Blog Trang 474

Siêu âm tim chẩn đoán bệnh tim mạch

Siêu âm tim là phương pháp thăm dò tim qua siêu âm có tần số từ 1,6 đến

Một bộ phận tiếp nhận và chuyển đổi tín hiệu được đặt lên ngực. Bộ phận này có một tinh thể áp điện có khả năng phát siêu âm và tiếp nhận các tia phản xạ lại. Siêu âm tâm đồ là ghi lại hình ảnh các siêu âm được phản xạ bởi các mô khác nhau của tim. Phương pháp này không gây đau và không gây chảy máu.

SIÊU ÂM TIM MỘT CHIỀU (kiểu thời gian-vận động, TM hay M): các âm được các cấu trúc khác nhau của tim (màng ngoài tim, màng trong tim, vách, van) phản xạ lại, tạo thành các đường cong chồng lên nhau, khoảng cách giữa các đường này tỷ lệ với khoảng cách giải phẫu có thực giữa các cấu trúc của tim. Có thể đo được các cấu trúc này một cách khá chính xác. Một Điện tâm đồ được ghi đồng thời cho phép phân tích siêu âm đồ theo thời gian. Người ta có được nhiều trục tuỳ theo hướng của bộ phận thu – phát. Trên trục trước – sau có thể phân tích tâm thất phải, vách, van hai lá, thành sau của tâm thất trái.

SIÊU ÂM TIM HAI CHIỀU: chùm siêu âm do một nguồn duy nhất hoặc do nhiều nguồn phát ra chuyển động rất nhanh cho phép quan sát một phần tim theo hai chiểu và quan sát các cử động của các cấu trúc theo thời gian thực. Các hình ảnh có thể được ghi lại và chiếu lại lên màn hình để phân tích. Khả năng phân giải của siêu âm hai chiều kém so với siêu âm một chiều nhưng cho phép nghiên cứu các lớp cắt tim có diện tích khá lớn. Để nghiên cứu động học của tâm thất trái, nghiên cứu các bệnh tim bẩm sinh, đóng vôi ở ổ van tim thì phương pháp này phù hợp hơn. Người ta thấy được các buồng tim, cử động của các van và các thành tim.

SIÊU ÂM DOPPLER TIM: chiếu một chùm siêu âm vào một mạch máu để nghiên cứu dòng máu. Sự chênh lệch về bước sóng giữa tia phát ra và tia được các hồng cầu trong dòng máu phản xạ cho phép đo được tốc độ dòng máu. Chùm siêu âm được phát ra thành từng đợt (Doppler xung) cho phép khu trú dòng máu được ghi tốt hơn là chùm siêu âm được phát liên tục (Doppler liên tục). Doppler liên tục được dùng để đo các vận tốc lớn. Thăm dò này cho biết có hẹp không hoặc có hở van không và cho phép đo mức chênh lệch áp suất ở hai bên chỗ thắt hẹp (Doppler liên tục) và đo tốc độ ở một điểm cụ thể (Doppler xung). Siêu âm Doppler màu là Doppler hai chiều cho phép định lượng các dòng bị thất thoát và đo tốc độ dòng máu.

SIÊU ÂM QUA THựC QUẢN: phương pháp gây sang chấn ít, cho phép đưa đầu dò tới gần ngay khối tâm nhĩ và động mạch chủ. Đầu dò được gắn vào đầu ống soi có thể xoay chuyển được nên cho phép thực hiện nhiều lớp cắt và cho phép thấy tâm nhĩ trái, các tĩnh mạch phổi, vách liên nhĩ, van hai lá, tâm nhĩ trái và một vài phần của động mạch chủ.

Chỉ định

TẬT Ở VAN HAI LÁ

  1. Hẹp hai lá: siêu âm tim cho thấy lá van trước cử động chậm ở đầu thì tâm trương (là dấu hiệu điển hình).
  2. Sa van hai lá: lá van sau hoặc cả hai lá van bị đẩy ra sau ở giữa hoặc cuối thì tâm thu; hai lá van lồi sâu vào tâm nhĩ trái vào lúc có tiếng clic ở giữa thì tâm thu hoặc lúc có tiếng thổi cuối thì tâm thu.
  3. Bệnh cơ tim gây tắc nghẽn: trong thì tâm thu, lá van trước bị đẩy về phía vách liên thất.
  4. Dấu hiệu gián tiếp của hở van động mạch chủ là lá trước van hai lá rung nhẹ lúc tâm trương.

TẬT Ở ĐỘNG MẠCH CHỦ: trong trường hợp hẹp van động mạch chủ, van bị dày lên và cử động bị giảm. Trong trường hợp van động mạch chủ chỉ có hai lá, các van thường không đôi xứng. Hay gặp kết quả âm tính trong trường hợp động mạch chủ phình tách.

VAN BA LÁ VÀ VAN ĐỘNG MẠCH PHỔI: khó nhìn thấy các van này. Tuy nhiên có thể chẩn đoán hẹp van ba lá nếu có phì đại thất phải.

TRÀN DỊCH MÀNG NGOÀI TIM: giữa màng ngoài tim và phần bao quanh tim có một khoảng trống không có tiếng vọng. Siêu âm tim là phương pháp hàng đầu để chẩn đoán viêm màng ngoài tim từ 15 – 20 ml trở lên và cũng giúp cho chọc dò màng ngoài tim.

BỆNH CƠ TIM: siêu âm tim cho phép đánh giá độ dày của cơ tim. Phương pháp này rất hữu ích trong nghiên cứu các bệnh thiếu máu cơ tim (phát hiện các vùng giảm vận động, rối loạn vận động, chỗ phình ở thành), các bệnh cơ tim không thiêu máu (phân biệt bệnh tim gây tắc nghẽn và bệnh tim ứ máu). Phương pháp này còn cho phép tính gần đúng phân số tông máu (thường cho giá trị cao hơn là phương pháp chụp tâm thất).

BỆNH TIM BẨM SINH: chụp siêu âm hai chiều giúp cho chẩn đoán thông liên nhĩ và thông liên thất, trong việc xác định vị trí chính xác của các buồng tim và các mạch máu (đảo chỗ, ống nhĩ – thất chung, tứ chứng Fallot).

BỆNH TIM THIẾU MÁU: siêu âm hai chiều phát hiện được vùng bị thiếu máu và huyết khối trong tim.

VIÊM MÀNG TRONG TIM NHIỄM KHUẨN: siêu âm tim phát hiện được chỗ sùi ở van hai lá hoặc ở van động mạch chủ trong 50% số trường hợp.

U BÊN TRONG CƠ TIM: siêu âm tim cho phép phát hiện u nhầy, đặc biệt là ở tâm nhĩ trái, huyết khối trong tim.

THEO DÕI VAN TIM NHÂN TẠO

GHI CHÚ – nhờ có siêu âm tim mà một số trường hợp không cần đến thông tim nữa.

Viêm túi mật cấp tính – Triệu chứng, nguyên nhân, chẩn đoán, điều trị

Viêm túi mật cấp tính là tình trạng viêm của túi mật. Nó thường xảy ra khi một viên sỏi mật làm tắc ống cystic.

Sỏi mật là những viên đá nhỏ, thường được tạo thành từ cholesterol, hình thành trong túi mật. Ống cystic là lối mở chính của túi mật.

Chúng thường không gây ra triệu chứng, nhưng đôi khi có thể gây ra các cơn đau (đau quặn mật) hoặc viêm túi mật cấp tính.

Viêm túi mật cấp tính có thể gây nguy hiểm vì có nguy cơ biến chứng.

Thông thường, nó cần được điều trị trong bệnh viện với chế độ nghỉ ngơi, truyền dịch và kháng sinh.

Hình ảnh Sỏi mật
Hình ảnh Sỏi mật

Triệu chứng của viêm túi mật cấp tính

Triệu chứng chính của viêm túi mật cấp tính là cơn đau đột ngột, sắc nét ở phía trên bên phải bụng (bụng). Cơn đau này lan ra phía vai phải.

Khu vực bị ảnh hưởng thường rất nhạy cảm, và việc hít sâu có thể làm tăng cường độ đau.

Khác với các loại đau bụng khác, cơn đau của viêm túi mật cấp tính thường kéo dài và không biến mất trong vòng vài giờ.

Một số người có thể gặp thêm các triệu chứng như:

  • sốt cao
  • cảm thấy buồn nôn
  • nôn mửa
  • ra mồ hôi
  • mất khẩu vị
  • vàng da và mắt (vàng da)
  • sưng bụng

Khi nào cần tìm kiếm sự tư vấn y tế

Hãy đến gặp bác sĩ càng sớm càng tốt nếu bạn phát triển cơn đau bụng đột ngột và dữ dội, đặc biệt nếu cơn đau kéo dài hơn vài giờ hoặc kèm theo các triệu chứng khác như vàng da và sốt cao.

Việc chẩn đoán viêm túi mật cấp tính càng sớm càng tốt là rất quan trọng, vì có nguy cơ biến chứng nghiêm trọng nếu không được điều trị kịp thời.

Nguyên nhân gây viêm túi mật cấp tính

Nguyên nhân gây viêm túi mật cấp tính có thể được chia thành 2 loại chính: viêm túi mật có sỏi và viêm túi mật không có sỏi.

Viêm túi mật có sỏi

Viêm túi mật có sỏi là loại viêm túi mật cấp tính phổ biến nhất, thường ít nghiêm trọng hơn. Nó chiếm khoảng 95% tất cả các trường hợp.

Viêm túi mật có sỏi phát triển khi lối vào chính của túi mật, ống cystic, bị tắc bởi một viên sỏi mật hoặc một chất gọi là bùn mật.

Bùn mật là sự kết hợp của dịch mật, một chất lỏng do gan sản xuất giúp tiêu hóa chất béo, và các tinh thể cholesterol và muối nhỏ.

Sự tắc nghẽn trong ống cystic gây ra sự tích tụ dịch mật trong túi mật, làm tăng áp lực bên trong và khiến nó bị viêm. Túi mật bị viêm đôi khi có thể bị nhiễm trùng do vi khuẩn.

Viêm túi mật không có sỏi

Viêm túi mật không có sỏi là tình trạng viêm túi mật không có sỏi mật. Nó ít phổ biến hơn nhưng thường nghiêm trọng hơn viêm túi mật có sỏi.

Nguyên nhân chính xác của viêm túi mật không có sỏi chưa được biết, nhưng thường là một biến chứng của bệnh nghiêm trọng, nhiễm trùng hoặc chấn thương làm tổn thương túi mật.

Một số yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến viêm túi mật không có sỏi, bao gồm tổn thương tình cờ đến túi mật trong quá trình phẫu thuật lớn, chấn thương hoặc bỏng nghiêm trọng, nhiễm trùng huyết, suy dinh dưỡng nghiêm trọng hoặc mất nước.

Chẩn đoán viêm túi mật cấp tính

Nếu bạn bị đau bụng dữ dội, bác sĩ sẽ có thể thực hiện một bài kiểm tra đơn giản gọi là dấu hiệu Murphy.

Bạn sẽ được yêu cầu hít vào thật sâu trong khi tay bác sĩ đặt lên bụng bạn, ngay dưới lồng xương sườn.

Túi mật của bạn sẽ di chuyển xuống khi bạn hít vào. Nếu bạn có viêm túi mật, bạn sẽ cảm thấy đau đột ngột khi túi mật chạm vào tay bác sĩ.

Nếu triệu chứng của bạn cho thấy bạn có viêm túi mật cấp tính, bác sĩ sẽ chuyển bạn đến bệnh viện ngay lập tức để kiểm tra và điều trị thêm.

Các xét nghiệm bạn có thể thực hiện trong bệnh viện bao gồm:

  • xét nghiệm máu – để kiểm tra dấu hiệu viêm trong cơ thể bạn
  • siêu âm bụng – để kiểm tra sỏi mật hoặc các dấu hiệu khác của vấn đề với túi mật của bạn

Điều trị viêm túi mật cấp tính

Nếu bạn được chẩn đoán mắc viêm túi mật cấp tính, bạn sẽ có khả năng cần nhập viện để điều trị.

Điều trị ban đầu

Điều trị ban đầu thường sẽ bao gồm:

  • không ăn hoặc uống (nhịn ăn) để giảm áp lực cho túi mật
  • nhận dịch qua đường truyền trực tiếp vào tĩnh mạch (truyền tĩnh mạch) để ngăn ngừa mất nước
  • dùng thuốc để giảm đau

Bạn cũng sẽ được cho thuốc kháng sinh nếu có khả năng bạn bị nhiễm trùng.

Những loại thuốc này thường cần được tiếp tục trong khoảng một tuần, trong khoảng thời gian đó bạn có thể cần ở lại bệnh viện, hoặc bạn có thể có khả năng về nhà.

Phẫu thuật

Việc loại bỏ túi mật của bạn có thể được khuyến nghị vào một thời điểm nào đó sau điều trị ban đầu để ngăn ngừa viêm túi mật cấp tính tái phát và giảm nguy cơ phát triển biến chứng nghiêm trọng.

Loại phẫu thuật này được gọi là cắt túi mật.

Có 2 loại cắt túi mật chính:

  • cắt túi mật mở – nơi túi mật được loại bỏ thông qua một vết mổ duy nhất trên bụng
  • cắt túi mật nội soi – phẫu thuật qua lỗ khoan nơi túi mật được loại bỏ bằng các dụng cụ phẫu thuật đặc biệt được chèn qua một số vết mổ nhỏ trên bụng của bạn

Nếu bạn đủ sức khỏe để thực hiện phẫu thuật, bác sĩ sẽ quyết định khi nào là thời điểm tốt nhất để loại bỏ túi mật của bạn.

Cắt túi mật nội soi thường được khuyến nghị trong vòng 1 tuần sau khi xác nhận viêm túi mật cấp tính.

Một số người đã cắt bỏ túi mật có thể gặp các triệu chứng đầy hơi và tiêu chảy sau khi ăn một số loại thực phẩm, nhưng có thể sống một cuộc sống hoàn toàn bình thường mà không cần túi mật.

Cơ quan này có thể hữu ích, nhưng không cần thiết vì gan của bạn vẫn sẽ sản xuất dịch mật để tiêu hóa thức ăn.

Tìm hiểu thêm về việc hồi phục sau khi cắt bỏ túi mật.

Các lựa chọn thay thế cho phẫu thuật

Đôi khi phẫu thuật có thể không phải là một lựa chọn – ví dụ, nếu bạn có một tình trạng khác khiến phẫu thuật không phù hợp.

Nếu phẫu thuật không phải là một lựa chọn, bạn có thể được đề nghị thực hiện một quy trình để dẫn lưu chất lỏng đã tích tụ trong túi mật.

Một ống hẹp được đưa vào túi mật để tạo ra một lối mở cho chất lỏng thoát ra. Điều này có thể được thực hiện thông qua một vết mổ trên da bụng của bạn, hoặc bằng cách sử dụng một quy trình nội soi (qua miệng và vào dạ dày).

Các biến chứng có thể xảy ra

Nếu không điều trị thích hợp, viêm túi mật cấp tính đôi khi có thể dẫn đến những biến chứng đe dọa đến tính mạng.

Các biến chứng chính của viêm túi mật cấp tính là:

  • sự chết của mô túi mật (viêm túi mật hoại tử) – có thể gây ra một nhiễm trùng nghiêm trọng có thể lan ra toàn cơ thể
  • túi mật bị vỡ (túi mật thủng) – có thể lan nhiễm trùng trong bụng bạn (viêm phúc mạc) hoặc dẫn đến sự tích tụ mủ (áp-xe)

Phẫu thuật khẩn cấp để loại bỏ túi mật là cần thiết để điều trị những biến chứng này trong khoảng 2 hoặc 3 trong mỗi 10 trường hợp viêm túi mật cấp tính.

Ngăn ngừa viêm túi mật cấp tính

Không phải lúc nào cũng có thể ngăn ngừa viêm túi mật cấp tính, nhưng bạn có thể giảm nguy cơ phát triển nó bằng cách giảm nguy cơ hình thành sỏi mật.

Một trong những điều chính bạn có thể làm để giảm nguy cơ hình thành sỏi mật là áp dụng một chế độ ăn uống lành mạnh, cân bằng và giảm số

Vết nẻ da do giá rét và phương thuốc điều trị tuyệt diệu

Chứng vết nẻ da hay phát sinh ở những người không thể chịu được giá rét do đó da dẻ bị chết cóng vì giá rét, bỗng gặp hỏa khí mà hình thành. Rất nhiều người khi đến mùa đông vùng tai, ngón tay và ngón chân vì bị vết nẻ da mà ngứa đến chịu hết nổi, rồi mới đi tìm thuốc chữa trị. Đến lúc này, thì đã quá muộn màng. Bởi thế, nên bắt đầu uống thuốc vào khoảng tháng chín, miễn đến mùa đông bị cái khô do vết nẻ da gậy ra.

Trong hiện đại, dân gian còn lưu truyền không ít nghiệm phương chữa trị vết nẻ da.

Đối với chứng vết nẻ da, thông thường có một số phương pháp như:

Dùng Cam thảo, Nguyên hoa mỗi loại 15 gam, sắc nước, dùng rửa chỗ bị đau, mỗi ngày 3 lần, rất có hiệu quả đối với chứng tổn thương nhẹ do giá rét gây ra. Ngoài ra, có thể dùng với củ cải trắng sắc nước, thêm vào: ít Lưu Hoàng, xông, rửa chỗ bị đau. Cũng có thể dùng quả của Luyện thụ (trái của cây Xoan) nấu nước để rửa chỗ bị đau, hai lần mỗi ngày. Và có thể dùng lá cây Sung 60 gam nấu nước, để rửa chỗ bị đau lúc nước thuốc còn ấm, mỗi ngày rửa một đến hai lần. Những phương pháp trên đều có hiệu quả khá tốt.

Về mặt dự phòng, cần kiên trì chạy bộ trong mùa đông, để cải thiện thể chất, tăng cường sức phòng giá rét của cơ thể. Trong mùa giá rét, nên chú ý giữ ấm cho những bộ vị phơi lộ ra ngoài như tay, chân, mình và mũi, đặc biệt là những người thường công tác ở dã ngoại, càng phải đặc biệt lưu ý.Vết nẻ da do giá rét

Phương thuốc chữa vết nẻ da vì giá rét

ĐƯƠNG QUI TỨ NGHỊCH GIA NGÔ THÙ DU SINH KHƯƠNG THANG

Hiệu quả:

Có thể phòng, chữa chứng vết nẻ da, còn có thể cải thiện thể chất vết nẻ da do giá rét.

Thành phần dược liệu:

Đương qui 9 gam, Thược dược 9 gam, Quế chi 9 gam, Tế tân 9 gam, Gừng tươi 250 gam, Ngô thù du 9 gam, Cam thảo 6 gam, Thông thảo 6 gam, Táo đỏ 9 gam.

Cách thực hiện:

Tất cả vị thuốc trên dùng nước sắc nấu chung, lấy nước thuốc, bỏ bã thuốc.

Cách dùng:

Uống trước bữa cơm, 3 lần một ngày.

Giải thích:

Phương này dùng chữa chứng vết nứt da, thích hợp cho những người tay chân dễ phát lạnh, sinh chứng vết nẻ da, đôi khi nửa mình dưới cơ thể có cảm giác lạnh, chất lưỡi nhạt,  rêu lưỡi trắng. Phương này là một phương thường dùng để chữa chứng huyết hư bị hàn. Đương qui trong phương ôn bổ can huyết, hoạt huyết giảm đau. Quế chi giỏi về ôn gân thông mạch. Bạch thược dưỡng huyết hòa dinh, Tế tân ôn kinh tán hàn, vừa có thể hàn tà tại biểu của kinh lạc, lại vừa tán hàn tà tại biểu ở tạng phủ. Ngô thù du,. Gừng tươi có thể tăng cường sức ôn lý tán hàn giảm đau. Thông thảo có tác dụng tăng cường thông hành huyết mạch. Táo đỏ, Cam thảo bổ tỳ ích vị, điều hòa dược vật. Toàn phương hợp dùng gồm có công hiệu dưỡng huyết thông mạch, ôn dương khử hàn. Trung y cho rằng, can tàng giữ huyết, huyết dịch gặp nóng thì tốc độ dòng chảy tăng nhanh, gặp lạnh thì sẽ giảm hoãn lại (tức là huyết hàn thì ngưng trệ), giá rét là nguyên tố quan trọng dẫn đến sự phát sinh của chứng vết nẻ da. Cơ thể con người sau k:ù mắc phải giá rét, thi kinh lạc huyết khí không thông suốt, khí huyết vận hành bị trở ngại, khiến da thịt không dược ấm áp mà sinh vết nẻ da. Vì phương này có tác dụng dưỡng huyết khử hàn, ôn thông huyết mạch. Sau khi uống thang thuốc này có thể xúc tiến sự vận hành của máu, nên chữa được chứng vết nẻ da. Ngoài ra, phương này còn có thể cải thiện được thể chất vết nẻ da do giá rét và phòng ngừa chứng này.

PHƯƠNG CHỮA DA BỊ NẺ vì LẠNH VÀ KHÔ HANH

(“Bản thảo cương mục)

Hiệu quả:

Chữa chứng da bị nẻ, sưng đỏ vầ nứt da.

Thành phần dược liệu:

Rễ, lá và thân cây cà.

Cách thực hiện:

Dùng nước nấu ba vật trên, lấy nước thuốc.

Cách dùng:

Dùng nước thuốc ngâm chỗ bị đau.

Giải thích:

Dược vật được chọn dùng trong phương này là rễ, lá và thân của cây Cà loại rau quả. Ba vật trên đều có tác dụng tán huyết tiêu sưng (“Bản thảo cương mục”). Thường xuyên dùng nước thuốc của rễ, lá, thân cây Cà ngâm chỗ bị đau có thể loại trừ máu ứ đỏ sưng chỗ bị đau và còn xúc tiến vết nứt nẻ kín miệng trở lại. Ngoài ra, trong cuốn “Bản thảo cương mục” còn nhiều nghiệm phương tương tự như phương trên, như dùng Giấm rửa chân, sau đó lấy củ Sen nghiền thành bột mịn đắp lên chỗ bị đau để chữa chứng vết nẻ da trên chân, hoặc dùng bã rượu thêm nước dùng rửa ngoài da, hoặc là dùng Giấm nấu nóng ngâm, rửa ngoài da, lại hoặc dùng nước sắc Hoa tiêu ngâm chỗ bị đau đều có thể chữa chứng vết nẻ da. Nhất là cd hiệu quả tốt đối với lúc ban đầu mắc chứng vết nẻ da chỉ mới có hiện tượng đỏ sưng và ngứa.

PHƯƠNG CHỮA CHỨNG VẾT NẺ DA

(“Đàm Dã Ông Phương”)

Hiệu quả:

Chữa chứng da bị nứt nẻ, đỏ sưng, loét đau đổn.

Thành phần dược liệu:

Cam thảo, Hoàng liên, Hoàng bá, Hoàng cầm mỗi loại lượng bằng nhau. Bột nhẹ một ít. Dầu mè.

Cách thực hiện:.

Trước tiên dùng nước sắc cô Cam thảo, bỏ bã thuốc, chỉ lấy nước sắc Cam thảo để riêng. Đem Hoàng liên, Hoàng bá, Hoàng cầm tán thành bột mịn hỗn hợp, sau đó thêm vào một ít bột nhẹ, trộn đều, rồi pha dầu mè vào bột quấy đều.

Cách dùng:

Trước tiên dùng nước sắc Cam thảo rửa chỗ bị đau, sau đó bôi thuốc lên.

Giải thích:

Cam thảo trong phương này có tác dụng thanh nhiệt giải độc khá rộng rãi, trong những phương cổ phần nhiều chỉ dùng độc nhất vị thuốc này để uống hoặc đắp ngoài da để chữa các chứng nhọt sựng. Phương này dùng nước sắc Cam thảo để rửa vết nẻ da, dụng ý là lấy hiệu quả. thanh, nhiệt, giảm sưng, giảm đau của Cam. thảo. Hoàng liên, Hoàng cầm, Hoàng bá đều có tác dụng thanh nhiệt táo thấp, tả hỏa giải độc. Trong đó Hoàng liên giỏi về chữa chứng nhọt nhiệt độc. Hoàng cầm có thể chữa chứng mụn nhọt độc lở loét. Hoàng bá có thể chữa các chứng mụn nhọt, giỏi về giảm sưng, giảm đau các chứng nhọt sưng. Bốn vị dược vật trên hợp dùng có công năng thanh nhiệt giảm sưng, tả hỏa giải độc giảm đau. Đối với chứng vết nẻ da máu ứ cục bộ và uất trệ quá lâu, hóa nhiệt lở loét và đau có hiệu quả chữa trị rõ rệt. Ngoài ra, trong dân gian còn có một số phương pháp rất hữu hiệu, như dùng một phần mỡ heo với hai phần lòng trắng trứng pha trộn với nhau, mỗi đêm dùng bôi lên chỗ bị đau trước khi đi ngủ, tương truyền dùng ba lần bệnh sẽ khỏi. Nghiệm phương này thích hợp dùng vào lúc vết nẻ da bị loét.

PHƯƠNG CHỮA ĐAU DO BỊ NẺ NỨT VÌ GIÁ RÉT

(“Nho môn sự thân”)

Hiệu quả:

Chữa trị chứng đau da bị nẻ nứt do giá rét.

Thành phần dược liệu:

Hoàng bá, Nhũ trấp (sữa người).

Cách thực hiện:

Đem Hoàng bá tán thành bột mịn, dùng Nhũ trấp pha với bột, quấy trận đều là thành.

Cách dùng:

Dùng thuốc bôi lên chỗ bị đau.

Giải thích:

Trung y cho rằng: Sự phát sinh của vết nẻ da phần nhiều do hàn lạnh và thấp khí xâm vào da dẻ, khiến cục bộ khí huyết ứ trệ không thông suốt mà ra. Thời kỳ đầu của chứng vết nẻ da luôn có biểu hiện đỏ sưng và ngứa ngáy, bước phát triển nối tiếp là vét nẻ lỏ loét vỡ miệng và đau đớn. Phương này có hiệu quả chữa trị rõ rệt đối với chứng đau dữ dội do vết nẻ da gây ra. Trong phương, Hoàng bá giỏi về thanh thấp nhiệt, tả hỏa độc, có thể chữa chứng đau do mụn nhọt gây ra (“Dụng dược pháp tượng”). Lý Thời Trân đời Minh nói rằng Hoàng bá có thể chữa chứng mụn nhọt sưng độc, còn có thể liễm sang sinh cơ (theo “Bản thảo cương mục”). Nhũ trấp tức sữa người cổ nhân đối với chất lượng Nhũ trấp để làm thuốc yêu cầu rất nghiêm ngặt, phàm nhũ trấp lấy làm vị thuốc chỉ lấy sữa người phụ nữ khỏe mạnh không bệnh, tật và mới sinh con trai đầu lòng, sữa phải trắng đặc mới tốt (theo “Bản thảo cương mục”). Sữa người cũng là một vị thuốc hay để chữa mụn nhọt. Trong “Thiên kim phương”, dùng sữa người hòa với bột mì đắp vào chỗ đau, chữa chứng mủ nhọt không ra được. Trong “Trích huyền phương” thì dùng sữa người pha trộn với dầu Đồng bôi ngoài da chữa chứng ghẻ lổ ở hai bắp chân. Hai vị thuốc hợp dùng có tác dụng thanh nhiệt giảm sưng giảm đau, liêm sang sinh cơ. Sau khi dùng phương này có thể khiến chứng đau đớn nhanh chóng giảm nhẹ, đồng thời xúc tiến vết thương nhanh chóng kín miệng. Ngoài ra, còn có thể dùng Hoàng bá đốt thành tro rồi tán bột mịn, dùng lòng trắng trứng gà pha với bột, dùng đắp nhẹ lên chỗ đau, có hiệu quả tốt chữa chứng đau nhói khi vết nẻ da vô nước.

Chứng Phế khí âm đều hư

Chứng Phế khí âm đều hư là tên gọi tóm tắt do Phế khí bất túc, tân dịch bị tiêu hao, mất chức năng tuyên giáng, lâm sàng biểu hiện tông khí hư yếu, công năng bảo vệ bên ngoài không bền, phân bố tân dịch thất thường, Phế khí nghịch lên; bệnh phần nhiều do ốm lâu bị hao tổn, tà khí đã lui mà chính khí tổn thương gây nên.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là suyễn khái đoản hơi, tiếng nói bợt bạt, tự ra mồ hôi hoặc mồ hôi trộm, miệng ráo họng khô, tinh thần mệt mỏi yếu sức, sắc mặt nhợt, nóng từng cơn, gò má đỏ, lưỡi đỏ sáng ít rêu, mạch Tế Sác vô lực.

Chứng Phế khí âm đều hư thường gặp trong các bệnh Khái thấu, Háo suyễn, Phế lao, Phế nuy.

Cần chẩn đoán phân biệt với các chứng Phế khí hư, chứng Phế âm hư, chứng Tâm khí âm hư.

Phân tích

Chứng Phế khí âm đều hư gặp trong nhiều loại tật bệnh và phần nhiều gặp ở thời kỳ cuối của bệnh, lúc này tà khí đã lui nhưng chính khí bị tổn thương, hoặc ốm lâu hao tổn, nhưng trong những tật bệnh khác nhau, về biểu hiện và phép chữa cũng không hoàn toàn giống nhau.

Như bệnh Khái thấu mà xuất hiện chứng Phế khí âm đều hư, thường biểu hiện có đặc điểm là Hư khái, như khái thấu đoản hơi tinh thần mệt mỏi yếu sức, miệng khô họng ráo, lòng bàn tay chân nóng; Đây là do ho lâu không dứt, khí âm ở tạng Phế bất túc, mất chức năng thanh túc, hoặc cảm nhiễm ngoại tà, khí âm hao tổn gây nên; điều trị nên ích khí dưỡng âm, thanh táo nhuận Phế, chọn dùng bài Thanh táo cứu Phế thang (Y môn pháp luật). Nếu nhiệt chưa hết, khí âm hao thương, điều trị phải kiêm thanh nhiệt, có thể dùng Trúc diệp thạch cao thang(Thương hàn luận).

Trong bệnh Háo suyễn có chứng phế khí âm đều hư, thường có đặc điểm Hư tổn như khái thấu thổ huyết, tự ra mồ hôi, ra mồ hôi trộm triều nhiệt, gò má đỏ mặt nhợt, tiếng nói thều thào đoản hơi; mệt mỏi yếu sức; điều trị nên dưỡng âm ích khí, dùng bài Nguyệt hoa hoàn (Y học tâm ngộ) gia vị

Trong bệnh Phế lao gặp chứng Phế khí âm đều hư thường có đặc điểm Hư tổn như khái thấu thổ huyết, tự ra mồ hôi, ra mồ hôi trộm triều nhiệt, gò má đỏ mặt nhợt, , tiếng nói thều thào đoản hơi; mệt mỏi yếu sức; điều trị nên dưỡng âm ích khí, dùng bài Nguyệt hoa hoàn (Y học tâm ngộ) của gia vị.

Chứng Phế khí âm đều hư gặp trong bệnh Phế nuy thường xuất hiện những đặc điểm khí âm bất túc, hỏa hun đốt ở trong, Phế mất sự thanh túc, có các chứng trạng ho mửa ra bọt rãi đặc dính và khó khạc, đoản hơi suyễn gấp, m mỏi yếu sức, miệng ráo họng khô, gầy còm, lông tóc khô ròn v.v… điều trị nên ích khí dưỡng âm, thanh nhiệt nhuận Phế, ng bài Mạch môn đông thang (Kim Quỹ yếu lược)gia vị. Tóm lại, chứng Phế khí âm đều hư trong những tật bệnh khác nhau thì biểu hiện lâm sàng có chỗ không giống nhau, có thể căn cứ vào đó mà phân biệt.

Chứng Phế khí âm đều hư gặp nhiều ở người ốm lâu hao tổn, thể chất hư yếu hoặc nhiệt làm thương khí âm, tà rút lui và chính khí hư, sau mỗi khi mệt nhọc thì bệnh tăng và có đặc điểm là ho suyễn thở gấp, mỏi mệt yếu sức, gò má đỏ mặt nhợt, triều nhiệt mồ hôi trộm, miệng ráo họng khô; Bệnh thường nặng ở mùa Hạ nóng nực, mùa Thu khô ráo, vì hỏa nhiệt làm tổn thương Phế, hỏa khắc kim cho, đến táo nhiệt làm hại Phế gây nên.

Phế là tạng non nớt, chủ về bì maoếu lên mũi. Khí âm đều hư, chính khí bất túc thì dễ cảm nhiễm ngoại tà, thường kèm các chứng trạng ngoại cảm biểu chứng như sợ phong hàn, phát nhiệt đau đầu, họng khô đau, mũi tắc khó thở v.v… Trong quá trình diễn biến bệnh cơ, cũng thường kèm theo chứng trạng Tỳ khí hư nhược như trướng bụng ỉa chảy, là vì Phế hư mà con ăn trộm khí của mẹ, ốm lâu liên lụy đến Tỳ mà thành bệnh. Khi điều trị, nên chiếu cố cả Tỳ Vị, Tỳ Vị khỏe thì hậu thiên đầy đủ, Tỳ khí phân tán tinh vi dồn lên Phế thì chứng Phế hư sẽ được hồi phục.

Trong bệnh Hư lao gặp chứng Phế khí âm đều hư, nếu ho ra huyết không dứt, khí âm càng tổn thương, có khả năng phát sinh chứng Âm kiệt khí thoát, biểu hiện lâm sàng ho huyết không ngừng, hơi thở nhỏ yếu, gò má đỏ, phiền nhiệt, thậm chí hôn quyết, phải dùng ngay phép ích khí cố thoát, cho uống Sinh mạch tán liều cao (Nội ngoại thương biện hoặc luận).

Chẩn đoán phân biệt

Chứng Phế khí hư với chứng Phế khí âm đều hư; về nguyên nhân và cơ chế bệnh của hai chứng này có mối liên hệ nhất định.

Chứng Phế khí âm đều hư thường do Phế khí hư yếu, bệnh dương hao tổn liên lụy đến âm mà phát triển nên. Phế khí hư thì tấu lý không bền, sự mở đóng sai chức năng, hoặc uống nhầm thuốc cay nóng phát tán, mồ hôi ra quá nhiều, hoặc uống quá nhiều thuốc ôn nhiệt, nhiệt thịnh hóa hỏa, đều tổn thương âm dịch, gây nên chứng Phế khí âm đều hư. Cũng có thể do Phế âm hư, bệnh âm tổn hại đến dương diễn biến nên, vì vậy đối với chứng Phế khí âm đều hư có chỗ khác nhau về bệnh nhân và bệnh cơ.

Phân tích theo biểu hiện lâm sàng, chứng Phế khí hư là Phế khí hư yếu n, không can thiệp gì tới âm dịch hao tổn, cho nên có các chứng trạng ho suyễn đoản hơi, thanh âm nhỏ khẽ, tự ra mồ hôi, sợ gió, mỏi mệt. Chứng Phế khí âm đều hư thì biểu hiện cả Phế âm khuy tổn, có các chứng ho khan ít đờm hoặc trong đờm có lẫn máu, miệng khô họng ráo, tiếng nói khàn v.v…

Chứng Phế âm hư với chứng Phế khí âm đều hư, mối liên hệ về bệ nhân và cơ chế bệnh của hai chứng này cũng cần phân biệt. Chứng Phế âm hư, bệnh biến dài ngày, khái suyễn không dứt, tiến tới hao thương Phế khí bệnh âm tổn hại đến dương, có thể diễn biến thành chứng Phế khí âm đều hư. Từ biểu hiện lâm sàng mà xét, chứng Phế khí âm đều hư cả hai nhóm chứng trạng Phế khí hư và Phế âm hư, ngoài những biểu hiện Phế âm khuy tổn như ho khan có đàm và huyết, mồ hôi trộm, gò má đỏ, nên có chứng trạng Phế khí bất túc như suyễn khái đoản hơi, tiếng nói bợt bạt, sợ gió tự ra mồ hôi, sắc mặt nhợt, tinh thần mỏi mệt, không khó phân biệt với chứng đơn thuần là Phế âm hư.

Chứng Tâm khí âm đều hư với chứng Phế khí âm đều hư: Tâm và đều ở bộ vị Thượng tiêu, Tông khí bao trùm cả Tâm mạch làm lưu thông hô hấp. Tâm và Phế có mối liên hệ chặt chẽ về sinh lý và bệnh lý Cả hai chứng đều là Khí âm đều hư, cho nên biểu hiện lâm sàng có chỗ khá giống nhau, biểu hiện cộng đồng là các chứng trạng đoản hơi thở khẽ, mặt nhợt mỏi mệt, yếu sức, ngũ tâm phiền nhiệt, miệng ráo họng khô, mồ hôi trộm, lưỡi đỏ, mạch Tế Sác vô lực. Nhưng Phế khí âm đều hư lấy biểu hiện ở tạng Phế làm chủ yếu, có cả các chứng trạng về Phế như suyễn gấp, khái thấu, khạc ra huyết, nhiều đờm. Còn Tâm khí âm đều hư, lấy biểu hiện ở tạng Tâm làm chủ yếu, hư tổn ở tạng Tâm, có các chứng trạng Tâm quý sợ sệt, mất ngủ hay mê, chóng quên, mạch Kết Đại. Căn cứ vào đó mà chẩn đoán phân biệt.

Trích dẫn y văn

Nguyên khí hao tổn lâu ngày, đàm thấu Phế nuy, mạch ở Thốn bộ thuộc Phế Hư Sác ít thần khí là chứng khó chữa. Cho uống Tử uyển thang chia làm 3 lần uống, A giao hoà vào nước thuốc, sau đó bỏ các vị Cát cánh, Tri mẫu, thêm Hoài sơn, Liên nhục, Hoàng kỳ theo tinh thần b thổ để sinh kim, chứng khái nhiệt giảm dần (Phế nuy – Loại chứng trị tài).

Bệnh viêm ống tai ở trẻ em – Nguyên nhân, biểu hiện và điều trị

Ống tai là đường hầm dẫn âm thanh từ bên ngoài truyền vào màng nhĩ, lên kho nhớ ở não, ống tai được bọc bênh ngoài lớp da mỏng, dưới làn da có ít sụn, mỡ, và cơ, với các mạch máu và dây thần kinh. Đau ống tai gặp nhiều người ở mọi lứa tuổi.

Nguyên nhân của bệnh này là do: dùng que lấy ráy tai gây thủng lớp da ống tai và bị bội nhiễm.

Nhọt ống tai do cáu bẩn của cát, bụi, nước tắm ứ đọng lâu.

Chấn thương do tai nạn giao thông…

Những nguyên nhân trên là cửa ngõ để các loại vi khuẩn tụ cầu, phế cầu, liên cầu… gây viêm tấy.

Biểu hiện là: Bệnh nhân bị đau nhức sâu bên trong ống tai. Đau nhức lan lên đầu, lan xuống hàm răng. Đau nhiều khi nói, khi nhai, khi hắt hơi, khi nuốt, đau lan ra vành tai, đau nhiều gây mất ngủ. Tai khó nghe, cảm thấy nặng tai.

Người bệnh sốt 39-40°C kéo dài đến khi nào chỗ viêm tấy ống tai vỡ mủ. Người mệt, không thích hoạt động vui chơi giải trí.

Sau khoảng sau ngày vét viêm tấy ở ống tai căng to đo hoá mủ tự vỡ. Mủ chảy ra ngoài vành tai màu trắng đục.

Thăm khám bằng ống soi tai phát hiện một khối to nhô cao bằng đầu ngón tay út. Chung quanh khối viêm màu đỏ, chính giữa màu trắng. Có mủ chảy ra ri rí. Hạch to ở vùng trước tai và góc dưới hàm, ấn đau.

Xét nghiệm máu: công thức bạch cầu tăng cao nhất là bạch cầu đa nhân trung tính. Máu lắng tăng cao. Lấy mủ chỗ viêm tìm thấy vi khuẩn dương tính.

Biến chứng

Viêm tai giữa cấp do vi khuẩn từ ống tai vào gây viêm màng não, não do vi khuẩn xâm nhập vào não.

Tiến triển là: nơi viêm tấy ở ống tai tự vỡ mủ.

Khối lượng mủ ra chưa hết dễ nhiễm trùng huyết.

Bệnh hay tái phát là do chữa chưa khỏi.

Biện pháp phòng tránh là: Mọi người không nên dùng que cứng ngoáy tai đặc biệt là que sắt, dễ gây thủng da là cửa ngõ cho các vi khuẩn xâm nhập gây bệnh như áp xe ống tai.

Sau mỗi lần tắm, dùng tăm bông lau nhẹ ống tai cho sạch nước, bụi, cát và lau mặt trong và mặt ngoài vành tai.

Điều trị: Bệnh nhân cần đến bác sĩ chuyên khoa tai thăm khám, để chích rạch vết viêm tấy chưa vỡ mủ. Nếu vết viêm đã vỡ mủ chưa rộng, cần chích rạch rộng, dẫn lưu hết mủ. Mỗi ngày làm thuốc tai một lần cho đến khi khỏi bệnh.

Chống đau giảm sốt dùng thuốc Efferalgan 300mg, ngày uống hai viên chia làm hai lần sáng và chiều.

Kháng sinh chống vi khuẩn loại phổ cập thế hệ thứ ba uống ngày 0,5 gam chia làm hai lần, dùng bảy ngày.

Bệnh bạch tạng (Albinism)

Bệnh bạch tạng ảnh hưởng đến việc sản xuất melanin, sắc tố tạo màu cho da, tóc và mắt. Đây là một tình trạng kéo dài suốt đời, nhưng không trở nên nghiêm trọng hơn theo thời gian.

Người bị bệnh bạch tạng có lượng melanin giảm hoặc hoàn toàn không có melanin. Điều này có thể ảnh hưởng đến màu sắc và thị lực của họ.

Người có bệnh bạch tạng thường có tóc trắng hoặc rất sáng, mặc dù một số có tóc nâu hoặc đỏ. Màu sắc chính xác phụ thuộc vào lượng melanin mà cơ thể họ sản xuất.

Da rất nhạt màu, dễ bị bỏng dưới ánh nắng mặt trời và thường không có khả năng rám nắng cũng là đặc trưng của bệnh bạch tạng.

Vấn đề về mắt

Lượng melanin giảm có thể gây ra các vấn đề về mắt. Điều này bởi vì melanin tham gia vào sự phát triển của võng mạc, lớp tế bào mỏng ở phía sau mắt.

Các vấn đề về mắt có thể liên quan đến bệnh bạch tạng bao gồm:

  • Thị lực kém: có thể là cận thị hoặc viễn thị, và thị lực kém (mất thị lực không thể điều chỉnh).
  • Loạn thị: nơi mà giác mạc (lớp trong suốt ở phía trước mắt) không cong hoàn hảo hoặc thấu kính có hình dạng bất thường, gây ra thị lực mờ.
  • Nhạy cảm với ánh sáng: nơi mắt nhạy cảm với ánh sáng.
  • Rung giật nhãn cầu (nystagmus): nơi mắt di chuyển không tự nguyện từ bên này sang bên kia, gây giảm thị lực; bạn không thấy thế giới “rung lắc” vì não của bạn thích nghi với chuyển động của mắt.
  • Lác (squint): nơi mắt hướng về các hướng khác nhau.

Một số trẻ nhỏ có bệnh bạch tạng có thể trông vụng về. Điều này là do các vấn đề về thị lực có thể làm một số chuyển động trở nên khó khăn, như việc nhặt một vật. Tình trạng này thường sẽ cải thiện khi trẻ lớn hơn.

Cách truyền bệnh bạch tạng

Có hai loại chính của bệnh bạch tạng:

  • Bạch tạng oculocutaneous (OCA): loại phổ biến nhất, ảnh hưởng đến da, tóc và mắt.
  • Bạch tạng mắt (OA): loại hiếm hơn, chủ yếu ảnh hưởng đến mắt.

Di truyền tự do

Trong tất cả các loại OCA và một số loại OA, bệnh bạch tạng được truyền theo mô hình di truyền tự do. Điều này có nghĩa là một đứa trẻ phải nhận 2 bản sao của gen gây ra bệnh bạch tạng (1 từ mỗi phụ huynh) để có tình trạng này.

Nếu cả hai phụ huynh đều mang gen, có khả năng 1 trong 4 đứa trẻ của họ sẽ mắc bệnh bạch tạng và có khả năng 1 trong 2 đứa trẻ sẽ trở thành người mang gen. Những người mang gen không bị bệnh bạch tạng nhưng có thể truyền gen.

Di truyền liên kết X

Hầu hết các loại OA được truyền theo mô hình di truyền liên kết X. Mô hình này ảnh hưởng đến con trai và con gái một cách khác nhau: con gái nhận gen bạch tạng thường chỉ trở thành người mang gen, trong khi con trai nhận nó sẽ bị bệnh bạch tạng.

Khi một người mẹ là người mang gen bạch tạng liên kết X, mỗi cô con gái của bà có 1 trong 2 khả năng trở thành người mang gen. Mỗi cậu con trai của bà có 1 trong 2 khả năng mắc bệnh bạch tạng.

Khi một người cha có loại bạch tạng liên kết X, các cô con gái của ông sẽ trở thành người mang gen, và các cậu con trai của ông sẽ không bị bệnh bạch tạng và cũng không phải là người mang gen.

Bệnh bạch tạng
Bệnh bạch tạng

Tư vấn di truyền

Nếu bạn có tiền sử bệnh bạch tạng trong gia đình hoặc bạn có một đứa trẻ mắc bệnh này, bạn có thể muốn nói chuyện với bác sĩ về việc xin giới thiệu để được tư vấn di truyền.

Một chuyên gia tư vấn di truyền cung cấp thông tin, hỗ trợ và lời khuyên về các tình trạng di truyền. Ví dụ, bạn có thể thảo luận với họ về cách bạn di truyền bệnh bạch tạng và khả năng truyền nó cho thế hệ sau.

Chẩn đoán bệnh bạch tạng

Bệnh bạch tạng thường rất rõ ràng từ ngoại hình của trẻ sơ sinh khi chúng chào đời. Tóc, da và mắt của trẻ sẽ được kiểm tra để tìm dấu hiệu thiếu sắc tố.

Vì bệnh bạch tạng có thể gây ra một số vấn đề về mắt, trẻ có thể được giới thiệu đến bác sĩ chuyên khoa mắt (nhãn khoa) để tiến hành kiểm tra.

Kiểm tra điện sinh lý cũng đôi khi được sử dụng để giúp chẩn đoán bệnh bạch tạng. Đây là khi các điện cực nhỏ được dán vào da đầu để kiểm tra các kết nối của mắt với phần não điều khiển thị lực.

Các phương pháp điều trị các vấn đề về mắt do bệnh bạch tạng

Mặc dù không có phương pháp chữa trị cho các vấn đề về mắt do bệnh bạch tạng, nhưng có một số phương pháp điều trị, chẳng hạn như kính mắt và kính áp tròng, có thể cải thiện thị lực.

Một đứa trẻ có bệnh bạch tạng cũng có thể cần thêm sự giúp đỡ và hỗ trợ ở trường.

Kính mắt và kính áp tròng

Khi một đứa trẻ có bệnh bạch tạng lớn lên, chúng sẽ cần kiểm tra mắt định kỳ, và có khả năng chúng sẽ cần đeo kính hoặc kính áp tròng để điều chỉnh các vấn đề về thị lực.

Thiết bị hỗ trợ thị lực

Các thiết bị hỗ trợ thị lực bao gồm:

  • Sách và tài liệu in với chữ lớn hoặc độ tương phản cao.
  • Kính lúp.
  • Kính viễn vọng nhỏ hoặc thấu kính viễn vọng gắn vào kính để đọc chữ ở xa, chẳng hạn như trên bảng trắng của trường học.
  • Màn hình máy tính lớn.
  • Phần mềm có thể chuyển đổi giọng nói thành văn bản hoặc ngược lại.
  • Máy tính bảng và điện thoại cho phép bạn phóng to màn hình để làm cho chữ viết và hình ảnh dễ nhìn hơn.

Viện Hoàng gia về Người khiếm thị (RNIB) có thêm thông tin về việc sống với thị lực thấp, bao gồm một phần về giáo dục và học tập.

Nhạy cảm với ánh sáng

Kính mát, kính râm và đội mũ rộng vành khi ra ngoài có thể giúp giảm độ nhạy cảm với ánh sáng.

Rung giật nhãn cầu

Hiện tại không có phương pháp chữa trị cho rung giật nhãn cầu (nơi mắt di chuyển từ bên này sang bên kia không tự nguyện). Tuy nhiên, nó không đau đớn và không trở nên nghiêm trọng hơn.

Một số đồ chơi hoặc trò chơi nhất định có thể giúp trẻ tận dụng tối đa thị lực mà chúng có. Một bác sĩ nhãn khoa sẽ có thể cung cấp thêm lời khuyên.

Phẫu thuật, liên quan đến việc chia và sau đó gắn lại một số cơ mắt, đôi khi có thể là một lựa chọn.

Lác và nhược thị

Các phương pháp điều trị chính cho lác bao gồm kính mắt, bài tập mắt, phẫu thuật và tiêm vào các cơ mắt.

Nếu con bạn phát triển nhược thị, chúng có thể được hưởng lợi từ việc đeo một miếng băng che mắt “tốt” của chúng để khuyến khích mắt khác hoạt động nhiều hơn.

Giảm nguy cơ bị cháy nắng và ung thư da

Vì người mắc bệnh bạch tạng thiếu melanin trong da, họ có nguy cơ cao hơn bị cháy nắng và ung thư da.

Nếu bạn bị bệnh bạch tạng, bạn nên sử dụng kem chống nắng có chỉ số chống nắng cao (SPF). SPF 30 hoặc cao hơn sẽ cung cấp bảo vệ tốt nhất. Bạn cũng nên dành thời gian ở nơi râm mát khi ánh nắng mạnh nhất và che kín bằng quần áo và kính râm phù hợp.

Cũng nên chú ý đến các thay đổi về da, chẳng hạn như:

  • Một nốt ruồi, khối u hoặc cục mới.
  • Bất kỳ nốt ruồi, đốm tàn nhang hoặc mảng da nào thay đổi về kích thước, hình dạng hoặc màu sắc.

Báo cáo những điều này cho bác sĩ càng sớm càng tốt. Ung thư da dễ dàng được điều trị hơn nếu phát hiện sớm.

Chứng đập đầu và rung lắc ở trẻ – Nguyên nhân, hướng xử lý

Đập đầu và rung lắc khá phổ biến ở những trẻ bình thường và cũng xuất hiện ở những trẻ có vấn đề về phát triển. Ở những trẻ bình thường, hành động đập đầu và rung lắc lặp đi lặp lại, nhưng vô hại trong khi khá đáng sợ với cha mẹ, và bé sẽ dần ngừng lại sau khoảng vài tháng. Nếu các hành vi này vẫn tiếp diễn, bé nên được bác sĩ nhi đánh giá. Đập đầu cũng có thể xuất hiện khi bé khóc hờn.

Một số chuyên gia cho rằng những hành động này bắt đầu như một hành vi bình thường và là một phần của nỗ lực làm chủ cử động của trẻ khi trẻ dần dần đạt được khả năng kiểm soát cơ thể. Do đó, nếu một trẻ bắt đầu rung lắc đầu từ sớm, khoảng 4 hay 5 tháng tuổi, có thể sẽ lắc cả người ở 6 tới 10 tháng khi bé phát triển nhiều kỹ năng hơn.

Không ai biết vì sao trẻ em lại đập đầu và rung lắc, nhưng điều thú vị là những thói quen có nhịp điệu này – rung lắc người, đập đầu, lăn đầu – đều mô phỏng hệ thống tiền đình của tai trong, bộ phận kiểm soát thăng bằng. Những hành vi này không phải lúc nào cũng đi liền với chậm phát triển, dù những trẻ bị những dạng khuyết tật nhất định thường lặp lại cử động, cũng như các trẻ rối loạn tự kỷ và những trẻ khác có hệ thần kinh quá nhạy cảm.

Trẻ em thường hết rung lắc, lăn và đập đầu khi khoảng 18 tháng đến 2 tuổi, nhưng các hành động lặp đi lặp lại đôi khi vẫn có ở những trẻ lớn hơn và thiếu niên.

Bệnh rối loạn tic (máy giật) ở trẻ
Bệnh rối loạn tic (máy giật) ở trẻ

Nói chuyện với bác sĩ nhi nếu con bạn thường xuyên gật hay lắc đầu và:

  • Không tương tác với bạn
  • Bị chậm phát triển.

CẢNH BÁO

Rất hiếm, nếu không muốn nói là không bao giờ, những hành vi này gây hại cho trẻ, nhưng nếu bạn lo lắng rằng con mình có thể tự làm mình bị thương hoặc hành vi không giảm qua nhiều tháng, hãy nói chuyện với bác sĩ nhi.

Đối phó với đập đầu

Những cử động nhịp nhàng, lặp đi lặp lại vào giờ ngủ là hành vi phổ biến ở những năm đầu đời, hành vi này có vẻ như khiến trẻ bình tĩnh ngay cả khi có vẻ đáng lo lắng trong mắt các bậc cha mẹ. Thật khó mà hiểu được làm thế nào một đứa trẻ sơ sinh hay trẻ nhỏ có thể tìm thấy sự dễ chịu nhờ lắc từ trước ra sau, va đầu vào thành cũi, hoặc đập đầu vào đệm. Tuy vậy, một số trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ tự dỗ mình theo cách này trong 15 phút hoặc lâu hơn khi chuẩn bị đi ngủ. Trẻ em thường hết rung lắc, lăn và đập đầu khi 18 tháng hay 3 tuổi. Trong khi khiến các bậc phụ huynh lo lắng, nhìn chung nó vô hại, mặc dù bé có thể bị một cục u, chỗ bấm hoặc vết chai nhỏ. Nếu hành động vẫn tiếp diễn, trở nên dữ dội hơn, hoặc xuất hiện vào ban ngày, hãy đề nghị bác sĩ nhi đánh giá.

Hãy kéo cũi xa khỏi tường và đặt nó trên một tấm thảm dày. Lắp đầu bảo vệ thảm bằng cao su hoặc nhựa vào chân cũi để giảm ồn và để bé khó làm di chuyển cũi hơn khi bé rung lắc. Một số bác sĩ nhi gợi ý dùng một máy nhịp hoặc chơi nhạc có phách mạnh để điều chỉnh hành động đập đầu.

Đặt một bộ treo cũi phía trên cũi để tiêu khiển cho bé bằng các hình dạng khác nhau và màu sắc sặc sỡ. Một bộ treo cũi có gắn hộp nhạc phát đi phát lại một giai điệu có thể dỗ dành một bé đang cố ngủ. Hãy quan sát phản ứng của bé với đồ treo cũi; tuy nhiên, một số bé lại sợ những đổ này và khóc cho đến khi chúng được gỡ bỏ. Tiếng nhạc êm dịu trong phòng có thể giúp bé đi vào giấc ngủ.

MỐI BẬN TÂM CỦA BẠN NGUYÊN NHÂN CÓ THỂ CÓ HÀNH ĐỘNG CẦN THỰC HIỆN
Con bạn được khoảng 6 tháng tuổi, rung lắc dữ dội trong cũi, mỗi lần đến 15 phút, thậm chí lâu hơn. Hoạt động này thường xuất hiện khi bé bị bỏ lại một mình để ngủ hoặc nghe nhạc.

Bé rung lắc khi bị mệt.

Một phần trong quá trình phát triển bình thường của bé. Hiện tượng rung lắc ở trẻ là vô hại và có vẻ như nó khiến bé bình tâm. Nó sẽ dần mất đi khi bé vận động nhiều hơn và thường hết hẳn ở 2 hoặc 3 tuổi, mặc dù một số dạng cử động thân thể sẽ còn kéo dài đến tận tuổi thanh niên.
Con bạn đập đầu mạnh và thường – khoảng 60 đến 80 lần một phút – vào một vật cứng, như cũi của bé.

Tiếp nối hành động đập đầu là lăn và rung lắc cả người. Con bạn cũng mút ngón tay hoặc cọ xát chăn khi bé đập đầu.

Đập đầu. Hành động không thể lý giải được này dường như khiến bé bình tâm. Bé thấy dễ chịu hơn nhờ hành động này, dù với bạn thì nó thật đáng ngại. Thực tế, việc này có vẻ như không hề làm cho bé bận tâm (nhất là bé trai), các bé thường trông rất thoải mái và vui vẻ khi đập đầu. Hiện tượng này thường bắt đầu ở khoảng 6 tháng và dừng ở khoảng 2 tuổi.
Con bạn đã tạo ra một mảng hói trên đầu vì không ngừng lăn hoặc lắc đầu. Ngoài ra bé hoạt bát và vui vẻ. Mắt bé chuyển động bình thường. Lăn hoặc vò đầu. Thói quen vô hại này cũng có thể xuất hiện ở trẻ biết ngồi. Nó có thể xuất hiện sớm ở khoảng 6 tháng và thường mất đi trước khi bé được 2 tuổi.
Con bạn bị khuyết tật về phát triển, đập đầu và thực hiện nhiều hành vi có nhịp điệu khác. Bạn lo là bé có thể tự làm mình bị thương. Rối loạn phát triển hoặc hành vi điển hình rối loạn tự kỷ. Nói chuyện với bác sĩ nhi, họ có thể kê một đơn thuốc ngắn để trấn tĩnh bé và khuyên dùng mũ bảo hiểm để bảo vệ đầu bé.

Lâm sàng một số loại động kinh

Động kinh toàn thể cơn lớn:

Một số trường hợp có triệu chứng xảy ra trước cơn động kinh, nếu những triệu chứng này xảy ra nhanh ngay trước cơn thì gọi là hiện tượng thoảng qua (aura). Biểu hiện của aura rất đa dạng, có thể gọi là aura vận động, aura cảm giác và aura cảm xúc… Ví dụ: trước khi lên cơn động kinh bệnh nhân thấy giật giật nhẹ ở các ngón tay một bên nào đó, nóng ran ở nửa người, cảm thấy một mùi gì khó chịu, thấy mắt nảy đom đóm, thấy ù tai hoặc bệnh nhân cảm thấy bồn chồn lo lắng, hoảng hốt… thường gặp trong động kinh thứ phát do ổ bệnh lý ở vỏ não.

Đa số cơn động kinh xuất hiện đột ngột biểu hiện:

  • Bệnh nhân đột ngột mất ý thức, có thể kêu rống lên một tiếng rồi ngã vật xuống bất kỳ chỗ nà
  • Toàn thân chân tay duỗi cứng, hai bàn tay nắm chặt, các cơ hô hấp cũng co cứng, cơ thanh quản khép, bệnh nhân ngừng thở ngắn, vì vậy da niêm mạc tím ngắt do thiếu Giai đoạn này gọi là giai đoạn co cứng, kéo dài 20 – 30 giây.
  • Tiếp theo bệnh nhân co giật các cơ toàn thân, hai tay hai chân co giật nhịp nhanh, lúc đầu nhịp châm sau thành nhanh dần, cuối cơn giật thưa rồi ngừng hẳn, các cơ ở mặt cũng co giật, mắt bệnh nhân trợn ngược, hai hàm răng nghiến chặt vào nhau, sùi bọt mép, đái ra quần. Giai đoạn co giật này kéo dài khoảng 30 – 60 giây.
  • Sau khi ngừng co giật, các cơ doãi mềm, bệnh nhân vẫn mất ý thức, thở sâu, đồng tử hai bên giãn nhẹ. Giai đoạn này kéo dài khoảng 1 phút. Sau đó bệnh nhân tỉnh lại, gọi hỏi bệnh nhân đáp ứng nhưng có thể lú lẫn trong vòng một vài phút, bệnh nhân thở sâu, người mỏi mệt, đau đầu, khám có thể thấy phản xạ gân xương tăng ở tứ chi, phản xạ Babinski (+) hai bên. Có bệnh nhân sau khi hồi phục ý thức trở lại chuyển sang ngủ sâu.

Thời gian từ khi bắt đầu cơn đến cuối cơn, khi bệnh nhân phục hồi ý thức trở lại, thường trong 2 – 3 phút, ít khi kéo dài quá 5 phút. Sau cơn bệnh nhân không biết cơn đã xảy ra như thế nào.

Nếu ý thức của bệnh nhân chưa hồi phục trở lại mà đã xuất hiện tiếp theo liên tục các cơn khác thì gọi là trạng thái động kinh (status epilepticus).

Động kinh toàn thể cơn nhỏ:

Cơn vắng ý thức biểu hiện bằng sự gián đoạn ý thức và hành động với môi trường xung quanh trong một thời gian ngắn, chỉ khoảng 3 – 5 giây. Ví dụ: bệnh nhân đang ăn thì ngừng nhai, có khi rơi bát đũa, đang viết thì ngừng viết, đang nói chuyện thì ngừng lại,v.v… vẻ mặt ngơ ngác trong một vài giây rồi ý thức trở lại và tiếp tục công việc. Có khi người bên cạnh không thấy cơn của bệnh nhân hoặc tưởng là bệnh nhân ngủ gật hoặc không chú ý vào công việc, hầu hết bệnh nhân không biết trước cơn xảy ra, ở một số trường hợp có nhiều cơn bệnh nhân có thể cảm thấy trước khi lên cơn, tự nhiên người choáng váng, hoảng hốt, khó chịu trong người. Cơn xảy ra chủ yếu ở trẻ em.

Hội chứng West:

Hội chứng West được xếp vào loại động kinh toàn thể thứ phát, do bệnh não không đặc hiệu. Chủ yếu xảy ra ở trẻ em dưới 1 tuổi chiếm khoảng 2,8% động kinh trẻ em, nam nhiều hơn nữ.

Hội chứng West được biểu hiện bằng tam chứng:

  • Cơn co thắt gấp người.
  • Giảm sút sự phát triển tâm thần vận động.
  • Điện não ở giữa các cơn có rối loạn nhịp với gai – sóng chậm lan toả.
  • Cơn điển hình: thường rất ngắn dưới 1 giây đến 2 – 3 giây, 80% trường hợp sự co thắt gấp người cả hai bên cơ thể và đối xứng. Đơn giản nhất là gật đầu, nếu cháu bé nằm thì đầu nhấc lên khỏi giường, gấp đầu và mình gấp đôi người lại. Các chi thì như sau: thông thường các chi trên bắt chéo lại trước ngực, chi dưới tư thế gấp (quadruple flexion). Nếu co thắt ở tư thế duỗi thì hai chi trên duỗi thẳng và khép bắt chéo.

Về ý thức khó đánh giá nhưng được xác nhận có trạng thái u ám thoáng qua. Sau cơn co thắt thường trẻ có nụ cười tự nhiên và rối loạn thực vật (da xanh, tím tái).

Nếu như lúc khởi phát cơn co thắt thường riêng biệt rời rạc, thường xảy ra vào lúc thức giấc hoặc trong giấc ngủ, nhưng khi bệnh toàn phát thì cơn xảy ra hàng loạt, thông thường 4 – 5 loạt, 3 – 10 cơn trong ngày. Giai đoạn ổn định bệnh, một tiếng động, một sự tiếp xúc bất ngờ là những yếu tố thuận lợi gây cơn.

  • Cơn không điển hình: ít gặp hơn nhiều khi bỏ qua gọi là những thể mờ nhạt, chỉ có gật đầu, co thắt rất ngắn, co thắt các chi, co thắt không đối xứng, vẹo đầu, vẹo nửa người.
  • Giảm sút tâm thần vận động: Đây là triệu chứng thứ hai, yếu tố đặc biệt của hội chứng. Nó khởi đầu bệnh trong 15% trường hợp. Nó bắt đầu bằng sự thay đổi khí sắc. Trong vài ngày trẻ thờ ơ tất cả: ít cười, không đáp ứng với các kích thích giác quan, người ta ví như điếc hay mù, nét mặt cứng đờ, bất động tuyệt đối. Đôi khi có những cử động định hình. Rất hiếm gặp những phản ứng kích động tấn công. Sau đó bắt đầu sự giảm sút, trẻ không phát triển nữa, không đạt được một cái gì mới. Ngược lại mất những hoạt động có lúc ban đầu của bệnh, không ngồi được, không giữ được thăng bằng đầu, không cười… Mất những tiếp xúc đơn giản nhất và mất trương lực toàn thân.
  • Triệu chứng của điện não:

Những rối loạn điện não trong giai đoạn giữa các cơn là triệu chứng thứ ba của hội chứng West, nhưng không phải là đặc hiệu của hội chứng này. Đó là loạn nhịp rộng, mô tả bởi Gibbs năm 1952 hoặc loạn nhịp mạnh (dysrythmie majeur) mô tả bởi Gastaut năm 1953.

Đây là một hiện tượng cố định, bắt gặp bất kỳ lúc nào trong cả quá trình tiến triển của hội chứng West nếu chúng ta làm EEG nhiều lần.

EEG trong cơn co thắt: hoạt động nhanh điện thế trung bình hoặc hoạt động nhanh nhịp nhàng điện thế cao, không đồng bộ trong từng chặp cơn co thắt sóng kịch phát chậm.

Động kinh thuỳ thái dương:

Động kinh thuỳ thái dương có thể biểu hiện bằng:

  • Cơn vắng ý thức thuỳ thái dương: khác với cơn động kinh toàn thể vắng ý thức (petit mal), cơn vắng ý thức thuỳ thái dương chủ yếu gặp ở người lớn. Biểu hiện: bệnh nhân đang nói chuyện hay đang làm việc bỗng dưng sắc mặt nhợt nhạt, vẻ mặt ngơ ngác, miệng nhai tóp tép hoặc chép miệng. Có những động tác nhỏ ở tay không theo ý muốn như: gãi đầu, sờ tay lên mặt, xoa .. trong cơn bệnh nhân không biết gì, cơn kéo dài trong khoảng 50 – 60 giây rồi bệnh nhân tỉnh lại và tiếp tục nói chuyện hoặc tiếp tục công việc.
  • Cơn tâm thần giác quan biểu hiện: bệnh nhân có cảm giác mừng vui hoặc sợ hãi vô cớ, bỗng chốc bệnh nhân cảm thấy mọi người và đồ vật xung quanh mình trở nên xa lạ như chưa bao giờ trông thấy. Có trường hợp lại có biểu hiện ngược lại, những gì xa lạ trở nên thân thuộc, dù chưa thấy bao giờ bệnh nhân cũng cảm thấy như mình đã thấy, chưa nghe bao giờ nhưng cho rằng mình đã nghe chuyện đó rồi. Hay gặp aura thính giác hoặc khứu giác, vị giác.
  • Hiện tượng tâm thần vận động: biểu hiện bằng những hành động không có ý thức, trong khi bệnh nhân thức hoặc ngủ. Những vận động có thể đơn giản như đã nêu ở trên như: chép miệng, nhai tóp tép, gãi đầu… có thể phức tạp hơn như: bệnh nhân gấp chăn màn, quần áo, đi giày dép, sắp xếp đồ dùng, dụng cụ… trong khi làm như thế bệnh nhân gần như tách rời với môi trường xung quanh, mọi hành động đều vô thức, hết cơn bệnh nhân không nhớ gì về hành động của mình cả.

Khi có những hành động không có ý thức của bệnh nhân gây nguy hiểm cho bệnh nhân hoặc người xung quanh, như đột ngột bệnh nhân vùng chạy thẳng về phía trước, bất kể phía trước có trở ngại nguy hiểm gì. Bệnh nhân có thể hành động tấn công tàn nhẫn bất cứ người nào khi bệnh nhân lên cơn đâm, chém, bắn, đánh đập… Ngược lại có khi bệnh nhân chạy trốn những ảo giác đe doạ bản thân mình. Cơn thường kéo dài vài phút, có khi lâu hơn, sau cơn bệnh nhân hoàn toàn không biết mình đã có những hành động gì.

Người ta chia ra động kinh thuỳ thái dương trung tâm và động kinh thuỳ thái dương vùng vỏ não.

Động kinh cục bộ vận động Bravais Jackson — BJ:

Biểu hiện lâm sàng bằng cơn co giật nửa người không mất ý thức, khởi phát có thể là co giật ở bàn tay, bàn chân hoặc cả ở mặt sau đó lan ra nửa người: đầu và mắt giật quay về phái chân tay co giật, đối diện với bên có ổ bệnh lý. Cơn kéo dài khoảng 2 – 3 phút cũng có khi chuyển thành cơn co giật toàn thân và mất ý thức (cơn lớn).

Động kinh thuỳ trán:

Nhiều cơn động kinh thuỳ trán có các biểu hiện rất kỳ lạ và thường được chẩn đoán nhầm là cơn tâm thần, thậm chí cả sau khi theo dõi bằng điện não đồ vi tính. Có 4 loại cơn: cơn vắng giống như cơn cục bộ phức tạp, cơn tăng động, cơn trương lực cục bộ và cơn vận động phức tạp.

Các cơn xuất phát từ vỏ não thuỳ trán sau vùng vận động cảm giác phối hợp có đặc điểm là cơn trương lực tư thế ở một hoặc cả hai bên, cơn xung động ngôn ngữ có thể xảy ra. Thời gian của cơn thường ngắn (thường 20 – 30 giây), ý thức và trí nhớ vẫn còn nguyên vẹn.

  • Cơn vận động phức tạp ở thuỳ trán hoặc cơn tăng động có đặc điểm là các vận động có biên độ lớn, phức tạp và xảy ra sớm và ngắn (20 – 30 giây) và thường xảy ra khi ngủ. Hầu hết nguồn gốc xuất hiện các cơn này là từ thuỳ trán giữa và trán bên.
  • Cơn vắng ý thức ở thuỳ trán giống như cơn cục bộ phức tạp biểu hiện về lời nói và ức chế hành vi, kèo dài 10 – 30 giây. Giai đoạn sau cơn có thể lâu hơn cơn vắng điển hình. Tính chất đồng bộ cả hai bên thứ phát trên điện não đồ thường gặp. Các cơn này thường có nguồn gốc ở nửa trước của thuỳ trán giữa.
  • Các cơn co giật cục bộ thường có tổn thương vỏ não vận động nguyên phát, tuỳ thuộc vào vị trí tổn thương cơn co giật có thể khu trú chỉ ở mặt bên đối diện, ưu thế ở ngọn chi trên hoặc bất kỳ phần nào của chi dưới. Theo hành trình của Jackson và hiện tượng liệt “Todd” sau cơn có thể xảy ra.

Có thể có các dấu hiệu khác như ngừng nói, quay đầu hoặc quay mắt về một phía.

Các cơn thuỳ đỉnh:

Các cơn đặc hiệu tổn thương vỏ não cảm giác nguyên phát là hiện tượng cảm giác từng phần đơn giản (ví dụ như tăng cảm giác hoặc đau) ở mặt, tay có hoặc không có hành trình Jackson. Các cơn này thường là cơn cục bộ có hoặc không có toàn bộ hoá thứ phát. Các biểu hiện khác như ảo giác, vận động xoay tròn và rối loạn ngôn ngữ.

Động kinh thuỳ chẩm:

Các cơn thường là cục bộ đơn giản kèm theo có triệu chứng về thị lực. Mù trong cơn và vận động quay mắt về bên đối diện và rung giật nhãn cầu có thể xảy ra. Ngoài ra có thể gặp những cơn động kinh đặc biệt sau:

  • Cơn động kinh gian não biểu hiện bằng cơn rối loạn thần kinh thực vật, bệnh nhân hốt hoảng, người mệt lử, tức ngực, khó thở, mặt đỏ bừng hay tái nhợt, vã mồ hôi, tăng huyết áp hoặc giảm, nhịp tim nhanh, run chân tay, đồng tử có thể giãn nhẹ, có thể tiếp theo bằng mất ý thức trong một thời gian ngắn. Cơn thường kéo dài khoảng 20 – 30 phút, có thể kéo dài khoảng một vài giờ. Cuối cùng bệnh nhân mệt lử, thường đi tiểu nhiều, những hôm sau còn mệt mỏi, đau đầu, mất ngủ.
  • Cơn đột quỵ động kinh biểu hiện: bệnh nhân mất ý thức đột ngột, ngã vật xuống, bất động, đồng tử hai bên giãn, không co giật, cơn kéo dài 1 – 2 phút.
  • Cơn đau bụng: biểu hiện bằng cơn đau bụng đột ngột, dữ dội, không tìm thấy nguyên nhân ở đường tiêu hoá, tiết niệu… ghi điện não thấy sóng động kinh
  • Cơn động kinh thể lưới: bệnh nhân biểu hiện bằng mất ý thức trong thời gian ngắn, đầu cổ quay về một bên, co cứng chân tay bên đối diện.
  • Cơn động kinh ngoại tháp: biểu hiện bằng cơn co cứng các cơ, tay co gấp, chân duỗi cứng (kiểu co cứng mất vỏ não).
  • Cơn co cứng cục bộ: biểu hiện bằng cơn co cứng cục bộ như co cứng ở vòng mi, các cơ bàn tay, các cơ chi dưới,… một cách nhanh, mạnh. Các cơ co cứng trên có thể xảy ra một cách liên tục gọi là động kinh liên tục
  • Cơn đau đầu: biểu hiện bằng những cơn đau đầu dữ dội, trong thời gian ngắn có kèm theo buồn nôn, chóng mặt, v.v… điện não có sóng động kinh lan toả.

Ưu Năng Lách – Nguyên nhân, triệu chứng, điều trị

Định nghĩa

Hội chứng đặc hiệu bởi lách to và giảm toàn bộ tế bào máu (gây ra thiếu máu, giảm bạch cầu hạt trung tính và /hoặc giảm tiểu cầu)

Căn nguyên

Giảm bạch cầu hạt, giảm tiểu cầu và giảm hồng cầu ở một mức nào đó trong máu ngoại vi là do những yếu tố tế bào này bị đình lưu ở lách, có thể phát hiện hiện tượng này bằng kỹ thuật đồng vị phóng xạ. Số lượng các tế bào nói trên giảm trong máu ngoại vi thường đi kèm tăng sản tủy xương ít hoặc nhiều. Đôi khi người ta nói: tăng năng lách đặc hiệu bởi máu “rỗng”, nhưng tủy “đầy” , và lách “tăng”. Thể tích huyết tương thường hay bị dãn rộng dẫn tới tình trạng loãng máu giống như thiếu máu. Người ta phân biệt những trường hợp sau đây:

  • Lách to sung huyết(xem: hội chứng Banti): xảy ra do tăng áp tĩnh mạch cửa trong bệnh xơ gan, do huyết khối, hoặc chèn ép tĩnh mạch cửa.
  • Lách to trong những bệnh khác nhau:hội chứng tăng sản tủy xương, bệnh bạch cầu lympho bào mạn tính, bệnh Hodgkin và các u lympho bào không phải Hodgkin, những bệnh nhiễm khuẩn (ví dụ: bệnh sốt rét, bệnh kala-azar), bệnh Gaucher, bệnh Niemann- Pick, bệnh sarcoid, bệnh viêm đa khớp mạn tính tiến triển (hội chứng Felty), .V…
  • Ưu năng lách nguyên phát: không có nguyên nhân rõ rệt.

Triệu chứng

Phụ thuộc vào bệnh gốc và vào những dòng tế bào máu bị giảm số lượng (giảm bạch cầu hạt trung tính, giảm tiểu cầu, thiếu máu). Dấu hiệu lách to có thể kín đáo, chỉ sờ nắn thấy khi khám bụng, hoặc có thể rất to, làm cho bệnh nhân bị đau và khó chịu.

Xét nghiệm cận lâm sàng

  • Huyết đồ:giảm một hoặc nhiều dòng tế bào máu. Thiếu máu thường nhẹ, thuộc typ hồng cầu bình thường và đẳng sắc, tăng số lượng hồng cầu lưới. Giảm bạch cầu hạt trung tính có thể nặng (giảm bạch cầu hạt trung tính do lách).Hay thấy giảm tiểu cầu.
  • Tủy đồ:tăng sản tủy xương, nhất là tăng sản những dòng tế bào bị giảm ở trong máu ngoại vi, tuy nhiên quá trình trưởng thành (biệt hoá) không bị ngưng trệ. Có thể quan sát thấy thâm nhiễm lympho bào hoặc tủy bào, hoặc xơ hoá tủy xương.
  • Điện di huyết tương: cóthể phát hiện thấy loạn gammaglobulin huyết đơn clôn (đơn dòng), hoặc tăng gammaglobulin huyết đơn clôn.
  • Đo thể tích máu:những trường hợp lách thật to có thể kèm theo loãng máu dẫn tới tình trạng giống như thiếu máu.

Xét nghiệm bổ sung

  • Nghiên cứu thời gian sống và đình lưu của hồng cầu bằng đồng vị phóng xạ:chứng minh được thời gian sống của hồng cầu bị ngắn lại và hồng cầu bị đình lưu ở trong lách.

Chụp nhấp nháy lách (xem từ này): phương pháp này có ích để xác định bản chất của khối u sờ nắn thấy ở vùng hạ sườn trái chính là lách, và xác định quá trình bệnh lý diễn ra ở trong lách.

Điều trị

Cắt lách thường phục hồi được tình trạng giảm tế bào máu, nhưng quyết định cắt lách phải căn cứ vào bằng chứng của sự đình lưu tế bào ở trong lách nhờ nghiên cứu đồng vị phóng xạ, đôi khi phải căn cứ vào tình trạng giảm toàn bộ tế bào máu nặng, vào hội chứng chảy máu hoặc hội chứng do lách chèn ép cơ học lên các tạng khác trong ổ bụng. (Đối với hội chứng Banti: xem phần viết về hội chứng này)

Ghép tạng – ghép thận theo dõi và điều trị sau ghép

Ghép mô và cơ quan là một can thiệp sinh học nhân tạo. Đó là một thành tựu quan trọng của y sinh học trong thế kỷ XX và là một hướng phát triển của y sinh học thế kỷ XXI, mở một triển vọng mới trong việc thay thế các tạng bị suy giai đoạn cuối hoặc bị thương tổn không còn khả năng hồi phục. Nhờ những tiến bộ về khoa học, công nghệ trong nửa cuối thế kỷ XX, đặc biệt là miễn dịch học ghép (transplantation immunology) và các chuyên ngành gây mê, hồi sức, phẫu thuật mạch máu, các thuốc ức chế miễn dịch, các kỹ thuật chẩn đoán, theo dõi chức năng các tạng, các kỹ thuật rửa và bảo quản tạng được lấy để ghép… Ngành ghép tạng hiện nay (organ transplatation) đã thực hiện hàng năm trên thế giới hơn 30.000 trường hợp ghép tạng. Hoa Kỳ là một nước tiến hành ghép tạng với số lượng lớn nhất, mỗi năm ghép khoảng 8.000 thận, hơn 3000gan, hơn 2000 tim và hơn 500 phổi. Pháp cũng là nước ghép tạng nhiều mỗi năm khoảng trên 2000 thận, 600 gan, 600 tim, 100 phổi, 80 tim – phổi, 80 tụy…

Ngành ghép tạng Thế Giới ngày càng đạt được những thành tựu mới như ghép tạng ở trẻ nhỏ, trẻ sơ sinh, ở người già. Có thể ghép nhiều tạng cùng một lúc: ghép tim – phổi, ghép thận – tụy, ghép gan – dạ dày – ruột. Có thể tiến hành nhiều lần ghép tạng ở một người (2 – 3 lần). Việc dùng nguồn tạng cho là động vật cũng đang được nghiên cứu với những tiến bộ mới về sinh học phân tử, miễn dịch và di truyền phân tử, công nghệ gen… mở một triển vọng mới về nguồn cho tạng.

Kết quả của ghép tạng ngày càng khả quan. Thời gian sống sau ghép được kéo dài hơn 30 năm với thận, 20 năm với tim, gan. Chất lượng cuộc sống của người ghép tạng được phục hồi, khả năng lao động, tham gia công tác xã hội, sinh hoạt gia đình (lấy vợ, chồng, sinh con…) đều có thể thực hiện tốt sau ghép tạng nói chung và ghép thận nói riêng.

2. Lịch sử ghép thận.

Trên Thế giới:

Việc nghiên cứu thận đã được các nhà khoa học y học nghiên cứu từ thế kỷ XX, Năm 1902, U11mann E. ghép thận tự thân ở chó thành công.

  • Năm 1906, Fabolay M (Pháp) ghép thận lợn, dê cho người nhưng thất bại.
  • Năm 1911, Alexis Carrel (Pháp) tiến hành ghép thận tự thân ở người thành công (giải thưởng Nobel năm 1912).
  • Năm 1936 ,Voronoi Iu (Kiep – Nga) đã tiến hành ghép thận đồng loại từ thận tử thi có nhóm máu “O” nhưng thất bại. Bệnh nhân vô niệu và chết 48h sau ghép.
  • Mãi cho đến năm 1951, Rene Kuss, Charles Dubost ở Pari, Marceau Sarrelle ở Stradbourg tiến hành ghép thận tử thi song cũng thất bại.
  • Năm 1952, Jean Hamburger bác sỹ nội khoa cùng bác sĩ Louis Michon chuyên khoa tiết niệu ở Bệnh viện Necker – Paris tiến hành ghép thận sống (mẹ cho con trai), song cậu bé chỉ sống được 3 tuần sau ghép.
  • Năm 1954, Murray và cộng sự ghép thận đồng loại ở một cặp sinh đôi khác trứng thành công và sử dụng chiếu tia X cho người nhận. Bệnh nhân sống 25 năm và chết năm 1979 vì bệnh tim.
  • Tháng 6-1954, Jean Hamburger và cộng sự đã tiến hành ghép thận cho một cặp anh em sinh đôi cùng trứng và bệnh nhân sống 26 năm sau ghép, sau đó chết vì ung thư bàng
  • Năm 1962, Jean Hamburger đã tiến hành chọn cặp cho và nhận bằng thử nghiệm tương hợp mô (histocompatibility). Hai tác giả Caln R và Murray đã sử dụng ajathioprine để chống thải ghép, còn Gobwin sử dụng glucocorti steroide (prednison) để chống thải ghép. Cũng tại Pháp, một ca ghép cùng loại (allograft) được tiến hành năm 1962 và hiện nay bệnh nhân vẫn sống, ông ta hiện là nghị sĩ Quốc hội Pháp. Đây là ca ghép thận sống lâu nhất trên Thế Giới.
  • Năm 1966, Kismegen ứng dụng nghiệm pháp đọ chéo (cross match).
  • Năm 1967, Starjl sử dụng globulin kháng lympho bào.
  • Năm 1972, Borel và cộng sự điều chế ra cyclosporine và năm 1978 được sử dụng lần đầu tiên trên lâm sàng để dự phòng và điều trị thải ghép tạng.
  • Năm 1981, Cosin và cộng sự sử dụng kháng thể đơn clon OKT3 trong điều trị thải ghép cấp sau ghép.
  • Đến năm 1993 tại Anh đã có 62% bệnh nhân bị suy thận mạn giai đoạn cuối được sống nhờ thận ghép. ở Italia là 28%, ở Pháp là 41%.
  • Cho đến năm 1997 đã có 901 bệnh nhân được ghép thận trên toàn Thế Giới (RFM WOOD – Transplantation in the 21th century – 1998).

Việt Nam:

Nước ta cũng đã tiến hành việc ghép thận thực nghiệm từ thập kỷ 70 và đã thực hiện trường hợp ghép thận đầu tiên trên người vào ngày 4/6/1992. Hiện nay có 3 cơ sở lâm sàng thực hiện ghép thận: Bệnh viện 103 (Học viện Quân y), Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Việt Đức (Bộ Y tế).

Trong thập kỷ 90, ngành miễn dịch học ở nước ta được xây dựng và phát triển, nhu cầu ghép thận được đặt ra, ban chỉ đạo ghép thận kết hợp quân – dân y được thành lập (năm 1990, một đội ngũ đồng bộ được cử sang Cu Ba để học ghép thận và mời chuyên gia Cu Ba sang để khảo sát dự án ghép thận). Được sự giúp đỡ của Hãng Sandoz, Giáo sư Chu Su Lee (Đài Loan) được mời sang cùng đội ngũ cán bộ khoa học quân – dân y tiến hành ghép thận cho trường hợp đầu tiên vào ngày 04 – 6 – 1992 tại Bệnh viện 103.

  • Năm 1996 đã thành lập Hội đồng tư vấn chuyên môn ghép thận thuộc Bộ Y tế.

Năm 1998, đã xây dựng chính thức dự án ghép thận thuộc Bộ Y tế, cho tới ngày 31/12/2000 đã thực hiện ghép thận cho 32 trường hợp (13 trường hợp tại Bệnh viện 103 – Học viện Quân y, 17 trường hợp tại Bệnh viện Chợ Rẫy – thành phố Hồ Chí Minh, 2 trường hợp tại Bệnh viện Việt Đức – Hà Nội).

3. Nhu cầu ghép thận.

Hiện nay nhu cầu ghép thận rất lớn. ở Hoa Kỳ, hàng năm có khoảng 100 người/1 triệu dân bị suy thận mạn giai đoạn cuối và trong số đó có khoảng 20.000 bệnh nhân có nhu cầu được ghép thận. ở các nước Châu Âu có khoảng 50 – 80 người trong số 1 triệu dân bị suy thận mạn giai đoạn cuối. Số bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối có nhu cầu ghép thận ở Nhật là khoảng 15.000 người, ở Đài Loan là 500 người, ở Thái Lan gần 1000 người, ở nước ta chưa có số liệu toàn quốc về tổng số bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối nhưng theo số liệu của Bệnh viện Trung Ương có Khoa thận nhân tạo thì cứ 100 bệnh nhân bị bệnh thận có khoảng 30 người ở giai đoạn cuối. Với bệnh nhân bị suy thận mạn ở giai đoạn cuối có 2 biện pháp điều trị cơ bản gọi là liệu pháp điều trị thay thế thận (Renal Replaement Therapy – RRT) đó là lọc máu chu kỳ bằng thận nhân tạo, lọc màng bụng và ghép thận.

4. Nguyên tắc ghép tạng và ghép thận.

Các kiểu ghép:

Có 2 loại:

  • Ghép phù hợp (tương hợp):

Mô tạng ghép tương hợp về mô học với cơ thể nhận, không xảy ra hiện tượng thải ghép. Gồm 2 nhóm:

  • Ghép tự thân (autograft) : mô lấy từ chỗ này ghép sang chỗ khác trên cùng cơ thể.
  • Ghép đồng loại cùng gen (isogenic, homograft): sinh đôi cùng trứng.
  • Ghép không phù hợp:

Mô tạng ghép không tương hợp với mô cơ thể nhận, luôn xảy ra hiện tượng thải ghép. Gồm hai phân nhóm:

+ Ghép đồng loại khác gen (allogenic homograft, allograft): mô ghép được trao đổi giữa hai cơ thể trong cùng một loài nhưng không giống nhau về di truyền. Trên thực tế lâm sàng, trừ ghép đồng loại cùng gen (sinh đôi cùng trứng) còn hầu hết các trường hợp ghép, mô ghép đều có nguồn gốc khác gen cùng loài.

+ Ghép dị loại (xenograft, heterograft) được chia làm hai nhóm:

  • Ghép giữa các loại rất gần nhau (closery related) như giữa các giống chuột với nhau, ghép giữa người với người gọi là ghép dị loại tương đồng (concordant xenotransplantation).
  • Ghép giữa các loại rất khác biệt nhau (distantly related species) như giữa chó và mèo, giữa lợn và người được gọi là ghép dị loại dị đồng (discordant xenotransplantation).

Các kháng nguyên ghép:

Trên các cơ thể nhận ghép có đáp ứng miễn dịch bình thường thì việc mô ghép sống hoặc bị thải bỏ được quyết định bởi các protein (do các gen nằm trong phức hợp gen phù hợp tổ chức chính mã hoá). Các protein này được gọi là kháng nguyên ghép hoặc kháng nguyên phù hợp tổ chức. Có các kháng nguyên ghép với tính sinh miễn dịch mạnh, đó là hệ thống HLA – kháng nguyên phù hợp tổ chức chính ở người (human leucocyte antigene), còn ở chuột nhắt trắng là hệ thống H – 2. Các gen kiểm soát hệ thống HLA được định vị trên nhiễm sắc thể 6 và các gen kiểm soát hệ thống H-2 được định vị trên nhiễm sắc thể 17.

Các kháng nguyên trong hệ thống HLA và hệ thống H-2 được chia thành 2 lớp: lớp I và lớp II.

  • Lớp I: các kháng nguyên này gồm 2 chuỗi Chuỗi thứ nhất là chuỗi α, được mã hoá bởi các gen HLA ở người hoặc phức hợp gen H-2 ở chuột nhắt. Chuỗi thứ hai bản chất là β2 microglobulin do một gen nằm trên nhiễm sắc thể khác mã hoá. Các kháng nguyên lớp một có mặt trên hầu hết các tế bào có nhân ở người. Lớp I gồm HLA-A, HLA – B, HLA – C (và gần đây thêm HLA -E). ở chuột nhắt, lớp I gồm H-2K, H-2D, H-2L. Các kháng nguyên lớp I hoạt động như những đơn vị nhận dạng. Chúng quyết định tính đặc hiệu trong việc tấn công Lymphô bào T gây độc tế bào (Tc) chống các tế bào nhiễm virus, tế bào ung thư, tế bào khác alen cùng loài.
  • Lớp II: các kháng nguyên lớp II cũng gồm 2 chuỗi polypeptyid: chuỗi β và chuỗi α. Cả hai chuỗi đều được mã hoá bởi các gen nằm trong hệ thống gen HLA (vùng D) hoặc hệ thống H-2 (vùng 1). Các kháng nguyên lớp hai chỉ xuất hiện trên các tế bào tham gia vào đáp ứng miễn dịch (tế bào giới thiệu kháng nguyên lympho bào B, tế bào biểu mô trong tuyến và các lympho bào T hoạt hoá). Có rất nhiều bằng chứng cho thấy yếu tố kích thích gây ra hoạt hoá các đáp ứng thải bỏ mô ghép chính là các kháng nguyên lớp II có trong bản thân mô ghép hoặc các kháng nguyên lớp II trên bạch cầu lẫn trong mô ghép. Các kháng nguyên lớp II cũng có tác dụng khởi động phản ứng mô ghép chống túc chủ (graft versus host reaction) trong những bệnh nhân nhận tuỷ xương ghép từ một cơ thể khác gen cùng loài.

Ngoài việc hoạt động như một kháng nguyên ghép, các kháng nguyên lớp II còn kích thích sự tăng sinh các lympho T khác gen cùng loài trong phản ứng nuôi lympho hỗn hợp và còn tham gia vào sự giới hạn trong quá trình tương tác giữa các tế bào giới thiệu kháng nguyên và các tế bào T phản ứng với kháng nguyên. Chúng cũng giới hạn sự tương tác giữa tế bào B trong quá trình tạo kháng thể.

  • Thải ghép (graft rejection):

Hiện tượng thải ghép đã được nhận biết từ rất lâu:

  • Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX các nhà khoa học khi ghép da đồng loại, da dị loại thấy các mảnh da này bị thải.
  • Năm 1901, Lexe mô tả hiện tượng thải da đồng loại.
  • Năm 1924, Holman thấy ở lần ghép thứ hai da đồng loại, mảnh da bị thải nhanh hơn so với lần I.
  • Năm 1932, Gorez A phân biệt ghép giữa động vật thuần chủng của một dòng (ghép da phù hợp) với ghép giữa các động vật không thuần chủng (ghép da không phù hợp). Từ đó phát hiện những kháng nguyên kích thích sự đáp ứng miễn dịch ghép.
  • Năm 1944 – 1960, Medawar B và cộng sự nghiên cứu đáp ứng miễn dịch ghép đồng loại (allograft response), hiện tượng tăng đáp ứng miễn dịch ghép đồng loại ở những lần ghép sau, hiện tượng kích thích dung nạp thụ động với các tế bào lạ, hiện tượng đáp ứng miễn dịch do các lympho bào T.
  • Những năm 1948 – 1951, Sneel D và cộng sự phát hiện các gen tương hợp mô (histocompatibility gennes).
  • Năm 1958, Jean Dausset phát hiện hệ thống kháng nguyên bạch cầu (human leucocyte antigens – HLA).

Các nhà khoa học đã định vị vùng HLA ở trong khu 21 nhánh ngắn của nhiễm sắc thể thứ 6 ở người, kháng nguyên tương hợp mô (histocompatibility genes) giữ vai trò quyết định trong thải ghép.

  • Cơ chế thải ghép trong ghép đồng loại không phù hợp:

+ Các kháng nguyên HLA – A, HLA – B, HLA – C, HLA – D của tạng cho (donor) khởi phát hiện tượng đáp ứng miễn dịch ghép.

+ Các tế bào lympho Tc (cytotoxic T lymphocytes) của người nhận (recipient) phát hiện các kháng nguyên lớp I (HLA -A, HLA – B, HLA – C) của tạng cho.

Các tế bào lympho Th (helper T lymphocytes) của người nhận phát hiện các kháng nguyên lớp II (HLA – DR, HLA – DQ, HLA – DP) của tạng cho. Các lympho Th còn trợ giúp cho các hoạt động của các tế bào lympho B.

+ Các tế bào lympho B của người nhận (được sự trợ giúp của lympho Th) tiết ra IgG, IgM, các kháng thể kháng HLA – A, HLA – B, HLA – C, HLA – D của tạng cho.

+ Như thế sự thải ghép xẩy ra từ những kháng nguyên của tạng ghép không phù hợp ở người cho và đáp ứng ghép (với tạng lạ) của cơ thể người nhận gồm các yếu tố tế bào: lympho bào T (gồm Tk, Th, Tc), lympho bào B, các yếu tố thể dịch: IgG, IgM và các kháng thể tạng ghép…

  • Cơ chế thải ghép trong ghép dị loại:

Xuất hiện phản ứng ghép dị loại, ngoài các yếu tố tế bào và các yếu tố thể dịch nêu trên còn xuất hiện các kháng thể tự nhiên đã được hình thành sẵn trong từng cá thể (của người nhận) {preformed natural antibodies – PNAb} chúng tác động với hệ thống protein bổ thể (complement protein system – CPS). Các protein này bình thường có chức năng điều hoà trong cơ thể nay trở thành các protein bổ thể “đao phủ” (killer complement protein) huỷ các tạng dị loại ngay lập tức hoặc vài giờ sau ghép.

  • Phân loại các thải ghép theo thời gian xuất hiện:

+ Điều không ai mong muốn sau khi ghép là phản ứng thải bỏ mô ghép do chính cơ thể nhận. Phản ứng này có thể xảy ra sớm hoặc muộn tuỳ thuộc vào:

+ Mức độ không phù hợp kháng nguyên giữa cơ thể cho và cơ thể nhận.

  • Việc cơ thể nhận có mẫn cảm trước với các kháng nguyên phù hợp tổ chức của cơ thể cho hay không.
  • Dùng thuốc ức chế đáp ứng miễn dịch của cơ thể nhận.

+ Người ta phân loại các phản ứng thải bỏ mô ghép dựa vào thời gian được tính từ lúc ghép cho đến khi có biểu hiện thải bỏ gồm:

  • Thải bỏ ghép tối cấp (hyperacute graft rejection).
  • Thải ghép nhanh (accelerate acute graft rejection).
  • Thải ghép cấp (acute graft rejection).
  • Thải ghép mạn (chronic graft rejection).
  • Thải ghép tối cấp:

Phản ứng tối cấp xuất hiện vài phút hoặc vài giờ sau khi ghép. Phản ứng tối cấp xảy ra sau khi cơ thể nhận đã có sẵn kháng thể chống các kháng nguyên HLA cả lớp I và lớp II có trong các tế bào nội mạc các mạch máu ở tạng ghép của cơ thể cho. Các kháng thể đó đ-ợc tạo ra là do cơ thể nhận đã đ-ợc truyền máu trong đó có bạch cầu mang các kháng nguyên phù hợp tổ chức, chính các kháng nguyên này đã kích thích cơ thể nhận tạo ra kháng thể. Sự xuất hiện kháng thể còn có thể là do sinh đẻ hoặc đã có ghép lần tr-ớc nh-ng thất bại sẽ tạo ra trạng thái tiền mẫn cảm cao ở ng-ời nhận. Một ví dụ của phản ứng tối cấp tức thì là tr-ờng hợp ghép thận hoặc tim từ cơ thể có nhóm máu A sang cơ thể có nhóm máu O (bình th-ờng cơ thể nhận này đã có sẵn kháng thể kháng nhóm máu A) các cơ quan ghép bị loại bỏ nhanh đến nỗi ch-a kịp có các mạch máu tân tạo. Bởi vậy cần phải kiểm tra xem cơ thể nhận có sẵn các kháng thể chống các kháng nguyên của cơ thể cho hay không. Chỉ có làm nh- vậy mới tránh đ-ợc phản ứng thải bỏ tối cấp tức thì.

Khi bị thải ghép tối cấp, tạng ghép mềm nhũn, tím. Hình ảnh vi thể thấy mạch máu bị viêm cấp, thành mạch đầy bạch cầu đa nhân, lòng các vi mạch bị tắc do các huyết khối tiểu cầu. Khi đó buộc phải lấy bỏ tạng ghép đã bị huỷ do thải ghép tối cấp.

  • Thải ghép cấp nhanh:

Các phản ứng thải bỏ cấp nhanh diễn ra trong vài ngày đầu sau ghép. Do cả hai yếu tố tế bào và thể dịch của cơ thể người nhận phản ứng cấp với các kháng nguyên có ở tạng ghép. Mô ghép bị thâm nhiễm bởi lympho bào và bạch cầu trung tính và viêm thành mạch hoại tử. Các nghiên cứu trên các mô hình động vật đã chứng minh rằng các phản ứng này là do các lympho bào chứ không phải kháng thể gây ra. Có thể ngăn ngừa phản ứng này bằng cách dùng huyết thanh kháng lympho bào hoặc kháng thymo bào (anti lymphocyte globulin – ALG hoặc anti thymocyte globulin – ATG).

  • Thải ghép cấp:

Thải ghép cấp có thể xảy ra trong 3 tháng đầu sau ghép ngay cả ở những bệnh nhân đã được điều trị bằng các thuốc ức chế miễn dịch. Có 2 cơ chế tham gia:

  • Một là các đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào gây ra tổn thương tạng ghép. Trong ghép thận, bệnh nhân đái ít, có khi chỉ sốt nhẹ 37, 10C – 37, 20C; tăng cân có thể từ 0,5 – 3kg/24h, thận ghép đau, to ra; xét nghiệm ure và creatinin huyết thanh tăng hơn trước; có protein niệu. Nếu sinh thiết thận ghép thấy có thâm nhiễm rất nhiều tế bào đơn nhân xung quanh mao mạch, phù và teo biểu mô ống thận; cầu thận bình thường. Sử dụng corticoid liều cao có thể làm giảm các phản ứng nà
  • Hai là các kháng thể mới do cơ thể nhận sinh ra để chống lại các kháng nguyên cơ thể cho, các kháng nguyên này làm suy thận ghép. Sau ghép, thận ghép đã hoạt động bình thường sau đó bắt đầu có đái ít và suy thận. Hình ảnh vi thể khi sinh thiết thận cho thấy tắc các mao mạch, lắng đọng fibrin, hoại tử ống thận.
  • Thải ghép mạn:

Phản ứng thải bỏ mạn thường xuất hiện từ tháng thứ tư sau ghép, cá biệt có khi xuất hiện vào tháng thứ 3 sau ghép và thường kết hợp với sự giảm dần chức năng của mô ghép. Trong ghép thận biểu hiện chính của thải ghép mạn tính là có protein niệu, cao huyết áp; ure và creatinin máu tăng hơn trước. Kết quả xét nghiệm mô học cho thấy có tăng sinh màng trong và hẹp động mạch. Những thay đổi này xuất hiện bởi phản ứng viêm miễn dịch mạn tính, chống lại tế bào nội mô mao mạch và gây ngưng tụ tiểu cầu lẫn fibrin. Trong đám ngưng tập có cả kháng thể và bổ thể. Cả đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào lẫn kháng thể đều tham gia vào phản ứng thải bỏ mô ghép mạn tính, trong đó có cả sự tham gia của các lympho bào Tc, các lymphokin gây độc do tế bào lympho k, hiệu quả ADCC (gây độc  tế  bào  do  tế  bào  phụ  thuộc  kháng  thể  –  antibody  dependent  cellular cytotoxicity).

5. Các biện pháp chống thải bỏ mô ghép.

Đối với ghép tạng, việc quan trọng nhất là giữ cho tạng ghép không bị thải bỏ. Do đó trước khi ghép phải làm các xét nghiệm: thử kháng nguyên, định týp mô, xác định độ mẫn cảm trước ghép, dùng các thuốc ức chế miễn dịch trong và sau khi ghép.

5.1. Thử kháng nguyên:

Việc thử kháng nguyên phù hợp giữa tổ chức cơ thể cho và cơ thể nhận là một biện pháp quan trọng để cải thiện thời gian sống dư của cơ quan ghép. Công trình tổng kết gần đây của Festenstein trên 1300 bệnh nhân được ghép thận từ năm 1969 đã làm sáng tỏ điều này. Không có bệnh nhân nào điều trị bằng cyclosporin. Các bệnh nhân được chia thành 3 nhóm theo mức độ phù hợp với kháng nguyên lớp I. Nếu phù hợp 2 kháng nguyên HLA – A và 2 kháng nguyên HLA – B thì mang lại kết quả tốt nhất. Chỉ phù hợp hai kháng nguyên HLA – A hoặc chỉ phù hợp 2 kháng nguyên HLA – A và một kháng nguyên HLA – B thì kết quả ghép sẽ kém hơn. Kết quả kém hơn nữa khi chỉ phù hợp một kháng nguyên. Sự phù hợp các kháng nguyên HLA – B có ý nghĩa quan trọng hơn cho việc ghép thành công. Mặc dù còn ít công trình nói về liên quan giữa sự phù hợp của các kháng nguyên lớp II với thời gian sống dư của mô ghép, nhưng chắc chắn là sự phù hợp các kháng nguyên lớp II sẽ làm tăng kết quả ghép rõ rệt.

  • Người cho và người nhận phải phù hợp về nhóm máu (nhóm máu ABO), đây là một bước cơ bản để ngăn cản phản ứng thải bỏ mô ghép tối cấp.
  • Các kháng nguyên Lewis cũng ảnh hưởng đến kết quả ghép thận và hình như chúng có ảnh hưởng thêm vào khi không có sự phù hợp của các kháng nguyên lớp I và lớp Như vậy các kháng nguyên khác nhau có tính sinh miễn dịch khác nhau trong việc kích thích sinh ra hiện tượng thải bỏ mô ghép và nếu không phù hợp ở mức độ cao dù cho các kháng nguyên đó là yếu thì vẫn gây nguy hại cho mô ghép. Các kháng nguyên Rh không thấy gây ảnh hưởng đến thời gian sống của mô ghép.
    • HLA (human leucocyte antygene) là gì ?

HLA là kháng nguyên bề mặt có trên tế bào lympho của người (trên bề mặt lympho bào còn có nhiều kháng nguyên khác).

HLA có trên bề mặt bạch cầu và có hầu hết trên tế bào có nhân, ở người chỉ hồng cầu không có HLA (hồng cầu lưới vẫn có HLA).

Chính HLA gây ra hiện tượng thải bỏ mảnh ghép.

  • Phân lớp HLA:

Lớp I (class I): gồm 3 nhóm:

  • HLA – A có 25 kháng nguyên khác nhau.
  • HLA – B có 56 kháng nguyên khác
  • HLA – C có 12 kháng nguyên khác nhau.

Sự phân chia số lượng kháng nguyên này tuỳ thuộc vào Tổ chức y tế Thế Giới cứ 5 năm họp 1 lần để thống nhất danh pháp về HLA và bổ sung HLA mới.

HLA – AW : ở đây chữ W là Workshop (hội nghị) có nghĩa là tính đặc hiệu của kháng nguyên chưa được xác định mà chờ Workshop tiếp theo khẳng định lại.

+ Lớp II (class II): rất phức tạp.

Trước năm 1980 gọi là HLA – D nhưng chỉ có 1 nhóm D. Sau năm 1980 và cho đến bây giờ người ta thấy có nhiều nhóm D: HLA – DR, HLA – DP, HLA – DQ, HLA – DX. Chữ R viết tắt của chữ Related (liên quan), sau đó người ta tìm ra những nhóm khác và lấy tên là DP, DQ, DX.v.v…

+ Sự khác nhau giữa lớp I và lớp II:

  • Khác nhau về di truyền: hai lớp này được mã hoá về locus gen khác nhau song đều nằm cùng trên nhiễm sắc thể
  • Tế bào lớp I có ở trong tất cả các cơ quan ghép: tế bào biểu mô mạch máu nhỏ, đặc biệt ở tế bào mô mạch máu cầu thận và có nhiều nhất ở tế bào bạch tuộc (dendritic cell). Tế bào này có nhiệm vụ bẫy kháng nguyên.
  • Tế bào lớp II nằm ở lympho B, không có trong tế bào lympho T trừ khi lympho T đã được hoạt hoá.

5.2. Cross match (thử chéo):

Phương pháp thử chéo (hay đọ chéo) tiến hành như sau:

  • Lấy huyết thanh người nhận trộn với lympho bào người cho (cả lympho B và T) để xem trong huyết thanh người nhận có kháng thể chống tế bào lympho người cho hay không. Phương pháp này phải làm ở 3 nhiệt độ khác nhau: 40C, 200C, 370
  • Lấy huyết thanh người nhận trộn với lympho bào B của người cho cũng ở 40C, 200C, 370 Những người có kháng thể ngưng kết tố lạnh phản ứng chỉ xảy ra ở nhiệt độ thấp (40C) mà không ngưng kết ở nhiệt độ cao 370C thì vẫn có thể ghép được nhưng khi ghép phải làm “nóng” quả thận lên 370C.

Cross match âm tính mới được ghép.

Cross match dương tính thì chỉ ghép khi phản ứng dương tính ở 40C với tế bào B và khi ghép phải làm “nóng” quả thận lên như trên. Còn nếu phản ứng dương tính với tế bào T thì không được ghép.

5.3. Xác định tình trạng tiền mẫn cảm trước ghép (có tác giả gọi là tình trạng tiền miễn dịch):

Lấy huyết thanh người nhận trộn với lympho bào bất kỳ của lần lượt từ người thứ nhất đến người thứ 20 bình thường. Nếu huyết thanh người nhận giết chết tế bào lympho của 5 người bất kỳ có nghĩa là dương tính 25% thì không có chỉ định ghép. Nếu tiền mẫn cảm dương tính 20% (giết chết tế bào lympho của 4 người bất kỳ) thì phải cân nhắc cẩn thận trước ghép. Còn dương tính từ 15% đến âm tính thì có chỉ định ghép.

Tóm lại về phương diện miễn dịch trước ghép xác định nếu sự phù hợp HLA của người cho và người nhận càng cao thì khả năng thải ghép càng ít (trường hợp ghép anh em sinh đôi cùng trứng là phù hợp HLA hoàn toàn). Phải xác định cross match âm tính và tiền mẫn cảm phải dưới 15% mới có chỉ định ghép.

5.4. Sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch:

Trong ghép thận người ta dùng corticosteroid (prednison hay methyl prednison) và azathiopin natri, tiến hành điều trị từ vài ngày trước ghép hoặc ngay khi ghép. Đồng thời bệnh nhân cũng được điều trị bằng globulin kháng lympho bào vào lúc tiến hành ghép.

Nhưng nhiều công trình đã chỉ ra rằng globulin kháng lympho bào tỏ ra ít hiệu quả và một số nhóm nghiên cứu về ghép ưa dùng kháng thể đơn clon chống một số quần thể lympho bào T đặc hiệu.

Điều trị bằng cyclosporin A là phương pháp quan trọng nhất trong ghép hiện nay. Loại thuốc này có tác dụng đa năng trên hệ thống miễn dịch, nó có thể gắn vào lympho bào và ngăn cản kháng nguyên hoặc các mitogen hoạt hoá invitro lympho bào. Nó cũng có tác dụng ức chế đại thực bào sản xuất interleukin I và ức chế lympho bào T sản xuất interleukin II. Nhưng chưa chắc chắn rằng các hiệu qủa invitro trên đây của cyclosporin tham gia vào cơ chế làm giảm đáp ứng miễn dịch invitro hay không.

Tuy nhiên cyclosporin có thể gây độc cho thận, gan và thần kinh trung ương. Các tổn thương do tác dụng độc có thể hồi phục khi ngừng thuốc hoặc giảm liều.

Khi sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch, cũng cần biết các tác dụng bất lợi của nó. Các thuốc ức chế miễn dịch có tác dụng làm giảm phản ứng thải bỏ mô ghép, nhưng thuốc cũng làm cơ thể trở nên nhạy cảm với nhiễm trùng do các vi khuẩn cơ hội gây ra. Ngoài ra các cơ thể nhận ghép có sử dụng thuốc ức chế miễn dịch còn dễ bị các bệnh ác tính. Hoover và Fraumini đã tổng kết 6297 trường hợp ghép thận và đã nhận thấy nguy cơ mắc u lympho tăng 35 lần. Nguy cơ này biểu hiện rõ rệt ngay trong năm đầu sau khi ghép. Nguy cơ tăng mắc ung thư mô và da cũng thể hiện rõ rệt. Ngày nay có nhiều thuốc ức chế miễn dịch mới đang được sử dụng (mục 7).

6. Chẩn đoán và điều trị phản ứng thải bỏ mô ghép.

Chẩn đoán:

Triệu chứng lâm sàng và chức năng phản ứng thải bỏ mô ghép thay đổi tuỳ thuộc vào cơ quan ghép. Bệnh nhân thường có sốt và mệt mỏi. Cơ quan ghép thường bị phù nề và mất trương lực. Đánh giá chủ yếu bằng các xét nghiệm hoá sinh và chức năng. Phải chẩn đoán phân biệt giữa phản ứng thải bỏ và nhiễm trùng. Gần đây người ta sử dụng các kỹ thuật chẩn đoán “mạnh mẽ” hơn bao gồm cả việc làm sinh thiết mô ghép để có được kết luận về phản ứng thải bỏ mô ghép.

Điều trị:

Mục đích lớn nhất của việc điều trị là làm giảm cường độ tấn công của các cơ chế miễn dịch vào các cơ quan hoặc mô ghép. Các steroid có hiệu quả nhanh chóng và rõ rệt trong việc làm giảm phản ứng thải bỏ (tới 60 – 70% các trường hợp ở giai đoạn thải bỏ cấp). Thường tiêm tĩnh mạch chậm methylprednisolon liều cao (pulsse therapy) có thể tiêm 1g/ 1 ngày trong 3 ngày liền hoặc 500 mg x 2 ngày đầu sau đó cứ 2 ngày giảm 1/2 liều. Thường thì sau tiêm bệnh nhân hết các triệu chứng thải bỏ, đặc biệt là hết sốt và dễ chịu ngay (chú ý nên cho thuốc chống acid dạ dày, ức chế thụ thể H2 trong thời gian pulse therapy). Gần đây người ta nhận thấy tiêm methylprednisolon với liều nhỏ hơn (2 – 4mg/kg/ngày) cũng có hiệu quả tương tự.

Có thể phối hợp các steroid với globulin kháng lympho bào. Sự phối hợp này có hiệu quả cao nhất với các trường hợp phản ứng thải bỏ có sự tham gia của đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Gần đây người ta sử dụng các kháng thể đơn clon có nguồn gốc chuột nhắt trắng chống lại các quần thể lympho bào T, các kháng thể này gây giảm số lượng lympho bào T (CD3+). Khi tiêm, chức năng của mô ghép được cải thiện sau 2 – 7 ngày.

Việc điều trị các cơn thải bỏ cấp thường có kết quả. Nhưng ngược lại chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu đối với các trường hợp ghép thận khác gen cùng loại mà có phản ứng thải bỏ tối cấp hoặc mạn tính. Việc ngăn ngừa thải ghép mạn ở tất cả bệnh nhân được ghép khác gen cùng loại bằng duy trì các thuốc ức chế miễn dịch trong suốt thời gian sống sau ghép. Có thể dùng phác đồ 2 thuốc: cyclosporin A (sandimun, neorale) phối hợp với prednisolon hoặc imuran (imurel) phối hợp với prednisolon. Hoặc phác đồ 3 thuốc: cyclosporin A phối hợp với prednisolon và imuran hoặc cellcept.

Liều duy trì với các thuốc nh- sau: cyclosporin A, 3 – 4 mg/kg/ngày uống chia 2 lần trong ngày – mỗi lần cách nhau 12 giờ; imuran 1 – 2mg/kg/ngày; prednisolon 5 – 10mg/kg/ngày

{nên dùng cả liều uống một lần sau ăn sáng sẽ ít bị ức chế trục d-ới đồi – tuyến yên – th-ợng thận (hypothalamus – pituitary – adrenal)}, [Grant: 1965, Fleighen: 1967, Ackerman: 1988, PDR – 53 Edition: 1999].

Dùng imuran hoặc cellcept trong phác đồ điều trị phải theo dõi bạch cầu trong máu. Nếu bạch cầu hạ dưới 4,0 x 103 phải ngừng thuốc, sau 1 – 2 tuần bạch cầu sẽ trở về bình thường và có thể dùng tiếp thuốc nhưng phải giảm liều.

Khi dùng thuốc cần phải định lượng nồng độ cyclosporin trong huyết thanh để tăng hay giảm liều sao cho đạt nồng độ tối thiểu 100 – 200 nanogam trong 1ml huyết thanh (ng/ml) với phương pháp miễn dịch phóng xạ (radio immuno assay – RIA) hoặc 400 – 800ng/ml trong máu toàn phần với phương pháp sắc ký lỏng cao áp (high pressure liquid chromatography – HPLC). Hiện nay theo dõi định lượng nồng độ T2 trong huyết kháng uống thuốc sau 2 giờ – duy trì 6 tháng đầu 1.700mg/ml (1,7microgam/ml). 6 tháng sau 1.200mg/ml – Sau 1năm khoảng 800- 1000mg/ml.

7. Các thuốc ức chế miễn dịch chống thải ghép.

Các loại thuốc hiện có:

  • Azathioprine sodium (imuran).
  • Cyclosporin A (sandimmun, neoral).
  • Corticossteroid (methylprednisolone, prednisolone).
  • Orthoclone OKT3 (monoclonal – CD3).
  • FK – 506 (tacrolimus, prograf).
  • Mycophenolate mofetil (cellcept).
  • Deoxypergualin (DSG).

Cơ chế chống thải ghép của các thuốc ức chế miễn dịch:

  • Phong toả, kìm sự nhận dạng mô tạng ghép không phù hợp.
  • Phong toả, kìm sự chuyển các tín hiệu của các tế bào T (blockage of T cell communication).
  • Kìm chế các quá trình nhân bản tế bào lympho (cell replication processes), ức chế sự trưởng thành các bạch cầu, ức chế quá trình tổng hợp DNA các bạch cầu và lympho bào, ức chế tác dụng các cytokin do các lympho bào tiết

8. Các bước chuẩn bị tiến hành cho ghép thận.

Ghép thận cũng như ghép tạng đòi hỏi phải phối hợp nhiều chuyên ngành: thận học, miễn dịch học, mô phôi học, thận nhân tạo, phẫu thuật thực nghiệm, ngoại khoa (ngoại chung, ngoại mạch máu, tiết niệu) gây mê, hồi sức, sinh hoá, hoá nghiệm, huyết học – truyền máu – chẩn đoán hình ảnh, chẩn đoán chức năng; tâm lý y học, dược học…

Chính vì vậy việc chuẩn bị bệnh nhân trước ghép nhất là với người cho thận là người sống là rất quan trọng.

Chọn cặp ghép:

Người cho và người nhận.

  • Người cho:

Nguồn cho thận hiện nay là người sống và người chết:

+ Người sống (Living donor) gồm:

  • Cùng huyết thống gia đình (living related donor).
  • Không cùng huyết thống gia đình (living non related donor).

+ Người chết (cadaver donor) gồm:

  • Chết não (brain death)
  • Tim không còn đập (non – heart beating donor).

Người cho phải có nhóm máu phù hợp, không có bệnh lây truyền, bệnh hệ thống, bệnh ung thư… hai thận phải có chức năng tốt và giải phẫu bình thường, về miễn dịch học và các xét nghiệm cho phép ghép về tương hợp mô (tương hợp về hệ thống DLA, thử chéo, tiền mẫn cảm). Với người cho sống phải làm test tâm lý để họ tự nguyện dù là có quan hệ huyết thống. Với người cho là chết thì cũng phải được tự nguyện hoặc gia đình họ chấp nhận. ở nhiều nước trên thế giới đã làm thẻ cho phủ tạng tự nguyện để khi chết não có thể xin phủ tạng mà không phải xin ý kiến người thân nữa.

  • Người nhận:

Được chỉ định cho tất cả các bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối hoặc mất thận phải chạy thận nhân tạo hoặc lọc màng bụng chu kỳ. Tuổi từ 6 tháng đến 64 tuổi – cá biệt có thể cao hơn 70 tuổi.

Chống chỉ định ghép thận cho người có bệnh sau: bệnh lý ác tính, suy tim không hồi phục, suy hô hấp mạn tính, bệnh gan đang phát triển, bệnh mạch máu (mạch vành, mạch não hoặc ngoại biên), dị dạng đường tiết niệu bẩm sinh nặng, nhiễm khuẩn mạn tính không đáp ứng với điều trị, AIDS, rối loạn đông máu nặng, bệnh tâm thần, nghiện rượu nặng v.v…

Việc tuyển chọn người cho và người nhận phải rất chặt chẽ. Hiện nay có khoảng 50 chỉ tiêu để chọn cặp ghép.

Phẫu thuật lấy thận – rửa thận và ghép thận:

  • Lấy thận:

Phải lấy một quả thận với một cuống mạch bảo đảm : tĩnh mạch và động mạch thận đủ dài và không làm tổn thương giải phẫu thành mạch. Đoạn niệu quản được lấy hết chiều dài và không làm tổn thương khi phẫu tích và bóc tách tránh gây hoại tử sau này.

Khi lấy thận cần đặc biệt chú ý thì phẫu tích bó mạch đặc biệt là tĩnh mạch thận nhất là các nhánh bên tránh làm rách hoặc sang chấn, tổn thương.

Không được sờ nắn vào quả thận trong khi lấy thận đề phòng tổn thương nhu mô thận. Sau khi lấy thận xong quả thận phải được “rửa sạch“.

  • Rửa thận:

Mục đích rửa thận: để làm sạch hết hồng cầu, bạch cầu và làm thông sạch các ống mạch và nhu mô thận ghép. Rửa thận bằng dung dịch euro – Collin đã được

để lạnh 40C, đầu vào là động mạch thận; rửa đến khi quả thận trắng hết và nước ra ở tĩnh mạch thận trong hoàn toàn (chú ý khi rửa thận không làm tổn thương mạch máu, cuống thận và nhu mô thận).

Ghép thận:

Vị trí thận ghép: ở hố chậu phải hoặc trái. Ghép thận có 3 thì quan trọng:

– Nối tĩnh mạch thận với tĩnh mạch chậu trong theo kiểu tận-bên hoặc tận-tận

  • Nối động mạch thận với động mạch chậu trong theo kiểu tận-bên hoặc tận-tận.

Kiểm tra hình thái và chức năng thận ghép sau khi đã nối xong mạch máu (máu nuôi, nhu mô thận và nước tiểu ra ở đầu niệu quản).

  • Trồng niệu quản vào bàng

Trong quá trình ghép thận chú ý công tác gây mê hồi sức, đặc biệt chú ý lượng dịch truyền vào, thuốc lợi niệu, thuốc ức chế miễn dịch, thuốc giãn mạch…

Điều trị sau ghép:

Sau mổ bệnh nhân phải được nằm tại khoa săn sóc đặc biệt (ICU), theo dõi về hô hấp, tim mạch, huyết áp động mạch, huyết áp tĩnh mạch trung tâm, lượng dịch vào, ra hàng giờ, theo dõi số lượng, chất lượng nước tiểu, đảm bảo lượng dịch truyền vào so với lượng nước tiểu là 0,8 – 1ml dịch vào/1ml nước tiểu. Dịch truyền vào là glucose 5% và huyết thanh mặn 0,45%; 0,9% và ringer.

Trong thời gian 3 tháng đầu sau ghép thận, đặc biệt là tuần đầu, tháng đầu là thời gian có nhiều biến chứng sau mổ và có các đợt thải ghép cấp. Thực hiện dùng thuốc ức chế miễn dịch, chữa huyết áp cao, chống bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm nấm, nhiễm virut, chữa các bệnh bột phát, theo dõi và phòng các tác dụng phụ của thuốc ức chế miễn dịch…

Theo dõi sau ghép thận lâu dài:

Bệnh nhân ghép thận phải được theo dõi suốt đời sau ghép: định kỳ 1 – 2 tháng phải được kiểm tra ure, creatinin, công thức hồng cầu, bạch cầu, SGOT, SGPT, axit uric, glucose trong máu và protein nước tiểu.

Cân nặng và huyết áp phải được theo dõi hàng ngày để duy trì chế độ ăn không tăng cân và dùng thuốc duy trì huyết áp cho phù hợp.

Bệnh nhân phải được theo dõi nồng độ thuốc ức chế miễn dịch và điều chỉnh liều sao cho phù hợp với từng cá thể người bệnh; theo dõi các biến chứng nhiễm khuẩn, tim mạch, ung thư sau ghép, biến chứng do dùng corticoide và các thuốc ức chế miễn dịch kéo dài.

Ghép thận – ghép tạng là kỹ thuật y sinh học cao, đòi hỏi nhiều chuyên ngành, tốn kém và phải theo dõi lâu dài, liên tục với chế độ dùng thuốc hợp lý, nhất là thuốc ức chế miễn dịch. Do vậy người bệnh sau ghép phải được thầy thuốc chuyên khoa quản lý và theo dõi chặt chẽ.

Phòng trị bệnh sởi ở trẻ em

Trước khi chưa có vacxin phòng bệnh sởi, sởi là một loại bệnh trẻ em đều phải bị, sự xâm hại của sởi đối với thân thể trẻ em là rất lớn.

ĐẶC TRƯNG BỆNH LÍ CỦA SỞI

Sởi là một loại bệnh truyền nhiễm đường hô hấp cấp tính, tính truyền nhiễm mạnh và biến chứng cũng tương đối nhiều, phát bệnh nhiều nhất là mùa đông và mùa xuân. Trẻ con từ trong độ tuổi 6 tháng cho đến 5 tuổi bị bệnh chiếm tỉ lệ cao nhất.

Những chất tiết ra của niêm mạc mắt, mũi, miệng của trẻ bị sởi đều có mang theo virut, virut ở trong chất tiết ra của trẻ ở thời kì đầu và thời kì ra sởi, thông qua không khí sẽ truyền lây cho người khác, những trẻ dễ cảm mặc dù tiếp xúc virut thời gian rất ngắn cũng có thể bị lây nhiễm.

TRIỆU CHỨNG TRẺ BỊ SỞI

Lúc mới bắt đầu trẻ bị sốt, ho khan, chảy mũi, hắt hơi, mắt đỏ, chảy nước mắt, sợ ánh sáng, toàn thân rất khó chịu, giống như bị cảm gió, cũng thường kèm theo tiếng khò khè, khẩu vị không tốt, buồn nôn, ỉa chảy. Sốt sang ngày thứ 2 thứ 3 thì ở chỗ niêm mạc cúm ở vòm họng hướng về răng hàm có thể thấy các ban sởi màu trắng to như kim, xung quanh nổi quầng đỏ, đó là “ban niêm mạc sởi” là căn cứ để chẩn đoán bệnh sởi sớm nhất và là đáng tin cậy nhất. Trẻ thường thường sốt đến ngày thứ 4, trên người xuất hiện những mẩn (nốt lấm tấm trên da) trên da, bệnh nhi mọc sởi là có một trình tự nhất định, đầu tiên bắt đầu mọc từ phía sau tai, sau đó lan dần từ trên xuống dưới, từ mặt, vai, ngực, lưng, bụng, cuối cùng đến tay chân, bàn tay và bàn chân đều nhìn thấy các mần lấm tấm trên da, các điểm lấm tấm đó có màu hồng nhạt và to nhỏ khác nhau và nhô lên trên bề mặt da, ấn tay vào các điểm đó không bị biến sắc. Các điểm sởi có thể tập trung dày đặc và hòa hợp thành tấm, giữa các nốt sởi nhìn thấy da bình thường. Thời kì mọc sởi là giai đoạn đỉnh cao của quá trình mắc bệnh sởi, triệu chứng rõ nhất, sởi mọc nhiều nhất, nhiệt độ cơ thể của trẻ cũng cao nhất, có thể đến 40°c, cổ họng trẻ sưng đỏ, đau. Lưỡi đỏ tấy lên rất rõ, giống như lưỡi giang mai của tinh hồng nhiệt, bệnh nhân có thể có triệu chứng nôn và ỉa chảy. Bệnh nhân mọc sởi trong 3 – 4 ngày là hết, sau đó lại theo trình tự của mọc sởi, bắt đầu từ mặt tiêu tan dần dần, theo đó nhiệt độ cơ thể cũng bắt đầu hạ xuống, tinh thần và sự thèm ăn của trẻ chuyển biến tốt, khi sởi bay cùng bóc theo một lớp phôi da giống như vỏ cám bay đi, sau khi sởi bay, lưu lại trên da một -Sắc tố màu nâu. Khoảng 1 – 2 tuần thì tiêu tan bay mất. Bệnh nhân trong thời kì mọc sởi sức đề kháng thấp nhất, có một số bệnh nhân có thể biến chứng một số bệnh như viêm phổi, viêm yết hầu, viêm não, bệnh thường thường phát sinh sau khi mọc sởi 2 – 7 ngày, bệnh nhân lứa tuổi càng nhỏ khả năng phát sinh bệnh càng lớn.

CÁC LOẠI SỞI

Ngoại trừ loại sởi thông thường ra còn có sởi loại nặng bao gồm sởi do trúng độc, tức là sau khi phát bệnh nhanh chóng xuất hiện sốt cao, đạt 40°c – 41°c, kèm theo mê sảng, hôn mê, co giật, sắc hồng đen, thời kì đầu sởi mọc dày đặc mẩn mụn đỏ xuất huyết đồng thời hòa hợp thành mảng, sởi có tính cơn sốc, tức là sởi chưa kịp mọc hết, đột nhiên bay đi, hoặc là những mụn sởi thưa và rất nhỏ, màu sắc.tối nhạt, bí rì rì không mọc, sắc mặt trắng nhợt, mạch tế yếu, tim đập nhanh, suy kiệt tuần hoàn. Sởi có tính xuất huyết, tức là xuất huyết trên da, sốt cao, ngộ độc nghiêm trọng, sởi mẩn bọt nước, tức là trên da xuất hiện mẩn nước bọt nước, màng bọt rất mỏng, bên trong chứa dịch trong; Còn có loại sởi nhọ. tiềm phục thời gian dài, triệu chứng nhẹ, không có ban niêm mạc sởi hoặc không có triệu chứng điển hình, các mẩn trên da không rõ rệt, nhưng có tính truyền nhiễm, sợi dị hình, tức là mọc sởi bắt đầu từ tay chân, dần dần đến người rồi phát triển đến mặt. mẩn mụn sởi đa hình đa dạng.

PHÒNG TRỊ VÀ CHĂM SÓC BỆNH SỞI

Trẻ phải cho nằm giường nghỉ ngơi, phòng ở đảm bảo ấm áp, có độ ẩm vừa phải, lưu thông không khí, áo quần, không nên dùng nhiều chăn, thường xuyên lau mình bằng nước ấm, giữ cho da luôn sạch sẽ và hạ sốt, chú ý vệ sinh mắt, mũi, vòm miệng, uống nước nhiều, ăn nhiều hoa quả tươi, rau xanh, không nên hạ nhiệt quá gấp. Khi nhiệt độ cơ thể 39°c trở lên có thể đắp khăn ướt, hoặc xoa lau bằng cồn, tốt nhất không uống thuốc hạ sốt. Thời kì sởi sốt cao có thể uống 5 hạt Hồi xuân đan. 3 tuổi trở xuống mỗi lần uống 2 hạt, 3 tuổi trở lên mỗi lần uống 2 – 3 hạt, ngày uống 2 – 3 lần, uống với nước đun sôi hoặc sắc nước rễ cây lau uống.

Đối với trẻ thể lực yếu mà triệu chứng nặng, trước khi mọc sởi tiêm Globulin loại B 15 – 30ml hoặc tiêm huyết thanh vào tĩnh mạch 50ml thời kì khôi phục sởi.

Để phòng ngừa lây truyền của dịch sởi, trẻ em bị sởi phải được cách li điều trị, không cho tiếp xúc với trẻ em dễ cảm; sơ sinh 8 tháng tiêm chủng vacxin sởi, 1,5 tuổi, 7 tuổi tiêm chủng một lần vacxin bệnh sởi. Trẻ dễ cảm, nhỏ tuổi, cơ thể yếu, có bệnh, sau khi tiếp xúc với người bệnh sởi phải tiến hành miễn dịch bị động, như tiêm Globulin loại c cứ mỗi kg thể trọng 0,2ml hoặc Globulin mỗi kg thể trọng 0,5 – lml. Thời kì khôi phục huyết thanh người bệnh, huyết tương người lớn hoặc toàn huyết đều được. Miễn dịch bị động, nhất thiết phải sử dụng đủ lượng thời kì đầu (trong 3 ngày sau tiếp xúc) mới có thể đề phòng ngừa phát bệnh.

Huyệt Chu Vinh

Chu Vinh

Tên Huyệt Chu Vinh:

Vinh = vinh thông, ý chỉ huyệt ở phía trên tiếp với huyệt Trung Phủ, có khả năng thông kinh, tiếp khí, điều khiển khí Tỳ khí, tán tinh, quét sạch phía trên Phế, điều vinh toàn thân, vì vậy gọi là Chu Vinh (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Châu Vinh.

Xuất Xứ

:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính:

Huyệt thứ 20 của kinh Tỳ.

Vị Trí

Huyệt Chu Vinh

:

Ở khoảng gian sườn 2, cách đường giữa bụng 6 thốn, từ huyệt Thiên Khê đo lên 2 gian sườn, dưới huyệt Trung Phủ 1 gian sườn, nơi cơ ngực to, cơ ngực bé.

Giải Phẫu:

Dưới da là cơ ngực to, cơ ngực bé, cơ răng cưa to, các cơ gian sườn 3, vào trong là phổi.

Thần kinh vận động cơ là dây thần kinh ngực to, dây thần kinh ngực bé và dây thần kinh gian sườn 3.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D2.

Chủ Trị

Huyệt Chu Vinh

:

Trị thần kinh liên sườn đau, ho, màng ngực viêm.

Phối Huyệt:

1. Phối Đại Trường Du (Bàng quang.25) trị ăn không xuống, chỉ thích uống nước thôi (Tư Sinh Kinh).

2. Phối Cao Hoang (Bàng quang.43) + Chiên Trung (Nh.17) + Phế Du (Bàng quang.13) + Xích Trạch (Phế 5) trị ho suyễn (Châm Cứu Học Giản Biên).

Cách châm Cứu:

Châm xiên 0, 3-0, 5 thốn. Cứu 3-5 tráng, Ôn cứu 5-10 phút.

Ghi Chú: Không châm sâu vì có thể đụng phổi.

Điều trị bệnh da bằng tia UVB

I.  ĐẠI CƯƠNG

Có thể sử dụng 2 loại UVB khác nhau để điều trị các bệnh da:

  • UVB dải rộng (BBUVB): phương pháp sử dụng tia tử ngoại UVB bước sóng trung bình 290 – 320nm
  • UVB dải hẹp (NBUVB): phương pháp sử dụng tia tử ngoại UVB có bước sóng 313 ± 2nm. Là phương pháp mới phát hiện và được coi là phương pháp ưu tiên trong điều trị vẩy nến.

Khả năng đâm xuyên của UVB ít, do vậy chủ yếu tác động vào lớp thượng bì. Tác dụng đỏ da nhiều, dễ có tác dụng phụ.

II.  CHỈ ĐỊNH

  • Vảy nến.
  • Bạch biến.
  • Ung thư lympho T ở da (mycosis fongoide).
  • Viêm da cơ địa.
  • Bệnh tế bào mast (mày đay sắc tố).
  • Rụng tóc thể mảng.
  • Bệnh da ánh sáng (PMLE, mày đay ánh nắng).
  • Lichen phẳng.
  • á vảy nến (thể giọt/Pityriasis Lichenoides chronica, thể mảng lớn, thể chấm).
  • Sẩn cục.
  • Sẩn ngứa do suy thận mạn, xơ gan mật, nhiễm HIV
  • Viêm da tiếp xúc.
  • Xơ cứng bì khu trú.

III.  CHỐNG CHỈ ĐỊNH

1. Chống chỉ định tuyệt đối

  • Hội chứng nevi loạn sản di truyền.
  • Hội chứng ung thư tế bào đáy.
  • Tiền sử u da
  • Bệnh có rối loạn sửa chữa ADN (xeroderma pigmentosum, hội chứng Cockayne, hội chứng Bloom).
  • Tiền sử điều trị trước đó bằng tia xạ, arsenic
  • Lupus ban đỏ hệ thống.

2.  Chống chỉ định tương đối

  • Dưới 10 tuổi.
  • Người bệnh bị dầy sừng ánh sáng.
  • Porphyrin da
  • Đục thủy tinh thể.
  • Một số bệnh  có  thể  bị  nặng  lên  khi  chiếu  UV,  như:  pemphigus  và pemphigoid.
  • Đang điều trị thuốc ức chế miễn dịch methotrexat, ciclosporin.
  • Bệnh porphyrin.
  • Bệnh lý gan thận nặng.
  • Nhậy cảm ánh sáng liên quan hoặc không đến thuốc.
  • Đục nhân mắt.
  • Loại da I

IV.  CHUẨN BỊ

1. Người thực hiện

  • Bác sĩ: 1 người
  • Điều dưỡng/kỹ thuật viên: 1 người
  • Hộ lý: 1 người

2.  Dụng cụ

  • Đèn chiếu UVB:

Đèn chiếu tại chỗ.

Buồng chiếu toàn thân.

3.  Người bệnh

  • Tắm, vệ sinh sạch sẽ.
  • Được tư vấn về bệnh, tư vấn về điều trị: hiệu quả của điều trị, tác dụng phụ, các nguy cơ khi điều trị bằng UVB
  • Người bệnh phải bôi dầu paraphin ngay trước khi chiếu.
  • Bôi kem dưỡng ẩm sau khi chiếu tia

4.  Hồ sơ bệnh án

  • Bệnh án ghi chép đầy đủ, có số hồ sơ, mã người bệnh, chẩn đoán xác định, mô tả chính xác và cụ thể thương tổn.
  • Các xét nghiệm thực hiện đầy đủ trước khi chiếu.
  • Có bản cam kết của người bệnh hoặc người thân người bệnh trước khi chiếu.
  • Ghi chép đầy đủ liều chiếu ở mỗi lần và liều chiếu tích lũy.
  • Đánh giá tiến triển thương tổn, tình trạng bệnh và các tác dụng phụ sau mỗi lần chiếu.

5.  Kiểm tra người bệnh

  • Đánh giá loại da của người bệnh.
  • Khám đánh giá mức độ nặng của thương tổn theo các chỉ số của từng bệnh và ghi đầy đủ vào hồ sơ/bệnh án.

V. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH

  • Xác định liều đỏ da tối thiểu của từng người bệnh.
  • Thực hiện liều ban đầu nhỏ tùy theo từng loại da và dựa vào liều đỏ da tối thiểu (thường bằng 70% liều đỏ da tối thiểu). Sau đó, trước khi chiếu đánh giá lại tình trạng đỏ da và tăng sắc tố. Tăng dần liều lên ở mỗi buổi chiếu sau đó (20% liều đang chiếu), cho tới liều tối đa khoảng 200-400 mJ/cm2.
  • Trong một liệu trình điều trị thực hiện thường là hàng ngày trong 6 – 8 tuần, không vượt quá 30 buổi chiếu. Không thực hiện quá 200 buổi chiếu cho cả cuộc đời.

VI.  THEO DÕI

  • Ban đỏ ở da, khô da, ngứa.
  • Thương tổn của herpes tái phát.
  • Viêm kết, giác mạc cấp.
  • Nguy cơ ung thư da: khám da 1 năm/lần.

VII.  XỬ TRÍ TAI BIẾN

  • Khô da: kem làm mềm, dưỡng ẩm.
  • Cho thuốc kháng virus khi có triệu chứng tái phát.

Bệnh Không Dung Nạp Lactose Là Gì?

Lactose là loại đường có trong sữa.

Cơ thể chúng ta sử dụng một enzyme gọi là lactase để phân hủy loại đường này, giúp chúng ta hấp thụ vào cơ thể. Tuy nhiên, những người không dung nạp lactose không có đủ lactase. Enzyme này được sản xuất ở ruột non.

Ngay cả với mức lactase thấp, một số người vẫn có thể tiêu hóa các sản phẩm từ sữa một cách bình thường. Đối với những người không dung nạp lactose, mức lactase thấp gây ra các triệu chứng sau khi họ tiêu thụ sản phẩm từ sữa.

Hội Chứng Malabsorption Lactose Là Gì?

Khi bạn bị malabsorption lactose, ruột non của bạn không thể hấp thụ lactose mà bạn đã tiêu thụ. Lactose đi qua hệ tiêu hóa mà không được hấp thụ. Khi đến đại tràng, nó có thể gây ra các triệu chứng – đó chính là sự không dung nạp. Nếu bạn không dung nạp lactose, theo định nghĩa, bạn không hấp thụ lactose và có các triệu chứng. Nhưng bạn có thể bị malabsorption lactose mà không có sự không dung nạp lactose.

Tỷ Lệ Người Bị Không Dung Nạp Lactose Là Bao Nhiêu?

Bệnh không dung nạp lactose là phổ biến. Nguy cơ này liên quan đến chủng tộc của bạn. Khoảng 85% người lớn da đen ở Mỹ bị không dung nạp lactose, trong khi chỉ khoảng 15% người lớn da trắng. Bạn cũng có khả năng cao hơn nếu bạn có tổ tiên là người Tây Ban Nha, Châu Á, Người bản địa Mỹ hoặc Do Thái.

Điều Gì Xảy Ra Trong Cơ Thể Nếu Tôi Bị Không Dung Nạp Lactose?

Khi chúng ta uống sữa hoặc sử dụng sản phẩm từ sữa, lactase trong ruột non sẽ phân hủy đường sữa. Sau đó, nó được hấp thụ vào cơ thể qua ruột non.

Tuy nhiên, đối với những người không dung nạp lactose, quá trình này không diễn ra dễ dàng. Lactose không được phân hủy và tiếp tục đi vào đại tràng, nơi nó kết hợp với vi khuẩn bình thường và lên men. Điều này có thể gây ra khí, đầy bụng và tiêu chảy.

Các triệu chứng này không nguy hiểm nhưng rất khó chịu. Hầu hết mọi người có thể kiểm soát triệu chứng bằng cách thay đổi chế độ ăn uống và hạn chế lượng lactose họ tiêu thụ. Một số người cảm thấy tốt hơn khi loại bỏ hoàn toàn lactose khỏi chế độ ăn uống của họ.

Nguyên Nhân Của Bệnh Không Dung Nạp Lactose

Nguyên nhân chính của bệnh không dung nạp lactose là cơ thể sản xuất quá ít lactase, enzyme trong ruột non giúp phân hủy lactose.

Mức độ nhạy cảm của ruột cũng đóng vai trò quan trọng. Không hiếm khi ăn những thứ mà cơ thể không thể tiêu hóa hoàn toàn. Những thực phẩm này đi qua ruột non vào đại tràng, nơi chúng nuôi vi khuẩn sống ở đó. Vi khuẩn này khác nhau ở mỗi người, được gọi là “vi sinh vật đường ruột.” Tolerance của mỗi người đối với lactose là khác nhau vì không có hai vi sinh vật đường ruột nào giống nhau. Đó là lý do tại sao mức độ và triệu chứng của bệnh không dung nạp lactose khác nhau ở từng người.

Bạn Có Thể Phát Triển Bệnh Không Dung Nạp Lactose Không?

Hầu hết mọi người trở nên kém dung nạp lactose hơn khi họ lớn tuổi, vì cơ thể chúng ta sản xuất ít lactase hơn theo tuổi tác. Vi sinh vật đường ruột của bạn cũng thay đổi. Một nghiên cứu cho thấy rằng tình trạng malabsorption lactose – đóng vai trò quan trọng trong bệnh không dung nạp lactose – gia tăng ở những người trên 65 tuổi.

Các Loại Bệnh Không Dung Nạp Lactose

Bệnh không dung nạp lactose được chia thành bốn loại:

  1. Không Dung Nạp Lactose Nguyên Phát: Đây là loại phổ biến nhất, xảy ra khi cơ thể dần dần ngừng sản xuất đủ lactase để xử lý các sản phẩm từ sữa.
  2. Không Dung Nạp Lactose Thứ Phát: Điều này xảy ra khi một bệnh lý hoặc chấn thương khiến cơ thể bạn giảm hoặc ngừng sản xuất lactase. Nó có thể xảy ra do các tình trạng như bệnh Crohn, nhiễm trùng đường ruột, hoặc bệnh celiac. Tình trạng không dung nạp lactose của bạn có thể cải thiện – mặc dù chậm – khi vấn đề khác được giải quyết.
  3. Không Dung Nạp Lactose Bẩm Sinh: Mặc dù hiếm, bạn có thể sinh ra đã không thể sản xuất đủ lactase, điều này do một gene di truyền từ cả hai cha mẹ.
  4. Không Dung Nạp Lactose Phát Triển: Trẻ sinh non đôi khi bị không dung nạp lactose vì ruột non của chúng chưa phát triển hoàn chỉnh lúc sinh.

Các Yếu Tố Nguy Cơ Của Bệnh Không Dung Nạp Lactose

Hầu hết người lớn trên thế giới không thể tiêu hóa sữa – khoảng 40% người sẽ ngừng sản xuất đủ lactase để tiêu hóa sữa trong độ tuổi từ 2 đến 5.

Các yếu tố nguy cơ bao gồm:

  • Tuổi tác: Bạn sản xuất ít lactase hơn khi lớn tuổi.
  • Chủng tộc: Nếu bạn có nguồn gốc Châu Phi, Châu Á, Tây Ban Nha hoặc Người bản địa Mỹ, nguy cơ của bạn cao hơn.
  • Sinh non: Trẻ sinh non có thể có hệ tiêu hóa chưa phát triển hoàn chỉnh.
  • Các tình trạng ảnh hưởng đến ruột non: Bao gồm bệnh Crohn, bệnh celiac và sự phát triển quá mức của vi khuẩn.
  • Điều trị ung thư: Xạ trị và hóa trị có thể ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa của bạn.

Triệu Chứng Của Bệnh Không Dung Nạp Lactose

Các triệu chứng của bạn có thể xuất hiện sau vài giờ sau khi bạn ăn sản phẩm từ sữa, vì mất thời gian để lactose không được tiêu hóa di chuyển vào đại tràng của bạn. Các triệu chứng có thể bao gồm:

  • Đầy hơi
  • Khí
  • Buồn nôn và nôn
  • Cơn đau và chuột rút ở dạ dày
  • Tiêu chảy
  • Âm thanh trong dạ dày – tiếng sôi và rùng rùng

Các Xét Nghiệm Để Kiểm Tra Không Dung Nạp Lactose

Cơ thể bạn có thể xử lý một số lactose mà không có triệu chứng. Hãy thử nghiệm để tìm ra loại và lượng sản phẩm có lactose mà bạn có thể ăn và uống.

Có một số bước bạn có thể thực hiện để tự kiểm tra:

  1. Không tiêu thụ sữa hoặc sản phẩm từ sữa trong vài tuần.
  2. Nếu triệu chứng biến mất, hãy đưa sản phẩm từ sữa trở lại chế độ ăn của bạn từ từ và ghi chú cách cơ thể phản ứng.
  3. Nếu triệu chứng vẫn tiếp tục sau khi cắt giảm sản phẩm từ sữa – hoặc nếu triệu chứng quay trở lại – hãy đến gặp bác sĩ để tìm hiểu nguyên nhân.

Bác Sĩ Có Thể Kiểm Tra Không Dung Nạp Lactose Như Thế Nào?

Bác sĩ có thể kiểm tra sự không dung nạp lactose bằng các phương pháp sau:

  • Xét nghiệm hơi thở: Điều này sẽ cho thấy nếu bạn có mức hydrogen cao khi thở ra. Nếu có, bạn có thể bị không dung nạp lactose, vì hydrogen được giải phóng khi lactose bị phân hủy ở đại tràng. Hydrogen sẽ được máu hấp thụ và đưa lên phổi, sau đó bạn sẽ thở ra.
  • Xét nghiệm máu: Xét nghiệm này có thể cho thấy cách cơ thể bạn phản ứng sau khi bạn uống một sản phẩm chứa nhiều lactose. Bác sĩ có thể thực hiện xét nghiệm này nếu kết quả của xét nghiệm hơi thở không rõ ràng.
  • Xét nghiệm độ axit trong phân: Đây là xét nghiệm thường được sử dụng cho trẻ em và trẻ sơ sinh. Nhà cung cấp dịch vụ y tế sẽ lấy mẫu phân của trẻ sau khi trẻ ăn thứ gì đó có lactose. Bằng cách phân tích axit lactic và các chất khác trong mẫu, họ có thể xác định xem trẻ có tiêu hóa lactose hay không.
  • Xét nghiệm gen: Sử dụng mẫu máu hoặc nước bọt của bạn, một phòng thí nghiệm sẽ kiểm tra xem gen của bạn có thể là nguyên nhân gây ra sự không dung nạp lactose hay không.
  • Sinh thiết phẫu thuật: Điều này được thực hiện trong bệnh viện dưới gây mê. Bác sĩ phẫu thuật sẽ rạch một đường trên bụng và lấy mẫu mô ruột non. Sau đó, một phòng thí nghiệm sẽ kiểm tra mẫu để tìm dấu hiệu của sự không dung nạp lactose.

Điều Trị Bệnh Không Dung Nạp Lactose

Bạn có thể có khả năng ăn hoặc uống một lượng nhỏ sản phẩm từ sữa. Một số người cảm thấy tốt hơn nếu ăn kèm với bữa ăn. Một số sản phẩm từ sữa, như phô mai cứng hoặc sữa chua, có thể dễ tiêu hóa hơn.

Ngoài ra, có rất nhiều sản phẩm từ sữa không chứa lactose tại siêu thị. Bạn cũng có thể dùng các loại thuốc bổ sung phổ biến (như Lactaid) để phân hủy đường sữa nếu bạn vẫn muốn thưởng thức các sản phẩm từ sữa thật.

Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn về việc sử dụng thay thế lactase dạng lỏng. Đây là những giọt thuốc không cần kê đơn mà bạn thêm vào sữa.

Ăn các thực phẩm chứa probiotics có thể giúp cải thiện tình trạng không dung nạp lactose của bạn. Các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu xem vi khuẩn axit lactic trong probiotics có thể ngăn cơ thể bạn biến lactose không được tiêu hóa thành khí hay không. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sữa chua chứa probiotics axit lactic có thể giúp cải thiện tình trạng không dung nạp lactose, nhưng cần thêm nghiên cứu.

Nếu Bạn Ngừng Uống Sữa Hoàn Toàn

Nếu bạn hoàn toàn từ bỏ sữa, bạn vẫn có thể nhận đủ canxi, vitamin D và các chất dinh dưỡng khác trong một chế độ ăn uống lành mạnh.

Thay vì sữa, bạn có thể thay thế bằng những thực phẩm sau:

  • Hạnh nhân
  • Đậu khô
  • Đậu phụ
  • Cải xanh
  • Cải xoăn
  • Nước cam bổ sung canxi và sữa đậu nành
  • Cá béo, như cá hồi, cá ngừ và cá thu
  • Lòng đỏ trứng
  • Gan bò

Cách Ngăn Ngừa Đau Do Không Dung Nạp Lactose

Các triệu chứng của bệnh không dung nạp lactose có thể gây khó chịu; cách tốt nhất để quản lý cơn đau là theo dõi chế độ ăn uống của bạn và hạn chế lượng sản phẩm từ sữa bạn ăn và uống.

Những Thực Phẩm Nào Chứa Lactose?

Luôn đọc nhãn. Nhiều thực phẩm có chứa lactose, bao gồm thực phẩm ăn nhẹ, sản phẩm làm bánh, kẹo, hỗn hợp khô, rau khô và công thức dành cho trẻ sơ sinh.

Nhiều loại thuốc cũng chứa lactose, thường được sử dụng làm chất độn, đặc biệt là trong viên nén trắng. Nhiều loại thuốc tránh thai và thuốc điều trị khí và axit dạ dày cũng chứa lactose. Bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn có thể cho biết liệu bất kỳ loại thuốc kê đơn nào bạn đang sử dụng có chứa lactose hay không.

Một số thực phẩm có hàm lượng lactose cao mà bạn nên chú ý:

  • Sữa và kem đặc
  • Sữa đặc và sữa bốc hơi
  • Kem
  • Phô mai cottage
  • Phô mai ricotta
  • Kem chua
  • Phô mai phết

Các Lựa Chọn Thay Thế Không Chứa Lactose

Tìm kiếm các thực phẩm mà bạn có thể thay thế cho những thực phẩm có lactose. Chúng bao gồm:

  • Sữa đậu nành: Chứa nhiều protein, kali và chất chống oxy hóa.
  • Nước gạo
  • Sữa không chứa lactose: Chứa nhiều canxi và protein và nhiều vitamin khác, như A, B, K, kẽm, kali và magiê.
  • Sữa hạnh nhân
  • Sữa dừa

Nếu bạn có triệu chứng của bệnh không dung nạp lactose, hãy đến gặp bác sĩ. Và nếu bạn được chẩn đoán mắc bệnh, hãy thảo luận với họ về cách đảm bảo rằng bạn ăn uống đúng cách.

Những Điểm Cần Nhớ

Bệnh không dung nạp lactose là một tình trạng phổ biến. Khi bạn mắc bệnh này, cơ thể bạn không phân hủy lactose, loại đường có trong sữa và sản phẩm từ sữa. Điều này có thể dẫn đến các triệu chứng như khí, đầy hơi, buồn nôn và tiêu chảy. Các bước bạn có thể thực hiện để quản lý tình trạng không dung nạp lactose bao gồm tìm hiểu thực phẩm nào chứa lactose, hạn chế lượng sản phẩm từ sữa trong chế độ ăn của bạn và dùng bổ sung để giúp bạn tiêu hóa lactose.

Câu Hỏi Thường Gặp Về Bệnh Không Dung Nạp Lactose

Tại sao tôi đột nhiên không dung nạp lactose?

Hình thức không dung nạp lactose phổ biến nhất xảy ra khi mọi người lớn tuổi. Khi bạn lớn lên, cơ thể bạn sản xuất ít lactase hơn, enzyme cần thiết để phân hủy đường trong sữa và sản phẩm từ sữa. Bạn cũng có thể phát triển tình trạng không dung nạp lactose vì bạn có một bệnh lý tiêu hóa như bệnh Crohn, đã phẫu thuật trên ruột, hoặc đang điều trị ung thư.

Điều gì sẽ xảy ra nếu không điều trị bệnh không dung nạp lactose?

Các triệu chứng của bệnh không dung nạp lactose là khó chịu, nhưng không nguy hiểm. Không cần thiết phải tiếp tục trải qua chúng. Bạn có thể điều chỉnh chế độ ăn uống của mình và thực hiện các bước khác để xử lý tình trạng không dung nạp lactose. Mối quan tâm lâu dài chính là nếu bạn loại bỏ sữa khỏi chế độ ăn của mình, bạn có thể không nhận đủ canxi hoặc vitamin D. Tuy nhiên, có những cách để nhận các chất dinh dưỡng này mà không cần ăn sản phẩm từ sữa.

Bệnh Zona thần kinh – Nguyên nhân, triệu chứng, cách chữa Zona thần kinh

Tên khác: bệnh mụn rộp.

Định nghĩa

Bệnh Zona thần kinh là Bệnh da cấp tính do tái hoạt động (tái hoạt hoá) của virus bệnh thuỷ đậu và zona (bệnh mụn rộp) ở trong các hạch thần kinh của rễ sau các dây thần kinh sống, với các biểu hiện bao gồm: đau dây thần kinh, tiếp theo là nổi những mụn nước ở da, trên một nền ban đỏ, tụ thành nhóm ở dọc đường đi của các dây thần kinh, tổn thương da hầu như bao giờ cũng chỉ xuất hiện ở một bên.

Cấu trúc thần kinh da
Cấu trúc thần kinh da

Nguyên nhân của Zona thần kinh

Tác nhân sinh bệnh là virus bệnh thuỷ đậu và zona (bệnh mụn rộp), gọi là varicella zoster hoặc theo tiếng Anh là Varicella- Zona Virus (VZV), trong đó bệnh thuỷ đậu là biểu hiện sơ nhiễm, còn bệnh zona là biểu hiện tái hoạt động (tái hoạt hoá) của virus. Sau khi bệnh thuỷ đậu đã khỏi về lâm sàng, virus di cư dọc theo những dây thần kinh cảm giác để tới các hạch thần kinh rồi tiềm ẩn ở đó, và lại có thể tái hoạt động (tái hoạt hoá) sau nhiều năm. Bệnh zona thường thấy ở những đối tượng mà khả năng miễn dịch bị yếu.

Giải phẫu bệnh

Có những tổn thương viêm trong các hạch ở rễ sau của các dây thần kinh sống (gọi là các hạch gai: cấu tạo bởi thân các nơron cảm giác), và tổn thương phụ ở sừng sau của chất xám trong tủy sống. Những tổn thương chỉ liên quan tới một mụn nước thì tương tự như tổn thương của nốt thuỷ đậu.

Triệu chứng chung của bệnh Zona

Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh zona thường ảnh hưởng đến chỉ một phần nhỏ của một bên của cơ thể. Những dấu hiệu và triệu chứng có thể bao gồm:

Đau, rát, tê hoặc ngứa ran.

Phát ban đỏ bắt đầu vài ngày sau khi cơn đau.

Chứa đầy dịch vỉ, vỡ ra và đóng vảy.

Ngứa.

Một số người cũng có trải nghiệm:

Sốt và ớn lạnh.

Đau nhức.

Nhức đầu.

Mệt mỏi.

Đau thường là triệu chứng đầu tiên của bệnh zona. Đối với một số người, nó có thể cường độ cao. Tùy thuộc vào vị trí của cơn đau, đôi khi nó có thể bị nhầm lẫn với một triệu chứng của các vấn đề ảnh hưởng đến tim, phổi hay thận. Một số người bệnh zona trải nghiệm đau mà không bao giờ phát triển có phát ban.

Thông thường nhất, phát ban bệnh zona phát triển như là một vùng các mụn nước bao phủ xung quanh một bên ngực từ cột sống đến xương ức. Đôi khi bệnh zona phát ban xảy ra xung quanh một mắt hoặc trên một bên mặt.

Hình ảnh bệnh zona
Hình ảnh bệnh zona

Triệu chứng của bệnh Zona thần kinh

Bệnh hay xuất hiện nhất ở đối tượng trên 50 tuổi và ở trẻ em đang điều trị bằng các thuốc ức chế miễn dịch. Bệnh zona nặng có thể là dấu hiệu bên ngoài của bệnh AIDS. Những mụn nước nổi lên trên nền ban đỏ chỉ giới hạn ở vùng da do một dây thần kinh cảm giác chi phối, hoặc của một nhóm hạch gai. Những tổn thương thường chỉ thấy ở một bên và có thể bố trí dọc theo đường đi của dây thần kinh.

Triệu chứng thần kinh sau zona
Triệu chứng thần kinh sau zona

Triệu chứng đau dây thần kinh rất nặng nề, và có thể một hạch bạch huyết của vùng da có tổn thương bị viêm từ trước, rồi tiếp tục sưng kèm theo diễn biến của tổn thương da, và tồn tại trong nhiều ngày sau khi các tổn thương da của bệnh zona đã hết.

Tổn thương da đôi khi cũng xuất hiện sau các triệu chứng toàn thân và sốt. Những tổn thương da không xuất hiện đồng thời với nhau, và thời gian diễn biến kéo dài từ 15-20 ngày.

ZONA LIÊN SƯỜN: đau ngực một bên (điểm đau ngực), thường dữ dội. Sau một vài giò, đã có thể sờ nắn thấy hạch bạch huyết ở nách sưng to, rồi các mụn nước xuất hiện, ở một bên, thành giải dài đi từ cột sống tới xương ức.

ZONA MẮT: virus tiềm ẩn ở hạch Gasser (hạch cảm giác của dây thần kinh tam thoa tương ứng với các hạch gai của dây thần kinh sống) gây ra nhức đầu, đau, và nổi mụn nước ở vùng do nhánh trên (gọi là nhánh mắt hoặc dây thần kinh mắt) của dây thần kinh tam thoa chi phối. Khi mụn nước xuất hiện ở da hoặc ở kết mạc mắt, thì thường gây ra phù mí mắt, sung huyết kết mạc, đôi khi loét và đục giác mạc, hoặc gây ra thiên đầu thống (glôcôm), và viêm mống mắt mạn tính.

Có thể liệt các cơ vận động nhãn cầu. Bao giờ cũng sưng hạch bạch huyết trước tai, và hay có dấu hiệu màng não.

ZONA TAI HOẶC HẠCH GỐI: virus nhiễm vào những hạch của dây thần kinh thính giác và hạch gôl của dây thần kinh trung gian Wrisberg, còn gọi là dây thần kinh phụ của thần kinh măt (dây thần kinh VII ). Bệnh biểu hiện bởi những cơn đau dữ dội và nổi mụn nước ở da trong ống tai ngoài và vành tai, bệnh nhân trở nên điếc một bên, bị chóng mặt, và liệt mặt một bên do dây thần kinh VII (thần kinh mặt) bị chèn ép (hội chứng Ramsay Hunt).

Đôi khi mụn nước nổi ở cả màn hầu và các trụ trước của màn hầu.

ZONA TOÀN THÂN: mụn nước và ban đỏ nổi tràn lan. Thường gặp ở những đối tượng bị suy giảm miễn dịch quan trọng (bệnh máu nặng, điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch, AIDS).

ZONA TÁI PHÁT: thấy ở bệnh nhân AIDS.

Khi bệnh zona tác động tới các dây thần kinh cùng thì có thể gây ra bí tiểu tiện.

Biến chứng

  • Viêm giác mạc do zona và đục giác mạc trong thể zona mắt.
  • Viêm màng não kiểu nhiễm virus (dịch não tủy trong).
  • Đau dây thần kinh sau zona dai dẳng tiếp sau thời kỳ nổi mụn nước và ban đỏ, và có thể tác động đến những nhánh mắt, hàm trên và đôi khi cả nhánh hàm dưới của dây thần kinh tam thoa. Những cơn đau này có thể tồn tại hàng tháng hoặc hàng năm làm bệnh nhân rất khó chịu.
  • Ở những đối tượng suy giảm miễn dịch, bị bệnh Hodgkin hoặc u lympho ác tính không phải Hodgkin: virus lan toả ngoài da, trong tạng, vào màng não và não, gây ra viêm màng não-não, kèm theo viêm mạch máu u hạt và liệt nửa người đối bên, viêm gan.

Nguy cơ lây nhiễm

Một người bị bệnh zona có thể lây siêu vi khuẩn varicella-zoster cho bất cứ ai chưa bị bệnh thủy đậu. Điều này thường xảy ra thông qua tiếp xúc trực tiếp với các vết loét bệnh zona. Khi bị nhiễm, sẽ phát triển thủy đậu, tuy nhiên, không phải bệnh zona.

Bệnh thủy đậu có thể nguy hiểm đối với một số nhóm người. Cho đến khi mụn nước đóng vảy, và nên tránh tiếp xúc với:

Bất cứ ai có một hệ thống miễn dịch yếu.

Trẻ sơ sinh.

Phụ nữ mang thai.

Một số yếu tố điển hình có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh zona bao gồm:

  • Trên 50 tuổi. Bệnh zona thường gặp nhất ở những người lớn hơn 50 tuổi. Nguy cơ này tăng theo tuổi tác. Một số chuyên gia ước tính rằng một nửa những người 80 tuổi trở lên sẽ bị bệnh zona;
  • Một số bệnh nhất định. Bệnh làm suy yếu hệ miễn dịch, chẳng hạn như HIV/AIDS và ung thư, có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh zona;
  • Điều trị ung thư. Xạ trị hoặc hóa trị có thể làm giảm sức đề kháng với bệnh và có thể gây ra bệnh zona;
  • Thuốc. Thuốc được dùng để ngăn thải ghép có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh zona nếu sử dụng lâu dài, chẳng hạn như thuốc steroid prednisone.

Điều trị Zona thần kinh

Rắc bột trơ tại chỗ hoặc áp những mảnh gạc mềm ẩm. Cho thuốc giảm đau (tránh acid acetylsalicylic ở trẻ em vì có nguy cơ gây ra hội chứng Reve), nếu cần thì có thể cho một thuốc an thần kinh là dẫn xuất của phenothiazin hoặc corticoid trong những thời kỳ ngắn.

  • Ở những đối tượng khả năng miễn dịch bình thường, cho aciclovir (800 mg uống 5 lần mỗi ngày) trong vòng 7-10 ngày, thuốc này có thể rút ngắn thời kỳ bị đau và thúc đẩy nhanh tốc độ thành sẹo ở da, nhưng không làm giảm di chứng đau xảy ra muộn.
  • Ở những đối tượng suy giảm miễn dịch, cho aciclovir theo đường tĩnh mạch với liều 10-12,5 mg/kg, cứ 8 giờ tiêm một lần, trong một tuần.
  • Trong trường hợp bị viêm giác mạc nhỏ thuốc nước corticoid. Phải cho thuốc giãn đồng tử mắt. Ngược với bệnh herpes, viêm giác mạc do zona chịu ảnh hưởng tốt của corticoid theo đường toàn thân.
  • Đối với trường hợp đau sau zona:

Với hầu hết các trường hợp, đau có thể giảm theo thời gian. Phương pháp điều trị và việc lựa chọn thuốc điều trị đau thần kinh sau zona cần căn cứ vào tình trạng riêng ở mỗi người bệnh. Các thuốc kháng viêm giảm đau thông thường như: aspirin, paracetamol hay giảm đau nhóm non-steroid thường không đáp ứng lại cơn đau thần kinh sau zona.

Tuy nhiên, điều trị đau thần kinh sau zona có tác dụng rút ngắn thời gian triệu chứng và giảm nhẹ cơn đau. Nếu đã dùng thuốc giảm đau và vitamin 3B không đỡ thì bác sĩ sẽ kê đơn thêm thuốc an thần, thuốc bôi tại chỗ.

Trường hợp trầm trọng, đau dây thần kinh sau zona kéo dài và dữ dội có thể phải dùng thuốc tiêm vào khoang dưới màng nhện của tủy sống loại thuốc myehyl prednisolon acetat 1 tuần/lần trong 4 tuần sẽ có tác dụng giảm đau đáng kể. Lưu ý, giải pháp này cần phải có sự kết hợp của bác sĩ chuyên khoa gây mê với bác sĩ da liễu mới tiêm được. Bác nên tái khám để được kê đơn dùng thuốc phù hợp.

Ghép tim thay tim

Ngày 3 tháng 12 năm 1967, cả thế giới sôi nổi khi nghe tin nhà bác học Nam Phi – Giáo sư Barnard, đã ghép thành công quả tim của một phụ nữ trẻ tuổi bị chết trong tai nạn ô tô là cô Denise cho một bệnh nhân mắc bệnh tim nặng tên là Vashkanski.

Vashkanski đã sống được 18 ngày bằng trái tim ghép đó.

Ngày 2 tháng giêng năm 1968, Barnard lại ghép một quả tim thứ hai của một nạn nhân cho một người mắc bệnh tim nặng tên là Blaide. Blaide đã sống được trên một năm.

Việc ghép tim thành công đầu tiên trên người của Giáo sư Barnard đã có một ý nghĩa lớn trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, thúc đẩy nhiều phẫu thuật viên khác trên thế giới ở Mỹ, Pháp, Chile, Tiệp Khắc, Liên Xô làm theo.

Người bệnh được ghép tim đầu tiên ở Mỹ tên là Kaxperac, anh ta đã sống được 15 ngày bằng trái tim của người khác và sau đó người vợ góa của anh đã phải thanh toán 28.800 đô la cho người chồng bất hạnh của bà. Cho đến cuối năm 1968 toàn thế giới đã có 84 trường hợp ghép tim trên người, trong đó có 42 người bị chết và 42 người sông với nhiều thời hạn khác nhau. Trong số những người sống, có hai người đã được ghép tim lại lần thứ hai.

Tới nay, đã có trên 40 năm trôi qua, kể từ lần ghép tim thành công đầu tiên do Giáo sư Barnard thực hiện, người ta đã tiến hành hàng ngàn ca ghép tim cho những bệnh nhân bị bệnh tim nặng, trong đó có trường hợp một người Pháp là Emmanuel Victoria kỷ niệm 14 năm ngày ông được ghép tim. Theo báo Diễn đàn thông tin quốc tế, Victoria là người sống lâu nhất trong những người được ghép tim. Năm 47 tuổi, Victoria bị một cơn đau tim nặng nhất. Ngày 28-11-1968, các bác sĩ ở Bệnh viện Marseille (Giáo sư Edmond Henri và cộng sự) đã thay tim cho Victoria bằng trái tim khỏe mạnh của một thanh niên 20 tuổi bị chết vì tai nạn ô tô.

Chúng ta ai cũng biết rằng, việc ghép tim đầu tiên trên người của Giáo sư Barnard không phải ngẫu nhiên, mà nó đã được tiến hành nhiều năm trên động vật, cộng với kinh nghiệm của nhiều phẫu thuật viên ở các nước khác mà Giáo sư Barnard đã tích lũy.

Bước đường đi tới con người trong khoa học là bước đường đầy gian khổ chông gai, và người làm khoa học phải thật bình tĩnh, thận trọng, kiên trì, có khi phải mất hàng chục năm nghiên cứu trên động vật. Việc “áp dụng đầu tiên trên người” chỉ có thể quyết định khi lương tâm của người thầy thuốc đã khẳng định rằng đó là một việc bất đắc dĩ, ngoài biện pháp này không còn cách nào khác để cứu sống bệnh nhân. Cũng như trường hợp của nhà bác học Louis Pasteur, khi ông chưa kịp kiểm tra hiệu lực và độc tố của vacxin ngừa dại do ông nghiên cứu thì ông đã phải dùng cho một em bé 9 tuổi là Joseph bị chó dại cắn, và em bé đã được cứu sông.

Việc ghép tim không đơn giản như các cuộc mổ thông thường khác, nó không chỉ thuần túy khoa học mà còn liên quan đến xã hội, tình cảm và đạo đức của con người nữa.

Khi chúng ta ghép một cơ quan có đôi như thận, nếu cuộc mổ thành công thì cả người cho và người nhận thận đều sống. Nhưng ghép tim thì khác hẳn, khi tim là cơ quan độc nhất, do đó người cho tim chắc chắn phải là người chết hoặc sẽ chết, dù thành công thì cũng chỉ người nhận tim được sông mà thôi!

Đứng trước hai bệnh nhân ở trong tình trạng nặng gần ngang nhau – một người mắc bệnh tim nặng và một người vừa bị một tai nạn gây chấn thương nặng – cả hai đang bị thần chết đe dọa. Đối với lương tâm người thầy thuốc, chỉ có một mong muốn là phải cứu sống cả hai bệnh nhân. Trong thực tế, có hàng trăm người bệnh đã hồi sinh sau một cái chết lâm sàng (tức là mới chết 5-6 phút, tim ngừng đập, phổi ngừng thở nhưng tế bào não vẫn sống, có khả năng phục hồi lại nếu được hồi sức tích cực). Nhà vật lý học nổi tiếng của Liên Xô Landao, sau khi bị tai nạn ô tô rất nặng, ngày 8 tháng giêng năm 1982: xương sọ và xương chẩm bị vỡ, não bị chấn thương nặng, lồng ngực bị ép, gãy bảy xương sườn, phổi bị chấn thương, xương chậu vỡ, bị choáng nặng, chẳng đã được cứu sống sau ba lần chết lâm sàng đó sao!

Tại Liên Xô, kinh nghiệm ghép tim trên thực nghiệm của Giáo sư V. V. Kovanov và V. J. Burakoyski đã cho ta thấy kết quả tốt nhất là trường hợp ghép một trái tim đang còn sống, được lấy ra trong điều kiện hạ thể nhiệt nhân tạo trung bình (28°C). Chumvay cũng cho biết càng lấy tim chậm bao nhiêu thì khả năng ghép được càng ít đi bấy nhiêu: lấy tim một giờ sau khi chết thì khả năng ghép được là 80%, lấy tim sau khi chết một giờ rưỡi thì khả năng ghép được chỉ còn 70%…

Với tiêu chuẩn đó, một vấn đề được đặt ra là lấy tim ở đâu và của ai để ghép? Nếu chỉ đứng riêng về mặt y học mà nói thì tốt nhất là lấy tim của người chấn thương sọ não nặng đã hết khả năng sống. Nhưng việc chứng minh rằng các tế bào não đã chết hẳn mà ta thường gọi là “chết não” rất khó khăn và phức tạp, thậm chí có trường hợp đã mê sâu, trên băng ghi điện não gần như đã kẻ một đường thẳng, hầu như nạn nhân đã hết hy vọng sông. Trong thực tế chúng tôi đã gặp lại những nạn nhân bị hôn mê sâu sau chấn thương sọ não nặng, nhưng đã hồi tỉnh lại, vận động, đi lại được sau 2-3 tháng tích cực hồi sinh. Giáo sư – Viện sĩ Viện Hàn lâm (Liên Xô) A. A. Vishnhevski dự kiến sẽ tiến hành một cuộc phẫu thuật ghép tim cho một bệnh nhân bị bệnh tim nặng, lấy tim từ một người đã bị chết não do khoa chẩn đoán chức năng của Viện ông thông háo là trên băng ghi điện não của người này đã ghi một dòng thẳng. Trong khi xe cáng đưa người cho tim lên phòng mổ, anh ta đột nhiên ngồi nhỏm dậy và xin nước uống. Mọi người đang sửng sốt thì nghe từ phòng đo điện não thông báo lại là máy đo điện não bị hư nên đã kẻ một đường thẳng. Người dự kiến cho tim là một người say rượu mê sâu!

Trong thực hành phẫu thuật đôi khi cũng có thể xảy ra tình huống nghiêm trọng như thế đấy!

Khi ghép thận, ta còn có thận nhân tạo để tạm thời thay thế quả thận được ghép có thời gian thích ứng với hoàn cảnh mới, chống lại các phản ứng thải quả thận được ghép đi. Thời gian đó có thể kéo dài từ một ngày tới một tuần lễ. Nhưng khi ghép tim, chúng ta lại chưa có được một trái tim nhân tạo để tạm thời thay thế một phần nào chức năng của trái tim mới được ghép trong thời gian đầu. Chính vì thế mà trái tim được ghép phải hoạt động ngay từ phút đầu tiên kể từ sau khi phẫu thuật ghép tim hoàn thành.

Khó khăn chính trong lĩnh vực ghép tim hiện nay không phải là vấn đề kỹ thuật, vì kỹ thuật mổ xẻ ghép tim đã được nghiên cứư tương đối hoàn chỉnh trong thực nghiệm và đã áp dụng trên lâm sàng có kết quả khả quan, mà là một loạt các vấn đề có liên quan đến tâm lý xã hội, việc lựa chọn người cho tim để ghép, ai là người đứng ra bảo đảm rằng người cho tim là một người thực sự đã chết, và ai là người có quyền quyết định cho trái tim đó để ghép cho một bệnh nhân bị bệnh tim nặng, các vấn đề liên quan đến biện pháp ức chế miễn dịch để trái tim được ghép không bị loại bỏ ra khỏi cơ thể người nhận.

Mặc dầu trong lĩnh vực ghép tim đã có nhiều tiến bộ, một số tim ghép đã kéo dài cuộc sông của bệnh nhân thêm nhiều năm, nhưng thực tế lâm sàng như cái chết của Blaide sau hơn một năm được ghép tim và của những bệnh nhân khác với thời gian được ghép tim ngắn hay dài hơn Blaide, đã chứng minh rằng tuy người ta đã áp dụng kỹ thuật mổ xẻ cao, đã dùng nhiều biện pháp ức chế miễn dịch… nhưng cuối cùng, trái tim ghép vẫn không thích hợp được với tình cảm, xúc động của người bệnh và không được sự điều khiển, chỉ huy trực tiếp của hệ thần kinh trung ương.

Nhiệm vụ của các nhà khoa học y học hiện nay là cố gắng tìm các biện pháp tích cực để đề phòng không cho bệnh tim xảy ra như tích cực đề phòng và điều trị các bệnh thấp, đề phòng bệnh xơ mỡ động mạch sớm bằng luyện tập, chế độ lao động, nghỉ ngơi, chế độ ăn uống, sinh hoạt… và tìm tòi nghiên cứu điều trị các bệnh tim có hiệu lực hơn, cả về nội khoa, ngoại khoa và các ngành y học chuyên khoa khác có liên quan. Phương pháp dưỡng sinh của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, nguyên Viện trưởng Viện Y Dược học Dân tộc, đã đóng góp một phần lớn vào việc bảo vệ sức khỏe cho người lớn tuổi, đề phòng tích cực các bệnh tim ở người lớn tuổi như bệnh thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim… là những bệnh được xếp hàng đầu trong những bệnh tim cần phải ghép tim.

Vì khía cạnh phức tạp của vấn đề tâm lý xã hội và vì sự nghiên cứu chưa hoàn chỉnh các biện pháp ức chế miễn dịch trong lĩnh vực ghép các cơ quan bộ phận nói chung và ghép tim nói riêng, nên ở nước ta cũng như ở một số nước xã hội chủ nghĩa khác, trong đó có Liên Xô, rất thận trọng trong việc tiến hành ghép tim trên người. Cách đây 40 năm, trên báo Tổ Quốc, cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Việt Nam (báo Tổ Quốc số 2 – 1970 trang 41 – 44, Hà Nội), chúng tôi đã mạnh dạn nêu lên ý nghĩ của mình là nghiên cứu để chế tạo ra một “trái tim nhân tạo” có thể hoạt động lâu dài từ 4 đến 20 năm, bền bỉ và liên tục, song song với trái tim của người bệnh, sẽ là một giải pháp tương lai không xa để điều trị các bệnh tim nặng có chỉ định thay tim.

Một điều hợp lý, nhân đạo và phù hợp với lương tâm của người thầy thuốc là nếu không ghép tim mà chỉ dùng “trái tim nhân tạo” song song với trái tim của người bệnh thì cuộc sống của người bệnh sẽ được kéo dài hơn và ít nguy hiểm hơn. Khi “trái tim nhân tạo” bị hỏng ta có thể tháo nó ra và thay thế bằng một “trái tim nhân tạo” khác như lắp một chiếc máy tạo nhịp tim thông thường vậy.

Cuối năm 1982, bác sĩ William de Vries ở Bệnh viện Salt Lake City đã ghép thành công quả tim nhân tạo vào lồng ngực một nam bệnh nhân 61 tuổi bị bệnh cơ tim giai đoạn cuối. Quả tim nhân tạo này mang tên Jarvik – 7, là mô hình thứ 7 của môt loat mô hình do bác sĩ Robert Jarvik thực hiện. Cuộc mổ xẻ kéo dài hơn 6 giờ đã kết thúc tốt đẹp. Ông Barney Clark, người được ghép tim nhân tạo, đã tỉnh lại một giờ sau khi mổ và nói: “Tôi không dám tin đây là sự thật, tôi còn sống”.

Tại Viện Nghiên cứu Ghép Các cơ quan bộ phận và Chế tạo Các cơ quan bộ phận Nhân tạo của Liên Xô tại Matxcơva do Giáo sư – Viện sĩ Viện Hàn lâm V. J. Shumakov làm Viện trưởng cũng đã chế tạo được “trái tim nhân tạo” như thế và đã lắp thử cho súc vật (loài bê) để theo dõi, nghiên cứu, đánh giá tác dụng, các mặt ưu nhược điểm của máy, rút kinh nghiệm, tổng kết lại và chuẩn bị cho việc sử dụng các trái tim nhân tạo này hoạt động rất tốt song song với những trái tim của súc vật thí nghiệm, hỗ trợ đắc lực cho các tim thật hoạt động và chưa gây cản trở gì lớn cho các trái tim thật đó.

Chúng ta hy vọng rằng những người mắc bệnh tim nặng sẽ bằng lòng với việc ghép cho mình một trái tim nhân tạo hơn là cắt bỏ trái tim của mình đi và thay vào đó bằng một trái tim của người khác đã chết.

Về khía cạnh tâm lý mà nói thì sống bằng trái tim của chính bản thân mình dù có kèm theo một trái tim nhân tạo để hỗ trợ thêm cũng vẫn thoải mái, lý thú hơn và tình cảm hơn là phải sống bằng một trái tim của người khác mà trong lòng vẫn luôn luôn có một mối lo âu đe dọa là không biết bao giờ thì trái tim đó sẽ bong ra vì cơ thể của mình sẽ không còn tiếp nhận nó nữa.

Tiên lượng bệnh sốt xuất huyết

Như đã đề cập ở phần IV và V. Sốt xuất huyết diễn biến rất đa dạng, từ nhẹ không điển hình (không có xuất huyết, Sốt xuất huyết độ 1), đến điển hình (Sốt xuất huyết độ 2), đến nặng (có sốc Sốt xuất huyết độ 3-4), có hôn mê, có xuất huyết phủ tạng nặng kéo dài, có suy gan cấp, có tan huyết và đái ra Huyết cầu tố, thậm chí nguy kịch: ngừng thở, ngừng tim…

Tiên lượng phụ thuộc vào yếu tố dịch tễ, vào cơ địa bệnh nhân, vào triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và thể bệnh, vào việc phát hiện bệnh và xử trí sớm hay muộn.

Tuy Sốt xuất huyết là một bệnh diễn biến theo giai đoạn (khởi phát, toàn phát, nguy kịch, phục hồi), nhưng tiên lượng nhiều khi vẫn khó, vì có những trường hợp diễn biến kịch phát chết nhanh (vượt giai đoạn), hoặc diễn biến bất ngờ chuyển nặng đột ngột.

Những yếu tố dịch tễ giúp cho tiên lượng

  • Tỷ lệ thế nặng thay đổi tùy theo từng vụ dịch và giai đoạn của dịch. Có những vụ dịch diễn biến nhẹ hơn vụ dịch khác; những vụ dịch ở thành phố lớn, tập trung dân cư thường nặng hơn dịch ở thị trấn, nông thôn sống phân tán; vụ dịch với số lớn bệnh nhân có nhiều ca nặng hơn vụ dịch có ít bệnh nhân; vụ dịch tái diễn lần thứ 2, 3 tại một địa phương thường nặng hơn vụ dịch xuất hiện lần đầu tại địa phương đó; vụ dịch bùng ra ở một tập thể có nhiều thiếu niên, nhi đồng (lứa tuổi dễ bị bệnh) hoặc ở một tập thể đang lao động căng thẳng thường có nhiều ca nặng; vụ dịch ở những khu dân cư sống chật, tôi, ẩm, không có hệ thống nước máy thường diễn biến nặng vì mật độ muỗi cao…
  • Thể nặng có nhiều vào những tháng cao điểm của dịch: tại Bệnh viện B (1969) trong 1546 bệnh nhi Sốt xuất huyết, tỷ lệ sốc ở thời kỳ đầu của dịch (trước 15-8) là 8,3% (10/120), tăng lên 38,3% (442/1137) vào thời kỳ dịch toàn phát (từ 15-8 đến 21-9), rồi giảm xuống 14,6% (66/289) vào thời kỳ cuối của dịch (sau 21-9) (Bệnh viện B, 1970); Tại Bệnh viện nhi đồng I trong vụ dịch 1975 ở phía Nam, tỷ lệ tử vong khi dịch chớm xuất hiện chỉ có 0,8% (tháng 4) và 1,5 (tháng 5), đã tăng vọt lên 3,5% (tháng 6) và 6,1% (tháng 7) là những tháng cao điểm của dịch (Hội thảo Sốt xuất huyết, 1975).
  • Bệnh nhân từ vùng không lưu hành, mới lưu hành hoặc lưu hành nhẹ virut dengue, khi đến vùng lưu hành từ lâu và lưu hành nặng dễ bị nặng hơn so với người dân địa phương: vụ dịch Sốt xuất huyết 1975 đã phát triển mạnh và nặng trong các đơn vị bộ đội mới vào tiếp quản các thành phố thị trấn miền Nam là một dẫn chứng.
  • Lứa tuổi dễ bị nặng là thiếu niên, nhi đồng; tuổi vườn trẻ mẫu giáo và tuổi thanh niên, trung niên ít bị nặng. Trong bộ đội, tân binh và những người mắc bệnh trong lúc cường độ lao động cao (hành quân, chiến đấu, mang vác…) thường dễ bị nặng.
  • Phụ nữ mang thai, nhất là 3 tháng cuối, những người có bệnh cũ ở tim, gan, thận dễ bị nặng.

Những yếu tố lâm sàng và xét nghiệm giúp cho tiên lượng.

  • Nhiệt độ cao và kéo dài trên 7-10 ngày thường gặp ở những trường hợp nặng; nhiệt độ tụt nhanh đột ngột thường nặng hơn khi giảm từ từ. – Nhức đầu dữ dội như vỡ đầu, rối loạn thần kinh thực vật rô rệt với toát mồ hôi, cơn rét run, nôn nhiều có khi ỉa lỏng, huyết áp dao động trong thời kỳ đang sốt cao đều là những triệu chứng nặng.
  • Xuất huyết kết hợp đa dạng nặng hơn xuất huyết đơn thuần một dạng; thông thường thì xuất huyết ở não, tuỷ, cơ tim nặng nhất, rồi đến tử cung, phổi, ống tiêu hoá và đường tiết niệu; xuất huyết phủ tạng muộn thứ phát sau sốc có tiên lượng nặng hơn xuất huyết phủ tạng sớm và đơn thuần.

Không có sự tương ứng tuyệt đối giữa các dạng xuất huyết với diễn biến nặng nhẹ của bệnh: có khi xuất huyết dưới da nặng hơn xuất huyết niêm mạc; xuất huyết dưới da thưa, lờ mờ và rải rác nhiều khi nặng hơn xuất huyết dưới da mọc dầy, đều và rõ ó chân tay, bụng ngực lưng; có những ca xuất huyết dưới da không rõ nhưng diễn biến nặng không nên xem thường bởi vì ở trường hợp sốc; xuất huyết dưới da thường lờ mờ, ngược lại xuất huyết dưới da nhiều và rõ ít khi đi kèm với sốc.

  • Kích thích bứt rứt, vật vã hoặc li bì, u ám, nôn nhiều, vã mồ hôi, môi khô khát nước, đau bụng, dái ít, da lạnh đổi sắc, nhiệt độ tăng vọt hoặc tụt nhanh, tiểu cầu giảm< 70.000,, hematocrit >46% là những dấu hiệu nặng de doạ sốc.
  • Huyết áp tụt đi đối với mạch nhanh nặng hơn khi đi đối với mạch chậm; sốc vào thời kỳ sốt cao nặng hơn sốc vào lúc sốt hạ; sốc kèm theo hôn mê hoặc xuất huyết tiêu hoá thường có tiên lượng xấu; ở trẻ nhỏ sốc tương đối dễ phục hồi hơn so với lứa tuổi lớn 9 – 15 tuổi.
  • Co giật, hôn mê, tăng trương lực cơ, ruỗi cứng, vàng da niêm mạc, tan huyết ồ ạt và đái huyết cầu tố đều có tiên lượng nặng.
  • Tiểu cầu rất thấp có giá trị tiên lượng nặng, nhưng ngược lại có trường hợp nặng mà tiểu cầu chỉ giảm ít (từ 100.000 đến 150.000). Bạch cầu cao là một dấu hiệu xấu, nhất là ở thể não; giảm cả 3 dòng máu ngoại vi có tiên lượng nặng; số lượng hồng cầu ít có giá trị tiên lượng về mức độ xuất huyết phủ tạng, vì còn phụ thuộc vào tình trạng cô máu; khi cả hematocrit và hồng cầu đều tụt, phải tìm nguyên nhân xuất huyết phủ tạng; nếu đã truyền đủ dịch, hematocrit đã xuống mà vần sốc, cần xem khả năng xuất huyết tiêu hoá; nếu sau khi bù dịch, sốc đã phục hồi, mà hematocrit cứ tiếp tục tụt thêm sau khi đã ngưng truyền, cần nghĩ tới khả năng có tái hấp thu huyết tương trở lại lòng mạch, quá trình này de đoạ phù phổi cấp.
  • Những biến đổi điện tâm đồ như rối loạn nhịp, rối loạn dẫn truyền, rối loạn tái cực và triệu chứng tràn dịch màng phổị, màng bụng ở bệnh Sốt xuất huyết thường diễn biến theo với bệnh, có thể tự hết sau khi nhiệt độ trở về bình thường.

Xem tiếp:

  1. Chẩn đoán, điều trị sốt dengue và sốt xuất huyết dengue
  2. Sốt xuất huyết thể không điển hình và điển hình
  3. Phân loại thể bệnh sốt xuất huyết
  4. Sốt xuất huyết thể sốc ( Dengue độ 3 và 4 )
  5. Sốt xuất huyết thể xuất huyết phủ tạng (độ 2b)
  6. Sốt xuất huyết thể não
  7. Sốt xuất huyết thể suy gan cấp
  8. Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố (hct)
  9. Những biến chứng của Sốt xuất huyết xuất
  10. Tiên lượng bệnh sốt xuất huyết
  11. Chẩn đoán bệnh sốt xuất huyết
  12. Nguyên tắc điều trị sốt xuất huyết
  13. Điều trị sốt xuất huyết độ 1 -2 (không có sốc)
  14. Điều trị sốt xuất huyết độ 1-2 bằng thuốc nam y học cổ truyền
  15. Triệu chứng hô hấp trong bệnh sốt xuất huyết
  16. Những biến đổi thể dịch của bệnh sốt xuất huyết
  17. Biện pháp phòng dịch sốt xuất huyết
  18. Đường lây truyền bệnh sốt xuất huyết dengue
  19. Cơ chế lây truyền bệnh sốt xuất huyết
  20. Triệu chứng dengue xuất huyết thể điển hình (độ II)
  21. Triệu chứng thần kinh trong sốt xuất huyết
  22. Hội chứng tim mạch trong sốt xuất huyết
  23. Triệu chứng tiêu hoá trong sốt xuất huyết

10 bài thuốc nam hàng đầu chữa bệnh ngoài da

  1. Nổi mề đay

Lá khế chua đâm nát bọc vải mà chà xát.

Lá mù u tươi, để trên than xông khói, cử ra gió.

Bèo cái tía tươi 100g – Lá muồng trâu 16g

Sắc 600ml lấy 300ml, người lớn chia 2 lần uống.

Đâm lá bồ ngót tươi với tí muối, cần thì thêm nước, vắt cho được nửa chén nhỏ uống thì thật hay.

  1. Dị ứng mẫn ngứa toàn thân
  • Cao lá Bồ công anh 18g (sao qua)
  • Lá gai rừng 18g (dùng tươi) – Sài đất 15g (sao)
  • Lá đơn 14g (dùng tươi) – Quả ké đầu ngựa 14g (sao cháy gai) Các vị làm thang sắc uống.
  1. Dị ứng nổi mề đay
  • Củ riềng 50g – vỏ chay (vỏ dùng ăn trầu) 50g

Sắc uống, trị trường hợp dị ứng 5-6 năm chữa không khỏi.

  1. Chàm
  • Ké đầu ngựa 20g – Vòi voi 20g
  • Vỏ gạo 20g – Sài đất 20g
  • Đại hoàng 20g (ngâm rượu) – Xuyên tâm liên 20g (ngâm rượu)
  • Kim ngân 20g – Thổ phục linh    20g
  • Cam thảo đất 20g – Nam Bạch chỉ    6g

Sắc uống.

Ké đầu ngựa - Thương nhĩ tử
Ké đầu ngựa – Thương nhĩ tử
  1. Chàm, mề đay
  • Bèo cái 20g – Kim ngân hoa 20g
  • Thổ phục linh 20g – Phòng phong 20g

Sắc uống.

  1. Chàm và ghẻ lở
  • Bồ hóng (Ô long vĩ) 2 phân – Hoàng bá 1 phân
  • Lá chanh rang vàng, tán nhỏ 1 phân
  • Hoàng đằng 1 phân
  • Tỏi 1 phân – Hàn the 0,1 phân
  • Dầu cám nếp hoặc mỡ lợn vừa đủ để làm thuốc bôi.
  1. Chàm
  • Bồ hóng trộn với mỡ lợn
  • Bồ hóng (Ô long vĩ) 2 phân
  • Dầu cám nếp vừa đủ
  • Lá chanh rang vàng tán nhỏ 1 phân
  • Rửa với nước lá trầu không – bôi vào.
  1. Trị ghẻ lở, nước đến đâu ăn lở đến đó
  • Hoàng đằng, Hoàng bá giã cho ra mỡ, đem bôi.
  1. Chữa nấm (hắc lào)
  • 5-10 lá tiêu – 1 củ tỏi                      – 1 tí hàn the
  1. Dời ăn

Đâm lá cây Chó đẻ tía / Hắc sửu mà thoa (hay).

Đâm lá cây Tầm phỏng với 1 chỉ Hùng hoàng mà thoa.

Đâm lá mướp hương với hai muỗng canh đậu xanh mà đắp.

Lá thuốc dời đâm, phết.

Vô sung mài với nước cơm, bôi.

Cau, trầu, vôi, đậu xanh, đâm với rượu đắp lên.