạt huyết hành ứ, mà còn có thể chữa vết nám và mụn da mặt (“Bản thảo cương mục”), đối với chứng rôm sảy trên mặt cũng có hiệu quả tốt. Ngoài ra còn có thể thông tiện. Thanh nhiệt tán ứ thì có thể cải thiện sự tuần hoàn máu của vùng mặt, khiến khí huyết không ủng trệ, thông tiện thì có giúp cho loại trừ tích nhiệt vùng mặt, nên chữa được rôm sảy trên mặt, đồng thời cũng có hiệu quả tốt đối với chứng mụn mặt. Hiệu quả làm. đẹp của phương này rất tốt.
PHƯƠNG CHỮA MỤN TRỨNG CÁ
(“Trửu hậu phương”)
Hiệu quả:
Chữa mụn trứng cá trên mặt.
Thành phần dược liệu:
Thỏ ty tử tươi.
Cách thực hiện:
Giã nát Thỏ ty tử, rồi vắt lấy nước dùng.
Cách dùng:
Lấy nước Thỏ ty tử thoa mặt.
Giải thích:
Phương này nguyên xuất xứ từ “Trửu hậu phương”, sau đó được các y gia sử dụng, đồng thời hơi có sự khác biệt nhau, như cuốn “Bản thảo cương mục” thì dùng “mầm non cây Thỏ ty tử vắt lấy nước thoa mặt”. Thỏ ty tử là hạt giống chín của cây cỏ dại Thỏ ty tử hoặc Đại Thỏ ty tử ký sinh sống một năm của họ Hoàn phúc hoa, có tác dụng ôn bổ thận dương, lại vừa ích thận tinh, dùng lâu ngày có thể loại trừ được vết nám trên mặt, làm đẹp tươi sắc mặt (theo “Dược tính luận”). Trung y học cho rằng, dùng nước lạnh rửa mặt, khí huyết gặp hàn, mát mà uất tắc thì dẫn đến nổi mụn trên mặt. Phương thuốc này ôn tán hành huyết, thông suốt kinh lạc, nên rất có hiệu quả đối với chứng mụn trứng cá trên mặt.
Thỏ ty tử
PHƯƠNG CHỮA MỤN TRÊN MẶT
(“Trửu hậu phương”)
Hiệu quả:
Chữa mụn trứng cá trên mặt, hiệu quả chữa trị tốt.
Thành phần dược liệu:
Giấm và Trứng gà.
Cách thực hiện:
Dùng Giấm ba năm tuổi ngâm Trứng gà ba đêm, đến quả trứng mềm ra có thể sử dụng được.
Cách dùng:
Vớt trứng ra, lấy lòng trắng trứng gà bôi lên chỗ bị nổi mụn.
Giải thích: .
Đây là phương thuốc là một nghiệm phương của Cát Hồng đời Tần dùng chữa thiếu niên khí thịnh, mặt nổi mụn. Trứng gà trong phương có tác dụng thanh nhiệt và lại lý khí huyết (“Bản thảo cương mục”). Lòng trắng trứng gà vị ngọt, tính hơi hàn. Lý Thời Trân nói: “Lòng trắng trứng gà hòa với bột Xích tiểu đậu loại được tất cả chứng nhiệt độc, đơn thũng, đau quai hàm rất có hiệu quả”, đồng thời còn chữa được mụn trứng cá trên mặt (“Bản thảo cương mục”). Phương này dùng lòng trắng trứng gà mà không dùng lòng đỏ trứng là vì lòng trắng trứng gà có tác dụng thanh nhiệt, mà lòng đỏ trứng gà tính ôn có tác dụng bổ huyết. Và phương này cũng yêu cầu dùng Giấm ba năm, là vì người xưa cho rằng, dùng Giấm chữa bệnh, thì Giấm lâu năm tốt hơn Giấm mới. Căn cứ sự ghi lại trong cuốn “Danh y biệt lục”, Giấm có thể “Tiêu ung thũng, tản thủy khí” và tác dụng tan máu ứ. Từ đó biết được phương thuốc này có công hiệu thanh nhiệt giải độc, tán ứ. Sau khi dùng phương thuốc này làm cho tích nhiệt ủng trệ ở vùng mặt được tiêu tán kết, khiến lỗ chân lông được thông suốt, cho nên mụn trên mặt tự nhiên lành khỏi.
HIỆU PHƯƠNG CỦA ĐÀO ẨN CƯ CHỮA MỤN
(“Bổ Tập Trửu Hậu Phương”)
Hiệu quả:
Chữa trị mụn trứng cá, hiệu quả chữa trị tốt.
Thành phần dược liệu:
Hoàng liên, Mẫu lệ, mỗi thứ 30 gam.
Cách thực hiện:
Đem hai vị dược vật trên tán nghiền thành bột nhuyễn sàng qua, dùng nước pha trộn với bột thành dạng hồ.
Cách dùng:
Dùng thuốc bôi lên chỗ nổi mụn.
Giải thích:
Phương thuốc này vốn xuất từ “Trửu Hậu Phương”, sau lại được thu nạp vào trong cuốn “Bổ Tập Trửu Hậu Phương”. Trong phương, Hoàng liên vị đắng, tính hàn, theo sự ghi chép trong cuốn “Chân Châu Nang” thì có thể “Khư thấp nhiệt trung tiêu”, “Khu phong thấp”, Các chứng mụn nhọt ắt dụng”, Vị thuốc này vừa thanh nhiệt táo thấp chữa trị thấp nhiệt, lại vừa tả hỏa giải độc, giỏi về thanh hỏa của tâm vị. Nghiên cứu dược lý hiện đại đã chứng minh, Hoàng liên có tác dụng kháng khuẩn.rộng rãi, mà còn ức chế được các khuẩn bì phu có tính gây bệnh. Mẫu lệ là vỏ óc của họ Mẫu lệ động vật. Có vị mặn tính hàn, chữa được tất cả mụn nhọt (Theo “Thang Dịch Bản Thảo”). Lý Thời Trân nói rằng vị thuốc này “hóa đờm nhuyễn kiên, thanh nhiệt trừ thấp”. Phương này tuy rằng dược vật không nhiều, chỉ hai vị, nhưng lại có thể thanh nhiệt lợi thấp, giải độc tiêu sưng, nên chữa lành chứng mụn nhọt gây ra bởi thấp nhiệt thượng phạm, công năng sơ tiết của cơ bắp mất thăng bằng. Đối với loại da chất nhờn nhiều, xuất hiện mụn mủ, có hiệu quả chữa trị rất tốt.
Hoàng liên
KINH GIỚI LIÊN Klèu THANG
(“Thẩm Thị Tôn Sinh Thư Phương”)
Hiệu quả:
Chữa mụn trứng cá, làm cho da mặt nhẵn mịn và trị gàu.
Thành phần dược liệu:
Kinh giới, Liên kiều, Phòng phong, Đương qui, Xuyên khung, Bạch thược, Sài hồ, Hoàng cầm, Chỉ xác, Sơn chi, Bạch chỉ, Cát cánh, mỗi thứ 12 gam. Cam thảo 6 gam.
Cách thực hiện:
Cho tất cả dược vật trên vào nồi, thêm lượng nước vừa phải vào sắc cô.
Cách dùng:
Uống nước thuốc, 3 lần một ngày.
Giải thích:
Phương này thích hợp với những người mặt nổi mụn trứng cá, da dẻ vùng mặt nổi sắc hồng, đồng thời trên da đầu có gàu nhiều, đầu lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng mỏng. Phương thuốc này do loại dược vật sơ phong thanh nhiệt hợp thành. Trong phương, Kinh giới, Phòng phong, Bạch chỉ, Liên kiều, Cát cánh đều khai tuyên phế khí, sơ tán phong nhiệt. Hoàng cầm, Sơn chi có thể thanh nhiệt lợi thấp, nhất là Hoàng cầm giỏi về thanh tả phế nhiệt. Chỉ xác hành khí đẩy mạnh sự vận hành của khí huyết. Đương qui, Xuyên khung dưỡng huyết hoạt huyết. Cam thảo thanh nhiệt tả hỏa, điều thuốc hộ vị. Toàn phương hợp dùng có tác dụng tuyên tán phong nhiệt phế kinh, sơ can thanh nhiệt lợi thấp. Trung y cho rằng phế kinh có nhiệt, ngoại phong tà, khiến phế nhiệt uất kết ở da mà không thể hướng ngoài tuyên tiết tốt và chứng thấp nhiệt tà bệnh uất trệ ở da, đều có thể dẫn đến chứng mụn mặt lại vừa có gàu nhiều, sau khi dùng phương thuốc này có thể thu được hiệu quả gấp đôi, chữa lành cùng một lúc chứng mụn mặt và gàu nhiều trên da đầu.
THANH THƯỢNG PHÒNG PHONG THANG
(“Thẩm Thị Tôn Sinh Thư Phương”)
Hiệu quả:
Chữa mụn trứng cá và mụn ghẻ nhiệt độc trên mặt.
Thành phần dược liệu:
Phòng phong 12 gam, Liên kiều 10 gam, Bạch chỉ 10 gam, Cát cánh 10 gam, Hoàng cầm 6 gam, Hoàng liên 6 gam, Kinh giới 12 gam, Chi tử 12 gam, Chỉ xác 12 gam, Xuyên khung 9 . gam, Bạc hà 6 gam, Cam thảo 3 gam.
Cách thực hiện:
Cho tất, cả dược vật vào nồi với lượng nước vừa đủ, sắc lấy nước, bỏ bã thuốc.
Cách dùng:
Mỗi lần lấy 5 muỗng cà phê nước thuốc pha với Trúc lịch để uống. Uống 3 lần một ngày.
Giải thích:
Phương thuốc này thích cho những người có chứng mụn, nhọt ghẻ trên mặt, có kèm hiện tượng da mặt có chất nhờn hơi nhiều, mặt dễ bị sung huyết, sắc diện thường xuyên vì phát sốt mà nổi sắc hồng trên má, có hiện tượng táo bón, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng. Phương thuốc này có thể thanh tả nhiệt tà ở Thượng tiêu (Thượng tiêu là chỉ bộ vị của phần trên ngực hoành mô cách của cơ thể con người). Trong phương, Liên kiều, Hoàng liên, Hoàng cầm, Chi tử có tác dụng mạnh về tả hỏa giải độc, thanh nhiệt lợi tiểu. Trong đó Liên kiều rất giỏi về thanh tâm hỏa, như cuốn “Chần Châu Nang” nói: Liên kiều có ba công dụng một là tả khách nhiệt ở Tâm kinh, hai là khử chú nhiệt ở Thượng tiêu, ba là thánh dược sang gia. Hoàng liên giỏi về thanh tả hỏa của Tâm vị, cũng là vị thuốc “Chư sang ắt dụng” (“Chân Châu Nang”). Kinh giỏi, Phòng phong, Bạc hà, Cát cánh có thể khai tuyên phế khí, sơ tán phong nhiệt Thượng tiêu, làm cho nhiệt độc uẩn kết tiêu tán ra ngoài. Bạch chỉ tán kết tiêu sưng. Chỉ xác, Xuyên khung hành khí hoạt huyết, khiến khí huyết thông suốt. Cam thảo vừa thanh nhiệt giải độc, lại vừa điều hòa các vị thuốc. Toàn phương hợp dùng có tác dụng sơ phong thanh nhiệt, giải độc lợi thấp, hoạt huyết tán kết. Trung y cho rằng sự phát sinh của mụn trứng cá, mụn ghẻ có liên quan với Phế nhiệt, Vị nhiệt. Phương thuốc này vừa sơ tán phế nhiệt, lại vừa thanh lợi thấp nhiệt Trường Vị, nên chữa được mụn trứng cá và mụn ghẻ. Ngoài ra, phương này còn có thể chữa táo bón, càng làm tăng hiệu quả chữa mụn.
Calcitriol, một trong những chất chuyển hóa có hoạt tính của vitamine D3, bình thường được tạo thành ở thận từ một tiền chất của nó là 25-hydroxycholécalciférol (25-HCC). Bình thường, lượng chất này được hình thành mỗi ngày là 0,5-1,0 mg, và tăng nhiều hơn trong giai đoạn mà sự tạo xương tăng cao (chẳng hạn trong giai đoạn tăng trưởng hoặc lúc có thai). Calcitriol làm thuận lợi cho sự hấp thu calci ở ruột và điều tiết sự khoáng hóa xương.
Calcitriol đóng vai trò chủ chốt trong sự điều hòa bất biến nội môi của calci, đồng thời kích thích sự tạo xương, đây là một cơ sở dược lý cho tác động điều trị chứng loãng xương.
Ở bệnh nhân bị suy thận nặng, sự tổng hợp calcitriol nội sinh giảm và có thể ngưng hoàn toàn.
Thiếu calcitriol trong trường hợp này là nguyên nhân chính gây loạn dưỡng xương do thận.
Ở bệnh nhân bị loãng xương do thận, Rocaltrol uống làm bình thường hóa sự hấp thu calci vốn đã bị suy giảm ở ruột, như thế điều chỉnh tình trạng hạ calci huyết và các nồng độ cao trong huyết thanh của phosphatase kiềm và hormone cận giáp. Rocaltrol làm giảm các chứng đau xương và cơ, điều chỉnh các tình trạng sai lệch về mô học ở bệnh viêm xương xơ hóa và rối loạn khác của sự khoáng hóa.
Ở những bệnh nhân bị thiểu năng tuyến cận giáp sau phẫu thuật, thiểu năng tuyến cận giáp tự phát hay thiểu năng tuyến cận giáp giả, dùng Rocaltrol sẽ làm giảm hạ calci huyết cũng như cải thiện các triệu chứng trên lâm sàng.
Ở những bệnh nhân bị còi xương có đáp ứng với vitamine D, nồng độ của calcitriol trong huyết thanh thấp, thậm chí không có. Do việc tạo calcitriol nội sinh ở thận không đủ, việc dùng Rocaltrol phải được xem như là một trị liệu thay thế.
Ở những bệnh nhân bị còi xương không đáp ứng với vitamine D (còi xương giảm phosphate huyết nguyên phát), phối hợp với nồng độ calcitriol thấp trong huyết tương, việc điều trị bằng Rocaltrol làm giảm sự đào thải phosphate qua ống thận và bình thường hóa việc hình thành xương do bổ sung nguồn phosphore.
Ngoài ra, việc điều trị bằng Rocaltrol tỏ ra có ích ở những bệnh nhân bị các dạng còi xương khác, chẳng hạn còi xương có liên quan đến viêm gan ở trẻ sơ sinh, thiếu phát triển đường mật, bệnh loạn dưỡng cystine hoặc việc cung cấp calci và vitamine D qua thức ăn không đầy đủ.
DƯỢC ĐỘNG HỌC
Hấp thu:
Calcitriol được hấp thu nhanh ở ruột. Sau khi uống liều duy nhất 0,25 đến 1 mg Rocaltrol, các nồng độ tối đa đạt được sau 3 đến 6 giờ.
Sau khi uống lặp lại nhiều lần, nồng độ của calcitriol trong huyết thanh đạt tình trạng cân bằng sau 7 ngày.
Phân phối:
Hai giờ sau khi uống liều duy nhất 0,5 mg Rocaltrol, các nồng độ trung bình trong huyết thanh của calcitriol tăng từ 40,0 +/- 4,4 pg/ml đến 60,0 +/- 4,4 pg/ml, và giảm còn 53,0 +/- 6,9 pg/ml sau 4 giờ, 50 +/- 7,0 pg/ml sau 8 giờ, 44 +/- 4,6 pg/ml sau 12 giờ và 41,5 +/- 5,1 pg/ml sau 24 giờ.
Calcitriol và các chất chuyển hóa khác của vitamine D liên kết với những protéine chuyên biệt của huyết tương trong quá trình vận chuyển trong máu.
Calcitriol có nguồn gốc ngoại sinh qua được hàng rào nhau thai và bài tiết qua sữa mẹ.
Chuyển hóa:
Nhiều chất chuyển hóa khác nhau của calcitriol, thể hiện các tác động khác nhau của vitamine D, đã được nhận dạng: 1a,25-dihydroxy-24-oxo-cholécalciférol, 1a,24R,25-trihydroxy-24-oxo- cholécalciférol, 1a,24R,25-trihydroxycholécalciférol, 1a,25R-dihydroxycholécalciférol-26,23S- lactone, 1a,25S,26-trihydroxycholécalciférol, 1a,25-dihydroxy-23-oxo-cholécalciférol, 1a,25R,26-trihydroxy-23-oxo-cholécalciférol và 1a-hydroxy-23-carboxy-24,25,26,27- tétranorcholécalciférol.
Đào thải:
Thời gian bán hủy đào thải của calcitriol khoảng 9 đến 10 giờ. Tuy nhiên thời gian duy trì tác dụng dược lý của một liều duy nhất khoảng 7 ngày. Calcitriol được bài tiết qua mật và chịu ảnh hưởng của chu kỳ gan-ruột. 24 giờ sau khi tiêm tĩnh mạch calcitriol được đánh dấu phóng xạ ở người khỏe mạnh, khoảng 27% hoạt tính phóng xạ được tìm thấy trong phân và khoảng 7% trong nước tiểu. 24 giờ sau khi uống liều 1 mg calcitriol được đánh dấu phóng xạ ở người khỏe mạnh, khoảng 10% liều calcitriol có đánh dấu được tìm thấy trong nước tiểu. Lượng đào thải tổng cộng của hoạt tính phóng xạ trong 6 ngày sau khi tiêm tĩnh mạch calcitriol được đánh dấu phóng xạ chiếm khoảng 16% trong nước tiểu và 36% trong phân.
CHỈ ĐỊNH
Loãng xương sau mãn kinh.
Loạn dưỡng xương do thận ở bệnh nhân bị suy thận mãn, đặc biệt ở bệnh nhân làm thẩm phân máu.
Thiểu năng tuyến cận giáp sau phẫu thuật. Thiểu năng tuyến cận giáp nguyên phát.
Thiểu năng tuyến cận giáp giả.
Còi xương đáp ứng với vitamine D.
Còi xương kháng với vitamine D, kèm theo giảm phosphate huyết.
CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Chống chỉ định Rocaltrol (hoặc tất cả các thuốc cùng nhóm) trong những chứng bệnh có liên quan đến tăng calci huyết, cũng như khi có quá mẫn cảm với một trong những thành phần của thuốc.
Rocatrol cũng bị chống chỉ định nếu có dấu hiệu rõ ràng ngộ độc vitamine D.
THẬN TRỌNG LÚC DÙNG
Giữa việc điều trị bằng calcitriol và tăng calci huyết có mối tương quan chặt chẽ. Trong các nghiên cứu trên bệnh loạn dưỡng xương có nguồn gốc do thận, có gần 40% bệnh nhân được điều trị bằng calcitriol có tăng calci huyết. Nếu tăng đột ngột cung cấp calci do thay đổi thói quen ăn uống (như ăn hoặc uống nhiều sản phẩm chế biến từ sữa) hoặc dùng không kiểm soát các thuốc có chứa calci có thể sẽ gây tăng calci huyết. Nên khuyên bệnh nhân chấp hành tốt chế độ ăn uống và thông báo cho bệnh nhân về những triệu chứng của tăng calci huyết có thể xảy ra.
Bệnh nhân nằm bất động lâu ngày, chẳng hạn sau phẫu thuật, dễ có nguy cơ bị tăng calci huyết. Bệnh nhân có chức năng thận bình thường, nếu xảy ra tăng calci huyết mãn tính có thể sẽ phối hợp với tăng creatinine huyết thanh.
Đặc biệt thận trọng khi dùng cho bệnh nhân có tiền sử bị sỏi thận hoặc bệnh mạch vành. Calcitriol làm tăng nồng độ các phosphate vô cơ trong huyết thanh. Trong khi tác dụng này được mong muốn ở những bệnh nhân bị hạ phosphate huyết, cần phải thận trọng ở bệnh nhân bị suy thận, do nguy cơ gây vôi hóa lạc chỗ. Trong những trường hợp này, nên duy trì nồng độ phosphate trong huyết tương ở mức bình thường (2 đến 5 mg/100 ml, tương ứng 0,65 đến 1,62 mmol/l) bằng cách dùng các chất tạo phức chelate với phosphore như hydroxyde hay carbonate aluminium.
Ở bệnh nhân bị còi xương kháng vitamine D (còi xương giảm phosphate huyết gia đình) và được điều trị bằng Rocaltrol, nên tiếp tục dùng thêm phosphate bằng đường uống. Tuy nhiên cũng nên lưu ý đến khả năng Rocaltrol có thể kích thích sự hấp thu phosphate ở ruột, vì điều này có thể làm thay đổi nhu cầu về phosphate bổ sung.
Nên đều đặn kiểm tra nồng độ calci, phosphore, magnésium và phosphatase kiềm trong huyết thanh, cũng như nồng độ của calci và phosphate trong nước tiểu trong 24 giờ. Trong giai đoạn đầu điều trị bằng Rocaltrol, nên kiểm tra nồng độ calci trong huyết tương ít nhất 2 lần mỗi tuần (xem Liều lượng và Cách dùng).
Calcitriol là chất chuyển hóa có hoạt tính mạnh nhất của vitamine D, do đó không nên dùng kèm thêm những thuốc khác có chứa vitamine D trong thời gian điều trị bằng Rocaltrol, nhằm tránh tình trạng tăng vitamine D bệnh lý có thể xảy ra.
Nếu chuyển từ điều trị bằng ergocalciférol (vitamine D2) qua điều trị bằng calcitriol, có thể cần phải đến nhiều tháng để nồng độ ergocalciférol trở về giá trị ban đầu (xem Quá liều).
Bệnh nhân có chức năng thận bình thường được điều trị bằng Rocaltrol cần lưu ý tình trạng mất nước có thể xảy ra, và nên uống đủ nước.
LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ
Các nghiên cứu về độc tính trên thú vật không cho các kết quả thuyết phục, không có những nghiên cứu có kiểm soát tương đối ở người về tác dụng của calcitriol có nguồn gốc ngoại sinh trên thai kỳ và sự phát triển của bào thai. Do đó, chỉ sử dụng Rocaltrol khi lợi ích điều trị cao hơn nhiều so với nguy cơ có thể xảy ra cho bào thai.
Calcitriol có nguồn gốc ngoại sinh được bài tiết qua sữa mẹ, có thể gây những tác dụng không mong muốn cho trẻ, do đó không nên cho con bú trong thời gian điều trị với Rocaltrol.
TƯƠNG TÁC THUỐC
Calcitriol là một trong những chất chuyển hóa chính có hoạt tính của vitamine D, do đó không nên phối hợp thêm với vitamine D hay các dẫn xuất, nhằm tránh tác dụng cộng lực có thể xảy ra với nguy cơ tăng calci huyết.
Nên chấp hành tốt lời khuyên của bác sĩ về chế độ ăn uống, chủ yếu các thức ăn có thể cung cấp nhiều calci, tránh dùng các thuốc có chứa calci.
Dùng đồng thời với thuốc lợi tiểu thiazide làm tăng nguy cơ tăng calci huyết ở bệnh nhân bị thiểu năng tuyến cận giáp. Ở những bệnh nhân đang được điều trị bằng digitalis, nên xác định liều calcitriol một cách cẩn thận, do tăng calci huyết có thể phát động loạn nhịp.
Có một sự đối kháng về chức năng giữa các chất giống vitamine D và corticoide: các chất giống vitamine D tạo thuận lợi cho sự hấp thu calci, trong khi corticoide thì ức chế quá trình này.
Để tránh tăng magnesium huyết, tránh dùng cho những bệnh nhân phải chạy thận mãn tính những thuốc có chứa magnesium (như các thuốc kháng acide) trong thời gian điều trị bằng Rocaltrol.
Calcitriol cũng tác động lên sự vận chuyển phosphate ở ruột, ở thận và ở xương ; dùng các thuốc tạo phức chelate với phosphate phải được điều chỉnh theo nồng độ trong huyết thanh của phosphate (giá trị bình thường: 2-5 mg/100 ml, tương ứng 0,6-1,6 mmol/l).
Ở những bệnh nhân bị còi xương kháng vitamine D (còi xương giảm phosphate huyết gia đình), cần tiếp tục dùng phosphate bằng đường uống. Tuy nhiên cũng nên lưu ý rằng calcitriol có thể kích thích sự hấp thu phosphate ở ruột, do đó có thể làm giảm nhu cầu về phosphate bổ sung. Dùng các thuốc gây cảm ứng men như ph nytoine hay phénobarbital có thể làm tăng sự chuyển hóa của calcitriol và như thế làm giảm nồng độ của chất này trong huyết thanh.
Colestyramine có thể làm giảm sự hấp thu các vitamine tan trong dầu và như thế cũng ảnh hưởng đến sự hấp thu của calcitriol.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN
Rocaltrol không gây một tác dụng không mong muốn nào nếu không dùng quá nhu cầu của cơ thể. Tuy nhiên, cũng như vitamine D, nếu dùng Rocaltrol liều quá cao có thể gây những tác dụng không mong muốn tương tự như khi quá liều vitamine D: hội chứng tăng calci huyết hoặc ngộ độc calci, tùy theo mức độ và thời gian tăng calci huyết.
Nếu đồng thời bị tăng calci huyết và tăng phosphate huyết (> 6 mg/100 ml, hay > 1,9 mmol/l) có thể sẽ gây vôi hóa các phần mềm, có thể nhận thấy qua tia X.
Do có thời gian bán hủy ngắn, việc bình thường hóa một nồng độ cao của calci trong huyết tương chỉ cần khoảng vài ngày sau khi ngưng thuốc, nhanh hơn rất nhiều so với vitamine D3.
LIỀULƯỢNGvàCÁCHDÙNG
Liều thông thường:
Phải xác định cẩn thận liều tối ưu hàng ngày của Rocaltrol cho từng bệnh nhân theo calci huyết. Việc điều trị bằng Rocaltrol phải luôn luôn bắt đầu ở liều khuyến cáo thấp nhất có thể được và chỉ tăng khi có sự kiểm soát chặt chẽ calci huyết.
Ngay khi đã tìm được liều tối ưu của Rocaltrol, phải kiểm tra calci huyết mỗi tháng (hoặc theo các đề nghị phía dưới, cho những chỉ định khác nhau). Khi lấy máu để định lượng calci phải được thực hiện không có dây thắt garrot.
Ngay khi nồng độ calci trong huyết thanh vượt quá 1 mg/100ml (hay 0,25 mmol/l) giá trị bình thường (9-11 mg/100 ml, hay 2,25-2,75 mmol/l), cần phải giảm liều hoặc tạm thời ngưng dùng Rocaltrol cho đến khi calci huyết trở về bình thường.
Trong thời gian bệnh nhân bị tăng calci huyết, phải kiểm tra nồng độ calci và phosphate trong huyết thanh hàng ngày. Khi các giá trị trở về bình thường, có thể dùng trở lại Rocaltrol với liều thấp hơn 0,25 mg so với dùng trước đó.
Để Rocaltrol có hiệu lực tối ưu, trong giai đoạn đầu bệnh nhân phải được bổ sung một lượng calci đầy đủ, nhưng không được nhiều quá.
Ở người lớn, liều calci hàng ngày (có nguồn gốc từ thức ăn và thuốc) vào khoảng 800 mg, không được vượt quá 1000 mg.
Do làm cải thiện sự hấp thu calci ở ống tiêu hóa, có thể giảm lượng calci trong thức ăn và thức uống ở những bệnh nhân được điều trị bằng Rocaltrol. Bệnh nhân có khuynh hướng tăng calci huyết chỉ cần dùng liều thấp calci, thậm chí không cần bổ sung calci.
Các hướng dẫn đặc biệt về liều lượng: Loãng xương sau mãn kinh:
Liều khuyến cáo là 0,25 mg, 2 lần/ngày, uống thuốc không nhai. Ở bệnh nhân được cung cấp dưới 500 mg calci từ thức ăn, nên kê toa thêm calci. Lượng calci cung cấp hàng ngày không vượt quá 1000 mg.
Nồng độ calci và créatinine trong huyết thanh phải được kiểm tra vào tuần thứ 4, tháng thứ 3 và tháng thứ 6, sau đó mỗi 6 tháng.
Loạn dưỡng xương có nguồn gốc do thận (bệnh nhân phải chạy thận):
Liều khởi đầu hàng ngày là 0,25 mg. Ở người có calci huyết bình thường hay hạ calci huyết nhẹ, dùng liều 0,25 mg mỗi 2 ngày là đủ. Nếu các thông số lâm sàng và sinh hóa không tiến triển theo chiều hướng tốt sau khoảng 2 đến 4 tuần, có thể tăng liều hàng ngày thêm 0,25 mg cách khoảng sau 2 đến 4 tuần. Trong giai đoạn này, cần kiểm tra nồng độ calci trong huyết tương ít nhất 2 lần mỗi tuần. Đa số bệnh nhân có đáp ứng tốt với liều từ 0,5 đến 1 mg/ngày. Có thể cần dùng liều cao nếu có phối hợp với barbiturate hay các thuốc chống động kinh.
Thiểu năng tuyến cận giáp và còi xương:
Liều khởi đầu được khuyến cáo là 0,25 mg/ngày, uống vào buổi sáng. Nếu các thông số lâm sàng và sinh hóa không tiến triển theo chiều hướng tốt, có thể tăng liều hàng ngày thêm 0,25 mg cách khoảng sau 2 đến 4 tuần. Trong giai đoạn này, cần kiểm tra nồng độ calci trong huyết tương ít nhất 2 lần mỗi tuần.
Ở bệnh nhân bị thiểu năng tuyến cận giáp, đôi khi ghi nhận có hội chứng kém hấp thu ; trong những trường hợp này, dùng liều cao Rocaltrol tỏ ra có hiệu quả.
Nhũ nhi và trẻ em:
Để điều trị cho nhũ nhi và trẻ em, có thể dùng Rocaltrol dưới dạng dung dịch. Như đối với người lớn, liều tối ưu hàng ngày phải được xác định theo nồng độ calci huyết.
Ở trẻ em có tỉ lệ lọc ở cầu thận dưới 25% so với bình thường, nên dùng Rocaltrol với mục đích dự phòng. Nếu thể trọng < 20 kg, liều Rocatrol là: 0,01-0,03 mg/kg thể trọng/ngày ; nếu thể trọng > 20 kg: 0,25 mg/ngày.
Để điều trị còi xương có nguồn gốc do thận, liều khởi đầu được khuyến cáo trong 2 năm tuổi đầu là 0,01-0,1 mg/kg thể trọng, không được vượt quá 2 mg/ngày.
Trường hợp còi xương không đáp ứng với vitamine D, có thể cần dùng đến liều cao hơn, được xác định tùy theo nguyên nhân gây bệnh.
QUÁ LIỀU
Điều trị tăng calci huyết không có triệu chứng: xem trong mục “Các hướng dẫn đặc biệt về liều lượng”.
Calcitriol là một chất chuyển hóa của vitamine D, tất cả các trường hợp quá liều Rocaltrol sẽ cho những triệu chứng lâm sàng tương tự như đối với quá liều vitamine D. Nếu đồng thời có uống nhiều calci và phosphate với Rocaltrol, có thể gây các triệu chứng tương tự. Nồng độ calci cao trong dịch thẩm tách phản ảnh có tăng calci huyết.
Dấu hiệu ngộ độc cấp tính vitamine D: chán ăn, nhức đầu, buồn nôn, táo bón.
Dấu hiệu ngộ độc mãn tính: loạn dưỡng (yếu ớt, sụt cân), rối loạn các giác quan, có thể bị sốt kèm theo khát, đa niệu, mất nước, vô cảm, ngưng tăng trưởng và nhiễm trùng đường tiểu. Ngộ độc mãn tính sẽ gây tăng calci huyết thứ phát với vôi hóa vỏ thận, cơ tim, phổi và tụy tạng.
Các biện pháp điều trị quá liều do uống nhầm bao gồm: rửa dạ dày lập tức hoặc gây nôn để tránh hấp thu thuốc vào máu. Dùng dầu paraffine để làm tăng đào thải thuốc qua phân. Tiến hành kiểm tra nhiều lần calci huyết. Nếu calci huyết vẫn còn cao, có thể dùng phosphate và corticoide, và dùng các biện pháp tăng bài niệu thích hợp.
Bìm bìm, Bìm bìm đất – Merremia bimbim (Gagnep.) van Ooststr. (lpomoea bimbim Gagnep.), thuộc họ Khoai lang – Convolvulaceae.
Mô tả: Dây leo cao, thân to đến 5cm; cành non có lông mịn. Lá có phiến hình tim tròn, to 15 x 15cm, gân phụ gần nhau ở gốc, mặt trên như không lông, gân lõm, mặt dưới như nhung vàng; cuống dài 11cm, có lông mịn. Cụm hoa dài 18cm, chuỳ nhánh dài 4-5cm, lá bắc như kim; dài 4mm; tràng hoa vàng, cao 3cm; bao phấn 3-4mm; bầu 2 ô 2 noãn; đầu nhuỵ tròn.
Bộ phận dùng: Hạt – Semen Merremiae.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc ở một số nơi ở miền Bắc: Hà Nội, Nam Hà.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Hạt nghiền ra làm thuốc uống trừ giun, lợi tiểu và chống tiết mật.
Bìm bìm ba răng
Ở Ấn Độ, cây và rễ sắc uống dùng chữa thấp khớp, liệt nửa người, trĩ, sưng phù và các rối loạn đường tiết niệu. Ở Campuchia, nhân dân một số nơi sử dụng toàn cây để chế một loại thuốc dùng trị đau mình mẩy. Ở nước ta nhân dân sử dụng Bìm bìm ba răng phối hợp với các vị thuốc khác dùng chữa sốt rét và chữa ban xuất huyết.
Bìm bìm ba răng hay Dây lưỡi đòng – Xenostegia tridentata (L.) D.F. Austin et Staples (Merremia trilentata (L.) Hall.f.) thuộc họ Khoai lang – Comvolvulaceae.
Mô tả: Cây leo thuộc thảo, không quấn. Thân mịn, không lông. Lá hẹp, gốc hình tim và có 2 tai ở hai bên, mỗi tai có 3 răng. Cụm hoa gồm 1-2 hoa. Hoa màu vàng vàng sữa, với trung tâm đỏ; lá đài bằng nhau; nhị đính gần gốc. Quả nang cao 7mm. Hạt không có lông. Ra hoa quanh năm.
Bộ phận dùng: Toàn dây – Herba Xenostegiae.
Nơi sống và thu hái: Loài liên nhiệt đới, gặp thông thường ở nhiều nơi vùng đồng bằng ở sân cỏ, trên cát từ vùng thấp đến độ cao 500m.
Tính vị, tác dụng: Vị đắng, se, có tác dụng tăng trương lực và nhuận tràng.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Ấn Độ, cây và rễ sắc uống dùng chữa thấp khớp, liệt nửa người, trĩ, sưng phù và các rối loạn đường tiết niệu. Ở Campuchia, nhân dân một số nơi sử dụng toàn cây để chế một loại thuốc dùng trị đau mình mẩy. Ở nước ta nhân dân sử dụng Bìm bìm ba răng phối hợp với các vị thuốc khác dùng chữa sốt rét và chữa ban xuất huyết. Bìm bìm ba răng, Dây chân chó, Cây keo ta, Cây đầu ma, Cành lá me nước, Gừng sống. Thường sơn (lá to, hoa nâu) liều lượng bằng nhau, sắc nước uống trường phục. Khi dùng, kỵ ăn măng tre. (An Giang).
Bìm bìm ba thuỳ
Bìm bìm ba thuỳ – Ipomoea triloba L., thuộc họ Khoai lang – Convolvulaceae.
Mô tả: Cây thảo leo quấn, thân mảnh có khía. Lá có phiến có ba thuỳ, gốc hình tim, không lông, dài 3-6cm, rộng 2-5cm, hơi có mũi, với tai tròn; cuống dài 3-5cm. Tán ít hoa; hoa cao 2cm; dài cao 8mm, mép có rìa lông; tràng hồng, nhị 5, chỉ gắn gần gốc ống tràng. Quả nang tròn hơi dẹp, đường kính 7mm, có lông, chia 4 van: 3-4 hạt nâu, có ít lông ở các góc, dài 3,5mm.
Bộ phận dùng: Lá – Folium Ipomoeae.
Nơi sống và thu hái: Cây mọc ở bờ rào, lùm bụi ở đồng bằng tới độ cao 700m, khắp nước ta. Hình 113. Bìm bìm ba thuỳ Cành mang hoa; hoa; quả Thành phần hoá học: Có nhựa.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Malaixia, lá cây được dùng đắp trị đau đầu.
Bìm bìm cảnh
Bìm bìm cảnh – Ipomoea cairica (L.) Sweet, thuộc họ Khoai lang – Convolvuaceae.
Mô tả: Cây thảo lâu năm, có rễ củ, thân nhỏ, mọc leo dài 3-6m. Lá do 5 lá chét, khụng lụng, xẻ sâu đến tận cuống lá. Cụm hoa ít hoa; hoa to, màu tim tím; lá đài gần như nhau; tràng vặn; nhị đính trên ống tràng. Quả nang to 1cm, chứa 4 hạt cao 5-6mm.
Cây ra hoa từ tháng 5 tới tháng 12.
Bộ phận dùng: Toàn cây – Herba Ipomoeae.
Nơi sống và thu hái: Loài cổ nhiệt đới, mọc hoang và cũng được trồng làm hàng rào vì có hoa đẹp. Thu hái toàn cây quanh năm. Rửa sạch, cắt ngắn từng đoạn, dùng tươi hay phơi khô cất dành.
Thành phần hoá học: Hạt chứa một hợp chất glucosid màu vàng nhạt là muricatin A có tính xổ, dầu béo 11,5%, một chất không xà phòng hoá chứa -sitosterol.
Tính vị, tác dụng: Vị ngọt, tính hàn, hơi có độc, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu. Rễ củ và thân có vị đắng. Rễ và lá đều có tính sinh xanh tím.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Dân gian thường dùng lá đâm rịt trị bệnh đầu voi. Ở Hawai, người ta dùng rễ củ và thân để ăn. Ở Ấn Độ, người ta dùng lá giã ra xoa đắp trên cơ thể người bị ban; hạt được dùng làm thuốc xổ. Ở Trung Quốc, người ta dùng trị: 1. Ho do bệnh về phổi; 2. Giảm niệu, đái ra máu; 3. Phù thũng. Dùng liều 5-12g dạng thuốc sắc. Không dùng cho người bị yếu ốm. Dùng ngoài trị đinh nhọt, viêm mủ da, đòn ngã tổn thương, giã cây tươi đắp vào chỗ đau.
Bìm bìm chân cọp
Bìm bìm chân cọp hay Cây chân chó – Ipomoea pes-tigridis L., thuộc họ Khoai lang – Convolvulaceae.
Mô tả: Cây thảo hàng năm, cứng quấn, mọc bò hay leo, dầy lông cứng. Lá hình chân vịt, dài 3- 5cm, rộng 5-6cm, có 7-9 thuỳ hình ngọn giáo, nhọn sắc ở đỉnh, thon lại và rất hẹp ở phía gốc, dài 25- 40mm, rộng ở khoảng giữa 15-25mm, với những lông trắng nằm ở cả hai mặt; cuống là dài 2-5cm, có lông cứng. Hoa hồng hay trắng, khoảng 10 cái, xếp thành đầu gần hình cầu có cuống dài ở nách lá, có lá bắc tạo thành bao chung, có lông mềm màu trắng. Quả nang xám, hình cầu đường kính 8mm, bao bởi đài hoa cùng lớn lên với quả, có 4 van. Hạt 4, màu hung nâu, có 3 góc và lún phún lông tơ.
Bộ phận dùng: Rễ, hạt và lá – Radix, Semen et Folium Ipomoeae.
Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Ấn Độ, Inđônêxia, Thái Lan, Philippin, Việt Nam… Mọc khá phổ biến ở nước ta, dọc theo đường đi, đất hoang ráo vùng đồng bằng. Thường dùng tươi.
Thành phần hoá học: Có nhựa.
Tính vị, tác dụng: Rễ xổ, trừ độc chó cắn.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Rễ thường dùng trị ho ra máu và hạt dùng trị thủy thũng. Rễ và lá cũng được dùng trị đinh nhọt và cụm nhọt. Cây dùng làm thức ăn gia súc.
Bìm bìm dại
Bìm bìm dại, Bìm nấp, Dây chìa vôi – Operculina turpethum (L.) S.Manso, Thuộc họ Khoai lang -Convolvulaceae.
Mô tả: Cây thảo mọc bò và leo, khoẻ, có cành hình trụ có góc nhiều hay ít, có 4 cánh thấp. Lá xoan hay thuôn, thường hình tam giác, hình tim hay cụt ở gốc, nhọn hoặc tù, dài 5-12cm, rộng 2,5-7,5cm; cuống dài 1-7cm. Hoa lớn, màu trắng hay vàng nhạt, ở nách lá, có cuống 1-7cm. Quả nang đường kính 15-16mm, có 4 góc, mở ở đỉnh theo một lằn ngang thành một nắp tròn, bao bởi đài hoa cao 3cm. Hạt 3-4, hình lăng kính đen đen, đường kính 6-7mm.
Bộ phận dùng: Toàn cây – Herba Operculinae. Cây có củ như bình vôi nên cũng gọi là Bình vôi. Thường có khi gọi nó là Chìa vôi, là Bạch phấn đằng. Ở Trung Quốc người ta gọi nó là Hạp quả đằng dựa theo cấu tạo đặc biệt của quả.
Nơi sống và thu hái: Thông thường ở vườn, các loại cỏ, lùm bụi vàng đồng bằng, trung du khắp nước ta, gặp nhiều ở các tỉnh phía Bắc. Ở bán đảo Ấn Độ và Malaixia, người ta cũng trồng. Còn phân bố ở Trung Quốc, Philippin.
Thành phần hoá học: Trong cây có 6-10% một chất nhựa tan trong ete, 2% một glucosid là turpethin, tinh bột, một chất béo, một dầu bay hơi, một chất màu vàng. Rễ củ có turpethin, jalapin, turpethein, acid jalapic, ipomoea tampicolic và valerianic.
Tính vị, tác dụng: Vị ngọt hơi cay, tính bình, có tác dụng lợi thuỷ tiêu thũng, cường cân hoạt lạc. Rễ có tính tẩy; nhựa cũng tẩy tương tự như jalap nhưng kém hoạt động hơn.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Rễ thường dùng trị đau khớp, thống phong và tê thấp. Ở Trung Quốc, người ta dùng toàn cây chữa thuỳ thũng, đại tiện bí kết, sau khi gẫy xương để tăng sức. Ở Ấn Độ thường dùng rễ trị bò cạp và rắn cắn. Cũng dùng để xổ; người ta dùng liều 4-12g dạng thuốc sắc hoặc 1- 4g dạng thuốc bột. Ở Philippin rễ tán thành bột dưới dạng cồn thuốc dùng làm thuốc tẩy mạnh; turpethin thay thế cho Khiên ngưu rất tốt. Thân cây dùng trị đau bụng, cần cho phụ nữ mới sinh. Người ta dùng thân cây hơ vào lửa, áp vào bụng phụ nữ mới sinh nở để điều trị các cơn đau bụng và giúp sự co rút các cơ trở lại bình thường.
Viêm màng nhện: có nhiều thể: thể viêm dính gặp sau phẫu thuật tai-xương chũm khi đã ổn định, thể viêm nang và thể giả u.
U dây thần kinh thính giác (VIII).
Viêm dây thần kinh thính giác do virút (cúm, quai bị..) hay do giang mai…
Nhiễm độc do rượu, hoá chất như CO, chì…
1.1.2. Triệu chứng.
Bao gồm các hội chứng:
*Hội chứng tiền đình:
Chóng mặt rõ rệt, có cơn bộc phát, kèm theo ù tai.
Rung giật nhãn cầu tự phát loại ngang-xoay hướng về bên tai lành, không chỉ xuất hiển trong mà có thể cả ngoài cơn chóng mặt.
Khám tiền đình: trả lời hoà hợp, thể ngoại biên nhưng với vài hiện tượng kiểu trung ương như nghiệp pháp Romberg không bị ảnh hưởng khi thay đổi tư thế đầu, nghiệm pháp ngón trỏ chỉ lệch một tay cùng bên lành.
*Hội chứng ốc tai: nghe kém thể tiếp âm, không có hiện tượng hồi thính.
*Hội chứng thần kinh:
Nhức đầu liên tục, có cơn bột phát thường ở vùng chẩm-đỉnh.
Có rối loạn trương lực cơ, nhưng rối loạn thăng bằng và hội chứng tiểu não không rõ.
1.1.3. Xử trí.
Tùy theo nguyên nhân:
Nội khoa:
Do nhiễm độc: loại bỏ chất độc, cho huyết thanh ngọt ưu trương, kháng histamin, corticoid.
Do viêm thần kinh thính giác, viêm màng nhện: chống viêm, chống phù nề bằng corticoid, kháng sinh.
Ngoại khoa: u dây thần kinh thính giác: lấy bỏ khối u theo đường tai-mê nhĩ khi khối u còn nhỏ, ở ống tai trong. Theo đường sọ não khi khối u đã phát triển vào nội sọ.
1.2. Hội chứng tiền đình trung ương.
1.2.1. Nguyên nhân.
Thương tổn các nhân tiền đình hay những đường liên lạc giữa các nhân tiền đình.
U hay áp xe tiểu não.
U ở hành não, cầu não hay củ não sinh tư.
U dây thần kinh thính giác khi đã lan đến góc cầu-tiểu não.
Thoái hoá tổ chức não, hành não.
1.2.2. Triệu chứng.
*Hội chứng suy giảm:
Chóng mặt không rõ rệt như trong hội chứng tiền đình rễ.
Mất thăng bằng nhẹ, không tương xứng với cảm giác chủ quan của người bệnh.
Rung giật nhãn cầu bao giờ cũng có.
Các nghiệm pháp gây ra thể hiện: không hài hòa, thiếu sót, từng mảng.
*Hội chứng kích thích:
Chóng mặt nhẹ, trong khi mất thăng bằng rõ rệt.
Rung giật nhãn cầu thường không có hay khi có, khi không.
Các nghiệm pháp gây ra thể hiện quá kích thích, không đầy đủ.
Chụp X-quang trong thời kỳ mang thai từ lâu đã được coi là không an toàn. Bức xạ có thể gây hại cho em bé của bạn, thậm chí gây ra dị tật bẩm sinh.
Tuy nhiên, đôi khi việc chụp X-quang khi bạn đang mang thai là cần thiết. Nếu bạn bị thương ở chân trong một vụ tai nạn xe hơi, bác sĩ của bạn có thể cần thực hiện điều này.
Liệu một bức xạ X-quang có ảnh hưởng đến thai kỳ? Các tác động của bức xạ trong thời kỳ mang thai có thật sự nguy hiểm không? Có cách nào để giảm thiểu các rủi ro tiềm ẩn không?
X-quang là sóng điện từ có bước sóng nằm giữa ánh sáng cực tím và tia gamma. Chúng được phân loại là bức xạ ion hóa.
Nhiều hiểu biết của chúng ta về mối nguy hiểm của bức xạ trong thời kỳ mang thai đến từ các vụ nổ hạt nhân trong Thế chiến II. Tuy nhiên, các bức xạ X-quang được sử dụng trong y tế không tạo ra mức độ bức xạ tương đương với những vụ nổ hạt nhân đó.
Vì những tác động đã thấy sau khi bị phơi nhiễm bức xạ lớn, X-quang đã bị sợ hãi trong thời kỳ mang thai, nhưng giờ đây, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng một bức X-quang của các chi hoặc răng có thể rất an toàn cho em bé của bạn.
Tác Động Của Bức Xạ Trong Thời Kỳ Mang Thai
Em bé đang phát triển phần lớn được bảo vệ khỏi bức xạ nhờ vào thành bụng và tử cung, nhưng một phần bức xạ vẫn có thể xuyên qua. Những em bé đang phát triển rất nhạy cảm với bức xạ này.
Hơn nữa, bức xạ từ nhiều bức X-quang tích lũy lại và có tác động. Nếu bức xạ được phơi nhiễm là đáng kể, kết quả có thể là:
Hạn chế sự phát triển
Dị tật bẩm sinh
Rối loạn chức năng não
Ung thư
Mặc dù những nguy cơ này được biết đến, nhưng chúng cũng khá hiếm. Ví dụ, nguy cơ ung thư trong tương lai được dự đoán là cao hơn 2% trong cuộc sống sau này, nhưng dự đoán này dựa trên liều bức xạ tương đương với khoảng 500 bức X-quang ngực.
Nguy cơ ảnh hưởng đến não là cao nhất ở tuần thứ 10 đến 17 của thai kỳ. Do đó, cần tránh các thủ tục sử dụng liều bức xạ cao trong thời gian này.
Liều bức xạ cực kỳ cao sẽ có tác động nghiêm trọng đến thai nhi. Các dị tật có thể bao gồm đầu nhỏ (với dị dạng não), mắt nhỏ, dị tật bộ phận sinh dục và xương, đục thủy tinh thể, và cân nặng khi sinh thấp có thể là kết quả từ việc phơi nhiễm bức xạ lớn như vậy.
Những liều này cao hơn nhiều so với những gì bác sĩ sử dụng.
Bạn Có Thể Chụp X-Quang Khi Mang Thai Không?
Có, bạn có thể, miễn là đó không phải là vùng bụng, điều này sẽ phơi nhiễm em bé của bạn. Em bé có nguy cơ cao hơn trong vài tuần đầu tiên của thai kỳ.
Các bức X-quang của chi, răng, đầu và ngực thường đủ an toàn. Chúng không phơi nhiễm em bé của bạn với bức xạ trực tiếp.
Trong khi đó, các bức X-quang của bụng, vùng chậu, thận hoặc lưng dưới thì lại phơi nhiễm em bé của bạn với bức xạ và nên được tránh.
Chụp X-Quang Có Ảnh Hưởng Đến Thai Kỳ Không?
X-quang liều cao được thực hiện sớm trong thai kỳ có thể ảnh hưởng đến em bé của bạn. Trong hai tuần đầu của thai kỳ, phơi nhiễm như vậy có thể dẫn đến sẩy thai.
Lúc này, phôi chỉ có một vài tế bào, và tổn thương hoặc chết của ngay cả một hoặc hai tế bào cũng sẽ gây ra cái chết của phôi.
Em bé bị phơi nhiễm trong khoảng từ tuần thứ hai đến thứ tám, có khả năng sẽ trải qua sự giảm trưởng, cũng như dị tật bẩm sinh.
Em bé bị phơi nhiễm trong khoảng từ tuần thứ tám đến thứ 16 có nguy cơ cao hơn về các khuyết tật trí tuệ và học tập.
Tuy nhiên, liều bức xạ cao hơn thường được sử dụng trong các xét nghiệm chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc trong quét y học hạt nhân. Quét y học hạt nhân liên quan đến việc tiêm một chất phóng xạ mà camera có thể nhìn thấy. Liều bức xạ cao hơn nhiều so với một bức X-quang đơn.
Một xét nghiệm chụp CT vùng chậu hoặc bụng trong những tuần đầu của thai kỳ cũng là một nguy cơ. Em bé có nguy cơ cao hơn về ung thư trẻ em sau các thủ tục như vậy.
Một phép thử barium enema liên quan đến việc đưa một chất lỏng chứa barium vào trực tràng và sau đó chụp một loạt hình X-quang. Trong quá trình này, mức độ bức xạ mà em bé phải chịu cao hơn nhiều so với một bức X-quang đơn, vì vậy xét nghiệm này nên tránh khi bạn đang mang thai.
Các Biện Pháp Phòng Ngừa Khi Chụp X-Quang Trong Thai Kỳ
Luôn luôn cho bác sĩ của bạn biết nếu bạn đang, hoặc có thể đang, mang thai. Họ sẽ quyết định các biện pháp phòng ngừa thích hợp.
Nếu vấn đề y tế của bạn không khẩn cấp, họ có thể hoãn việc chụp X-quang cho đến sau khi em bé của bạn sinh ra.
Nếu chụp X-quang trong thai kỳ là của chi, đầu hoặc cổ, họ sẽ cho bạn một chiếc tạp dề chì. Chiếc tạp dề này che bụng của bạn và không cho phép bức xạ X-quang đến em bé của bạn.
Ngược lại, bác sĩ của bạn có thể quyết định sử dụng phương pháp chẩn đoán khác. Siêu âm và cộng hưởng từ (MRI) không sử dụng bức xạ ion hóa. Chúng được coi là an toàn để sử dụng trong thời kỳ mang thai.
X-Rays Tình Cờ Trong Thời Kỳ Mang Thai
Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn đã chụp X-quang vùng bụng trước khi phát hiện ra rằng bạn đang mang thai?
Bạn nên thông báo cho bác sĩ của bạn. Bức xạ từ một bức X-quang đơn là rất nhỏ, vì vậy bác sĩ của bạn không có khả năng quá lo lắng.
Thế còn một thủ tục chụp X-quang liều bức xạ cao?
Barium enema và các chụp CT sử dụng liều bức xạ cao hơn so với bức X-quang đơn. Một số quy trình tim mạch và phẫu thuật chỉnh hình cũng được thực hiện dưới sự hướng dẫn của X-quang. Chúng sử dụng liều bức xạ mà nên được tránh trong thai kỳ.
Nếu bạn đã bị phơi nhiễm như vậy trước khi biết bạn mang thai, hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn.
Để tránh những trường hợp như vậy, một số bệnh viện thử nghiệm tất cả phụ nữ trên 12 tuổi để kiểm tra thai trước khi thực hiện bất kỳ thủ tục nào như vậy.
Chụp X-quang Khi Mang Thai
Không mong muốn việc chụp X-quang trong thời kỳ mang thai, nhưng không cần phải hoảng sợ. Các thiết bị X-quang hiện đại sử dụng liều bức xạ thấp. Thực tế, lượng bức xạ cho một bức X-quang đơn có thể không gây hại cho em bé của bạn. Nếu bác sĩ của bạn quyết định bạn cần một bức X-quang, thì rủi ro không thực hiện có thể lớn hơn so với rủi ro do bức xạ.
Thời điểm chụp X-quang cũng rất quan trọng. Trước tuần thứ 18 của thai kỳ, em bé rất nhạy cảm với bức xạ. Chúng có khả năng bị tổn thương. Tuy nhiên, sau tuần thứ 26 của thai kỳ, em bé của bạn có độ nhạy cảm với bức xạ giống như một em bé mới sinh.
Bác sĩ của bạn có thể sẽ tránh chụp X-quang khi bạn đang mang thai, nhưng đôi khi, một bức X-quang là cần thiết để chẩn đoán và điều trị một căn bệnh. Việc điều trị như vậy đôi khi là cần thiết để giữ cho bạn và em bé của bạn khỏe mạnh.