Blog Trang 475

Trang điểm cho bé trai cần lưu ý những gì

1/ Không nên trang điểm bé trai thành bé gái.

Theo số liệu điều tra cuả 3 trường mẫu giáo ở Thượng Hải, số bé trai được trang điểm thành con gái chiếm 1/3 đến 2/3. Tại sao cha mẹ chúng lại làm như vậy ? Một là bởi vì trang điểm cho bé trai thành một bé gái, tết cho em bím tóc, sơn móng tay, đánh má phấn, bôi son môi, mặc chiếc váy của con gái, trông xinh hẳn lên, thật dễ yêu; hai là bởi vì những bậc cha mẹ này đang thích có con gái mà lại không có, cho nên mới cải trang cho con trai mình thành con gái, cũng là để tự an ủi.

Song các bậc cha mẹ đó không biết rằng, nếu cứ kéo dài tình hình như vậy có thể dẫn đến hậu quả không thể lường hết được.

Trong tâm lý học có một danh từ gọi là “Tính biệt tự nhận”, câu đó có nghĩa là một con người tự nhận thức được giới tính của mình không đồng nhất với sự thực. Trong tình trạng chung thì một người là con trai, đương nhiên là nó tự nhận mình là con trai; một đứa trẻ là con gái, đương nhiên nó cũng tự nhận mình là con gái, điều đó chẳng có gì phải bàn cãi nữa. Song có một số rất ít người thấy việc tự nhận thức giới tính của mình lại không đồng nhất với biểu hiện giới tính khách quan. Ví dụ như rõ ràng cậu ta là một đứa con trai nhưng lại cứ tưởng mình là con gái, về mọi mặt như khí chất, động tác, tập quán, trang phục v.v… đều làm như con gái. Nó cho rằng, linh hồn nó là con gái, chỉ vì lúc đầu thai đã bị nhầm cái vỏ ngoài đó thôi. Cái đó gọi là sự lẫn lộn về “Tính biệt tự nhận”.

Phát sinh hiện tượng lẫn lộn “Tính biệt tự nhận” như thế này, nguyên nhân chủ yếu là từ thời kỳ thơ ấu. Đại não của trẻ thơ đang ở vào thời kỳ phát triển nhanh chóng, có rất nhiều sự việc đã để lại ấn tượng rất sâu sắc trong tầng vỏ đại não, thậm chí suốt đời cũng không thể xoá nhoà được. Nếu như cha mẹ cứ kéo dài sự đối đãi với con trai mình y như đối xử với con gái thì có khả năng làm cho tâm lý giới tính của đứa trẻ sinh ra hiện tượng xoay chuyển, sau khi trưởng thành có thể phát sinh hiện tượng vô cùng đáng buồn là sự lẫn lộn “Tính biệt tự nhận”.Âm nhạc có ảnh hưởng rất lớn đến vùng kiểm soát cơn đau

Bất kỳ là con trai hay là con gái, cũng đều có một thời kỳ tỏ rõ giới tính, tức là con trai chỉ thích chơi với con trai, trong hoàn cảnh như vậy sẽ nuôi dưỡng nên khí chất của nam giới; con gái thì chỉ thích chơi với con gái, trong hoàn cảnh ấy sẽ nuôi dưỡng thành khí chất của nữ giới. Lớn lên một chút nữa, đến thời kỳ phát triển thành thanh niên, lại sản sinh ra hiện tượng “Nam nữ tương hấp”, “Khí chất hai bên bổ sung cho nhau”, có nghĩa là đôi bên nam nữ do khí chất không giống nhau (ví dụ như nam giới thì mạnh mẽ, nữ giới thì ôn hoà) mà yêu nhau, hai bên bổ sung cho nhau, hai khí chất hợp lại thành khí chất hoàn chỉnh. Nhưng, đối với một đứa con trai mà lại không coi nó, không đối đãi với nó như một đứa con trai, mà lại đi trang điểm cho nó thành một đứa con gái, chỉ cho nó chơi với bọn con gái, thế thì nó sẽ tiêm nhiễm khí chất con gái, đến khi lớn lên thành thanh niên, khi cần khí chất nam nữ bổ sung cho nhau thì nó sẽ cảm thụ sức hấp dẫn của bạn cùng giới (đồng tính), bởi vì đồng tính tương phản với khí chất của nó, từ đó mà trở thành người “Đồng tính luyến ái”. Vả lại khi mà “Tâm lý định thế ” đã xảy ra thì khó mà xoá đi được. Như vậy là đứa trẻ đó suốt đời ở trong tình trạng mâu thuẫn, đau khổ, bàng hoàng, uẩn khúc, không sao gỡ ra được.

Những tình hình như đã nói ở trên không phải chỉ là nghe thấy, mà là những hiện thực sống động. Tất nhiên không có nghĩa là hễ cứ trang điểm cho con trai thành con gái là xuất hiện ngay hiện tượng kỳ quặc “Đồng tính luyến ái” và sự lẫn lộn “Tính biệt tự nhận” đâu. Song loại khả năng này đúng là có thật. Là cha mẹ, nhất định phải hiểu những lý lẽ khoa học này, để tránh làm hại cho con, sau này sẽ vô cùng hối hận. Tốt nhất là cứ để cho trẻ con tự do phát triển những hoạt động theo đặc trưng giới tính của chúng, bất kỳ sự gia công, sự uốn nắn nào cũng đều không cần thiết.

2/ Không nên để tóc dài cho con trai.

Có một số bậc cha mẹ cứ thích để cho con trai một bộ tóc dài theo mốt, rồi còn cài lên đủ các loại cặp tóc màu sắc sặc sỡ. Như vậy, vừa không thích hợp với đặc điểm của trẻ con, vừa không có lợi cho vệ sinh và sức khoẻ, cặp tóc cho trẻ con cũng không an toàn. Bởi vì trẻ thơ để tóc dài, khi chúng chơi đùa thì tóc rối tung lên, bay lên mặt che lấp tầm nhìn của mắt, trông rất xấu. Ngoài ra , khi trẻ chơi đùa thì sẽ ra nhiều mồ hôi, bụi bặm dính vào tóc dài, rất khó gội sạch, tạo điều kiện cho vi trùng và mầm bệnh sinh sôi nảy nở.

Nên chăng, có những kiểu tóc cho riêng trẻ em, sao cho chúng trở nên khôi ngô hoạt bát, khi chải đầu và gội đầu đều thuận tiện.

Huyệt Khâu Khư

Khâu Khư

Tên Huyệt:

Huyệt ở ngay dưới lồi cao xương gót chân ngoài, giống hình cái gò mả (khâu), đống đất (khư), vì vậy gọi là Khâu Khư.

Tên Khác:

Khâu Hư, Kheo Hư, Kheo Khư, Khưu Hư, Khưu Khư.

Xuất Xứ:

Thiên ‘Bản Du’ (Linh khu.2).

Đặc Tính:

Huyệt thứ 40 của kinh Đởm.

Huyệt Nguyên.

Vị Trí huyệt:

Ở phía trước và dưới mắt cá ngoài chân, nơi chỗ lõm của khe xương cạnh nhóm cơ duỗi dài các ngón chân, hoặc từ ngón chân thứ 4 kéo thẳng lên mắt cá gặp chỗ lõm hoặc lấy ở chỗ lõm giữa huyệt Thân Mạch và huyệt Giải Khê, ấn vào thấy tức.

Giải Phẫu : Dưới da là cơ duỗi ngắn các ngón chân, bờ sau – ngoài cơ mác trước, khe khớp xương hộp – thuyền – chêm 3.

Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh chầy trước.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh S1.

Tác Dụng:

Khu phong tà ở bán biểu bán lý, hóa thấp nhiệt.

Chủ Trị:

Trị cẳng chân đau, khớp mắt cá chân đau, ngực đầy tức.

Phối Huyệt:

1. Phối Đồng Tử Liêu (Đ.1) trị mắt có màng (Tư Sinh Kinh).

2. Phối Trung Độc (Đ.32) trị sườn đau (Châm Cứu Đại Thành).

3. Phối Giải Khê (Vị 42) + Thương Khâu (Tỳ 5) trị lưng và đùi đau (Ngọc Long Ca).

4. Phối Kim Môn (Bàng quang.63) trị chân bị vọp bẻ (Bách Chứng Phú).

5. Phối Côn Lôn (Bàng quang.60) + Tuyệt Cốt (Đ.39) trị gót chân đau (Thắng Ngọc Ca).

6. Phối Tam Dương Lạc (Tam tiêu.8) trị thần kinh liên sườn đau (Châm Cứu Học Thượng Hải ).

Cách châm Cứu:

Châm thẳng 0, 5 – 1 thốn, đối diện với khớp trong mắt cá, lách mũi kim vào khe khớp. Cứu 1-3 tráng, Ôn cứu 5 – 10 phút.

Tham Khảo:

“ Xương háng đau : tả huyệt Khâu Khư” (Linh Quang Phú).

“ Huyệt Khâu Khư, Dương Lăng Tuyền và Đởm Du có công hiệu khác nhau: cả 3 huyệt đều chữa bệnh về Đởm nhưng Dương Lăng Tuyền + Đởm Du thiên về chữa bệnh ở Đởm phủ còn Khâu Khư thiên về chữa bệnh ở kinh Đởm” (Du Huyệt Công Năng Giám Biệt).

Khi ung thư tuyến tiền liệt lan rộng

Phát hiện rằng ung thư đã lan rộng không bao giờ là tin tốt, nhưng đừng vội cho rằng đó là tin xấu nhất. Tỷ lệ sống sót trong 5 năm cho ung thư tuyến tiền liệt đã di chuyển vào các phần gần đó của cơ thể gần như là 100%. Dưới đây là những điều bạn nên biết về điều trị của mình và những gì mong đợi trong tương lai.

Chứa đựng ung thư

Khi loại ung thư này lan rộng (bác sĩ của bạn có thể nói rằng nó đã di căn), nó thường xuất hiện đầu tiên trong các mô hoặc hạch bạch huyết gần tuyến tiền liệt nhất. Nếu nó được phát hiện và điều trị ở giai đoạn này, được gọi là “giai đoạn khu vực”, khả năng hồi phục của bạn rất tốt. Nếu nó di chuyển xa hơn, ung thư thường cuối cùng sẽ nằm trong xương của bạn. Vào thời điểm đó, cơ hội sống sót giảm xuống còn 29%.

BẠN CÓ BIẾT?

Phương pháp điều trị mà bạn và bác sĩ của bạn lựa chọn cho ung thư tuyến tiền liệt của bạn sẽ phần lớn phụ thuộc vào mức độ ung thư đã lan rộng và bạn có triệu chứng gì, nếu có.

Bác sĩ của bạn sẽ nói chuyện với bạn về các lựa chọn điều trị tốt nhất của bạn.

Bạn có thể đã trải qua phẫu thuật hoặc xạ trị. Những phương pháp điều trị này đôi khi được sử dụng để nhắm vào ung thư tuyến tiền liệt khi nó vẫn chỉ ở trong tuyến tiền liệt. Khi ung thư của bạn lan rộng, bác sĩ của bạn sẽ rất có khả năng đề nghị liệu pháp hormone. Điều này thường có nghĩa là dùng thuốc để giảm lượng hormone androgen (testosterone và DHT) trong cơ thể bạn hoặc ngăn chặn chúng tác động đến các tế bào ung thư.

Một lựa chọn liên quan nhưng hiếm khi được sử dụng là triệt sản phẫu thuật. Bác sĩ sẽ loại bỏ tinh hoàn của bạn, nơi hầu hết các hormone này được sản xuất. Nếu bạn không thích ý tưởng mất đi chúng, bác sĩ có thể lắp cho bạn các túi silicon để đưa vào bìu của bạn. Chúng sẽ bảo tồn vẻ ngoài và cảm giác.

Nếu liệu pháp hormone không hiệu quả, bạn có thể chuyển sang liệu pháp vắc-xin. Vắc-xin ung thư tuyến tiền liệt được thiết kế để khởi động hệ miễn dịch của bạn để nó tấn công các tế bào ung thư. Hoặc bác sĩ của bạn có thể đề nghị hóa trị. Nó có thể là một loại thuốc bạn uống, hoặc là một thứ gì đó bác sĩ của bạn tiêm vào tĩnh mạch.

Nếu ung thư tuyến tiền liệt đã lan đến xương của bạn, bạn có thể cần thuốc để giảm đau, giảm nguy cơ gãy xương và giữ cho mức canxi trong cơ thể ổn định. Nếu mức canxi quá cao hoặc quá thấp, điều đó có thể nguy hiểm. Bác sĩ của bạn có thể kê đơn thuốc để giúp giữ cho xương của bạn chắc khỏe. Bạn có thể cần uống corticosteroid để kiểm soát cơn đau, có thể kèm theo một loại thuốc giảm đau. Loại thuốc giảm đau mà bạn nhận được có thể dao động từ ibuprofen đến morphine, tùy thuộc vào mức độ đau của bạn.

Bác sĩ ung thư của bạn cũng có thể gửi bạn đi xạ trị nhằm giảm đau xương và tiêu diệt các tế bào ung thư trong xương của bạn. Hoặc họ có thể tiêm cho bạn một loại thuốc phát ra bức xạ. Những loại thuốc này được gọi là dược phẩm phóng xạ.

Dấu hiệu rắc rối

Bạn có thể nghĩ rằng bạn sẽ biết nếu ung thư của bạn đã lan rộng, nhưng điều đó không phải lúc nào cũng đúng. Hầu hết nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn cuối không có triệu chứng.

Đó là lý do tại sao các lần tái khám bác sĩ của bạn là rất quan trọng. Bạn có khả năng phát hiện ung thư đã lan rộng nếu bác sĩ của bạn kiểm tra máu và phát hiện mức độ kháng nguyên đặc hiệu cho tuyến tiền liệt cao, hay còn gọi là PSA. Họ cũng có thể phát hiện ra điều đó qua kiểm tra trực tràng kỹ thuật số hoặc qua X-quang hoặc các xét nghiệm khác. Nếu bạn có triệu chứng, chúng thường bao gồm khó đi tiểu hoặc có máu trong nước tiểu. Bạn cũng có thể cảm thấy rất mệt mỏi, khó thở hoặc giảm cân mà không có lý do.

Bạn có khả năng cảm thấy đau nếu ung thư đã di căn vào xương của bạn. Nơi đau sẽ phụ thuộc vào các xương bị ảnh hưởng. Ví dụ, bạn có thể cảm thấy đau hông hoặc lưng nếu ung thư đã lan sang xương chậu của bạn.

Sống chung với ung thư

Dù bạn quyết định theo đuổi phương pháp điều trị nào, ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn tiến triển chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của bạn. Mất kiểm soát bàng quang (tiểu không tự chủ), mệt mỏi và rối loạn cương dương thường đi đôi với điều trị. Nam giới có liệu pháp hormone có thể gặp các cơn bốc hỏa (tương tự như những gì nhiều phụ nữ trải qua trong thời kỳ mãn kinh) hoặc tăng cân. Ung thư đã lan sang xương của bạn cũng có thể gây đau.

Hãy chắc chắn thông báo cho bác sĩ của bạn về bất kỳ cơn đau hoặc tác dụng phụ nào. Có rất nhiều loại thuốc và thủ tục có thể giúp bạn cảm thấy tốt hơn.

Chăm sóc bản thân cũng rất quan trọng: hãy nghỉ trưa để chống lại sự mệt mỏi và cố gắng thực hiện một số bài tập nhẹ, như đi bộ, để duy trì mức năng lượng của bạn. Việc hoạt động cũng có thể giúp chống lại việc tăng cân, đặc biệt nếu bạn thêm một số bài tập sức mạnh vào thói quen của mình. Hãy kiểm tra với bác sĩ của bạn trước để đảm bảo rằng việc tập thể dục là an toàn cho bạn. Họ có thể đề nghị bạn làm việc với một chuyên gia vật lý trị liệu.

Igol

Thuốc igol
Thuốc igol

IGOL

RAPTAKOS BRETT

Thuốc cốm: hộp 40 gói 6 g.

THÀNH PHẦN

cho 1 gói
Vỏ hạt của cây Isapgol (Plantago ovata, Plantaginaceae) 3,962 g

DƯỢC LỰC

Hạt Plantago đã được dùng trong y học cổ truyền Ấn Độ từ hơn 3.000 năm nay. THÀNH PHẦN hoạt chất chính của Igol là các acide béo chuỗi ngắn và các polysaccharides nhưng tác dụng chính là do polysaccharides (là các chuỗi polymer lớn, phân nhiều nhánh bao gồm D-galactose, D-glucose, lignin, L-rhamnose, D-xylose, L-arabinose, D-mannose với những chuỗi bên acide uronique). Arabinoxylans moiety (tương đương với sợi xơ cám) chiếm gần 90% cấu trúc.

Thuốc thuộc loại nhuận tràng tạo khối phân hay loại làm mềm phân. Do đó, một liều uống từ 3- 5 g sẽ cho tác dụng trong vòng 24 giờ và kết quả chỉ tốt nhất khi dùng liều 3-5 g/lần, 2 lần/ngày, trong 2-3 ngày liền. Dù vậy, vẫn phải điều chỉnh liều tùy theo phản ứng của bệnh nhân.

Tác dụng của thuốc chủ yếu tùy thuộc vào sự tích tụ nước trong ruột non và ruột già. Nhờ các nhóm polysaccharides háo nước hút nước rất nhanh mạnh tạo thành khối nhão do đó làm gia tăng khối lượng phân và kích thích nhu động ruột. Vi khuẩn ruột già tiêu hóa các THÀNH PHẦN của thuốc sản xuất các acide béo dễ bay hơi từ polysaccharides làm căng ruột góp phần kích thích nhu động ruột. Các acide béo chuỗi ngắn (acetique, butyrique, propionique) ít được hấp thụ có tác dụng tạo áp lực thẩm thấu cũng như kích thích trực tiếp cơ trơn.

Thuốc còn có thể làm giảm sự tạo thành ammoniac bởi vi khuẩn kỵ khí trong ruột già khoảng 30% nhờ đó urê huyết giảm theo và điều này có thể có lợi cho bệnh nhân suy thận mạn.

Lignin trong thuốc có khả năng kết hợp với các acide mật làm giảm hấp thụ các acide mật vào trong máu đồng thời bảo vệ chúng khỏi bị vi khuẩn phá hủy nhờ đó làm tăng tiết chúng ra phân. Hậu quả tất nhiên là gan phải tăng sử dụng cholesterol để tổng hợp acide mật dẫn đến việc giảm nồng độ cholesterol trong máu (đặc biệt là loại LDL).

Ở liều điều trị, không có bằng chứng nào cho thấy khả năng gây ung thư hay quái thai.

Đã có những báo cáo về việc Isapgol làm thay đổi sự phát triển của bướu ruột già. Điều này có lẽ do sự lên men sản phẩm butyrate mà đã được chứng minh là làm kéo dài sự nhân đôi tế bào và làm giảm tốc độ phát triển của tế bào ung thư ruột già người.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Đường vào: chỉ dùng bằng đường uống. 1-6% được thủy phân ở dạ dày. Số còn lại xuống đến ruột già nguyên dạng, không thay đổi cấu trúc hóa học.

Hấp thu: thuốc không hấp thu vào máu.

Bài tiết: hơn 70% được thải nguyên dạng qua phân.

CHỈ ĐỊNH

  • Bổ sung chất xơ cho khẩu phần.
  • Phòng và trị táo bón nhất là trong trĩ, nứt hậu môn, sau mổ hậu môn, loét trực tràng đơn thuần, khi có
  • Phòng tránh tình trạng phải rặn quá mức khi đi tiêu.
  • Khi cần làm gia tăng khối lượng phân (như trong bệnh viêm đường ruột hay trong các trường hợp ít mắc tiêu).
  • Hội chứng đại tràng kích thích.
  • Liệu pháp bổ sung cho chế độ ăn kiêng của bệnh nhân có tăng cholesterol nhẹ.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

  • Trẻ sơ
  • Tắc ruột.
  • Quá mẫn cảm đối với các sản phẩm từ

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Nếu pha khuấy không tan đều hay không đủ lượng nước, thuốc có thể vón cục và gây tắc ruột. Phải chú ý theo dõi chăm sóc người lớn tuổi khi kê đơn thuốc nhuận tràng loại giữ nước tạo khối phân vì khuynh hướng không thích uống nhiều nước do tuổi tác.

Đối với bệnh nhân liệt giường có táo bón, điều trước tiên là phải bảo đảm chế độ ăn và lượng nước vào trước khi nghĩ đến thuốc nhuận tràng.

Mỗi gói Igol có chứa 2,16 g đường, do đó người bị tiểu đường cần được bác sĩ hướng dẫn sử dụng.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Isapgol có thể dùng điều trị táo bón ở phụ nữ mang thai. Không có báo cáo nào về việc Isapgol có ảnh hưởng bất kỳ trên việc cho con bú, bài tiết qua sữa mẹ hoặc đào thải qua sữa mẹ.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Isapgol làm giảm thời gian chuyển vận trong ruột do đó có khả năng làm giảm sự hấp thu các thuốc dùng chung nhất là loại thuốc phân rã chậm. Dùng Igol cùng lúc với Thuốc Digoxine, chất sắt hay glucose có thể làm giảm hấp thu các chất này mặc dù đã có một công trình nghiên cứu cho thấy không có ảnh hưởng lên sự hấp thu Thuốc Digoxine.

Thuốc có thể làm sai lạc các xét nghiệm dung nạp đường. Không có báo cáo về ảnh hưởng của thuốc trên các xét nghiệm bệnh lý lâm sàng khác.

Thuốc ức chế hoạt tính lipase nhưng không ảnh hưởng trên các enzyme tụy tạng khác in vitro.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Có thể xảy ra tắc ruột nếu uống không đủ nước. Tác dụng phụ thường gặp nhất là đầy bụng.

Với người có cơ địa dị ứng, có thể có phản ứng nhạy cảm chủ yếu là tình trạng co thắt phế quản và viêm mũi do hít nhằm bột thuốc. Có lẽ do các

THÀNH PHẦN sợi xơ tác động như là một kháng nguyên ngoại lai và phản ứng với IgE loại gắn tế bào trong cây phế quản, niêm mạc mũi và mô kết mạc mắt. Không có bằng chứng Igol hay sản phẩm thoái hóa của nó có thể hấp thu và tác động như là một hapten để làm trung gian cho phản ứng dị ứng.

Quá liều cấp tính: có nguy cơ cao dẫn đến tắc ruột, nhưng thường gặp nhất là đau bụng, trướng bụng và đầy bụng. Không có chất đối kháng đặc hiệu do đó rất cần chú ý uống nhiều nước để ngăn ngừa.

Có thể xảy ra tăng bạch cầu ưa osine sau khi dùng Isapgol.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Người lớn: mỗi lần 1 gói (6 g), 1-2 lần/ngày. Nên dùng ít nhất 3 ngày liên tiếp để đạt hiệu quả tốt nhất.

Trẻ em dưới 6 tuổi: phải do Bác sĩ chỉ định dùng và dùng nửa liều người lớn.

Trút 1 gói Igol vào một nửa ly nước hay sữa (125ml), khuấy đều và uống ngay. Sau đó có thể uống thêm một lượng nước hay sữa tương đương. Hoặc có thể chờ cho thuốc nở đặc để ăn.

Những rối loạn tính khí và điều trị

BỆNH LOẠN TÂM THẦN HƯNG – TRẦM CẢM

Tên khác: bệnh loạn tâm thần chu kỳ, bệnh loạn tâm thần vòng tròn

Định nghĩa: rối loạn tính khí theo chu kỳ, với đặc điểm là có những cơn kích động tâm thần (cơn hưng cảm) xen lẫn với những cơn trầm cảm (cơn âu sầu). Bệnh nhân thường trở lại tình trạng bình thường vấo thời kỳ giữa các cơn.

Các thể lâm sàng

  • Bệnh loạn tâm thần lưỡng cực (hai cực): các cơn hưng cảm với các cơn âu sầu xen kẽ nhau.
  • Bệnh loạn tâm thần đơn cực (một cực): liên tiếp có những cơn cùng một typ (kiểu), thường là kiểu trầm cảm.
  • Bệnh tâm thần chu kỳ (bệnh tính khí chu kỳ): có các đợt xen kẽ với cường độ kém hơn, giữa cơn hưng cảm nhẹ và trầm cảm nhẹ chỉ kéo dài trong một vài ngày, với những đợt xen kẽ giữa mất ngủ với ngủ nhiều

CƠN HƯNG CẢM

TRIỆU CHỨNG

  • Phấn khích: đi từ những ý nghĩ quá phong phú và quá cấp tập (cơn xả ý nghĩ), còn gắn bó với nhau, tới những ý nghĩ buông thả xáo trộn và rời rạc. Cơn hưng cảm, vì hoàn toàn không được kìm hãm, có thể dẫn tới tình trạng quá đà, và phóng đãng (bệnh nhân có thể chỉ ra đối tượng về ham muốn tình dục của mình một cách cực kỳ lỗ mãng), tới lộ liễu về quan hệ xã hội và tới sự tàn lụi. Trong cơn hưng phấn của mình, bệnh nhân thường từ chối mọi yêu cầu điều trị.
  • Trong cơn hưng cảm cấp tính, bệnh nhân cảm thấy mình ở trong một trạng thái phấn khích tột độ, có những hành động tự xé rách quần áo, kêu khóc, gào hú, hò hát hết sức, và cười phá. Bệnh nhân thể hiện chứng nói nhiều không bao giờ cạn, đặc biệt là có những trò chơi chữ và những lời tục tĩu.
  • Trong những thể nhẹ hoặc gọi là cơn hưng cảm nhẹ, bệnh nhân thường bị mất ngủ và dễ bị kích thích.

CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT: với cơn tâm thần phân liệt, trạng thái kích động và bồn chồn lo lắng do nhiễm độc (rượu, amphetamin, cocain, corticoid) hoặc do tổn thương thực thể (hội chứng não cấp).

ĐIỀU TRỊ: yêu cầu phải cho bệnh nhân nhập viện trong những cơn nặng.

  • Cho các thuốc an thần kinh tiêm (phenothiazin hoặc butyrophenon) để trấn tĩnh bệnh nhân và để điều trị duy trì trong thời kỳ nội trú.
  • Muối lithi (lithium) thường phải kết hợp với giám sát hàm lượng lithi trong máu, nhưng hiệu quả của muối này chỉ thể hiện sau 2 tuần, lúc đó có thể giảm liều những thuốc an thần kinh.
  • Phòng ngừa cơn tái phát bằng muối lithi được chỉ định trong trường hợp xen kẽ hưng-trầm cảm (theo dõi creatin huyết, hàm lượng lithi trong máu, nhất là ở những bệnh nhân cơ thể bị mất nước). Kết quả thường tốt hơn đối với cơn hưng cảm tái phát, so với cơn trầm cảm tái phát. Những thuốc khác có tác dụng bình ổn tính khí: Carbamazepin,
  • Trong trường hợp có cơn hưng cảm nhẹ, cho thuốc an thần kinh dưới sự giám sát chặt chẽ thì bệnh nhân có thể không phải nhập viện.
  • Sốc điện (liệu pháp chấn động) sau khi cho thuốc ngủ và thuốc giãn cơ (gây liệt cơ) dành cho những đợt hưng cảm kháng lại những biện pháp điều trị bằng thuốc.

CƠN ÂU SẦU VÀ TRẦM CẢM NỘI SINH

TRIỆU CHỨNG

  • Trầm cảm sâu sắc: đặc điểm nổi bật là trạng thái buồn bã thường xuyên và không phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài (nên gọi là trầm cảm nội sinh), có những rối loạn cảm giác bản thể (nhận thức được những cảm giác khó chịu ở bên trong cơ thể mình), và các cơn hoảng sợ nói chung dữ dội. Thường bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ. Thay đổi thói quen ăn uống đôi khi chán ăn, đôi khi lại ăn vô độ.
  • Cơn tự sát (tự vẫn): mối nguy hiểm nhất đôl với bệnh nhân là tự sát. MỐI nguy hiểm này có thể hình thành ngay từ khi bệnh mới khởi phát, và tồn tại suốt thời kỳ của cơn bệnh, do đó cần phải chú ý giám sát bệnh nhân.

Không được quên rằng cả trẻ em cũng có thể mắc trầm cảm như người lớn, tuy nhiên nguy cơ tự sát cao nhất là ở người già, ở những người cô đơn, những người nghiện rượu hoặc những bệnh nhân bị bệnh nặng.

  • Biểu hiện loạn tâm thần: là những ý nghĩ hoặc hoang tưởng về tội lỗi (không tương xứng với những lỗi được viện dẫn ra), về tàn lụi hoặc không xứng đáng. Đôi khi bệnh nhân có ảo giác thính giác, hiếm khi có tính gây hấn. Bệnh nhân bị ức chế về trí tuệ (thiếu tập trung tư tưởng, suy nghĩ chậm chạp) và ức chế tâm thần vận động (hành động chậm chạp). Không quyết đoán, tình cảm bất lực, mất nghị lực (thiếu ý chí), và mệt mỏi.
  • Trong những thể nhẹ (gọi là rối loạn tính khí), thì trầm cảm không đi kèm với những dấu hiệu loạn tâm thần, nhưng có những rối loạn về nhân cách, với: bi quan, khó tính, hay tự phê bình (tự chỉ trích mình), mất hứng (mất khoái cảm bình thường).
  • Tiến triển: những đợt trầm cảm thường kéo dài từ 5 đến 12 tháng.
  • Những thể hỗn hợp: phối hợp những triệu chứng hưng cảm và trầm cảm.

CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT: với hội chứng cai nghiện (rượu, ma tuý), bệnh Addison, bệnh Cushing, liệu pháp hoá chất, bệnh toàn thân.

ĐIỀU TRỊ: yêu cầu phải nhập viện đổì với những thể nặng, nhất là trong trường hợp có nguy cơ tự sát mặc dù bệnh nhân thường hay ngoan cố không chịu vào viện. Những thuốc chống trầm cảm ba nhân vòng (amitriptylin, imipramin, và những dẫn xuất của thuốc này) thường có hiệu quả, cũng như những thuốc ức chế enzym mono-amino- oxydase (IMAO), nhưng sử dụng IMAO thì phải khéo léo. Những thuốc chống trầm cảm mới có nhiều tính chất dược lý khác nhau, do đó yêu cầu thày thuốc phải hiểu biết sâu về hiệu quả lâm sàng của chúng để sử dụng cho có hiệu quả. Sốc điện (liệu pháp chấn động) sau khi cho thuốc ngủ và thuốc giãn cơ giành cho những thể lo âu, sững sờ và hoang tưởng, có nguy cơ tự sát lớn, hoặc cho những trường hợp sử dụng thuốc không kết quả (trầm cảm “kháng thuốc”).

TRẦM CẢM PHẢN ỨNG

TRIỆU CHỨNG: trầm cảm loạn thần kinh hoặc loạn tâm thần là hậu quả của một phản ứng của đôi tượng trước một sự kiện đau đớn, mà mức độ trầm trọng được mọi người xung quanh công nhận, nhưng những biểu hiện lại vượt ra ngoài mức độ đau đớn tâm lý bình thường một cách rõ rệt. Bệnh nhân có xu hướng tự sát kém rõ rệt hơn. Tuy nhiên, nguy cơ tự sát vẫn tồn tại và phản ứng trầm cảm tạo nên một “lời kêu gọi giúp đỡ” hoặc một cố gắng tạo áp lực tối những người xung quanh,

CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT: biến đổi về tính khí kém sâu sắc hơn, so với thể âu sầu trầm cảm, và không có sự tách rời với những hoàn cảnh của cuộc sống như trong trường hợp trầm cảm “nội sinh”.

ĐIỀU TRỊ: những thể nặng có thể phải yêu cầu bệnh nhân nhập viện. Đối với những thể khác thì điều trị ngoại trú bằng các thuốc chống trầm cảm (xem từ này) và liệu pháp tâm thần “nâng đỡ”.

TRẦM CẢM THỨ PHÁT

Trầm cảm có thể liên kết với những tổn thương khu trú hoặc thoái hoá của não, với những rối loạn chuyển hoá, với nhiễm độc thuốc hoặc với hội chứng cai nghiện. Do đó, khi trầm cảm mới xuất hiện, thì phải tìm xem có một bệnh nội khoa hoặc thần kinh nào tiềm ẩn ở bên dưới hay không.

Huyệt Chí Âm

Chí Âm

Tên Huyệt:

Đường kinh túc Thái dương Bàng Quang nối với Túc Thiếu âm Thận, huyệt Chí Âm là huyệt cuối cùng của kinh Bàng Quang, vì vậy gọi là Chí Âm (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Ngoại Chí Âm.

Xuất Xứ:

Thiên ‘Bản Du’ (Linh khu.2).

Đặc Tính:

Huyệt thứ 67 của kinh Bàng Quang.

Huyệt Tỉnh, thuộc hành Kim.

Huyệt Bổ của kinh Bàng Quang.

Vị Trí huyệt:

Ở bờ ngoài ngón út, cách góc chân móng 0, 2 thốn, trên đường tiếp giáp da gan chân – mu chân.

Giải Phẫu:

Dưới da là xương đốt 3 ngón chân thứ 5.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh S1.

Tác Dụng:

Sơ phong ở đỉnh sọ, tuyên khí cơ hạ tiêu, hạ điều thai sản.

Chủ Trị:

Trị ngón chân thứ 5 đau, đầu đau, mũi nghẹt, mũi chảy máu, thai bị lệch (cứu).

Phối Huyệt:

1. Phối Khúc Tuyền (C.8) + Trung Cực (Nh.3) trị tinh thoát (Tư Sinh Kinh).

2. Phối Bá Hội (Đc.20) + Lạc Khước (Bàng quang.8) + Mục Song (Đ.16) + Thân Mạch (Bàng quang.62) trị não hôn, mắt đỏ, đầu quay cuồng (Châm Cứu Đại Thành).

3. Phối Dương Phụ (Đ.38) + Hoàn Khiêu (Đ.30) + Thái Bạch (Tỳ 3) trị thắt lưng và hông sườn đau (Châm Cứu Đại Thành).

4. Phối Cách Du (Bàng quang.17) + Tam Âm Giao (Tỳ 6) + Thái Xung (C.3) + Trung Phong (C.5) trị mộng tinh, di tinh (Châm Cứu Đại Thành).

5. Phối Ốc Ế (Vị 15) trị mụn nhọt đau nhức (Bách Chứng Phú).

6. Phối Túc Tam Lý (Vị 36) có tác dụng thúc đẻ (Tạp Bệnh Huyệt Pháp Ca).

7. Phối Lãi Câu (C.5) + Lậu Cốc (Tỳ 7) + Thừa Phò (Bàng quang.36) + Trung Cực (Nh.3) trị tiểu tiện không thông, thất tinh (Bị Cấp Cứu Pháp).

8. Phối Liệt Khuyết (Phế 7) + Thái Dương trị nửa đầu đau (Châm Cứu Học Thượng Hải).

9. Phối Phong Trì (Đ.20) + Thái Dương trị đỉnh đầu đau, cứng gáy (Châm Cứu Học Thượng Hải).

Cách châm Cứu:

Châm xiên lên trên sâu 0, 1-0, 2 thốn, hoặc châm nặn ra ít máu – Cứu 3-5 tráng – Ôn cứu 5-10 phút.

Tham Khảo:

“Chứng khóc nghẹn là do Âm khí thịnh mà Dương khí hư, Âm khí nhanh mà Dương khí chậm, Âm khí thịnh mà Dương khí tuyệt nên châm bổ kinh Túc Thái Dương (Chí Âm) và tả Túc Thiếu Âm” (Linh khu.28, 11).

“Thân thể hơi đau, châm huyệt Chí Âm” (Tố vấn.36, 31).

“Tà khí nhập ở Lạc Túc Thái Dương, khiến nửa bên đầu cổ đều đau, châm huyệt tại chân góc móng ngón út (huyệt Chí Âm), nếu bệnh bên pHải thì châm bên trái, và ngược lại”(Tố vấn.63, 11).

Huyệt Dương Cương

Dương Cương

Tên Huyệt:

Dương = Lục phủ. Cương = Thống lãnh. Huyệt ở Vị Trí huyệt ngang với huyệt Đởm Du, là bối du huyệt của lục phủ, vì vậy gọi là Dương Cương (Trung Y Cương Mục).

Xuất Xứ:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính:

Huyệt thứ 48 của kinh Bàng Quang.

Vị Trí huyệt:

Dưới gai sống lưng 10, đo ngang ra 3 thốn, cách Đởm Du 1, 5 thốn.

Giải Phẫu:

Dưới da là cơ lưng to, cơ răng cưa bé sau-dưới, cơ chậu sườn-ngực, cơ gian sườn 10, phổi hoặc gan. Thần kinh vận động cơ là nhánh của đám rối cánh tay, nhánh của dây thần kinh gian sườn 10. Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D9.

Tác Dụng:

Thanh Đởm, Vị, hóa thấp nhiệt.

Chủ Trị:

Trị gan và mật viêm, vàng da, tiêu chảy, bụng sôi, dạ dày viêm.

Phối Huyệt:

1. Phối Kỳ Môn (C.14) + Lao Cung (Tâm bào.8) + Thiếu Thương (Phế 11) trị ăn uống không tiêu (Thiên Kim Phương).

2. Phối Đởm Du (Bàng quang.16) trị mắt vàng (Bách Chứng Phú).

3. Phối Đại Hách (Th.12) + Hồn Môn (Bàng quang.47) trị giun sán (Châm Cứu Học Thượng Hải).

Cách châm Cứu:

Châm xiên 0, 5-0, 8 thốn – cứu 3-5 tráng – Ôn cứu 5-15 phút.

Ghi Chú: Không châm sâu quá vì có thể đụng phổi.

Loạn nhịp tim – nguyên nhân, triệu chứng

Loạn nhịp tim (LNT) là hệ quả của một số bệnh lý tại tim và ngoài tim. Nó cũng là nguyên nhân trực tiếp của nhiều trường hợp tử vong hoặc làm nặng tiên lượng của bệnh lý nền sẵn có. Ngày nay đã có nhiều phương pháp chẩn đoán giúp cho việc xác định loạn nhịp tim chính xác hơn, từ đó điều trị có hiệu quả hơn. Song song với các phương tiện chẩn đoán, có nhiều loại thuốc cũng như các phương pháp điều trị mới ra đời đem lại lợi ích thiết thực cho người bệnh. Tuy nhiên, cũng vì sự phong phú của các phương pháp chẩn đoán và điều trị nên cần thiết phải có những hướng dẫn để các thầy thuốc có thể lựa chọn phương pháp phù hợp với từng đặc thù của các loại loạn nhịp khác nhau.

1.1. Định nghĩa

1. Nhịp tim bình thường: là nhịp tự động của tim được điều khiển bởi nút xoang – chủ nhịp (Pace – maker) với tần số từ 60 – 100 lần/phút, có nhịp đều – nghĩa là khoảng cách giữa các nhịp bằng nhau.
2. Loạn nhịp tim: Là nhịp bất thường về tần số (nhanh hoặc chậm) hoặc không đều hoặc phối hợp bất thường cả về tần số và nhịp.

1.2. Phân loại

1.2.1. Theo tần số và nhịp
‒ Nhịp nhanh (trên 100 lần/phút).
‒ Nhịp chậm (dưới 60 lần/phút).
‒ Nhịp nhanh xen kẽ nhịp chậm.
‒ Nhịp không đều.
1.2.2. Theo vị trí giải phẫu
‒ Loạn nhịp xoang.
‒ Loạn nhịp trên thất.
‒ Loạn nhịp thất.
1.2.3. Theo cơ chế

‒ Loạn nhịp do rối loạn tạo xung động

‒ Do rối loạn dẫn truyền.

‒ Do rối loạn kích thích và dẫn truyền.

1.3. Các nguyên nhân chính của Loạn nhịp tim

1. Các bệnh tim mạch: Bệnh cơ tim, van tim, động mạch vành tim, viêm nội tâm mạc, viêm ngoại tâm mạc, tắc động mạch phổi …
2. Bệnh nội tiết: Cường hoặc suy giáp trạng.
3. Rối loạn điện giải.
4. Rối loạn kiềm – toan.
5. Ngộ độc (thuốc, hóa chất )
6. Nhiễm trùng.
7. Không rõ nguyên nhân (suy nút xoang, rung nhĩ vô căn …).

1.4. Chẩn đoán loạn nhịp tim

1.4.1. Lâm sàng

‒ Bắt mạch đếm tần số, nghe tim.
‒ Nghe tim đếm tần số và nhịp tim khi ngưng thở.
‒ Đếm tần số và nhịp tim khi xoa xoang động mạch cảnh.

1.4.2. Cận lâm sàng

‒ Điện tâm đồ quy ước (phối hợp với ghi một số chuyển đạo đặc biệt …).
‒ Ghi điện tâm đồ gắng sức.
‒ Ghi điện tâm đồ 24 giờ (phương pháp Holter).
‒ Siêu âm tim (tìm nguyên nhân gây loạn nhịp tim: huyết khối tâm nhĩ, sa van 2 lá, bệnh cơ tim …).
‒ Đo điện sinh lý tim (kích thích tâm nhĩ, đo điện thế bó His, kích thích tâm thất, Mapping tâm nhĩ và động mạch phổi …
‒ Đo điện thế muộn (late Potential)
‒ Các nghiệm pháp thuốc (Atropine, Isoprenalin …).

1.5. Các phương pháp điều trị 

‒ Thuốc.

‒ Sốc điện.

‒ Sử dụng máy tạo nhịp tim và máy phá rung cấy vào cơ thể (ICD).

‒ Cắt đốt ổ gây loạn nhịp qua Catheter (Ablation).

‒ Phẫu thuật (MAZE, cắt bỏ phồng vách thất …).

‒ Điều trị nguyên nhân (nếu có)

2. KHUYẾN CÁO CHO CÁC THỂ LOẠN NHỊP TIM RIÊNG BIỆT

2.1. Loạn nhịp tim chậm

2.1.1. Định nghĩa

Loạn nhịp chậm được xác định khi tần số tim dưới 60 chu kỳ/phút với nhịp đều hoặc không đều.

2.1.2. Cơ chế gây loạn nhịp chậm

‒ Do rối loạn tạo xung động (nhịp xoang chậm, suy yếu nút xoang …).
‒ Do rối loạn dẫn truyền (blốc xoang – nhĩ, blốc nhĩ thất …).
‒ Do phối hợp tạo xung động và dẫn truyền (cuồng động nhĩ với blốc cao độ, rung nhĩ đáp ứng thất chậm …).

2.1.3. Nguyên nhân chính của loạn nhịp chậm 

‒ Do cường phế vị.
‒ Do các bệnh tại tim và tác động lên tim (thiếu máu cục bộ cơ tim, nhồi máu cơ tim, xơ hóa cơ tim, viêm cơ tim cấp, thấp tim, bạch hầu …).
‒ Ngộ độc thuốc (Digitalis, chẹn bêta giao cảm, Amiodarone …).
‒ Rối loạn điện giải (tăng kali, giảm canxi …).
‒ Bệnh nội tiết (suy giáp, tiểu đường …).
‒ Do phẫu thuật và tim mạch học can thiệp (mổ mắt, phẫu thuật tim hở …).
‒ Hội chứng ngưng thở khi ngủ.
‒ Hội chứng quá mẫn xoang cảnh.
‒ Hội chứng suy nút xoang.
‒ Không tìm được nguyên nhân.

2.1.4. Chẩn đoán

2.1.4.1. Lâm sàng

‒ Khai thác bệnh sử: hồi hộp, đau ngực, choáng váng, xỉu, ngất …
‒ Đếm mạch, nghe tim, phối hợp một số nghiệm pháp đơn giản (Valsalva, xoa xoang cảnh …).

2.1.4.2. Cận lâm sàng

‒ Ghi điện tâm đồ quy ước (phối hợp một số nghiệm pháp đơn giản).
‒ Ghi điện tâm đồ 24 giờ theo phương pháp Holter.
‒ Đo điện sinh lý.
‒ Nghiệm pháp thuốc (Atropine, Propranolol …).

2.1.4.3. Các khuyến cáo chẩn đoán loạn nhịp chậm

a. Ghi điện tâm đồ 24 giờ theo phương pháp Holter
Nhóm I
1. ĐTĐ lưu động được chỉ định khi cần phải làm rõ ràng chẩn đoán thông qua việc phát hiện rối loạn nhịp, thay đổi đoạn QT, thay đổi sóng T, hoặc ST, hoặc khi cần đánh giá nguy cơ, hoặc đánh giá điều trị. (Mức độ bằng chứng: A)
2. Khi triệu chứng không thường xuyên và không biết được có phải do các rối loạn nhịp thoáng qua gây ra hay không, thì cần chỉ định theo dõi các biến cố. (Mức độ bằng chứng: B)
3. Đối với những trường hợp không thể biết được mối liên hệ giữa triệu chứng và rối loạn nhịp nhờ những kỹ thuật chẩn đoán thông thường, đặc biệt là ở những bệnh nhân có triệu chứng thoáng qua và nghi ngờ do rối loạn nhịp thì có thể chỉ định cấy máy ghi cho bệnh nhân. (Mức độ bằng chứng: B). Điện tâm đồ 24 – 48 giờ có thể phát hiện các đoạn ngưng xoang kéo dài quá 3 giây, các loạn nhịp xoang tần số quá chậm (khi ngủ), các blốc nhĩ thất cao độ và các cơn xoắn đỉnh có liên quan đến nhịp chậm. Các ghi nhận đó có thể giải thích cho biểu hiện lâm sàng là chóng mặt, xỉu, ngất ở bệnh nhân.
b. Khảo sát điện sinh lý ở những bệnh nhân bị ngất
Nhóm I
Khảo sát điện sinh lý được khuyến cáo cho những bệnh nhân bị ngất chưa rõ nguyên nhân mà có giảm chức năng thất trái hoặc bệnh tim thực thể. (Mức độ bằng chứng B)
Nhóm IIa
Khảo sát điện sinh lý có thể hữu ích ở những bệnh nhân bị ngất nghi ngờ do rối loạn nhịp nhanh hoặc nhịp chậm, hoặc ở những bệnh nhân mà các xét nghiệm chẩn đoán không xâm lấn không kết luận được. (Mức độ bằng chứng B).
Khảo sát điện sinh lý có giá trị chẩn đoán cao trong hội chứng suy yếu nút xoang (tỷ lệ 85%) và được phối hợp với các nghiệm pháp dùng thuốc (Atropine … ) để đạt độ chính xác tốt hơn.
Nhóm IIb
Có thể xem xét việc lọc máu để điều trị tăng kali máu cho những bệnh nhân đang uống digoxine và có biểu hiện ngộ độc nặng (rối loạn nhịp thất kéo dài, blốc nhĩ thất, và/hoặc asystole). (Mức độ bằng chứng: C)
Nhóm III
Không khuyến cáo sử dụng lidocaine hoặc phenytoine để điều trị cho những bệnh nhân đang uống digoxine và có biểu hiện ngộ độc nặng (rối loạn nhịp thất kéo dài, blốc nhĩ thất, và/hoặc asystole). (Mức độ bằng chứng: C)

Bệnh Chảy máu não

Phân loại chảy máu não:

Chảy máu não là một thể tai biến mạch máu não, chiếm tỷ lệ khoảng 25 – 30% tổng số bệnh nhân tai biến mạch máu não. Theo phân loại quốc tế lần thứ X (ICD- X) năm 1992, chảy máu não có mã số I61, trong đó được phân loại chi tiết như sau:

I61.0 – Chảy máu trong bán cầu đại não, dưới vỏ. I61.1 – Chảy máu trong bán cầu đại não, ở vỏ não. I61.2 – Chảy máu ở thân não.

I61.3 – Chảy máu ở tiểu não. I61.4 – Chảy máu ở tiểu não.

I61.5 – Chảy máu ở trong não thất. I61.6 – Chảy máu trong não nhiều ổ. I61.8 – Chảy máu ở trong não khác.

I61.9 – Chảy máu trong não không phân biệt rõ.

  • Bệnh căn, bệnh sinh, các yếu tố nguy cơ và đặc điểm dịch tễ của chảy máu não:

+ Các nguyên nhân gây chảy máu não (không kể nguyên nhân do chấn thương):

  • Tăng huyết áp
  • Vỡ túi phồng động mạch và túi phồng động mạch và túi phồng động mạch – tĩnh mạch.
  • Các bệnh gây chảy máu não.
  • Chảy máu não sau nhồi máu.
  • Chảy máu não do viêm động mạch hoặc tĩnh mạch.
  • Chảy máu não tiên phát (không rõ nguyên nhân gì). Còn có các nguyên nhân khác ít gặp hơn.

Trong các nguyên nhân trên tăng huyết áp là nguyên nhân chủ yếu gặp trong 50 – 60% số bệnh nhân chảy máu não.

Các yếu tố nguy cơ có thể khởi phát chảy máu não hoặc gặp nhiều ở bệnh nhân chảy máu não cũng nằm trong các yếu tố nguy cơ chung của tai biến mạch máu não như: nghiện rượu, thay đổi thời tiết, khí hậu, các stress, gắng sức quá mức, nghiện thuốc và bệnh nhiễm khuẩn. Nếu ở một bệnh nhân có càng nhiều yếu tố nguy cơ thì khả năng xảy ra chảy máu não càng cao.

+ Đặc điểm dịch tễ của chảy máu não:

Theo nhiều công trình nghiên cứu về dịch tễ học của chảy máu não đã công bố, chảy máu não chiếm tỷ lệ từ 25 – 30% số bệnh nhân tai biến mạch máu não. ở một số nước, nhờ việc điều trị và kiểm soát bệnh cao huyết áp tốt nên đã giảm được tỷ lệ chảy máu não. Tỷ lệ tử vong trong chảy máu não vào khoảng 60 – 70%.

Lứa tuổi bị chảy máu não nhiều nhất là từ 50 – 60 tuổi, tuy nhiên nếu là do vỡ các dị dạng mạch máu não thường gặp ở lứa tuổi trẻ hơn.

Chảy máu não gặp ở nam nhiều hơn nữ từ 1,5 đến 2 lần.

Chảy máu não thường xảy ra vào ban ngày nhiều hơn ban đêm, vào mùa đông nhiều hơn các mùa khác và đặc biệt hay xảy ra vào các ngày thay đổi thời tiết, chuyển gió mùa đông bắc.

+ Cơ chế bệnh sinh chảy máu não:

Có hai thuyết chính về cơ chế bệnh sinh của chảy máu não:

  • Thuyết vỡ túi phồng động mạch vi thể của Charcot và Bouchard: do tăng huyết áp kéo dài làm tổn thương các động mạch nhỏ (đường kính < 250µm), tại các động mạch này có sự thoái biến HyalinFibrin làm thành mạch bị tổn thương, có nơi tạo ra các phình mạch nhỏ, có kích thước 0,5 – 2mm, gọi là các vi phình mạch Charcot và Bouchard, những túi phồng này có thể to dần lên và khi áp lực dòng máu tăng đột ngột làm nó vỡ ra gây chảy máu não. Cơ chế này hay xảy ra ở các động mạch trung tâm, tưới máu cho các vùng sâu của não.

Trong những trường hợp có túi phồng động mạch bẩm sinh, có thể không có triệu chứng gì, đến khi thành của túi phồng suy yếu, đột ngột nó bị vỡ, đặc biệt là ở đáy của túi phồng, gây chảy máu não. Những trường hợp này hay gây chảy máu não kèm theo chảy máu dưới màng nhện.

  • Thuyết xuyên mạch của Rouchoux:

Do thành mạch bị suy yếu dần dẫn đến xuất huyết theo kiểu xuyên mạch, đặc biệt là trước đó nếu bệnh nhân đã bị nhồi máu não, ở đó thành động mạch bị tổn thương và mất tính tự điều hoà của thành mạch, khi được tưới máu trở lại sẽ dẫn đến xuất huyết xuyên mạch.

Trong những trường hợp chảy máu não không do cao huyết áp hay vỡ phình mạch – chảy máu não tiên phát, người ta đã tìm thấy ở những bệnh nhân này có thoái hoá động mạch não dạng tinh bột, dẫn đến vỡ các mạch máu, xuyên mạch, gặp nhiều trong chảy máu thuỳ, đặc biệt ở thuỳ đảo và gặp cả ở người trẻ tuổi.

Chảy máu não hầu hết sẽ tạo thành ổ máu tụ trong não và máu sẽ tự cầm trong ít phút, một số ít có thể kéo dài 30 – 60 phút (trường hợp này sẽ rất nặng). ở bệnh nhân chảy máu não có thể kèm theo xuất huyết đường tiêu hoá, khi đó bệnh tiến triển càng nặng.

Lâm sàng chảy máu não.

Đặc điểm lâm sàng điển hình của chảy máu não ở mọi khu vực là:

Khởi phát rất đột ngột, dữ dội bằng hôn mê hoặc lú lẫn, u ám rồi đi vào hôn mê, vì vậy người ta gọi là đột quỵ não (ictuscerebralis). Tuy nhiên, có trường hợp có những tiền triệu như đau đầu, choáng váng, chóng mặt, buồn nôn… Khám bệnh nhân hôn mê thấy: mặt đỏ, mạch căng, huyết áp cao, thở sâu có thể rối loạn nhịp thở kiểu Cheyne Stokes, tăng tiết đờm rãi, tiểu tiện không tự chủ. Thường thấy quay đầu và hai mắt nhìn về một phía (bên bán cầu não bị tổn thương), giảm hoặc mất phản xạ gân xương, có phản xạ Babinski ở một bên hoặc cả hai bên, cứng gáy, lúc này khó phát hiện triệu chứng liệt khu trú nhưng nếu khám xét kỹ ta có thể thấy biểu hiện như: ở bên nửa người bị liệt bàn chân của bệnh nhân nằm sát xuống mặt giường, má ở bên có liệt mặt phập phồng theo nhịp thở mạnh hơn, hoặc ở bên đó nước rãi nhiều hơn, đồng tử ở bên chảy máu não giãn to hơn, phản xạ bệnh lý bó tháp chỉ có ở một bên, các phản xạ gân xương ở bên liệt giảm nhiều hơn ở bên kia.

Nếu chảy máu não thất (lụt não thất), bệnh nhân hôn mê sâu ngay, nôn, co giật hoặc duỗi cứng mất não, rối loạn nhịp thở nặng nề, huyết áp tăng vọt lên rồi tụt dần xuống, hầu hết bệnh nhân tử vong sớm trong 24 giờ đầu.

Nếu chảy máu não từ từ hơn, ở sâu trong tổ chức não có thể được khu trú lại thành ổ máu tụ trong não. Trong trường hợp này ý thức của bệnh nhân có thể lú lẫn, u ám kéo dài. Kèm theo bệnh nhân có hội chứng tăng áp lực trong sọ, các triệu chứng thần kinh khu trú tăng dần lên.

Cũng có những trường hợp chảy máu não mức độ nhẹ, bệnh nhân không có rối loạn ý thức hoặc chỉ có rối loạn ý thức nhẹ.

Lưu ý có trường hợp chảy máu não kèm xuất huyết đường tiêu hoá và xuất huyết ở các cơ quan khác.

+ Giai đoạn hôn mê trong chảy máu não diễn biến tuỳ từng trường hợp, trường hợp nặng hôn mê sâu dẫn đến tử vong. Những trường hợp nhẹ, mức độ hôn mê giảm dần và bệnh nhân thoát hôn mê, ý thức phục hồi trở lại. Còn có những trường hợp ý thức bệnh nhân lú lẫn, u ám kéo dài sau đó bệnh nhân chết do bội nhiễm và các biến chứng khác.

Khi bệnh nhân thoát hôn mê, các triệu chứng thần kinh biểu hiện rõ ràng và đầy đủ. Có những triệu chứng ở vùng não bị tổn thương và những triệu chứng của tổ chức xung quanh não bị tổn thương, do bị phù nề, chèn ép, bị “cướp máu”… Các triệu chứng này sẽ phục hồi tốt hơn, nếu được điều trị sớm và thích hợp.

Các triệu chứng thần kinh khu trú tuỳ thuộc và khu vực chảy máu não.

  • Chảy máu não ở khu vực bao trong và các nhân xám trung ương:

Chảy máu ở đây hay gặp nhất (50 – 60% số bệnh nhân chảy máu não), đặc biệt là do chảy máu từ động mạch thể vân ngoài (động mạch ưa chảy máu Charcot). Lâm sàng có các triệu chứng điển hình như đã nêu ở trên. Chú ý những đặc điểm lâm sàng sau: liệt nửa người bên đối diện đồng đều, liệt nặng, kèm theo liệt mặt và liệt dây XII kiểu trung ương rõ, thường có biểu hiện quay đầu và mắt về phía bán cầu đại não bị tổn thương. Nếu ổ máu tụ lớn xuất hiện triệu chứng duỗi cứng mất não, máu có thể chảy cả vào não thất bên hoặc toàn bộ các não thất.

Nếu ổ máu tụ nhỏ các triệu chứng thần kinh khu trú giới hạn ở chỗ tổn thương rõ hơn, đồng thời có các triệu chứng bệnh lý của vùng lân cận.

Chảy máu ở đồi thị, nếu điển hình sẽ có hội chứng đồi thị: bán manh, mất cảm giác nửa người và mất điều chỉnh do căn nguyên cảm giác. Thường kèm theo bại nửa người bên đối diện, hai nhãn cầu hội tụ vào trong và xuống dưới.

Chảy máu ở nhân đuôi hoặc thể vân, ít gặp chảy máu ở nhân đuôi đơn thuần, thường ổ máu tụ lan vào bao trong, khi đó bệnh nhân có hội chứng ngoại tháp kiểu múa vờn hoặc hội chứng Parkinson.

  • Chảy máu ở thuỳ não:

Chảy máu thuỳ não chiếm khoảng 35 – 35% số bệnh nhân chảy máu não, trong đó chảy máu thuỳ thái dương chiếm nhiều nhất. Tuỳ từng vị trí thuỳ não về lâm sàng c ó các triệu chứng thần kinh tương ứng.

+ Hội chứng thuỳ trán: có liệt nửa người bên đối diện không đồng đều tay và chân, rối loạn ngôn ngữ vận động, mất viết, lệch mắt và quay đầu về bên tổn thương, rối loạn tâm thần (về cảm xúc và trí nhớ), rối loạn phối hợp vận động kiểu thuỳ trán với biểu hiện mất đứng, mất đi.

+ Hội chứng thuỳ thái dương: mất ngôn ngữ giác quan, quên tên gọi, bán manh, chảy máu ở đây dễ gây tụt kẹt thân não.

+ Hội chứng thùy đỉnh: mất nhận thức cảm giác nửa người bên đối diện, hội chứng Gerstmann biểu hiện mất cảm giác nửa người, mất phân biệt bên phải và bên trái, mất viết số và tính toán.

+ Tổn thương ở bán cầu ưu năng có thể có triệu chứng mất sử dụng động tác (apraxia).

+ Hội chứng tổn thương thuỳ chẩm: bán manh cùng tên ở nửa thị trường bên đối diện, ở cả hai mắt, mất đọc (nếu tổn thương ở bán cầu ưu năng).

Trong thực tế các triệu chứng định khu có thể bị che lấp bởi hội chứng não chung do phù nề và có thể kết hợp triệu chứng của các thùy não liền nhau.

  • Chảy máu ở não thất:

Có thể chảy máu vào não thất đơn thuần, trong trường hợp này bệnh nhân chỉ có hội chứng màng não và có thể có hội chứng tăng áp lực trong sọ, không có triệu chứng thần kinh khu trú. Nếu máu chỉ có ở não thất bên, tiên lượng bệnh nhân không nặng, nếu máu có ở cả não thất III và não thất IV, tiên lượng rất nặng. Bệnh nhân có những cơn duỗi cứng mất não, rối loạn nhịp thở dẫn đến suy thở. Nếu tổn thương nặng nề sẽ mất các phản xạ thân não, bệnh nhân ngừng thở dẫn đến chết não, nếu bệnh nhân được hô hấp hỗ trợ thì tim có thể đập nhưng sau một thời gian ngắn bệnh nhân sẽ chết.

  • Chảy máu ở thân não:

Chảy máu ở thân não gặp ít hơn ở những nơi khác (4 – 5% số bệnh nhân chảy máu não) nhưng tiên lượng rất nặng, đặc biệt là chảy máu ở hành não. Đặc điểm nổi bật ở đây là có các hội chứng giao bên (khi ổ xuất huyết khu trú ở một bên), với biểu hiện tổn thương dây thần kinh sọ não ở bên xuất huyết. Liệt hoặc mất cảm giác ở nửa người bên đối diện (các hội chứng cụ thể ở từng khu vực đã viết ở bài tai biến mạch máu não). Nếu ổ máu tụ lớn bệnh nhân sẽ liệt tứ chi, hôn mê sâu, có những cơn duỗi cứng mất não, mất các phản xạ thân não, dẫn đến chết não và tử vong.

  • Chảy máu ở tiểu não:

Chảy máu ở tiểu não gặp khoảng 5 – 6% số bệnh nhân chảy máu não, triệu chứng nổi bật là hội chứng tăng áp lực trong sọ, hội chứng tiểu não. Nếu ổ máu tụ lớn dễ gây ra kẹt hành não dẫn đến tử vong, nếu ổ máu tụ nhỏ không có hội chứng tăng áp lực trong sọ thì tiên lượng bệnh nhân có thể phục hồi tốt hơn.

Các khám xét cận lâm sàng.

  • Chụp cắt lớp vi tính não (computed tomography scanner):

Trên phim chụp cắt lớp vi tính não ổ máu tụ có hình ảnh tăng tỷ trọng (khoảng 60 – 90 đơn vị Hounsfield), có thể nói đây là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán chảy máu não (không kể chẩn đoán cuối cùng bằng giải phẫu bệnh lý). Khi chụp cắt lớp vi tính não trong tuần đầu có thể phát hiện tốt các ổ máu tụ có đường kính từ 1cm trở lên. Nếu theo dõi theo thời gian ta thấy trong ngày đầu ổ máu tụ có tỷ trọng cao rõ, trong tuần đầu vẫn thấy ổ máu tụ rõ, kèm theo phù nề xung quanh và chèn đẩy não thất và đường giữa. Từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 14 ổ máu tụ bắt đầu tiêu dần từ xung quanh vào trọng tâm, tỷ trọng ổ máu tụ giảm dần và phù não cũng giảm dần. Từ ngày thứ 15 đến ngày 22 có thể thấy ổ máu tụ trở thành đồng tỷ trọng với tổ chức não. Sau 3 – 4 tuần ổ máu tụ tiêu đi, dịch hoá, trên phim chụp cắt lớp vi tính não thấy ổ giảm tỷ trọng nhỏ hơn ổ máu tụ cũ, có khi có hình liềm, hình dấu phẩy. Hình ảnh cắt lớp vi tính não có thể xác định được những trường hợp chảy máu não trong ổ nhồi máu não có trước.

  • Chụp cộng hưởng từ não (magnetic resonnance imaging):

Chụp cộng hưởng từ não cho ta hình ảnh bệnh lý não rõ hơn, đặc biệt là hình ảnh cắt dọc não theo các hướng khác nhau. Đặc biệt chụp mạch cộng hưởng từ cho ta phát hiện các dị dạng mạch và hẹp tắc động mạch não. Điểm chú ý ảnh T1 ổ máu tụ bằng tín hiệu giống phim chụp cắt lớp vi tính não, còn ảnh T2 ổ máu tụ lại có hình ảnh tín hiệu thấp, phù não xung quanh, có hình ảnh tăng tín hiệu.

  • Xét nghiệm dịch não tuỷ:

75% đến 80% số bệnh nhân chảy máu não có máu trong dịch não tuỷ, số còn lại dịch não tuỷ không có hồng cầu nhưng cũng không loại trừ được chảy máu não nhỏ, ở sâu, máu không chảy vào não thất và khoang dưới nhện.

  • Chụp mạch máu não:

Trong những trường hợp nghi ngờ chảy máu não do vỡ các dị dạng mạch máu não có chỉ định chụp mạch máu não (sau giai đoạn cấp cứu nặng) để xác định chẩn đoán và nếu có dị dạng mạch máu não cần chỉ định điều trị phẫu thuật.

Chẩn đoán chảy máu não

Chẩn đoán chảy máu não trước hết căn cứ vào lâm sàng, bước hai để chẩn đoán xác định chụp cắt lớp vi tính não, nếu không có điều kiện thì chọc ống sống thắt lưng xét nghiệm dịch não tuỷ, bước tiếp theo khi nghi ngờ có dị dạng mạch máu não thì chụp mạch máu não. Trường hợp còn chưa xác định được chẩn đoán thì chụp cộng hưởng từ.

* Chẩn đoán phân biệt:

+ Chẩn đoán phân biệt với nhồi máu não: có thể dựa vào những đặc điểm lâm sàng chính sau để chẩn đoán phân biệt giữa chảy máu não với nhồi máu não:

  • Khởi phát bệnh rất đột ngột, dữ dội.
  • Hôn mê hoặc rối loạn ý thức ngay từ đầu.
  • Có đau đầu, nôn.
  • Có kèm theo hội chứng màng não với liệt nửa người.
  • Có cơn duỗi cứng mất não hoặc có cơn co giật.
  • Có tăng huyết áp.

+ Chẩn đoán phân biệt với u não:

Về lâm sàng u não khởi phát bệnh từ từ, tiến triển nặng dần lên, kèm theo hội chứng tăng áp lực trong sọ. Tuy nhiên có trường hợp tiềm tàng, triệu chứng không rõ ràng, nhưng khi có chảy máu não trong u bệnh nặng lên đột ngột như chảy máu não không có u. Có trường hợp u não phát triển từ từ không rõ triệu chứng thần kinh khu trú, đến khi bị kẹt não bệnh nhân đột ngột hôn mê, co giật, duỗi cứng và có thể tử vong nhanh chóng.

+ Chẩn đoán phân biệt với viêm não về lâm sàng có thể nhầm lẫn khi bệnh nhân viêm não khởi phát đột ngột và không có sốt rõ, nhất là viêm não người lớn, nhưng nếu khám xét kỹ về lâm sàng thường thấy trong viêm não triệu chứng thần kinh lan toả, có những triệu chứng tổn thương vỏ não, dưới vỏ, cả hai bên bán cầu đại não, hay gặp bệnh nhân ở trạng thái đời sống thực vật: hai mắt mở tự nhiên nhưng không có nhận thức gì, chân tay duỗi cứng, đại tiểu tiện không tự chủ và phải nuôi dưỡng qua sonde.

+ Nhiều khi phải chẩn đoán phân biệt với chảy máu não do chấn thương, trong trường hợp bệnh nhân ngã đập đầu xuống nền nhà hoặc vào tường rồi hôn mê, liệt nửa người cần khám kỹ để xác định xem bệnh nhân bị chảy máu não rồi ngã hay là vấp ngã, bị chấn thương sọ não và chảy máu não.

Điều trị

Chảy máu não cần được điều trị cấp cứu kịp thời, các nguyên tắc chính trong xử trí cấp cứu và điều trị chảy máu não như sau:

  • Đảm bảo hấp và tuần hoàn:

Hút đờm rãi cho thông đường thở, nếu suy thở cần tiến hành hô hấp hỗ trợ (bóp bóng hoặc thở máy) và thở oxy duy trì PCO2 từ 25 – 30mmHg. Nếu huyết áp tụt cần nâng huyết áp bằng adrenalin, dopamin, dobutrex (dobutamine). Nếu huyết áp tăng từ 180/100mmHg trở lên mới dùng thuốc hạ huyết áp, hạ huyết áp xuống từ từ, nếu bệnh nhân có tiền sử cao huyết áp thì chỉ hạ huyết áp tối đa xuống 160 – 170mmHg, nếu bệnh nhân không có tiền sử cao huyết áp hạ áp xuống 140 – 150mmHg, không nên hạ huyết áp xuống thấp hơn vì có thể gây thiếu máu não.

Các thuốc hạ huyết áp có thể dùng là các thuốc thuộc nhóm chẹn canxi như nifedipine, nimodipin và các thuốc chẹn beta như nitropruside, labetalol. Không dùng thuốc ngậm dưới lưỡi vì có thể gây hạ huyết áp quá nhanh.

  • Chống phù não:

+ Truyền các dung dịch ưu trương như manitol, glycerol cần lưu ý dùng liều lượng hợp lý, đảm bảo áp lực thẩm thấu huyết thanh trong khoảng 300 – 320mOsm/lít, nếu bệnh nhân tỉnh táo, tiếp xúc tốt thì không cần truyền.

  • Manitol 20% truyền tĩnh mạch liều 1g/kg trong 30 phút, sau đó tuỳ tình trạng phù nề não của bệnh nhân và áp lực thẩm thấu của huyết thanh có thể mỗi 6 giờ truyền thêm liều lượng 0,25 – 0,5g/kg.
  • Glycerol 10% dung dịch liều 0,25 – 1g/kg mỗi 4 – 6 giờ.

+ Dùng lợi tiểu kết hợp: furosemid (20 – 80mg mỗi 4 – 6 giờ). Không truyền glucose.

Dùng dexamethasone ít tác dụng.

  • Dùng các thuốc cầm máu:

Hầu hết các ổ máu tụ hình thành và tự cầm máu trong ít phút, trường hợp rất nặng có thể kéo dài 30 – 60 phút, nếu kéo dài hơn thì chắc chắn bệnh nhân sẽ tử vong. Tuy vậy vẫn nên dùng thuốc cầm máu trong những ngày đầu bệnh, khoảng từ 3 – 4 ngày để ngăn chặn việc chảy máu tiếp tục và chảy máu tái phát. Cần dùng loại thuốc chống tiêu sợi tơ huyết như transamin, hemocaprol tiêm tĩnh mạch chậm 1 ống mỗi 4 – 6 giờ. Sau một tuần bị bệnh không nên dùng nữa, thời gian này ổ máu tụ sẽ tiêu dần đi.

  • Dùng các thuốc tăng cường dinh dưỡng não, bảo vệ tế bào thần kinh và tăng cường tuần hoàn não:

Trong thời kỳ cấp tính có thể dùng cerebrolysine pha với huyết thanh mặn đẳng trương truyền tĩnh mạch chậm ngày 30ml trong 20 ngày. Còn các thuốc như cavinton, nootropil, lucidril, cebrex… chỉ dùng sau giai đoạn cấp.

  • Có cơn co giật, duỗi cứng mất não.
  • Tuổi càng cao tiên lượng bệnh càng nặng.
  • Chảy máu não tái phát.
  • ổ máu tụ lớn, ở sâu (thể tích từ 60cm3trở lên ở bán cầu đại não, từ 20cm3 trở lên ở tiểu não và từ 5 – 10cm3 ở thân não).
  • Chảy máu não kèm theo chảy máu vào não thất.

Đa số bệnh nhân chảy máu não sống sót phải chịu di chứng ở mức độ nặng và vừa. Có những trường hợp ở trạng thái đời sống thực vật dai dẳng và cuối cùng chết do bội nhiễm và suy kiệt.

Chứng chảy máu (huyết chứng) Đông y và pháp, phương thuốc điều trị

Chứng chảy máu là tên chung của các bệnh gây nên chảy máu, tức là huyết đi ra ngoài kinh (lạc) mạch và thoát ra ngoài bằng đường mồm, mũi, tiền âm, hậu âm, hoặc thoát ra khỏi mạch rồi lưu lại ở da cđ. Tuệ Tĩnh gọi là chứng thất huyết (Nam dược thần hiệu). Các chứng chảy máu trong các bệnh cấp tính, mạn tính của y học hiện đại nằm trong phạm vi của chứng chảy máu cổ truyền.

Huyết hành ở trong mạch là nhờ tâm, và sự hỗ trợ của phế, huyết đi đúng thường không chảy ra ngoài mạch là nhờ sự thống nhiếp của tỳ, huyết dư tàng tại can để can luôn có huyết dự trữ cung cấp cho các hoạt động của từng cơ quan và khi ngủ, các hoạt động cơ thể giảm đi thì phần huyết dư ra sẽ trở về can.

Nguyên nhân gây chảy máu thường có:

  1. Ngoại cảm phong tà, phế có táo nhiệt lại cảm phong tà, lúc đó phong và nhiệt tác động lẫn nhau (phong nhiệt tương bác) làm huyết lạc ỗ phế bị tổn thương gây nên.
  2. Khi ăn nhiều chất cay nồng, uống nhiều rượu thì nhiệt dễ tích lại, chưng đốt trường vị, làm huyết lạc ở trường vị bị tổn thương gây nên.
  3. Lao lực quá độ dễ gây nội thương, thất tình quá độ sẽ làm tổn thương can tỳ. Tỳ bị tổn thương thì không nhiếp được huyết. Uất nộ làm tổn thương can làm can khí uất hóa hỏa, can hỏa tất phạm vị (mộc thừa thổ) làm tổn thương lạc mạch ở vị gây chảy máu.
  4. Bệnh kéo dài hoặc bệnh nhiệt sẽ làm thận âm bị hư tổn lúc đó hư hỏa vọng động làm huyết vọng hành gây đái máu. Lo phiền quá độ tâm hỏa sẽ càng thịnh và làm thương tổn thận âm đồng thời nhiệt đi xuống bàng quang cũng gây đái máu.
  5. Ngoài ra huyết ứ (do vấp ngã, tổn thương hoặc hàn) tà vào kinh lạc làm cho huyết hành không thông suốt, huyết sẽ bị đi ra ngoài kinh gây chảy máu.

Như vậy cơ chế sinh bệnh của chảy máu tóm lại là nhiệt hỏa bức huyết vọng hành, tỳ hư không nhiếp huyết, đao thương làm tổn thương lạc mạch, huyết ứ làm huyết đi ra ngoài mạch. Đối với các chứng chảy máu nội khoa, cảnh Nhạc cho là chủ yếu do nhiệt hỏa khí hư (Động giả đa do vu hỏa, hỏa thịnh tắc bức huyết vọng hành, tổn giả đa do vu khí, khí thương tức huyết vô sở tàng (Cảnh Nhạc toàn thư)..Tuệ Tĩnh cho là dù có bệnh mới, bệnh cũ, bệnh hư bệnh thực khác nhau nhưng cùng đều do hỏa nhiệt bức bách mà ra; bỏi vì dương thịnh âm suy. Khí bốc lên không nén xuống huyết theo khí tràn lên các khiếu bên trên mà thành bệnh (Nam dược thần hiệu – Các bệnh sốt huyết). Lâm Bội Tuyền viết: “Huyết hành ở trong kinh có khí hỗ trợ… nếu có thương tổn, hoặc giận dữ lao tổn huyết sẽ bức huyết phải đi sai đường, hoặc nếu âm dương hư thì huyết không ở lại được (Loại chứng trị tài – huyết chứng tổng luận). “Nếu dương lạc bị tổn thương thì huyết tràn ra ngoài, tràn ra ngoài thì chảy máu cam. Nếu âm lạc bị tổn thương thì huyết tràn vào trong, tràn vào trong thì hậu huyết (Linh khu – thiên bách bệnh sử sinh).

Ngoài ra, Tôn Tư Mạo còn nhận thấy “Cũng có khí hư hiệp hàn, âm dương không hòa hợp, dinh khí hư tán, huyết hành sai đường cho nên khi dương hư thì âm phải chạy đi thôi” (Thiên Kim Phương). Trong lâm sàng, chứng chảy máu không ngoài dương thịnh âm hư, phần lớn thuộc nhiệt, còn chứng hư hàn thường rất ít gặp” (Trung y nội khoa học giảng nghĩa – Huyết chứng).

Dựa vào ý của Nội Kinh Trương Chí Thông ghi rõ: “Nếu huyết tràn lên trên tất phải đi đường phế vị, nếu thoát ở dưới, tất phải theo đường tiểu đại trường, bàng quang, cái chính là phải tìm ra nơi có bệnh, dù tạng khí bị thương, hoặc phủ khí thừa khắc đều có thể gây các chứng chảy máu trên.

Chảy máu thường có các biểu hiện:

Chứng: Huyết nghịch lên gây thổ huyết, khái huyết, chảy máu cam. Huyết đi xuống (hạ thoát) gây ỉa máu, băng huyết. Huyết bị nhiệt sẽ thoát ra ngoài mạch sinh ban chẩn. Nhiệt kết ỗ bàng quang gây đái máu. Huyết ứ trệ ở kinh lạc lâu sẽ hóa nhiệt, hóa nhiệt thường làm huyết thối rữa và gây ung nhọt. Huyết kết hợp ỗ nội tạng gây huyết khối, huyết trưng.

Mạch: Huyết thiếu thì mạch sáp, huyết hư thì mạch hư, huyết đột ngột mất nhiều thì mạch khâu, huyết nhiệt thì mạch hồng.

Về điều trị: Tuệ Tĩnh cho rằng: “Chữa chảy máu cơ bản là phải bổ âm ức dương vì hễ khí nén xuống được thì huyết trở về nguồn, bệnh sẽ khỏi. Nếu thấy máu chảy ra không tươi, đấy là máu xấu tích lại, phải thanh huyết, hóa huyết. Nếu thấy máu sắc tươi đấy là máu tốt mới sinh ra, phải chỉ huyết bổ huyết (Nam dược thần hiệu – Các bệnh xuất huyết). Nói chung nếu, hư thì bổ, thực thì tả, nhiệt thì thanh, hàn thì ôn, ứ trệ thì hoạt.

Huyết hư chảy máu

Triệu chứng: Da mặt không nhuận, mắt hoa, đầu váng, môi nhợt nhạt, ngủ không yên giấc, lưỡi nhuận.

Phép điểu tri: Dưỡng huyết, chỉ huyết.

Phương thuốc: Tứ vật thang (Cục phương)

Thục địa                      12g              Đương quy            10g,

Xuyên khung              8g,               Bạch thược            12g.

Ý nghĩa: Đương quy để bổ huyết hoạt huyết, Thục địa để bổ huyết, Xuyên khung để lý khí ở trong huyết để huyết không trệ, Bạch thược để liễm âm dưỡng huyết để huyết hành nhưng không tán. Phương này chủ yếu để bổ huyết điều kinh.

Phương thuốc: Quy tì thang (Tế sinh phương)

Đảng sâm 0,51ạng Hoàng kỳ 1 lạng
Bạch truật 1 lạng Cam thảo 2,5 đồng cân
Long nhãn 1 lạng Táo nhân 1 lạng
Phục thần 1 lạng Mộc hương 0,5 lạng
Viễn chí 1 đồng cân Đương quy 1 đồng cân

Mỗi lần dùng 4 đồng cân sắc với gừng 5 lát, táo 1 quả.

Ý nghĩa: Sâm Kỳ Truật Thảo Khương Táo đều là thuốc cam ôn để bổ tỳ khí. Đương quy tân cam ôn dưỡng can để sinh tâm huyết. Phục thần, Táo nhân, Long nhãn, cam bình để dưỡng tâm an thần, Viễn chí để giao thông tâm thận nhằm định chí ninh tâm. Mộc hương để lý khí tỉnh tỳ, đề phòng khí trệ do bổ mạnh. Phương thuốc này chủ yếu để dưỡng tâm tỳ.

Phương thuốc: Đương quy bổ huyết thang (Nội ngoại thương biện hoặc luận).

Đương quy                 6g                Hoàng kỳ               30g.

Ý nghĩa: Hoàng kỳ để bổ khí của tỳ phế, nguồn sinh huyết, Đương quy để dưỡng huyết hòa dinh theo ý dương sinh thì âm trưởng, khí vượng thì huyết sinh. Dùng trong nguyên khí bất túc gây huyết âm hư mạch dương phù việt.

Vị thuốc Hoàng kỳ
Vị thuốc Hoàng kỳ

Huyết nhiệt chảy máu.

  • Thực nhiệt

Triệu chứng: Buồn bực, vật vã, mặt đỏ, mắt đỏ, môi đỏ, miệng khô khát nước, uống nhiều, mạch hồng sác.

Phép điều trị: Lương huyết chỉ huyết.

Phương thuốc: Tứ sinh hoàn (Phụ nhân lương phương).

Sinh hà diệp                   9g            Sinh địa                   15g

Sinh trắc bách diệp      12g            Sinh ngải diệp 9g.

Ý nghĩa: Trắc bách diệp để lương huyết, chỉ huyết. Sinh địa để thanh nhiệt lương huyết, tăng hiệu quả chỉ huyết, đồng thời dưỡng âm sinh tân dịch đề phòng âm bị tổn thương. Thường dùng trong nôn máu, chảy máu cam.

Phương thuốc: Tê giác địa hoàng thang (Bị cấp thiên kim yếu phương)

Tê giác                l,5-3g                  Sinh địa                   30g

Thược dược                 12g            Đơn bì                      9g.

Ý nghĩa: Tê giác để thanh tâm lương huyết giải độc, Sinh địa vừa để tư âm thanh nhiệt vừa để lương huyết chỉ huyết, Thược dược, Đơn bì vừa lương huyết vừa tán ứ.

Phương này dùng trong trường hợp huyết đã thoát ra ngoài mạch ứ lại ở đó, để chữa nhiệt và huyết kết lại thành huyết ứ.

Nếu có thêm ban chẩn, mặt đỏ, mạch sác, dùng:

Phương thuốc: Hóa ban thang (Ôn bệnh điều biện)

Tê giác 2-6g Huyền sâm 10g
Thạch cao 30g Tri mẫu 12g
Sinh Cam thảo 10g Gạo tẻ 9g.

Ý nghĩa: Thạch cao, Tri mẫu, Cam thảo để vừa thanh nhiệt vừa bảo tồn âm. Tê giác để thanh nhiệt giải độc. Gạo tẻ để dưỡng vị khí. Huyền sâm để tư âm thanh nhiệt. Phương này chủ yếu dùng chữa khí huyết đều có nhiệt có sốt và phát ban.

  • Hư nhiệt.

Triệu chứng: Triều nhiệt, ngũ tâm phiền nhiệt, cốt chưng, miệng lưỡi lỏ loét, nước tiểu ít, đỏ.

Phép điều trị: Dưỡng âm thanh nhiệt

Phương thuốc: Lục vị địa hoàng hoàn (Tiểu nhi dược chứng trực quyết)

Thục địa 24g Sơn thù 12g
Hoài sơn 12g Phục linh 9g
Trạch tả 9g Đan bì 9g

Ỷ nghĩa: Thục địa để tư thận âm, ích tinh tủy. Sơn thù để tư thận ích can, Hoài sơn để tư thận bổ tỳ. Trạch tả để tả thận giáng trọc, Đơn bì để tả can hỏa, Phục linh để thảm thấp của tỳ.

Phương thuốc: Đại bổ âm hoàn (Đan khê tâm pháp).

Quy bản 180g            Hoàng bá                120g

Trí mẫu  120g            Thục địa                 180g

Tủy lợn 1 cái               Mật ong vừa đủ.

Có thể thêm Địa cốt bì. Làm hoàn 15g 1 hoàn.

Ý nghĩa: Thục, Quy bản để tư bổ chân âm, tiềm dương chế hỏa. Tủy lợn, Mật ong để bổ âm tinh, sinh tân dịch, Hoàng bá để tả tướng hỏa làm khỏe chân âm. Tri mẫu vừa thanh nhiệt nhuận phế ở thượng tiêu vừa tư nhuận thận âm ở hạ tiêu. Phương này trị can thận đều hư, hư hỏa bốc lên trên.

Hư hàn chảy máu.

Triệu chứng: Chân tay lạnh (giá), sợ lạnh, thích nóng ấm, phân lỏng.

Phép điều trị: Ôn dương tán hàn.

Phương thuốc: Lý trung thang (Thương hàn lận)

Nhân sâm                       6g            Can khương              5g

Bạch truật                      9g            Chích thảo               6g.

Ý nghĩa: Can khương để ôn trung tiêu khu hàn, Sâm để đại bổ nguyên khí trợ cho việc thăng giáng. Chích thảo để hòa trung. Truật để kiện tỳ táo thấp. Dùng trong trường hợp trung khí nguyên có hư nay thêm hàn mạnh.

Phương thuốc: Tiểu kiến trung thang (Thương hàn luận)

Quế chi                          9g            Thược dược            18g

Sinh khương                10g            Chích thảo                6g

Đại táo                     4 quả               Mạch nha               30g.

Ý nghĩa: Mạch nha để ích tỳ khí dưỡng tỷ âm, ôn trung tiêu, để hoãn cái cấp của can, nhuận cái táo của phế. Cam thảo để ích klụ. Sinh khương để ôn vị. Đại táo để bổ tỳ. Thường dùng cho trung tiêu hư hàn lại có đau bụng.

Phương thuốc: Thận khí hoàn (Kim quỹ yếu lược).

Phụ tử 30g Quế chi 30g
Can địa hoàng 24Óg Sơn thù 120g
Hoài sơn 120g Trạch tả 90g
Phục linh 90g Đơn bì 90g

Ý nghĩa: Can địa hoàng để tư bổ thận âm, Sơn thù, Sơn dược để can tỳ, tư bổ thận âm. Quế, Phụ để ôn bổ thận dương. Trạch tả Phục linh để lợi thủy thẩm thấp. Đơn bì để tả can hỏa. Dùng chữa thận dương hư.

Huyết ứ chảy máu.

Triệu chứng: Bụng có hòn cục, đau cự án có ban, lưỡi tím hoặc có đám tím, xanh, phân đen, mạch trì sáp.

Phép, điều trị: Phá ứ sinh tàn.

Phương thuốc: Huyết phủ trục ứ thang (Y lâm cải thác)

Đương quy 9g Sinh địa 9g
Đào nhân 12g Hồng hoa 9g
Chỉ xác 6g Xích thược 6g
Sài hồ 3g Chích thảo 3g
Cát cánh 5g Xuyên khung 5g
Ngưu tất 9g.

Ý nghĩa: Quy, Khung, Thục, Thược, Đào, Hổng để hoạt huyết hóa ứ nhằm dưỡng huyết. Sài, Thược, Chỉ xác, Thảo để hành khí hoạt huyết nhằm sơ can. Cát cánh để khai phế khí, đưa thuốc đi lên để khoan hung. Ngưu tất để thông lợi huyết mạch đưa huyết đi xuống. Thường dùng trong trường hợp huyết ứ ở tim chấn động não, chấn thương gây huyết ứ ở ngực.

Chứng ngất do giao hợp (Tên khác: Chứng ngất do quan hệ tình dục)

Chứng ngất do giao hợp, còn được gọi là chứng ngất do quan hệ tình dục, thường không phổ biến trong lâm sàng, vì vậy nhiều người không hiểu rõ về nó. Nghiên cứu y học cho thấy, chứng ngất do quan hệ tình dục thường xảy ra ở các cặp vợ chồng mới cưới trong lần quan hệ đầu tiên hoặc ở những người trẻ tuổi đang hẹn hò. Y học hiện đại gọi đây là “ngất do ức chế mạch máu.”

Nguyên nhân của chứng ngất do giao hợp

Nguyên nhân của chứng ngất do giao hợp, ngoài việc cô dâu có thể đã có bệnh lý từ trước mà phát tác trong khi quan hệ, thường có thể bao gồm các yếu tố sau:

  1. Lần giao hợp đầu tiên: Cảm giác hồi hộp quá mức, dẫn đến sự hưng phấn quá độ của hệ thần kinh giao cảm, làm tăng tiết hormone tuyến thượng thận, khiến mức catecholamine trong cơ thể tăng đột ngột, gây co thắt các mạch máu nhỏ toàn thân, dẫn đến thiếu máu não tạm thời và ngất xỉu. Tình huống này thường gặp ở những cô dâu có thể trạng yếu hoặc mắc bệnh thiếu máu nặng.
  2. Sự bất cẩn của một số chú rể: Một số chú rể có thể quá lo lắng và ôm cô dâu quá chặt, vô tình gây áp lực lên các thụ thể áp lực ở động mạch cảnh của cô dâu, từ đó làm huyết áp của cô dâu giảm đột ngột và gây ngất.
  3. Thiếu hiểu biết về quan hệ tình dục: Một số cô dâu, do lần đầu tiên quan hệ với bạn trai và thiếu kiến thức về lĩnh vực này, có thể cảm thấy căng thẳng hoặc quá hưng phấn, dẫn đến tăng nhịp thở và gây ra tình trạng kiềm hô hấp, gây ra chóng mặt, tức ngực, tê tay chân, thậm chí co giật và ngất.
  4. Mệt mỏi do tổ chức đám cưới: Trong thời gian tổ chức đám cưới, phải tiếp xúc với nhiều người, tiệc tùng quá nhiều, lại còn hút thuốc và uống rượu, sau đó quan hệ tình dục, dễ dẫn đến tình trạng mệt mỏi, không thể chịu nổi áp lực khi quan hệ.
  5. Phản ứng dị ứng với tinh trùng: Cuối cùng, một số cô dâu có thể bị dị ứng với tinh trùng của chồng. Trong quá trình quan hệ hoặc ngay sau đó, đầu tiên sẽ có triệu chứng ngứa da, sau đó là chóng mặt và ngất.

Triệu chứng của chứng ngất do giao hợp

  1. Loại tinh khí bạo thoát: Cơ thể yếu đuối, có thể do quan hệ tình dục quá mức, hoặc mới hồi phục sau bệnh lâu ngày, trong khi quan hệ bị kích thích quá mức dẫn đến ngất, với biểu hiện là mặt tái nhợt, đổ mồ hôi lạnh, tay chân lạnh, thở yếu.
  2. Loại hỏa vượng huyết nghịch: Trong hoặc ngay sau khi quan hệ, đột ngột xuất hiện triệu chứng chóng mặt và ngất xỉu, mặt đỏ bừng, thở gấp, thậm chí có thể chảy máu mũi không ngừng, lưỡi đỏ và ít bựa, mạch yếu và nhanh.

Chăm sóc sức khỏe cho chứng ngất do giao hợp

Phụ nữ mắc chứng ngất do giao hợp cần chú ý những điểm sau trong quá trình quan hệ tình dục:

  1. Các cô dâu có thể trạng yếu, khi quan hệ tình dục, tâm trạng rất căng thẳng, nếu có triệu chứng như chóng mặt, mặt tái nhợt, ra mồ hôi lạnh thì đó có thể là dấu hiệu báo trước của ngất xỉu. Trong trường hợp này, tốt nhất là ngừng quan hệ, ổn định cảm xúc, sau đó uống một ít nước đường và ăn một ít đồ ngọt.
  2. Nếu xảy ra ngất xỉu, sau khi được cấp cứu an toàn, cũng cần nhanh chóng đến bệnh viện để khám nhằm xác định nguyên nhân và kịp thời điều trị.
  3. Khi thực hiện quan hệ lần đầu, nam giới cần chú ý đến cảm giác của nữ giới, quá trình giao hợp nên diễn ra từ từ, không nên vội vàng hoặc hấp tấp; nếu lần đầu không thành công, có thể thử thêm vài lần, nếu vẫn không thành công thì nên đến bác sĩ để tìm nguyên nhân.

Chứng ngất do giao hợp không lây nhiễm

Chứng ngất do giao hợp không phải là một bệnh truyền nhiễm và không thể lây lan cho người khác. Bệnh truyền nhiễm được định nghĩa là bệnh mà nguồn lây (người hoặc ký chủ khác) mang mầm bệnh, thông qua các con đường lây truyền để nhiễm bệnh cho những người nhạy cảm. Chứng ngất do giao hợp là một bệnh không lây nhiễm, không có nguồn lây nên tự nhiên không có khái niệm về sự lây nhiễm. Nguyên nhân cụ thể như sau:

  1. Khi lần đầu quan hệ tình dục, nếu tinh thần quá căng thẳng, hệ thần kinh giao cảm bị kích thích quá mức, hormone adrenal được tiết ra nhiều, mức catecholamine trong cơ thể tăng cao đột ngột, làm cho các mạch máu nhỏ trong cơ thể co thắt, gây ra tình trạng thiếu máu và thiếu oxy tạm thời ở não, dẫn đến ngất xỉu.
  2. Một số chú rể có thể quá bất cẩn và căng thẳng, ôm cô dâu quá chặt, vô tình chèn ép cảm biến áp lực của xoang cảnh cổ, dẫn đến việc huyết áp của cô dâu đột ngột giảm và ngất xỉu.
  3. Một số cô dâu lần đầu quan hệ với nam giới, do thiếu kiến thức trong lĩnh vực này, tinh thần quá căng thẳng hoặc phấn khích quá mức, dẫn đến tăng nhịp thở và gây ra tình trạng kiềm hô hấp, xuất hiện triệu chứng chóng mặt, tức ngực, tê bì chân tay, thậm chí là co giật và ngất xỉu.
  4. Trong khi chuẩn bị cho đám cưới, có quá nhiều người đến người đi, tiếp đãi quá nhiều, lại hút thuốc và uống rượu, sau đó thực hiện quan hệ, dẫn đến tinh thần mệt mỏi, không thể chịu đựng được sự tiêu hao trong quan hệ tình dục.
  5. Trường hợp cuối cùng là một số cô dâu có thể dị ứng với tinh trùng của chồng, trong quá trình quan hệ hoặc sau khi quan hệ, trước tiên xuất hiện ngứa da, sau đó là chóng mặt và ngất xỉu.

Chứng ngất do giao hợp và di truyền

Chứng ngất do giao hợp không thể di truyền. Bệnh có thể được phân chia thành hai loại: bệnh di truyền và bệnh không di truyền. Bệnh di truyền là những bệnh hoàn toàn hoặc một phần do yếu tố di truyền quyết định, thường là bẩm sinh, nhưng cũng có thể phát sinh sau này. Các bệnh do nhiễm trùng hoặc chấn thương gây ra được coi là bệnh không di truyền. Chứng ngất do giao hợp thuộc loại bệnh không di truyền, với các nguyên nhân như sau:

  1. Khi lần đầu quan hệ tình dục, nếu tinh thần quá căng thẳng, hệ thần kinh giao cảm bị kích thích quá mức, hormone adrenal được tiết ra nhiều, mức catecholamine trong cơ thể tăng cao đột ngột, dẫn đến co thắt các mạch máu nhỏ trong cơ thể, gây ra tình trạng thiếu máu và thiếu oxy tạm thời ở não, dẫn đến ngất xỉu.
  2. Một số chú rể có thể quá bất cẩn và căng thẳng, ôm cô dâu quá chặt, vô tình chèn ép cảm biến áp lực của xoang cảnh cổ, gây ra tình trạng huyết áp của cô dâu đột ngột giảm và dẫn đến ngất xỉu.
  3. Một số cô dâu lần đầu quan hệ với nam giới, do thiếu kiến thức trong lĩnh vực này, nếu tinh thần quá căng thẳng hoặc phấn khích quá mức, có thể dẫn đến tăng nhịp thở và gây ra tình trạng kiềm hô hấp, xuất hiện triệu chứng chóng mặt, tức ngực, tê bì chân tay, thậm chí là co giật và ngất xỉu.
  4. Trong quá trình tổ chức đám cưới, có quá nhiều người đến và đi, tiếp đãi quá nhiều, lại hút thuốc và uống rượu, sau đó quan hệ tình dục, dẫn đến tinh thần mệt mỏi, không thể chịu đựng được sự tiêu hao trong quan hệ tình dục.
  5. Cuối cùng, một số cô dâu có thể dị ứng với tinh trùng của chồng, trong quá trình quan hệ hoặc sau khi quan hệ, xuất hiện triệu chứng ngứa da, sau đó là chóng mặt và ngất xỉu.

Biểu hiện và Chăm sóc người bệnh nhiễm khuẩn do não mô cầu

Bệnh nhiễm não mô cầu là một bệnh truyền nhiễm gây dịch, do vi khuẩn Neisseria meningitidis gây ra. Biểu hiện lâm sàng thường gặp là viêm màng não mủ và/hoặc nhiễm khuẩn huyết, có thể gây sốc dẫn đến tử vong, nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời.

Bệnh lây truyền qua đường hô hấp do hít phải các giọt nhỏ dịch tiết mũi họng bị nhiễm Neisseria meningitidis, khả năng lây truyền sẽ tăng nếu có đồng nhiễm cùng các virus đường hô hấp.

Bệnh xảy ra rải rác các tỉnh thành, chủ yếu vào mùa đông xuân. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, thường gặp nhất là trẻ dưới 5 tuổi, thanh thiếu niên từ 14 đến 20 tuổi, những người sống trong khu vực tập thể đông người (nhà trẻ, trường học, chung cư v.v…) và các cơ địa suy giảm miễn dịch.

BIỂU HIỆN LÂM SÀNG CỦA NHIỄM NÃO MÔ CẦU

Viêm họng do não mô cầu

Không có triệu chứng lâm sàng rõ hoặc chỉ có biểu hiện sổ mũi, viêm họng đỏ không sưng a-mi-đan và không sưng hạch cổ.

Nhiễm khuẩn huyết do não mô cầu

Nhiễm khuẩn huyết thể cấp

Bệnh khởi phát đột ngột, mệt mời, sổ mũi, viêm họng.

Sốt cao 39° – 40° c, ớn lạnh, rét run.

Mạch tăng theo nhiệt độ.

Đau đầu, nôn, đau khớp, đau cơ.

Tinh trạng nhiễm trùng rõ rệt: môi khô, lưỡi bẩn, bơ phờ.

Xuất hiện tử ban, ban màu đỏ hoặc tím sẫm, bờ không tròn đều (hình sao). Ban toàn thân nhưng thường gặp ở các khớp lớn (khuỷu, gối, cổ chân), đôi khi rộng thành từng mảng hình bản đồ.

Xuất huyết củng mạc, chảy máu cam, ít gặp xuất huyết tiêu hóa.

Một số dấu hiệu khác: nốt phỏng dạng Herpes ở khóe miệng, viêm phế quản, lách to, phản ứng màng não.

Nhiễm khuẩn huyết thể tối cấp

Còn gọi là hội chứng Waterhouse-Friderichsen, bệnh tiến triển rất cấp tính, nhanh chóng dẫn đến sốc, suy tuần hoàn, suy hô hấp, từ vong trong vài giờ:

Người bệnh tím tái, mạch nhanh nhỏ, huyết áp tụt không đo được.

Gan, lách to , tử ban lan tràn thành mảng lớn, có thể có trường hợp hoại tử da.

Nhiễm khuẩn huyết mạn tính

Hiếm gặp của nhiễm khuẩn huyết do não mô cầu, diễn biến thường kéo dài, biểu hiện lâm sàng sốt rét run, phát ban ở da và đau khớp.

Viêm màng não do não mô cầu

Thường gặp thể tiên phát ở trẻ em 6 tháng đến 1 tuổi và ở thanh thiếu niên.

Thời kỳ ủ bệnh

Ngắn từ 2-5 ngày, triệu chứng thường chưa có biểu hiện rõ.

Thời kỳ khởi phát

Sốt cao đột ngột, có thể có rét run, ho, đau họng, mệt mỏi, đau người, nhức đầu, buồn nôn, viêm họng.

Thời kỳ toàn phát

Dấu hiệu màng não – não rõ.

Đau đầu dữ dội, buồn nôn, nôn, sợ ánh sang, sợ tiếng động.

Táo bón, gáy cứng, (trẻ nhỏ có thể có tiêu chảy, thóp phồng và gáy mềm).

Đau rễ thần kinh và co cứng cơ (tư thế “cò súng”).

Rối loạn ý thức, li bì, kích thích vật vã, có thể có co giật, hôn mê.

Ban xuất huyết hoại tử hình sao, xuất hiện sớm và lan nhanh, thường gặp ở hai chi dưới.

Tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc nặng, nhanh chóng vào tình trạng sốc: Mạch nhanh, HA hạ hoặc HA kẹt (hiệu số huyết áp tâm thu – tâm trường < 20 mmHg), thiểu niệu, vô niệu, đông máu nội mạch rải rác, suy thượng thận, suy đa tạng và có thể tử vong nhanh trong vòng 24 giờ.

BIẾN CHỨNG

Ở giác quan

Biến chứng vào mắt thường gặp trong nhiễm khuẩn huyết, gây viêm mống mắt thể mi:

Mờ mắt như nhìn thấy qua sương mù, không kêu đau, mắt hơi đỏ nhưng sẽ xuất hiện mù tiên phòng nêu nặng hơn sẽ thấy đồng tử bị liệt và méo đi, bề ngoài không thấy biểu hiện gì nhưng người bệnh bị mù.

Khi viêm mê cung sẽ nguy cơ bị điếc. Ở trẻ nhỏ sẽ dẫn đến bị điếc.

Thần kinh – tinh thần

Hiện tượng vách hóa: khi có chẩn đoán muộn và điều trị không đặc hiệu và kịp thời.

Viêm và tràn mủ não thất: biểu hiện lâm sàng.

Tăng áp lực nội sọ: nôn, đau đầu dữ dội, rối loạn tinh thần (lú lẫn, điên dại) hoặc viêm tủy (hiếm gặp).

Viêm đa rễ thần kinh gây liệt mềm các chi từ từ, có rối loạn cảm giác, teo cơ.

Động kinh, co giật mất ngủ.

ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc điều trị

Chẩn đoán sớm ca bệnh.

Sử dụng kháng sinh sớm.

Hồi sức tích cực.

Cách ly người bệnh.

Điều trị cụ thể

Kháng sinh : chọn một trong các loại:

Kháng sinh đặc hiệu là penicillin G.

Ampicillin.

ceíotaxim.

Ceữriaxon.

Cloramphinicol.

Ciproíloxacin.

Thời gian điều trị kháng sinh tối thiểu từ 7 – 14 ngày hoặc 4-5 ngày sau khi người bệnh hết sốt, tình trạng huyêt động ôn định, xét nghiệm dịch não tủy vê bình thường (đối với viêm màng não do não mô cầu).

Điều trị hỗ trợ và triệu chứng

Hạ sốt.

An thần.

Chống phù não.

Điều trị suy tuần hoàn, sốc: bù dịch, thuốc vận mạch.

Hỗ trợ hô hấp.

Lọc máu liên tục.

Điều chỉnh nước, điện giải và thăng bằng kiềm toan.

Vệ sinh toàn thể và dinh dưỡng đầy đủ.

Có thể xem xét dùng corticoids trong trường hợp sốc không đáp ứng với vận mạch. Thường dùng Methylprednisone.

XÉT NGHIỆM CẬN LÂM SÀNG

Công thức máu:

+ Tăng bạch cầu, chủ yếu tăng bạch cầu đa nhân trung tính, có khi giảm bạch cầu trong thể tối cấp.

+ Tiểu cầu giảm (< 100.000/mm3) là do đông máu tiêu thụ với íibrinogen giảm, tỷ lệ prothrotonbin giảm, các yếu tố đông máu (V, VII, VIII, rv) giảm.

Cấy máu: tìm vi khuẩn gây bệnh.

Dịch tử ban:

+ Soi thấy song cầu khuẩn gram âm.

+ Cấy thấy não mô cầu.

Ngoáy họng: soi, cấy tìm não mô cầu.

Dịch não tủy: cần làm ngay khi có biểu hiện hội chứng màng não rõ hoặc không rõ ràng và cần cấy sớm ngay tại giường bệnh.

Khám tai mũi họng: thực hiện nhất loạt ở trẻ em.

QUY TRÌNH CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH NHIỄM KHUẨN DO NÃO MÔ CẦU

Nhận định

Hỏi

Sốt ngày thứ mấy, nhiệt độ cao nhất, có cơn rét run không?

Có đau họng, họng đỏ, đau tai, ho, khó thở?

Có đau đầu, nôn, đi ngoài phân lỏng (trẻ em) hoặc táo bón?

Xuất hiện ban xuất huyết trên da, chảy máu cam,…?

Đau cơ, đau dây thần kinh.

Thăm khám thể chất

Dấu hiệu sinh tồn: kiểm tra nhiệt độ, mạch, huyết áp, nhịp thở,…

Khi có biến loạn sẽ biểu hiện:

Nhiệt độ: thường sốt cao liên tục 39° – > 39° c, rét run.

Mạch nhanh theo tuổi.

Huyết áp có thể bình thường, hoặc tụt huyết áp (ở giai đoan sốc).

Nhịp thở nhanh theo tuổi.

Hô hấp: đếm nhịp thở, quan sát kiểu thở, tím tái môi và đầu chi, nếu có điều kiện thì đo SpO2.

Trường hợp biến chứng suy hô hấp có các triệu chứng sau:

Thở nhanh, thở rít.

Co kéo cơ hô hấp.

Ho, kh khè, khó thở.

Tím tái.

SpO2 < 92% với khí trời.

Tuần hoàn: kiểm tra mạch, nhiệt độ, huyết áp, thời gian đổ đầy mao mạch.

Khi có tình trạng sốc sẽ có biểu hiện sau:

Mạch nhanh theo tuổi hoặc khó bắt.

Thời gian đổ đầy mao mạch chậm trên 2 giây.

Huyết áp hạ: giai đoạn suy hô hấp nặng có sốc huyết áp hạ hoặc không đo được.

Thần kinh: ý thức tỉnh táo tiếp xúc tốt, vận động?

Khi có biểu hiện sốc, biến chứng viêm màng não:

Rối loạn ý thức, li bì, kích thích vật vã, có thể có co giật, hôn mê.

Đau đầu, nôn, hoặc buồn nôn.

Vận động yếu, có thể liệt mềm, teo cơ, mất cảm giác.

Khám họng: họng có đỏ, có đau?

Da và niêm mạc: quan sát ban phỏng, vị trí, màu sắc tử ban.

Các biến đổi có thể gặp trong nhiễm khuẩn huyết do não mô cầu:

Ban tím đen, hoại từ từng đám.

Ban tím từng đám hình sao, hình bản đồ.

Xét nghiệm cận lâm sàng: các xét nghiệm cần làm: công thức máu, X-quang. Các biến đổi có thể gặp trong não mô cầu:

Công thức máu: giảm bạch cầu, giảm bạch cầu lympho, giảm tiểu cầu (bạch cầu có thể tăng khi bội nhiễm).

X-quang phổi có thể thấy nốt mờ, viêm phổi kẽ.

Xác định vấn đề ưu tiên chăm sóc người bệnh não mô cầu

Chăm sóc người bệnh nhiễm khuẩn huyết do não mô cầu.

Việc đầu tiên phải cách ly người bệnh:

Cách ly người bệnh tại phòng riêng với các trường hợp nghi ngờ nhiễm não mô cầu.

Hướng dẫn người bệnh, người nhà người bệnh đeo khẩu trang đạt tiêu chuẩn.

NVYT chăm sóc trực tiếp người bệnh phải mang phương tiện phòng hộ đảm bảo.

Theo dõi phát hiện sớm các dấu hiệu của sốc và chống sốc cho người bệnh

Mục tiêu: phát hiện sớm dấu hiệu tiền sốc để xử trí kịp thời.

  • Chăm sóc

Đặt người bệnh tư thế đầu thấp.

Đo mạch nhiệt độ huyết áp 15 phút, 30 phút, 1 giờ/lần,… tùy theo tình trạng mồi người bệnh.

ủ ấm cho người bệnh khi hạ nhiệt độ.

Đặt đường truyền tĩnh mạch lớn hoặc phụ giúp bác sỹ đặt catheter tĩnh mạch trung tâm, đo CVP điều chỉnh số lượng dịch, tốc độ, hoặc phụ giúp đặt catheter động mạch đế theo dõi huyết áp động mạch liên tục (nếu cần).

Bù dịch tốc độ nhanh (dựa vào áp lực tĩnh mạch trung tâm), sử dụng dung dịch đẳng trương như NaCl 0,9%, glucose 5%, dung dịch cao phân tử Dextran, hoặc plasma, Haesteril 6% (theo chỉ định).

Lắp moniter theo dõi liên tục.

Thực hiện y lệnh thuốc vận mạch sớm, kịp thời.

Thực hiện thuốc chống suy thận như lợi tiểu íiưocemid.

Phụ giúp lọc máu liên tục khi có chỉ định.

Bù điện giải chống kiềm toan chuyển hóa, chống rối loạn đông máu.

Lấy bệnh phẩm xét nghiệm theo chỉ định (khí máu động mạch, đông máu cơ bản, điện giải đồ máu,..).

  • Theo dõi

Mạch, nhiệt độ, huyết áp 15 phút, 30 phút, 1 giờ/lần,… tùy tình trạng mỗi người bệnh.

Lượng nước tiểu theo giờ.

Theo dõi đường huyết.

Máy truyền dịch, bơm tiêm điện.

Các chỉ số xét nghiệm: khí máu, công thức máu, yếu tố đông máu, creatinine, ure, men gan,…

Đảm bảo thông khí cho người bệnh

Mục tiêu: cải thiện tình trạng hô hấp giúp người bệnh hết khó thở, hồng hào, SpO2 > 94%, PaƠ2 > ỗOmmHg.

  • Chăm sóc

Đặt người bệnh nằm ngửa, đầu cao, nghiêng mặt sang bên, tránh hít sặc với dịch nôn, dịch xuất tiết (nếu chưa có sốc).

Cho người bệnh thở ô xy theo chỉ định nếu có khó thở, suy hô hấp.

Đặt cannula Mayo tránh tụt lưỡi.

Lắp moniter theo dõi.

Bóp bóng ambu hồ trợ nếu có cơn ngừng thở.

Chuẩn bị dụng cụ, thuốc để hỗ trợ bác sĩ đặt NKQ trong trường hợp người bệnh hôn mê, suy hô hấp nặng.

Hút đờm dãi ở miệng, ống NKQ.

Chuẩn bị máy thở, cho người bệnh thở máy theo chỉ định nếu cần thiết.

  • Theo dõi

Theo dõi nhịp thở, kiểu thở, tình trạng tím tái môi và đầu chi, SpO2, SaƠ2, tình trạng tăng tiết.

Theo dõi người bệnh thở máy:

+ Theo dõi người bệnh: đáp ứng máy thở.

+ Theo dõi máy thở: hoạt động máy thở.

Hạ sốt cho người bệnh

Mục tiêu: duy trì thân nhiệt của người bệnh ờ mức độ ổn định.

  • Chăm sóc

Hạ sốt cho người bệnh: chườm mát hoặc lau người bằng nước ấm.

Thực hiện thuốc hạ sốt theo y lệnh đối với người bệnh sốt cao đề phòng co giật.

Đo mạch, nhiệt độ, huyết áp theo giờ tùy tình trạng mỗi người bệnh.

Đặt đường truyền catheter tĩnh mạch ngoại vi.

Chuẩn bị đầy đủ thuốc, dịch truyền, thuốc nâng mạch, huyết áp khi cần, chống phù não.

Bù đủ nước: đường uống hoặc truyền tĩnh mạch.

Lau mồ hôi mỗi khi hạ nhiệt độ sau dùng thuốc.

  • Theo dõi

Theo dõi sát nhiệt độ, mạch, huyết áp 30 phút/lần, 1 giờ/lần, 3 giờ/lần tùy tình trạng mỗi người bệnh, đặc biệt sau khi dùng thuốc hạ nhiệt độ.

Thực hiện y lệnh thuốc và xét nghiệm

Thực hiện y lệnh thuốc đúng, kịp thời, chính xác.

Thuốc chống phù não: truyền manitol.

Thuốc kháng sinh theo giờ.

Thuốc hạ nhiệt.

Thuốc an thần chống co giật.

Cân bằng nước và điện giải.

Thực hiện thuốc vận mạch.

Lấy bệnh phẩm làm xét nghiệm: máu theo chỉ định.

Dinh dưỡng và vệ sinh cá nhân

  • Chăm sóc

Nuôi dưỡng: đối với người bệnh hôn mê, hoặc lơ mơ thì nuôi dưỡng qua ống thông dạ dày bằng súp, cháo, sữa,., đảm bảo đủ chất dinh dưỡng.

Những ngày đầu có thể nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch với dung dịch glucose ưu trương.

Vệ sinh răng, mũi, miệng 2-3 lần/ngày.

Rửa mắt và nhỏ thuốc hàng ngày, đối với người bệnh hôn mê cần đắp mắt bằng gạc ẩm tránh khô giác mạc.

Lau người hoặc tắm bằng nước ấm cho người bệnh hàng ngày.

Thay gra, quần áo hàng ngày.

Lăn trở phòng chống loét do tỳ đè.

Vệ sinh, chăm sóc các dụng cụ can thiệp trên người bệnh như: ống nội khí quản, sonde tiểu, sonde dạ dày, dây máy thở, sonde hút đờm,…

Hướng dẫn, tư vấn cho người bệnh và người nhà người bệnh

Tuân thủ chế độ cách ly, hạn chế di chuyển, nghỉ ngơi tại giường.

Hướng dẫn người bệnh đeo khẩu trang, vệ sinh tay trước khi ăn sau khi đi vệ sinh và sờ vào các vật dụng.

Hướng dẫn cách theo dõi và phát hiện các dấu hiệu diễn biến bất thường như: sốt cao liên tục trên 39° c, khó thở, thở nhanh, hiện tượng tím môi, tím đầu chi, mạch nhanh, ho nhiều, buồn nôn, nôn nhiều. Ý thức lơ mơ,… báo ngay NVYT để xử trí kịp thời.

Hướng dẫn người nhà người bệnh phòng tránh lây nhiễm: đeo khẩu trang, vệ sinh tay trước và sau khi chăm sóc người bệnh, hoặc sau khi sờ vào các vật dụng trong buồng bệnh.

Hướng dẫn người nhà đã tiếp xúc với người bệnh uống thuốc dự phòng.

Hướng dẫn chuẩn bị chế độ dinh dưỡng cho người bệnh.

Tiêm vaccin phòng bệnh.

Chăm sóc người bệnh viêm màng não do não mô cầu: (chi tiết xem bài chăm sóc viêm màng não do não mô cầu).

Mục tiêu: đảm bảo an toàn cho người bệnh tránh tai biến nặng xảy ra.

  • Chăm sóc

Người bệnh hôn mê, có cơn co giật nên cố định tay, chân và nằm giường có thành che chắn để tránh ngã.

Thực hiện thuốc an thần chống co giật theo y lệnh.

Để người bệnh nằm nghiêng, đầu cao tránh hít sặc.

Đặt cannula Mayo tránh cắn phải lưỡi, tụt lưỡi.

Đánh giá điêm Glasgow.

Chuẩn bị dụng cụ, phụ giúp bác sỳ chọc dịch não tủy (hướng dẫn người nằm đầu thấp sau khi chọc dịch).

Chăm sóc hô hấp.

Chăm sóc tuần hoàn.

Chăm sóc dinh dưỡng.

  • Theo dõi

Theo dõi mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở, tình trạng ứ đọng theo giờ.

Theo dõi tri giác: tỉnh hay lơ mơ, hôn mê?

Theo dõi tình trạng vận động của người bệnh: liệt hay không.

Theo dõi phản xạ nuốt của người bệnh.

Theo dõi cơn co giật của người bệnh.

Theo dõi kết quả dịch não tủy.

Cách ly người bệnh, hướng dẫn người bệnh đeo khẩu trang (nếu có thể) tránh lây lan.

Chụp cắt lớp phát Positronen-Positron émission tomography (PET) trong chẩn đoán thần kinh

LỊCH SỬ

Nguyên lý của phương pháp cắt lớp phát và truyền xạ được David Kuhl và Roy Edwards nêu ra từ những năm cuối 1950s. Trong những năm 1970s, Tatsuo Ido ở Labo Brookhaven National là người đầu tiên mô tả và tổng hợp được 18F – FDG (phân tử mang đồng vị phóng xạ thường hay được sử dụng nhất trong PET). Hợp chất này được Abass Alavi sử dụng lần đầu tiên trên hai người tình nguyện vào tháng 8 năm 1976 tại trường Đại học tổng hợp Pennsylvania. Hình ảnh não thu được bằng phương pháp chụp cắt lớp nguyên tử thông thường (non – PET) biểu diễn nồng độ FDG trong tổ chức não. Sau đó chất này được trọng dụng trong positron tomographie scanners đầy sáng tạo, nhường chỗ cho những phương pháp hiện đại.

NGUYÊN LÝ CỦA PHƯƠNG PHÁP

Positron émission tomography (PET) là kỹ thuật tạo ảnh y học, có thể cho thấy các quá trình chức năng trong cơ thể dưới dạng các hình ảnh không gian ba chiều hoặc dưới dạng bản đồ. Hệ thống thiết bị phát hiện các cặp tia gamma (gamma rays) được phát gián tiếp từ một đồng vị phóng xạ phát positron, chất này được đưa vào cơ thể (thường qua đường máu) sẽ gắn lên các phân tử tham gia hoạt động chuyển hóa, phân tử thường được sử dụng vào mục đích này là fluorodeoxyglucose (FDG), là một loại đường mà thời gian chờ ngấm vào cơ quan đích đặc trưng là một giờ. Sau đó bệnh nhân được đưa vào trong hệ thống cắt lớp tạo ảnh, các hình ảnh của hoạt động chuyển hóa được tái tạo bằng máy vi tính.

Thông thường các máy hiện đại thiết bị được hỗ trợ thêm bởi hệ thống CT.Scan (được gọi là PET – CT.Scan) có thể đồng thời cho hình ảnh PẸT (diễn đạt các thông tin về chuyển hóa) và hình ảnh cắt lớp vi tính (cho biết các thông tin về hình thái giải phẫu) trong cùng một ảnh và trên cùng một máy.

Các đồng vị phóng xạ hay được sử dụng trong PET: đặc trưng là thời gian bán hủy ngắn như carbon – 11 (20 phút), nitrogen – 13 (10 phút), oxygen – 15 (2 phút) và fluorin – 18 (110 phút). Kiểm tra tưới máu não thường dùng H2(15)0, đo thể tích máu não dùng cacbonmonoxyd đã được đánh dấụ. Đánh giá hoạt động chuyển hóa dùng 1502 hoặc dùng glucose đã được đánh dấu. Hệ thống các chất vận chuyển thần kinh trong não có thể được nghiên cứu trong các tình trạng như Parkinson thường dùng các chất phóng xạ được đánh dấu ví dụ như 18F – DOPA hoặc 11C – methyl spiperon, với cách này bản đồ phân bố của các chất dẫn truyền thần kinh sẽ được biểu hiện Methylspiperon: thấy tăng hấp thu ở hạch nền.

ỨNG DỤNG

PET có thể ứng dụng cho cả nghiên cứu và điều trị. Nó được chỉ định nhiều trong lâm sàng ung bướu (oncology) để chụp u và nghiên cứu di căn, chẩn đoán các bệnh não lan tỏa gây sa sút trí tuệ. PET cũng là công cụ quan trọng trong nghiên cứu bản đồ não người bình thường và chức năng của tim.

ĐỘ AN TOÀN

PET Scan là phương pháp không can thiệp, nhưng có phơi nhiễm các tia ion hóa. Tuy tổng liều của tia rất nhỏ, nhưng các bệnh nhân có trẻ nhỏ nên khuyến cáo tránh tiếp cận các cháu vài giờ sau khi chụp PET…

MỘT SỐ HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Phòng máy

Hình 8.120. Phòng máy positron emission tomography

 

Tăng hấp thu

Hình 8.121. Hình ảnh PET bình thường sau khi tiêm 18F labelled n – methyl spiperon:

thấy tăng hấp thu ở hạch nền.

Scan não

 

Hình 8.122. Hình ảnh PET.Scan não

A: Hoạt tính bình thường của não người khỏe mạnh.

B. PET scan của bệnh nhân Alzheimer: vùng xám (mũi tên) cho thấy giảm hoạt tính của não.

VIÊM MÀNG HOẠT DỊCH KHỚP GỐI MẠN TÍNH KHÔNG ĐẶC HIỆU

VIÊM MÀNG HOẠT DỊCH KHỚP GỐI MẠN TÍNH KHÔNG ĐẶC HIỆU

(Unspecified knee synovitis)

Viêm khớp không đặc hiệu được định nghĩa là bất kể loại viêm khớp nào có tiềm năng trở thành viêm khớp dai dẳng mà không đáp ứng đủ tiêu chuẩn để chẩn đoán vào một loại viêm khớp đặc hiệu nào đó. Viêm màng hoạt dịch khớp gối mạn tính không đặc hiệu là thể bệnh viêm khớp không đặc hiệu thường gặp trên lâm sàng, biểu hiện bởi tình trạng sưng đau một hay hai khớp gối kéo dài, tái phát nhiều lần song không tìm thấy nguyên nhân. Đây có thể là thể bệnh viêm mạn tính một hay hai khớp gối dai dẳng hoặc là triệu chứng đầu tiên của một bệnh toàn thể, trong đó giai đoạn sau biểu hiện đầy đủ các triệu chứng bệnh (viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp vẩy nến, lupus ban đỏ hệ thống, bệnh gút, …).

2.  CHẨN ĐOÁN

  1. Chẩn đoán xác định

–   Lâm sàng

+ Triệu chứng tại chỗ: có thể viêm một hoặc hai khớp gối. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu: sưng, đau khớp gối; ít có triệu chứng nóng, đỏ rõ rệt. Đa số các trường hợp có tràn dịch khớp gối kèm theo.

+ Triệu chứng toàn thân: ít thay đổi.

–   Cận lâm sàng

+ Xét nghiệm máu ngoại vi: thường có tình trạng viêm rõ: tốc độ máu lắng tăng, protein C phản ứng (CRP) tăng.

+ Yếu tố dạng thấp (RF), anti CCP có thể âm tính hoặc dương tính. Trường hợp bệnh nhân có anti CCP dương tính dễ tiến triển thành viêm khớp dạng thấp.

+ HLA- B27 có thể âm tính hoặc dương tính. Bệnh nhân có HLA- B27 dương tính dễ tiến triển thành viêm cột sống dính khớp.

+ Xét nghiệm dịch khớp:

Tế bào học dịch khớp: biểu hiện viêm màng hoạt dịch mạn tính không đặc hiệu như có rải rác tế bào viêm đơn nhân, bạch cầu trung tính, không thấy tình trạng gợi ý viêm nhiễm khuẩn hay lao.

Nuôi cấy vi khuẩn: âm tính.

Nhuộm soi tìm AFB, PCR- BK: âm tính.

Sinh thiết màng hoạt dịch: qua nội soi khớp gối, dưới hướng dẫn của siêu âm hay sinh thiết mù (hiện ít làm) lấy bệnh phẩm làm mô bệnh học, kết quả: viêm màng hoạt dịch mạn tính không đặc hiệu, không có những hình ảnh đặc hiệu gợi ý tới viêm mủ, lao, u màng hoạt dịch, viêm màng hoạt dịch lông nốt sắc tố v.v…

+ Chụp Xquang khớp gối: thông thường không thấy tổn thương trên xquang trong giai đoạn sớm, hoặc hình ảnh tổn thương hình bào mòn (các bệnh nhân này có thể tiến triển thành viêm khớp dạng thấp).

+ Chụp cộng hưởng từ khớp gối: cho biết tình trạng viêm dày màng hoạt dịch, tràn dịch khớp gối, ít có giá trị trong chẩn đoán bệnh.

+ Siêu âm khớp gối: thường gặp dày màng hoạt dịch, tràn dịch khớp gối.

+ Mantoux: âm tính.

+ Xquang phổi: bình thường.

Lưu ý: chẩn đoán xác định bệnh khi đã loại trừ các bệnh lý viêm khớp đặc hiệu khác.

b)  Chẩn đoán phân biệt

  • Nhiễm khuẩn: vi khuẩn thông thườ
  • Lao khớ
  • Thoái hóa khớ
  • Chấn thương.
  • Viêm khớp vi tinh thể.
  • Viêm màng hoạt dịch thể lông nốt sắc tố.
  • Viêm khớp dạng thấp thể một khớ
  • Viêmcột sống dínhkhớp thể viêmkhớp ngoại biên.

3.  ĐIỀU TRỊ

Điều trị giai đoạn đầu là điều trị triệu chứng bằng các thuốc giảm đau, chống viêm nhóm không steroid. Trường hợp diễn biến kéo dài (trên 6 tuần) cần kết hợp thêm thuốc điều trị cơ bản như trong điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp. Các thuốc điều trị triệu chứng có thể giảm liều hoặc ngừng hẳn. Các thuốc điều trị cơ bản thường dùng sớm, kéo dài.

Điều trị cụ thể

  • Điều trị triệu chứng

+ Thuốc chống viêm không steroid

Chỉ định: giai đoạn khớp viêm mức độ vừa phải, hoặc sau điều trị bằng thuốc corticoid. Lưu ý tránh tác dụng phụ của thuốc.

Cách dùng: Xem ở phần phụ lục cách sử dụng thuốc chống viêm không steroid.

+ Glucocorticoid

Liệu pháp glucocorticoid đường toàn thân ngắn ngày: chỉ định trong trường hợp bệnh nhân không đáp ứng với thuốc nhóm không steroid và trường hợp viêm nặng. Liều lượng và cách dùng: trường hợp viêm nặng có thể dùng mini bolus: truyền tĩnh mạch 80-125mg methyl-prednisolon pha trong 250ml muối sinh lý trong 3-5 ngày. Sau liều này duy trì uống 1,5-2 mg/kg/24h tính theo prednisolon. Giảm dần 10%/tuần. Thường sau 1-2 tháng có thể thay bằng thuốc chống viêm nonsteroid.

Glucocorticoid tại chỗ: trong trường hợp viêm kéo dài, tiêm khớp gối bằng methyl prednisolon acetat 40mg/1ml, betametasone dipropionate 4mg/1ml. Tiêm tại phòng vô khuẩn do bác sĩ chuyên khoa Cơ Xương Khớp đảm nhiệm. Mỗi liệu trình tiêm tại một khớp gối: 1 đến 2 mũi tiêm, mỗi mũi tiêm cách nhau 7- 10 ngày. Sau 6 tháng mới được tiêm lại nếu có chỉ định.

+ Các thuốc giảm đau: Theo phác đồ giảm đau của WHO.

– Điều trị cơ bản

Dùng một hoặc phối hợp hai, ba thuốc trong các nhóm sau (tùy mức độ viêm, đáp ứng với điều trị ban đầu):

+ Thuốc chống sốt rét tổng hợp

hydroxychloroquin liều 200- 400 mg/ngày hoặc chloroquin liều 250 mg/ngày.

Chống chỉ định: dị ứng với thuốc, người có suy giảm G6PD hoặc có tổn thương gan.

Tác dụng phụ: chán ăn, nôn, đau thượng vị, xạm da, khô da, viêm tổ chức lưới ở võng mạc. Cần kiểm tra thị lực, soi đáy mắt mỗi 6 tháng và không dùng quá 6 năm.

+ Methotrexate

Chỉ định: đây là thuốc được lựa chọn đầu tiên.

Chống chỉ định: hạ bạch cầu, suy gan thận, tổn thương phổi mạn tính. Các trường hợp ức chế tủy xương nói chung trong đó có tình trạng thiếu máu, giảm huyết sắc tố, nếu đang điều trị methotrexat thấy giảm hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu thì cần điều chỉnh liều hoặc dừng thuốc tùy theo mức độ.

Tác dụng phụ: thường gặp loét miệng, nôn, buồn nôn. Có thể gây độc tế bào gan và tủy.

Liều dùng: 10-20mg/tuần, tiêm bắp hoặc uống. Thường khởi đầu bằng liều 10mg uống một lần vào một ngày nhất định trong tuần. Thuốc có hiệu quả sau 1-2 tháng.

Hạn chế tác dụng phụ của methotrexat nên bổ sung acid folic, liều bằng liều methotrexat (viên 5mg, 02 viên/ tuần chia 2 ngày trong tuần với liều 10 mg methotrexat /tuần).

+ Sulfasalazine

Chỉ định: dùng cho bệnh nhân có HLA- B27 dương tính (trường hợp bệnh có xu hướng chuyển viêm cột sống dính khớp).

Liều lượng: liều 1-2 gam/ngày.

Tác dụng phụ: rối loạn tiêu hóa, chán ăn, ban ngoài da, bọng nước, loét miệng, protein niệu, hội chứng thận hư, viêm giáp trạng, giảm tiểu cầu, bạch cầu, huyết tán…

4.  TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG

– Tiến triển của bệnh thành các bệnh như viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, lupus… Hiện nay có thang điểm hướng dẫn của Hội Thấp khớp học châu Âu (EULAR 2009) hay thang điểm Leiden- dựa trên các tiêu chuẩn dịch tễ, lâm sàng, xét nghiệm để dự báo khả năng tiến triển của viêm màng hoạt dịch khớp mạn tính không đặc hiệu thành bệnh viêm khớp dạng thấp, từ đó có thể điều trị sớm cho bệnh nhân bằng các thuốc điều trị cơ bản.

5.  PHÒNG BỆNH

  • Phát hiện sớm các tiển triển của bệnh thành các bệnh như viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, .. cần hướng dẫn bệnh nhân điều trị thuốc thường xuyên và khám định kỳ hàng tháng theo dõi lâm sàng và xét nghiệm: tế bào máu ngoại vi, tốc độ máu lắng, CRP, chức năng gan, thận
  • Phòng tránh biến dạng khớp cần hướng dẫn bệnh nhân tập luyện khớp gối, vận động hợp lý, hạn chế đi bộ.

Chẩn đoán và điều trị hội chứng liệt nửa người

ĐẠI CƯƠNG

Thuật ngữ

Liệt (plegia).

Bại (paresis).

Liệt một chi (monoplegia).

Liệt nửa người (hemiplegia).

Liệt hai chân hay hạ liệt (paraplegia).

Liệt tứ chi (tetraplegia).

Định nghĩa liệt nửa người

Theo Dèjerinẹ, liệt nửa người là liệt taỵ chân cùng một bên của cơ thể do tổn thương từ các tế bào tháp đến si – náp của chúng với tế bào sừng trước tuỷ sống.

Nhắc lại giải phẫu đường tháp

 

Gỉai phẫu đường tháp
LÂM SÀNG

Đặc điểm lâm sàng liệt nửa người

Khởi phát và tiến triển

Đột ngột: thường do đột qụy não. Bệnh nhân có thể bị liệt rất ngẫu nhiên trong mọi hoàn cảnh (trong giấc ngủ, khi đang ngồi chơi nói chuyện hoặc khi có gắng sức). Cũng có khi liệt được khởi đầu bởi một sự kiện rất đơn giản (sau khi tắm, nhận được một thông tin buôn phiền…). Mức độ liệt khi bắt đầu rất khác nhau, có bệnh nhân liệt hoàn toàn ngay từ đầu nhưng cũng có bệnh nhân chỉ bị liệt nhẹ. Mức độ liệt ban đầu có thể chỉ dừng lại nhự vậy sau giảm dần (thường trong chảy máu não, tắc mạch) nhưng cũng có khi tiên triển tuân tiên nặng dân lên hoặc nặng lên theo từng nấc trong những giờ, những ngày sau (thường do huyết khôi động mạch não).

Liệt xuất hiện từ từ và tăng dần một cách chậm chạp: thường gặp trong các trường hợp khối phát triển nội sọ.

Liệt xuất hiện từ từ, tiến triển tăng dần theo kiểu bậc thang: thường do các bệnh thoái hoá (xơ cột bên teo cơ…).

Các thể liệt

Liệt mềm nửa người (tổn thương tháp huỷ hoại).

Liệt cứng nửa người (tổn thương tháp kích thích) thường kèm theo các triệu chứng co cứng, tăng phản xạ gân xương, có phản xạ bệnh lý bó tháp, rung giật bàn chân, rung giật bánh chè.

Các triệu chứng kèm theo

Có thể quan sát thấy các dấu hiệu sau:

  • Dấu hiệu quay đầu – mắt phối hợp (déviation conjugée):

+ Trong tổn thương huỷ hoại, bệnh nhân luôn quay đầu, quay mắt nhìn về phía nửa người liệt, nói cách khác bệnh nhân ngắm nhìn nửa người liệt của mình (định luật Landouzy).

+ Trong tổn thương kích thích, bệnh nhân luôn quay mắt – quay đầu về phía bán cầu bị tổn thương, nói cách khác là bệnh nhân ngắm nhìn ổ tổn thương của mình (định luật Prévose, định luật Vulpian).

  • Phồng má bên liệt khi thờ ra do liệt dây VII trung ương.
  • Những trường hợp nặng nề có thể còn thấy các kiểu rối loạn nhịp thở.
  • Rối loạn phản xạ gân xương và phản xạ da, có thể có phản xạ bệnh lý bó tháp.
  • Các động tác đồng vận (syncinésie): có thể thấy các loại đồng vận sau:

+ Đồng vận phối hợp: khi chi bên lành vận động tuỳ ý thì bên liệt có động tác vận động không tuỳ ý theo (ví dụ bên lành gấp hết sức cẳng chân vào đùi, bàn chân bên liệt có động tác gấp về phía mu).

+ Đồng vận bắt chước: chi bên lành gắng sức thực hiện vận động nào thì chi liệt cũng có vận động tương ứng.

+ Đồng vận toàn thể: khi bệnh nhân gắng sức thực hiện một vận động bên chi lành thì chi liệt co cơ toàn bộ.

Rối loạn cảm giác, giác quan.

Rối loạn tâm thần.

Rối loạn thực vật.

Khám bệnh nhân liệt nửa người

Xem Thần kinh học lâm sàng, tập I

Quan sát

  • Đối với bệnh nhân tỉnh táo:

+ Trường hợp liệt hoàn toàn sẽ không thấy bệnh nhân có các vận động tự phát ở nửa người liệt. Khi cần thay đổi tư thế của nửa người liệt bệnh nhân phải dùng tay hoặc chân bên đoi diện để hỗ trợ.

+ Trường hợp bệnh nhân liệt rất nặng và nặng sẽ thấy các cử động rất chậm chạp và yếu ớt của nửa người bị liệt.

+ Trường hợp liệt vừa và nhẹ sẽ quan sát thấy nửa người liệt ít cử động. Bệnh nhân ít sử dụng nửa người liệt trong sinh hoạt hàng ngày.

  • Đối với bệnh nhân hôn mê:

+ Quan sát thấy bàn chân bên liệt đổ sát mặt giường hơn.

+ Nửa người bên liệt có rất ít các cử động tự phát, hoặc ít vận động ở các bệnh nhân vật và kích thích.

Cách khám bệnh nhân phát hiện liệt nửa người

  • Khám bệnh nhân tỉnh: thực hiện tuần tự các bước sau

+ Yêu cầu bệnh nhân thực hiện các vận động chủ động các     chi như co duỗi  tay chân hay

nâng tay chân khỏi mặt giường.

. Nếu bệnh nhân liệt hoàn toàn sẽ không thấy biểu hiện co cơ.

. Nếu bệnh nhân liệt rất nặng đến liệt vừa sẽ thấy các cử động rất chậm chạp của nửa người bị liệt.

. Nếu bệnh nhân liệt nhẹ thấy vận động hầu như bình thường. Trong trường hợp này phải khám bước tiếp theo để xác định triệu chứng liệt nửa người.

+ Kiểm tra các nghiệm pháp khám vận động:

. Barré (chân và tay).

. Mingazzini (chân).

. Raimiste (tay).

Đối với những trường hợp liệt nặng và vừa, khi thực hiện các nghiệm pháp trên bệnh nhân không giữ được chi ở nguyên một tư thế (tuỳ theo nghiệm pháp) cho nên chi đó từ từ rơi xuống.

Những trường hợp liệt nhẹ sức cơ của bệnh nhân còn tương đối tốt nên bệnh nhân có thể duy trì tư thế của chi tương đối lâu. Trong trường hợp đó để nhanh chóng xác định bệnh nhân có liệt nửa người không cần khám theo phương pháp sau:

+ Ỵêu cầu bệnh nhân thực hiện các động tác vận động chủ động chống lại sức cản do thầy thuốc gây ra.

Thầy thuốc cần khám tất cả các khúc chi, khám lần lượt hai bên và so sánh sức cơ giữa hai bên cơ thể.

  • Khám triệu chứng liệt nửa người ở bệnh nhân hôn mê:

+ Kích thích đau ở từng chi của bệnh nhân xem mức độ co duỗi các khúc chi nhanh, mạnh, dứt khoát hay chậm chạp, yếu đuối để đánh giá xem sức cơ bên nào yếu hơn.

+ Nghiệm pháp thả rơi: nâng chi cùa bệnh nhân lên, sau đó thả cho rơi tự do, bên liệt rơi xuống giương nặng nề như một khúc gỗ.

+ Dựng bàn chân hoặc chân bệnh nhận (gấp ờ khớp gối) cho đứng trên giường, bàn chân hoặc chân bên liệt không giữ được tư thế nên sẽ đổ xuống sát mặt giường.

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán triệu chứng liệt nửa người

Căn cứ vào những quan sát và các triệu chứng được xác định qua thăm khám (xem phần II).

Chẩn đoán định khu liệt nửa người

Nói chung khi có tổn thương đường tháp một bên (từ vỏ não đến phình tủy cổ) sẽ gây triệu chứng liệt nửa người trên lâm sàng. Tuy nhiên, do đặc điểm giải phẫu từng vị trí, mật độ các sợi của đường tháp ở từng vị trí rất khác nhau, hơn nữa tại mỗi vị trí ngoài đường tháp còn có các cấu trúc thần kinh khác nên khi tổn thương ở mỗi vị trí sẽ có những đặc điểm lâm sàng riêng. Sau đây ta xét các vị trí chính khi tổn thương gây liệt nửa người như tổn thương vỏ não, bao trong, thân não (gồm có cuống não, cầu não và hành não) và tủy cổ.

Liệt nửa người do tổn thương vỏ não

  • Liệt nửa người có tính chất khu trú rõ, có thể tay liệt nặng hơn chân (như trong tổn thương do động mạch não giữa) hoặc chân nặng hơn tay (như trong tổn thương do động mạch não trước).
  • Các triệu chứng kèm theo:

+ Thường có liệt dây VII trung ương cùng bên với liệt.

+ Rối loạn cảm giác (thường rối loạn cảm giác hình vẽ trên da).

+ Co giật.

+ Có thể có bán manh đồng danh bên liệt.

+ Tổn thương bán cầu trội còn có thêm rối loạn vận động ngôn ngữ, trầm cảm và thất điều.

+ Tổn thương bán cầu không trội còn có thêm triệu chứng rối loạn cảm giác không gian, vô tình cảm (apathia).

Liệt nửa người do tổn thương bao trong

  • Liệt nửa người mức độ nặng nề (thường liệt độ IV, V), liệt chân, tay đồng đều nhau (mức độ nặng như nhau).
  • Các triệu chứng kèm theo:

+ Liệt mặt: có thể có hoặc không (liệt khi có tổn thương phần sau đùi sau).

+ Có thể có giảm cảm giác rõ do tổn thương đồi thị cạnh đó.

Liệt nửa người do tổn thương một bên của thân não

Khi tổn thương một bên của thân não, trên lâm sàng sẽ thấy bệnh cảnh điển hình đó là các hội chứng giao bên, cụ thể như sau:

  • Bên đối diện với ổ tổn thương có rối loạn vận động, trong đó chân tay bị nặng nề như nhau (hoặc rối loạn cảm giác nửa người).
  • Bên ổ tổn thương có liệt các dây thần kinh sọ não kiểu ngoại vi.
  • Một số ví dụ hội chứng giao bên:

+ Khi tổn thương một bên cuống não có hội chứng Weber.

+ Khi tổn thương một bên cầu não có hội chứng Millard – Gubler.

+ Khi tổn thương một bên hành não gây hội chứng Schmidt:

Bên tổn thương: liệt dây IX, X kiểu ngoại vi.

  • Bên đối diện: liệt nửa người kiểu trung ương.

Liệt nửa người do tổn thương một bên tủy cổ gây hội chứng Brown – Séquard trên lâm sàng

  • Bên tổn thương:

+ Liệt trung ương dưới mức tổn thương.

+ Mất cảm giác sâu (cảm giác rung, cảm giác tư thế) dưới mức tổn thương.

+ Mất cảm giác một dải da hẹp trên vùng liệt.

+ Trên dải da mất cảm giác là một dải da tăng cảm.

  • Bên đối diện:

+ Mất cảm giác đau và nhiệt dưới mức tổn thương.

Chẩn đoán mức độ liệt

Trong khẩu ngữ dân gian hai từ “bại” và “liệt” (tương đương hai từ paresis và plegia trong anh ngữ) thường được dùng để gọi tên triệu chứng giảm và mất hoàn toàn sức cơ trong vận động chủ động của bệnh nhân. Trong lâm sàng chuyên ngành Thần kinh học chỉ tồn tại một thuật ngữ đó là liệt, có điều tuỳ theo mức độ liệt mà bệnh nhân còn có khả năng vận động ở mức độ nhất định hoặc mất hoàn toàn vận động chủ động. Trên lâm sàng bảng phân loại mức độ liệt theo Henry và cộng sự được sử dụng rộng rãi.

Đánh giá mức độ liệt trên lâm sàng (xem trang 129).

Chẩn đoán nguyên nhân liệt nửa người

Những nguyên nhân gây liệt nửa người có thể phục hồi hoàn toàn

Hạ đường huyết.

Máu tụ dưới màng cứng.

Liệt Todd sau cơn động kinh.

Viêm động mạch.

Huyết khối đang hình thành.

Dị dạng mạch máu não.

Chắn động não.

Xơ não tủy rải rác.

Rối loạn phân ly…

Những nguyên nhân gây liệt nửa người có thể phục hồi còn để lại di chứng

Nhồi máu não cấp hoàn toàn.

Ổ máu tụ nội sọ.

U thần kinh đệm não hoặc cầu não.

Bệnh hồng cầu lưỡi liềm.

Lymphom não.

Các dị dạng đặc biệt của vỏ não.

Bệnh Moyamoya.

Di căn…

ĐIỀU TRỊ VÀ CHĂM SÓC BỆNH NHÂN LIỆT NỬA NGƯỜI

Hội chứng liệt nửa người được gây nên bởi những tổn thương với bản chất khác nhau của não và tủy sống cổ cao. Những tổn thương này thường gây bệnh cảnh lâm sàng nặng nề và còn có nhiều các tổn thương khác kèm theo.

Việc điều trị hội chứng liệt nửa người bao gồm:

  • Điều trị nguyên nhân.
  • Chăm sóc phần cơ thể bị liệt:

+ Luôn đặt chi ở tư thế sinh lý.

+ Xoa bóp, tập vận động sớm

+ Đề phòng bị loét, mục (decubitus) bằng cách thay đổi liên tục tư thế nằm, nằm đệm nước hoặc đệm không khí có ngăn.

  • Đề phòng nhiễm khuẩn thứ phát (đường hô hấp, tiết niệu… )

Chế độ dinh dưỡng đầy đủ.

Chứng chuột rút (co cứng cơ)

Tên khác: co cứng cơ

Định nghĩa

Co cứng cơ đột ngột, đau, xảy ra ở một cơ hoặc một nhóm cơ, thông thường là ở các cơ của cẳng chân.

Căn nguyên

Thể thao, lao động quá gắng sức: chuột rút xảy ra vào lúc khởi đầu hoặc lúc cuối của hoạt động gắng sức.

Thuốc: sử dụng thuốc lợi niệu loại thiazid (gây ra giảm kali huyết), thuốc nhuận tràng, thuốc chẹn beta, thuốc tránh thai uống, các thuốc an thần kinh. Chuột rút hay xảy ra ban đêm.

Có thai.

Tổn thương thần kinh (nhất là tổn thương đường vận động bó tháp), bệnh cơ.

Rối loạn mạch máu: trong những trường hợp thiểu năng động mạch hoặc tĩnh mạch.

Điều trị

  • Điều trị nguyên nhân: ví dụ giảm kali huyết thì cho muối
  • Điều trị triệu chứng: Gây co chủ động hoặc bị động các cơ đối vận, xoa bóp mạnh cơ bị chuột rút, chườm nóng tại chỗ.
  • Thuốc đề nghị: quinin (cho những trường hợp chuột rút ban đêm ở những cơ của cẳng chân), muối magiê (đối với những trường hợp chuột rút khi có thai), thuốc giãn cơ (diazepam, baclofen, dantrolen).

Chẩn đoán và phân giai đoạn nhiễm HIV/AIDS

Chẩn đoán nhiễm HIV

Đến nay, nhiễm HIV ở người lớn được chẩn đoán chủ yếu trên cơ sở xét nghiệm máu tìm kháng thể HIV.

Theo Quyết định 1418/2000/QĐ-BYT ngày 04 tháng 05 năm 2000 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành Thường quy giám sát HIV/AIDS ở Việt Nam thì một người được xác định là nhiễm HIV khi có mẫu huyết thanh dương tính với cả ba lần xét nghiệm kháng thể HIV bằng ba loại sinh phẩm khác nhau với nguyên lý phản ứng và phương pháp chuẩn bị kháng nguyên khác nhau.

Phân giai đoạn nhiễm HIV/AIDS

Theo Quyết định 3003/QĐ-BYT ngày 19/8/2009 của Bô Y tế về việc ban hành “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị HIV/AIDS” các giai đoạn nhiễm HIV/AIDS được phân chia giai đoạn dựa trên các dấu hiệu lâm sàng và miễn dịch như sau:

  • Phân giai đoạn nhiễm HIV trên lâm sàng

Nhiễm HIV ở người lớn được chia làm 4 giai đoạn lâm sàng, tùy thuộc vào các triệu chứng bệnh liên quan đến HIV ở người nhiễm.

Bảng 1.1: Các giai đoạn lâm sàng HIV/AIDS ở người lớn.

Giai đoạn lâm sàng I: Không triệu chứng

Không có triệu chứng. Hạch to toàn thân dai dẳng.

Giai đoạn lâm sàng II: Triệu chứng nhẹ

Sút cân mức đô vưa không rõ nguyên nhân (<10% trọng lượng cơ thể).

Nhiễm khuẩn hô hấp tái diễn (viêm xoang, viêm amidan, viêm tai giữa, viêm hầu họng). Zona (Herpes zoster).

Viêm khoé miệng.

Loét miệng tái diễn.

Phát ban dát sẩn, ngứa.

Viêm da bã nhờn.

Nhiễm nấm móng.

Giai đoạn lâm sàng III: Triệu chứng tiến triển

  • Sút cân nặng không rõ nguyên nhân (trên 10% trọng lượng cơ thể).
  • Tiêu chảy không rõ nguyên nhân kéo dài trên 1 tháng.
  • Sốt không rõ nguyên nhân từng đợt hoặc liên tục kéo dài trên 1 tháng.
  • Nhiễm nấm Candida ở miệng tái diễn.
  • Bạch sản dạng lông ở miệng.
  • Lao phổi.
  • Nhiễm khuẩn nặng do vi khuẩn (viêm phổi, viêm mủ màng phổi, viêm đa cơ mủ, nhiễm trùng xương khớp, viêm màng não, nhiễm khuẩn huyết).
  • Viêm loét miệng hoại tử cấp, viêm lợi hoặc viêm quanh răng.
  • Thiếu máu (Hb<80 g/l), giảm bạch cầu đa nhân trung tính (< 0,5 x 109/L), và/hoặc giảm tiểu cầu mạn tính (< 50 x 109/L) không rõ nguyên nhân

Giai đoạn lâm sàng IV: Triệu chứng nặng

  • Hội chứng suy mòn do HIV (sút cân >10% trọng lượng cơ thể, kèm theo sốt kéo dài > 1 tháng hoặc tiêu chảy kéo dài > 1 tháng không rõ nguyên nhân).
  • Viêm phổi do Pneumocystis jiroveci (PCP).
  • Nhiễm Herpes simplex mạn tính (ở môi miệng, cơ quan sinh dục, quanh hậu môn, kéo dài hơn 1 tháng, hoặc bất cứ đâu trong nội tạng).
  • Nhiễm Candida thực quản (hoặc nhiêm candida ơ khí quản, phế quản hoặc phổi).
  • Lao ngoài phổi.
  • Sarcoma Kaposi.
  • Bệnh do Cytomegalovirus (CMV) ơ võng mạc hoặc ở các cơ quan khác.

Bệnh do Toxoplasma ở hệ thần kinh trung ương.

Bệnh lý não do HIV

Bệnh do Cryptococcus ngoài phổi bao gồm viêm màng não.

Bệnh do Mycobacteria avium complex (MAC) lan toả.

Bệnh lý não chất trắng đa ổ tiến triển (Progessive multifocal leukoencephalopathy – PML). Tiêu chảy mạn tính do Cryptosporidia.

Tiêu chảy mạn tính do Isospora

Bệnh do nấm lan toả (bệnh nấm Penicillium, bệnh nấm Histoplasma ngoài phổi,).

Nhiễm trùng huyết tái diễn (bao gồm nhiễm Sallmonella không phải thương hàn).

U lympho ở não hoặc u lympho non-Hodgkin tế bào B.

Ung thư cổ tử cung xâm nhập (ung thư biểu mô).

Bệnh do Leishmania lan toả không điển hình.

Bệnh lý thận do HIV.

Viêm cơ tim do HIV.

  • Phân giai đoạn nhiễm HIV theo tình trạng miễn dịch

Tình trạng miễn dịch của người lớn nhiễm HIV được đánh giá thông qua chi số tế bào CD4. Bảng 1.2: Các giai đoạn miễn dịch nhiễm HIV/AIDS ở người lớn.

Mức đô Số tế bào CD4/mm3
Bình thường hoặc suy giảm miễn dịch không đáng kể > 500
Suy giảm miễn dịch nhẹ 350 – 499
Suy giảm miễn dịch tiến triển 200 – 349
Suy giảm miễn dịch nặng < 200
  • Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm HIVtiến triển (bao gồm AIDS)
  • Có bệnh lý thuộc giai đoạn lâm sang 3 hoặc 4 (chẩn đoán lâm sàng hoặc xác định) và/hoặc
  • Số lương CD4 < 350 TB/mm3
  • AIDS được xác định khi người nhiễm HIV có bất kỳ bệnh lý nào thuộc giai đoạn 4 (chẩn đoán lâm sàng hoặc xác định), hoặc số lương CD4 < 200 TB/mm3.

Phương pháp khám mũi -xoang

PHƯƠNG PHÁP KHÁM MŨI – XOANG

  1. Hỏi bệnh.

Bệnh nhân khi khám mũi, xoang có nhiều lý do: ngạt mũi, chảy mũi, hắt hơi hoặc không ngửi được, khạc ra đờm hoặc bị đau đầu, mờ mắt, mỏi gáy…

Để biết rõ về bệnh: phải xác định được thời gian khởi phát, diễn biến và hiện trạng của bệnh, đã điều trị thuốc gì? ngoài ra cần hỏi tình trạng nghề nghiệp và gia đình để thấy được các nguyên nhân, liên quan gây bệnh.

Các triệu chứng chính:  

  • Ngạt, tắc mũi: là triệu chứng chính của mũi, thời gian và mức độ ngạt tắc mũi, 1 hay 2 bên, có liên quan đến thời tiết, đến tư thế đầu và các triệu chứng khác.
  • Chảy mũi: đánh giá tính chất, mức độ và thời gian chảy, diễn biến và liên quan đến thời tiết, đến các yếu tố khác và các triệu chứng khác.
  • Mất ngửi: những biến đổi về ngửi, thời gian, mức độ và liên quan đến các triệu chứng khác.
  • Đau: cũng thường gặp, do tự phát hay khi gây ra, tính chất, vị trí, mức độ và thời gian đau, liên quan đến các triệu chứng khác, hướng lan, liên quan đến các triệu chứng khác.
  • Hắt hơi: thành tràng kéo dài hay chỉ một vài lần?
  1. Khám thực thể mũi.

Dụng cụ khám  mũi;

Đèn Clar.

Gương trán.

Đè lưỡi.

Gương soi vòm.

Soi mũi Speulum các cỡ.

  • Khám ngoài:

Nhìn và sờ nắn gốc mũi, sống mũi, cánh mũi, ấn mặt trước các xoang để phát hiện các dị hình, biến dạng, biến đổi và điểm đau.

  • Khám trong:
  • Tiền đình mũi: dùng ngón tay nâng đỉnh mũi lên để quan sát vùng tiền đình mũi xem có nhọt, viêm loét…
  • Soi mũi trước: dùng mở mũi, khám hốc mũi bên nào cầm dụng cụ bằng tay bên ấy. Đưa nhẹ mở mũi vào hốc mũi ở tư thế khép, khi vào trong hốc mũi, mở cánh soi mũi rộng ra. Nhìn theo hai trục ngang và trục đứng. Thường cuốn mũi dưới hay bị nề, che lấp hốc mũi, khi đó phải đặt một mảnh bông nhỏ thấm dung dịch gây co như: ephedrin, naphtasolin, xylocain 12 phút, sau khi gây co cuốn mũi khám lại để quan sát kỹ và đầy đủ hơn.

Cuốn mũi dưới: nhẵn, màu hồng hay đỏ nhạt, ướt co hồi tốt khi đặt thuốc gây co.

Cuốn mũi giữa: nhẵn, màu trắng hồng.

Khe giữa, dưới và sàn mũi: sạch, không có dịch, mủ ứ đọng, niêm mạc nhẵn hồng nhạt.

Vách ngăn mũi: thẳng, chân hơi phình thành gờ, niêm mạc màu hồng nhạt, nhẵn, ướt.

Soi mũi sau: nhằm quan sát gián tiếp (qua gương soi) vùng vòm họng, cửa mũi sau, loa và miệng của vòi tai. Dùng đè lưỡi và gương soi mũi sau (đường kính 1-2 cm).

Cách soi:

Bệnh nhân:  ngồi thẳng, lưng rời khỏi tựa ghế.

Thầy thuốc: tay trái cầm đè lưỡi như khi khám họng, tay phải cầm gương soi. Trước hết hơ nhanh gương trên ngọn lửa đèn cồn (kiểm tra gương không quá nóng) để hơi nước không đọng làm mờ gương. Đưa nhẹ gương vào họng, lách qua lưỡi gà rồi quay mặt gương chếch lên trên, cán gương nằm ngang. Khi đưa gương vào bảo bệnh nhân thở bằng mũi để vòm không bị co hẹp lại, nếu có nước bọt che vòm bảo bệnh nhân nói a, a, a… làm mất đi.

Lưu ý: trong khi soi cố tránh không để gương chạm vào thành họng gây phản xạ buồn nôn. Nếu bệnh nhân có phản xạ nhiều, nên gây tê vùng họng lưỡi bằng xylocain 3 – 6% (phun hoặc bôi).

Ngoài ra cần kiểm tra vòm họng bằng cách dùng ngón tay trỏ sờ vòm để phát hiện các khối u, V.A. Nên nhớ chỉ được sờ vòm họng khi không có viêm cấp tính ở mũi họng.

  1. Khám thực thể xoang.
  • Nhìn: mặt trước xoang, hố nanh, rãnh mũi má, rãnh mũi mắt, gốc mũi, góc trong hốc mắt xem có bị nề, phồng, biến đổi không?
  • Tìm điểm đau: ấn nhẹ ngón tay cái lên vùng cần tìm điểm đau.

Điểm đau ở hố nanh (xoang hàm): vùng má, cạnh cánh mũi.

Điểm đau Grun – wald (xoang sàng trước): vùng góc trên trong hốc mắt.

Điểm đau Ewing (xoang trán): 1/3 trong cung lông mày.

Cần so sánh hai bên để tìm cảm giác đau chính xác.

  • Soi bóng mờ: dùng đèn soi bóng mờ (như đèn pin) thực hiện trong buồng tối, để bệnh nhân ngậm đèn trong miệng, hướng nguồn sáng ra phía mặt. Với xoang hàm bình thường, nguồn sáng đi qua tao thành bóng sáng hình tam giác ở dưới ổ mắt. Để nguồn sáng áp vào thành trên ổ mắt hướng nguồn sáng lên trán, nếu xoang trán bình thường sẽ có một bóng sáng ở vùng trong cung lông mày. Phương pháp soi bóng mờ không cho kết quả chính xác, rõ ràng nên hiện nay ít được áp dụng.
  • Chọc dò xoang hàm: xoang hàm có lỗ thông với hốc mũi khe giữa, dùng một kim chọc qua vách xương ngăn mũi xoang ở khe dưới để vào xoang hàm. Qua đó có thể hút để quan sát chất ứ đọng trong xoang, thử tìm vi khuẩn hoặc tế bào học. Cũng có thể bơm nước ấm hay dung dịch nước muối sinh l{ vào xoang để nước chảy ra qua lỗ mũi xoang ở khe giữa. Trong trường hợp viêm xoang thấy có mủ hay bã đậu chảy ra theo nước .

Phương pháp này đơn giản, cho chẩn đoán xác định lại kết hợp với điều trị nên thường được dùng. Cần nhớ rằng không được tiến hành khi đang trong tình trạng viêm cấp tính.

  1. Khám chức năng.
  • Khám chức năng thở: đơn giản nhất là cho thở trên mặt gương. Dùng gương Gladen là một tấm kim loại mạ kền sáng bóng có các vạch hình nửa vòng tròn đồng tâm và một vạch thẳng chia đôi đúng giữa. Để gương khít trước mũi bệnh nhân, vạch thẳng tương ứng với tiểu trụ, gương nằm ngang. Khi thở ra có hơi nước sẽ làm mờ gương. Theo mức độ gương bị mờ để đánh giá chức năng thở. Nếu gương không bị mờ là mũi bị tịt hoàn toàn. Cũng có thể dùng gương soi thường để thử.

Người ta còn dùng khí mũi kế (Rhinometrie) để đo áp lực thở của từng hốc mũi được cụ thể hơn hoặc có thể ghi lại trên giấy để có bằng chứng.

  • Khám chức năng ngửi: thường dùng ngửi kế bằng cách đưa vào từng hốc mũi 1 khối lượng không khí có nồng độ nhất định của 1 chất có mùi để tìm ngưỡng ngửi của từng chất. Thực hiện với một số chất có mùi khác nhau và so sánh với các ngưỡng bình thường để có nhận định về mức độ ngửi của người bệnh.

Cần phân biệt các chất có mùi và chất kích thích như ête, amôniac… có những người còn biết kích thích nhưng có thể mất ngửi. Thường dùng các chất có mùi quen thuộc như: mùi thơm, chua, thức ăn.

  1. X- quang: Hai tư thế cơ bản là:

Tư thế Blondeau (mũi – cằm phim). 

Bình thường:

  • Hốc mũi có khoảng sáng của khe thở rõ.
  • Các xoang hàm, trán, bướm sáng đều (so với ổ mắt), các thành xoang đều rõ.

Bệnh lý: 

  • Khe thở của hốc mũi bị mất, hẹp lại do khối u hay cuốn mũi quá phát.
  • Các xoang hàm hay trán bị mờ đều do niêm mạc phù nề, mờ đặc do mủ trong xoang, bờ dày, không đều do niêm mạc dày, thoái hoá. Thành xương có chỗ bị mất, không rõ: nghi u ác tính.

Tư thế Hirtz (cằm – đỉnh phim).

Bình thường: các xoang sàng trước, sàng sau, xoang bướm sáng đều, các vách ngăn của các tế bào sàng rõ, các thành xoang đều rõ.

Bệnh lý: trên phim Hirtz các vách ngăn sàng không rõ hay bị mất đi, các tế bào sàng mờ đều hay mờ đặc do niêm mác dày hoặc có mủ. Khi có hình ảnh phá huỷ xương, các thành xoang có chỗ bị mất, không rõ: nghi ác tính.

  • Khi nghi ngờ có dị vật trong xoang hàm và xoang trán: cần chụp thêm tư thế sọ nghiêng để xác định vị trí cụ thể.
  • Khi nghi ngờ có khối u, pôlip trong xoang hàm: bơm chất cản quang vào xoang để chụp phát hiện.

C.T.Scan vùng xoang (Axial và Coronal): để đánh giá bệnh tích một cách rõ ràng và chính xác, phục vụ cho chẩn đoán và điều trị.