Blog Trang 452

Hội chứng tim mạch trong sốt xuất huyết

Rối loạn tuần hoàn cũng là một hội chứng phổ biến trong Sốt xuất huyết đứng sau hội chứng nhiễm khuẩn và hội chứng xuất huyết.

Mạch

Khi mất nhiều nước (do sốt cao, vã mồ hôi), khi xuất huyết phủ tạng, và trong những trường hợp sốc, mạch bệnh nhân thường nhanh và yếu. Ở một số bệnh nhân, chủ yếu lớn tuổi, mạch có xu hướng chậm lại khi nhiệt độ tụt, nhưng cũng có trường hợp mạch chậm vào thời kỳ sốt cao, thường là nhịp chậm xoang với dấu hiệu cường phó giao cảm; những trường hợp mạch chậm vào lúc nhiệt độ tụt xuống 35-36oC thường đi đôi với huyết áp thấp.

Ở bệnh viện 5-8, đại đa số bệnh nhân người lớn có mạch chậm tương đối so với nhiệt độ (91,6%); mạch nhanh (trên 130/phút) chỉ gặp ở 3,3%, mạch khó bắt cũng chỉ gặp ở 3,3% bệnh nhân (BS Nguyễn Hữu Bình, 1970). Tại vụ dịch Sốt xuất huyết ở người lớn (TSN-1974) mạch chậm 50-60 lần/phút gặp ở 45,7% bệnh nhân, có 3 trường hợp nhịp chỉ còn 40-45 lần/phút (Nguyễn Xuân Nguyên, 1974). Tại Bệnh viện B, trong vụ dịch 1969, thống kê trên 1546 bệnh nhi, mạch chậm gặp ở 33,5% mạch nhanh, còn rõ ở 11,4% và mạch nhanh khó bắt ở 55% (Bùi Xuân Bách, 1970). Nói chung, mạch chậm đi đôi với huyết áp thấp không nguy hiểm bằng mạch nhanh + huyết áp thấp; trong số bệnh nhân có mạch chậm thì những trường hợp mạch chậm + nhiệt độ tụt nguy hiểm hơn mạch chậm + nhiệt độ cao.

Huyết áp

Huyết áp ở bệnh nhân Sốt xuất huyết bình thường hoặc giảm do nhiều nguyên nhân: hụt thể tích lưu hành vì mất nước (vã mồ hôi, nôn, sốt cao nhiều ngày), hụt thể tích lưu hành vì xuất huyết (niêm mạc và phủ tạng), do trạng thái sốc (thoát dịch ngoài lòng mạch, cô máu), do giãn mạch vì cường phó giao cảm, chưa loại trừ yếu tố tổn thương ở tim (hụt thể tích ở động mạch, vành, thoát dịch vào tổ chức kẽ tim, tràn dịch màng phổi, màng tim gây chèn ép và cản trở ngoại vi, viêm cơ tim do virut ?…). Huyết áp thường giảm nhẹ khi bệnh nhân sốt cao kéo dài, vâ mồ hôi nhiều, nôn nhiều, ỉa chảy, hoặc có xuất huyết phủ tạng tái diễn nhiều ngày; huyết áp giảm nặng ở những bệnh nhân có sốc, có khi không đo được. Ở một số trường hợp, huyết áp giảm khi nhiệt độ tụt xuống bình thường hoặc dưới bình thường.

  • Huyết áp ở bệnh nhân người lớn ít tụt hơn so với bệnh nhi. Trong 112 bệnh nhân người lớn ở Bệnh viện 5-8 chỉ có 4 trường hợp huyết áp nhẹ dưới 80mmg Hg (3,5%),. 87 trường hợp huyết áp chỉ giảm nhẹ từ 80 đến 100; số còn lại 21.trường hợp huyết áp bình thường (BV 5-8, 1976); tại Viện 108 trong 110 bệnh nhân, huyết áp dưới 80 ở 8 trường hợp (7%), huyết áp 90 ở 15 trường hợp (14%) (Bùĩ- Đại và cs, 1969); ngược lại trong số 1546 bệnh nhi ở Bệnh viện B, số trường hợp có huyết áp dưới 80 chiếm 33,5% (518 bệnh nhân), trong số này gần 1/3 hoàn toàn không đo được huyết áp (Bùi Xuân Bách và cs, 1970).
  • Tại QĐc, trong 286 bệnh nhân có 14 bn tụt huyết áp vào lúc nhiệt độ hạ xuống 35o2 – 36°5 (5%) và 11 bn tụt huyết áp trong thời gian đang sốt cao 39-40° (3,8%), loại này thường nặng hơn (Đỗ Trọng Hải và cs, 1975).

Tại Bệnh viện Bạch Mai, 79 trường hợp tụt huyết áp chủ yếu vào những ngày thứ 4-5-6 của bệnh, trong số này 8 tụt vào lúc còn sốt cao, 66 tụt cùng một lúc với nhiệt độ tụt, và 5 trường hợp huyết áp tụt sau khi bệnh nhân đã hết sốt.

Thời gian tụt huyết áp kéo dài thông thường 1-3 ngày, phổ biến là 1 ngày (Gs Đào Đình Đức, Bs Bình, Bs Chất và cs, 1970).

THỜI GIAN XUẤT HIỆN TỤT HUYẾT ÁP (NGÀY CỦA BỆNH)

(GS Đào Đình Đức và cs, 1969)

Ngày Thứ Thứ Thứ Thứ Thứ Thứ Thứ Thử Cộng
bệnh 1 2 3 4 5 6 7 8
Số

bn

8 9 • 18 26 13 4 79

THỜI GIAN TỤT HUYẾT ÁP KÉO DÀI (Gs Đào Đình Đức và cs, 1969)

Số ngày 1 2 3 4 5 Cộng
Số bn 49 13 12 3 2 79
  • Trong 23 bệnh nhân tụt huyết áp ở Viện 108 chỉ có 5 trường hợp Xuất huyết phủ tạng, còn 10 Xuất huyết niêm mạc và xuất huyết dưới da và 8 trường hợp không có biểu hiện xuất huyết mà vẫn tụt HA (Bùi Đại và cs, 1969); trong 18 bệnh nhân tụt HA ở vụ dịch TSN (1974), không có trường hợp nào Xuất huyết phủ tạng, trái lại có 10 xuất huyết dưới da và Xuất huyết niêm mạc, và 8 hoàn toàn không có biểu hiện xuất huyết (Nguyễn Xuân Nguyên, 1974); trong 79 bệnh nhân tụt HA ở Bệnh viện Bạch Mai (1969) chỉ có 23 trường hợp xuất huyết tiêu hoá, còn lại là xuất huyết dưới da và Xuất huyết niêm mạc (56 bệnh nhân; Bs Nguyễn Hữu Bình, 1970). Tóm lại triệu chứng tụt HA trong Sốt xuất huyết không liên quan chủ yếu với Xuất huyết phủ tạng, nhưng lại hay kèm theo hụt thể tích lưu hành, cô máu với hematocrit và hồng cầu tăng cao. Những trường hợp HA tụt dưới 80, với mạch nhanh nhỏ, da xanh xạm, lạnh nhớp mồ hôi, đái ít, li bì hoặc vật vã là Sốt xuất huyết thể sốc (sốc dengue) sẽ đề cập tới ở phần V.

Bảng TÌNH HÌNH HUYẾT ÁP Ở BỆNH NHÂN Sốt xuất huyết

Huyết áp Huyết áp tối da
Bệnh nhân <80

mmHg

(a)

<40

mmHg

(b)

Bệnh nhi:
Bệnh viện B (1969) 33,5% 12-17%
Bệnh viện nhi đồng 1 (1972-1973) 50-70% 16-20%
Bệnh nhân người lớn:
K 43 (1975) 11% 0%
Viện 108 (1969) 7% 0%
Bệnh viện Bạch Mai (1969) 16,2% (d)
Bệnh viện Việt Nam-Cuba (1969) 19%
Viện 175 (c) (1975) 34% (d)

Ghi chú: số lượng bệnh nhân ở cột (a) bao gồm cả số ở cột (b); (c): ở Viện 175 chỉ tính số bệnh nhân năng cấp cứu ở khoa hồi sức; (d): có một số trường hợp HA < 40mmHg.

Tim và điện tim

  • Nói chung biến đổi ở tim không phải là đặc trưng của Sốt xuất huyết. Những trường hợp sốc dengue về cơ bản không phải là sốc từ tim, mà là sốc chủ yếu do tăng tính thấm mao quản và hụt thể tích lưu hành (giãn mạch, tăng tính thấm, thoát dịch ra ngoài lòng mạch, cô máu…) hoặc ở một số ít do xuất huyết phủ tạng, mất nước (nôn, vã mồ hôi, sốt cao…) v.v… cho nên trong Sốt xuất huyết, tiếng tim ít biến đổi, chủ yếu thấy nhịp xoang nhanh hoặc nhịp xoang chậm ở một số trường hợp.
  • Tuy nhiên ở những trường hợp Sốt xuất huyết nặng, nhất là sốc dengue một số tác giả đã ghi nhận có biến đổi điện tim ở các mức độ nhịp xoang chậm, ngoại tâm thất, đòi khi bloc nhĩ thất, và rối loạn tái cực, viêm cơ tim

Tại Khoa nhi Bệnh viện Bạch Mai, Hoàng Phúc Tường và cs, năm 1969 đã ghi điện tim cho 72 bệnh nhi nặng, tác giả nhận thấy: điện tim bình thường ở 17 trường hợp (23%), có biến đổi bệnh lý ở 55 (77%).

Tại Bệnh viện nhi đồng 1 (Thành phố Hồ Chí Minh), bác sĩ Duy và cs (1974) thấy có biến đổi điện tim d 59 trong 343 bệnh nhi (17%); cũng tại đây tác giả đã gặp tràn dịch màng tim. Lẻ tẻ, một số trường hợp viêm cơ tim, suy tim cấp cũng đã được thông báo ở cả bệnh nhi và người lớn: như ở Bệnh viện nhi đồng, tại Trại 11A gặp 2 trường hợp viêm cơ tim trong số 614 bệnh nhi, trong đó 1 chết nhanh (Bs Thanh, 1974); 1 trường hợp viêm cơ tim xuất huyết chết nhanh ở Bệnh viện 113 (1975); 1 suy tim cấp ở Bệnh viện hải quân (1975), 1 viêm cơ tim trong vụ dịch TSN (Nguyễn Xuân Nguyên, 1974). Tại Khoa truyền nhiễm Bệnh viện Bạch Mai, trong 57 bệnh nhân sốc Sốt xuất huyết, có biểu hiện viêm cơ tim ở 3 nhưng phục hồi hoàn toàn sau 2-3 tuần (Đào Đình Đức và cs, 1969). biến đổi điện tim ở Sốt xuất huyết cũng đã được Somchittlamsa Ard đề cập ở Thái Lan trong vụ dịch 1966: tác giả làm điện tim cho 5 bệnh nhân đã ghi nhận có nhịp chậm ở 2 và QRS rộng ở 2.

Xem tiếp:

  1. Chẩn đoán, điều trị sốt dengue và sốt xuất huyết dengue
  2. Sốt xuất huyết thể không điển hình và điển hình
  3. Phân loại thể bệnh sốt xuất huyết
  4. Sốt xuất huyết thể sốc ( Dengue độ 3 và 4 )
  5. Sốt xuất huyết thể xuất huyết phủ tạng (độ 2b)
  6. Sốt xuất huyết thể não
  7. Sốt xuất huyết thể suy gan cấp
  8. Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố (hct)
  9. Những biến chứng của Sốt xuất huyết xuất
  10. Tiên lượng bệnh sốt xuất huyết
  11. Chẩn đoán bệnh sốt xuất huyết
  12. Nguyên tắc điều trị sốt xuất huyết
  13. Điều trị sốt xuất huyết độ 1 -2 (không có sốc)
  14. Điều trị sốt xuất huyết độ 1-2 bằng thuốc nam y học cổ truyền
  15. Triệu chứng hô hấp trong bệnh sốt xuất huyết
  16. Những biến đổi thể dịch của bệnh sốt xuất huyết
  17. Biện pháp phòng dịch sốt xuất huyết
  18. Đường lây truyền bệnh sốt xuất huyết dengue
  19. Cơ chế lây truyền bệnh sốt xuất huyết
  20. Triệu chứng dengue xuất huyết thể điển hình (độ II)
  21. Triệu chứng thần kinh trong sốt xuất huyết
  22. Hội chứng tim mạch trong sốt xuất huyết
  23. Triệu chứng tiêu hoá trong sốt xuất huyết

Nước rau hỗn hợp có chứa nhiều loại Vitamin

Những năm gần đây, loại nước rau hỗn hợp với nhiều loại nhãn mác được tung ra bán trên thị trường. Chúng đều được gọi là loại “đồ uống bảo vệ sức khỏe giàu các loại vitamin”. Hơn nữa, cùng với sự phổ biến rộng rãi các máy thái rau đa công năng gia dụng, nên nhiều người đã tự chế ra nước rau hỗn hợp và kem rau hỗn hợp, coi nó là loại thực phẩm bổ sung các loại vitamin bảo vệ sức khỏe, nhất là dùng làm thức ăn cho trẻ nhỏ. Khi chế biến loại thực phẩm này, để có được nhiều loại vitamin phong phú, người ta thường dùng những loại rau xanh và quả củ rau có nhiều vitamin c và vitamin A như cà chua, dưa chuột, cà rốt, củ cải v.v… để làm nguyên liệu chế biến. Quả thật là trong mỗi 100 gam cà chua có chứa 11 mg vitamin c, mỗi 100 gam dưa chuột có chứa 14 mg vitamin c, mỗi 100 gam củ cải có chứa 30 mg vitamin c, mỗi 100 gam cà rốt có chứa 4 mg chất carotin sau khi vào cơ thể nó có thể chuyển hóa thành vitamin A; nhưng khi hỗn hợp chúng lại với nhau, có đúng là nó đã trở thành loại rau hỗn hợp vừa giàu vitamin c lại vừa nhiều vitamin A hay không? Thực tế nói về mặt dinh dưỡng học thì sự hỗn hợp như vậy không phải là “cách cộng góp lại” mà là “cách làm giảm thiểu đi”.

Vitamin
Vitamin

Trong các loại rau quả củ như cà rốt, dưa chuột, bí đỏ, cà chua, cà trắng v.v… có một chất gọi là vitamin c oxydase (tức men oxy hóa vitamin c hay còn gọi là men phân giải vitamin c – ND), nó có thể oxy hóa, phân giải vitamin c. Nếu đem các loại rau quả củ trên hỗn hợp với một số loại rau xanh khác giàu vitamin c để thành loại thực phẩm nước rau hỗn hợp, kem rau hỗn hợp thì hàm lượng vitamin c có trong các loại thực phẩm đó đã biến thành con số không.

Vậy thì, vì sao trong các loại rau quả củ như dưa chuột chẳng hạn vừa có chứa vitamin c lại vừa có cả chất men phân giải vitamin c? Khi trong các loại rau quả củ có men phân giải vitamin c thì vì sao nó không phân hủy luôn vitamin c trong đó đi?

Đó là vì vitamin c tồn tại trong các tổ chức ngoài tế bào của các loại rau xanh, còn men phân giải vitamin c thì lại ở trong tế bào của các loại rau đó. Khi tế bào của rau xanh chưa bị phân hủy thì vitamin c không tiếp xúc được với men phân giải vitamin c do đó mà vitamin vẫn không bị phân hủy, mà chỉ khi nào tế bào rau xanh bị thái, bị nghiền nát ra thì chất men phân giải vitamin c (vitamin c oxidase) mới chảy ra và phát sinh tác dụng phân giải vitamin c.

Cũng chính vì vậy mà chúng ta tuy phản đối việc chế ra các loại nước rau hỗn hợp, kem rau hỗn hợp như người ta vẫn làm và quảng cáo rùm beng lên coi như là loại nước vitamin tổng hợp vậy, nhưng chúng ta cũng không vì thế mà lại không dám đồng thời sử dụng hỗn hợp các loại rau quả trên với nhau trong nấu ăn hàng ngày. Ví dụ, khi ta dùng các loại củ cà rốt, dưa chuột và các loại rau quả củ khác để làm món salad thì ta vẫn phải thái chúng ra thành những lát mỏng, những miếng tương đối to thì chỉ có lượng rất nhỏ chất vitamin c oxidase chảy ra thôi, cho nên nó khác hẳn chứ không như là trường hợp nghiền các loại rau thành nước hoặc thành dạng keo rau hỗn hợp như nói trên. Hơn nữa, do trong món salad dầu bao lấy mặt ngoài của rau, như vậy cũng đã ngăn chặn được sự tiếp xúc và tác dụng của men phân giải vitamin c với vitamin c. Ngoài ra, do men phân giải vitamin c là một loại chất protein, sau khi vào cơ quan tiêu hóa, dưới tác dụng của nước bọt, của dịch vị nó nhanh chóng biến tính và không còn có tác dụng nữa, cho nên chúng ta cũng không cần lo ngại là ăn các loại rau hỗn hợp với nhau sẽ phát sinh tình trạng vitamin c bị phân hủy nữa.

Ngoài ra, giấm cũng có thể làm cho men phân giải vitamin c (vitamin oxidase) biến tính, chính vì thế mà khi nấu hoặc khi làm nộm với các loại rau củ như cà rốt, dưa chuột mà cho một tí giấm vào thì đó là cách làm rất thông minh của các bà nội trợ.

Do đó, theo quan điểm khoa học để nhìn nhận thì loại nước rau hỗn hợp, kem rau hỗn hợp không thể nào so sánh được với các loại rau ta vẫn thường nấu lên hoặc làm nộm để ăn. Nếu muốn cho trẻ dùng những loại đó thì tốt nhất đem các loại rau đó nấu lên cho trẻ ăn, như vậy sẽ có lợi hơn nhiều loại thực phẩm rau hỗn hợp chế sẵn đó.

Phòng và điều trị chứng chán ăn của trẻ em

Có rất nhiều gia đình, mỗi khi cho con ăn, bô hoặc mẹ đều phải chạy lẽo đẽo theo sau để dỗ con ăn, hoặc là thừa cơ khi con không chú ý, liền nhét vào một mồm. Các bậc bố mẹ đã vì bữa cơm của con mà rất vất vả, đau đầu. Cứ thế càng lâu, trẻ con đối với việc ăn cơm sản sinh một loại chống đối của bản năng. Khi nào đói đến mức không chịu được, mới chịu ăn một ít. Trạng thái ăn uống này chính là chán ăn. Nếu như chán ăn cứ duy trì thời gian dài, sẽ ảnh hưởng sự tăng trưởng bình thường đến chiều cao và thể trọng của trẻ, ta gọi là chứng chán ăn.

Chứng chán ăn cần giám định phân biệt với chán ăn giả vờ. Nhìn bề ngoài biết nội dung, chắc ăn giả vờ hoàn toàn không phải là chán ăn thật sự, mà là bố mẹ coi trọng quá sức ăn của con, có thể lại nắm không chắc tiêu chuẩn lượng ăn của trẻ, cứ tưởng rằng con ăn được ít, ở đây có hai vấn đề cần nói rõ:

  1. Khẩu vị của từng đứa trẻ khác nhau, có đứa hiệu suất hấp thụ thức ăn cao, có đưa hiệu suất hấp thụ thức ăn thấp, có nghĩa rằng, cũng ăn một loại thức ăn có số lượng thành phần dinh dưỡng như nhau, có trẻ dinh dưỡng đã có thể thỏa mãn nhu cầu của tự thân, có trẻ thì rõ ràng chưa đủ. Cho nên có đứa ăn nhiều, có trẻ ăn ít, không thể so bì lẫn nhau, tức là mỗi trẻ có một lượng ăn riêng của mình. Chỉ cần trẻ tăng trưởng bình thường về chiều cao và thể trọng, thì không coi là chán ăn thật sự.
  2. Có một số trẻ thích ăn vặt, khi đến bữa ăn chính, lượng ăn được quá ít, trạng thái ăn uống như thế này cũng dễ ảnh hưởng đến tăng trưởng thể trọng và chiều cao của trẻ, nhưng cũng không thể coi là chứng chán ăn.

Chán ăn, chứng bệnh này được đề xuất trong “trung y nhị khoa học” do Học viện Trung y Nam Kinh biên soạn năm 1982, “Trung y nhi khoa học” do Bộ y tế Trung Quốc tổ chức biên soạn năm 1985 đã tiếp nhận ý kiến chán ăn để làm chứng bệnh độc lập, từ đó chán ăn được giới nhi khoa khắp nơi coi trọng, xuất hiện rất nhiều danh y, danh phương đã giành được hiệu quả chữa trị rất vừa ý.

NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN TRẺ CHÁN ĂN

Nguyên nhân dẫn đến trẻ chán ăn có rất nhiều, có nguyên nhân về sinh lí, có nguyên nhân bệnh lí, còn có nguyên nhân là thói quen ăn uống. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu tóm tắt với các vị phụ huynh.

  1. Chứng chán ăn do thói quen ăn uống không tốt dẫn đến

An thiên một món, ăn chọn, hay ăn vặt, thích ăn uống đồ lạnh, không ăn sáng, ăn không theo giờ giấc, chỉ thích đường kẹo, tất cả đó đều có thể dẫn đến chán ăn.

Đột nhiên thích chọn món ăn nào đó, thỉnh thoảng ăn vặt hoặc là có lúc phá quy luật ăn uống vốn có. như thế ảnh hưởng không lớn đối với thân thể của trẻ. Nhưng nếu hình thành một thói quen không tốt, ngày ngày đều như thế. lâu ngày tất nhiên sẽ sản sinh sự kích thích không tốt đối với hệ thống thần kinh trung khu, ảnh hưởng chức năng bình thường của hệ thống tiêu hóa, xuất hiện tính chán ăn kéo dài lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến sự sinh trưởng phát dục của trẻ.

Các bậc phụ huynh không nên quá nuông chiều đối với con trẻ, cần phải kịp thời uốn nắn những thói quen ăn uống không tốt xuất hiện thường ngày.

  1. Chứng chán ăn do môi trường ăn uống không tốt dẫn đến

Hoàn cảnh ăn uống chật chội, ồn ào, nóng bức. không khí ô nhiễm, sẽ ảnh hưởng đến sự thèm ăn của trẻ, sinh ra chán ăn.

Hệ thống tiêu hóa và thần kinh của trẻ chưa thật hoàn thiện, sức chú ý tập trung dễ bị ngoại cảnh hấp dẫn và quấy nhiễu, nếu không tập trung ăn uống sẽ ảnh hưởng đến chức năng bình thường của đường tiêu hóa và tuyến tiêu hóa. Môi trường ăn uống xấu sẽ ảnh hưởng đến tác dụng điều tiết đối với thèm ăn của trung khu tìm mồi và trung khu no mồi của trẻ, thời gian kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của trẻ. Các bậc phụ huynh, để cho đứa con của ngài khôn lớn khỏe mạnh, xin các vị hãy tạo cho chúng một môi trường ăn uống tốt và yên tĩnh.

  1. Chứng chán ăn do bệnh tật của hệ thống tiêu hóa gây nên

Thức ăn từ nuốt vào, tiêu hóa và hấp thụ đều do hệ thống tiêu hóa đảm nhiệm hoàn thành, nếu như một bộ phận nào đó của hệ thống tiêu hóa bị bệnh lập tức dẫn đến chán ăn. Thường thường bệnh tật có mấy loại như sau:

  • Chứng rối loạn chức năng tiêu hóa: triệu chứng của loại này rất thường thấy. Do hệ thống tiêu hóa của trẻ phát triển chưa nhuần nhuyễn, nhiệm vụ phải gánh vác lại rất nặng, sau khi bị sự kích thích có hại của bên trong, bên ngoài, lập tức xảy ra rối loạn chức năng tiêu hóa hấp thụ và chức năng vận động của đường ruột. Triệu chứng loại này, ngoài việc chán ăn ra thường kèm theo hiện tượng buồn nôn, nôn, đau bụng và bí tiện.
  • Bệnh kí sinh trùng đường ruột: như bệnh giun đũa, giun kim, bệnh giun móc câu và bệnh sán dây. Loại bệnh này ngoài chứng chán ăn ra, phần nhiều còn kèm theo triệu chứng đau bụng, xanh xao, gầy còm. Sau khi điều trị tẩy giun, các triệu chứng nói trên sẽ tiêu mất.
  • Bị viêm túi mật mãn tính: triệu chứng điển hình không có, phần lớn biểu hiện ở chứng chán ăn và thấp nhiệt là chính, chẩn đoán chỉ dựa vào dẫn lưu ở hành tá tràng, hút dịch thể mật để hóa nghiệm.
  • Viêm gan mãn tính và viêm gan kéo dài: ngoài việc chán ăn ra, thường có kèm theo gan phình to, chức năng gan qua kiểm tra khác thường.
  • Viêm dạ dày và loét đường tiêu hóa mãn tính: những năm gần đây, xu thế phát bệnh tăng nhiều, phần lớn trẻ bị bệnh không có triệu chứng điển hình, nhưng đều có hiện tượng không thèm ăn. Chẩn đoán chỉ dựa vào uống Sulfastbari để chiếu X quang kiểm tra dạ dày.
  • Đặc trưng tổng hợp đường ruột hấp thụ không tốt từ đầu: do thiếu hụt một số men tiêu hóa nào đó, cho nên việc tiêu hóa không tốt các chất ngũ cốc, protein và chất béo. Đặc trưng tổng hợp này, ngoài việc chán ăn có tính bảo thủ, thường kèm theo ỉa chảy mãn tính, giảm cân, mà phần lớn có tiền sử gia đình.
  • Chứng dị ứng sữa bò: trẻ có dị ứng đối với protein trong sữa bò, ngoài chứng chán ăn ra, đều kèm theo ỉa chảy. Cho ăn các sản phẩm sữa khác là khỏi ngay.
  • Bí tiện do thói quen: nói chung đều có biểu hiện chán .ăn.
  • Bệnh tật về răng: bệnh tật răng, trường hợp nặng, sẽ ảnh hưởng đến ăn uống, thời gian kéo dài, sẽ dẫn đến chán ăn.
  1. Những nhân tố dẫn đến chán ăn nhất thời
  • Bệnh tật cấp tính dẫn đến chán ăn thời gian ngắn.

Các chứng viêm ruột, viêm dạ dày ruột cấp tính,

viêm phổi, viêm phế quản, viêm tai giữa, nhiễm đường hô hấp trên thường thấy ở trẻ, ngoài các triệu chứng có liên quan đến bệnh tật, hầu như đều kèm theo triệu chứng giảm tính thèm ăn. Đặc biệt là những trẻ sốt cao, càng không thèm ăn uống một thứ gì. Với bệnh viêm gan, sỏi, thương hàn trong bệnh truyền nhiễm cấp tính, thì triệu chứng chán ăn càng nổi bật, nhưng cùng với sự thuyên giảm của bệnh tật, thì chứng thèm ăn lại dần dần được khôi phục.

  • Thay đổi môi trường sống có thể dẫn đến chán ăn tạm thời.

Môi trường và ngon ăn có quan hệ mật thiết với nhau. Những ví dụ về vấn đề này rất nhiều, như bé vừa mới đi vào nhà trẻ, hoặc là bố mẹ dẫn con đến một gia đình mới lạ, vì môi trường mới lạ và khác nhau quá lớn, trong nhất thời trẻ khó lòng tiếp nhận, cho nên đa số trẻ ăn ít đi, thậm chí không muốn ăn cơm.

  • Nhân tố tâm lí cũng có thể dẫn đến chán ăn tạm thời.

Học sinh trước khi đi thi, đa số tinh thần căng thẳng, ngủ không đủ, ăn không ngon, lượng cơm giảm bớt. Trẻ con bị phê bình, cảm thấy tủi thân, buồn bã, cũng vậy không muốn ăn cơm.

TIÊU CHUẨN ĐỂ CHẨN ĐOÁN CHỨNG CHÁN ĂN

  1. Nhi đồng tuổi 14 trở xuống
  2. Thời gian chán ăn: 6 tháng và 6 tháng trở lên.
  3. Lượng ăn: trẻ 3 tuổi trở lại, thức ăn loại ngũ cốc lượng ăn vào mỗi ngày không đủ 50g, 3 tuổi trở lên thức ăn loại ngũ cốc lượng ăn vào mỗi ngày không đủ 75g, đồng thời lượng thịt, trứng, sữa ăn vào cực ít.
  4. Điều tra bữa hàng ngày: lượng protein và nhiệt lượng ăn vào không đủ 70% lượng tiêu chuẩn cung cấp, khoáng chất và vitamin ăn vào không đủ 5% lượng tiêu chuẩn cung cấp.
  5. Sinh trưởng phát triển: chiều cao và thể trọng đều thấp hơn mức bình quân của trẻ cùng tuổi (trừ nhân tố di truyền ra). Thời gian chán ăn thì chiều cao và thể trọng không tăng.
  6. Đầu vú béo phì to hoặc teo lại.
  7. Sau khi khử được nguyên nhân gây bệnh, ăn uống dần dần trở lại bình thường.

NHẬN THỨC CỦA ĐÔNG Y ĐỐI VỚI CHỨNG CHÁN ĂN

Đông y cho rằng nguyên nhân dẫn đến chán ăn, phần lớn không ngoài các nguyên nhân đờm thấp sinh sôi, bị nhiễm các loại giun, tỳ vị suy yếu, vị âm không đủ và cho ăn sữa vô hạn độ.

  1. Ăn sữa không giới hạn

Đông y cho rằng “sữa quý có lúc, ăn quý có mức” theo nguyên tắc đó mà nuôi dưỡng trẻ sao cho hợp lí. Ăn uống không có quy luật, không có tiết chế có thể dẫn đến tổn thương tỳ vị, chức năng tiếp nhận vận tải chuyên hóa giảm yếu, xuất hiện chán ăn.

  1. Đờm thấp sinh sôi

Trẻ con thích ăn hoa quả sống lạnh, cho trẻ ăn nhiều thức ăn mát lạnh sẽ dẫn đến tổn thương tỳ dương, đờm thấp sinh sôi bên trong, gây tắc nghẹt trung châu, ảnh hưởng chức năng tiêu hóa của tỳ vị, xuất hiện chán ăn.

  1. Giun tích tổn thương tỳ

Tỳ vị của trẻ còn rất yếu, ăn uống không sạch sẽ hoặc có thói quen mút ngón tay dễ bị chứng giun đường ruột. Giun tích gây rối loạn tỳ vị khí cơ, ảnh hưởng đến tiêu hóa hấp thụ, dẫn đến chán ăn.

  1. Vị âm không đủ

Vị (dạ dày) thích nhuận mượt, phần âm của tố thể không đủ, hoặc là bệnh nhiệt làm tổn hao dịch âm, hoặc là ăn nhiều thức ăn xào rán, chất nhuận mượt của dạ dày bị thiêu đốt, vị âm không đủ, mà mất đi sự nhu nhuận nên không thể làm mục ải được gạo nước bình thường tất yếu dẫn đến chán ăn.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ UỐN NẮN CHỨNG CHÁN ĂN KHÔNG PHẢI DO BỆNH TẬT GÂY NÊN

Nếu như sự chán ăn của trẻ hoàn toàn không phải do bệnh tật gây nên, vậy thì cha mẹ cần phải tiến hành điều phối một cách hợp lí cho trẻ về tập quán ăn uống, kết cấu ăn uống và môi trường ăn uống.

  1. Quy định giờ ăn, khống chế ăn vặt thích đáng

Cái gọi là định giờ ăn, có nghĩa là ăn theo bữa ăn. ăn chính của trẻ con bao gồm ăn sáng, ăn trưa, điểm tâm sau bữa trưa và ăn tối, hình thành quy luật 3 ăn 1 điểm, hệ thống tiêu hóa mới có thể “làm việc” có lao động, có nghỉ ngơi, khi đến bữa ăn chính mới cảm thấy thèm ăn ngon lành. Tuyệt đối không cho trẻ ăn vặt là điều không hiện thực, mấu chốt của vấn đề là không được cho ăn nhiều quá, không thể chen lấn bữa ăn chính, càng không thể thay ăn chính. Quà vặt không thể muốn ăn là ăn, phải sắp xếp giữa hai bữa ăn chính, hoặc tiến hành sau bữa ăn, nếu không sẽ ảnh hưởng sự thèm ăn.

  1. Phải tiết chế ăn ngọt và uống lạnh

Uống lạnh và ăn ngọt đem lại cảm giác ngon miệng, mùi vị thơm, trẻ con đều thích ăn, nhưng cả hai loại thực phẩm này đều ảnh hưởng đến sự thèm ăn. Đông y cho .rằng uống lạnh tổn thương tỳ vị, Tây y cho rằng nó giảm thấp chức năng đường tiêu hóa, ảnh hưởng sự phân tiết của dịch tiêu hóa. Ăn ngọt ăn nhiều quá cũng có hại cho dạ dày. cả hai loại thực phẩm này có tác dụng làm no bụng lâu, ảnh hưởng bữa ăn chính, cho nên cần phải điều tiết và khống chế. Tốt nhất là sắp xếp giữa hai bữa ăn chính, hoặc là sau bữa ăn chính trong 1 giờ.

  1. Phân phối hợp lí về ăn uống

Chất dinh dưỡng cần cho sinh trưởng và phát dục của trẻ phải dựa vào sự thu hút từ trong thức ăn, nhưng nhu cầu đối với số chất dinh dưỡng này, hoàn toàn không phải số lượng bằng nhau, có chất dinh dưỡng cần nhiều, có chất dinh dưỡng cần ít, cho nên các phụ huynh cần có tri thức về vấn đề này, chú ý tỉ lệ giữa các chất dinh dưỡng để tìm sự cân bằng trong ăn uống. Hằng ngày không chỉ ăn thịt, sữa, trứng, đậu, mà còn phải ăn lương thực, ngũ cốc, rau xanh, hoa quả. Mỗi bữa ăn yêu cầu phân phối đủ các chất, thô mịn, khô loãng, nếu như phân phối không đúng, sẽ ảnh hưởng sự thèm ăn của trẻ. Như ăn nhiều các loại thịt, sữa, trứng, đậu, những thứ này giàu chất mỡ béo và protein, thời gian nằm trong dạ dày sẽ kéo dài, đến bữa cơm sẽ không muốn ăn, lương thực phụ, rau xanh, hoa quả, ăn được ít, chất Cellulose trong đường tiêu hóa sẽ ít dễ dàng dẫn đến táo bón.

Ngoài đó, có một số quả cây nếu ăn vào quá nhiều sẽ dễ sản sinh tác dụng phụ. Ăn quýt nhiều “thượng hỏa”, ăn lê nhiều tổn thương tỳ vị, ăn hồng nhiều sẽ bí tiện. Các nhân tố đó sẽ ảnh hưởng hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đến sự thèm ăn của trẻ.

  1. Coi trọng phương pháp chế biến

Qua chế biến, kết cấu của thức ăn đã thay đổi, sự thay đổi đó dễ tiêu hóa và hấp thụ. Nhưng chế biến thức ăn, nhất thiết phải thích hợp đặc điểm lứa tuổi của trẻ. Như sau khi cai sữa, khả năng tiêu hóa của trẻ còn tương đối yếu, cho nên món ăn yêu cầu phải làm được mịn, mềm, nhừ; tùy theo sự tăng trưởng của lứa tuổi, năng lực nhai của trẻ cũng tăng lên, gia công món ăn cũng dần dần có xu hướng thô lên. Khi trẻ 4 – 5 tuổi là có thể ăn cơm và thức ăn như người lớn. Để xúc tiến sự thèm ăn, khi nấu nướng cần chú ý đến màu sắc, hương vị, hình dạng của thức ăn, có như thế mới nâng cao sự hứng thú trong bữa ăn của trẻ.

  1. Đề phòng ăn chọn và ăn thiên một món

Ăn chọn và ăn thiên về một món sẽ ảnh hưởng đến dinh dưỡng mà cơ thể cần hấp thụ trong các loại thức ăn cho trẻ, vô cùng bất lợi đối với thân thể của trẻ. Muốn uốn nắn tập quán ăn uống không tốt này, thì phải bắt đầu từ giáo dục ngay từ đầu.

  • Các phụ huynh không nên mang đến cho trẻ những ham thích riêng của mình, cũng không làm theo trẻ con nói tự mình không thích ăn cái gì, cũng không cưỡng bức trẻ ăn cơm và thức ăn lúc mà trẻ không thích ăn.
  • Cơm và thức ăn mà trẻ thích ăn phải hạn chế một cách thích đáng, đề phòng ăn quá nhiều tổn thương đến tỳ vị.
  • Thường xuyên biến đổi các kiểu loại cơm và thức ăn, khiến cho trẻ có cảm giác mới, nâng cao sự thèm ăn của chúng.
  1. Đảm bảo ngủ đầy đủ, hoat động vừa phải, đại tiểu tiện đúng giờ đã đinh

Thời gian ngủ đầy đủ, tinh lực của trẻ dồi dào, cảm giác thèm ăn tăng mạnh, thời gian ngủ không đầy đủ, mỏi mệt buồn bã, trẻ không có cảm giác thèm ăn, ngày tháng kéo dài còn có thể gầy còm. Hoạt động vừa phải có thể xúc tiến quá trình trao đổi chất, tăng nhanh tiêu hao năng lượng, xúc tiến sự thèm ăn. Tóm lại chế độ sinh hoạt hợp lí có thể lôi cuốn, điều động, bảo vệ và xúc tiến sự thèm ăn.

  1. Cải thiện môi trường ăn uống

Trẻ em và người lớn khác nhau, sức chú ý dễ bị chuyển dịch. Như khi ăn, người lớn cười nói quá nhiều, nghe phát thanh, xem tivi sức chú ý tập trung khi ăn cơm của trẻ dễ dàng bị phân tán, sự hứng thú trong khi ăn cơm cũng tiêu tan theo, động tác ăn cơm cũng sẽ dừng lại. Cho nên cần phải tránh các loại làm nhiễu, để cho trẻ tập trung vào bữa ăn.

Trẻ con chịu ăn là việc vui, các phụ huynh đừng can thiệp vào quá nhiều, càng không thể cưỡng bức trẻ ăn uống. Nếu không trẻ cảm thấy có sức ép, sẽ có thể ức chế yêu cầu ăn uống, phải chú ý đảm bảo cho trẻ có tinh thần trong bữa ăn thật vui vẻ. Có một số gia đình trong khi ăn cơm, giữa vợ chồng, giữa mẹ chồng con dâu nổ ra sự cãi nhau kịch liệt, trong không khí căng thẳng như vậy, trẻ con không thể có sự thèm ăn được. Cho nên, không nên để xảy ra mâu thuẫn nhau trên bàn ăn, cố gắng tạo ra cho trẻ một không khí gia đình hòa thuận, yên tĩnh. Ngoài ra cố gắng để cho trẻ cùng ăn chung với người lớn, như vậy có thể nâng cao tính tích cực ăn uống của trẻ.

ĐIỀU TRỊ CHỨNG CHÁN ĂN

Điều trị chứng chán ăn của trẻ cũng có nhiều loại, nhiều kiểu.

  1. Dược chẩm liệu pháp (liệu pháp gối thuốc)
  • Tỳ làm việc kém

Lấy màng mề gà (kê nội kim) 20g, Tiêu tam tiên 45g, Củ cải 100g, Hậu phác Sơn tra, Hoắc hương, Bội lan mỗi thứ 50g, phân biệt sấy khô, nghiền vụn chung, trộn đều, cho vào trong gổì, làm thành gối thuốc.

  • Vị âm không đủ

Mạch môn, Cát căn, Sa sâm mỗi thứ 500g, Thạch hộc, Sa nhân, Thái tử sâm, Thiên hoa phấn mỗi thứ 200g, Trầm hương 100g. Các thuốc trên, phân biệt sấy khô, đập vụn chung, trộn đều, đóng vào ruột gối, làm thành gối thuốc.

  • Tỳ vị hư hàn

Lấy Nhũ hương, Bào khương, Phụ tử mỗi thứ 500g. Lương khương, Trầm hương, Hương phụ mỗi thứ 200g, Lưu hoàng 400g. Các thứ thuốc nói trên đem sấy khô, đập vụn thô, cho vào ruột gối, làm thành gối thuốc.

  1. Liệu pháp đắp rốn
  • Dùng Chỉ thực, Bạch truật, Sa nhân các thứ số lượng bằng nhau, cùng nghiền thành bột mịn để dùng. Đem bột thuốc đó trộn nhào với nước trà thành viên nhỏ nhét vào rốn, bên ngoài đắp thuốc lên, lấy băng dính giữ kín. Giờ đắp thuốc là giờ dần (3 – 5 giờ), đắp liền 3 ngày, thường thường đắp 1 lần là khỏi, khi cần thiết thì đắp hai lần.
  • Sinh hạnh nhân, Chi tử (quả dành dành), Tiểu hồng táo, số lượng các thứ vừa phải. Các thuốc trên lượng thuốc đều lấy đối với nữ mỗi thứ 7 hạt, nam mỗi thứ 8 hạt, nghiền bột, cho thêm một nhúm hạt kê, chế biến thành thuốc cao, dán lên chỗ rốn. Chữa bệnh đầy bụng ăn không tiêu, chán ăn.
  • Sinh sơn tra 9g, Trần bì, Bạch truật mỗi thứ 6g, đem các thứ thuốc trên nghiền thành bột mịn, đắp lên rốn, mỗi ngày thay thuốc 2 lần, liên tục 3 – 5 ngày.
  • Sinh chi tử 9g nghiền mịn, cho thêm bột mì, lòng trắng trứng cùng chế thành 3 cái bánh, lần lượt đắp lên ở rốn hoặc 2 lòng bàn chân, bên ngoài lấy vải băng dính kín lại. Dùng điều trị chứng chán ăn, ăn không tiêu hóa nhiệt.
  • Ngũ bội tử (bội hoàng) 9g, cho ít giấm vừa phải, nhào trộn thành như cao, dát lên vải màn rồi dán ở thóp trêu đỉnh đầu. Dùng chữa chứng chán ăn do tỳ vị yếu.
  1. Liệu pháp châm cứu xoa bóp

a. Phương pháp xoa bóp

  • Bổ tỳ kinh: đem ngón tay cái của trẻ gấp hơi cong lại, rồi dùng ngón cái tay phải xoa từ đầu ngón cái vào chân ngón cái, 100 – 300 lần.
  • Thanh vị kinh: lấy tay trái cầm lấy ngón cái của trẻ, rồi dùng ngón cái của tay phải xoa từ đốt thứ 2 bụng ngón cái vào chân ngón tay trái, 100 – 300 lần.
  • Day trung quản: dùng ngón tay cái day ở chỗ phía trên rốn 3 phân thời gian 1 – 3 phút.

b. Liệu pháp châm cứu

Phương pháp: trước tiên dùng kim 3 cạnh châm ở huyệt tứ phùng hai bên, và đồng thời nặn ra một ít niêm dịch màu vàng trắng. Sau đó đốt ngải cứu ở Túc tam lí, Thi tước trác pháp (xê dịch ngải lên xuống) 3 – 5 phút, có thể cách 2 ngày châm cứu 1 lần. Thường thường làm 2 – 3 lần sau đó sẽ thèm ăn.

c. Liệu pháp bấm huyệt tai

Lấy huyệt: tỳ, vị, tiểu tràng. Dùng phương pháp ấn xuống và giữ nguyên, mồi ngày bấm 3 – 4 lần, lần lượt mỗi huyệt bấm giữ 2 phút, áp lực quyết định bởi sức chịu đựng của cá nhân. Hai tai thay đổi có thể cách 1 – 2 ngày thay đổi một lần, 5 lần là một liệu trình.

  1. Liệu pháp giác
  • Trung quản, Thiên khu, Khí hải, Vị du, Tỳ du, Túc tam lí, Kiến lí dùng phương pháp giác đơn thuần hoặc phương pháp giác châm chích kinh lạc, giữ ống giác thời gian 10 – 15 phút, cách ngày giác 1 lần, 5 lần là một liệu trình.
  • Trước tiên lấy 8-12 huyệt giáp tích cột sống ngực, phần lưng, huyệt Tỳ du, huyệt Vị du, giác lần lượt, làm cho da xung huyết tím, sau đó tiếp tục lấy huyệt trung quản. Quan nguyên, Túc tam lí, giác 5 – 10 phút, cách một ngày một lần, 5 lần là một liệu trình.
  • Trước tiên giác ở huyệt thượng quản để 10 phút, sau đó dùng kim châm – châm 2 bên cột sống cho xuất huyết, đồng thời giác ở các huyệt Cách du, Can du, Vị du để 10 phút. Có thể phối hợp dùng kim 3 cạnh chích ở huyệt Tứ phùng, Túc tam lí cho xuất huyết, cách một ngày một lần.
  1. Liệu pháp trà thuốc (dược trà)

Liệu pháp dược trà, là đem thuốc bắc hoặc thức ăn gia công thành miếng nhỏ hoặc thành dạng lá, khi dùng lấy nước sôi ngâm trực tiếp hoặc sau khi đun sôi qua lọc sẽ được uống bình thường thay cho uống trà. Thao tác đơn giản, dễ làm.

  • Màng mề gà 3g nghiền thành bột mịn, uống với nước đã đun sôi, ngày uống 3 lần, uống thay nước trà. Chủ trị trẻ em chán ăn.
  • Quả trám: ngày 5 quả, ngâm nước sôi uống thay trà, chủ trị chứng chán ăn cho những người vị âm không đủ.
  • Củ cà rốt 250g, sắc nước, cho vào một ít đường đỏ, uống thay trà, chủ trị trẻ chán ăn, đầy bụng, ăn không tiêu, ỉa chảy không cầm, khóc quấy ngủ không yên.

LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÒNG NGỪA CHỨNG CHÁN ĂN DO BỆNH TẬT

Muốn làm cho trẻ coi bữa ăn là một việc vui phấn khỏi, trước hết phải đảm bảo cho trẻ có một thân thể khỏe mạnh. Muốn điều trị chứng chán ăn của trẻ, trước tiên chúng ta phải phòng chống những tật bệnh vốn có. Sau đây xin giới thiệu những bệnh tật thường thấy.

  1. Phòng bệnh gầy còm
  • Bà mẹ mang thai nên tắm nắng nhiều, 3 tháng sau khi có thai mỗi ngày nên uống vitamin D 400đvị quốc tế.
  • Nuôi dưỡng bằng sữa mẹ.
  • Trẻ mới sinh ra sau nửa tháng, bắt đầu cho uống mỗi ngày một giọt dầu gan cá cô đặc, cùng với sự tăng trưởng lứa tuổi tăng dần dần số giọt. Như đến 2 tháng thì mỗi ngày 2 giọt, 3 tháng thì mỗi ngày 3 giọt, đến 4 tháng trở đi cứ mỗi ngày 4 giọt là được.
  • Đặt trẻ ra tắm nắng, mỗi ngày ít nhất tắm nắng cho được 2 giờ, bởi vì tia tử ngoại trong ánh sáng mặt trời có thể đem Cholesterol khử H, trong da chuyển hóa thành sinh tố D:j xúc tiến hấp thụ Canxi. Nếu tắm nắng trong phòng, phải mở cửa sổ để tránh tấm kính ngăn cách mất tia tử ngoại, ngày hè nắng gắt nên cho trẻ ra chơi tắm nắng ở dưới bóng râm của cây, tránh chỗ nắng làm tổn thương da của trẻ.
  • Bà mẹ mang thai nên ăn các thức ăn như các loại gan, sữa bò, bơ, trứng cá, lòng đỏ trứng.
  • Trẻ sơ sinh nuôi dưỡng bằng thức ăn ngoài nên cho ăn Vitamin AD sữa bò cường hóa, sữa AD mỗi lít có chứa Vitamin A 2000 đơn vị quốc tế, vitamin D 600 đơn vị quốc tế, là phương pháp kinh tế, hữu hiệu, thuận tiện và an toàn nhất để dự phòng thiếu hụt và quá lượng vitamin A và vitamin D. Khi ăn sữa AD trẻ sơ sinh không cần tăng thêm thuốc vitamin D.
  1. Đề phòng ngộ độc vitamin
  • Các phụ huynh cần hiểu rõ, dầu gan cá cô đặc là vị thuốc dự phòng và điều trị bệnh CÒI xương và chứng thiếu hụt vitamin A, không phải là sản phẩm dinh dưỡng, phải uống theo đơn thuốc của bác sĩ, không được tăng lượng một cách tùy tiện.
  • Trẻ cần phải được khống chế tốt lượng vitamin A, D, không được lạm dụng, cố gắng uống theo lượng trong đơn, đề phòng ngộ độc.
  • Bác sĩ cần phải không chế tốt lượng Vitamin A, D không được lạm dụng. Cố gắng uống theo lượng trong đơn, để phòng ngộ độc.
  • Hiện nay vẫn chưa biết rõ lượng chất trúng độc vitamin D như thế nào, cho nên trong thời gian uống dầu gan cá, các phụ huynh phải thường xuyên quan sát biểu hiện của trẻ, nếu có hiện tượng ngộ độc thì phải kịp thời đưa vào bệnh viện kiểm tra.
  1. Dự phòng chứng thiếu hụt kẽm (Zn)
  • Kết cấu ăn uống, cố gắng đạt cho được mức hợp lí, cân bằng, uốn nắn thói quen ăn chọn, ăn thiên một món.
  • Ăn nhiều thức ăn có chứa nhiều kẽm như thịt, trứng, sữa, cá, quả có vỏ cứng, quả khô.
  1. Dự phòng chứng thiếu máu do thiếu sắt
  • Trẻ bị đẻ non, hai tháng sau khi sinh ra, trẻ đẻ đủ tháng thì sau khi sinh ra 4 tháng, bắt đầu bổ sung chất sắt, mỗi ngày bổ sung 10 microgam.
  • 6 tháng bắt đầu cho thêm thức ăn phụ giàu chất sắt như các chế phẩm thịt nạc, gan, huyết và chế phẩm đậu nành.
  • Để xướng đun nấu thức ăn bằng nồi sắt để cung cấp thêm lượng sắt, dùng nồi sắt để nấu cơm, mỗi kg cơm có thể tăng thêm 26 micro gam sắt.
  1. Dự phòng trẻ bí tiện
  • Phải cân bằng ăn uống, uốn nắn tập quán ăn chọn, ăn thiên một món, nên ăn nhiều rau xanh, hoa quả.
  • Khuyến khích trẻ con hoạt động nhiều, tăng sức mạnh của cơ bắp tham gia vào đại tiện, xây dựng thành thói quen hằng ngày đại tiện đúng giờ.
  1. Dự phòng chứng chán ăn do thần kinh dẫn đến
  • Bảo vệ cho trẻ tránh chịu những kích thích về tinh thần.
  • Không nên chú ý quá về số lượng ăn uống của trẻ, để tránh xảy ra những ảnh hưởng tâm lí không tốt.
  • Thức ăn mà trẻ cự tuyệt không ăn, không nên cưỡng bức một cách thô bạo bắt trẻ phải ăn, để tránh dẫn đến cho trẻ cảm giác chống đối. Có thể biến đổi phương thức chế biến, gây cho trẻ có hứng thú.
  • Đối với những trẻ mà khả năng thích ứng với môi trường yếu kém, khi vào nhà trẻ, bố mẹ và cô giáo phải có sự quan tâm nhiều hơn.
  • Con gái đến thời thanh xuân, không dùng thuốc giảm béo.
  1. Dự phòng chứng rối loạn chức năng tiêu hóa của trẻ
  • Kết cấu bữa ăn hàng ngày hợp lí, ăn đúng giờ đúng lượng, đề phòng ăn chọn, ăn thiên một món, tiết chế ăn lạnh, uống lạnh, tránh ăn uống bạt mạng.
  • Nếu có dị ứng với các thức ăn như sữa bò, trứng gà và cá thì nên kiêng những thức ăn đó.
  • Đề phòng lạm dụng thuốc, thuốc kháng sinh có tính phổ kháng khuẩn càng rộng, thì khuẩn của đường ruột mất tác dụng cũng càng nghiêm trọng.

Đinh lăng

ĐINH LĂNG

Tên khác: Cây gỏi cá, Nam dương lâm.

Tên khoa học: Tieghemopanax fruticosus Vig. = Panax fruticosum L. = Polyscias fruticosa Harms, họ Ngũ gia (Araliaceae).

Mô tả: Đinh lăng thuộc loại cây nhỏ, cao 0,8-1,5m. Cây có lá kép, mọc so le, lá 3 lần xẻ lông chim, mép khía có răng cưa. Hoa nhỏ, màu trắng xám, tụ tập thành chùm tụ tán ở đầu cành. Quả dẹt, dài 3-4mm, dày khoảng 1mm. Lá đinh lăng phơi khô, nấu lên có mùi thơm đặc trưng, dân gian gọi nôm na là mùi “thuốc bắc”. Lá tươi không có mùi thơm này. Mùa hoa quả: tháng 4 – 7.

Bộ phận dùng: Rễ, thân, cành, lá.

Phân bố: Cây được trồng làm cảnh, làm thuốc khắp nơi trong nước ta.

Thu hái: Rễ, thu hái vào mùa thu ở cây đã trồng từ 3 năm trở lên; thái lát phơi hoặc sấy khô.

Tác dụng dược lý:

Tăng biên độ điện thế não, tăng tỉ lệ các sóng alpha, bêta và giảm tỉ lệ sóng delta. Những biến đổi này diễn ra ở vỏ não mạnh hơn so với ở thể lưới.

Tăng khả năng tiếp nhận của các tế bào thần kinh vỏ não với các kích thích ánh sáng.

Tăng nhẹ quá trình hưng phấn khi thực hiện phản xạ trong mê lộ.

Tăng hoạt động phản xạ có điều kiện gồm phản xạ dương tính và phản xạ phân biệt.

Thành phần hoá học: Saponin triterpenic.

Công năng: Rễ đinh lăng có tác dụng thông huyết mạch, bồi bổ khí huyết, lá có tác dụng giải độc thức ăn, chống dị ứng, chữa ho ra máu, kiết lỵ.

Công dụng: Chữa cơ thể suy nhược, tiêu hoá kém, sốt, sưng vú, ít sữa, nhức đầu, ho, ho ra máu, thấp khớp, đau lưng.

Cách dùng, liều lượng: Ngày 1-6g rễ hoặc 30-50g thân, cành dùng dưới dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu. Lá tươi (50-100g) nấu cháo để ăn, lợi sữa, giã đắp chữa vết thương, mụn nhọt, lá còn dùng để ăn gỏi cá.

Bài thuốc:

+Bồi bổ cơ thể, ngừa dị ứng: Lá đinh lăng tươi từ 150-200g, nấu sôi khoảng 200ml nước (có thể dùng nước sôi có sẵn ở “phích”). Cho tất cả lá đinh lăng vào nồi, đậy nắp lại, sau vài phút, mở nắp và đảo qua đảo lại vài lần. Sau 5-7 phút, chắt ra để uống nước đầu tiên, đổ tiếp thêm khoảng 200ml nước vào để nấu sôi lại nước thứ hai. Cách dùng lá tươi thuận tiện vì không phải dự trữ, không tốn thời gian nấu lâu, lượng nước ít, người bệnh dễ uống nhưng vẫn đảm bảo được lượng hoạt chất cần thiết.

+Chữa tắc tia sữa: Rễ đinh lăng 40g, gừng tươi 3 lát, đổ 500ml nước sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống khi thuốc còn nóng.

+Chữa nổi mề đay, mẩn ngứa do dị ứng: Lá đinh lăng khô 80g, đổ 500ml nước sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày.

+Ho suyễn lâu năm: Rễ đinh lăng, bách bộ, đậu săn, rễ cây dâu, nghệ vàng, rau tần dày lá tất cả đều 8g, củ xương bồ 6g; Gừng khô 4g, đổ 600ml sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống lúc thuốc còn nóng.

+Phong thấp, thấp khớp: Rễ đinh lăng 12g; Cối xay, hà thủ ô, huyết rồng, cỏ rễ xước, thiên niên kiện tất cả 08g; Vỏ quít, quế chi 04g (Riêng vị quế chi bỏ vào sau cùng khi sắp nhắc ấm thuốc xuống). Đổ 600ml nước sắc còn 250ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống khi thuốc còn nóng.

Chú ý: Loài Đinh lăng lá tròn (Polyscias balfourii Baill.) thường trồng làm cảnh cũng được dùng với công dụng tương tự.

Geldène

Thuốc Geldene
Thuốc Geldene

GELDÈNE

PFIZER

Gel dùng ngoài da 0,5%: ống 50 g.

THÀNH PHẦN

cho 100 g
Piroxicam 500 mg
(Ethanol 95%) (25 g)

DƯỢC LỰC

Piroxicam là thuốc kháng viêm không stéroide thuộc họ oxicam.

Dùng xoa bóp ngoài da, piroxicam có tác dụng kháng viêm và giảm đau.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Ở người, sau khi bôi liều duy nhất 3 g Geldène (tương ứng 15 mg piroxicam) và lau phần dư sau 8 giờ, đỉnh hấp thu trong huyết tương trung bình là 147 ng/ml, đạt được khoảng 23 giờ sau khi bôi thuốc, chiếm tỉ lệ 1/15 so với uống cùng liều.

Sau khi bôi 2 g gel, 2 lần/ngày (tương ứng với liều hàng ngày là 20 mg piroxicam), các nồng độ trong huyết tương ở tình trạng cân bằng đạt được từ 300 đến 400 ng/ml tương ứng khoảng 5% so với nồng độ quan sát được khi dùng 20 mg piroxicam bằng đường uống hoặc tiêm bắp. Như đối với dạng uống, thời gian bán hủy trong huyết tương khoảng 50 giờ.

Một lượng lớn được đào thải qua nước tiểu dưới dạng chuyển hóa.

CHỈ ĐỊNH

Geldène được chỉ định trong trường hợp viêm và đau trong thoái hóa khớp, sau chấn thương hoặc các rối loạn cấp tính của hệ cơ xương như viêm gân, viêm bao gân, viêm quanh khớp, bong gân, đau thắt lưng.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Không sử dụng Geldène ở những bệnh nhân nhạy cảm với dạng gel hoặc piroxicam dưới bất kỳ dạng bào chế nào, không sử dụng với bệnh nhân có phản ứng chéo với aspirine và các kháng viêm không stéroide khác.

Không sử dụng Geldène ở những bệnh nhân khi dùng aspirine và các kháng viêm không stéroide khác có các triệu chứng như hen, viêm mũi, phù hoặc nổi mề đay.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG

Nếu có phản ứng da tại chỗ phải ngưng thuốc ngay và chuyển sang chế độ điều trị cần thiết khác. Không bôi lên mắt, niêm mạc, vết thương hở.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Không dùng dưới lớp băng bít.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Mặc dù không có tác động sinh quái thai của piroxicam dùng đường uống khi thử nghiệm trên động vật nhưng tính an toàn trong thời kỳ mang thai và cho con bú chưa được xác định. Không nên sử dụng piroxicam cho phụ nữ có thai và cho con bú.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Phản ứng dị ứng tại chỗ (ngứa, đỏ da, ban, da tróc vẩy) hiếm gặp. Da hơi có màu vàng thoáng qua, có thể gây bẩn quần áo nếu không xoa cho tan hết gel.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Dùng ngoài da.

Bôi thuốc lên chỗ tổn thương và xoa nhẹ 2-4 lần/ngày với lượng tương ứng 15-20 mg piroxicam/ngày.

Siêu âm chẩn đoán Bệnh lý túi mật

Siêu âm giúp chẩn đoán khá nhiều bệnh lý túi mật:

1.    Sỏi túi mật:

  • Có thể gặp sỏi nhỏ thành hình nốt đậm âm, kèm bóng cản âm hoặc không.
  • Sỏi to: thể hiện bằng hình vòng cung đậm âm kèm bóng cản âm rõ (siêu âm phát hiện được cả loại sỏi cản quang và không cản quang).
  • Sỏi thường di động trong túi mật và vị trí thay đổi theo tư thế bệnh nhân. Đôi khi cũng gặp sỏi kẹt ở cổ túi mật hoặc đoạn cuối của ống túi mật. Sỏi túi mật thường kèm theo viêm túi mật.
  1. Túi mật tích nước: (Hydrocholecyste) thường là hậu quả của sỏi kẹt ở cổ túi mật hoặc ở ống túi mật. Dấu hiệu siêu âm là túi mật giãn to một mình. Trong khi đường mật trong ngoài gan không giãn: dịch mật trong đều, trong trường hợp này phải cố gắng tìm hình sỏi kẹt. Nếu lâu ngày sẽ có hình túi mật tích mủ (pyocholecyste): túi mật giãn to dịch mật không đều và có nhiều hình đậm của mủ, không kèm bóng cản âm.
  1. Bùn mật: Trong túi mật dịch mật chia thành hai lớp: lớp trên là dịch mật trong rỗng âm, lớp dưới là dịch mật đặc đậm âm, giữa hai lớp có đường kính giới hạn thẳng ngang, bùn mật có thể di chuyển trong túi mật tùy theo tư thế bệnh nhân.

4.   Viêm túi mật:

Trong viêm túi mật cấp thấy các dấu hiệu siêu âm sau đây: có điểm đau rõ rệt khi ấn đầu dò vào túi mật (điểm Murphy siêu âm) thành túi mật dầy trên 0,3cm và nhiều khi thành hình hai bờ (hai lớp đậm âm cách nhau bởi một lớp giảm âm). Nếu có khí thũng thành túi mật sẽ thấy một vệt sáng của khí nằm trong thành. Nếu có thấm phúc mạc có thể thấy hình dịch rỗng âm quanh túi mật hoặc ở túi MORISSON giữa gan và thận phải. Đám quánh túi mật thể hiện bằng hình một khối đậm âm quanh túi mật. Trong trường hợp có cả sỏi và viêm túi mật sẽ thấy trên hình nốt đậm âm kèm bóng cản âm trong túi mật.

Trong viêm túi mật mạn thành túi mật thường rất dầy (0,8 – lcm) túi mật có thể bị biến dạng (hình hai túi, hình móc câu). Thể tích túi mật có thể bình thường hoặc thu nhỏ trong trường hợp viên túi mật xơ teo. Nhiều khi túi mật chứa đầy sỏi không còn thấy dịch mật nữa thể hiện một đám đậm âm không đều. Trong trường hợp túi mật hóa sứ (Vésiculêproceelaine) thành túi mật bị vôi hóa tạo thành hình một vòng cung đậm âm kèm bóng cản âm rộng (hình vỏ sò).

U túi mật gồm hai loại: u lành tính và ung thư. U lành tính của túi mật ít gặp đa số là u nhú (Papillome) và polype thể hiện bằng khối đặc tròn nhỏ bờ đều chân rộng hoặc có cuống bám vào mặt trong thành túi mật, không có bóng cản âm. Ung thư túi mật tạo thành hình một khối đặc bờ nham nhở không đều chân rộng không thèm theo bóng cản âm nằm ở mặt trong thành túi mật, ở giai đoạn muộn ung thư lan ra mặt ngoài thành túi mật và xâm lấn vào gan hoặc chèn ép ống mật chủ. Khác với sỏi túi mật u túi mật không có bóng cản âm và bám vào một vùng cố định của thành túi mật, không thay đổi vị trí theo tư thế bệnh nhân.

 

Hội chứng chuyển hóa là gì?

Thực tế những dấu hiệu quan trọng của hội chứng này được Morgagni mô tả từ rất lâu, khi ông có nhận xét rằng “Xơ vữa mạch và béo tạng thường hay gặp ở những người con nhà dòng dõi”. Ông mô tả đó là những người có đặc điểm công việc là “làm việc nghiên cứu sách vở, có cuộc sống tĩnh tại, thời gian ngồi làm việc nhiều hơn là vận động, người thường có những bữa ăn thừa năng lượng” – tức là không phải ở những người lao động chân tay, không phải người có hoạt động thể lực nặng.

Sau đó, Kylin năm 1923, đã có mô tả những dấu hiệu có liên quan đến nhóm các triệu chứng này.

Một sự kiện quan trọng khác cần được ghi nhận đó là, năm 1947, Vague đã chia béo phì ra làm hai loại, béo “Gynoid” và “Anđroi”. Béo gynoid được đặc trưng bởi sự tập trung của mô mỡ ở quanh đùi và mông, trong khi béo anđroi đặc trưng bởi sự tập trung của mô mỡ ở bụng. Béo anđroi có liên quan nhiều đến kháng insulin. Những tiền đề quan trọng khác để người ta đưa ra khái niệm Hội chứng chuyển hóa tiếp theo là việc tìm ra mổi liên quan giữa các acid béo tự do( FFA) và nồng độ insulin, là kỹ thuật kẹp insulin glucose máu bình thường. Cuối cùng là hàng loạt các khái niệm khác được hoàn thiện như quá trình tiếp nhận glucose được insulin hoạt hóa, các tiêu chuẩn về rối loạn chuyển hoá lipid, những tiêu chuẩn về tăng huyết áp… Tất cả đã giúp cho ra đời một “Hội chứng X chuyển hóa”.

Năm 1988, Gerald Reaven mô tả “ Hội chứng X”, bao gồm một nhóm các yếu tố nguy cơ của bệnh lý mạch vành như tăng huyết áp, tăng glucose máu, tăng triglycerid và hạ HDL-C trong máu. Reaven cũng đưa ra giả thuyết coi kháng insulin có vai trò trung tâm trong cơ chế bệnh sinh của “Hội chứng x\ Bởi vậy còn có những tên gọi khác là “Hội chứng kháng insulin”, “ Hội chứng Reaven”. Hội chứng này cũng còn được các nhà dịch tễ Australia bổ sung thành hội chứng CHAO bao gồm các bệnh mạch vành, tăng huyết áp, xơ vữa mạch, béo phì và đột quỵ (Coronary artery diesea, Hypertention, A therosclerosis, Obesity and Stroke).

Ngay từ khi vừa mới được công bố, hội chứng này đã gây ra nhiều tranh cãi trong giới y học. Thậm chí có nhiều người đã từng đặt câu hỏi “Hội chứng chuyển hóa có phải là sự huyền hoặc?”.

Trong thực tế, hội chứng bao gồm một nhóm các triệu chứng và dấu hiệu thường gặp trong các bệnh “có tính chất chuyển hóa” – nhất là nhóm bệnh nội tiết – tim mạch. Cũng trong thời gian này nhiều tác giả với những nghiên cứu khác nhau đã từng bước thống nhất các tên gọi, các tiêu chuẩn chẩn đoán:

  • Hội chứng chuyển hóa (Metabolism syndrom).
  • Hội chứng rối loạn chuyển hóa (Dysmetabolism syndrom).
  • Hội chứng kháng insulin (Insulin Resistance syndrom).
  • Hội chứng X ( X syndrom).

Nhìn chung các tác giả, sau này là nhóm các tác giả, xuất phát từ mục đích nghiên cứu của mình để đưa ra những tiêu chuẩn riêng biệt, phục vụ cho mục tiêu phòng chống bệnh tật mà nhóm đó theo đuổi. Song thực tế, ngoài phần đặc điểm của riêng mình, họ đều có những tiêu chí chẩn đoán chung. Cũng năm 1998, một nhóm các chuyên gia của WHO xác định vị trí của hội chứng này và gọi là “Hội chứng chuyển hóa” và khuyến cáo không nên gọi là “Hội chứng kháng insulin”. Các chuyên gia đã nêu nguyên nhân chính của việc gọi tên này là do hiện tượng kháng insulin không phải là nguyên nhân cơ bản của tất cả các yếu tố nguy cơ tạo nên hội chứng.

Định nghĩa và tiêu chuẩn chẩn đoán

Có nhiều tiêu chuẩn chẩn đoán khác nhau, tuỳ thuộc vào nhóm các tác giả. Chúng tôi xin giới thiệu một số các tiêu chuẩn chẩn đoán khác nhau đế bạn đọc tham khảo.

Tiêu chuẩn chẩn đoán của WHO

Đây là tiêu chuẩn đang được áp dụng phổ biến nhất.

  • Tiêu chí hắt buộc là kháng insulin (tiêu chí A)

Được xem là có kháng insulin khi có một trong các biểu hiện sau:

Đái tháo đường typ 2.

Rối loạn dung nạp glucose máu — IGT- (sau nghiệm pháp OGT).

Suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói – IFG.

Glucose máu bình thường nhưng có tăng insulin máu.

  • Các tiêu chí khác (tiêu chí B)

Tăng huyết áp tâm thu >140mmHg và/hoặc tâm trương > 90 mmHg).

Rối loạn chuyển hoá lipid:

+ Triglycerid >1,7 mmol/l và /hoặc:

+ HDLc <1,0 mmol/l (với nữ) < 0,9 mmol/l(với nam).

Béo bụng:

WHR >0,9 (với nam); >0,85 ( với nữ) Hoặc BMI > 30 (với người châu Âu, châu Mỹ) BMI >27 ( với người châu Á).

Microalbumin niệu dương tính:

Tiêu chuẩn AER > 20 mcg/phút* hoặc Al/Cre >30 mg/g.

Để chẩn đoán xác định có hội chứng chuyển hóa buộc phải có tiêu chí A (một trong 4 điểm của A) thêm vào từ 2 điểm trở lên của tiêu chí B.

Có ý kiến nên chọn tiêu chuẩn tương đương là 20 mg/24giờ.

Tiêu chuẩn của ATPIII thuộc Chương trình giáo dục về cholesterol quốc gia của Hoa Kỳ (NCEP – National Cholesterol Education Program).

  • Glucose máu lúc đói > 5,6 mmol/l.
  • Huyết áp > 130/85 mmHg.
  • Triglycerid >1,7 mmol/l ( > 50 mg/dl).
  • HDL-C < 1,0 mmol/l ở nam; < l,3mmol/l ở nữ.

Các chỉ số trên được đo trong huyết tương của người đến khám bệnh.

  • Béo bụng: Vòng eo: >102cm (với nam); >88cm (với nữ).

(Một số nam có vòng eo 94, nhưng có kháng insulin cũng được coi như người có vòng eo >120cm).

Để xác định có hội chứng chuyển hóa phải có từ 3 tiêu chuẩn trở lên.

Tiêu chuẩn của các nhà Nội tiết học Lâm sàng Mỹ (American Association of Clinical Endocrinologists – AACE).

  • Thừa cân/béo phì ( BMI > 25).
  • Tăng triglycerid >1,7 mmol/l ( >150 mg/dl).
  • HDL-C thấp: Nam <1,04 mmol/l (<40 mg/dl) và Nữ <1,20 mmol/l (<50 mg/dl).
  • Tăng huyết áp: >130/85 mmHg.
  • Nồng độ glucose máu sau thời 2 giờ của OGT test >7 ,8 mmol/l.
  • glucose máu lúc đói từ 6,1 đến 7,0 mmol/l.
  • Các yếu tố nguy cơ khác cũng được tham khảo như tiền sử gia đình có người mắc đái tháo đường typ 2; có tăng huyết áp; có mắc bệnh tim mạch; có hội chứng buồng trứng đa nang; hoặc lối sống tĩnh tại, tuổi cao, hoặc ở trong nhóm người có yếu tố nguy cơ cao giống như người mắc bệnh đái tháo đường.

Tiêu chuẩn của nhóm nghiên cứu về kháng insulin của châu Âu (EGIR – European Group for the study ofinsulin resistance).

  1. Tiêu chí bắt buộc: Có tăng insulin máu
  2. Các tiêu chí khác
  • Tăngglucose máu: Glucose máulúc đói > 6,1 mmol/l
  • Tăng huyết áp: Huyết áp tâm thu >140mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương >90mmHg; hoặc đã điều trị thuốc hạ áp
  • RLCH Lipid khi :

+ Triglycerid >2,0 mmol/l.

+ HDL < l,0mmol/l.

Hoặc + Đã điều trị RLCH lipid.

  • Béo bụng khi vòng eo >90cm với nam > 80cm với nữ.

Để chẩn đoán xác định phải có tăng insulin máu (tiêu chí A ) với ít nhất hai điểm của tiêu chí B.

Tiêu chuẩn của IDF

  1. Béo trung tâm.
  2. Các tiêu chí khác.
  • Tăng triglycerid máu trên 150mg/dl (<l,7mmol/l). Hoặc đã có điều trị các rối loạn lipid máu bằng thuốc.
  • Giảm HDL-C máu

+ Nam: dưới 40mg/dl (0,9mmol/l).

+ Nữ : dưới 50mg/dl (l,lmmol/l).

Hoặc đã có điều trị các rối loạn lipid máu bằng thuốc.

  • Tăng huyết áp khi huyết áp tâm thu > 130mmHg và/hoặc huyết áp tâm trương > 85mmHg. Hoặc đã điều trị các thuốc hạ áp khác.
  • Suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói (FPG) > 5,6mmol/l tương đương > 100mg/dl. Hoặc đã được chẩn đoán và điều trị đái tháo đường typ 2 trước đó.

Chẩn đoán mắc hội chứng chuyển hóa khi có tiêu chuẩn A cộng với ít nhất hai tiêu chí của B.

Một số điểm lưu ý khi đánh giá theo tiêu chuẩn mới của IDF:

  • Khi lượng glucose máu lúc đói (FPG) > 100mg/dl (> 5,6mmol/l), nếu chỉ để xác định có mắc hội chứng chuyển hóa hay không không cần thiết phải tiến hành nghiệm pháp tăng đường máu (OGT).
  • Để chuẩn đoán béo bụng (béo trung tâm) chỉ cần số đo vòng eo. Số đo này khác nhau theo các dân tộc. Khi đánh giá phải dựa vào tiêu chuẩn sinh lý của chính quần thể của quốc gia mình.

Nên tham khảo tiêu chuẩn chẩn đoán của một số quốc gia và khu vực (bảng 16.1).

Một số nhận xét về các tiêu chuẩn chẩn đoán

Vai trò của test dung nạp glucose bằng đường uống (OGT test)

Đánh giá về OGTT (oral Glucose Tolerance Test), có nhiều ý kiến khác nhau, tuỳ theo mục đích của nhóm nghiên cứu. cả WHO và AACE đều sử dụng test này để làm phương tiện tìm tiêu chí đánh giá tình trạng chuyển hóa đường trong khi ATPIII lại ít quan tâm về vấn đề này. Do mục đích chính là xác định mối liên quan giũa hội chứng chuyển hóa với bệnh lý mạch vành, ATP III đã xác định có 6 yếu tố có liên quan:

  • Béo bụng.
  • Rối loạn lipid máu tạo vữa xơ động mạch.
  • Tăng huyết áp.
  • Kháng insulin ± rối loạn dung nạp glucose.
  • Tình trạng dễ viêm nhiễm động mạch.
  • Tình trạng tăng đông.Bảng 16.1: Tiêu chuẩn chẩn đoán Tiêu chí A của hội chứng chuyển hóa của một số khu vực và quốc gia (IDF, 2006).
    Nhóm các quốc gia Số đo vòng eo (cm)
    Các quốc gia châu Âu*
    Nam > 94
    Nữ > 80
    Các quốc gia Nam Á**
    Nam > 90
    Nữ > 80
    Trung Quốc
    Nam > 90
    Nữ >80
    Nhật Bản
    Nam >85
    Nữ > 90
    Người ở Nam và Trung Mỹ Giống như người nam Á***
    Người Phi khu vực Sahara Giống như người châu Âu***
    Vùng Trung đông, Địa Trung Hải Giống như người châu Âu***

*Riêng ở Mỹ vẫn sử dụng tiêu chuẩn theo ATP III, Nam vòng eo lớn khi trên 102cm; Nữ vòng eo lớn khi trên 88,0cm.

**Số liệu lấy từ những người gốc châu Á gốc Ấn Độ.

***Chỉ sử dụng tạm thời trong khi chờ số liệu chính thức.

ATPIII còn phân ra các cấp độ:

  • Nguy cơ nhẹ với bệnh mạch vành như béo phì, ít hoạt động thể lực, chế độ ăn giàu chất tạo xơ vữa.
  • Yếu tố nguy cơ ở mức cao hơn như hút thuốc lá, tăng huyết áp, tăng LDL- c; hạ HDL- c, người cao tuổi.
  • Yếu tố nguy cơ cấp nguy hiểm: tăng triglycerid, tăng VLDL-C, kháng insulin, rối loạn dung nạp glucose, tình trạng tăng viêm ở mạch máu, tình trạng tăng đông máu….

Các tác giả quan tâm đến vấn đề kháng insulin thì lại dùng OGT test như một phương tiện chẩn đoán. Như tiêu chuẩn của WHO chẳng hạn, các chuyên gia cho rằng, hội chứng chuyển hóa đã có ngay từ khi có dấu hiệu kháng insulin, tức là có biểu hiện tăng insulin máu mà glucose máu vẫn ở mức bình thường.

Có lẽ đây là những điểm chung đang gây ra tranh cãi trong khi bàn về tiêu chí của hội chứng chuyển hóa. Cho tới nay có nhiều ý kiến cho rằng việc sử dụng OGT test là cần thiết vì khi tiến hành OGT test người ta có thể biết tình trạng chuyển hóa glucose, cùng lúc vừa đánh giá được cả tiên lượng diễn biến bệnh. Thông thường tỷ lệ IGT tới đái tháo đường là 6,0%/năm và IFG là 3,0%/năm. Trong thực tế nếu áp dụng tiêu chuẩn của ATP III mà dùng OGT test thì tỷ lệ mắc hội chứng chuyển hóa ở lứa tuổi trên 50 sẽ tăng 5,0%.

Về tiên lượng diễn biến, người ta cũng còn thấy rằng những người có rối loạn dung nạp glucose (IGT) đồng thời có suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói (IFG) sẽ có nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hơn hắn những người chỉ có rối loạn dung nạp glucose nhưng không có suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói.

Đánh giá về tiêu chuẩn của WHO và ATPIII

Có thể dễ dàng nhận thấy sự khác biệt cơ bản của hai tiêu chuẩn chẩn đoán được áp dụng phổ biến nhất hiện nay là ở quan điểm nhìn nhận về vai trò của kháng insulin (bảng 16.2). Tiêu chuẩn của WHO coi kháng inslin có giá trị như đái tháo đường, như các bất thường khác của chuyển hóa glucose. Ngược lại ATPIII, chỉ có một tiêu chí là glucose máu lúc đói > 6,1 mmlo/1. Rõ ràng trong tiêu chuẩn này không coi trọng vai trò của kháng insulin. Do không sử dụng nghiệm pháp tăng đường huyết vào chẩn đoán nên tiêu chuẩn này đã bỏ sót số người mắc bệnh đái tháo đường dạng tiềm ẩn. Trong thực tế nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng ở những người có IGT hoặc IFG thì những nguy cơ về bệnh lý mạch máu, đặc biệt mạch vành, cũng giống như ở người đái tháo đường typ 2.

Vấn đề sử dụng tiêu chuẩn béo trung tâm được nhất trí cao. Thực chất người thừa cân, béo phì thường có kháng insulin. Đặc biệt thể béo bụng được chú ý nhiều hơn.

Thật ra cả hai tiêu chuẩn chẩn đoán của WHO và ATPIII đều bỏ sót một số lượng không nhỏ người có kháng insulin, có yếu tố nguy cơ cao đối với bệnh lý tim mạch.

Về phương diện phòng bệnh người ta thấy cần phải giải đáp cho được hai vấn đề sau, thứ nhất, liệu đây có phải đã là những tiêu chuẩn chẩn đoán hoàn chỉnh? Thứ hai là chúng ta có cần phải điều trị Hội chứng chuyển hóa, thậm chí có nên chỉ định cho điều trị tích cực?. Trong thực tế nếu điều trị Hội chứng chuyển hóa rất tôn kém, vì có tới 1/3 dân số được xem là khoẻ mạnh mắc hội chứng này.

Cuối cùng là vấn đề tên gọi. Tháng 11 năm 2004, tại Hội nghị quốc tế lần thứ hai về “Hội chứng kháng insulin”, nhiều tác giả đề nghị nên lấy lại tên là “Hội chứng Reaverì’ . Bởi lẽ hội chứng này đã tồn tại qua thời gian dài và có những đóng góp tích cực, nhưng rất khó có được sự thống nhất trong cách nhìn nhận, đánh giá bởi có nhiều quan niệm xuất phát từ những mục tiêu nghiên cứu khác nhau.

Bảng 16.2: So sánh giữa hai tiêu chuẩn đang đợc áp dụng phổ biến nhất hiện nay.

WHO ATPIII
Tư liệu cuối cùng Định nghĩa, chẩn đoán, phân loại đái tháo đường và biến chứng của bệnh đái tháo đường (báo cáo lần 3) Thăm dò, đánh giá, điều trị tăng cholesterol máu ở người trưởng thành (báo cáo lần 3)
Năm xuất bản 1998 (báo cáo lần cuối 1999) 2000(báo cáo lần cuối 2001)
Mục đích chính Cập nhật tiêu chuẩn chẩn đoán, phân loại đái tháo đường Cập nhật hướng dẫn và quản lý lâm sàng, điều trị tăng choletsterol
Liên quan HCCH Yếu tố nguy cơ cao cả cho CVD và Đái tháo đường Yếu tố nguy cơ cao cho CVD
Bênh căn của HCCH Kháng insulin Liên quan đến kháng insulin
Chẩn đoán Một tiêu chí glucose máu+ 2 tiêu chí khác Từ 3 tiêu chí trở lên
TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN
Glucose máu Đál tháo đường, IGT, IFG > 5,6 mmlo/l
Béo trung tâm Nam Nữ Tỷ lệ eo/hông >0,9 >0 85 Vòng eo

102 cm ( > 40 inch) 88 cm ( > 35 inch)

Lipid máu

–  Triglycerid

–   HDL

Nam

Nữ

> 1,7 mmol/l (150 mg/dl) và/hoặc

<  0,9 mmol/l ( 35 mg/dl)

<  1,0 mmol/l (39 mg/dl)

> 1,7 mmol/l(150 mg/dl) và/hoặc

<  1,036 mmol/l( 40mg/dl)

<  1,295 mmol/l( 50mg/dl)

Huyết áp > 140/90 mmHg > 130/85 mmHg
Tiêu chí khác Microalbumin niệu khi.

–  AER > 20mcg/phút hoặc

–  Al/Cre > 30 mg/g

Ghi chú: HCCH: Hội chứng chuyển hóa. AER: Tỷ lệ bài tiết albumin niệu. Al/Cre: Tỷ lệ Albumin/Creatinin niệu.

Tỷ lệ người mắc hội chứng chuyển hóa

Do không có sự thống nhất nên theo các tiêu chuẩn chẩn đoán khác nhau sẽ có sự khác nhau về tỷ lệ mắc bệnh. Ví dụ số nam có hội chứng chuyển hóa theo tuổi là:

  • Nam ở lứa tuổi < 40 theo tiêu chuẩn WHO có 11,0%; nhưng theo tiêu chuẩn EGIR có 15,0% số người có mắc hội chứng chuyển hóa.
  • Nam ở tuổi 40-55 tiêu chuẩn WHO có 16,0%, EGIR có 23% số người có mắc hội chứng chuyển hóa.
  • Nam ở tuổi >55 tiêu chuẩn WHO có 23,0%, EGIR có 33,0% số người có mắc hội chứng chuyển hóa.

 

Bùi tròn-Bùi Wallich

Bùi tròn

Cây mọc ở vùng núi cao đến 1500m ở miền Bắc Việt Nam. Cũng gặp ở thác Prenn (Đà Lạt), tỉnh Lâm Đồng. Có thể thu hái vỏ quanh năm, loại bỏ lớp vỏ ngoài, rồi thái phiến dùng tươi hoặc phơi khô dùng dần.

Bùi tròn- llex rotunda Thunb, thuộc họ Nhựa ruồi – llicaceae.

Mô tả: Cây gỗ lớn cao 5-15m, đến 20m; nhánh non có cạnh, không lông. Lá có phiến xoan rộng, dài 3-11cm, rộng 2-4,5cm, dai, không lông, mặt trên lục bóng; gân phụ 5-8 cặp; cuống 6-10mm. Tán hoa ở nách lá; cuống hoa 4-8mm; lá đài 4-5 (6); cánh hoa 4-5 (6), dài 3-3,5mm; nhị 4-5, nhuỵ lép ở hoa đực; nhị lép ở hoa cái. Quả hạch tròn tròn, đường kính 4,5-6mm, đỏ rồi đen; nhân 4-6, cao 3-4,7mm. Hoa tháng 5-6; quả tháng 10-12.

Bùi tròn
Bùi tròn

Bộ phận dùng: Vỏ cây – Cortex llicis Rotundae.

Nơi sống và thu hái: Cây mọc ở vùng núi cao đến 1500m ở miền Bắc Việt Nam. Cũng gặp ở thác Prenn (Đà Lạt), tỉnh Lâm Đồng. Có thể thu hái vỏ quanh năm, loại bỏ lớp vỏ ngoài, rồi thái phiến dùng tươi hoặc phơi khô dùng dần.

Tính vị, tác dụng: Vị đắng, tính hàn; có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu sưng giảm đau, lương huyết, chỉ huyết.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng chữa: 1. Cảm lạnh, bệnh sốt; 2. Sưng amygdal, đau họng; 3. Viêm dạ dày ruột cấp, viêm tuỵ cấp; 4. Loét dạ dày và tá tràng; 5. Đau thấp khớp, đau xương; 6. Sốt xuất huyết.

Dùng ngoài trị đòn ngã tổn thương, đinh nhọt và viêm mủ da, vết thương chảy máu, bỏng lửa và bỏng nước, viêm da thần kinh. Liều dùng: 10-15g, dạng thuốc sắc. Dùng bột vỏ trộn với dầu đắp ngoài, hoặc dùng lá tươi và rễ giã đắp.

Bùi Wallich

Bùi – Ilex wallichii Hook. f., thuộc họ Nhựa ruồi – Ilicaceae.

Mô tả: Cây gỗ cao 1-6m đến 18m, nhánh có vỏ trắng. Lá xoan bầu dục, tròn hai đầu, có khi tù, nhọn mũi hay lõm ở chóp, dài 1-10cm, rộng 2-6 cm, dày, dai, bóng ở mặt trên, nhạt màu hơn ở mặt dưới. Hoa thành chùm xim gần dạng tán ở nách lá. Quả hạch, kèm theo đài tồn tại và bao bởi đầu nhuỵ, dài 5mm, rộng 7-8mm. Hạt 10-14, dài 3mm, rộng 1,5mm, có rãnh lưng. Hoa tháng 12-7.

Bộ phận dùng: Vỏ cây – Cortex llicis.

Nơi sống và thu hái: Cây mọc nhiều ở rừng tới độ cao 1200m thuộc các tỉnh từ Quảng Nam – Đà Nẵng, Kontum, Lâm Đồng, Sông Bé, Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh cho đến Côn đảo.

Tính vị, tác dụng: Vỏ dùng lọc máu, bổ và hạ nhiệt.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Người ta dùng vỏ thái nhỏ cho vào 3-4 bát nước, sắc kỹ cô còn một bát để uống làm thuốc trị sốt.

Viêm khớp tự phát thiếu niên

  1. ĐẠI CƯƠNG

Định nghĩa:

Viêm khớp tự phát thiếu niên là một bệnh viêm khớp mạn tính, xảy ra ở trẻ dưới 16 tuổi, không rõ căn nguyên, thời gian tồn tại của viêm khớp ít nhất trên 6 tuần, đã loại trừ được các căn nguyên khác gây viêm khớp. Viêm khớp được xác định là:

  • Sưng khớp hoặc có tràn dịch trong khớp
  • Hoặc có ít nhất 2 dấu hiệu sau: đau khớp hoặc đau khi vận động, giới hạn vận động khớp, biểu hiện tăng nóng tại khớp

Dịch tễ học:

Đây là một bệnh khớp thường gặp nhất trong số các bệnh khớp ở trẻ em.Tỷ lệ mới mắc bệnh ước tính khoảng 0,5 – 1 ca/1000 trẻ em. Tỷ lệ mắc bệnh chung khoảng 40 000 – 100000 trẻ em ở Mỹ. Tuổi khởi bệnh: nổi bật lên ở 2 nhóm tuổi: Nhóm 1: trẻ từ 2 – 4 tuổi và nhóm 2 là nhóm khởi bệnh ở tuổi trẻ lớn. Giới: tỷ lệ mắc bệnh còn thay đổi theo từng thể lâm sàng.

Nguyên nhân gây bệnh:

Nguyên nhân chính xác gây bệnh hiện chưa xác định được. Nhưng đây là một bệnh tự miễn với đặc trưng ở một gen hoặc một nhóm gen với sự liên quan cả yếu tố môi trường như chấn thương, nhiễm khuẩn, stress. HLA DR 5 và HLA DR 8 gặp ở trẻ gái, tuổi khởi bệnh nhỏ, ở thể viêm ít khớp.HLA DR 4 liên quan với thể viêm đa khớp RF (+). HLA B27 liên quan với thể viêm điểm bám gân khởi bệnh muộn ở trẻ trai.

Phân loại:

Hiên nay theo phân loại của hội thấp khớp học quốc tế người ta đã phân loại viêm khớp tự phát thiếu niên thành 7 thể lâm sàng như sau: thể bệnh được xác định là thể có biểu hiện lâm sàng trong 6 tháng đầu của bệnh.

Thể lâm sàng Định nghĩa Tiêu chuẩn loại trừ
 

1.Viêm                 khớp thể hệ thống

Viêm ở 1 khớp hoặc nhiều hơn cùng với sốt hoặc trước đó ít nhất 2 tuần đã ghi nhận sốt hàng ngày trong ít nhất 3 ngày cùng với 1 hoặc nhiều hơn những dấu hiệu sau:

a)       Ban đỏ không cố định

b)       Hạch to

c)        Gan và hoặc lách to

d)       Viêm màng thanh dịch

A.Bản thân bệnh nhân mắc bệnh vảy nến hoặc đã mắc bệnh vảy nến, tiền sử có bệnh vảy nến ở thế hệ 1; B.Viêm khớp với HLA- B27 (+) khởi phát ở trẻ trai ≥ 6 tuổi;

C.     Viêm cột sống dính khớp, viêm khớp liên quan viêm điểm bám gân, viêm khớp cùng chậu với bệnh lý đường ruột, hội chứng Reiter hoặc viêm màng bồ đào trước hoặc tiền sử thế hệ 1 có một trong những bệnh trên;

D.  RF IgM (+) ít nhất 2 lần trong khoảng thời gian cách nhau 3 tháng

2.Viêm ít khớp a.Thể giới hạn Viêm khớp gây ảnh hưởng không nhiều hơn 4 khớp trong suốt 6 tháng đầu của bệnh A, B, C, D.

E.  Có  biểu  hiện  các  dấu  hiệu toàn thân

b.Thể mở rộng Viêm khớp gây ảnh hưởng nhiều hơn 4 khớp sau 6 tháng đầu của bệnh A, B, C, D, E
3.Viêm đa khớp RF (-) Viêm  khớp  ≥  5  khớp  trong  6 tháng đầu của bệnh với RF (-) A, B, C, D, E.
4.Viêm đa khớp RF (+) Viêm khớp gây ảnh hưởng ≥ 5 khớp trong 6 tháng đầu của bệnh, với ≥ 2 lần xét nghiệm RF (+) ở thời điểm cách nhau ít nhất 3 tháng A, B, C, E.
5.Viêm                 khớp vảy nến Viêm khớp và vảy nến hoặc viêm khớp và có ít nhất 2 trong các dấu hiệu sau:

a)             Viêm ngón

b)  Lõm móng hoặc onycholysis

c)   vảy nến ở thế hệ thứ nhất

B, C, D, E.
6.Viêm       điểm bám gân Viêm khớp và viêm điểm bám gân hoặc viêm khớp hoặc viêm điểm bám gân với ít nhất 2 trong các dấu hiệu sau:

-Bản  thân  hoặc  gia  đình  đau

A, D.
khớp cùng chậu và hoặc viêm CS lưng.

-HLA – B27 (+)

-Khởi bệnh ở trẻ trai > 6 tuổi

-Triệu chứng viêm màng bồ đào phía trước cấp tính

-Tiền sử VCSDK, viêm điểm bám gân liên quan viêm khớp, viêm khớp cùng chậu với bệnh viêm ruột, H/c Reiter hoặc viêm màng bồ đào phía trước cấp tính ở thế hệ thứ 1

7.Viêm                 khớp không phân loại Viêm khớp nhưng không đủ phân loại cho 1 tiêu chuẩn hoặc có nhiều hơn 2 tiêu chuẩn đã phân loại.
  • Biểu hiện lâm sàng và đặc điểm các thể bệnh:
    • Đau khớp, sưng khớp do viêm khớp là tiêu chuẩn để chẩn đoán. Số khớp viêm tùy thuộc từng thể lâm sàng theo chẩn đoán của ILAR.
    • Cứng khớp buổi sáng (có thể xảy ra vài chục phút đến vài giờ)
    • Biểu hiện đau khớp ở trẻ nhỏ đôi khi chỉ là trẻ dễ bị kích thích, từ chối việc đi lại hoặc sử dụng chi bị đau, thay đổi về hành vi
    • Một số triệu chứng khác như: chán ăn, mệt mỏi, ít hoặc không hoạt động, đau khớp vào ban đêm, chậm lớn
    • Một số đặc điểm liên quan với thời gian viêm khớp mạn tính khác như: Sốt, phát ban, gan lách hạch to,tràn dịch các màng, nột thấp, viêm mạch, chậm lớn

+ Đặc điểm lâm sàng của thể viêm khớp hệ thống: dấu hiệu nổi bật của thể bệnh này là bên cạnh những dấu hiệu của viêm khớpcòn có những biểu hiện ngoài khớp. Đặc điểm toàn thân có thể xuất hiện trước những biểu hiện của bệnh từ vài tuần đến vài tháng. Và cuối cùng dấu hiệu của viêm khớp là để xác định chẩn đoán. Cụ thể là sốt cao từng cơn, sốt đỉnh 40 – 41 0 C, thường sốt về chiều, sau đó nhiệt độ thường lại về bình thường.Đau cơ, đau khớp khi sốt cao. Phát ban thường xảy ra cùng với triệu chứng viêm khớp, ban dạng dạng hồng hoặc dạng nốt nhỏ.Tràn dịch các màng thường có dịch màng tim , màng phổi.Thường tràn dịch với số lượng ít, không gây những triệu chứng lâm sàng. Gan, lách, hạch to. Biểu hiện của viêm khớp có thể xảy ra ở bất cứ thời điểm nào sau khi bệnh khởi phát. Một số trường hợp viêm khớp có thể xảy ra vài tuần sau những biểu hiện toàn thân. Viêm khớp thường biểu hiện là viêm nhiều khớp hơn là viêm ít khớp, ảnh hưởng cả trên khớp lớn và khớp nhỏ. Dấu hiệu viêm khớp có thể dai dẳng, gây tổn thương hủy khớp hoặc bào mòn khớp.

+ Hội chứng hoạt hóa đại thực bào: đây là một trong những biến chứng làm ảnh hưởng đến tính mạng của trẻ, tiến triển rất nhanh, khó phân biệt với đợt cấp của Viêm khớp thiếu niên.Tiến triển nhanh với các đặc điểm toàn thân như hội chứng tiệu thụ máu trong mạch, Ferritin tăng rất cao (10 000ng/ml), tăng tryglycerit , tốc độ máu lắng giảm nhanh chóng, giảm lượng Fibrinogen, giảm tiểu cầu, suy gan. Chẩn đoán nhờ chọc hút tủy xương.

+ Viêm thể ít khớp: đây là thể lâm sàng chỉ có biêu hiện tổn thương tại khớp. Số khớp tổn thương dưới 4 khớp, thường tổn thương khớp không đối xứng, hầu như chỉ gây ảnh hưởng tới những khớp vừa và lớn như khớp gối, khuủy tay, cố tay, cố chân. Có thể chia thành 2 thể viêm ít khớp:

  • Viêm ít khớp giới hạn: chỉ gây tổn thương dưới 4 khớp, thường xảy ra ở trẻ gái, khởi bệnh sớm dưới 6 tuổi, có nguy cơ cao viêm màng bồ đào, với kháng thể kháng ANA (+). Trẻ có thể có nguy cơ chân cao chân thấp bởi vì quá trình viêm làm cho sụn khớp ở vị trí xung quanh khớp gối hoạt động nhiều hơn, do hoạt động viêm đã làm tăng tưới máu vùng đó, gây tăng chiều dài của chi có khớp gối bị tổn thương.
  • Thể viêm ít khớp mở rộng: trong 6 tháng đầu chỉ gây tổn thương dưới 4 khớp nhưng sau đó số khớp tổn thương tăng lên.Ngoài tổn thương tại các khớp lớn, khi có tổn thương mở rộng thường gây ảnh hưởng tới cả những khớp nhỏ. Thể này ít có biến chứng viêm màng bồ đà Liên quan với một số HLA như: HLA DR1.

+ Thể viêm đa khớp RF (+): các đặc điểm toàn thân thường nhẹ, sốt vừa, mệt mỏi, chậm lớn; Viêm màng bồ đào mãn tính; Liên quan về tổn thương khớp thường là gây tổn thương trên 5 khớp. đối xứng, mạn tính; Hầu hết đều liên quan với khớp cổ tay, khớp nhỏ bàn ngón tay, bàn ngón chân. Thường gặp ở trẻ lớn: trên 8 – 10 tuổi. Trẻ gái mặc nhiều hơn bé trai. Biểu hiện tắc mạch, có thể giống như viêm khướp dạng thấp ở người lớn. Tổn thương khớp nặng, tiến triển nhanh chóng gây bào mòn, biến dạng khớp, bán trật khớp. Nốt dạng thấp, viêm mạch

+ Viêm đa khớp RF (-): thường xảy ra ở trẻ nhỏ tuổi hơn so với thể viêm đa khớp RF(+). Viêm khớp xảy ra sớm thường gây biến dạng khớp, cong vẹo chi, bán trật khớp, ảnh hưởng tại các khớp nhỏ ở bàn tay trên các khớp bàn ngón gần hơn các khớp bàn ngón xa. Có thể gây ảnh hưởng cả trên các khớp sột.

+ Thể viêm điểm bám gân: biểu hiện lâm sàng trẻ thường đau và viêm tại các điểm bám tận của các gân xương tại các đầu chi bị tổn thương,tổn thương các dây chằng, vỏ bao gân. Viêm khớp và viêm gân. Đau khớp cùng chậu hoặc đau cột sống do viêm. Liên quan với HLA B 27 (+). Viêm màng bồ đào phía trước thường gây đau, đỏ mắt, sợ ánh sáng. Thường khởi đầu ở trẻ lớn trên 8 tuổi. Tổn thương thường xảy ra tại vị trí khớp của chi dưới: như khớp gối, khớp bàn ngón chân, đôi khi gây ảnh hưởng tới các khớp bàn ngón chân (ngón chân tròn như cái xúc xích). Tiền sử có liên quan các bệnh có liên quan HLA B 27(+). Bệnh có thể tiến triển gây viêm cột sống dính khớp, viêm khớp phản ứng, viêm khớp có liên quan với bệnh viêm ruột.

+ Thể viêm khớp vảy nến: biểu hiện giống thể viêm gân, kèm theo trẻ có viêm các móng .Trẻ thường có các biểu hiện vảy nến hoặc gia đình có bệnh vảy nến.Đôi khi biểu hiện vảy nến xảy ra sau những dấu hiệu viêm khớp.

Chẩn đoán phân biệt:

  • Phân biệt với bệnh lý về khớp: bệnh tự viêm, bệnh thấp khớp cấp, Lupus ban đỏ,viêm đa cơ, viêm da cơ, viêm mạch, xơ cứng bì, bệnh hỗn hợp của mô liên kết, bệnh Kawasaki, tiền sử có liên quan các bệnh có liên quan HLA B 27 (+)
  • Viêm khớp phản ứng sau nhiễm trùng
  • Hội chứng Behcet
  • Phân biệt với bệnh nhiễm trùng: viêm khớp nhiễm khuẩn khi tổn thương tại 1 khớp thường do Haemophillus influenza typ B, lậu cầu đặc biệt ở tuổi vị thành niên hoặc tụ cầu có thể xảy ra bất cứ vị trí nào.
  • Phân biệt với viêm khớp do viruts hoặc viêm khớp phản ứng sau nhiễm virut (Parvovirut, rubella, Viêm gan B), sau nhiễm khuẩn đường tiêu hóa (Shigella, Salmonella, Campylobacter, hoặc Yersinia …)
  • Bệnh ác tính như bạch cầu cấp, u lympho, neuroblastoma, u xương nguyên phát.
  • Bệnh lý không có viêm như sau chấn thương, osteochondoses, bệmh Hemophilia hoặc một số bệnh lý khác: Sarcoidosis, rối loạn mô liên kết, đau xương phát triển, dị vật trong khớp
  1. TIẾP CẬN CHẨN ĐOÁN

  • Chẩn đoán viêm khớp thiếu niên là một chẩn đoán loại trừ, chủ yếu dựa vào lâm sàng, khai thác tiền sử, thăm khám lâm sàng.
  • Cận lâm sàng: không có một test nào có thể xác định chắc chắn, bệnh nhân có thể có thiếu máu, tăng số lượng bạch cầu chủ yếu là bạch câu đa nhân trung tính, tăng số lượng tiểu cầu và CRP, tốc độ máu lắng. xét nghiệm RF , ANA, IgG, tăng bổ thể phản ánh mức độ viêm tăng lên, kháng thể kháng anti CCP, HLA DR 5.
  1. TIẾP CẬN ĐIỀU TRỊ

Đây là một bệnh lý mạn tính phải điều trị lâu dài. Điều trị bước đầu nên thận trọng để tránh nhầm lẫn với những tổn thương khớp do các căn nguyên khác. Bệnh nhân cần được xếp loại theo thể lâm sàng. Tiếp cận từng bước theo các thể lâm sàng và mức độ hoạt động của bệnh cũng như mức đáp ứng điều trị của từng bệnh nhân.

Điều trị bước 1 (Basic therapy):

  • Paracetamol liều: 60mg/kg/ngày ; trẻ < 6th) max 4g/ngày.
  • Opioat nhẹ (codein): 0,5 – 1mg/kg/ 4-6giờ 1 lần, tối đa 3mg/kg/ngày.
  • Thuốc chống viêm non steroid bao gồm các thuốc sau:

+ Celecoxib: 2 – 4 mg/kg, uống 2 lần/ ngày

+ Diclophenac: 1mg/kg, ngày dùng 2 lần

+ Ibrafen: 10mg/kg, ngày dùng 3 – 4 lần

+ Indomethacine liều 0,5 – 1 mg/kg, ngày dùng 2 – 3 lần

+ Meloxicam liều 0,15 – 0,3 mg/kg, ngày dùng 1 lần

+ Naproxen liều 5 – 7,5mg/kg, ngày dùng 2 lần

+ Piroxicam liều 0,2 – 0,4 mg/kg, dùng 1 lần/ ngày

Điều trị bước 2 (Advanced therapy)

  • Corticoid tại khớp, hoặc toàn thân
  • Thuốc chống thấp tác dụng chậm (MTX, sulfasalazin, hydroxychloroquine, leflunomid)
  • Nhóm sinh học (kháng TNFanpha, kháng IL1, IL6)
  • Khám mắt định kỳ theo hẹn để kiểm tra viêm màng bồ đào
Khởi bệnh < 7 tuổi Khởi bệnh > 7 tuổi
ANA (+) +3-4 tháng/lần – trong 4 năm

+ 6 tháng/lần – trong 3 năm

+ sau đó hàng năm

+ 6 tháng / lần – 4 năm

+ hàng năm

ANA (-) 6 tháng/ lần – 7 năm Hàng năm

Cách Đọc Kết Quả Xét Nghiệm Rụng Trứng

Nếu bạn yêu trẻ con và đã cố gắng mang thai trong một thời gian dài, việc biết khi nào bạn rụng trứng là rất quan trọng. Điều này có ý nghĩa vì bạn có thể tăng đáng kể khả năng mang thai của mình bằng cách xác định “cửa sổ màu mỡ” trong chu kỳ của bạn.

Nhưng làm thế nào bạn có thể biết khi nào bạn đang rụng trứng để có thể đúng thời điểm? Mặc dù có nhiều phương pháp để phát hiện rụng trứng, bao gồm phương pháp đo nhiệt độ cơ thể cơ bản, phương pháp lịch và phương pháp chất nhầy cổ tử cung, những phương pháp này chủ yếu dựa vào việc xác định các dấu hiệu thể chất của cơ thể bạn và có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác. So với các phương pháp này, bộ xét nghiệm rụng trứng là một phương pháp chính xác và đáng tin cậy hơn để biết khi nào bạn đang rụng trứng vì chúng liên quan đến một bộ dụng cụ xét nghiệm.

Tiếp tục đọc để tìm hiểu thêm về khi nào nên thực hiện xét nghiệm rụng trứng, cách chúng hoạt động, cách diễn giải các đường nét mờ trên kết quả xét nghiệm rụng trứng và nhiều thông tin khác.

Xét Nghiệm Rụng Trứng Là Gì?

Bạn có thể sử dụng bộ xét nghiệm rụng trứng tại nhà để xác định chính xác khi nào bạn đang rụng trứng. Những bộ xét nghiệm này chứa các que thử kiểm tra mức độ hormone trong nước tiểu của bạn để đánh giá xem bạn có đang rụng trứng hay không. Các bộ này rất tiện lợi và có thể giúp bạn xác định cửa sổ màu mỡ của mình.

Mặc dù bộ xét nghiệm không đảm bảo rằng bạn sẽ mang thai, nhưng nó đặt tỷ lệ ủng hộ bạn bằng cách cho bạn biết chính xác khi nào bạn nên cố gắng thụ thai.

Những bộ xét nghiệm này dễ dàng có sẵn từ nhiều thương hiệu trong phần kế hoạch gia đình của cửa hàng tiện lợi hoặc hiệu thuốc địa phương của bạn. Chúng thường nằm gần các bài kiểm tra thai tại nhà.

Khi Nào Nên Thực Hiện Xét Nghiệm Rụng Trứng

Hiểu biết về chu kỳ kinh nguyệt của bạn có thể khá khó khăn. Nhưng việc nắm vững kiến thức chính xác về chu kỳ hàng tháng (28 ngày) của bạn có thể giúp bạn tiết kiệm tiền bạc và công sức trong việc thử nghiệm ngẫu nhiên và lặp đi lặp lại, chỉ để nhận kết quả âm tính.

Dưới đây là một cách đơn giản để hiểu cách chu kỳ kinh nguyệt của bạn hoạt động. Thời kỳ của bạn thường kéo dài từ ba đến bốn ngày. Khi bạn hoàn thành kỳ kinh (giai đoạn kinh nguyệt), buồng trứng của bạn bắt đầu chuẩn bị một trứng mới để giải phóng trong quá trình rụng trứng.

Vào giữa chu kỳ (tức khoảng ngày thứ 14), mức hormone luteinizing trong cơ thể bạn đột ngột tăng lên và báo hiệu cho buồng trứng giải phóng trứng để thụ tinh trong tử cung. Quá trình giải phóng trứng này được gọi là rụng trứng. Nếu tinh trùng thụ tinh cho trứng, điều đó dẫn đến việc thụ thai. Nhưng sau khi rụng trứng, trứng chỉ có thể sống thêm một ngày hoặc hơn nếu không được thụ tinh.

Cửa Sổ Màu Mỡ thường bao gồm những ngày ngay trước, ngày rụng trứng và ngày sau khi rụng trứng. Điều này có nghĩa là bạn có thể bắt đầu thử nghiệm vào khoảng ngày 10 hoặc 11 của chu kỳ của mình. Nếu chu kỳ của bạn ngắn hơn hoặc dài hơn so với 28 ngày thông thường, bạn có thể xem xét ngày giữa chu kỳ như là ngày rụng trứng và điều chỉnh ngày thử nghiệm của mình cho phù hợp. Nếu bạn có chu kỳ không đều, hãy sử dụng ngày của chu kỳ ngắn nhất để ước lượng ngày rụng trứng của bạn.

Nếu bạn muốn bỏ qua phép tính này, bạn có thể tải xuống một ứng dụng theo dõi ngày kỳ kinh của bạn và tính toán ngày rụng trứng cho bạn dựa trên độ dài trung bình của chu kỳ.

Xét Nghiệm Rụng Trứng Hoạt Động Như Thế Nào?

Que thử rụng trứng đo mức hormone luteinizing trong nước tiểu của bạn để xác định liệu bạn có đang rụng trứng hay không. Dưới đây là hướng dẫn từng bước về cách thực hiện xét nghiệm:

  1. Trước khi bắt đầu, luôn đọc kỹ hướng dẫn trong bao bì. Hầu hết các bộ xét nghiệm sẽ giải thích khi nào là thời điểm lý tưởng để bắt đầu thử nghiệm.
  2. Mở gói que thử (hoặc que thử) và tháo nắp để lộ đầu thấm hút.
  3. Chèn que thử vào giá đỡ cho đến khi nó khớp vào vị trí. Bắt đầu thử nghiệm khi biểu tượng sẵn sàng thử nghiệm xuất hiện.
  4. Hoặc bạn có thể tiểu lên đầu thấm hút trong 5 đến 7 giây hoặc tiểu vào cốc và nhúng que thử vào nước tiểu trong 15 giây.
  5. Giữ đầu que thử hướng xuống dưới trong 20 đến 40 giây cho đến khi biểu tượng sẵn sàng thử nghiệm nhấp nháy. Đậy nắp lại và lau sạch nước tiểu thừa.
  6. Kết quả xét nghiệm thường có trong vòng 3 đến 5 phút. Kiểm tra hộp hướng dẫn để biết chính xác thời gian bạn cần chờ trước khi đọc kết quả, vì điều này có thể khác nhau một chút giữa các thương hiệu.
  7. Nếu không có kết quả xuất hiện sau 10 phút, bạn có thể cần phải thực hiện lại xét nghiệm.

Cách Đọc Kết Quả Xét Nghiệm Rụng Trứng

Hầu hết các que thử rụng trứng có hai đường nét mờ. Đường đầu tiên được gọi là đường kiểm soát. Mục đích của đường này chỉ là để cho bạn biết liệu que thử có hoạt động đúng hay không. Nó không phản ánh trạng thái rụng trứng của bạn chút nào.

Đường thứ hai được gọi là đường thử nghiệm. Đường này là chỉ số thực sự về trạng thái rụng trứng của bạn. Nếu đường thử nghiệm có màu sắc bằng hoặc đậm hơn đường kiểm soát, điều này có nghĩa là mức hormone luteinizing trong cơ thể bạn cao hơn bình thường và bạn có thể đang rụng trứng hoặc sắp bắt đầu rụng trứng.

Nếu đường thử nghiệm có màu sắc nhạt hơn đường kiểm soát, điều này có nghĩa là mức hormone luteinizing của bạn quá thấp và bạn chưa bắt đầu rụng trứng.

Nhiều loại bộ xét nghiệm rụng trứng khác nhau có sẵn. Một số bộ xét nghiệm có thể hiển thị kết quả có/không hoặc biểu tượng cười trong cửa sổ kết quả, làm cho chúng dễ hiểu hơn so với các que thử với hai đường. Nếu bạn sử dụng bộ xét nghiệm kỹ thuật số hoặc ứng dụng, nó thậm chí có thể hiển thị mức hormone luteinizing của bạn trong những ngày trước, giúp bạn có cái nhìn rõ ràng hơn về việc bạn gần đến thời điểm rụng trứng như thế nào.

Một khi bạn nhận được kết quả dương tính, kết quả của bạn có khả năng vẫn dương tính trong vài ngày, điều này có thể giúp bạn xác định những ngày mà sự gia tăng hormone luteinizing xảy ra. Trong tháng tới, bạn có thể bắt đầu thử nghiệm sớm hơn một vài ngày, vì cửa sổ màu mỡ bắt đầu vài ngày trước khi mức hormone luteinizing tăng lên.

Thông qua việc thử và sai, bạn sẽ có thể theo dõi chính xác toàn bộ chu kỳ của mình, từ đó tối đa hóa cơ hội thụ thai của bạn.

Xét Nghiệm Rụng Trứng Có Luôn Hiệu Quả Không?

Các bộ xét nghiệm rụng trứng có thể không hoàn toàn hiệu quả nếu bạn:

  • Bị hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), vì mức hormone luteinizing của bạn có thể liên tục cao trong tình trạng này, dẫn đến kết quả dương tính giả.
  • Đang trong giai đoạn mãn kinh, vì mức hormone luteinizing của bạn cũng tăng cao ở giai đoạn này, làm cho kết quả xét nghiệm có vẻ dương tính giả.
  • Có chu kỳ kinh nguyệt không đều, vì bạn có thể gặp khó khăn trong việc xác định khi nào nên thực hiện xét nghiệm, và việc thử nghiệm dựa trên phỏng đoán có thể tốn kém, đặc biệt khi bạn không chắc về ngày kỳ của mình.
  • Đang dùng thuốc điều trị vô sinh, vì chúng có thể ảnh hưởng đến mức hormone của bạn.

Kết Luận

Ngay cả khi bạn đã quyết định có một đứa trẻ và bắt đầu cố gắng mang thai, việc thụ thai có thể không xảy ra ngay lập tức. Mang thai trong thời gian ngắn nhất với ít sự thất vọng nhất đòi hỏi sự lập kế hoạch và tính toán đúng đắn.

Các bộ xét nghiệm rụng trứng có thể là một khoản đầu tư tuyệt vời trong thời điểm này để có được thời gian chính xác và tăng đáng kể cơ hội thụ thai của bạn. Nhưng nếu bạn vẫn không thể thụ thai sau một thời gian dài cố gắng, hãy xem xét việc gặp bác sĩ chuyên khoa về khả năng sinh sản. Đừng ngần ngại nói chuyện với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về bất kỳ câu hỏi hoặc mối quan tâm nào.

Viêm ống kẽ thận cấp – triệu chứng, điều trị

1. ĐẠI CƯƠNG

Viêm ống kẽ thận cấp là bệnh lý thường gặp gây nên suy thận cấp, còn được gọi là hoại tử ống thận cấp (acute tubular necrosis) hoặc là viêm kẽ thận cấp (acute interstitial nephritis). Tổn thương chủ yếu của bệnh lý này là hoại tử liên bào ống thận, là một bệnh lý nặng và tỷ lệ tử vong còn rất cao nếu không được xử trí một cách kịp thời và có hiệu quả.

Mã số (theo ICD 10) : N10

2. NGUYÊN NHÂN

Có rất nhiều nguyên nhân gây nên viêm ống kẽ thận cấp nhưng tập trung có thể chia làm 3 nhóm lớn:

a) Hoại tử ống thận cấp sau thiếu máu.

Tất cả những nguyên nhân nào mà làm cho sự tưới máu thận giảm sút kéo dài đều có thể làm cho thận thiếu máu và gây nên thương tổn dưới dạng hoại tử ống thận.

Nguyên nhân giảm tưới máu thận được chia làm 2 nhóm:

*   Nguồn gốc trước thận

  • Sốc giảm thể tích máu: sau mổ, sau chấn thương, bỏng, sẩy nạo thai, mất nước, mất muối
  • Sốc nhiễm khuẩn, nhiễm độc
  • Sốc tim

*   Nguồn gốc tại thận

Thường gặp nhất là do những tác dụng ngoại ý của một số thuốc khi sử dụng trên một số cơ địa đặc biệt như thuốc kháng viêm không stéroids, thuốc hạ huyết áp, thuốc ức chế men chuyển khi sử dụng ở người bệnh hẹp động mạch thận hai bên.

b)  Hoại tử ống thận cấp do ngộ độc

Có thể trực tiếp lên tế bào ống thận hoặc gián tiếp lên cơ chế mạch máu và từ đó gây thiếu máu thận.

*   Thuốc

  • Các thuốc kháng sinh, nhất là nhóm Aminosides.
  • Các sản phẩm iod cản quang
  • Các thuốc chống U: Ciplastine, Cyclosporine, Interféron.
  • Một số thuốc khác như Phenylbutazone các thuốc gây mê (methoxyfluzan).

*   Một vài sắc tố nội sinh như huyết sắc tố (Hb), sắc tố cơ (myoglobin)

  • Các hoá chất thường dùng như Tétra Cloruacarbon (CCl4), cồn Mêtylic.
  • Độc tố của sinh vật:
    • Mật cá trắm, cá mè, cá chép.
    • Mật cóc.

c)  Dị ứng

Còn gọi là viêm thận kẻ cấp dị ứng (NIA immuno-allergique) nguyên nhân do thuốc là thường gặp: Méthicilline, Pénicilline, kháng viêm không Stéroides, thuốc lợi tiểu, Cimétidine.

3. LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG

1. Lâm sàng

Lâm sàng của viêm ống kẽ thận cấp biểu hiện là một hội chứng suy thận cấp đôi khi kèm theo với bệnh cảnh của một viêm gan cấp (gặp trong bệnh nguyên ngộ độc).

Tình huống để phát hiện bệnh viêm ống thận cấp rất khác nhau: thường được phát hiện là triệu chứng thiểu, vô niệu, đôi khi được phát hiện qua một biến chứng nặng như ứ dịch ngoại bào (tăng huyết áp, phù phổi) hoặc những rối loạn nước điện giải khác hoặc bệnh cảnh của hội chứng tăng urê máu.

Lâm sàng trải qua 5 giai đoạn:

*   Giai đoạn tấn công thận

Thời gian của giai đoạn này tùy thuộc vào nguyên nhân: cấp và đột ngột (sốc, xuất huyết) hoặc chậm và kéo dài (kháng sinh độc với thận).

*   Giai đoạn thiểu, vô niệu ban đầu

Xuất hiện trong 24 đến 72 giờ sau đó. Lâm sàng biểu hiện:

  • Ứ dịch ngoại bào (tăng cân, phù ngoại biên, khó thở gắng sức)
  • Tăng nitơ phi protein: dấu hiệu toàn thân, rối loạn tiêu hoá, đôi khi là những chấm xuất huyết dưới

*   Giai đoạn thiểu vô niệu thật sự

Thời gian thay đổi từ 7 đến 21 ngày. Lâm sàng của giai đoạn này là hội chứng tăng urê máu cấp điển hình.

*   Giai đoạn tiểu nhiều

Thường xuất hiện khoảng tuần thứ ba của vô niệu, có khi sớm hơn, lượng nước tiểu tăng lên dần. Trong giai đoạn này đôi khi còn cần thiết phải lọc máu, nhưng quan trọng hơn là bù lại lượng dịch, điện giải mất.

*   Giai đoạn phục hồi chức năng thận.

Urê, créatinine máu trở lại bình thường hoặc trở lại với trị số trước đây chưa có suy thận cấp.

Ngoài ra trên lâm sàng của viêm ống kẽ thận cấp cũng cần lưu ý những thể vẫn có lượng nước tiểu, không thiểu và vô niệu, đặc điểm của thể này là:

  • Chẩn đoán thường chậm
  • Thương tổn thận thường ít nặng, tiên lượng thường tốt
  • Đây là thể thường gặp khi sử dụng sớm lợi tiểu Furosémide và hoặc dãn mạch.
  • Điều trị lọc máu, dinh dưỡng cũng giống như thể vô niệu

b) Cận lâm sàng

Ngoài những xét nghiệm tìm nguyên nhân còn có những xét nghiệm để xác định suy thận cấp, bao gồm:

-Tăng urê, créatinin máu.

-Rối loạn nước điện giải: tăng Kali máu, hạ Natri máu, hạ Calci máu, tăng phosphat máu là những rối loạn thường gặp trong suy thận cấp.

-Rối loạn toan kiềm: nhiễm toan.

4. CHẨN ĐOÁN

a) Chẩn đoán xác định dựa vào

-Khởi phát bệnh cấp tính.

-Có yếu tố nguyên nhân của viêm ống kẽ thận cấp.

– Lâm sàng với thiểu, vô niệu lúc khởi đầu và có giai đoạn tiểu nhiều sau đó.

-Xét nghiệm urê, créatinin, kali máu tăng dần.

b) Chẩn đoán phân biệt

Cần chẩn đoán phân biệt với các nguyên nhân gây suy thận cấp khác như viêm cầu thận cấp, sỏi tắc niệu quản.

5. ĐIỀU TRỊ

Bao gồm điều trị triệu chứng, điều trị nguyên nhân và biến chứng của viêm ống kẽ thận cấp (tuỳ thuộc vào giai đoạn của viêm ống kẽ thận cấp để áp dụng cụ thể).

a) Trong giai đoạn sớm (giai đoạn tấn công thận).

Xử trí ngay các nguyên nhân gây viêm ống thận cấp:

  • Loại bỏ chất độc trong nguyên nhân do ngộ độc
  • Bù dịch, bù máu trong hoại tử ống thận cấp sau thiếu máu,bằng cách:

+ Điều chỉnh ngay hạ huyết áp bằng cách truyền các dịch keo (albumin, plasma) hoặc muối đẳng trương.

+ Các thuốc tác dụng vận mạch: dopamin liều 3µg/kg/phút để cải thiện dòng máu thận.

b) Giai đoạn đái ít vô niệu

Mục đích cơ bản trong giai đoạn này là:

  • Giữ cân bằng nội môi
  • Hạn chế tăng kali máu
  • Hạn chế tăng urê máu

*   Nước

Ở người bệnh vô niệu đảm bảo cân bằng âm nghĩa là lượng nước vào ít hơn lượng nước ra. Thông thường cho khoảng 500ml nước kể cả ăn lẫn uống. Trong những trường hợp vô niệu do mất nước mất muối thì phải bù dịch.

*   Điện giải và toan máu

  • Điều trị tăng Kali máu

+ Hạn chế đưa Kali từ ngoài vào: rau quả nhiều kali, thuốc dịch truyền có kali

+ Loại bỏ các ổ hoại hoại tử, chống nhiểm khuẩn.

+ Lợi tiểu: nhằm đào thải nước điện giải, đặc biệt là kali, được chỉ định khi không có bằng chứng có tắc nghẻn sau thận, bắt đầu có thể dò liều bằng Lasix 20mg x 4 ống tiêm tĩnh mạch, có thể cho liều cao 200mg – 500mg/ 24 giờ.Liều rất cao có thể được chỉ định như Furosémide 1000mg/24 giờ bằng truyền chậm qua bơm tiêm điện. Ngoài furosemide có thể sử dụng bumétamide hoặc acide etacrynic.

+ Truyền natribicacbonat

Có thể truyền natribicacbonat 1,4% hoặc 4,2% khi người bệnh còn có nước tiểu. Có thể tiêm, truyền tĩnh mạch natribicacbonat 8,4% trong trường hợp cần hạn chế lượng nước đưa vào cho người bệnh. Bù Natri bicacbonat giúp cải thiện toan máu, từ đó hạn chế việc di chuyển kali từ nội bào ra ngoại bào.

+ Truyền glucose ưu trương kèm insulin tác dụng nhanh nhằm đẩy kali vào khu vực nội bào.

+ Cho Canxi tiêm tĩnh mạch chậm trong các trường hợp tăng kali máu nặng, cấp cứu (nhất là có biểu hiện tim mạch).

+ Résin trao đổi ion như resonium, Kayexalat (30 gam/24 giờ) để thải kali qua đường phân.

+ Nếu kali máu ≥ 6,5 mmol/l thì cần chỉ định lọc máu ngoài thận.

* Điều trị các rối loạn điện giải khác

+ Natri và clo: Natri máu hạ thường là do ứ nước. Tốt nhất là hạn chế nước.

Khi Natri máu hạ nhiều cần phải bù Natri.

+ Canxi: Trong viêm ống kẽ thận cấp ít khi có hạ Canxi máu. Nếu có xuất hiện Tétani do hạ Canxi máu có thể cho Canxi clorua hoặc Canxi gluconate.

*   Điều trị tăng urê máu

  • Chế độ ăn giảm đạm, đủ calo ít nhất là 35 kcalo/kg / 24 giờ, đủ vitamin
  • Các thuốc  tăng  đồng  hóa  prôtide  như  Durabolin  25mg/ngày,  Testosteron 25mg/ngày.
  • Bổ sung thêm viên ketosteril: 1 viên 600mg cho 5 kg cân nặng/ ngày.
  • Loại bỏ các ổ nhiễm khuẩn
  • Chỉ định lọc máu: nên chỉ định lọc máu sớm bằng thận nhân tạo hoặc thẩm phân màng bụ Chỉ định lọc máu khi:

+ Kali máu ≥ 6,5 mmol/

+ Urê máu > 35mmol/l

+ Créatinin máu > 600 µmol/l.

+ Có biểu hiện toan máu.

c)  Trong giai đoạn tiểu nhiều

Ở giai đoạn này, tuy tiểu nhiều nhưng chức năng thận chưa hồi phục. Những ngày đầu của giai đoạn tiểu nhiều nồng độ urê, créatinin máu còn tăng nên điều trị tăng urê máu giống như giai đoạn tiểu ít và vô niệu.Trong giai đoạn này, vì tiểu nhiều nên gây mất nước mất điện giải. Điều trị nhằm:

  • Tiếp tục hạn chế prôtid trong thức ăn, chỉ tăng prôtid khi urê máu đã giảm ở mức an toàn (10 mmol/l).Cho chế độ ăn uống có kali (hoa quả) khi kali máu bình thườ
  • Truyền dịch hoặc uống để chống mất nước, mất điện giả Trong trường hợp lượng nước tiểu > 3lít/24 giờ cần bù bằng đường truyền tĩnh mạch. Lượng dịch bù tuỳ theo lượng nước tiểu. Sau 5 – 7 ngày tiểu nhiều có thể hạn chế dần lượng dịch truyền và theo dỏi vì lúc này thận đã bắt đầu hồi phục chức năng cô đặc.

d) Trong giai đoạn hồi phục

  • Trung bình sau 4 tuần điều trị thì chức năng thận bắt đầu hồi phục tốt và người bệnh có thể xuất việ
  • Cần theo dõi định kỳ hàng tháng cho đến khi chức năng thận hồi phục hoàn toàn.
  • Khi urê máu trở về bình thường thì tăng dần khẩu phần prôtid, đảm đủ calo, vitamin để đảm bảo hồi phục sức khoẻ tố

e) Điều trị nguyên nhân.

Tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra viêm ống kẽ thận cấp.

  • Điều trị kháng sinh trong nguyên nhân nhiễm khuẩn
  • Loại bỏ chất độc trong nguyên nhân ngộ độc
  • Ngừng các thuốc kháng viêm không stéroids, thuốc ức chế men chuyển,

Các  thuốc  kháng  sinh,  Các  sản  phẩm  iod  cản  quang,  Các  thuốc  chống  U: Ciplastine, Cyclosporine, Interféron, Phenylbutazone… nếu nguyên nhân do thuốc.

  • Điều tri sốt rét trong sốt rét tiểu huyết sắc tố….

Điều trị bệnh tiểu đường thai kỳ

Định nghĩa và tính thường gặp

“tiểu đường thai kỳ được định nghĩa là tình trạng không dung nạp carhohydrat được phát hiện lần đầu khi mang thai”.

Các nghiên cứu kinh điển của Freinkel đã chứng minh ở người tiểu đường thai kỳ, trong thời kỳ mang thai insulin tăng tiết gấp 1,5-2 lần khi đáp ứng với nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống hay truyền tĩnh mạch. Rõ ràng là cả lượng insulin dự trữ lẫn khả năng đáp ứng bài tiết mới của tế bào beta đã bị giới hạn. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng không dung nạp glucose ở người mẹ.

Các bất thường về chuyển hóa bao gồm tiết insulin mất cân đối và các tác động của nó đến quá trình thu nhận glucose, ngăn chặn sản xuất glucose ở gan và giảm tuyệt đối sử dụng glucose được insulin hoạt hóa.

Các nghiên cứu dịch tễ học về tiểu đường thai kỳ phát hiện nhiều điểm chung, giống với đái tháo đường typ 2. Những phụ nữ mắc bệnh tiểu đường thai kỳ có xu hướng hay gặp ở lớp người nhiều tuổi hơn (trên 25 tuổi), có thừa cân, béo phì so với những phụ nữ có dung nạp glucose bình thường khi mang thai. Cũng như đái tháo đường typ 2, tần suất mắc tiểu đường thai kỳ tăng lên cùng với tuổi và chỉ số khối cơ thể (BMI) thường gặp hơn ở các quần thể không phải da trắng. Trong các nghiên cứu khác nhau, nguy cơ tương đối tăng từ 1,6 – 3,5 lần ở người da đen, tăng 1,8 lần ở người có nguồn gốc Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, tăng

8,5 lần ở người sống ở vùng Đông Nam châu Á, tăng 10,9 lần ở người Đông Ân và gấp 15 lần ở người Mỹ bản địa. Những phát hiện này cũng tương tự như đối với tỷ lệ đái tháo đường typ 2 ở các nhóm chủng tộc tương ứng, cũng như về mối liên hệ với tuổi và sự béo phì. Những thay đổi về chuyển hóa ở phụ nữ tiểu đường thai kỳ cũng có những điểm phù hợp với đặc điểm của người mắc bệnh đái tháo đường typ 2.

ở Việt Nam cũng đã có một vài nghiên cứu về vấn đề này. Lứa tuổi hay gặp của những sản phụ được chẩn đoán tiểu đường thai kỳ thường trên 35, thường gặp ở người thừa cân, béo phì ( BMI trên 23). tiểu đường thai kỳ cũng hay gặp ở những phụ nữ đã từng sinh đẻ nhiều lần.

Ở phụ nữ tiểu đường thai kỳ, nồng độ insulin huyết tương lúc đói tăng gấp 2 lần trong kỳ thai ba tháng cuối so với sau đẻ. Đặc điểm này cũng tương tự như ở phụ nữ không bị đái tháo đường mang thai. Mức tăng tiết insulin tương đối trong nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống ở phụ nữ tiểu đường thai kỳ thấp hơn một cách có ý nghĩa so với phụ nữ mang thai có dung nạp glucose bình thường. Đáp ứng pha sớm của insulin ở người có tiểu đường thai kỳ giảm thấp đến dưới 25% so với phụ nữ bình thường mang thai. Đáp ứng insulin pha muộn tăng tương tự ở người bình thường có thai và người tiểu đường thai kỳ. Khả năng tiết insulin ở phụ nữ tiểu đường thai kỳ nói chung thấp hơn so với phụ nữ có dung nạp glucose bình thường khi mang thai. Ớ người bệnh tiểu đường thai kỳ, đỉnh insulin xảy ra muộn hơn trong nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống. Hiện tượng này tương ứng với giảm đáp ứng insulin pha sớm trong nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường tĩnh mạch. Tiến hành nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống cho thấy, ở phụ nữ tiểu đường thai kỳ luôn có mức insulin cao hơn so với sau khi đẻ và mức insulin cao nhất thường gặp ở phụ nữ béo phì được chẩn đoán có tiểu đường thai kỳ. Ngược lại mức tăng nhạy cảm của tế bào beta đối với các kích thích của các acid amin và glucose thấp hơn một cách có ý nghĩa ở những đối tượng này. Ớ phụ nữ mang thai có dung nạp glucose bình thường, đáp ứng của insulin với thức ăn giàu protein tăng lên rõ rệt so với phụ nữ tiểu đường thai kỳ-

Ngày nay người ta biết rằng những rối loạn trong sự phát triển của đảo tuỵ thời kỳ bào thai và niên thiếu sẽ ảnh hưởng đến sự thăng bằng chuyển hóa và chức năng của tế bào beta ở giai đoạn sau của cuộc đời. Các tác giả Anh nhận thấy các đối tượng lúc sinh hoặc ở giai đoạn dưới một tuổi có cân nặng thấp, sẽ có nguy cơ bị đái tháo đường typ 2 vào lứa tuổi trên 40.

Yếu tố môi trường và dinh dưỡng luôn có vai trò quyết định khuynh hướng phát triển của các rối loạn dung nạp glucose và đái tháo đường typ 2. Điều này được chứng minh bởi số người mắc bệnh đái tháo đường typ 2 đang tăng nhanh ở các nước châu Á, nơi đang có sự thay đổi nhanh mức tăng trưởng kinh tế, kéo theo sự thay đổi “đột ngột’’ về mức sống và lối sống. Những số liệu về tỷ lệ bệnh đái tháo đường trong quần thể những người gốc châu Á, châu Phi di cư đến sống ở các nước công nghiệp phát triển cao hơn người bản xứ, cũng là những chứng cứ khoa học ủng hộ cho nhận xét này.

Các nghiên cứu về mô bệnh học tuy của thai nhi mà mẹ bị bệnh đái tháo đường hoặc bị tiểu đường thai kỳ cũng thấy có hiện tượng kích thích sự tàng trưởng của tế bào beta.

Chẩn đoán tiểu đường thai kỳ

Các tiêu chuẩn chẩn đoán tiểu đường thai kỳ còn là vấn đề tranh cãi mặc dù đã có nhiều hội thảo quốc tế đề cập đến vấn đề này.

Trong nghiên cứu kinh điển, 0’Sullivan và Mahan (1964) đã tiến hành phân tích thống kê đáp ứng với glucose của cơ thể trong 3 giờ với nghiêm pháp 100g glucose bằng đường uống ở 752 phụ nữ mang thai khỏe mạnh. Những quan sát của họ thu được giá trị tương ứng với giá trị trung bình cộng trừ 2 lần độ lệch chuẩn (SD) ở các thời điểm cơ sở lúc đói, sau 1, 2 và 3 giờ. Bằng cách tự chọn mức dung nạp carbohydrat thấp hơn và cao hơn trung bình 2 SD là bất thường. Theo tiêu chuẩn này có 2,5% đối tượng được xác định là mắc tiểu đường thai kỳ.

Các tiêu chuẩn chẩn đoán tiểu đường thai kỳ còn gây nhiều tranh cãi. Sau đây xin giới thiệu tóm tắt một số cơ sở xây dựng tiêu chuẩn chẩn đoán tiểu đường thai kỳ.

Chẩn đoán dựa trên cơ sở thống kê số liệu

Cách định nghĩa bệnh theo thông kê, ngay từ đầu, đã thấy có nhược điểm là chịu ảnh hưởng của tính khác biệt với từng quần thể. Đặc điểm này thể hiện ở các kết quả điều tra, tỷ lệ hiện mắc tiểu đường thai kỳ giao động từ 0,5% (ở miền Bắc nước Anh) đến 12,3% ở dân số thành phố (chủ yếu là người gốc Tây Ban Nha và da đen). Trong một tài liệu tổng quan về một nhóm nhiều dân tộc gồm 10.187 phụ nữ được sàng lọc theo chuẩn hóa về không dung nạp glucose ở New York, tỷ lệ hiện mắc chung tiểu đường thai kỳ là 3,2%. Tần suất tiểu đường thai kỳ thấp nhất ở nhóm người da trắng, tiếp sau là người da đen, người gốc

Tây Ban Nha, người nguồn gốc châu Á và cuối cùng là nhóm phụ nữ được xếp vào một nhóm chung – nhóm “chủng/dân tộc” khác.

Như vậy dùng phương pháp thống kê thuần túy để định nghĩa tiểu đường thai kỳ là không thích hợp vì nó phụ thuộc vào nguy cơ tương đối của quần thể được nghiên cứu.

Chẩn đoán dựa trên tỷ lệ bệnh tật liên quan

Một phương tiện thích hợp hơn đế định nghĩa bệnh là dựa vào tỷ lệ bệnh tật liên quan. Tiêu chuẩn của 0’Sulivan và Mahan đã chịu được thử thách thời gian như một yếu tố dự báo đái tháo đường xảy ra sau đó ở người mẹ, với tỷ lệ mắc đái tháo đường là 50% sau 28 năm theo dõi ở những phụ nữ trong thời gian mang thai được chẩn đoán là tiểu đường thai kỳ.

  • Tỷ lệ bệnh của mẹ

Tỷ lệ bệnh tật của mẹ cũng được phản ánh bằng sự tăng có ý nghĩa tỷ lệ mắc mới của tăng huyết áp và tiền sản giật do mang thai. Với sự quản lý tích cực hiện nay, nếu duy trì mức glucose máu bình thường lúc đói và sau ăn, các biến chứng thường gặp trước đây ở mẹ như đa ối, đẻ non, các bất thường khác khi đẻ và chấn thương khi sinh không tăng lên ở nhóm tiểu đường thai kỳ. Các hậu quả cấp tính chủ yếu của tiểu đường thai kỳ tuy không/hoặc ít tác động tới mẹ nhưng lại tác động đến bào thai.

  • Tỷ lệ bệnh tật ở trẻ sơ sinh

Tỷ lệ bệnh tật ở trẻ sơ sinh của các phụ nữ tiểu đường thai kỳ đã được thừa nhận từ lâu. Các biến chứng chuyển hóa bao gồm hạ glucose máu, hạ calci máu, thai to, tăng bilirubin máu thường xảy ra. Ngày nay nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật chăm sóc trẻ sơ sinh, rất khó chứng minh được sự thay đổi về tỷ lệ bệnh tật ở những đối tượng này. Tuy nhiên, các số liệu trước đây đã cho thấy, tỷ lệ tử vong tăng gấp 4 lần ở trẻ em của các bà mẹ được chẩn đoán có tiểu đường thai kỳ. Song các ảnh hưởng đến trẻ em không chỉ giới hạn trong thời kỳ chu sinh mà còn rất lâu dài. Khi trưởng thành, những trẻ em này sẽ sớm phát triển kháng insulin, dễ bị mắc bệnh thừa cân, béo phì, đặc biệt phần lớn trong số họ có một tỷ lệ cao không dung nạp glucose.

Như vậy, chẩn đoán tiểu đường thai kỳ và quản lý bệnh tích cực ở các bà mẹ không chỉ nhằm đảm bảo sức khoẻ cho sản phụ, mà còn làm giảm hoặc loại bỏ các biến chứng chu sinh, sơ sinh, thậm chí các biên chứng lâu dài ở con cái của họ. Vì thế nhiều nghiên cứu về vấn đề này đã được tiến hành nhằm đạt được một tiêu chí chẩn đoán hoàn hảo.

Giới thiệu một số tiêu chuẩn chẩn đoán

  • Chẩn đoán xác định và chẩn đoán sàng lọc

Tiêu chuẩn được giới thiệu sau đây được áp dụng khá phổ biến ở Mỹ (bảng 9.2). Người ta cho những sản phụ mang thai tiến hành nghiệm pháp sàng lọc vào tuần từ 24 đến 28 của thai kỳ. sản phụ uống 50 gam glucose, nếu đường máu sau một giờ từ 7,8 mmol/l trở lên thi tiến hành nghiệm pháp 100 gam.

Bảng 9.2. Tiêu chí chẩn đoán tiểu đường thai kỳ.

Đường huyết tương NPSL 50gam glucose NPSL 100gam glucose
Lúc đói 5,83 mmol/l (105 mg/dl)
Sau 1 giờ 7,8 mmol/l (140 mg/dl) 10,56mmol/l (190 mg/dl)
Sau 2 giờ 9,2 mmol/l (165mg/dl)
Sau 3 giờ 5,3 mmol/l (145mg/dl)

NFSL: Nghiệm pháp sàng lọc.

Chẩn đoán dương tính nếu có từ 2 giá trị trên ngưỡng.

Tuy nhiên, tiêu chuẩn chẩn đoán này lại không hề tính đến các kết cục ở trẻ sơ sinh. Với ý thức đó, nhiều nhà lâm sàng đã lên tiếng hỏi liệu tiêu chuẩn của 0’Sulivan và Mahan có phải là quá lỏng lẻo để phát hiện và kết luận những người có nguy cơ mắc bệnh tật chu sinh liên quan đến không dung nạp carbohydrat?

Với nghi vấn này “sự bất khả xăm phạm” của tiêu chuẩn chẩn đoán vốn được tin dùng bấy lâu nay đang bị nghi vấn.

Tiêu chuẩn nguyên gốc được dựa trên định lượng glucose ở máu toàn phần theo kỹ thuật Somogy, sau đó được Nhóm Dữ liệu Đái tháo đường Quốc gia của Mỹ (NDDG) sửa đổi bằng cách sử dụng hệ số chuyển đổi bằng 1,14 để đại diện cho glucose huyết tương định lượng bằng kỹ thuật glucokinase. Carpenter và Coustan khuyến cáo sửa đổi sự chuyển đổi này để có tính đại diện hơn cho định lượng glucose huyết tương thực sự. Sự sửa đổi này dẫn đến sự hạ thấp tất các các chỉ tiêu ở nghiệm pháp dung nạp glucose 3 giờ.

  • Các tiêu chuẩn chẩn đoán khác(bảng 9.3)

Bảng 9.3. Các tiêu chuẩn của O’Sulivan/Mahan và các tiêu chuẩn chẩn đoán khác về tiểu đường thai kỳ.

Thời

điểm

Tiêu chuẩn

O’Sulivan/Mahan [mMol (mg/dl), máu toàn phần]

Nhóm dữ liệu đái tháo đường quốc gia [mMol (mg/dl), huyết tương] Sửa đổi của

Carpenter/Coustan [mMol (mg/dl), huyết tương]

Đói 5,0 (90) 5,83 (105) 5,28 (95)
1 giờ 9,17(165) 10,56(190) 10,00 (180)
2 giờ 8,06 (145) 9,17(165) 8,61 (155)
3 giờ 6,94 (125) 8,06(145) 7,78 (140)

Tỷ lệ phụ nữ thỏa mãn tiêu chuẩn sửa đổi này sẽ cao hơn khi dùng nghiệm pháp dung nạp glucose bằng đường uống khi mang thai, như thế độ nhạy của nghiệm pháp sẽ tăng lên.

Tuy nhiên, ảnh hưởng của tiêu chuẩn có tính lựa chọn cao hơn đến độ đặc hiệu còn này đang bị nghi ngờ. Khi sử dụng tiêu chuẩn sửa đổi thấp hơn này, tỷ lệ mắc mới tiểu đường thai kỳ tăng 56%. Các số liệu về tiêu chuẩn sửa đổi đã được Metzger và Coustan trình bày tại Hội thảo quốc tế lần thứ tư về tiểu đường thai kỳ. Nghiên cứu này đã dựa trên cơ sở là số trẻ em, con của những sản phụ được chẩn đoán tiểu đường thai kỳ, thoả mãn những tiêu chuẩn thấp hơn này, có nguy cơ cao về bệnh tật chu sinh bao gồm thai to… Những tiêu chuẩn đánh giá nguy cơ giống như trẻ em của phụ nữ được phát hiện theo tiêu chuẩn NDDG. Như vậy, tiêu chuẩn của Carpenter và Coustan được chấp nhận cho chẩn đoán. Nhưng hạn chế là ở chỗ hiện chúng ta chưa có số liệu theo dõi lâu dài ở nhóm đối tượng này.

Hội thảo Quốc tế lần thứ 4 về tiểu đường thai kỳ đã định nghĩa giá trị ngưỡng của nghiệm pháp còn đang được tranh cãi về “Nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống 75 gram” trong thời kỳ mang thai. Nghiệm pháp được sử dụng ở châu Âu nhiều năm này không có tiêu chuẩn chuẩn hóa. Bởi vì số liệu về các kết cục chưa có nên người ta tự chọn giá trị ngưỡng dựa vào giá trị trung bình cộng, trừ 1,5 SD của số liệu nghiệm pháp dung nạp glucose từ 3500 đôi tượng. Mặc dù khác biệt về lượng glucose, giá trị sau 2 giờ trong nghiệm pháp này được nâng lên 155 mg/dl để phù hợp hơn với giá trị sau 2 giờ của nghiệm pháp với 100 gram glucose và giá trị của Hội nghiên cứu đái tháo đường châu Âu. Một số nghiên cứu đề nghị rằng việc hạ giá trị glucose lúc đói xuống 90 mg/dl

và sau 2 giờ xuống 140 mg/dl cần được xem xét để giảm một cách có ý nghĩa tỷ lệ thai to so với tuổi thai và tỷ lệ can thiệp sản khoa. Nhiều chuyên gia cho rằng, cần tích luỹ nhiều kinh nghiệm nhiều hơn về sử dụng nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống với 75 gam, để xác định tốt hơn giá trị ngưỡng cho nghiệm pháp này trong tương lai (bảng 9.4). Tuy nhiên nhiều nhà chuyên môn đã chứng minh lợi ích của nghiệm pháp này trong nghiên cứu dịch tễ học tiểu đường thai kỳ. Nghiệm pháp được làm buổi sáng sau khi nhịn đói 8 – 14 giờ sau ít nhất 3 ngày có chế độ ăn và họat động không hạn chế.

Bảng 9.4. Tiêu chuẩn tiểu đường thai kỳ bằng đường uống 75 gam glucose.

Thời

điểm

Tổ chức Y tế Thế giới, mg/dl (mmol/l) Hội nghiên cứu đái tháo đường châu Âu, mg/dl (mmol/l) Hội thảo quốc tế tiểu đường thai kỳ, mg/dl (mmol/l) Australia, mg/dl (mmol/l) Mose & cs, mg/dl (mmol/l)
Đói 95 (5,3) 99 (5,5) 90 (5,0)
1 giờ 180 (10,0)
2 giờ 140 (7,8) 162 (9,0) 155 (8,6) 144 (8,0) 140 (7,8)

Chẩn đoán dương tính khi 2 hoặc nhiều hơn giá trị đường huyết tương tĩnh mạch bằng hoặc lớn hơn giá trị đã cho.

Trong thực tế, bất kể tiêu chuẩn chẩn đoán nào được sử dụng đều gặp khó khăn khi coi nghiệm pháp dung nạp glucose như một phương pháp chẩn đoán.

Tính không ổn định của nghiệm pháp dung nạp glucose, được phản ánh bằng độ lặp lại thấp đã được chứng minh trong 50 năm qua. Vấn đề này được nghiên cứu lại trong thời kỳ mang thai trong đó những phụ nữ mang thai có nguy cơ cao được làm nghiệm pháp dung nạp glucose 2 lần liên tiếp cách nhau 1 tuần. Kết quả làm cho người ta thất vọng có tới 24% có kết quả khác nhau ở hai lần kiểm tra. Tiến triển từ giá trị bình thường sang bất bình thường xuất phát từ sự mất bù trong quá trình kiểm tra không thể giải thích được cho sự trái ngược này khi 80% các kết quả khác nhau là chuyển từ bất bình thường về bình thường ở lần kiểm tra thứ hai. Tất cả những thực tế này làm cho mọi giả thuyết đều trở lên phức tạp và khó thuyết phục. Tuy nhiên người ta vẫn phải có một qui ước thống nhất để làm tiêu chuẩn đánh giá.

Vì thiếu tính lặp lại của các lần nghiên cứu đánh giá kết quả nghiệm pháp dung nạp glucose, cùng với những sự khác biệt về kết quả một số bất thường và khác biệt về ngưỡng xác định các bất thường, nhiều nỗ lực đã được đưa ra để thiết lập một tiêu chuẩn chẩn đoán đơn giản hơn cho tiểu đường thai kỳ. Các protein glycat hóa được sử dụng rộng rãi để theo dõi mức kiểm soát nồng độ glucose máu dài hạn. Nhiều nhà lâm sàng hy vọng điều chỉnh test thử máu đơn giản này thành test chẩn đoán tiểu đường thai kỳ không cần sự chuẩn bị về chế độ ăn và có thể tiến hành vào bất cứ thời gian nào trong ngày. Nhưng rất không may là không có một hemoglobin hoặc íructosaminglycat hóa nào có đủ độ nhạy để phát hiện những phụ nữ mắc tiểu đường thai kỳ. Thử glucose mẫu bất kỳ thiếu độ nhạy để phát hiện đầy đủ những phụ nữ có nguy cơ tiểu đường thai kỳ.

Cho đến nay test sàng lọc tốt nhất có lẽ vẫn là nghiệm pháp dung nạp glucose 50 gram sau 1 giờ. Nhất là hiện nay người ta đã thừa nhận rằng 50 gram glucose có thể sử dụng khi đói hoặc no mà không làm giảm độ nhạy hoặc độ đặc hiệu. Sử dụng ngưỡng sàng lọc 130 mg/dl (7,2 mmol/l) đảm bảo độ nhạy gần 100% trong khi vẫn giữ được độ đặc hiệu là 80. Chính vì điều này mà nhiều tác giả đã đề nghị nên lấy ngưỡng để tiến hành nghiệm pháp 100 gam glucose là 7,2 mmol/l, chứ không phải là 7,8 mmol/l như hiện nay. Sự thay đổi ngưỡng này cho nghiệm pháp 100 gam glucose trong 3 giờ ảnh hưởng đến độ nhạy, độ đặc hiệu và chi phí cho sàng lọc phổ thông. Sàng lọc phổ thông tất cả phụ nữ mang thai khi sử dụng giá trị ngưỡng 130 mg/dl (7,2 mmol/l) dẫn đến độ nhạy gần 100% sẽ chịu mức chi phí cao hơn. Giới hạn sàng lọc cho những phụ nữ tuổi trên 25 hoặc những phụ nữ trẻ hơn nhưng có các yếu tố nguy cơ duy trì được độ nhạy trên 95%.

Hội nghị quốc tế lần thứ 2 về tiểu đường thai kỳ kết luận rằng tất cả các phụ nữ mang thai cần được làm nghiệm pháp sàng lọc để phát hiện bệnh này. Mức glucose huyết tương sau 1 giờ trên 140 mg/dl (7,8 mmol/l) thấp hơn so với tiêu chuẩn của Carpenter và Coustan là một kết quả sàng lọc dương tính và cần phải làm nghiệm pháp 100 gam glucose truyền thống để khẳng định tiểu đường thai kỳ. Sàng lọc lựa chọn dựa trên tiền sử lâm sàng và sản khoa trước kia được cho là không thích hợp. Tuy nhiên, các nghiên cứu lớn đã đề xuất rằng hiệu quả của sàng lọc được cải thiện bằng cách chỉ kiểm tra những phụ nữ có nguy cơ cao. Naylor và cộng sự đánh giá số liệu từ 3000 phụ nữ mang thai và phát triển một hệ thống tính điểm để xác định nguy cơ tiểu đường thai kỳ. Điểm được tính dựa trên tuổi, BMI và chủng tộc. Họ lý luận rằng những phụ nữ có điểm thấp không cần thiết phải được kiếm tra, điều này cho phép 1/3 số phụ nữ tránh phải làm test dung nạp glucose.

Quản lý lâm sàng được chấp nhận hiện thời bao gồm sàng lọc tiểu đường thai kỳ trong tuần thai từ 24 – 28 ở phụ nữ mang thai trên 25 tuổi trước kia chưa được phát hiện không dung nạp glucose. Công bố chính thức gần đây của Hội đái tháo đường Hoa Kỳ đề xuất rằng sẽ không hiệu quả khi sàng lọc những phụ nữ có nguy cơ thấp (tức là tuổi dưới 25, các nhóm dân tộc có nguy đái tháo đường typ 2 thấp, không có tiền sử dung nạp glucose bất thường, trọng lượng cơ thể bình thường và không có tiền sử gia đình về đái tháo đường). Tiêu chuẩn mới này đang bị tranh luận, vì nhiều nghiên cứu thấy rằng 10% người bệnh tiểu đường thai kỳ sẽ bị bỏ sót nếu tất cả các phụ nữ không được sàng lọc.

Phương pháp áp dụng trong điều tra dịch tễ

Tiến hành

Trong điều tra dịch tễ người ta vẫn ưa dùng nghiệm pháp chẩn đoán mới với quy trình đơn giản như sau:

  • Khám sàng lọc tất cả các phụ nữ trong tuần thứ 24 đến 28 của thai kỳ.

Phát hiện các đối tượng thuộc nhóm có yếu tốnguy cơ:

Tuổi > 25.

BMI > 23 trước khi có thai.

Tiền sử tiểu đường thai kỳ.

Tiền sử đẻ con to từ 4000 gam trở lên (với người Việt Nam chỉ cần từ 3600 gam trở lên).

Tiền sử sản khoa bất thường như xảy thai, thai chết lưu…

Tiền sử rối loạn dung nạp glucose (IGT) hoặc suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói (IFG).

  • Tiến hành nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống vào buổi sáng sau một đêm nhịn đói.

Quy trình:

Lấy mẫu máu lúc đói để định lượng đường huyết.

Cho uống 75 gam glucose loại anhydrous hoặc 82,5 gam loại glucose monohydrat trong 250 – 300 ml nước trong 5 phút.

Lấy mẫu máu sau 2 giờ để định lượng glucose huyết tương.

Đánh giá

  • Đánh giá hai chỉ số

Bảng 9.5. Hai chỉ số dung nạp glucose ở thai phụ.

Đường máu (mmol/l) Bình thường tiểu đường thai kỳ
Lúc đói <6,1 >6,1
Sau 2 giờ <7,8 >7,8
  • Đánh giá ba chỉ số

Do những thiếu sót của các tiêu chuẩn đánh giá trên, nhiều tác giả khuyên nên định lượng và đánh giá glucose máu ở 3 thời điểm, ngay cả khi sử dụng nghiệm pháp 75 gam (bảng 9.6).

Bảng 9.6. Tiêu chí chẩn đoán rối loạn dung nạp glucose.

Nghiệm pháp Tính theo mmol/l Tính theo mg/dl
Nghiệm pháp 100 g
Lúc đói 5,3 95
Sau 1 giờ 10,0 180
Sau 2 giờ 8,6 155
Sau 3 giờ 7,8 140
Nghiệm pháp 75 g
Lúc đói. 5,3 95
Sau 1 giờ 10,0 180
Sau 2 giờ 8,6 155

Để chẩn đoán tiểu đường thai kỳ phải có từ 2 tiêu chuẩn trở lên.

Chúng ta có thể thấy sự lúng túng trong xác định tiêu chuẩn chẩn đoán tiểu đường thai kỳ. Xu hướng ngày nay người ta vẫn sử dụng tiêu chuẩn 75 gam trong điều tra dịch tễ nhiều hơn, vì nó đơn giản, dễ áp dụng.

Điều trị

Hiện nay khuyến cáo kiểm soát chặt chẽ glucose huyết, mục tiêu cũng giống như thai phụ đã có Đái tháo đường từ trước.

Dinh dưỡng hợp lý là nền tảng của điều trị. Thai phụ cũng được khuyến cáo nên luyện tập từ mức độ nhẹ đến trung bình.

Nếu dinh dưỡng và luyện tập không đạt mục tiêu, insulin là lựa chọn hàng đầu.

Nếu có tiểu đường thai kỳ, sản phụ sẽ được tầm soát bệnh đái tháo đường sau khi sinh khoảng 6-12 tuần và tiếp tục theo dõi sau đó ít nhất 3 năm một lần để kịp phát hiện đái tháo đường hoặc tiền đái tháo đường.

Điều trị gàu và các phương pháp điều trị tại nhà

Gàu do đâu?

Khi bạn bị gàu, da trên da đầu của bạn sẽ bong tróc. Đây không phải là một tình trạng nghiêm trọng, nhưng bạn có thể cảm thấy ngứa và khó chịu. Các mảng gàu có thể trở nên rõ ràng hơn nếu bạn có tóc màu tối hoặc mặc quần áo màu tối.

Gàu được coi là một dạng nhẹ của tình trạng viêm da tiết bã nhờn.

Có nhiều nguyên nhân gây ra gàu, bao gồm:

  • Một số tình trạng bệnh lý nhất định
  • Quy trình chăm sóc tóc của bạn
  • Da nhờn

Có nhiều cách để điều trị gàu, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của nó.

Người da đầu nhiều chất dầu thường hay bị gầu
Người da đầu nhiều chất dầu thường hay bị gầu

Các phương pháp điều trị gàu

Các phương pháp điều trị gàu là cách bạn có thể loại bỏ hoặc kiểm soát tình trạng ngứa và bong tróc trên da đầu của bạn. Hai cách đầu tiên bạn nên thử là chải tóc và sử dụng dầu gội trị gàu.

Chải tóc từ da đầu xuống bằng những cú chải mạnh và đều. Điều này giúp mang dầu từ da đầu ra ngoài, nơi sự tích tụ của nó và tế bào da có thể gây ra gàu. Việc di chuyển nó dọc theo các sợi tóc cũng giúp giữ cho tóc của bạn bóng khỏe.

Dầu gội trị gàu

Không phải tất cả các loại dầu gội trị gàu đều giống nhau. Chúng có các thành phần khác nhau và hoạt động theo những cách khác nhau.

  • Chế phẩm than đá: Các tên thương mại cho loại này bao gồm Denorex Therapeutic Protection, Neutrogena T/Gel và Scytera. Than đá làm chậm quá trình chết và bong tróc của tế bào da trên da đầu của bạn.
  • Pyrithione kẽm: Thành phần này tiêu diệt vi khuẩn và nấm. Các tên thương mại bao gồm Selsun Blue cho Da đầu khô ngứa, Neutrogena T/Gel Daily Control Dandruff Shampoo và Head & Shoulders.
  • Axít salicylic và lưu huỳnh: Những thành phần này hoạt động cùng nhau để dưỡng ẩm cho da đầu và giảm vảy. Các tên thương mại bao gồm Sebex và Sebulex.
  • Axít salicylic: Nó có tác dụng giảm vảy. Các ví dụ bao gồm Neutrogena T/Sal.
  • Selenium sulfide: Thành phần này tiêu diệt nấm. Nó có thể làm đổi màu tóc và da đầu của bạn. Các tên thương mại bao gồm Dandrex, Head & Shoulders Clinical Strength và Selsun.
  • Ketoconazole: Đây là một thành phần chống nấm mạnh. Các tên thương mại bao gồm Extina, Nizoral A-D và Xolegel.

Bạn có thể cần thay đổi giữa các loại dầu gội nếu một loại kiểm soát gàu lúc đầu nhưng sau đó mất hiệu quả. Và nếu bạn quyết định thử một loại dầu gội có chứa than đá, bạn cần phải cẩn thận. Than đá điều trị gàu bằng cách làm cho các tế bào da trên da đầu bạn chết và bong tróc chậm hơn, nhưng có những điều bạn nên biết:

  • Một số người có thể bị phản ứng dị ứng với nó.
  • Nó có thể làm đổi màu tóc sáng màu, móng tay, da và quần áo.
  • Bạn cần tránh xa bất kỳ vết cắt, da bị tổn thương hoặc nhiễm trùng, cũng như mắt của bạn.
  • Nó có thể làm cho da của bạn nhạy cảm hơn với ánh nắng mặt trời. Bạn nên tránh ánh nắng trong 24 đến 72 giờ sau khi sử dụng.
  • Phụ nữ đang mang thai hoặc cho con bú không nên sử dụng.

Cách sử dụng dầu gội trị gàu

Khi gội đầu:

  • Xoa dầu gội vào da đầu của bạn thật tốt. Để dầu gội trên đầu trong 5 phút, hoặc theo chỉ dẫn.
  • Xả sạch. Bất kỳ dầu gội nào còn lại có thể gây kích ứng da của bạn.

Các loại tóc khác nhau yêu cầu các cách tiếp cận khác nhau khi sử dụng dầu gội trị gàu.

Nếu tóc bạn tự nhiên thẳng hoặc mảnh, hoặc nếu bạn có da đầu nhờn, bạn có thể cần gội tóc hàng ngày, sử dụng dầu gội trị gàu hai lần một tuần.

Nếu tóc bạn tự nhiên xoăn, có xoáy hoặc thô, hãy gội tóc khi cần thiết và chỉ sử dụng dầu gội trị gàu một lần một tuần. Bạn có thể muốn chỉ áp dụng dầu gội trị gàu lên da đầu và sử dụng các sản phẩm thông thường cho phần còn lại của tóc. Nếu tóc bạn có xoăn hoặc xoáy, các thành phần trong dầu gội trị gàu có thể làm khô tóc.

Khi gàu của bạn được kiểm soát, bạn có thể có thể sử dụng dầu gội trị gàu ít thường xuyên hơn.

Dầu gội trị gàu mất bao lâu để có tác dụng?

Thời gian để dầu gội trị gàu có tác dụng có thể khác nhau tùy thuộc vào từng sản phẩm và tình trạng gàu của bạn. Tuy nhiên, hầu hết các loại dầu gội trị gàu đều cần thời gian để hoạt động, thường từ vài tuần đến vài tháng. Để có kết quả tốt nhất, hãy kiên trì sử dụng và theo dõi sự cải thiện tình trạng gàu của bạn.

Ngứa và gàu của bạn sẽ hết sau một vài tuần sử dụng dầu gội trị gàu đều đặn. Nếu không, bạn có thể muốn nói chuyện với bác sĩ hoặc bác sĩ da liễu, một bác sĩ chuyên về các tình trạng da.

Các phương pháp điều trị gàu theo toa

Nếu các biện pháp tự chăm sóc không cải thiện tình trạng gàu của bạn, bạn có thể cần thuốc theo toa. Các loại thuốc này có thể bao gồm:

  • Fluocinolone (Capex): Đây là một loại corticosteroid được sử dụng để giảm ngứa và gàu.
  • Chất ức chế calcineurin: Các loại thuốc như pimecrolimus (Elidel) và tacrolimus (Protopic) giúp ức chế phản ứng miễn dịch của cơ thể bạn.

Bạn cũng có thể cần liệu pháp ánh sáng, trong đó da bạn sẽ được tiếp xúc với ánh sáng tia cực tím trong điều kiện kiểm soát.

Các phương pháp điều trị gàu tại nhà

Ngoài dầu gội trị gàu, một số biện pháp khác có thể giúp. Bạn có thể thử một số phương pháp tự nhiên sau. Chúng có thể dưỡng ẩm hoặc có tác dụng chống lại vi khuẩn hoặc nấm:

  • Dầu dừa:
    Bắt đầu bằng cách xoa 3 đến 5 muỗng cà phê vào da đầu của bạn, sau đó chờ một giờ và gội đầu. Dầu dừa chứa axit lauric, có đặc tính chống nấm. Một nghiên cứu nhỏ ở Ấn Độ cho thấy rằng dầu dừa làm giảm vi khuẩn và nấm trên da đầu.
  • Nha đam:
    Xoa một chút lên da đầu ngay trước khi gội đầu. Một nghiên cứu ở Ý cho thấy rằng nha đam hoạt động tốt cho bệnh viêm da tiết bã với ít tác dụng phụ.
  • Giấm táo:
    Trộn một phần tư cốc giấm táo với một phần tư cốc nước, sau đó đổ lên da đầu của bạn. Để yên trong ít nhất 15 phút, sau đó rửa sạch da đầu. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng giấm táo có thể có tác dụng kháng khuẩn.
  • Aspirin:
    Nghiền hai viên aspirin và trộn chúng với dầu gội của bạn, sau đó gội đầu. Để yên trong 2 phút rồi xả sạch. Aspirin chứa axit salicylic, một thành phần có trong một số dầu gội trị gàu.
  • Baking soda:
    Làm ướt tóc của bạn, sau đó cho baking soda lên da đầu. Để yên trong vài phút, sau đó rửa sạch. Có một số bằng chứng cho thấy baking soda có tác dụng tích cực đối với các tình trạng da, bao gồm cả vẩy nến. Nhưng baking soda có tính kiềm, có thể làm hỏng tóc của bạn.
  • Nước chanh:
    Xoa 2 muỗng cà phê nước chanh lên da đầu, để yên trong vài phút, sau đó xả sạch. Tiếp theo, trộn một muỗng cà phê nước chanh với 1 cốc nước và đổ lên da đầu. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy bằng chứng cho thấy các axit trong trái cây họ cam quýt có thể giúp da đầu duy trì mức pH khỏe mạnh. Nhưng không có bằng chứng cho thấy nước chanh sẽ giúp làm giảm gàu.
  • Dầu ô liu:
    Xoa một vài giọt dầu ô liu lên da đầu, che tóc bằng mũ tắm, sau đó ngủ qua đêm. Vào buổi sáng, gội đầu. Dầu ô liu có thể hoạt động như một chất dưỡng ẩm. Nhưng nó có thể làm nặng thêm tình trạng gàu bằng cách làm cho da đầu của bạn trở thành môi trường hấp dẫn hơn cho nấm.
  • Dầu tràm:
    Một số nghiên cứu cho thấy dầu tràm, một sản phẩm phụ của cây trà Úc, có thể giúp với gàu, nhưng cần nhiều nghiên cứu hơn. Trong một số trường hợp, nó có thể gây kích ứng da hoặc gây ra phản ứng dị ứng.

Điều trị gàu do căng thẳng

Căng thẳng không thực sự gây ra gàu, nhưng nó có thể làm cho tình trạng này trở nên tồi tệ hơn.

Quản lý căng thẳng của bạn có thể có tác động tích cực đến tình trạng gàu. Dưới đây là một số kỹ thuật để thử:

  • Thiền
  • Thở sâu
  • Tập thể dục và ăn chế độ ăn uống lành mạnh
  • Giới hạn việc sử dụng mạng xã hội
  • Kết nối với những người khác

Phòng ngừa gàu

Bạn có thể thực hiện một số bước tại nhà để giảm nguy cơ mắc gàu. Chúng bao gồm:

  • Chế độ ăn: Đảm bảo bạn nhận đủ kẽm, vitamin B và chất béo lành mạnh có thể cải thiện sức khỏe của da đầu.
  • Thiết lập thói quen: Nếu da đầu của bạn có xu hướng dầu, bạn có thể cần gội đầu thường xuyên hơn. Nếu da đầu của bạn có xu hướng khô, hãy gội đầu ít thường xuyên hơn và dưỡng ẩm cho da đầu.
  • Ra ngoài: Một vài phút ánh nắng mặt trời là tốt cho da đầu của bạn. Nhưng đừng lạm dụng; điều đó làm tăng nguy cơ ung thư da.
  • Giới hạn sản phẩm: Khi bạn sử dụng các sản phẩm tạo kiểu, chúng có thể tích tụ trên tóc của bạn. Điều này có thể làm cho tóc và da đầu của bạn trở nên dầu hơn.

Khi nào nên gặp bác sĩ để điều trị gàu

Nếu bạn vẫn còn ngứa và rụng tóc sau khi thử các biện pháp tự chăm sóc, hãy gặp bác sĩ của bạn. Đối với các trường hợp gàu thực sự cứng đầu, bạn có thể cần sử dụng dầu gội hoặc thuốc bôi theo toa.

Những điều cần lưu ý

Gàu là một phiên bản nhẹ của một tình trạng gọi là viêm da tiết bã. Nó khiến da trên da đầu của bạn bị bong ra và ngứa. Một loại dầu gội trị gàu không cần kê đơn, được sử dụng theo hướng dẫn trong vài tuần, sẽ giúp giải quyết vấn đề. Nếu gàu của bạn đặc biệt nghiêm trọng, bạn có thể cần thuốc theo toa. Bạn có thể thử các biện pháp tại nhà, bao gồm nhiều loại dầu thực vật, nhưng bằng chứng cho thấy chúng có hiệu quả là rất ít. Thiết lập một thói quen chăm sóc tóc tốt, nhận được một lượng ánh sáng mặt trời vừa phải và hạn chế việc sử dụng các sản phẩm tạo kiểu có thể giảm nguy cơ gàu.

Câu hỏi thường gặp về gàu

Làm thế nào tôi có thể loại bỏ gàu nhanh chóng?

Nếu bạn có một trường hợp gàu nhẹ, việc sử dụng một loại dầu gội trị gàu không cần kê đơn theo hướng dẫn trong vài tuần nên sẽ giải quyết được vấn đề. Tìm các sản phẩm chứa một trong các thành phần sau:

  • Kẽm pyrithione
  • Axit salicylic
  • Lưu huỳnh
  • Selenium sulfide
  • Ketoconazole
  • Than đá

Nước nóng có gây ra gàu không?

Nước nóng không gây ra gàu. Nhưng nó có thể làm khô da đầu của bạn và khiến da bạn trở nên nhạy cảm hơn.

Dầu dừa có tốt cho gàu không?

Có một số nghiên cứu cho thấy dầu dừa làm giảm nấm và vi khuẩn trên da đầu của bạn. Nó cũng sẽ dưỡng ẩm cho làn da của bạn.

Gàu có phải là nấm không?

Gàu liên quan đến nhiều yếu tố, và các chuyên gia không hoàn toàn hiểu cách chúng hoạt động cùng nhau. Một loại nấm có tên là malassezia đóng vai trò trong tình trạng này. Đây là một loại nấm men được tìm thấy trên da của mọi người, nhưng một số người có quá nhiều loại nấm này.

Long Não

Long Não
Long Não

LONG NÃO

Tên khác:

Kim Cước Não, Cảo Hương, Thượng Long Não, Hư Phạn, Băng Phiến Não, Mai Hoa Não, Mễ Não, Phiến Não, Tốc Não, Cố Bất Bà Luật, Long Não Hương, Mai Hoa Băng Phiến, Yết Bà La Hương, Bà Luật Hương, Nguyên Từ Lặc, Chương Não, Não Tử, Triều Não (Trung Dược Học), Dã Hương (Dược Liệu Việt Nam).

Tên khoa học:

Cinnamomum camphora N. et E.

Họ khoa học:

Họ Long Não (Lauraceae).

Mô Tả:

Cây gỗ, cao 10-15m. Lá đơn nguyên, hình mũi mác, mặt trên xanh, mặt dưới màu nhạt hơn, có cuống dài, mọc so le, không có lá kèm, gân lá lông chim. Ở gốc của gân giữa với 2 gân phụ lớn nhất có 2 tuyến nhỏ. Cụm hoa hình sim 2 ngả ở ngọn cành. Hoa nhỏ màu vàng lục, đều, lưỡng tính. Đế hoa lõm, mang bao hoa và bộ nhụy xếp thành vòng 3 bộ phận một. Bao hoa gồm 3 lá đài và 3 cánh hoa không khác nhau mấy. Bộ nhụy gồm 3 vòng nhụy hữu thụ và 1-2 vòng nhụy lép có tuyến. Nhụy hữu thụ, có chỉ nhụy mỏng mang bao phấn, cấu tạo bởi 4 ô phấn nhỏ, chồng lên nhau 2 cái một. Mỗi ô nhỏ mở bởi 1 cái lưỡi gà quay về phía trong đối với 2 vòng ngoài và quay về phía ngoài đối với vòng trong cùng. 2 bên chỉ nhụy của vòng này mang tuyến nhỏ. Bộ nhụy gồm 1 tâm bì. Bầu thượng, vòi hình trụ phồng ở ngọn. Một noãn đảo. Quả mọng đựng trong đế hoa tồn tại và rắn lai. Hạt không nội nhũ.

Địa lý:

Trồng khắp nơi.

Thu hái, Sơ chế:

Lấy gỗ vào mùa xuân, mùa thu [ cây 40-50 tuổi trở lên có nhiều Long não] (Dược Liệu Việt Nam).

Bộ phận dùng:

Bột kết tinh sau khi cất gỗ và lá cây Long não. Bột Long não màu trắng, mùi thơm đặc biệt, có khi được nén thành khối vuông hoặc tròn.

Bào chế:

+Chặt nhỏ cây, cành lá, chưng cất lấy Long não thô rồi lại thăng hoa tinh chế lần nữa để được bột Long não tinh chế. Cho vào khuôn để có những cục hoặc khối Long não.

+Chẻ nhỏ thân, cành, rễ, lá, đem cất với nước sẽ được Long não và tinh dầu (Dược Liệu Việt Nam).

+Ngâm cồn 600 với tỉ lệ 1/10 để xoa bóp (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).

Bảo quản:

Đựng vào lọ kín. Thêm Đăng tâm để không mất hương vị.

Thành phần hóa học:

+Tinh dầu và Long não tinh thể d-Camphora (Trung Dược Học).

+Tinh dầu Long não cất phân đoạn sẽ được tinh dầu Long não trắng (dùng chế Cineola), tinh dầu Long não đỏ (chứa Safrola, Carvacrola), tinh dầu Long não xanh (chứa Cadinen, Camhoren, Azulen] (Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược).

+Trong gỗ có khoảng 0,5 Long não đặc, 2% tinh dầu Long não (Dược Liệu Việt Nam).

+ Rễ, thân. Lá chứa tinh dầu gồm những thành phần: d-Camphor, a-Pinen, Cineol, Safrol, Campherenol, Caryophyllen, Terpineol, Phellandrene, Carvacrol, Azullen, d- Limone, Cadinen (Trung Dược Học).

+ Thành phần chủ yếu của gỗ, lá và rễ long não là tinh dầu và long não tinh thể. Tùy theo tuổi cây, hàm lượng tinh dầu và long não tinh thể thay đổi.

Long não thiên nhiên, có tinh thể màu trắng, mùi thơm đặc biệt, vị nóng, ở nhiệt độ thường, lao não thang hoa được, tín tan trong nước, tan nhiều trong các dung môi hữu cơ (cồn, Ête, Clofoc) quay phai + 430. Tính chất long não là một xeton.

Tinh dầu long não cất phân đoạn sẽ được tinh dầu long não trắng (dùng chế Xineola), tinh dầu long não đỏ (chứa Safrola, Cacvacrola), tinh dầu long não xanh (chứa cadinen, camphoren, azlen) (Những Cây thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).

Tác dụng dược lý:

+Tác dụng đối với trung khu thần kinh: Long não có tác dụng hưng phấn trung khu thần kinh, tăng cường hô hấp và tuần hoàn, nhất là trung khu thần kinh đang ở trạng thái ức chế thì tác dụng càng rõ. Cơ chế tác dụng là lúc tiêm dưới da, thuốc kích thích tại chỗ gây phản xạ hưng phấn.

+Bôi vào da, Long não gây cảm giác ấm, kích thích và diệt khuẩn. Long não cũng gây cảm giác mát, tê.

+Uống trong, Long não kích thích niêm mạc dạ dày: liều nhỏ gây cảm giác ấm áp dễ chịu; Liều cao gây buồn nôn, nôn.

+Tác dụng đối với tim mạch: Long não có tác dụng hưng phấn cơ tim đối với tim đang suy yếu nhưng với liều thông thường không có tác dụng nào đối với cơ tim. Trong 1 số thí nghiệm cho thấy đối với trung khu mạch máu, chỉ khi nào chức năng bị suy kiệt, thuốc mới có tác dụng hưng phấn.

+Tác dụng dược động học: Long não được hấp thu dễ và nhanh qua da, niêm mạc bất cứ nơi nào trên cơ thể, kể cả niêm mạc dạ dày. Thuốc bị Oxy hóa ở gan được Campherenol, sau đó chuyển hóa kết hợp với Glucoronic và bài tiết ra nước tiểu (Trung Dược Học).

Độc tính của thuốc: Liều uống 0,5-1g có thể gây hoa mắt, chóng mặt, đầu đau, cảm giác nóng, gây kích thích, nói sảng. Uống trên 2 g dẫn đến yên tĩnh nhất thời và tiếp theo là vỏ não bị kích thích gây co giật, cuối cùng là suy hô hấp và chết.

Uống 7-15g và tiêm bắp 4g gây chết. Cấp cứu chủ yếu là điều trị triệu chứng vì thuốc được cơ thể giải độc nhanh và thường được cứu sống (Trung Dược Học).

Tính vị:

+Vị đắng, cay, tính ấm, có độc ít (Bản Thảo Phẩm Hội Tinh Yếu).

+Vị cay, tính nhiệt, không độc (Bản Thảo Cương Mục).

+Vị cay, tính nóng, có độc (Trung Dược Học).

+Vị cay, tính nóng (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Quy kinh:

+Vào kinh Tâm, Tỳ (Bản Thảo Tái Tân).

+Vào kinh Can (Bản Thảo Tối Yếu).

+Vào kinh Tâm, Tỳ (Trung Dược Học).

+Vào kinh Phế, Tâm, Vị (Đông Dược Học Thiết Yếu). Tác dụng:

+Sát trùng, trừ giới tiễn, liệu dương, hóa sang (Bản Thảo Phẩm Hội Tinh Yếu).

+Thông quan khiếu, lợi trệ khí, trừ thấp, sát trùng (Bản Thảo Cương Mục).

+Khứ phong thấp, sát trùng, khai khiếu, trừ dịch uế (Trung Dược Học).

+Trừ uế khí, sát trùng, thông quan, lợi khiếu (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Chủ trị:

+Uống trong trị thổ tả thuộc hàn thấp, các chứng đau ở vùng tim và bụng. Dùng ngoài: rửa hoặc xông chữa ghẻ lở, hắc lào, cước khí (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Kiêng kỵ:

+Có thai và khí hư: không dùng (Trung Dược Học).

+Không phải là chân hàn và người có thấp nhiệt: không dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Liều dùng: Uống trong: 0,1-0,2g thuốc tán hoặc rượu. Dùng ngoài: lượng vừa đủ tán bột trộn với dầu hoặc cồn bôi.

Đơn thuốc kinh nghiệm:

+Trị bụng đau do uế khí thuộc sa chứng: Chương não, Một dược, Minh nhũ hương. Tán bột, uống 0,01g với nước trà (Chương Não Tán – Trương Sơn Lôi phương).

+Trị lở loét do nằm lâu: Long não, Não sa, mỗi thứ 2g. Trường hợp chưa loét, dùng 200ml cồn 75%, chế với thuốc thành Tinctura, bôi. Nếu đã loét, dùng cao mềm Hoàng liên Tố, phối hợp với thuốc bôi ngoài (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+Trị hậu môn bị thấp chẩn lở ngứa: Long não, Minh phàn đều 2g, Mang tiêu 20g, hòa với nước sôi 600ml, đợi ấm, ngâm mông vào 10 phút, ngày 2 lần (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+Trị chàm ở chân thường bội nhiễm hoặc loét: Long não 3g, Đậu hũ 2 miếng, trộn nát, đắp ngoài (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+Trị răng sâu đau: Long não, Chu sa, lượng bằng nhau, tán bột, bôi (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+Trị trẻ nhỏ bị lở ngứa: Long não, Hoa tiêu, Mè đen, lượng bằng nhau, tán bột, trộn với Vaselin, bôi (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+Trị giun kim: Long não 1g, Hắc bạch sửu 3g, Binh lang 6g. Tán bột. Trước khi đi ngủ, lấy 100ml nước sôi, hòa thuốc, đợi nước ấm 300C, lấy ống tiêm hút thuốc bơm vào hậu môn, liên tục 3-5 lượt. Kết quả tốt (Tào-Mỹ-Hoa – Thượng Hải Trung Y Dược Tạp Chí 1985, 5:34).

+Trị đau khớp do bong gân: dầu Long não, dầu Tùng tiết, trộn đều, bôi chỗ đau (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Tham khảo:

“”Long não thông khiếu rất mạnh, người lớn, trẻ nhỏ bị bệnh đờm dãi bế tắc hoặc thình lình bị kinh sốt: dùng Long não rất hay” (Bản Thảo Diễn Nghĩa).

“Long não chẳng những nóng mà còn bốc, gần giống như Xạ hương, nó có thể giúp sức được cho Quế, Phụ tử nhưng vì người ta dương khí dễ động mà âm khí dễ hao, cho nên, uống Long não nhiều thì sẽ động dương mà hao âm vậy” (Bản Thảo Diễn Nghĩa Bổ Di).

“Long não vào xương, những bệnh gió độc ngấm vào xương tủy mới nên dùng nó. Nếu bệnh ở huyết mạch, ở da thịt mà cũng dùng Long não, Xạ hương thì như là dãn cho gió độc đi vào xương tủy, giống như dầu thấm vào giấy bản: nó có thể vào mà không có thể ra” (Trân Châu Nang).

“Long não rất cay, hay chạy, cho nên có thể làm tan được khí nóng, thông được chỗ đọng tụ. Phàm những bệnh mắt đau, hoặc họng đau và những chứng giang mai nhiều khi phải dùng đến nó” (Bản Thảo Tập Yếu).

“Chương não và Băng phiến đều có mùi thơm khác hẳn, lại đều có vị cay, cho vào miệng lúc đầu cảm thấy nóng rát như đốt, sau đó mát dịu. 2 vị này tác dụng gần giống nhau, dùng ít thì hưng phấn, dùng nhiều thì có cảm giác tê. Khó tan trong rượu nhưng đốt thì cháy. Tuy nhiên, Băng phiến mát và thuần hơn Chương não, còn Chương não thì mạnh và dữ hơn Băng phiến” (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Phân biệt:

“Không nhầm Long não bột với chất lấy ở cây Đại Bi (Blumea balsamifera) mùa trắng xanh, mùi thơm nhưng hăng hơn” (Dược Liệu Việt Nam)

Miệng có vị ngọt (Khẩu điềm) – Phân biệt triệu chứng bệnh Đông y

Khái niệm

Khẩu điềm cũng gọi là Khẩu cam, tài liệu rất sớm là Tố vấn – Kỳ bệnh luận có viết: “Có bệnh miệng thấy vị ngọt… đó là ngũ khí trào lên, bệnh danh là Tỳ đản”. Nhưng Tỳ đản là bệnh danh, còn “Khẩu điềm” (tức là miệng có vị ngọt) chẳng qua chỉ là một chứng trạng của Tỳ đản chứ không thể coi miệng có vị ngọt là “Tỳ đản”.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Miệng có vị ngọt do Tỳ Vị bị nhiệt hun đốt: Có chứng trạng miệng phát sinh vị ngọt, miệng khô muổn uống nước, hay ăn, mau đói, hoặc môi lưỡi phá lở, đại tiện khô, tiểu tiện vàng, lưỡi đỏ rêu vàng mà khô, mạch Sác có lực.
  • Miệng có vị ngọt do Tỳ Vị khí âm đều hư:Có chứng miệng có vị ngọt, kém ăn uống, khô miệng nhưng uống không nhiều, tinh thần mỏi mệt yếu sức bụng trướng, đại tiện không điều, lưỡi khô chất hơi đỏ, ít rêu, mạch Tế Nhược.

Phân tích

  • Chứng Miệng có vị ngọt do Tỳ Vị bị nhiệt nung nấu. Thường do ăn quá nhiều những đồ cay nóng béo ngọt dẫn đến nội nhiệt ấp ủ nên có câu nói: “Chất béo bổ làm cho người ta nóng ở trong; chất ngọt làm cho đầy bụng cho nên khí mới trào lên trên” mà phát sinh ra miệng có vị ngọt. Hoặc do cảm nhiễm thấp nhiệt của thời tiết uất kết ở Tỳ Vị tranh giành với cốc khí hun đốt bốc lên mà thành có vị ngọt. Lâm sàng kiêm các chứng khát nước, hay ăn mạu đói hoặc môi lưỡi phá lở, đại tiện khô kết, lưỡi đỏ rêu khô, mạch Sác có lực. Điều trị phép chữa căn bản là thanh nhiệt tả hỏa, chứng nhẹ thì cho uống Tả hoàng tán, nếu có kiêm Phủ Thực có thể dùng Đại hoàng Hoàng liên tả Tâm thang gia giảm.
  • Chứng Miệng có vị ngọt do Tỳ Vị khí âm đều hư. Phần nhiều do tuổi cao hoặc mắc bệnh quá lâu tổn hại đến Tỳ Vị dẫn đến khí âm đều hư, hư nhiệt từ trong sinh ra, chất tân dịch ở Tỳ bị hun đốt biến thành miệng có vị ngọt, biểu hiện lâm sàng là khô miệng nhưng uống không nhiều nước, hơn nữa còn có chứng đoản hơi yếu sức không thiết ăn uống, trướng bụng, đại tiện nhão hoặc khô. Điều trị nên ích khí kiện Tỳ hòa Vị dưỡng âm. Trương Thạch Ngoan dùng bài Bổ trung ích khí bỏ Thăng Sài gia Lan hương và Cát căn nướng để điều trị; cũng có thể dùng bài Thất vị Bạch truật tán gia Sơn dược, Thạch hộc, Liên tư…
  • Miệng có vị ngọt là chứng trạng của Tỳ nhiệt. Chứng nói trên là thực nhiệt, chứng nói dưới là hư nhiệt. Chứng nói trên coi miệng khô, thích uống nước, đại tiện khô, tiểu tiện vàng lưỡi đỏ, rêu vàng mạch Sác có lực là chứng trạng chủ yếu. Chứng ở dưới coi kém ăn, tinh thần mỏi mệt yếu sức, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế Sác là chứng trạng chủ yếu. Khi điều trị, chứng nói trên có thể dùng thuốc đắng lạnh đánh thẳng vào bệnh; chứng ở dưới thì phải dùng thuôc bổ khí tư âm mà điều bổ từ từ.

Trích dẫn y văn

  • Tỳ nhiễm lạnh thì miệng có vị ngọt. (Thế y đắc hiệu phương).
  • Miệng có vị ngọt… mạch Huyền Hoạt mà có chứng cồn cào là thuộc đờm hỏa cho uống cổn đờm hoàn. Đây là chỉ thực hỏa mà nói (Trương thị ỵ thông).

Nhịp nhanh bộ nối

NHỊP NHANH BỘ NỐI (Junctional Tachycardia: JT)

Trong phạm vi bài này chỉ đề cập đến nhịp nhanh bộ nối nhĩ thất không kịch phát (nonparaxysmal AV junctional tachycardia) được gọi tắt là nhịp nhanh bộ nối.
Là một loại loạn nhịp lành tính thường gặp ở bệnh nhân có bệnh tim thực tổn, nhưng cũng có thể gặp ở người khỏe mạnh không có biểu hiện triệu chứng. Tuy nhiên nếu nhịp quá nhanh, kéo dài xảy ra ở trẻ em hoặc trẻ sơ sinh kèm bệnh tim bẩm sinh → tỷ lệ tử vong cao.

1. CƠ CHẾ

Do tăng tự động tính hoặc hoạt động lẫy cò ở vị trí nút nhĩ thất hoặc gần bó His, đặc trưng của loạn nhịp này là tăng lên từ từ và chấm dứt cũng từ từ.

2. ĐIỆN TÂM ĐỒ

Nhịp tim dao động từ 70‒130 lần/phút
Phức bộ QRS hẹp
Thường không thấy sóng P (vì lẫn vào QRS) nhưng cũng có thể thấy P âm do khử cực ngược lên nhĩ, đứng ngay trước hoặc sau QRS.

3. NGUYÊN NHÂN

Nhồi máu cơ tim thành dưới
Viêm cơ tim do thấp tim
Sau phẫu thuật tim hở
Quá liều digitalis
Xảy ra trong lúc làm thủ thuật cắt đốt đường dẫn truyền chậm (slow pathway)
Hạ Kali máu
Giảm oxy huyết.

4. BIỂU HIỆN LÂM SÀNG

Phụ thuộc tốc độ nhịp tim và bệnh cảnh tim mạch kèm theo. Cũng như hầu hết các loạn nhịp những dấu hiệu lâm sàng thường được xác định bởi mối liên hệ giữa sóng P và phức bộ QRS và giữa tốc độ co bóp của nhĩ và thất. Tiếng tim thứ nhất T1 hằng định hoặc thay đổi, có thể có sóng cannon A (đại bác A) hoặc tĩnh mạch cổ đập.
Một dấu chứng đặc biệt quan trọng lâm sàng thường gặp là bệnh nhân rung nhĩ đang điều trị bằng Digoxin đo điện tâm đồ xuất hiện nhịp nhanh bộ nối, đó là dấu hiệu sớm của ngộ độc digitalis (phải ngừng thuốc ngay, đo nồng độ Digoxin và ion Kali).

5. ĐIỀU TRỊ

Điều trị nguyên nhân là chủ yếu
Nếu ngộ độc digitalis → ngừng thuốc, kiểm tra Kali máu, nên bù Kali trên ngưỡng # 5,5 mmol/l và dùng kháng thể chuyên biệt Digoxin nếu có.
Nếu không do ngộ độc Digoxin có thể điều trị bằng:
Digoxin
Ức chế beta
Ức chế canxi
Cắt đốt qua catheter có thể hiệu quả nhưng nguy cơ block nhĩ thất độ III.

Sốt bại liệt – Điều trị và chăm sóc

Sốt bại liệt là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do Poliovirus lây truyền theo đường tiêu hoá. Virus cùng một lúc gây tổn thương ở nhiều cơ quan, đặc biệt ở hệ thần kinh vận động đưa đến liệt ngoại biên thường ở chi dưới, còn gọi là bệnh viêm tuỷ xám sừng trước cấp tính (PAA).

MẦM BỆNH

Poliovirus là một loại ARN virus đường ruột, rất nhỏ, mọc dễ dàng trong tế bào thận người, thận khỉ, tế bào Kela và tế bào màng nhau người. Virus sống được nhiều ngày ở môi trường bên ngoài, nó dễ mất hoạt tính ở 56°c, bởi dung dịch fbrmalin, clor và tia cực tím.

Có 3 typ huyết thanh:

  1. Typ I: Brunhild.
  2. Typ II: Lansing
  3. Typ III: Leon.

Không có miễn dịch chéo giữa các typ.

DỊCH TỄ

  • Nguồn nhiễm

Người bệnh và người mang virus. ở giai đoạn đầu, có vỉrus ở trong họng, ở giai đoạn sau, có virus trong phân. Số người mang virus cao là nguồn nhiễm quan trọng nhất.

  • Đường truyền nhiễm

Lây nhiễm chủ yếu qua đường tiêu hoá, nuốt thức ăn, uống nước… có ô nhiễm phân bệnh nhân.

  • Khối cảm thụ

Bệnh thường gặp ở trẻ em. Các yếu tố thuận lợi cho bệnh xảy ra là:

Nguồn nước bị ô nhiễm phân bệnh nhân.

Trẻ dưới 5 tuổi.

Trẻ chưa được tiêm chủng hoặc tiêm chủng chưa đầy đủ.

Sốt bại liệt xảy ra ở khắp thế giới, tập trung nhiều ở những nước đang phát triển . Bệnh xảy ra quanh năm ở vùng nhiệt đới.

BỆNH SINH

Quá trình bệnh sinh lần lượt qua 3 giai đoạn:

  • Giai đoạn xâm nhập và tăng sinh: 2 ngày đầu

Sau khi xâm nhập qua miệng hoặc đường hô hấp virus đến họng và đường tiêu hoá dưới. Từ đấy, chúng lan đến các hạch bạch huyết khu vực và tăng sinh. Người ta tìm thấy virus trong dịch nhớt cổ họng và trong phân.

  • Giai đoạn nội tạng

Từ ngày thứ 3, virus vào máu rồi đến hệ thần kinh trung ương, các cơ quan nội tạng, da và niêm mạc. Người ta có thể tìm thấy virus trong phân, dịch nhớt cổ họng và máu.

  • Giai đoạn xâm nhập, tăng sinh ở hệ thần kinh trung ương

Virus từ các cơ quan nội tạng vào máu lần thứ hai để đến hệ thần kinh trung ương lần nữa. Kháng thể bắt đầu xuất hiện và vịrus biến mất dần ở cơ quan nội tạng.

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

Nhiễm Poliovirus không triệu chứng

Chiếm 90-95% các trường hợp. Chẩn đoán dựa vào việc phân lập virus trong phân hoặc sự có mặt của kháng thể trong máu.

Sốt bại liệt thể tuỷ sống

  • ủ bệnh: 8-10 ngày.
  • Khởi phát (giai đoạn tiền liệt): 3-5 ngày.

Hội chứng nhiễm khuẩn:

Sốt 39-40°C, không lạnh run, không co giật, kéo dài vài ngày, các triệu chứng giảm khi xuất hiện liệt.

Viêm họng.

Táo bón hay tiêu chảy.

Dấu hiệu thần kinh:

Đau xương sống thắt lưng, đau chi, đau ở các cơ sắp liệt.

Hội chứng màng não: nhức đầu, nôn, sợ ánh sáng, tăng cảm giác…

Mất phản xạ, bí tiểu, rối loạn thần kinh thực vật.

  • Toàn phát (giai đoạn liệt):

Sốt giảm.

Đau giảm.

Liệt xuất hiện đột ngột, và nhanh ở nhiều nơi:

+ Chi dưới liệt ngọn chi.

+ Chi trên liệt ở gốc chi.

Đặc điểm của liệt:

+ Liệt mềm ngoại biên.

+ Liệt không đồng đều.

+ Teo cơ nhanh và nhiều .

+ Không có kèm rối loạn cảm giác, không rối loạn cơ tròn.

+ Không có dấu hiệu tổn thương bó tháp.

  • Hồi phục:

Từ tuần lễ thứ 2: Liệt giảm, cơ phục hồi dần.

Sau 1-2 năm, nếu còn liệt thì mới kết luận liệt vĩnh viễn.

Sốt bại liệt thể hành tuỷ

Thường phối hợp với thể tuỷ sống.

Tổn thương các trung khu sinh tồn, như: Trung khu hô hấp làm bệnh nhân nấc, khó thở, thở không đều; trung khu tuần hoàn tổn thương gây giảm huyết áp, mạch không đều, tím tái, truy tim mạch, tổn thương trung khu điều hoà thân nhiệt gây sốt cao, lơ mơ…

Tổn thương nhân các dây thần kinh sọ IX, X, XII… gây khó thở, nói ngọng, nói giọng mũi, khó nuốt…

CHẨN ĐOÁN

  • Dịch tế học.
  • Lâm sàng Dựa vào

Hội chứng nhiễm khuẩn.

Hội chứng đau.

Tính chất liệt.

  • Xét nghiệm

Tìm virus trong máu, trong phân.

Dịch não tuỷ biến đổi.

Huyết thanh chẩn đoán.

ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc

  • Dùng mọi biện pháp để cứu sống bệnh nhân
  • Giảm thiểu những bất lợi do bệnh gây ra.
  • Giúp bệnh nhân phục hồi tốt.

Điều trị cụ thể như sau

* ở giai đoạn khởi phát (chưa liệt).

Để bệnh nhân nằm nghỉ thoái mai, hạn chế đi lại, hạn chế gắng sức.

Cho vitamin B, acid folic, thuốc giảm đau.

* Trong giai đoạn toàn phát (liệt):

Hồi sức hô hấp: Tư thế dẫn lưu/tích cực hút đờm nhớt, thở oxy, mở khí quản, bồi hoàn nước – điện giải, hô hấp nhân tạo.

Hồì sức tuần hoàn: Bồi hoàn nước – điện giải đầy đủ, dùng dopamin, Isoproterenol.

Phòng ngừa và điều trị bội nhiễm:

+ Hút đớm nhớt.

+ Thông tiểu.

+ Kháng sinh.

Vật lý trị liệu: cần tiến hành ngay sau khi hết sốt 3-4 ngày hoặc ngay sau khi ngừng liệt 2-3 ngày.

Điều trị những rối loạn cảm xúc, tránh mặc cảm, tự ti.

DỰ PHÒNG

Vệ sinh môi trường.

Vệ sinh thực phẩm.

Chủng ngừa bằng:

+ Vaccin Salk (khử hoạt): Tiêm.

+ VaccinSabin (giảm độc lực): Uống.

Vaccin uống có ưu điểm: rẻ tiền, đạt hiệu quả cao (90-100%), tạo cả miễn dịch dịch thể và miễn dịch tại ruột.

CHĂM SÓC BỆNH NHÂN BỊ BẠI LIỆT

Nhận định

  • Tình trạng hô hấp :

Quan sát da, móng tay, móng chân.

Đếm nhịp thở, kiểu thở.

Tình trạng tăng tiết.

Nếu bệnh nhân suy hô hấp cần tìm mọi cách thông khí, cho thở oxy.

  • Tình trạng tuần hoận:

Mạch.

Huyết áp.

Theo dõi mạch — huyết áp 30 phút 1 lần, 1 giờ 1 lần, 3 giờ/1 lần.

  • Tình trạng liệt: Tuỳ theo từng thể.

Sốt bại liệt thể bệnh nhẹ.

Sốt bại liệt thể không liệt.

Sốt bại liệt thể liệt.

  • Tình trạng chung :

Đo nhiệt độ.

Đo lượng nước tiểu 24 giò.

Theo dõi ý thức, vận động, chú ý đau cơ.

Xem bệnh án để biết:

+ Chẩn đoán.

+ Chỉ định thuốc.

+ Xét nghiệm.

+ Các yêu cầu theo dõi khác.

+ Yêu cầu dinh dưỡng: Có thể cho bệnh nhân ăn đường miệng.

Sốt bại liệt thể hành tuỷ gây khó thở không đều.

Cần phân biệt suy hô hấp do liệt cơ hô hấp, liệt cơ hoành, do ứ đọng đờm nhớt…

Sốt bại liệt thể hành tuỷ làm tổn thương trung khu tuần hoàn gây hạ huyết áp, mạch không đều, đầu chi lạnh, tím tái, truy mạch.

Theo dõi tiến triển của thể liệt

Phân biệt các thể bại liệt.

Có kế hoạch chăm sóc thích hợp, để thực hiện kịp thời, chính xác, đầy đủ các xét nghiệm cơ bản.

Nếu bệnh nhân hôn mê phải cho ăn qua ông thông dạ dày.

Lập kế hoạch chăm sóc

Bảo đảm thông khí.

Theo dõi tuần hoàn.

Theo dõi sự diễn tiến của bệnh.

Thực hiện y lệnh của bác sĩ.

Theo dõi các dấu hiệu sinh tồn.

Phát hiện các dấu hiệu bất thường để xử lý kịp thời.

Chăm sóc hệ thống cơ quan nuôi dưỡng.

Hướng dẫn nội quy, giáo dục sức khoẻ.

Thực hiện kế hoạch chăm sóc

  • Bảo đảm thông khí:

Đặt bệnh- nhân nằm ngửa, đầu nghiêng một bên.

Đặt canuynMayo (có thể cho nằm tư thế dẫn lưu: đầu thấp, chân cao, đầu nghiêng sang một bên).

Hút đờm nhớt tích cực.

Cho thở oxy.

Có thể mỏ khí quản nếu bệnh nhân không còn khả năng tống xuất đòm nhốt ra ngoài, chuẩn bị dụng cụ, canuyn, thuốc tê để mỏ khí quản và trợ thủ cho bác sĩ trong khi mỏ khí quản.

Bệnh nhân không tự thở được phải bóp bóng ambu, nếu có cơn ngừng thở dùng hô hấp nhân tạo dưới áp lực dương.

Theo dõi sát nhịp thở và tình trạng tăng tiết, sự tím da, môi và đầu ngón.

  • Theo dõi tuần hoàn:

Lấy mạch, huyết áp, nhiệt độ ngay khi tiếp nhận bệnh nhân, báo cáo ngay bác sĩ.

  1. Chuẩn bị ngay dịch truyền, thuốc nâng huyết áp, dụng cụ truyền dịch để thực hiện y lệnh của bác sĩ.

Theo dõi mạch – huyết áp 30 phút/1lần, 1 giờ/1lần, 3 giờ/ 1lần. Chỉ dùng thuốc nâng huyết áp khi có tụt huyết áp mà đã bù đủ dịch.

Bệnh nhân có dấu hiệu suy tuần hoàn do tổn thương hành tuỷ, do thiếu nước, điện giải, do nhiễm trùng.

  • Theo dõi diến tiến của bệnh:

Tuỳ theo vị trí tổn thương, sốt bại liệt thể liệt có các thể lâm sàng là:

Sốt bại liệt thể tuỷ sống.

Sốt bại liệt thể hành tuỷ.

Sốt bại liệt thể tuỷ sống – hành tuỷ. Tuỳ theo thể lâm sàng có sự diễn tiến khác nhau. Thường khi có liệt thì nhiệt độ giảm dần. Nếu nhiệt độ vẫn cao tình trạng xấu. Đặc biệt là liệt hầu họng sẽ có các dấu hiệu nhiễm trùng phổi.

Sốt bại liệt thể não.

 

  • Thực hiện các y lệnh của bác sĩ chính xác, kịp thời:Thuốc.

    Các xét nghiệm:

    + Ngoáy họng, dịch não tuỷ.

    + Thử phân.

    + Huyết thanh chẩn đoán.

    + Theo dõi các dấu hiệu sinh tồn.

  • Chăm sóc hệ thống cơ quan:

Nghỉ ngơi trên giường phẳng cứng, chân tay để ở tư thế cơ năng.

Đắp ấm các chi đau 2-4 giò/llần, mỗi lần từ 15 đến 30 phút.

Lau mát nếu nhiệt độ cao.

Bí tiểu: Xoa nhẹ bàng quang hoặc đắp ấm.

Vệ sinh răng miệng, tai, mắt, mũi.

Vệ sinh da: tắm nước ấm, giữ da tránh loét.

Tẩy uế các chất bài tiết, đồ dùng cá nhân.

Nuôi dưỡng:

+ Cho ăn lỏng, dễ tiêu trong giai đoạn sốt.

+ Liệt hầu họng cho ăn sệt hoặc cho ăn qua thông dạ dày.

+ Khẩu phần ăn đủ chất dinh dưỡng giúp cho bệnh nhân có đủ sức đề kháng bệnh.

+ Tập vận động: bắt đầu tập khi bệnh nhân hết sốt 3-4 ngày hoặc khi ngừng liệt, mặc dù có một số trường hợp còn đau cơ kéo dài. Thời giạn tập vạn động thường là 2 năm, sau 2 năm còn di chứng mỏi làm phẫu thuật chỉnh hình. Ngay từ khi bệnh nhân mới vào, phải hướng dẫn nội quy khoa, phòng cho bệnh nhân và gia đình của bệnh nhân.

Cách ly bệnh nhân ở bệnh viện khoảng 2 tuần, khi có dịch xảy ra tránh tụ tập những đám đông hoặc hạn chế sinh hoạt tập thể.

Bệnh nhân trong vùng dịch tễ cần cân nhắc khi nạo VA và cắt amydal.

Tiêm chủng: Vaccin Salk.

Uống chủng: Vaccin Sabin, là loại thuốc chủng được làm bằng virus sống giảm độc lực, có ưu điểm:

+ Sau khi uống virus táng sinh tại ruột và tạo được miễn dịch dịch thể và miễn dịch tại ruột.

+ Đạt hiệu quả cao 90-100%.

+ Rẻ tiền.

+ Chống chỉ định: Khi trẻ bị tiêu chảy.

Đánh giá

Giáo dục sức khoẻ:

Hiện không có thuốc điều trị đặc hiệu, chủ yếu là hồi sức trong thể nặng và điều trị triệu chứng trong thể nhẹ. Điều dưỡng cần theo dõi sát trong hai tuần lễ để phát hiện dấu hiệu liệt và sau hai tháng để phát hiện những tồn tại có thể có.

Trong khoang miệng trẻ sơ sinh mọc nấm sữa cần làm thế nào?

Đáp: Trẻ mới sinh chưa đầy tháng, khi bú sữa mẹ, sữa bò và sữa đậu, vì đầu lưỡi của trẻ trong thời gian này ở trong khoang miệng còn ít nhu động, cộng thêm có cháu khoang miệng khô hoặc hỏa vượng (nhiệt), ở chỗ chân răng và trên đầu lưỡi có thể tích tụ thành một số vật thể ở dạng cục màu trắng, dân gian gọi đó là mọc “nấm sữa”, cũng có nơi gọi là mọc “khuẩn sữa”.

Thịt da trong khoang miệng trẻ còn non mịn, sau khi mọc nấm sữa, nếu như không kịp thời khử sạch đi, có thể từng ngày nó sẽ dày thêm, nhiều thêm, ảnh hưởng đến việc mút sữa, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến sưng đỏ khoang miệng, viêm tấy và lở loét, hoặc giả diễn biến các bệnh khác. Cho nên, các bậc phụ huynh còn trẻ, xin đừng coi nhẹ vấn đề nấm sữa trong khoang miệng trẻ sơ sinh.

Thật ra, khử sạch nấm sữa trong khoang miệng của trẻ sơ sinh, phương pháp rất đơn giản, có thể dùng nước vo gạo (vo gạo bằng nước đun sôi để nguội, không được vo bằng nước lã). Đem một miếng bông nhỏ đã hấp khử trùng, sau khi nguội thì quấn vào một đầu chiếc đũa, nhúng vào trong nước vo gạo, thò vào trong khoang miệng của trẻ nhẹ nhàng lau rửa. Kiên trì hằng ngày sáng lau một lần, tối lau một lần đến khỏi. Do trong nước vo gạo có chứa bột gạo, có tác dụng ma sát và lực hấp phụ nhất định, qua lau rửa nhiều lần, nấm sữa trong khoang miệng trẻ tự nhiên được thanh trừ sạch sẽ.