Blog Trang 451

Huyệt Túc Khiếu Âm

Túc Khiếu Âm

Tên Huyệt:

Huyệt ứng với huyệt Đầu Khiếu Âm, vì vậy gọi là Túc Khiếu Âm (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Khiếu Âm (Tư Sinh Kinh).

Xuất Xứ:Thiên ‘Bản Du’ (Linh khu. 2)

Đặc Tính:

Huyệt thứ 44 của kinh Đởm.

Huyệt Tỉnh, thuộc hành Kim, huyệt giao hội với Đới Mạch.

Vị Trí huyệt:

Bên ngoài ngón chân thứ 4, cách góc móng chân chừng 0, 1 thốn. Huyệt trên đường tiếp giáp da gan chân – mu chân.

Giải Phẫu:

Dưới huyệt là xương ngón chân.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh S1.

Tác Dụng:

Thanh Can Đởm, tức phong, sơ Can hoả .

Chủ Trị:

Trị hen suyễn, màng ngực viêm, đầu đau, họng sưng, tai ù.

Phối Huyệt:

1. Phối Cường Gian (Đc.18) trị đầu đau như kim châm (Thiên Kim Phương).

2. Phối Thủ Tam Lý (Đại trường.9) trị tay tê, bàn tay tê (Tư Sinh Kinh).

3. Phối Côn Lôn (Bàng quang.60) + Hiệp Khê (Đ.43) + Khúc Trạch (Tâm bào.3) + Khúc Tuyền (C.8) + Ngư Tế (Phế 10) + Thiếu Trạch (Tiểu trường.1) + Thượng Tinh (Đ.23) trị mồ hôi không ra (Châm Cứu Đại Thành).

4. Phối Âm Lăng Tuyền (Tỳ 9) + Chi Câu (Tam tiêu.6) + Chương Môn (C.13) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) + Hành Gian (C.2) + Huyền Chung (Đ.38) + Kỳ Môn (C.14) + Ngoại Quan (Tam tiêu.5) + Trung Phong (C.4) + Túc Tam Lý (Vị 36) trị hông sườn đau (Châm Cứu Đại Thành).

5. Phối Nội Quan (Tâm bào.6) + Tâm Du (Bàng quang.15) + Thần Môn (Tm.7) + Túc Tam Lý (Vị 36) trị mất ngủ, hay chiêm bao (Châm Cứu Học Giản Biên).

6. Phối Dương Lăng Tuyền (Đ.34) (Đ.34) + Đởm Du (Bàng quang.19) + Khổng Tối (Phế 6) + Thái Uyên (Phế 9) trị vận động gân cơ mà mồ hôi không xuất ra được (Châm Cứu Học Giản Biên).

Cách châm Cứu:

Châm xiên 0, 1 – 0, 2 thốn hoặc châm xuất huyết. Cứu 1-3 tráng, Ôn cứu 3-5 phút.

Tham Khảo:

“Thiên ‘Quyết Bệnh’ ghi: “ Tai bị điếc, châm huyệt ở ngón tay áp út (Quan Xung (Tam tiêu.1) )… Trước hết chọn huyệt ở tay, sau đó chọn huyệt ở chân Túc Khiếu Âm” (Linh khu.28, 26).

Rắn độc cắn và Cấp cứu rắn độc cắn

RẮN ĐỘC CẮN

• Dịch tễ học: Trên thế giới, ghi nhận 1.2-5.5 triệu trường hợp bị rắn cắn mỗi năm, với 421,000-1,841,000 trường hợp nhiễm độc và 20,000-94,000 trường hợp tử vong.

– Tỷ lệ bị rắn cắn cao nhất ở vùng ôn đới và nhiệt đới, nơi dân số chủ yếu sinh sống bằng nông nghiệp thủ công.
– Khó để phân biệt rắn độc và không độc; mẫu màu sắc rất dễ nhầm lẫn.

• Triệu chứng lâm sàng: Nọc độc rắn là một hợp chất hỗn hợp phức tạp của nhiều men và các chất khác tác dụng tăng tính thấm thành mạch, gây hoại tử mô, ảnh hưởng đến quá trình đông máu, ức chế xung thần kinh ngoại biên và suy chức năng cơ quan.

Các triệu chứng lâm sàng chuyên biệt khác nhau chút ít tùy vào các loại rắn chuyên biệt.

Các triệu chứng hệ thống gồm hạ huyết áp, phù phổi, xuất huyết, thay đổi tình trạng tri giác hoặc liệt (cả cơ hô hấp).

• Tiên lượng: Tỷ lệ tử vong nói chung đối với rắn độc cắn <1% ở các bệnh nhân Hoa Kỳ được nhận kháng độc tố; hầu hết trường hợp tử vong do rắn cắn ở Hoa Kỳ do rắn đuôi chuông lưng kim cương ở miền Đông và miền Tây.

ĐIỀU TRỊ Rắn độc cắn

SƠ CẤP CỨU BAN ĐẦU

• Tiến hành điều trị cho nạn nhân càng sớm càng tốt.

Nẹp chi bị cắn và giữ nó ngang tim để giảm chảy máu và khó chịu.

Tránh rạch vào vết cắn, chườm lạnh, kết hợp với phương pháp chữa lành truyền thống, buộc ga rô và sốc điện.

Nếu xác định chắc chắn loại rắn cắn và biết được chất độc thần kinh chính, có thể dùng băng ép bất động (quấn quanh toàn bộ chi bằng băng vải với áp lực khoảng 40-70 mmHg đối với chi trên hoặc 55-70 mmHg đối với chi dưới). Nạn nhân phải được đưa đến cơ sở y tế, vì đi bộ sẽ làm lan rộng nọc độc từ nơi cắn không kể đến vị trí giải phẫu của nó.

ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN

Theo dõi dấu hiệu sinh tồn, nhịp tim, lượng nước tiểu, độ bão hòa oxy chặt chẽ và quan sát triệu chứng rối loạn chức năng thần kinh sọ (vd: sụp mi), có thể có trước nuốt khó hoặc suy giảm hô hấp.

Chú ý mức độ sưng phù và tuần hoàn tại chi bị cắn mỗi 15 phút cho đến khi sưng phù ổn định

Điều trị khởi đầu sốc bằng dung dịch saline đẳng trương (20- 40 mL/ kg tiêm mạch); nếu vẫn còn hạ huyết áp, dùng dung dịch albumin 5% (10-20 mL/kg tiêm mạch) và thuốc vận mạch.

Bắt đầu khám xét thích hợp, dùng kháng độc tố chuyên biệt sớm trong tất cả các trường hợp đã biết loại rắn độc cắn. Ở Mỹ, có thể hỗ trợ liên tục ngày đêm từ trung tâm kiểm soát ngộ độc địa phương.

1. Nhiều bằng chứng của nhiễm độc hệ thống (triệu chứng hoặc dấu hiệu hệ thống, những bất thường về xét nghiệm) và đáng kể, các triệu chứng tại chỗ tiến triển (vd: sưng phù qua 1 khớp hoặc liên quan hơn nửa chi bị cắn) là chỉ định dùng kháng độc tố.

2. Thời gian dùng kháng độc tố dựa trên loài rắn cắn, nhưng dùng đa liều không hiệu quả trong việc đảo ngược đáp ứng bị cắn đã được hình thành (vd: suy thận, liệt, hoại tử).
3. Trên thế giới, chất lượng kháng độc tố rất đa dạng; tần suất xảy ra sốc phản vệ có thể vượt quá 50%, thúc đẩy các chuyên ra đưa ra các khuyến cáo trước khi điều trị với thuốc kháng Histamines tiêm mạch (diphenhydramine, 1 mg/kg đến liều tối đa 100 mg; và cimetidine, 5-10 mg/kg đến liều tối đa 300 mg). CroFab, một loại kháng độc tố được sử dụng ở Hoa KỲ chống lại loài rắn Pit Viper Bắc Mỹ, đưa đến nguy cơ thấp bị dị ứng.

4. Một thử nghiệm chất ức chế men acetylcholinesterase nên được sử dụng trên những bệnh nhân có bằng chứng khách quan về rối loạn chức năng thần kinh, vì vậy phương pháp điều trị này giúp cải thiện thần kinh trên bệnh nhân bị rắn cắn với chất độc thần kinh hậu synap.

Kê cao chi bị cắn một khi bắt đầu tiêm kháng độc tố.

Cập nhật chủng ngừa uốn ván.

Quan sát bệnh nhân cho hội chứng chèn ép khoang cơ.

Quan sát bệnh nhân với các dấu hiệu nhiễm độc tại bệnh viện ít nhất 24 giờ. Bệnh nhân với vết cắn “khô” nên được theo dõi sát ít nhất 8 giờ vì các triệu chứng thường xảy ra muộn.

Cảm giác ngứa – Triệu chứng bệnh gì, bị ngứa phải làm sao

Ngứa là một cảm giác hết sức khó chịu, còn khó chịu hơn cơn đau, vì cơn đau còn có thuốc giảm đau, nhưng cơn ngứa thì dù cho bạn gãi cũng không thể hết ngứa.

Bạn ngủ trong một môi trường không sạch sẽ như trên xe chẳng hạn, khi thức dậy bạn thấy khó chịu vì ngứa, bạn có thể khẳng định là mình đang bị muỗi cắn, hay con rệp “hỏi thăm”, còn nếu bạn đi cắm trại ở một ngoại ô nào đó, đụng phải dây trường xuân, hay cây nhựa, gây dị ứng da, muốn phân biệt sự ngứa ngáy do viêm da hay sâu bọ cắn, chỉ cần chú ý quan sát làn da, nếu bị sâu cắn vết ngứa thường có chấm và phân tỏa ra, còn viêm da thì có diện tích lớn hơn, đó là vì làn da tiếp xúc vào thuốc có chất độc, và chỗ ngứa thường là những nơi quẹt trúng thuốc độc đó. Cũng có khi ngứa do thuốc giặt tẩy, hay những hương liệu hay thuốc nhuộm của vải.

Khi bạn cảm thấy ngứa toàn thân, dù da có xuất hiện chấm đỏ hay không, thông thường đều do dị ứng, nguyên nhân có thể do thuốc hay thực phẩm, sâu cắn hay tiếp xúc với vật lạ.

Ngứa do sởi
Ngứa do sởi

Một số chứng bệnh phát trên cơ thể trẻ cũng thường gây những nốt phát ban rất ngứa, nếu trẻ thức dậy có sốt, cảm thấy không được khoẻ, cơ thể nhiều mụn nước, rất có thể mắc phải chứng thủy đậu hay sởi. Tuy nhiên tuỳ theo từng giai đoạn, trẻ em có thể có triệu chứng rất khác nhau, thí dụ như thủy đậu, do virus gây nên thường thì hạt đậu bị vỡ, liền sẹo, trái lại sởi cũng do virus nhưng sẽ xuất hiện những hạt sởi trên đầu và cơ thể người bệnh.

Nếu muốn kiểm tra xem mình có bị dị ứng hay không thì cần xem lại thuốc mình đang dùng nhất là thuốc mới. Tóm lại có thể phân tích những chứng ngứa do nguyên nhân sau đây: Nếu ngứa toàn thân, mắt và da bị vàng, tức là mắc phải chứng vàng da, thường do vấn đề của gan hay nơi gần gan, nếu do đường dẫn mật hóa bị tắc nghẽn, hay sưng, khiến nước mật chảy ngược về máu, gây toàn thân ngứa khó chịu, thường xuất hiện trên cơ thể những người bị biến chứng gan mãn hay ung thư tuyến tụy.

  • Nếu toàn thân ngứa khi sờ tới phía trên xương đòn, nách, háng, hay nơi gần khuỷu tay, thấy có hiện tượng sưng tuyến bạch huyết, tức là chứng bệnh ung thư máu, nhưng cũng có một thứ bệnh khác không mấy nghiêm trọng cũng có triệu chứng tương tự, đó là chứng Polycythemia, tuyến limpha không đến nỗi bị sưng, nhưng thường có hiện tượng ngứa, cho nên cần nhờ tới bác sĩ chẩn đoán cho thật chính xác.
  • Suy thận cũng liên quan tới ngứa toàn thân nhất là tới giai đoạn cuối, khi biến chứng ngay ở thận, chất độc không được thải khỏi cơ thể, nên theo máu đi khắp toàn thân, gây ngứa, hai chân và tay bị sưng phù, kể cả sưng hai con mắt, thì chắc chắn là ngứa do thận rồi.
  • Khi phụ nữ bị tiểu đường đột nhiên thấy ngứa âm đạo, tức là nước tiểu có quá nhiều chất đường, nên khiến nấm phát triển gây viêm nhiễm ở âm đạo, khiến ngứa ngáy, ngoài ra các vi sinh vật bất kỳ cũng có thể gây nên hiện tượng ngứa âm đạo.
  • Còn hiện tượng ngứa trực tràng là một thứ ngứa thường gặp và khó chịu nhất. Nhất là khi ngứa vào lúc bạn đang đứng trước đám đông, tình hình thường gặp nhất là làn da xung quanh trực tràng có vấn đề, nếu do trĩ, thì giấy vệ sinh sẽ lưu lại vết máu, cũng có thể do khối u nhỏ trong trực tràng. Tuy nhiên cần nhắc các bạn một điều rằng, máu để lại trên giấy vệ sinh có khi cũng do thịt dư hay khối u trong phía trên ruột chảy xuống.
  • Người bị suy tuyến giáp, thường ngứa do da bị khô, người bệnh còn có thêm triệu chứng táo bón, cử chỉ chậm chạp, mệt mỏi, thường thấy lạnh khi mọi người thấy nóng, nhưng cũng có thể chỉ do da thiếu nước mà dẫn tới ngứa mà thôi.Ngứa

Tóm lại khi bạn cảm thấy làn da bị ngứa chớ nên tự phán đoán mà tự mua thuốc uống bậy bạ, mà phải tìm tới bác sĩ, vì một sự phân định của làn da cần có chuyên gia mới đủ khả năng khẳng định nguyên nhân căn bệnh, là do sự sừng hoá thông thường hay do những chứng muôn màu muôn vẽ nên.

Định hướng biện pháp xử lý

Triệu chứng : NGÚA

Khả năng mắc bệnh Biện pháp xử lý
1. Bị sâu bọ cắn

2. Viêm da do tiếp xúc

3. Thức ăn hay thuốc gây dị ứng

4. Phát ban do viêm nhiễm thường gặp ở trẻ em.

•   Điều trị cục bộ.

• Tránh tiếp xúc tới những chất gây dị ứng, điều trị cục bộ.

•  Tránh thức ăn hay thức dùng gây dị ứng

•  Điều trị và xử lý cục bộ.

5. Tắc ống dẫn mật gây nên chứng vàng da. • Điều trị.
6. Căn bệnh về máu

7. Biến chứng thận

8. Ngứa âm đạo do tiểu đường

•  Điều trị ngay.

•  Điều trị.

•  Khống chế đường máu.

9.  Trĩ khiến ngứa trực tràng

10. Suy tuyến giáp

11. Da bị lão hóa

•   Mổ bỏ trĩ. Hay bôi thuốc điều trị.

• Bổ sung kích tố tuyến giáp.

• Dưỡng da bằng thuốc kem sữa.

Nguyên nhân Bệnh thận đa nang di truyền lặn (ARPKD)

Bệnh thận đa nang di truyền lặn: Bệnh thận đa nang di truyền lặn (ARPKD) là một tình trạng di truyền, có nghĩa là nó được truyền từ cha mẹ sang con.

Bệnh thận đa nang di truyền lặn do một đột biến (bất thường) trong gen PKHD1 gây ra, gen này tạo ra một loại protein gọi là fibrocystin giúp cấu trúc của thận.

Gen PKHD1 bị lỗi chịu trách nhiệm gây ra các túi nhỏ chứa đầy dịch (u nang) và hiện tượng xơ hóa phát triển trong thận.

Trong một số trường hợp, gen bị lỗi này cũng có thể gây phình to và xơ hóa gan, hoặc khiến các ống mật (nơi sản xuất dịch tiêu hóa gọi là mật) bị giãn rộng.

Điều này có thể làm cản trở lưu thông máu qua gan và khiến các ống mật dễ bị nhiễm trùng hơn.

Lỗi di truyền gây ra Bệnh thận đa nang di truyền lặn thường được truyền cho đứa trẻ từ cha mẹ.

Cách Bệnh thận đa nang di truyền lặn được di truyền

Đột biến gây ra Bệnh thận đa nang di truyền lặn được gọi là đột biến di truyền lặn.

Điều này có nghĩa là đứa trẻ cần nhận 2 bản sao của gen bị đột biến để phát triển tình trạng này: 1 từ mẹ và 1 từ cha.

Nếu đứa trẻ chỉ nhận 1 bản sao của gen bị đột biến từ 1 trong 2 cha mẹ, trẻ sẽ không phát triển Bệnh thận đa nang di truyền lặn nhưng sẽ mang gen đột biến đó.

Ước tính có khoảng 1 trong 70 người ở Anh là người mang gen PKHD1 bị đột biến.

Nếu bạn là người mang gen bị đột biến và bạn có con với một đối tác cũng là người mang gen, có:

  • 1 trong 4 khả năng đứa trẻ sẽ nhận được một cặp gen bình thường
  • 1 trong 2 khả năng đứa trẻ sẽ nhận được 1 gen bình thường và 1 gen bị đột biến, và trở thành người mang đột biến PKHD1
  • 1 trong 4 khả năng đứa trẻ sẽ nhận được một cặp gen bị đột biến và phát triển Bệnh thận đa nang di truyền lặn

Nếu bạn có tiền sử gia đình mắc Bệnh thận đa nang di truyền lặn và đang cân nhắc có con, bác sĩ gia đình của bạn có thể giới thiệu bạn đến một chuyên gia di truyền hoặc nhà tư vấn di truyền để thảo luận về rủi ro, lợi ích và hạn chế của việc xét nghiệm tình trạng này.

Bệnh trứng cá

Trứng cá là một bệnh phổ biến ở lứa tuổi dậy thì cho đến khi 30- 40 tuổi. Có tới 90% thanh thiếu niên bị bệnh trứng cá. Bệnh thường xuất hiện ở những vùng da có nang lông tuyến bã hoạt động mạnh như­ mặt, ngực, lưng, bả vai … Hình thái lâm sàng của bệnh đa dạng tuỳ theo mức độ viêm nhiễm, tiến triển nhiều khi dai dẳng. Theo triệu chứng lâm sàng và tính chất của bệnh, ng­ười ta chia ra làm nhiều loại trứng cá khác nhau nh­ư trứng cá thông   thư­ờng, trứng cá đỏ, trứng cá hoại tử, trứng cá mạch l­ươn, trứng cá nghề nghiệp… Trong đó trứng cá thể thông thường chiếm đại đa số. Chẩn đoán trứng cá thư­ờng rất dễ, chỉ cần dựa vào các dấu hiệu lâm sàng.

Bệnh do nhiều tác nhân phối hợp gây ra nh­ư do tăng sản xuất bã nhờn, tăng sừng hoá cổ ống tuyến bã, tăng sinh sản Propionibacterium acnes, do phản ứng viêm, nồng độ dihydrotestosteron tăng cao ở mô…

Nhiều trư­ờng hợp phản ứng viêm quá mức với vi khuẩn Propionibacterium acnes đã gây ra nhiều hình thái sẹo khác nhau cho người bệnh. Sẹo mụn trứng cá là một di chứng của bệnh xảy ra trong và xung quanh những nang lông tuyến bã bị viêm. Sau quá trình viêm, mụn th­ường để lại hậu quả là những vết thâm, sẹo lồi, sẹo lõm, sẹo phì đại hay các lỗ dò… Bệnh tuy không có biến chứng nguy hiểm gì khác như­ng về ph­ương diện thẩm mỹ bệnh hoặc sẹo do bệnh gây ra làm ảnh hư­ởng nhiều đến tâm lý xã hội, làm ngư­ời bệnh mất tự tin, mặc cảm, nhiều khi hoang mang, lo lắng.

Do đời sống kinh tế xã hội ngày càng được nâng cao, nhu cầu thẩm mỹ ngày càng tăng, việc điều trị sẹo lõm do mụn trứng cá gây ra là một nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với ngành Da liễu và thẩm mỹ. Trên thế giới đã có nhiều phương pháp nghiên cứu để điều trị sẹo trứng cá nh­ư cắt bỏ sẹo, bào da bằng laser … nhưng những phư­ơng pháp này thư­ờng tốn kém, đòi hỏi phẫu thuật viên có trình độ kỹ thuật cao và sự hợp tác chặt chẽ của bệnh nhân. Tuy nhiên, hiệu quả của những phương pháp đó nhiều khi vẫn không đ­ược như mong muốn.

Ở Việt Nam, một số phư­ơng pháp để khắc phục sẹo lõm do trứng cá đã được Viện Da liễu Quốc gia tiến hành nh­ư chấm  acid trichloacetic tại tổn thương, bào bờ tổn thương bằng máy bào da hoặc laser … nhưng các phư­ơng pháp này chư­a mang lại hiệu quả rõ rệt.

Hiện nay trên thị trường, một số sản phẩm bôi ngoài da được sản xuất từ tế bào gốc đã được sử dụng rộng rãi do có tác dụng tái tạo da, làm các vết thương liền nhanh, chất lượng liền sẹo tốt như­ Juvian, Juvigrow-S.

Bệnh trứng cá

Trứng cá là một bệnh của nang lông tuyến bã được biểu hiện với nhiều hình thái tổn thương đa dạng như  nhân, sẩn, mụn mủ, cục, nang trứng cá. Bệnh có thể để lại hậu quả sẹo lồi, sẹo lõm, sẹo quá phát. Bệnh xuất hiện nhiều nhất ở nam, nữ tuổi dậy thì cho đến 30-40 tuổi. Một số trường hợp trứng cá giảm dần, nhưng còn rất nhiều bệnh nhân tiến triển dai dẳng, từng đợt phát triển. Bệnh trứng cá nếu không được điều trị kịp thời, phù hợp có thể để lại sẹo vĩnh viễn gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng cuộc sống.

Các tổn thương cơ bản

Biểu hiện lâm sàng của bệnh trứng cá phụ thuộc vào sự tác động lẫn nhau của một vài yếu tố: Sự tăng tiết chất bã cùng với sự ứ đọng chất bã do bít tắc ở cổ nang lông dẫn tới hình thành nhân nhỏ, bắt đầu quá trình hình thành mụn trứng cá. Từ nhân nhỏ có thể tiến triển thành hai loại nhân thực sù:

Nhân mở (nhân đầu đen): Là những kén bã vít chặt vào nang lông bị giãn rộng, hơi gồ cao khỏi mặt da. Thành phần của nó là chất sừng kết hợp với chất Lipit, xung quanh là lá sừng. Nhân có miệng giãn rộng, các chất có thể thoát ra được. Bề mặt có đầu đen do hiện tượng oxy hóa chất keratin. Loại tổn thương này thường dễ giải quyết, không gây ra những tổn thương trầm trọng hơn.

Nhân kín (nhân đầu trắng): Tổn thương thường nhỏ hơn, màu trắng hoặc hồng nhạt, hơi gờ cao và không có lỗ mở trên mặt da. Tổn thương này có thể tự biến mất hoặc chuyển thành nhân đầu đen, nhưng loại trứng cá này thường gây ra viêm tấy ở nhiều mức độ khác nhau.

Tuỳ thuộc vào tình trạng viêm nhiễm, trên lâm sàng biểu hiện nhiều hình thái tổn thương khác nhau. đặc điểm chung của các loại tổn thương này là viêm nhiễm ở trung bì với các biểu hiện là sẩn viêm, mụn mủ, cục, nang…

Khi phản ứng sát trên bề mặt da sẽ tạo nên tổn thương sẩn.

Khi các sẩn có trùm mụn  mủ ở trên gọi là sẩn mủ.

Khi vị trí ổ nhiễm trùng nằm sâu hơn sẽ hình thành các tổn thương cục và nang. Các nang chính là các tổn thương cục hoá mủ.

Cục, nang đứng thành cụm 2 – 3 cái, thương tổn viêm nhiễm nhiều hơn tạo thành ổ áp xe có xoang thông với nhau. Các xoang và ổ áp xe thường chứa dịch mủ lẫn máu.

Tổn thương thuyên giảm có thể để lại dát đỏ, dát thâm. Sau vài tháng, nếu tổn thương viêm nhiễm nhiều sẽ để lại sẹo vĩnh viễn, có thể là sẹo teo bằng chấm đến vết lõm sâu, có thể là sẹo lồi, sẹo dúm do bệnh nhân thường bóp nặn làm tổ chức bị tổn thương và hoại tử.

Các thể lâm sàng trứng cá

Trứng cá thông thường (Acne Vulgaris)

Là thể rất phổ biến ở cả hai giới đặc biệt ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Các tổn thương khu trú đặc biệt ở vùng da mì như mặt (má, trán, cằm), ở vùng giữa ngực, lưng, vai. Đôi khi nhân trứng cá ở vành tai, bọc ở ống tai, màng nhĩ và đặc biệt gặp tổn thương u, cục, nang ở cổ, gáy. Tổn thương rất đa dạng: Nhân trứng cá, sẩn nang lông, sẩn mụn, mụn mủ, u viêm tấy, áp xe trung bì và hạ bì. Các thương tổn này không phải thường xuyên kết hợp với nhau và có đầy đủ trên một bệnh nhân

Tiến triển của bệnh trứng cá thông thường có khuynh hướng giảm và khỏi một cách tự nhiên sau tuổi 20 đến 30 mà không cần điều trị. Các yếu tố như khí hậu, stress, thuốc bôi tại chỗ hoặc toàn thân, các chất hoá học và các nguyên nhân bên ngoài có thể làm nặng thêm bệnh trứng cá ban đầu.

Trứng cá đỏ (Acne Rosacea)

Trứng cá đỏ thường gặp ở người da trắng từ 30 đến 50 tuổi. Đa số gặp ở nữ giới, nhất là người có cơ địa da dầu. Tổn thương trứng cá đỏ thường ở vùng giữa mặt, tiến triển qua nhiều giai đoạn.Trên nền da đỏ xuất hiện từng đợt sẩn mủ, đôi khi nổi cộm giống như u hạt. Sau nhiều đợt tiến triển, nhất là ở nam giới thường có phản ứng phì đại, xơ hóa ở vùng mũi tạo thành mũi sư tử. È nhiễm khuẩn cũng đã được đề cập đến, đặc biệt là vai trò của Propionibacterium acnes và Demodex folliculorum

Trứng cá mạch lươn (Acne congobata)

Bệnh gặp chủ yếu ở đàn ông, bắt đầu sau tuổi dậy thì và tiếp tục kéo dài hơn trong những năm về sau. Thương tổn thường ở ngực, mặt, lưng, vai và cổ. Ngoài ra còn thấy ở mông và tầng sinh môn. Tổn thương bắt đầu bằng mụn ở nang lông, tiến triển to dần và loét rất đặc biệt. Các ổ mủ nông và sâu, có khi rất to, cục viêm thành cụm 2 – 3 cái, đi vằn vèo thành hang hốc với nhiều lỗ dò, nhiều cầu da, nhiều đảo xơ. Bệnh tiến triển lâu dài, dai dẳng khó chữa

Trứng cá sẹo lồi (Acne keloidalis)

Loại trứng cá này chủ yếu gặp ở đàn ông, khu trú ở gáy và vùng rìa tóc. Đầu tiên xuất hiện các thương tổn viêm nang ở gáy, sắp xếp thành đường thẳng hoặc vằn vèo. Dần dần thương tổn tiến triển thành nhiều củ xơ hoặc dải xơ phì đại, gờ lên mặt da trông giống như sẹo lồi, trên bề mặt có một vài mụn riêng rẽ. Tiến triển lâu dài cuối cùng tự xẹp thành sẹo phẳng và trụi tóc vĩnh viễn

Trứng cá kê hoại tử (Acne miliaris necrotica)

Bệnh thường gặp ở nam giới, thương tổn khu trú một cách đối xứng ở trán, ở thái dương, rìa tóc. Hoại tử là đặc điểm của loại trứng cá này và nguyên nhân có thể do sự mẫn cảm của người bệnh đối với vi khuẩn. Đầu tiên là sẩn nang lông màu hồng, thường có ngứa và nhanh chóng biến thành mụn mủ mầu ngả nâu, bám rất chắc, xung quanh có một bờ viêm tấy mầu hồng, dưới vẩy là một ổ loét nhỏ, sau để lại sẹo lõm tồn tại vĩnh viễn

Trứng cá sét đánh(Acne fulminans)

Là thể hiếm gặp của trứng cá nang nặng, xuất hiện đột ngột ở bệnh nhân nam tuổi thanh thiếu niên. Tổn thương là các cục lan rộng, nhanh, nặng. Sau biến thành từng mảng viêm nặng, hoá mủ, nhanh chóng để lại vết loét không gọn. Vị trí chủ yếu ở lưng, ngực, nếu ở mặt thường là nhẹ hơn.Thể này cần có phương pháp điều trị đặc biệt

Trứng cá do thuốc (Acne Itrogenic)

Nhiều loại thuốc có thể gây nên thương tổn dạng trứng cá, khó có thể phân biệt với trứng cá thực sự. Tìm được nguyên nhân do thuốc rất khó, tuy nhiên có thể dựa vào đặc điểm lâm sàng, điều kiện xuất hiện và tiến triển của bệnh để nghĩ đến trứng cá do thuốc. Các loại thuốc và hoá chất có thể gây trứng cá nh­: Các hormon Androgen, ACTH, Testosterone, Progesterone… các Halogen như muối Iode, Brome, các thuốc chống lao, thuốc chống động kinh, thuốc hướng thần, thuốc chống phân bào, Corticosteroid

Trứng cá nghề nghiệp (Occupational Acne)

Nhiều loại dầu hắc Ýn có thể gây thương tổn dạng trứng cá. Thương tổn loại này gần giống như trứng cá thường: nhân, sẩn, mụn mủ và nang. Dấu hiệu phân biệt của trứng cá nghề nghiệp là vị trí phát tổn thương, tuổi bệnh nhân và lịch sử có tiếp xúc với hoá chất.

Bệnh thường gặp ở những công nhân, thợ sửa chữa máy do tiếp xúc với dầu thô, sáp và các loại carbure hydro no hoặc không no. Tổn thương thường tương ứng với vị trí tiếp xúc của da và thấy ở cánh tay, đùi, thân mình, đặc biệt ở những công nhân quần áo bị ngấm dầu mỡ, vì vậy gọi là trứng cá hạt dầu.

Trứng cá trước tuổi thành niên (Preadolescent acne)

Thể này được phân làm 3 loại đó là:

– Trứng cá sơ sinh (Neonatal acne): Xuất hiện trong 4 tuần đầu của thời kỳ sơ sinh và trẻ trai hay bị hơn trẻ gái. Tổn thương có thể tồn tại vài tuần, bệnh tự khỏi không để lại vết tích gì.

– Trứng cá trẻ em hay trứng cá tuổi ấu thơ (Infantile acne): Xuất hiện từ tháng thứ 2 và có thể là do trứng cá sơ sinh tồn tại dai dẳng. Loại trứng cá này có thể kéo dài thành trứng cá tuổi thiếu niên hoặc thành trứng cá tuổi thành niên.

– Trứng cá tuổi thiếu niên (Childhood acne): Nguyên nhân từ trứng cá trẻ em tồn tại dai dẳng. Yếu tố gia đình có vai trò quan trọng.

Trứng cá trước tuổi thành niên thường do nhiều yếu tố gây nên: Trứng cá sơ sinh và trứng cá trẻ em là kết quả từ hormon của mẹ truyền sang hoặc là do hormon Testosterone tiết ra nhiều từ tinh hoàn ở trẻ trai thời kỳ sơ sinh (10 tuần đầu sau khi sinh) kích thích tuyến bã. Mặt khác sự biến đổi về số lượng và chất lượng của Androgen tổng hợp của da hoặc sự tăng nhạy cảm của cơ quan ở da có thể cũng là nguyên nhân của loại trứng cá này

Trứng cá mũi sư tử (Rhinophyma)

Do tuyến bã hai bên mũi bài tiết rất nhiều, kèm theo thói quen nặn trứng cá của bệnh nhân làm cho tổ chức tuyến bã bị phì đại, quá sản thành u, lỗ chân lông giãn rộng làm cho mũi bị biến dạng.

Các thể lâm sàng khác

Ngoài những thể lâm sàng thường gặp ở trên, người ta còn nêu lên một số thể khác, mỗi loại đều có nét đặc thù riêng của nó.

Trứng cá do mỹ phẩm (Acne cosmetica): Bệnh thường gặp ở phụ nữ sử dụng nhiều kem xoa mặt, kem chống nắng.

Trứng cá trầy xước (Excoriated Acne): Loại này thường gặp ở những cô gái trẻ do bệnh nhân có yếu tố tâm lý hay nặn bóp, cào xước thương tổn kết quả để lại là các vết thâm, sẹo teo da.

Trứng cá do yếu tố cơ học (Acne Mechanica): Do trà xát, nặn bóp làm cho bệnh nặng hơn.

Trứng cá vùng nhiệt đới (Tropical Acne): Bệnh xuất hiện ở những vùng nhiệt đới vào mùa hè khi thời tiết nóng ấm.

Trứng cá mùa hè (Acne Aestivalis)

Trứng cá do chất tẩy rửa (Acne Detergicans)

Trứng cá trước chu kỳ kinh nguyệt: Tổn thương là những sẩn mủ, thường từ 5 đến 10 thương tổn, xuất hiện trước khi có kinh 1 tuần. Thường là do ảnh hưởng của LH ở đỉnh cao kích thích tổ chức đệm của buồng trứng tiết Androgen. Dùng viên tránh thai có Estrogen sẽ làm giảm bớt trứng cá loại này…

Dịch tễ học bệnh trứng cá thông thường

Tuổi

Bệnh trứng cá thông thường hay gặp ở tuổi thanh niên, 90% bệnh nhân ở lứa tuổi từ 13 đến 19, nhưng cũng có thể bắt đầu ở tuổi 20 đến 30 hoặc muộn hơn nữa ,. Một số tác giả khác thấy gặp chủ yếu ở tuổi 13 đến 25, nữ có thể muộn hơn là từ 30 đến 40 tuổi. Bệnh có thể bắt đầu sớm ở tuổi 8 đến 12, trẻ gái thường xuất hiện sớm hơn trẻ trai 1 tuổi và xuất hiện trước khi có kinh 1 năm. Nhưng nhìn chung cả hai giới bệnh thường giảm đi ở tuổi 20, đôi khi tồn tại đến tuổi 30, thậm chí ở tuổi 50 đến 59 tuổi còn thấy các tổn thương

Giới:

Nhìn chung các tác giả đều nhận xét rằng nữ giới gặp nhiều hơn nam giới ,Theo Goulden thống kê tại một khoa Da liễu ở Anh thì tỷ lệ bệnh nhân nam chiếm 24%, nữ chiếm 76%.

Nguyên nhân của bệnh trứng cá

Nguyên nhân của bệnh trứng cá cũng khá phức tạp, có liên quan tới nhiều yếu tố như nội tiết, tiêu hoá đặc biệt là tuyến sinh dục…Vai trò của các tạp khuẩn trên da, trong đó tụ cầu, liên cầu và nhất là Corinebacterium cũng được đề cập đến. Các vi khuẩn này thường ở trong nang lông, có khả năng thuỷ phân  chất bã thành acid béo, gây kích thích và gây viêm tổ chức nang lông.

Ngoài ra, trứng cá có thể do dị ứng một số thức ăn, thuốc (Bromua, corticosteroid, thuốc bôi goudon…) hoặc do tiếp xúc với một số hoá chất (Dầu, mỡ, nhựa đường…) hoặc do thiếu vitamin B2.

Mặc dù có nhiều nguyên nhân gây bệnh, nhưng đại đa số các tác giả đều nêu ra 3 cơ chế chính gây nên trứng cá:

Sự tăng tiết bã nhờn.

Sự ứ đọng chất bã.

Sự viêm nhiễm.

Sự tăng tiết bã nhờn

Sự hoạt động của tuyến bã có sự biến đổi liên quan với các hormon, đặc biệt là hormon sinh dục nam và trong đó Testosteron là hormon có hiệu lực chủ yếu ở da đối với tế bào tuyến bã. Testosteron có tác dụng kích thích sự phát triển và bài tiết chất bã, đồng thời làm giãn rộng và làm tăng thể tích tuyến bã, nhất là các tuyến bã ở mặt. Vì vậy, người ta coi trứng cá là một trong những dấu hiệu quan trọng nhất của tuổi thành niên khi cơ thể nam có sự tăng tiết Testosteron.

Sự ứ đọng chất bã

Sự sản xuất quá mức các chất bã kết hợp với dầy sừng ở phễu nang lông gây nên hiện tượng ứ đọng chất bã. Nguyên nhân của sự dầy sừng này là do tác dụng kích thích của chất bã lên thành nang lông và sự thay đổi trong bản mẫu của quá trình sừng hoá trong lòng nang lông ,. Ngoài ra, một số yếu tố ngoại cảnh như nóng ẩm, khói bụi … hay các chất như sinh diêm, mỹ phẩm có nhiều chất béo tạo ra sự ứ đọng chất bã, làm bít tắc lỗ chân lông.

Sự viêm nhiễm

Các chất bã bài tiết lên mặt da đã tạo ra một màng mỡ trên da. Tại đây xẩy ra phản ứng thuỷ phân Triglyerid. Chất này thu hút các vi khuẩn nằm ở phần dưới cổ nang lông tuyến bã tiết ra men lipare hyualuronidase, proteases và licitinase phân giải chất mỡ béo thành acid béo tự do. Những men này ăn mòn thành nang lông, đông thời những yếu tố có tính chất hoá ứng động bị khuyếch tán qua thành nang lông vào trung bì, thu hút bạch cầu đa nhân trung tính xâm nhập vào nhân trứng cá để thực bào các Propionibacterium Acnes và giải phóng các Enzym của lyzosom. Những chất này cũng tham gia làm vỡ thành nang lông. Tóm lại, quá trình viêm là do một phản ứng đối với dị vật và phản ứng độc tế bào của chất bã

Điều trị bệnh trứng cá

Do trứng cá là bệnh có nguyên nhân phức tạp nên việc điều trị phải được tính đến nhiều yếu tố , đó là:

Kiểu trứng cá: Trứng cá đơn thuần, trứng cá viêm nhiễm hay trứng cá phối hợp. Sự phân loại đúng sẽ dẫn tới việc lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp.

Mức độ trầm trọng của bệnh sẽ hướng tới có nên chỉ định điều trị toàn thân hay không.

Xem xét tìm hiểu các yếu tố khác mà bệnh nhân có liên quan tới như: Thuốc đã dùng, môi trường làm việc…

Bệnh nhân cần được giải thích một cách rõ ràng về bệnh tật để họ sử dụng thuốc một cách phù hợp, không tự ngừng điều trị, không tự làm cho thương tổn nặng thêm như nặn, bóp trứng cá… Cần phải cho bệnh nhân biết rằng trứng cá không phải là bệnh thoáng qua, không thể chữa khỏi trong vòng vài tuần mà kéo dài trong nhiều tháng, nhiều năm sau tuổi trưởng thành. Sau khi điều trị ổn định bệnh nhân cần phải điều trị duy trì với một phương thức nhất định.

Mục đích của điều trị trứng cá là nhằm giải quyết những vấn đề sau:

Giảm bít sự tiết bã nhờn.

Ngăn chặt sự ứ đọng chất bã.

Hạn chế quá trình viêm.

Việc sửa chữa sẹo chỉ tiến hành khi bệnh trứng cá đã ổn định.

* Các thuốc sử dụng trong điều trị trứng cá:

– Thuốc làm giảm da dầu:

+ Thuốc bôi tại chỗ: Thuốc kháng Androgen về mặt lý thuyết có tác dụng nhất định nhưng thực tế điều trị Ít có kết quả. Do vậy, thuốc đó chỉ được coi là thuốc phụ, Ít người dùng.

+ Điều trị bằng hormon toàn thân: Ostrogen, acetate de cyproteron, Spironolactone.

+ Isotrétinoine: Có tác dụng làm teo tuyến bã, do đó là thuốc được lựa chọn điều trị vững bền hơn so với các thuốc khác. Nhưng giá thành cao, phải dùng lâu dài và đề phòng tai biến.

– Ngăn chặn sự căng ứ chất bã (chống sừng hoá cổ tuyến bã):

+ Vitamin A acid (Trétinoine) tại chỗ.

+ Isotrétinoine.

+ Peroxyde de benzoyle.

+ Adapalene: Là dẫn xuất của Acid naphthoic, có tác dụng giống Trétinoine nhưng Ít tác dụng phụ hơn. Sử dụng dưới dạng gel 0.1% bôi tại chỗ ,.

– Thuốc hạn chế viêm:

+ Peroxyde de benzoyle.

+ Tiêm Corticoid vào trong nang.

+ Điều trị lạnh đối với tổn thương dạng cục nang.

– Chống nhiễm trùng:

+ Kháng sinh tại chỗ: Erythromycine, Clindamycine.

+ Kháng sinh uống: Tetracycline, Erythromycine…

Quá trình hình thành sẹo và phân loại sẹo do trứng cá

Quá trình hình thành sẹo

Xảy ra từ khi bắt đầu có tác nhân gây bệnh, gồm 3 giai đoạn xen kẽ với nhau: Giai đoạn viêm, giai đoạn tăng sinh, giai đoạn chín và tạo sẹo.

Giai đoạn viêm

Sau các tổn thương của mụn tại chỗ sẽ xuất hiện tức thời 2 loại phản ứng: phản ứng mạch máu và phản ứng viêm.

Giai đoạn tăng sinh

Đồng thời với giai đoạn viêm, giai đoạn tăng sinh xảy ra với các quá trình tái tạo biểu mô, tăng sinh sợi, hình thành chất collagen, hình thành tân mạch và co tổn thương.

+ Tái tạo biểu mô: Đóng vai trò quan trọng trong quá trình liền vết thương. Quá trình này bắt đầu từ giờ thứ 24, biểu mô phát triển từ xung quanh mép tổn thương vào hoặc từ các thành phần khác trong lớp sâu (nang lông, tuyến bã) các lớp tế bào đáy biểu bì tăng sinh và lan dần vào phía trong của tổn thương, tốc độ tăng sinh này đạt tối đa vào ngày thứ 2 – 3.

+ Co mạch tại chỗ: Là phản ứng đầu tiên và kéo dài 5 – 10 phút, do tổn thương lớp nội mạc mạch máu, hệ thống đông máu được khởi động kéo theo sự ngưng tập tiểu cầu tại nút máu đông. Tiểu cầu giải phóng một loạt các hoạt chất sinh học (prostaglandin, serotonin, histamin, protease, thromboxan…) có ảnh hưởng tới mạch máu, ngoài ra còn giải phóng các chất hoá hướng động và yếu tố tăng sinh.

+ Phản ứng tiếp theo là giãn mạch tại chỗ: Do tác dụng của các chất histamin, serotonin và kinin, tính thấm thành mạch tăng cao trong 48 – 72h đầu.

+ Phản ứng tế bào: Xảy ra chậm hơn các phản ứng của mạch máu. Các bạch cầu đa nhân, đơn nhân, fibroblasts di tản tới vùng tổn thương. Các đại thực bào chiếm đa số tại tổn thương vào ngày thứ 3 – 4. Ngoài vai trò thực bào, các tế bào này tiết ra các chất hoá hướng động và yếu tố phát triển để tăng sinh tế bào nội mạch, tế bào sợi non.

Phản ứng mạch máu và đáp ứng tế bào tại tổn thương xảy ra xen kẽ với nhau để chuẩn bị hình thành tổ chức hạt, tổ chức biểu mô và lắng đọng collagen. Trong những ngày đầu, sức căng tại tổn thương là nhỏ nhất, chỉ khi có sự lắng đọng collagen thì sức căng tại tổn thương mới tăng dần.

+ Tổ chức hạt: Hình thành từ ngày thứ 3 – 4 và tồn tại cho đến khi kết thúc biểu mô hoá. Tổ chức hạt bao gồm các tế bào viêm, tân mạch và tế bào sợi non trên nền của các chất collagen , fibrin, glycoprotein, và glucosaminoglycan. Các tế bào sợi non xuất hiện tại tổn thương từ ngày thứ 2 hoặc 3 và tạo ra collagen, elastin, fibronectin, glucosaminoglycan.

+ Collagen: được tổng hợp mạnh vào ngày thứ 4, sau đó các tế bào collagen tập hợp lại thành sợi và bó sợi. Số lượng collagen tăng dần kéo theo sự tăng sức căng của tổn thương. Trong thời gian đầu, collagen nhóm 1 chiếm đa số, sau đó collagen nhóm 3 thay thế dần cho đến giai đoạn hình thành sẹo. Tổng hợp collagen đạt mức tối đa vào tuần thứ 3 và quá trình này giảm dần trong giai đoạn hình thành sẹo.

Giai đoạn tạo sẹo

Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình liền tổn thương, sẹo trở nên rõ ràng và chắc hơn, sẹo giảm dần màu đỏ và nhạt màu dần. Quá trình này gắn liền với hiện tượng sửa chữa và tổ chức lại các thành phần của sẹo. Collagen nhóm 3 chiếm đa số và có sự điều chỉnh lại cấu trúc của sợi collagen. Lúc đầu các bó sợi collagen sắp xếp lộn xộn, dần dần được sắp xếp lại theo cấu trúc lớp song song, do vậy làm tăng sức căng của sẹo. Sự hình thành tân mạch giảm dần cho đến lúc sẹo trở thành vô mạch. Giai đoạn này kéo dài từ 12-18 tháng.

Phân loại sẹo do trứng cá

Sẹo hình phễu( Icepick scars)

Đường kính sẹo dưới 2 mm, hình phễu, đáy nằm sâu ở líp trung bì hoặc mô dưới daBệnh trứng cá

Sẹo đáy hình lòng chảo( Rolling scars)

Đường kính 4 – 5 mm. nguyên nhân do các dải sợi xơ từ lớp trung bì dính vào lớp thượng bì gây co kéo tạo nên những sẹo có đáy lòng chảo, bÒ mặt sẹo tương đối bình thường

Sẹo đáy phẳng( Boxcar scars)

Thường có hình tròn hay hình oval. Bờ sẹo thẳng đứng. Đường kính sẹo từ 1,5 –  4 mm. Sẹo phân làm 2 nhóm:

Sẹo nông:  đáy sâu từ  0,5 – 1mm.

Sẹo sâu:    đáy sâu ≥ 5mm.

Sẹo lồi (Keloids)

Là sự tăng sinh collagen ở da, lành tính, thường là do sự đáp ứng quá thừa của mô với tổn thương da.

Các phương pháp điều trị sẹo lõm

Tuỳ theo mỗi loại sẹo mà có những chỉ định điều trị thích hợp, có thể kết hợp nhiều phương pháp trên cùng một bệnh nhân.

Cắt bỏ sẹo

Cắt bỏ toàn bộ sẹo cả chiều sâu và chiều rộng đến lớp mỡ. Sau đó khâu kín vùng cắt bằng chỉ không tiêu 6/ 0. Khoảng cách cắt bỏ giữa 2 sẹo tối thiểu cách nhau từ 4 – 5 mm, nhằm tránh sức căng bề mặt của của các vết khâu. Vì vậy không thể cắt bỏ tất cả sẹo cùng một lúc. Khoảng thời gian giữa 2 lần cắt sẹo khoảng 4 tuần, dụng cụ dùng để cắt bỏ sẹo có thể dùng Punch Biopsy hoặc laser CO2.

Cắt và nâng cao bề mặt sẹo

Dùng Punch Biopsy hoặc laser CO2 cắt bỏ toàn bộ chu vi sẹo từ bề mặt đến lớp mỡ, nâng nhẹ toàn bộ khối sẹo lên trên, cao hơn bề mặt da một chút, sau đó khâu cố định với mô da xung quanh bằng chỉ 6/ 0.

Cắt mô sợi co kéo

Sử dụng kim Nokor hoặc dao mổ số 11, đặc điểm kim Nokor: Đầu mũi kim thực chất là dao mổ hình tam giác. Sát mũi dao có một lỗ thông. Khi gắn vào Syringe chứa nước muối sinh lý hoặc thuốc tê. Đâm kim vào vùng chu vi sẹo luồn song song đáy sẹo sau đó dịch chuyển kim để cắt các sợi co kéo, tiếp theo là bơm dung dịch nước muối sinh lý hoặc thuốc tê để giải phóng đáy sẹo ra khỏi các sợi co kéo.

Tái tạo bề mặt da

Sau khi tiến hành các phương pháp đã nêu từ 4 – 6 tuần vết thương sẽ lành, lúc này các phương pháp tái tạo bề mặt da có thể được đặt ra.

Có nhiều phương pháp để tái tạo lại bề mặt da tuỳ theo kinh nghiệm của thầy thuốc và nhu cầu của người bệnh lựa chọn phương pháp nhằm đạt hiệu quả tối ưu cho người bệnh.

Lét da bằng hoá chất: Tuỳ theo loại hoá chất và nồng độ, độ xuyên thấu mô mỡ cho những kết quả khác nhau (AHA, Tretinoin, TCA, Glycolid acid, Phenol).

Bào da bằng trục quay cơ học: vận tốc vòng xoay lớn từ 15.000- 60.000 vòng/phút có thể tái tạo bề mặt da. Tuy nhiên phương pháp này cũng có nhiều hạn chế.

Bào da và tái tạo bề mặt da bằng laser, có 2 loại laser thường dùng:

+         Laser ERBIUM YAG bước sóng 2940 nm đỉnh hấp thụ nước lớn gấp 16 lần laser CO2 do có độ xuyên thấu qua da rất mỏng, tạo ra hiệu ứng bóc lớp rất chính xác với tổn thương nhiệt rất Ít.

+         Laser CO2 bước sóng 10.600 nm, là loại laser năng lượng cao, rất thông dụng, chế độ phát tia: xung, siêu xung và liên tục. Hiện nay chức năng sử dụng độ chính xác đã phát triển kèm theo với các thiết bị cắt lớp được xử lý trên máy tính, chùm tia laser có thể bóc lớp bề mặt sẹo một cách chính xác.

+         Laser CO2 thế hệ mới nhất đã có hệ thống dẫn tia bằng sợi phalê nhằm thay thế hệ thống trục khuỷu dẫn tia bằng hệ lăng kính phản xạ toàn phần, kèm theo là hệ thống cắt lớp vi xử lý 3 chiều.

+         Các thiết bị laser thế hệ mới hiện giá thành rất đắt, chưa thể ứng dụng rộng rãi.

Bào da trong sẹo bằng laser CO2

Cơ chế tác động laser CO2 lên tổ chức sống bao gồm 2 hiệu ứng:

– Hiệu ứng quang đông: Khi năng lượng bức xạ laser không quá lớn và được giải phóng trong thời gian không quá nhanh, khi nhiệt độ vùng chiếu tác động từ 60-1000 C  thì tổ chức sinh học bị đông kết và hoại tử.

– Hiệu ứng bốc bay tổ chức: Khi năng lượng laser tăng, nhiệt độ vùng chiếu > 3000 C khi đó các tổ chức sinh học nhận đủ năng lượng để bốc hơi, đó là cơ sở ứng dụng của dao mổ laser.

– Phương pháp này có hạn chế là do không được trang bị thiết bị vi xử lý cắt lớp 3 chiều nên việc xác định độ sâu cần bào tuỳ thuộc rất nhiều vào kỹ năng thao tác của người sử dụng. Việc xác định mật độ năng lượng dựa vào tính toán thủ công và kinh nghiệm có thể cho sai số lớn.

Thuốc chấm tại chỗ dung dịch Acid Trichloracetic 100% (TCA)

Acid Trichloracetic được Jean Baptiste Dumas phát hiện ra năm 1840 ,

– Thành phần: Acid Trichloracetic có công thức hóa học: CCL3COOH, phân tử lượng: 163,4 g/mol, tỷ trọng: 1,63g/cm3, thể rắn, điểm nóng chảy ở 57oC, nhiệt độ sôi ở 196oC, vị chua, tan rất dễ dàng trong nước.

Acid Trichloracetic được tạo thành do phản ứng giữa chlorin và acid acetic với sự có mặt của các chất xúc tác phù hợp:

CH3COOH + 3Cl2 → CCl3COOH + 3HCl

– Tác dụng: trước đây người ta đã sử dụng dung dịch Acid Trichloracetic để xóa vết xăm, điều trị hạt cơm. Trong nghiên cứu này chúng tôi dùng hoá chất trên gây tổn thương mới tại đáy của các vết sẹo, tác động làm kích thích tái tạo tế bào da tại chỗ dựa trên cơ chế làm lành vết thương cấp tính để làm đầy sẹo.

Sản phẩm tế bào gốc (Thuốc bôi Juvian)

Tế bào gốc là những tế bào không chuyên biệt (chưa biệt hoá) nhưng có khả năng trở thành những tế bào chuyên biệt và có những chức năng mới tương ứng. Tế bào gốc của da có khả năng mở ra nhiều hướng nghiên cứu khác nhau cho các bệnh rối loạn ở da như: Rụng tóc, sẹo do trứng cá, bỏng, bạch biến, các bệnh da có bọng nước … Tế bào gốc làm việc như một hệ thống sửa chữa, tái tạo bằng cách phân chia không giới hạn để biệt hóa thành các loại tế bào khác. Dựa vào nguồn gốc, tế bào gốc được phân thành 4 dạng chính đó là: Tế bào gốc phôi, tế bào gốc thai, tế bào gốc từ dây rốn và tế bào gốc từ người trưởng thành.

Sản phẩm Juvian được sản xuất từ môi trường nuôi cấy tế bào gốc của dây rốn. Juvian bao gồm các thành phần dinh dưỡng quan trọng cho da như Collagen, type 1, acid Hyaluronic, L-Glutamine, Soybean extract, Vitamin C, L-Proline, L-Cystein hydrochloride-H2O, L- Lysin hydrochloride, L –Argirine hydrochloride, Cholin Chloride, I – Inositol,…Vì thế, Juvian hỗ trợ tế bào gốc của da tăng cường hoạt động, tăng sinh các chất ngoại bào, các chất nền tảng của trung bì do đó làm tái tạo da nhanh chóng. Sản phẩm còn có tác dụng đặc biệt tốt cho những trường hợp da thiểu dưỡng, teo nhẽo, khô, bong vảy hoặc bị tổn thương do ánh năng mặt trời, do dị ứng thuốc hoặc mỹ phẩm, một số bệnh lý về da như viêm da cơ địa, sẹo lõm do trứng cá, nếp nhăn, rám má … Juvian làm cân bằng độ ẩm của da, duy trì pH phù hợp cho da, hạn chế sự mất nước giúp da giữ độ ẩm tốt hơn kéo dài tới 24h sau khi bôi. Juvian làm chậm quá trình hình thành các nếp nhăn, ngăn chặn sự hình thành các sắc tố trên da, làm tăng sức đề kháng của da đối với các yếu tố bên ngoài

Trong quá trình viêm ở da do bệnh trứng cá gây nên, cấu trúc collagen nằm dư­ới lớp hạ bì bị phá vỡ. Sự thiếu hụt collagen và fibrin ở các mô làm cho tổn th­ương viêm bị lõm xuống tạo thành sẹo lõm. Bên cạnh đó, các tế bào hắc tố bị kích thích sau quá trình viêm làm tăng sinh quá nhiều hạt sắc tố nên tạo thành sẹo thâm. Quá trình liền vết thương cần sự tham gia của nhiều yếu tố khác nhau như các fibroblasts, collagen, axit hyaluronic, đại thực bào, sợi elastin, chất nền tảng ngoại bào, tế bào sắc tố và tế bào biểu mô. Chỉ một hay nhiều các thành phần trên bị ức chế hay bị kích thích thì vết thương sẽ khó liền hoặc sẹo sau khi liền sẽ không được phẳng, mềm mại như da bình thường vùng lân cận. Các sản phẩm từ công nghệ tế bào gốc sẽ thúc đẩy và điều hoà quá trình liền vết thương.  Juvian sẽ giúp nhanh chóng tái tạo tổ chức tại các vùng sẹo lõm, làm đầy lên các vết sẹo do cải thiện chất lượng liền sẹo, hạn chế được nguy cơ tạo thành vết sẹo đỏ hồng hoặc sẹo thâm sau điều trị trứng cá.

Do các thành phần của sản phẩm là các dưỡng chất với tỷ lệ tương tự như các chất tự nhiên vốn có trong cơ thể nên Juvian khi được sử dụng bằng đường bôi rất dễ dàng hấp thụ qua da, không gây bất kỳ hiện tượng dị ứng hay kích ứng gì như khi sử dụng các hóa chất khác.

Magne-b6

Thuốc magne-b6
Thuốc magne-b6

MAGNÉ-B6

Viên bao: vỉ bấm 10 viên, hộp 5 vỉ.

Dung dịch uống: ống 10 ml, hộp 10 ống, 4 ống, 3 ống.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Lactate de magnésium dihydrate 470 mg
(tương ứng với 1,97 mmol hay 48 mg Mg2+)
Pyridoxine chlorhydrate (vitamine B6) 5 mg
cho 1 ống thuốc
Lactate de magnésium dihydrate 186 mg
Pidolate de magnésium 936 mg
(tương ứng với 4,12 mmol hay 100 mg Mg2+)
Pyridoxine chlorhydrate (vitamine B6) 10 mg

DƯỢC LỰC

Về phương diện sinh lý, magnésium là một cation có nhiều trong nội bào. Magnésium làm giảm tính kích thích của neurone và sự dẫn truyền neurone-cơ. Magn sium tham gia vào nhiều phản ứng men.

Pyridoxine, là một coenzyme (đồng diếu tố), tham gia vào nhiều quá trình chuyển hóa.

CHỈ ĐỊNH

  • Điều trị các trường hợp thiếu magnésium nặng, riêng biệt hay kết hợp

Khi có thiếu calcium đi kèm thì trong đa số trường hợp phải bù magnesium trước khi bù calcium.

  • Điều trị các rối loạn chức năng của những cơn lo âu đi kèm với tăng thông khí (còn được gọi là tạng co giật) khi chưa có điều trị đặc hiệu

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Suy thận nặng với độ thanh thải của creatinine dưới 30 ml/phút.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Tránh dùng magnésium kết hợp với các chế phẩm có chứa phosphate và muối calcium là các chất ức chế quá trình hấp thu magnésium tại ruột non.

Trong trường hợp phải điều trị kết hợp với t tracycline đường uống, thì phải uống hai loại thuốc cách khoảng nhau ít nhất 3 giờ.

Không phối hợp với lévodopa vì lévodopa bị vitamine B6 ức chế.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Tiêu chảy, đau bụng.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Người lớn:

Thiếu magnésium nặng: 6 viên/24 giờ hay 3 ống uống/ngày, hoặc 12 mmol hay 300 mg Mg2+/24 giờ.

Tạng co giật: 4 viên/24 giờ hay 2 ống uống/ngày, hoặc 8 mmol hay 200 mg Mg2+/24 giờ.

Trẻ em: 1 đến 3 ống/ngày tùy theo tuổi (4,12 đến 12,4 mmol hay 100-300 mg Mg2+).

Nên chia liều dùng mỗi ngày ra làm 2 hoặc 3 lần: sáng, trưa và chiều; mỗi lần nên uống với nhiều nước.

BẢO QUẢN

Ở nhiệt độ < 25oC, tránh ánh sáng.

Nhiễm Candida – Nhiễm trùng cơ hội HIV

Candida là một nấm dạng nấm men. Trong số 150 loại Candida, chỉ có khoảng 20 loại gây bệnh. Loài gây bệnh hay gặp nhất là C.albicans. Các loài khác như C. tropicalis, C. glabrata C. krusei hiếm gặp nhưng đáp ứng với điều trị bằng azole kém hơn. Mặc dù vấn đề kháng azole được coi là một vấn đề nghiêm trọng đặc biệt với  albicans, điều này vẫn chưa xảy ra (Sanglard 2002).

Nhiễm Candida là một chỉ điểm quan trọng của suy giảm miễn dịch và là một lý do để xem xét điều trị HAART, thậm chí khi tình trạng miễn dịch còn khá. Nhiễm Candida thực quản và thậm chí là nấm ở họng thường xảy ra sau các nhiễm trùng cơ hội khác. Sốt vốn không phải là một triệu chứng cổ điển của Candida nhưng nếu có thì cần phải báo động. Nếu tình trạng miễn dịch còn tốt, cần lưu ý còn một số lý do khác gây nấm họng – nghiện rượu và điều trị steroid. Ngoài thực quản và họng miệng, viêm âm đạo cũng là một vấn đề thường gặp ở phụ nữ (xảy ra ở cả người khỏe mạnh). Nhiễm nấm huyết hiếm xảy ra ở bệnh nhân HIV, thậm chí ngay cả khi suy giảm miễn dịch nặng nề.

Dấu hiệu và triệu chứng

Họng miệng là nơi hay biểu hiện triệu chứng, kèm theo rối loạn vị giác và đôi khi có cảm giác rát bỏng ở lưỡi. Các mảng trắng không dính nằm trên niêm mạc má, vòng bạch huyết và lưỡi giúp khẳng định chẩn đoán. Biểu hiện đơn thuần ở lưỡi là hiếm. Đôi khi có dạng candida teo (atrophic candidiasis) biểu hiện bằng niêm mạc có đám màu hồng đỏ.

Candida thực quản thường xảy ra kèm với tổn thương họng miệng nhưng tới 1/3 số ca không có nấm họng miệng. Nó thường biểu hiện bằng khó nuốt (uống bình thường nhưng thức ăn khó trôi xuống) và đau sau xương ức. Một số bệnh nhân kêu buồn nôn, mặc dù hiếm khi nôn.

Chẩn đoán

Chẩn đoán nấm ở họng miệng có thể chỉ bằng lâm sàng. Không nhất thiết phải ngoáy họng. Cấy và làm kháng sinh đồ chỉ nên thực hiện khi thất bại điều trị với fluconazole hay itraconazole (cẩn thận tính chính xác của phòng xét nghiệm). Không nên nhầm nấm họng với bạch sản lông. Bạch sản lông có dạng mảng trắng, nằm ở rìa bên của lưỡi, không mất đi khi cạo. Bạch sản lông do EBV gây ra và cũng là một chỉ điểm của HIV, nó không gây hại gì và không cần điều trị.

Candida thực quản cũng có thể chẩn đoán lâm sàng. Khó nuốt, đau sau xương ức và candida ở miệng là 3 yếu tố khiến chẩn đoán hướng nhiều đến candida thực quản. Điều trị thử bằng fluconazole sẽ giảm bớt chi phí (Wilcox 1996)! Nội soi đường tiêu hóa trên chỉ thực hiện khi điều trị fluconazole mà bệnh nhân vẫn còn triệu chứng. Để phân biệt candida thực quản kháng fluconazole với viêm thực quản do herpes hoặc CMV, cần lấy bệnh phẩm. Tìm kháng thể hoặc kháng nguyên trong máu là không cần thiết.

Điều trị

Với tình trạng miễn dịch còn tốt và mắc lần đầu, có thể điều trị bằng thuốc chống nấm tại chỗ (súc họng rồi nuốt!). Tuy nhiên, gần như phải dùng đến điều trị toàn thân. Nó hiệu quả hơn  và tránh tái phát lâu hơn (Pons 1997). Fluconazole là lựa chọn ưu tiên và điều trị 1 tuần là đủ (Sangeorzan 1994). Nếu sau 1 tuần vẫn còn triệu chứng thì phải ngoáy họng và tăng liều fluconazole lên tới 800 mg (điều trị thử lần hai).

Chỉ nên dùng itraconazole khi lần điều trị thử thứ hai thất bại và tìm thấy chủng không phải albicans. Nó có hiệu quả ở 2/3 số bệnh nhân (Saag 1997).  Mặc dù itraconazole dạng huyền dịch có hiệu quả tương đương fluconazole (Graybill 1998), chúng tôi không ưu tiên dùng itraconazole do nồng độ thuốc trong huyết tương không đáng tin cậy và nhiều tương tác thuốc.

Một số thuốc kháng nấm mới rất hứa hẹn đã được đưa ra trong những năm gần đây. Tuy nhiên, chỉ nên dùng chúng trong các trường hợp chắc chắn kháng fluconazole. Chưa có bằng chứng thể hiện sự vượt trội so với một thuốc nấm cụ thể nào (Pienaar 2006). Voriconazole có hiệu quả tương đương fluconazole nhưng dung nạp không tốt bằng (Ruhnke 1997, Ally  2001). Giống như amphotericin B, nó có thể được dùng điều trị các nấm kháng nhiều azole. Caspofungin hoặc micafungin là 2 thuốc thuộc họ echinocandins cũng có hiệu quả tốt (Keating 2001, Villanueva 2001, Arathoon 2002, de Wet 2004). Cả 2 loại chỉ có thể dùng dạng tĩnh mạch và trong các nghiên cứu ngẫu nhiên, chúng có hiệu quả và tính dung nạp tương tự fluconazole dạng truyền khi điều trị viêm thực quản do Candida (Villaneuva 2001, de Wet 2004). Thuốc mới posaconazole cũng có tính chất tương tự (Vaszquez 2006).

Cần bắt đầu điều trị HAART (trị liệu kháng retrovirus hiệu lực cao) khi có nhiễm nấm xảy ra, đặc biệt là các chủng đa kháng do nấm thường mất đi khi có phục hồi miễn dịch (Ruhnke 2000).

Dự phòng

Chưa có lợi ích nào về tỷ lệ sống sót được chứng minh từ các dự phòng Candida tính đến thời điểm hiện tại (McKinsey 1999, Rex 2000, Goldmann 2005). Trong nghiên cứu ngẫu nhiên  lớn nhất về vấn đề này, người ta thấy có giảm các đợt nấm họng cũng như candida xâm nhập nếu dự phòng kéo dài (Goldman 2005). Giả thuyết rằng điều trị dự phòng kéo dài sẽ dẫn tới chọn lọc các chủng không albicans kháng thuốc (Vazquez 2001) đã không được khẳng định từ nghiên cứu này. Candida kháng azole không gặp nhiều hơn ở nhóm điều trị dự phòng.

Nhưng: cần kiểm tra họng miệng mỗi bệnh nhân suy giảm miễn dịch tại mỗi lần khám!

Điều trị/dự phòng candida (liều hàng ngày)
Tấn công   Thời gian: 5-10 ngày
Nhẹ Tại chỗ Ví dụ amphotericin B 1 viên ngậm ngày 4 lần hoặc nystatin huyền dịch 1 ml ngày 4 lần
Ưu tiên Fluconazole Diflucan™ hoặc fluconazole CT/Stada 1 x 1 viên nang 100 mg cho nấm họng

Diflucan™ hoặc fluconazole CT/Stada 1 x 1 viên nang 200 mg cho nấm thực quản

(liều gấp đôi trong ngày đầu)

Thay thế Itraconazole Itraconazole 1-2 viên nang 100 mg ngày 2 lần hoặc Itraconazole huyền dịch 10-20 ml ngày 2 lần (1 ml = 10 mg)
Dự phòng   Không khuyến cáo

Chấn thương thận – triệu chứng, xử trí

Chấn thương thận thường trong bệnh cảnh chấn thương bụng 8-10% chấn thương bụng có tổn thương thân.

Những triệu chứng chấn thương bụng thường che lấp triệu chứng chấn thương thận.

Việc đánh giá cụ thể thương tổn thận qua chụp niệu tĩnh mạch nhỏ giọt, siêu âm, (chụp động mạch thận chọn lọc, chụp cắt lớp vi tính) sẽ cho những tư liệu có giá trị chẩn đoán, xác định cho việc điều trị thích hợp đối với chấn thương thận).

TỔN THƯƠNG GIẢI PHẪU BỆNH

Erickson 1960 có một đánh giá quan trọng đầy đủ đối với chấn thương nặng. Chetelain 1970 đề nghị một phân loại chấn thương thận dựa vào các dấu hiệu thực thể – X quang.

Cass 1983, Mac Ainch 1994 phân loại chấn thương thận cụ thể hơn vì có sử dụng các phương tiện chẩn đoán hiện đại.

Cách phân loại chấn thương thận có thể thống nhất như sau:

  • Đụng dập thận (renal contusion)

Thương tổn ở mức độ này chỉ gây tụ máu dưới bao thận, còn nguyên vẹn bao thận và đường bài tiết, chiếm tỉ lệ 70-75%.

  • Dập thận nhẹ (minor laceration)

Dập đứt nhu mô vùng vỏ thận nhưng chưa tổn thương sâu vào vùng tủy thận hoặc đường bài tiết từ 10 đến 15%. Dập thận nặng (minor laceration: dập nứt nhu mô thận.

Tới vùng tủy thận thông với đường bài tiết – đài bể thận, 8-10%.

  • Vỡ thận (renal rupture)

Thận bị vỡ thành 2-3 hay nhiều mảnh. Phần thận bị vỡ mất sự nuôi dưỡng của mạch máu chính của thận 3-5%.

  • Đứt cuống thận (vascular injuries)

Tổn thương động tĩnh mạch thận có thể từng phần hay toàn bộ, đứt hoàn toàn hay không hoàn toàn các mạch máu cuông thận gây thiếu máu hay mất nuôi dưỡng nhu mô thận, 1-3%.

Thương tổn một thận thường gặp, thương tổn thận phải – trái có tỷ lệ như nhau.

Chấn thương thận có thể gặp trên các thận bệnh lý: sỏi thận nang thận, u thận, thận móng ngựa…

Tai nạn gây chấn thương thận có thể gây chấn thương các tạng trong ổ bụng: vỡ gan, lách, đại tràng, gãy xương sườn, tràn khí màng phổi.

Vì tính chất đa dạng của chấn thương nói chung nên bệnh cảnh lâm sàng rất phức tạp. Một chấn thương bụng che lấp triệu chứng của chấn thương thận hay ngược lại một chấn thương thận nặng bỏ sót chấn thương bụng kèm theo. Sau đây chúng tôi chỉ mô tả triệu chứng lâm sàng điểm hình của chấn thương thận.

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG – CẬN LÂM SÀNG

Triệu chứng cơ năng

  • Đau vùng thắt lưng và trướng bụng: trong đa số các trường hợp chấn thương thận đều biểu hiện đau tức vùng thắt lưng và co cứng vùng thắt lưng. Đau tăng theo tiến triển của thương tổn thận lan lên góc sườn hoành xuống hố chậu (biểu hiện máu tụ, nước tiểu tràn ra sau màng bụng). Đau tăng là do khối máu tụ tăng ở vùng thắt lưng.

Bụng trướng, nôn cũng là triệu chứng hay gặp (do có máu tụ kích thích sau màng bụng). Điển hình là co cứng nửa bụng bên thận bị chấn thương.

  • Đái ra máu là dấu hiệu khách quan trong chấn thương thận có giá trị theo dõi đánh giá tiên lượng chấn thương thận gặp trong đa số các trường hợp chấn thương thận, chứng tỏ có thương tổn thông với đường bài tiết – đài bể thận.

Ngay sau chấn thương, bệnh nhân đái ra máu đỏ tươi. Màu sắc của máu cho biết chấn thương nặng hay nhẹ, tiếp tục chảy máu nhu mô thận hay đã tự cầm máu: máu đỏ tươi là chảy máu đang tiến triển, máu sẫm màu hay vàng dần là khả năng cầm máu được.

Đái ra máu tái phát sau 7 ngày có khi sau 2 tuần gặp trong những trường hợp các mô thận dập nát hoại tử không thể tự liền khỏi bắt buộc phải can thiệp ngoại khoa.

Triệu chứng thực thể

  • Khối máu tụ ở hố thắt lưng: khám (nhìn và sờ nắn) vùng thắt lưng đầy hơn bình thường, căng nề và rất đau. Sờ thấy rõ co cứng vùng thắt lưng, co cứng cả khối cơ lưng. Có khi nhìn thấy vùng bầm tím lan dưới da, máu tụ ở hố thắt lưng là chứng tỏ vỡ bao thận chảy máu lan ra quanh thận.

Theo dõi tiến triển khối máu tụ cũng có ý nghĩa đánh giá tiên lượng dập vỡ nhu mô thận.

Khối máu tụ tăng nhanh thì bụng trướng cũng tăng và co cứng nửa bụng càng rõ.

Triệu chứng toàn thân

  • Sốc: mạch nhanh trên1 dưới 100 lần/ phút, huyết áp động mạch 90/50 mmHg, áp lực tĩnh mạch trung ương giảm dưới 5 cm H2O gặp trong 25-30% các trường hợp chấn thương thận với các thương tổn nặng như dập vỡ thận, đứt cuông thận, trong các trường hợp đã chấn thương phối hợp.
  • Thiếu máu câp do chảy máu: biểu hiện trên bệnh nhân là da niêm mạc nhợt, bệnh nhân vã mồ hôi, mạch nhanh huyết áp hạ hồng cầu giảm huyết sắc tố giảm hematocrit giảm.

Cận lâm sàng

X quang có ý nghĩa rất quan trọng để đánh giá cụ thể thương tổn chấn thương thận.

  • Chụp hệ tiết niệu không chuẩn bị: thấy bóng thận to hơn bình thường không nhìn rõ bờ cơ đái chậu, các quai ruột giãn đầy hơi.
  • Chụp niệu đồ tĩnh mạch cấp cứu rất cần thiết, có thể thực hiện phương pháp chụp niệu tĩnh mạch nhỏ giọt để biết:

Thân bên đối diện bình thường hay không.

Thận chấn thương: hình ảnh đọng thuổc cản quang tại chỗ một vùng ổ thận, nhưng đường bài tiết vẫn bình thường là biểu hiện tương ứng với các thương tổn nhẹ đụng dập, dập thận nhẹ. Nếu hình ảnh một đài, một nhóm đài thận bị tách rời, thuốc cản quang tràn ra xung quanh ổ thận tương ứng với các thương tổn nặng.

Thận bên chấn thương không ngấm thuốc do đài bể thận đầy máu cục choán chỗ, thận bị vỡ hay dập thận nặng, hoặc thương tổn động mạch thận, cần phải có phương pháp khác để xác định thương tổn.

  • Chụp động mạch thận chọn lọc cho những hình ảnh tốt nhất cụ thể hơn động mạch bị tắc, bị cắt cụt, hình ảnh hồ máu và ứ đọng thuốc biểu hiện những thương tổn liên quan đến mạch máu thận.

Chụp động mạch có chỉ định trong các trường hợp thận câm, nhưng thực tế ít được áp dụng vì có nguy hiểm nhất định đối với tổn thương nặng nên bệnh nhân chấn thương nặng.

  • Siêu âm hiện nay là phương tiện chẩn đoán phổi cập thuận lợi vô hại góp phần xác định các thương tổn chấn thương thận: hình ảnh tụ máu dưới bao, quanh thận, tụ máu trong thận phân biệt rõ với nhu mô thận lành hay đường vỡ phần thận bị tách rời cũng được phát hiện bằng siêu âm.
  • Chụp các lớp vi tính hiện nay đã được áp dụng trong chẩn đoán chấn thương thận (bụng). Khi chụp niệu đồ tĩnh mạch thận không ngấm thuốc.
  • Chụp cắt lớp vi tính vùng thận trước sau tiêm thuốc cản quang sẽ thấy rõ hình ảnh chấn thương thận – tụ máu dập – vỡ thận.

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán lâm sàng chấn thương thận dựa vào các triệu chứng chính sau đây: trên bệnh nhân bị chấn thương vào thắt lưng, mạng sườn.

  • Đái ra máu
  • Đau căng tức vùng thắt lưng, bụng trướng.
  • Xuất hiện khối máu tụ hố thắt lưng, cho định hướng lâm sàng chẩn đoán chấn thương thận.

Để xác định cụ thể các thương tổn chấn thương thận cần có những thăm khám cận lâm sàng khác để có thái độ xử trí thích hợp.

Theo sơ đồ (algorithm) của Jack W.MacAning 1991 như sau:

DIỄN BIẾN

Chấn thương thận những thương tổn nhẹ (đụng dập, dập thận nhẹ) chiêm tỉ lệ 80-90% các trường hợp, còn 15-20% là những thương tổn nặng.

Thận là một tạng xốp rất giầu mạch máu khi bị chấn thương có thể từ một mức độ này chuyển sang một mức độ khác nặng hơn, cũng có thể ổn định, nên cần có sự theo dõi đánh giá đúng:

  • Xu hướng ổn định

Các triệu chứng lâm sàng giảm, bớt đau, đái nước tiểu sẫm màu rồi thành màu vàng, khối máu tụ không to hơn, toàn thân không sốt, mạch huyêt áp ổn định, bệnh nhân tỉnh táo dần.

  • Xu hướng không ổn định

Bệnh tiến triển nặng thêm. Bệnh nhân đái máu tiêp diễn, đái máu cục, máu tươi. Khối máu tụ thắt lưng tăng nhanh cần phải có biện pháp chẩn đoán cụ thể và có thái độ xử trí kịp thời.

  • Chấn thương nặng

Như các trường hợp vỡ thận hay đứt cuông thận: bệnh nhân đái ra máu dữ dội, khối máu tụ tăng nhanh thiếu máu cấp, toàn thân rơi vào trạng thái sôc nặng cần phải phẫu thuật cấp cứu ngay.

  • Biến chứng

Thực ra việc chẩn đoán cụ thể được thương tổn chấn thương thận đã giảm nhiều các biến chứng, song vẫn còn có thể gặp:

  • Viêm tấy hố thắt lưng với bệnh cảnh lâm sàng như sốt cao đau sưng nề hố thắt lưng, có thể tiến triển thành áp xe quanh thận rò thận.
  • Đau lưng kéo dài do viêm xơ quanh thận.
  • ứ nước thận do viêm xơ chít quanh niệu quản sau phúc mạc do những khối máu tụ lớn xơ hoá.
  • Xơ teo thận sau chấn thương gây tình trạng cao huyết áp.
  • Những thương tổn động tĩnh mạch thận có thể gây phồng động tĩnh mạch thận.

Trong mọi trường hợp điều trị bảo tồn cần theo dõi bằng siêu âm, chụp niệu đồ tĩnh mạch để có thái độ xử trí thích hợp.

THÁI ĐỘ XỬ TRÍ

  • Việc đánh giá đầy đủ cụ thể chấn thương thận sẽ cho hướng xử trí thích hợp những thương tổn thận.
  • Điều trị bảo tồn hay can thiệp phẫu thuật phải dựa vào chẩn đoán các yếu tố sau: mức độ đái ra máu, tiến triển chung của khối máu tụ vùng thắt lưng, kết quả của siêu âm chụp niệu đồ tĩnh mạch.
  • Điều trị nội khoa (điều trị bảo tồn)

Chủ yếu trong các trường hợp đụng dập thận, dập thận nhẹ tình trạng bệnh nhân ổn định, mạch huyết áp hồng cầu, huyết sắc tố không giảm nhiều. Bệnh nhân đái ra máu giảm dần, khối máu tụ vùng thắt lưng không tăng hơn. Chụp niệu đạo tĩnh mạch thận bị chấn thương đài bể thận rõ hoặc thuốc cản quang chỉ đọng khu trú dưới vỏ thận.

Điều trị: bệnh nhân nằm bất động tại giường, săn sóc tại giường. Truyền dịch hoặc máu hoặc các dịch thay thế cần thiết.

Cho kháng sinh có thể phối hợp nhóm B-lactamin và aminozit, lợi tiểu nhẹ Lasix 10 mg/1-2 ống ngày.

Giảm đau chườm lạnh vùng thắt lưng. Sau 10 ngày các tác giả khuyên nên kiêm tra lại băng chụp niệu tĩnh mạch để đánh giá kết quả điều trị nội khoa.

  • Điều trị ngoại khoa
  • Chỉ định can thiệp phẫu thuật cấp cứu trong những trường hợp chấn thương nặng như đứt cuông thận, vỡ thận, có tổn thương phối hợp các tạng khác trong ổ bụng.
  • Chỉ định can thiệp sớm các trường hợp điều trị nội khoa không ổn định, bệnh diễn biến nặng lên như đái máu nặng. Khối máu tụ thắt lưng tăng, toàn thân thay đổi sổc và mất máu.

Siêu âm X quang dập thận nặng, vỡ thận một cực, một phần thận không ngấm thuốc, hình ảnh thuốc cản quang tràn ra ngoài bao thận nhiều. Các trường hợp đái máu tái diễn nặng đang điều trị nội khoa.

Yêu cầu về gây mê hồi sức phẫu thuật.

  • Gây mê nội khí quản và thuốc giãn cơ.
  • Đường mổ sườn thắt lưng kinh điển hay qua phúc mạc trực tiếp vào cuống thận: kiểm tra đánh giá ngay thương tổn cuông thận dập nát vỡ thận. Tuỳ theo thương tổn mà thực hiện các phẫu thuật thích hợp.
  • Khâu cầm máu nhu mô thận lấy máu tụ quanh ổ thận.
  • Cắt thận bán phần một cực thận bị vỡ đứt rời.
  • Cắt thận khi bị vỡ nát hay đứt cuốhg thận khi không còn khả năng bảo tồn, khi cắt thận phải thăm dò trước thận bên đối diện.

Những tiến bộ trong chẩn đoán chấn thương thận đã nâng cao chất lượng kết quả điều trị, giảm bớt các biến chứng tử vong.

Điều trị phẫu thuật chỉ với tỷ lệ mổ 10-15% các trường hợp và phẫu thuật có ý nghĩa tiến bộ 60-80% bảo tồn thận các trường hợp trên.

Ỉa máu (đại tiện huyết) Đông y và pháp, phương thuốc điều trị

ỉa máu là máu theo đường đại tiện ra ngoài. Máu có thể ra một mình (ỉa toàn máu), có thể ra trước phân, có thể ra sau phân. Máu ra có thể màu đỏ, có thể màu sẫm hoặc đen. Kim quỹ yếu lược chia ra làm cận huyết, viễn huyết. Các y gia sau này cũng cho rằng máu ra sau phân là viễn huyết, có thể từ vị, tiểu trường xuống đại trường để ra ngoài. Máu ra trước phân là cận huyết, huyết ở đại trường hay hậu môn chảy ra, ỉa máu đỏ tươi, được gọi là trường phong (bệnh thường ở đại trường, hậu môn, trĩ), ỉa máu tím đen thường gọi là tạng độc (bệnh thường ở trường vị).

Nguyên nhân gây ỉa máu thường là tỳ hư không nhiếp được huyết, hoặc thấp nhiệt đi xuống trú ở đại tràng làm tổn thương lạc mạch ở đại trường. Tuệ Tĩnh cho là: “tạng phủ chứa thấp nhiệt độc hoặc lo nghĩ, rượu chè, sắc dục quá độ, hoặc ham ăn chiên sào, nhiệt độc quá nhiều gây nên, hoặc cảm phong tà, hoặc cảm thử thấp gây nên”. (Nam dược thần hiệu – Tiện huyết)

Phép điều trị chủ yếu thường là ích khí bổ tỳ cho thể tỳ hư không nhiếp huyết, thanh hóa thấp nhiệt cho thể thấp nhiệt đi xuống trú ở đại trường. Tuệ Tĩnh cho là phải thanh nhiệt giải độc.

ỉa máu do tỳ hư không nhiếp huyết

Triệu chứng: ỉa phân ra trước huyết ra sau, màu thường tím đen, nặng thì chất phân ra như nhựa đường, bụng đau âm ỉ, phân nhão lỏng, người mệt mỏi, ăn uống kém, lưỡi nhợt tím, mạch tế sác.

Phép điều trị: Kiện tỳ ôn trung Phương thuốc: (Thuốc nam châm cứu)

Lá ngải khô                  40g             Đất lòng bếp            40g

Đậu đen sao                 40g             Gừng nướng           12g.

Phương thuốc: Hoàng thổ thang (Kim quỹ yếu lược)

Cam thảo                 3 lạng             Can địa hoàng      3 lạng

Bạch truật                3 lạng             A giao                  3 lạng

Phụ tử bào              3 lạng

Hoàng thổ              8 lạng

Sắc Hoàng thổ trước, gạn lấy nước sắc để sắc thuốc khác.

Ý nghĩa: Hoàng.thổ, Ngải để ôn trung cầm máu. A giao, Sinh địa, Đậu đen để tư âm dưỡng huyết cầm máu, Phụ tử; Gừng, Truật để ôn trung kiện tỳ.

A giao
A giao

Phương thuốc: Lý vật thang (Kim quỹ dực phương)

Là phương Lý trung thang (Sâm khương truật thảo) phối hợp với phương Tứ vật thang (Thục thược khung quy) để ôn bổ tỳ vị dưỡng huyết chỉ huyết.

Cũng có thể dùng Bổ trung ích khí thang (Sâm kỳ truật thảo quy trần thăng sải) hoặc Quy tỳ hoàn (Sâm kỳ truật thảo quy mộc hương, phục thần, táo nhân, viễn, nhãn).

ỉa máu do thấp nhiệt đi xuống trú ở đại trường.

Triệu chứng: ỉa máu tươi hoặc ỉa máu trước phân sau, ỉa không thông thoát, mạch nhu sác.

Phép điều trị: Thanh nhiệt hóa thấp.

Phương thuốc: (Thuốc nam châm cứu)

Hoa hòe            30g           Lá trắc bá sao đen               30g

Chỉ xác             20g           Hoa kinh giới sao đen         30g

Sấy khô tán mịn rây kỹ mỗi lần dùng 8 gam uống. Hoặc giảm liều sắc uống.

Phương thuốc: Hòe hoa tán (Y tông kim giám)

Hoa hòe sao                            Trắc bá diệp sao

Chỉ xác sao dấm                     Hoàng liên

Kinh giới tuệ sao

Tán mịn, chiêu bằng nước sắc ô mai.

Hòe hoa tán của Bản sự phương không có Hoàng liên.

Ý nghĩa: Hoa hòe chuyên để thanh thấp nhiệt ở đại trường, lương huyết chỉ huyết. Trắc bách diệp trợ Hòe hoa, Kinh giới tuệ để sơ phong trong huyết, chỉ huyết. Hoàng liên để thanh nhiệt. Chỉ xác để hạ khi khoan trường.

Phương thuốc này chủ yếu để chữa trường phong.

Các phương thuốc (Trích từ Nam dược thần hiệu – Tiện huyết)

Hoa kinh giới, Hoa hòe lượng bằng nhau sao đen

Tán mịn, mỗi lần uống 3  đồng cân với nước trà hay nước sắc bạc hà.

  • Củ nghệ xắt lát sấy khô 1 phần Hoa hòe sao 2 phần

Tán mịn mỗi lần uống 2  đồng cân, ngày uống 2 lần bằng thang thuốc mực tàu.

* Mướp lquả đã qua mùa sương và đã già

Hái đốt tồn tính (ti qua), mỗi lần uống 2  đồng cân với rượu lúc đói.

  • Mướp một phần đốt tồn tính, Hoa hòe 1/2 phần sao đen, tán mịn, uống với nước cơm, mỗi lần 2 đồng cân.
  • Ngải cứu 1 nắm Đậu đen 100 hột Nước 1 bát

Sắc còn nửa bát, hòa với nửa chén mật ong uống khi đói.

Thuốc tránh thai sử dụng lâu dài có được không?

Thuốc tránh thai sử dụng lâu dài là gì?

Một bước đột phá lớn trong việc ngăn ngừa thai đã xảy ra vào năm 1960 khi thuốc tránh thai đường uống, hay “thuốc tránh thai”, lần đầu tiên được FDA phê duyệt. Tùy thuộc vào thương hiệu, tất cả những gì bạn cần làm là uống một viên thuốc nhỏ trong 21 ngày của tháng, và trong tuần thứ tư, bạn uống bảy viên thuốc không hoạt động, hoặc không uống thuốc nào cả. Sau đó, bạn có kỳ kinh nguyệt. Nhưng ngay cả hệ thống tiện lợi này cũng đã thay đổi theo thời gian.

Ngày nay, có các chương trình thuốc tránh thai đường uống 91 ngày hứa hẹn sẽ ngăn ngừa thai ngoài ý muốn và cho phép bạn có ít kỳ kinh hơn mỗi năm. Nhưng có một số điều bạn cần biết trước khi chuyển đổi.

Bạn uống thuốc tránh thai sử dụng lâu dài như thế nào?

Có một số loại thuốc có kế hoạch 91 ngày trên thị trường. Nhưng giống như bất cứ thứ gì khác, loại tốt nhất cho bạn thực sự phụ thuộc vào chi phí, sở thích của bạn và những gì bác sĩ của bạn nghĩ rằng có thể tốt cho bạn.

Dưới đây là các loại thuốc sử dụng lâu dài mà bạn có thể có hiện nay:

  • Amethia, Camrese và Simpesse. Đây là các phiên bản generic của thương hiệu Seasonique. Bạn sẽ uống thuốc hoạt động trong 84 ngày, sau đó là 1 tuần uống thuốc chứa một liều estrogen rất thấp. Điều này có thể giúp giảm bloat và các tác dụng phụ khác có thể xảy ra trong thời gian bạn uống thuốc không chứa hormone. Kỳ kinh của bạn sẽ bắt đầu vào tuần thứ 13.
  • Jolessa. Đây là phiên bản generic của thương hiệu Seasonale. Bạn uống viên này trong 84 ngày, sau đó là 7 ngày uống thuốc không hoạt động. Điều đó có nghĩa là chúng không chứa hormone. Một số thương hiệu sử dụng estrogen liều thấp mà bạn uống trong 7 ngày. Kỳ kinh của bạn sẽ bắt đầu vào tuần thứ 13.
  • Rivelsa. Đây là phiên bản generic của Quartette. Bạn cũng uống viên này trong 84 ngày. Nhưng thuốc này chứa một liều hormone progestin cố định. Liều estrogen tăng dần ba lần trong 84 ngày đó. Bạn bắt đầu với thuốc chứa 20 microgam, tăng lên 25 microgam và sau đó là 30 microgam. Sau đó là 1 tuần uống thuốc chứa estrogen liều thấp. Bạn sẽ có kỳ kinh vào tuần thứ 13.

Có an toàn không khi sử dụng thuốc tránh thai để hoãn kỳ kinh của tôi?

Đối với hầu hết phụ nữ, câu trả lời ngắn gọn là “có.” Kỳ kinh có thể gây phiền toái nếu bạn có một dịp đặc biệt như đi nghỉ. Nhưng cũng có những lý do khác. Ví dụ, bạn có thể gặp vấn đề thể chất khiến việc sử dụng sản phẩm vệ sinh phụ nữ trở nên khó khăn. Nếu vậy, việc hoãn kỳ kinh có thể là lựa chọn đúng cho bạn.

Nhưng cũng có những vấn đề khác có thể khiến chu kỳ trở thành một vấn đề sức khỏe. Lạc nội mạc tử cung và thiếu máu là hai tình trạng trở nên tồi tệ hơn khi bạn có kỳ kinh. Các tình trạng khác bao gồm đau vú, vấn đề tâm trạng và bloat. Một số người bị đau đầu và các triệu chứng kỳ kinh khác trong tuần uống thuốc không hoạt động của họ. Nếu bạn là một trong số họ, có thể có ý nghĩa đối với bạn khi hoãn kỳ kinh càng lâu càng tốt.

Tất nhiên, bạn cần kiểm tra với bác sĩ để xem liệu thuốc 91 ngày có phù hợp với bạn không. Và mặc dù không có vẻ có nhiều vấn đề khi hoãn kỳ kinh của bạn, nhưng có thể có một số nhược điểm tiềm tàng. Nếu bạn chỉ có kỳ kinh bốn lần một năm, có thể sẽ khó để biết liệu bạn có mang thai hay không. Vì vậy, điều quan trọng là theo dõi các triệu chứng như đau vú, mệt mỏi và buồn nôn, đặc biệt là vào buổi sáng. Thực hiện một bài kiểm tra thai nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể mang thai, và gặp bác sĩ chăm sóc sức khỏe của bạn.

Những rủi ro của thuốc tránh thai sử dụng lâu dài là gì?

Thuốc tránh thai nói chung là an toàn cho hầu hết mọi người khỏe mạnh. Nhưng một tỷ lệ rất nhỏ những người sử dụng thuốc kết hợp hormone (những loại chứa estrogen) có thể có nguy cơ mắc các vấn đề như huyết khối, các vấn đề về tim như huyết áp cao hoặc nhồi máu cơ tim, huyết khối tĩnh mạch sâu, và thậm chí đột quỵ.

Một trong những phàn nàn lớn nhất mà phụ nữ có khi uống thuốc tránh thai hormone là chảy máu đột xuất. Giống như kế hoạch 21 ngày thông thường, thuốc tránh thai sử dụng lâu dài có thể gây ra một số chảy máu nhẹ. Điều này có thể biến mất khi cơ thể bạn điều chỉnh lại chu kỳ sử dụng lâu dài.

Vấn đề này cũng phổ biến hơn ở những người hút thuốc. Hút thuốc làm tăng nguy cơ huyết khối và đột quỵ nếu bạn uống bất kỳ loại thuốc tránh thai nào, vì vậy hãy tham khảo ý kiến bác sĩ nếu bạn cần giúp đỡ để bỏ thuốc.

Uống thuốc của bạn vào cùng một thời điểm mỗi ngày cũng có thể giúp ngăn chặn chảy máu đột xuất.

Bạn và bác sĩ của bạn nên thảo luận về các yếu tố nguy cơ cá nhân của bạn. Nếu bạn không thể uống thuốc kết hợp hormone, có các phương pháp tránh thai khác.

Huyệt Khúc Trì – Vị trí, tác dụng, ở đâu

Khúc Trì

Tên Huyệt Khúc Trì:

Huyệt ở chỗ lõm (giống cái ao = trì) khi tay cong (khúc) lại, vì vậy gọi là Khúc Trì.

Tên Khác:

Dương Trạch, Quỷ Cự.

Xuất Xứ Khúc Trì:

Thiên ‘Bản Du’ (Linh khu.2).

Đặc Tính

Huyệt Khúc Trì

:

Huyệt thứ 11 của kinh Đại Trường.

Hợp huyệt, thuộc hành Thổ.

Huyệt Bổ của kinh Đại Trường.

Huyệt này với các loại bệnh chứng đều có thể phối hợp trị liệu có tính cách toàn thể.

Yếu huyệt trị bệnh ngoài da, bệnh mắt, dự phòng hóa mủ (Châm Cứu Chân Tủy).

Vị Trí

Huyệt Khúc Trì

:

Co khuỷ tay vào ngực, huyệt ở đầu lằn chỉ nếp gấp khuỷ, nơi bám của cơ ngửaa dài, cơ quay 1, cơ ngửa ngắn khớp khủy.

Giải Phẫu:

Dưới da là chỗ bám của cơ ngửa dài, cơ quay 1, cơ ngửa ngắn khớp khủy.

Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh quay.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh C6.

Tác Dụng

Huyệt Khúc Trì

:

Sơ tà nhiệt, Giải biểu, Khu phong, Trừ thấp, Thanh nhiệt, Tiêu độc, Hòa vinh, Dưỡng huyết.

Chủ Trị

Huyệt Khúc Trì

: Trị khuỷ tay đau, cánh tay đau, chi trên liệt, vai đau, sốt, cảm cúm, dị ứng, ngứa, da viêm, huyết áp cao.

Phối Huyệt:

1. Phối Thiên Liêu (Tam tiêu.15) trị vai đau không giơ lên được (Thiên Kim Phương).

2. Phối Dương Lăng Tuyền (Đ.34) trị bán thân bất toại (Châm Cứu Tụ Anh).

3. Phối Phục Lưu (Th.7) + Tam Lý (Vị 36) trị thương hàn sốt cao (Châm Cứu Đại Thành).

4. Phối Hợp Cốc (Đại trường.4) trị họng sưng nghẹt (Châm Cứu Đại Thành).

5. Phối Ngư Tế (Phế 10) + Thần Môn (Tm.7) trị nôn ra máu (Châm Cứu Đại Thành).

6. Phối Xích Trạch (Phế 5) trị khớp khuỷ tay đau (Ngọc Long Ca).

7. Phối Hợp Cốc (Đại trường.4) + Kiên Ngung (Đại trường.15) trị cánh tay đau nhức (Thắng Ngọc Ca).

8. Phối Thiếu Xung (Tm.9) trị sốt (Bách Chứng Phú).

9. Phối Xích Trạch (Phế 5) trị khủy tay đau (Bách Chứng Phúù).

10. Phối Gian Sử (Tâm bào.5) + Hậu Khê (Tiểu trường.3) trị sốt không hạ (Loại Kinh Đồ Dực).

11. Phối Bá Hội (Đc.20) + Khúc Trì (Đại trường.11) + Kiên Ngung (Đại trường.15) + Phát Tế + Phong Trì (Đ.20) + Túc Tam Lý (Vị 36) + Tuyệt Cốt (Đ.39) có tác dụng phòng ngừa trúng phong (Vệ Sinh Bảo Giám).

12. Phối Đại Lăng (Tâm bào.7) + Hợp Cốc (Đại trường.4) +) Khổng Tối (Phế 6) trị tay yếu mỏi (Trung Quốc Châm Cứu Học)

13. Phối Hợp Cốc (Đại trường.4) + Ngoại Quan (Tam tiêu.5) + Thiên Tỉnh (Tam tiêu.10) + Xích Trạch (Phế 5) trị cánh tay đau (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu)

14. Phối Hợp Cốc (Đại trường.4) + Khúc Trạch (Tâm bào.3) + Uỷ Trung (Bàng quang.40) trị đơn độc, phong ngứa (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).

15. Phối Huyết Hải (Tỳ 10) + Uỷ Trung (Bàng quang.40) trị lưng có nhọt (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).

16. Phối Can Du (Bàng quang.18) + Uyển Cốt (Tiểu trường.4) trị mắt chảy nước (Châm Cứu Học Thượng Hải).

17. Phối Đại Chùy (Đ.14) + Túc Tam Lý (Vị 36) trị phong ngứa, mề đay, dị ứng (Châm Cứu Học Thượng Hải).

18. Phối Huyết Hải (Tỳ 10) + Thái Xung (C.3) trị dị ứng (Châm Cứu Học Thượng Hải).

19. Phối Hợp Cốc (Đại trường.4) trị bụng đau (Châm Cứu Học Thượng Hải).

20. Phối Ấn Đường + Đại Chùy (Đc.14) + Thiếu Thương (Phế 11) trị ban chẩn (Châm Cứu Học Thượng Hải).

21. Phối Đại Chùy (Đc.14) + Hợp Cốc (Đại trường.4) + Thập Tuyên trị sốt cao (Châm Cứu Học Thượng Hải).

22. Phối Nhân Nghênh (Vị 9) + Túc Tam Lý (Vị 36) trị huyết áp cao (Châm Cứu Học Thượng Hải).

23. Phối Đại Chùy (Đc.14) + Hợp Cốc (Đại trường.4) + Thái Xung (C.3) +Túc Tam Lý (Vị 36) trị tím tái do tiểu cầu giảm (Châm Cứu Học Thượng Hải).

24. Phối Âm Lăng Tuyền (Tỳ 9) + Đại Chùy (Đc.14) + Huyết Hải (Tỳ 10) + Tam Âm Giao (Tỳ 6) + Túc Tam Lý (Vị 36) trị ban sở i (Châm Cứu Học Thượng Hải).

25. Phối Dương Trì (Tam tiêu.4) + Hợp Cốc (Đại trường.4) + Thủ Tam Lý (Vị 36) + Uyển Cốt (Tiểu trường.4) trị tay và ngón tay co rút (Châm Cứu Học Thủ Sách)

26. Phối Hạ Liêm (Đại trường.9) + Uỷ Trung (Bàng quang.40) trị bệnh tê do phong, hàn, thấp (Phối Huyệt Khái Luận Giảng Nghĩa).

27. Phối Dương Lăng Tuyền (Đ.34) trị run giật, đau nhức toàn thân, các chứng phong thấp (Phối Huyệt Khái Luận Giảng Nghĩa).

Cách châm Cứu

Huyệt Khúc Trì

:

Châm thẳng 1 – 1, 5 thốn hoặc xuyên tới Thiếu hải, sâu 2 – 2, 5 thốn.

Cứu 3 – 5 tráng – Ôn cứu 5 – 10 phút..

Ghi Chú: Trong trường hợp châm chữa chi trên liệt, châm mũi kim hơi hướng xuống mặt cong của khớp khuỷ (có cảm giác như điện giật xuống ngón tay).

Tham Khảo:

“Châm trị huyết áp không ổn định do mạch máu não hình thành: Châm Khúc Trì và Túc Tam Lý thường thấy huyết áp hạ xuống”(Thường Dụng Du Huyệt Lâm Sàng Phát Huy).

“Khúc Trì phối Tam Âm Giao thường dùng trị bệnh ngoài da có kết qủa tốt. Vì Khúc Trì chủ yếu để khứ phong, thanh nhiệt, còn Tam Âm Giao là huyệt chủ yếu trị bệnh về huyết, có tác dụng hành thấp. Bệnh ngoài da đa số do phong, thấp, nhiệt và huyết, do đó, nếu tả 2 huyệt này có tác dụng khứ phong, hành huyết, trừ thấp, giảm ngứa. Tả Khúc Trì + bổ Tam Âm Giao (Tỳ 6) có tác dụng khứ phong, dưỡng huyết” (Du Huyệt Công Năng Giám Biệt).

Hội Chứng Khó Thở Cấp Tính (ARDS)

Hội Chứng Khó Thở Cấp Tính Là Gì?

Hội chứng khó thở cấp tính (ARDS) là một tình trạng khiến chất lỏng tích tụ trong phổi, khiến oxy không thể đến các cơ quan của bạn.

Chất lỏng rò rỉ từ các mạch máu nhỏ và tích tụ trong các túi khí nhỏ trong phổi, khiến chúng không thể chứa đủ không khí. Vì điều này, máu không thể lấy được oxy mà nó cần để mang đến phần còn lại của cơ thể. Các cơ quan như thận hoặc não có thể không hoạt động đúng cách hoặc có thể ngừng hoạt động.

ARDS đôi khi có thể đe dọa tính mạng và có thể xấu đi nhanh chóng. Nhưng nói chung, nó có thể điều trị được và hầu hết mọi người đều hồi phục. Việc chẩn đoán và điều trị nhanh chóng là rất quan trọng.

Nguyên Nhân Và Các Yếu Tố Nguy Cơ Của ARDS

ARDS thường được kích hoạt bởi một vấn đề sức khỏe khác, vì vậy hầu hết những người mắc phải nó thường đã nằm viện vì một lý do khác. Nguyên nhân của ARDS bao gồm:

  • Nhiễm trùng huyết: Đây là khi bạn bị nhiễm trùng trong dòng máu và hệ miễn dịch của bạn hoạt động quá mức, gây ra viêm, các cục máu nhỏ và chảy máu.
  • Tai nạn: Chấn thương từ một vụ tai nạn xe hơi hoặc ngã có thể làm hỏng phổi của bạn hoặc phần não điều khiển hô hấp.
  • Hít phải các chất độc hại: Khói đặc hoặc hơi hóa chất có thể kích hoạt ARDS.

Các nguyên nhân khác có thể của ARDS bao gồm:

  • Viêm phổi
  • Chảy máu khiến bạn cần truyền máu
  • Viêm tụy
  • Sử dụng thuốc quá liều
  • Gần chết đuối
  • Bỏng
  • Phản ứng với thuốc
  • Hít phải thức ăn vào phổi (hít phải)

Bác sĩ không biết tại sao một số người mắc ARDS còn những người khác thì không. Các yếu tố nguy cơ bao gồm:

  • Vấn đề trong gen của bạn
  • Sử dụng rượu nặng
  • Hút thuốc lá
  • Sử dụng oxy cho tình trạng phổi
  • Phẫu thuật hoặc hóa trị liệu gần đây có nguy cơ cao
  • Béo phì

Triệu Chứng Của ARDS

ARDS đặt áp lực lớn lên phổi của bạn. Các triệu chứng bao gồm:

  • Khó thở
  • Huyết áp thấp
  • Thở nhanh bất thường
  • Nhịp tim nhanh
  • Ho
  • Sốt
  • Đau ngực, đặc biệt là khi thở sâu
  • Bối rối và mệt mỏi
  • Môi hoặc móng tay có màu xanh do thiếu oxy trong máu
  • Chóng mặt

Chẩn Đoán Và Các Xét Nghiệm ARDS

Không có xét nghiệm duy nhất nào có thể xác định ARDS. Đây là một dạng “puzzle” mà bác sĩ của bạn phải lắp ghép lại. Họ sẽ muốn loại trừ các tình trạng có triệu chứng tương tự.

Bác sĩ của bạn sẽ hỏi về tiền sử bệnh của bạn, thực hiện kiểm tra thể chất và lắng nghe nhịp thở và nhịp tim của bạn. Họ cũng có thể tìm kiếm:

  • Dấu hiệu của chất lỏng dư thừa trong cơ thể của bạn
  • Màu xanh trên môi hoặc da

Các xét nghiệm hỗ trợ chẩn đoán bao gồm:

  • Xét nghiệm hình ảnh: Chụp X-quang ngực là rất quan trọng và có thể là xét nghiệm đầu tiên mà bác sĩ sẽ yêu cầu. Bạn cũng có thể thực hiện CT scan. Các xét nghiệm này có thể cung cấp cho bác sĩ ý tưởng về lượng chất lỏng trong phổi của bạn và vị trí của nó.
  • Xét nghiệm máu: Những xét nghiệm này kiểm tra mức độ oxy của bạn. Chúng cũng có thể tìm kiếm dấu hiệu nhiễm trùng hoặc thiếu máu (thiếu hồng cầu).
  • Xét nghiệm tim: Những xét nghiệm này có thể loại trừ các tình trạng như suy tim (khi tim không bơm máu qua cơ thể như nó nên).

Điều Trị ARDS

Mục tiêu điều trị là đưa mức oxy trong máu của bạn lên đến mức cần thiết, để các cơ quan của bạn nhận được những gì chúng cần. Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể cho bạn một mặt nạ oxy và sau đó chuyển sang ống thở và máy thở (máy giúp bạn thở).

Bác sĩ của bạn cũng sẽ điều trị các tình trạng khác có thể gây ra ARDS.

Các phương pháp điều trị bao gồm:

  • Dinh dưỡng và thuốc thông qua dịch truyền vào máu
  • Thuốc để ngăn ngừa chảy máu và cục máu đông
  • Thuốc để giữ cho bạn bình tĩnh và thoải mái

Hầu hết các phương pháp điều trị ARDS được thực hiện trong đơn vị chăm sóc tích cực của bệnh viện. Nhiều người hồi phục hoàn toàn mà không có vấn đề lâu dài nào.

Biến Chứng Của ARDS

Tình trạng này hoặc việc điều trị của nó có thể dẫn đến các vấn đề khác, bao gồm:

  • Sụp đổ một phần phổi do không thể giãn nở đúng cách (atelectasis) hoặc do không khí giữa phổi và thành ngực (tràn khí màng phổi)
  • Tổn thương hoặc suy chức năng cơ quan
  • Bối rối
  • Tăng huyết áp trong động mạch từ tim đến phổi (tăng huyết áp phổi)
  • Sẹo mô phổi (xơ phổi)
  • Cục máu đông
  • Nhiễm trùng

Triển Vọng Của ARDS

Nếu bạn vừa trải qua ARDS, hãy cải thiện quá trình hồi phục của bạn bằng cách:

  • Không hút thuốc
  • Không uống rượu

Bạn có thể cần phải sử dụng máy thở trong một thời gian. ARDS có thể khiến bạn yếu đi, vì vậy bạn có thể cần tham gia liệu pháp vật lý để phục hồi sức mạnh.

Đảm bảo bạn cập nhật các loại vaccine – cho COVID, RSV và viêm phổi – và tiêm phòng cúm mỗi năm – sẽ giảm nguy cơ mắc ARDS.

ARDS có thể gây căng thẳng cả về tinh thần và thể chất cho bệnh nhân và gia đình. Một nhóm hỗ trợ có thể giúp giải tỏa lo âu, căng thẳng hoặc trầm cảm.

Huyệt Bàng Quang Du

Bàng Quang Du

Tên

Huyệt Bàng Quang Du

:

Huyệt có tác dụng đưa (du) kinh khí vào Phủ Bàng Quang vì vậy gọi là Bàng Quang Du.

Xuất Xứ:

Mạch Kinh.

Đặc Tính

Huyệt Bàng Quang Du

:

Huyệt thứ 28 của kinh Bàng Quang.

Huyệt Bối Du của kinh Túc Thái Dương Bàng Quang, để tán khí Dương ở Bàng Quang.

Vị Trí

Huyệt Bàng Quang Du

Ngang đốt xương thiêng 2, cách 1, 5 thốn, chỗ lõm giữa gai chậu sau và xương cùng.

Giải Phẫu:

Dưới da là cân của cơ lưng to, khối cơ chung của các cơ ở rãnh cột sống xương cùng 2.

Thần kinh vận động cơ là nhánh của đám rối cánh tay, nhánh của dây thần kinh sống cùng 2.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh S1 và S2.

Tác Dụng

Huyệt Bàng Quang Du

:

Tuyên thông hạ tiêu, khu phong thấp.

Chủ Trị

Huyệt Bàng Quang Du

:

Trị vùng thắt lưng và xương cùng đau, tiểu dầm, bệnh về đường tiểu.

Phối Huyệt:

1. Phối Cư Liêu (Đ.29) + Hạ Liêu (Bàng quang.24) + Khí Xung (Vị 30) + Thượng Liêu (Bàng quang.21) + Trường Cường (Đc.1) + Yêu Du (Đc.2) trị lưng đau (Bị Cấp Thiên Kim Phương).

2. Phối Thái Khê (Th.3) + Thứ Liêu (Bàng quang.32) trị chân mất Cảm giác (Tư Sinh Kinh).

3. Phối Bào Môn + Đan Điền (Nh.6) + Kinh Môn (Đ.25) + Tiểu Trường Du (Bàng quang.27) trị đại tiểu tiện không thông (Châm Cứu Tập Thành).

4. Phối Tỳ Du (Bàng quang.20) trị ăn không tiêu (Bách Chứng Phú).

5. Phối Khí Hải (Nh.6) + Khúc Tuyền (C.8) trị dưới rốn lạnh đau (Thần Cứu Kinh Luân).

6. Phối Đại Trường Du (Bàng quang.28) + Hoàn Khiêu (Đ.30) + Phong Thị (Đ.31) + Thận Du (Bàng quang.23) + Túc Tam Lý (Vị 36) + Uỷ Trung (Bàng quang.40) trị lưng đau, thần kinh tọa đau (Châm Cứu Học Giản Biên).

7. Phối Âm Lăng Tuyền (Tỳ 9) + Tam Âm Giao (Tỳ 6) + Thận Du (Bàng quang.23) trị tiểu nhiều, tiểu không tự Chủ (Châm Cứu Học Thượng Hải).

8. Phối Khúc Cốt (Nh.2) + Tam Âm Giao (Tỳ 6) + Thận Du (Bàng quang.23) (Tỳ 6) trị tuyến tiền liệt viêm (Châm Cứu Học Thượng Hải).

9. Phối Âm Lăng Tuyền (Tỳ 9) + Hành Gian (C.2) + Thái Khê (Th.3) + Trung Cực (Nh.3) trị tiểu buốt, tiểu gắt (Tứ Bản Giáo Tài Châm Cứu Học).

Cách châm Cứu

Huyệt Bàng Quang Du

:

Châm thẳng sâu 1 – 1, 5 thốn – Cứu 3-7 tráng – Ôn cứu 5-15 phút.

Vết cắn, vết đốt, vết chích và nhiễm độc sinh vật biển

ĐỘNG VẬT HỮU NHŨ CẮN

• Mỗi năm, có khoảng 300 trường hợp bị chó mèo cắn trên 100,000 dân số tại Hoa Kỳ, với hầu hết các vết cắn là do vật nuôi.
• các vi thực vật quanh vết cắn phản ánh đặc trưng cho thảm thực vật ở miệng của động vật cắn.
• Các vết cắn từ các loài động vật khác nhau có thể lây truyền bệnh dại và bệnh tularemia.

CHÓ CẮN

Dịch tễ học: Chó cắn ≥4.7 triệu người mỗi năm, chiếm 80% các trường hợp động vật cắn; 15-20% trường hợp cho cắn bị nhiễm bệnh.
Vi khuẩn học: gồm các vi khuẩn hiếu khí và kỵ khí, như streptococci tán huyết Beta; Eikenella corrodens; Capnocytophaga canimorsus; và Pasteurella, Staphylococcus, Actinomyces, và loài Fusobacterium

• Triệu chứng lâm sàng: điển hình biểu hiện trong 8-24 giờ sau bị cắn gồm viêm tế bào tại chỗ có mủ, thỉnh thoảng chảy mủ có mùi hôi. Lan rộng hệ thống (vd: du khuẩn huyết, viêm nội tâm mạc, áp xe não) có thể xảy ra. Nhiễm C. cani-morsus có thể biểu hiện như hội chứng nhiễm trùng huyết, DIC, và suy thận, , đặc biệt trên những bệnh nhân đã bị cắt lách, có rối loạn chức năng gan hoặc nói cách khác, bị suy giảm miễn dịch.

MÈO CẮN

• Dịch tễ học: Mèo cắn và cào dẫn đến viêm nhiễm >50% trường hợp.
• Vi khuẩn học: gồm những vi sinh vật giống tới những sinh vật trong trường hợp chó cắn. Pasteurella multocida và Bartonella henselae, tác nhân của bệnh lý do mèo cào, là yếu tố gây bệnh quan trọng liên quan đến mèo.
• Triệu chứng lâm sàng: Nhiễm P. multocida có thể gây viêm tiến triển nhanh và chảy mủ trong vòng vài giờ sau khi cắn. Có thể xảy ra gieo rắc vi khuẩn (vd: du khuẩn huyết, viêm phổi). Vì sự xâm nhập vào mô sâu nhờ răng cửa mèo sắt nhọn hẹp, vết mèo cắn có khả năng gây viêm khớp hay viêm cơ xương do nhiễm khuẩn cao hơn chó cắn.

ĐỘNG VẬT HỮU NHŨ KHÁC KHÔNG PHẢI NGƯỜI CẮN

Khỉ Old World (loài Macaca species): Vết cắn có thể truyền vi rút viêm gan B (Herpesvirus simiae), có thể gây ra nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương với tỷ lệ tử vong cao.
 Hải cẩu, Hải mã, gấu trắng: Vết cắn có thể gây nhiễm trùng mưng mủ mãn tính, được biết như là ngón tay hải cẩu, có lẽ do loài Mycoplasma.

 Các loài gặm nhấm nhỏ (và động vật ăn thịt chúng): Vết cắn có thể lây truyền bệnh sốt do chuột cắn, được gây ra bởi Streptobacillus moniliformis (ở Mỹ) hoặc Spirillum minor (ở Châu Á).

Sốt do chuột cắn xảy ra sau khi vết thương ban đầu đã lành, đậy là đặt điểm phân biệt với nhiễm quan vết cắn cấp tính khác.

Nhiễm S. moniliformis biểu hiện trong 3–10 ngày sau khi bị cắn, gồm sốt, ớn lạnh, đau cơ, đau đầu và đau khớp di chuyển nặng theo sau bởi phát ban dạng dát sẩn ở lòng bàn tay và lòng bàn chân. Bệnh lý có thể tiến triển đến áp xe di căn, viêm nội tâm mạc, viêm màng não và viêm phổi.

Sốt Haverhill do nhiễm S. moniliformis mắc phải từ sữa hoặc nước uống bị nhiễm và có biểu hiện lâm sàng giống như đã nói ở trên.

Nhiễm S. minor có thể gây đau tại chỗ, sưng tím tại nơi cắn và liên quan đến viêm mạch bạch huyết và bệnh lý hạch bạch huyết tại chỗ 1-4 tuần sau khi bị cắn, với sự tiến triển thành các bệnh lý hệ thống không đặc hiệu.

NGƯỜI CẮN

• Dịch tễ học: Người cắn gây viêm nhiễm chiếm 10–-15% theo thời gian.

Vết thương tắc nghẽn được gây ra bởi vết cắn thực sự; tổn thương siết chặt đầu tiên xảy ra khi bàn tay nắm chặt của một người đập vào hàm răng của người khác và có độ nghiêng điển hình của viêm nhiễm nặng.

Tổn thương siết chặt đầu tiên thường gặp hơn và điển hình dẫn đến viêm nhiễm nghiêm trọng (vd: viêm khớp nhiễm trùng, viêm gân – bao gân).
• Vi khuẩn học: xem Bảng 29-1.

BẢNG 29-1 QUẢN LÝ VIÊM NHIỄM VẾT THƯƠNG SAU VẾT CẮN CỦA ĐỘNG VẬT VÀ NGƯỜI

QUẢN LÝ VIÊM NHIỄM VẾT THƯƠNG SAU VẾT CẮN CỦA ĐỘNG VẬT VÀ NGƯỜI

aLựa chọn kháng sinh nên dựa trên kết quả cấy máu nếu có thể. Điều này đề nghị liệu pháp kháng sinh theo kinh nghiệm nên được thay đổi theo tình huống của bệnh nhân và điều kiện địa phương. phác đồ tiêm mạch nên thực hiện đối với bệnh nhân nhập viện. Liều đơn kháng sinh tiêm mạch có thể cho đối với bệnh nhân được cho về sau khi điều trị ban đầu.

bKháng sinh sự phòng nên được đề nghị với vết thương nặng hóa lan rộng, vết thương vùng mặt, và vết thương đè nát; khi liên quan đến xương hoá khớp; và khi có bên kèm theo (đọc đoạn văn).

cBệnh nhân có thể bị nguy hiểm với phản ứng quá mẫn tức thì với penicillin.

Từ viết tắt: DS: hiệu lực gấp đôi; TMP-SMX: trimethoprim-sulfamethoxazole

ĐIỀU TRỊ Động vật hữu nhũ cắn

Điều trị vết thương: Che phủ vết thương là chống chỉ định với vết cắn. Sau khi rửa sạch hoàn toàn, những vết thowng vùng mặt thường được khâu vì lý do thẩm mỹ và vì máu vùng mặt dồi dào nên giảm bớt nguy cơ nhiễm trùng. Đối với những vết thương ở nơi khác trên cơ thể, nhiều chuyên gia không cố gắng che phủ ngay ban đầu, thay vào đó chỉ rửa vết thương, cắt lọc các mô tổn thương, loại bỏ dị vật và gần như giới hạn vết thương. Che phủ ban đầu trì hoãn có thể thực hiện sau khi nguy cơ nhiễm trùng đã qua. Những vết thương xuyên thủng do mèo cắn không nên khâu kín vì tỷ lệ chúng bị nhiễm trùng cao.

Liệu pháp kháng sinh: xem Bảng 29-1. Kháng sinh điển hình được cho trong 3-5 ngày nếu dự phòng và 10-14 ngày nếu điều trị nhiễm trùng đã hình thành.

Phòng ngừa khác: phòng ngừa dại (miễn dịch thụ động với globulin miễn dịch chống dại và miễn dịch chủ động với chủng ngừa dại) nên được tham khảo với các chuyên gia sức khỏe cộng đồng vùng và địa phương. Điều trị nâng đỡ đối với uốn ván trên bệnh nhân được chủng ngừa trước đó nhưng không kéo dài trong vòng 5 năm nên được cân nhắc, vì vậy nên chủng ngừa nguyên phát và dùng globulin miễn dịch chống uốn ván đối với bệnh nhân chưa được chủng ngừa uốn ván trước đó.

NHIỄM ĐỘC SINH VẬT BIỂN (DO CẮN ĐỐT)

Quản lý nhiều trường hợp nhiễm độc do sinh vật biển cắn đốt đang khuyến khích trong tự nhiên. Kháng độc tố biển đặc hiệu có thể được sử dụng khi thích hợp.

ĐỘNG VẬT KHÔNG XƯƠNG SỐNG

• Nguyên nhân: Tổn thương từ túi vòi (chứa các tế bào để chích đốt) của nhóm Thủy tức, san hô lửa, sứa, Loài “chiến thuyền Bồ Đào Nha”, và hải quỳ biển có triệu chứng lâm sàng tương tự khác nhau theo mức độ nặng. Động vật không xương sống khác (vd: bọt biển, giun đốt, nhím biển) có gây ra vết đốt rất đau.

• Triệu chứng lâm sàng: Đau(châm chích, nóng bỏng và nhói), ngứa và dị cảm xuất hiện ngay tại nơi bị cắn. các triệu chứng thần kinh, tiêu hóa, thận, tim mạch, hô hấp, thấy khớp và thị giác đã được mô tả.

ĐIỀU TRỊ Nhiễm độc do động vật biển không xương sống

Sát khuẩn da ngay với vinegar (acid acetic 5%). Xoa rượu (isopropanol 40-70%), sodanung nóng, papain (chất làm mềm thịt còn tươi), nước ép chanh, amoniac trong nhà, dầu ô-liu, hoặc đường có thể hiệu quả, tùy vào loài sinh vật đốt.

Cạo da có thể giúp loại bỏ các tế bào châm còn lại.

Sau khi sát khuẩn, vô cảm tại chỗ, thuốc kháng histamines hoặc dung dịch thoa steroid có thể hữu ích.
 Narcotics có thể cần thiết trên bệnh nhân đau khó chữa.
 Co thắt cơ có thể đáp ứng với diazepam (2–5 mg tăng chuẩn độ nếu cần) hoặc tiêm mạch calcium gluconate 10% (5–10 mL).

ĐỘNG VẬT CÓ XƯƠNG SỐNG

• Nguyên nhân: Nhiều động vật có xương sống ở biển, gồm cá đuối gai độc, cá bò cạp (vd: cá sư tử và các đá), các da trơn biển, và cá mập độc có sừng có khả năng gây độc cho người.

• Triệu chứng lâm sàng: tùy vào loại cá gây độc

Cá đuối gai độc: biểu hiện cả những vết thương do nhiễm độc và do chấn thương. Nọc độc gây đau đột ngột dữ dội, có thể kéo dài đến 48 giờ. Vết thương thường bị thiếu máu và khó lành. Ảnh hưởng hệ thống có thể gồm yếu cơ, rối loạn nhịp, hạ huyết áp, liệt và hiếm khi tử vong.

Cá đa: Vì tình độc thần kinh cơ của nọc độc, vết đốt có thể đe dọa mạng sống, và tử vong có thể xảy ra trong vòng 6-8 giờ. Đau tại chỗ đột ngột dữ dội và có thể kéo dài nhiều ngày. Những ảnh hưởng hệ thống cũng giống với nọc độc cá đuối gai độc .

ĐIỀU TRỊ Nhiễm độc do động vật biển có xương sống

Ngâm phần bị ảnh hưởng vào nước nóng không gây bỏng (113 °F/ 45°C) trong 30-90 phút hoặc đến khi giảm đau đáng kể. Lặp lại liệu pháp nước nóng có thể giúp nếu đau tái phát.

Thăm dò, cắt lọc và rửa thật kỹ vết thương sau khi đã được gây tê vùng/tại chỗ.

Kháng độc tố có thể sử dụng với nhiễm độc cá đá và cá bò cạp nặng. Tại Hoa Kỳ, liên hệ với trung tâm kiểm soát độc chất địa phương gần nhất để hỗ trợ.

Để vết thương lành sẹo kỳ hai hoặc điều trị bằng che phủ kỳ đầu trì hoãn.

Cập nhật tình trạng chủng ngừa uống ván.

Cân nhắc kháng sinh theo kinh nghiệm bao phủ cả Staphylococcus và Streptococcus đối với những vết thương nghiêm trọng hoặc nhiễm độc ở ký chủ bị suy giảm miễn dịch. Mức độ bao phủ của kháng sinh nên được mở rộng gồm cả loài Vibrio nếu vết thương được che phủ kỳ đầu.

NGỘ ĐỘC SINH VẬT BIỂN (DO ĂN UỐNG)

NGỘ ĐỘC CIGUATERA

• Dịch tễ học: là ngộ độc không do vi khuẩn liên quan đến cá thường gặp nhất tại Hoa Kỳ, với hầu hết các trường hợp xảy ra ở Florida và Hawaii – Gần như liên quan chủ yếu đến cá san hô biển vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới phổ biến ở Ấn Độ Dương, Nam Thái Bình Dương và vùng biển Caribbean– 75% trường hợp không phảo người Hawai kiên quan đến cá nhồng, cá chỉ vàng, cá măng con và cá mú.

• Sinh bệnh học: Hội chứng Ciguatera liên quan đến ít nhất 5 loại độc tố có nguồn gốc từ tảo đơn bào hai roi quang hợp và tích lũy trong chuỗi thức ăn. Ba loại độc tố ciguatoxins chính—CTX-1, -2, và -3— được tìm thấy trong thịt và tạng cá bị nhiễm ciguater, đặc trưng không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài (vd: nhiệt, lạnh, đông khô, acid dạ dày) và nói chung cũng không ảnh hưởng đến cá (vd: mùi, màu hay vị).

• Triệu chứng lâm sàng: Hầu như tất cả bệnh nhân đều có triệu chứng trong vòng 24 giờ; hầu hết các triệu chứng trải qua trong 2-6 giờ. Chẩn đoán dựa trên lâm sàng.
– Các triệu chứng có thể rất đa dạng (>150 triệu chứng đã được báo cáo) gồm tiêu chảy, nôn ói, đau bụng, các dấu hiệu thần kinh (vd: dị cảm, yếu cơ, run giật bó cơ, thất điều), phát ban dạng dát sẩn hay có mụn nước, và rối loạn huyết động.
– Một triệu chứng đặc trưng—đảo ngược tiếp nhận xúc giác nóng lạnh— tiến triển trong 3-5 ngày và có thể kéo dài đến vài tháng.
– Hiếm khi tử vong.

ĐIỀU TRỊ Ngộ độc Ciguatera

Liệu pháp hỗ trợ và điều trị triệu chứng.

Tắm mát, hydroxyzine (25 mg đường uống mỗi 6-–8giờ), hoặc amitriptyline (25 mg đường uống 2 lần/ngày) có thể cải thiện ngứa và loạn cảm.

Trong quá trình hồi phục, bệnh nhân nên tránh ăn cá, nhuyễn thể, dầu cá, nước sốt từ cá và nhuyễn thể, rượu, hạnh nhân và dầu hạnh nhân.

LIỆT DO NGỘ ĐỘC NHUYỄN THỂ (TÔM CUA SÒ HẾN)

• Nguyên nhân: gây ra do ăn phải các sinh vật bị nhiễm (vd: con trai, con hàu, còn sò, con nghêu) gây cô đặc các chất tan trong nước, độc tố hóa học bền vững với acid và nhiệt
– Độc tố của tôm cua sò hến thường gây liệt nhất và đặc trưng nhất là saxitoxin.

Độc tố gây liệt của tôm cua sò hến không bị phá hủy bằng phương pháp nấu ăn truyền thống.

• Triệu chứng lâm sàng: Dị cảm ở miệng (ban đầu ngứa như kiến bò và nóng bỏng, sao đó là tê bì) phát triển trong vài phút đến vài giờ sau khi ăn phải nhuyễn thể bị nhiễm và tiến triển cổ và các đầu xa của chi. Liệt mềm và suy giảm hô hấp có thể xuất hiện 2–-12 giờ sau.

ĐIỀU TRỊ Liệt do ngộ độc nhuyễn thể

Nếu bệnh nhân mới ăn trong vòng vài giờ, rửa và nhỏ dạ dày với 2L dung dịch Natri bicarbonate 2% có thể giúp ích, cũng có thể dùng than hoạt tính (50–-100 g) và thuốc nhuận trường nhẹ không có magie (vd: sorbitol, 20–-50 g).

Nên theo dõi liệt hô hấp ít nhất 24 giờ.

NGỘ ĐỘC CÁ SCOMBROID

• Nguyên nhân: nhiễm độc histamine do sự phân hủy của vi khuẩn trong cá thuộc họ scombroid được đông lạnh hoặc bảo quản không đúng cách (vd: cá ngừ California, cá thu, cá thu đao, cá kim, cá thu ngàn, cá ngừ đại dương và cacsbaof Nhật Bản)

Hội chứng này cũng có thể xảy ra với cá không thuộc họ scombroid (vd: cá mòi, cá trích, có nục heo, cá cam và các ngừ).

Cá bị ảnh hưởng có vị chua cay hoặc gắt như kim loại đặc trưng nhưng hình dạng và mùi có thể bình thường.

Do sự phân hủy trong cá không không đồng đều nên không phải ai ăn cá bị ảnh hưởng đều sẽ bệnh

• Triệu chứng lâm sàng: Trong vòng 15-90 phút sau khi ăn vào, bệnh nhân sẽ có các biểu hiện đỏ da (đỏ ứng như khi tiếp xúc với tia tử ngoại), ngứa, nổi mày đay, phù mạch, co thắt phế quản, các triệu chứng dạ dày ruột và hạ huyết áp.

Các triệu chứng nhìn chung sẽ tự hổi phục trong vòng 8-12 giờ.

Triệu chứng có thể tồi tệ hơn trên bệnh nhân đang uống isoniazid vì ức chế men histaminase ở đường tiêu hóa.

ĐIỀU TRỊ Ngộ độc cá Scombroid

Điều trị gồm kháng histamine (H1 hoặc H2).

Nếu co thắt phế quản nặng, có thể dùng thuốc dãn phế quản đường hô hấp hoặc tiêm epinephrine.

ĐỘNG VẬT CHÂN KHỚP CẮN ĐỐT

VE CẮN VÀ LIỆT DO VE

• Dịch tễ học: Ve là vật trung gian truyền bệnh quan trọng của các bệnh lây truyền qua vector (vd: bệnh Lyme, bệnh babesia, Bệnh biên trùng do Anaplasma, bệnh do Ehrlichia) ở Hoa Kỳ.
• Nguyên nhân: Trong khi ve hút máu ký chủ, thì các chất tiết của nó cũng có thể gây ra các phản ứng tại chỗ, truyền nhiều tác nhân gây bệnh, dẫn đến các bệnh lý gây sốt hoặc liệt. Ve mềm bám hút máu <1 giờ; ve cứng có thể hút máu >1 tuần
• Triệu chứng lâm sàng: Ngoại trừ các bệnh lây truyền qua trung gian truyền bệnh là ve, hầu hết biểu hiện lâm sàng do ve cắn tự giới hạn sau khi loại bỏ ve đi.
Sốt do ve, liên quan tới đau đầu, buồn nôn và sốt rét, thường tự hồi phục ≤36 giờ sau khi loại bỏ ve.
Liệt do ve là liệt mềm tăng dần do độc tố trong nước bọt của ve gây ức chế thần kinh cơ và giảm dẫn truyền thần kinh.
Yếu cơ lành tính chi dưới ≤6 ngày sau khi bị ve bám hút máu và tăng dần đối xứng, gây liệt hoàn toàn các chi và các dây thần kinh sọ.
Phản xạ gân sâu giảm hoặc mất, nhưng khám cảm giác và kết quả chọc dò tủy sống bình thường.
Bắt bỏ ve giúp cải thiện triệu chứng lâm sàng trong vài giờ; không loại bỏ được ve có thể dẫn đến liệt hô hấp và tử vong.

ĐIỀU TRỊ Ve cắn và liệt do ve

Nên loại bỏ ve bằng kìm kẹp gần với vị trí bám hút của ve.
Vị trí ve bám hút máu nên được khử trùng.
Bắt bỏ ve trong 36h sau khi bám hút máu thường phòng ngừa lây truyền các tác nhân gây bệnh Lyme, bệnh Babesia, bệnh do anaplasma và bệnh do ehrlichia

NHỆN CẮN

Nhện “Ẩn dật” cắn

Dịch tễ học: Nhện “ẨN dật áo Nâu” sinh sống chủ yếu ở miền Nam và Trung Tây Hoa Kỳ, và các loài họ hàng gần với chúng được tìm thấy ở Mỹ, Châu Phi và Trung Đông. Những loài nhện này hiếm khi cắn người, điển hình chỉ khi nó bị đen dọa tính mạng hoặc bị ấn sát vào da.

Triệu chứng lâm sàng

Hầu hết những vêt cắn do nhện “Ẩn dật áo nâu” chỉ gây ra vết thương nhỏ với phù và đỏ, mặc dù hoại tử nặng da và mô dưới da và tán huyết hệ thống có thể xảy ra.

Trong vòng vài giờ, tại vị trí vết cắn bắt đầu đau và ngứa, với chai cứng trung tâm bao quanh bởi một vùng thiếu máu và hồng ban.

Sốt và các triệu chứng không đặc hiệu khác có thể tiến triển trong vòng 3 ngày sau khi cắn.

Sang thương điển hình có thể tự hết trong 2-3 ngày, nhưng những trường hợp nặng có thể để lại một vết loét lớn và sẹo sâu mất vài tháng đến vài năm mới lành.

Hiếm khi tử vong và thường tử vong do tán huyết và suy thận.

ĐIỀU TRỊ Nhện “Ẩn dật” cắn

Điều trị ban đầu gồm RICE (nghỉ ngơi, chườm lạnh, băng ép và kê cao); cho thuốc giảm đau, kháng histamines, kháng sinh và dự phòng uốn ván nên được thực hiện khi có chỉ định.

Phẫu thuật cắt bỏ vết thương khẩn cấp có hại và không nên thực hiện.

Nhện “Góa phụ áo đen” cắn

Dịch tễ học: nhện “Góa phụ áo đen”, nhận diện nhờ dấu hình đồng hồ cát mày đỏ ở phần dưới thân đen tuyền sáng bóng, hầu như có nhiều ở Đông Nam Hoa Kỳ. Những loài Latrodectus khác sống ở những vùng khí hậu ôn đới và cận nhiệt đới trên thế giới.

Bệnh sinh: Nhện “Góa phụ áo đen” cái sản xuất ra các độc tố thần kinh mạnh gắn kết không thuân nghịch với dây thần kinh và gây giải phóng acetylcholine và các chất dẫn truyền thần kinh khác từ các đầu tận tiền synap.

Triệu chứng lâm sàng

• Trong vòng 60 phút, tình trạng co rút kèm đau lan từ nơi bị cắn đến các cơ lớn ở chi và thân.

Co cứng và đau mạnh các cơ bụng có thể gây nhầm lẫn với viêm phúc mạc, nhưng bụng không có căng trướng.

Các triệu chứng khác giống với quá liều acetylcholine (vd: tăng tiết nước bọt, chảy nước mắt, đi tiêu, đi tiểu; rối loạn tiêu hóa và nôn ói).  Mặc dù đau có thể thuyên giảm trong 12 giờ đầu, nó có thể tái phát trong vài tuần.

Ngừng hô hấp, xuất huyết não hoặc suy tim có thể xảy ra.

ĐIỀU TRỊ Nhện “Góa phụ áo đen” cắn

Điều trị gồm RICE (nghỉ ngơi, chườm lạnh, băng ép và kê cao) và dự phòng uốn ván.

Vì hiệu quả còn nghi ngờ và yếu tố nguy cơ sốc phản vệ và bệnh huyết thanh, kháng nọc độc chỉ nên dành cho trường hợp nặng với ngưng hô hấp, tăng huyết áp khó trị, co giật hoặc thai kỳ.

BỌ CẠP ĐỐT

Dịch tễ học: Chỉ 30 trên 1000 loài bọ cạp sản xuất ra nọc độc có khả năng gây chết người, gây ra >5000 trường hợp tử vong trên thế giới mỗi năm. Trong các loài bọ cạp ở Hoa Kỳ, chỉ có bọ cạp Bark (Centruroides sculp-turatus hoặc C. exilicauda) sản xuất ra nọc độc có thể gây chết người.

Dấu hiệu lâm sàng: Độ nặng của triệu chứng dựa trên loài bọ cạp chuyên biệt. Đối với bọ cạp Bark ở Mỹ, các triều chứng tiến triển đến rất nặng trong khoảng 5 giờ và điển hình giảm dần trong 1-2 ngày.

• Bọ cạp Bark: thường không sưng phù, và gõ nhẹ lên vùng da bị chích (”tap test”) có thể gây đau dữ dội, dị cảm, và tăng nhạy cảm . Rối loạn chức năng các dây thần kinh sọ và tăng kích thích cơ vân tiến triển trong vài giờ. Biến chứng gồm nhịp tim nhanh, rối loạn nhịp, tăng huyết áp, tăng thân nhiệt, tiêu cơ vân, toan hóa và ngừng hô hấp cơ hội đe dọa tính mạng.

Ngoài Mỹ, vết chích của bọ cạp có thể giải phóng một lượng lớn catecholamines nội sinh với tăng huyết áp nghiêm trọng, rối loạn nhịp, phù phổi và tổn thương cơ tim.

ĐIỀU TRỊ Bò cạp đốt

Vết chích của những loài không gây chết người hầu như chỉ cần chườm lạnh, uống thuốc giảm đau và thuốc kháng histamines.

Trường hợp vết chích với nọc độc nặng, nên chăm sóc hỗ trợ tăng cường như băng ép và chườm lạnh để giảm sự thấm nọc độc.

Truyền midazolam tĩnh mạch liên tục giúp kiểm xoát sự kích động và vận động cơ không chủ ý.

Kháng độc tố C. sculpturatus chỉ là được sử dụng trong nghiên cứu ở Arizona và chưa được FDA chấp nhân. Lợi ích của kháng độc tố chưa được chứng minh qua các thử nghiệm có kiểm soát.

Động vật thuộc bộ Cánh Màng đốt

Dịch tễ: Bộ Cánh Màng gồm ong vò vẽ, ong bắp cày, ong vàng và kiến. Khoảng 100 trường hợp tử vong do động vật thuộc bộ Cánh Màng đốt xảy ra mỗi năm tại Hoa Kỳ, gần như tất cả đều do phản ứng dị ứng với nọc độc. Ước chừng khoảng 0.4–4.0% dân số Hoa Kỳ có phản ứng tăng nhạy cảm tức thời đối với vết đốt của côn trùng.
Dấu hiệu lâm sàng:
• Những vết đốt chưa biến chứng gây đau, phản ứng sưng đỏ, và phù tại chỗ, các triệu chứng này giảm đi trong vòng vài giờ.
 Bị Nhiều vết đốt (vd: từ ong vò vẽ, ong bắp cày, kiến) có thể dẫn đến nôn ói, tiêu chảy, phù lan tỏa, khó thở, hạ huyết áp, tiêu cơ vân, suy thận và tử vong.
 Phản ứng tại chỗ lớn (>10 cm) tiến triền trong 1-2 ngày không phải hiếm gặp; trong khi biểu hiện giống như viêm tế bào, thật sự là do phản ứng quá mẫn cảm. Như vậy, phản ứng tái phát khi phơi nhiễm những lần sau đó nhưng hiếm khi kèm theo tính quá mẫn.

Những phản ứng nặng xảy ra trong vòng 10 phút (và hiếm khi >5 giờ) sau khi bị đốt và gồm phù nề đường hô hấp trên, co thắt phế quản, hạ huyết áp, sốc và tử vong

Ngòi đốt ghim trong da nên được nhanh chóng lấy ra bằng kìm hoặc cạo ra với lưỡi dao hoặc móng tay.

Nơi bị đốt nên được sát trùng và chườm đá lạnh để giảm sự lan rộng của nọc độc.

Kê cao vị trí bị cắn và cho thuốc giảm đau, thuốc kháng histamin đường uống, và dung dịch calamine thoa tại chỗ có thể làm giảm triệu chứng.

Phản ứng tại chỗ lớn có thể cần liều ngắn glucocorticoids.

Điều trị quá mẫn với epinephrine hydrochloride (0.3–-0.5 mL dung dịch 1:1000, tiêm dưới da mỗi 20–-30 phút khi cần). Đối với sốc nặng, chỉ định epinephrine (2-–5 mL dung dịch 1:10,000 tiêm mạch chậm). Nên theo dõi bệnh nhân trong vòng 24 giờ để phát hiện phản ứng quá mẫn tái phát.

Bệnh nhân với tiền căn dị ứng với vết đốt của côn trùng nên mang theo một bộ kit sơ cấp cứu khi bị ong đốt và đến bệnh viện ngay khi sơ cứu.

Thể dục thể thao, du lịch ngoài trời cho sức khỏe và sắc đẹp

Thể dục thể thao là một sự vận động tối cần thiết cho con người nói chung và phụ nữ nói riêng. Không phải bây giờ mà từ xa xưa tất cả mọi dân tộc trên trái đất đã biết tận dụng sự tập luyện thể dục, thể thao nhằm tăng cường sức khỏe mà sức khỏe chính là cái

Nền tảng vững chắc của sắc đẹp. Có khỏe mới có đẹp, những phụ nữ đẹp ở Hy Lạp, ở Ấn Độ là những phụ nữ biết tập luyện thường xuyên các bài thể dục cơ bản và sau đó là những điệu nhẩy, điệu múa dân tộc có ảnh hưởng quyết định đến bộ ngực, đến eo, đến mông, đến chân… Đặc biệt các phụ nữ dân tộc ở Á Đông và Âu Châu còn biết tập thể dục và xoa bóp các cơ mặt để chống lại sự già sớm và chống lại các nếp nhăn ở da mặt. Theo ý kiến của viện sĩ N.M Amôxốp Viện Hàn Lâm Liên Xô cũ thì thể dục là tối cần thiết làm cho người đẹp. Thể dục củng cố hệ cơ bắp của cơ thể, bảo vệ tính linh hoạt của các khớp chân, khớp háng, khớp hông, khớp cổ và tăng sự mềm dẻo, vững chắc của các hệ thống giây chằng làm cho người phụ nữ thêm mềm dẻo yêu kiều.

Thể dục còn cải thiện được hình dáng con người, thể dục cải thiện tăng lưu lượng phút của con tim và nâng cao thể tích hô hấp hai lá phổi.

Thể dục kích thích trao đổi các chất. Thể dục còn đặc biệt giảm trọng lượng những người béo phì và làm săn chắc có thể. Thể dục ảnh hưởng rất tốt đến bộ máy tiêu hoá. Thể dục làm êm dịu hệ thống thần kinh, làm giảm căng thẳng tinh thần. Thể dục còn làm tăng được sức đề kháng của cơ thể chống lại có hiệu quả các bệnh tật, nhất là chống được sự cảm mạo thông thường. Có hàng loạt lợi ích hùng hồn của việc tập thể dục như ý kiến của viện sĩ Amôxốp mà ai cũng phải thừa nhận. Ấy thế mà chị em thường lấy cớ bận bịu con cái nội trợ hoặc có thể nói rằng hàng ngày phải đi lại, vo gạo, nấu com, gánh nước cũng là vận động rồi. Điều ấy rất sai lầm, vì những bài thể dục đều nhằm những mục đích riêng cho từng bộ phận Cổ thể cần điều chỉnh, nhằm điều hoà cơ thể để đạt được các lợi ích kể trên, nhằm đưa con người sống lâu mạnh khỏe và đẹp.

Quy tắc chính xuyên suốt của bài tập thể dục và chơi thể thao là từ từ, bắt đầu từ ít một, nhẹ nhất rồi tăng dần. Nếu ham hố muốn tập nhanh thì bạn sẽ phạm sai lầm là cơ thể không thích ứng nổi và hiệu quả sẽ ngược lại rất nguy hiểm tới sức khỏe. Bạn không được cố gắng quá mức trong luyện tập vì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quả tim.

Đối với người bị bệnh, bị hen xuyễn, bị cứng khớp, bị béo phì thì tập thể dục là rất có hiệu quả.

Đi bộ: Tất cả mọi người khỏe mạnh hoặc bệnh tật đều có thể đi bộ thường xuyên đặc biệt với người cao tuổi (trên 60). Trước khi đi ngủ bạn nên đi bách bộ đều đều thong thả quanh vườn, quanh nhà làm cho giấc ngủ ngon lành, không mộng mị. Sáng dậy sớm đi bách bộ làm cho người hưng phấn, sảng khoái, chuẩn bị khởi động cho việc làm của một ngày mới.

Đi bộ đúng phương pháp có lợi cho sức khoẻ
Đi bộ đúng phương pháp có lợi cho sức khoẻ

Đi bao nhiêu là vừa: chừng 20- 30 phút tuỳ sức khỏe, tuỳ hoàn cảnh, khi nào thấy hơi mệt thì ngừng lại. Khi đi tay và chân bước đều, mắt nhìn thẳng, thở bình thường.

Đi bộ là một sự rèn luyện tổng hợp cho khớp, cơ và phổi, tim.

Cũng như chạy. Trước khi đi bộ cần đo mạch đập bao nhiêu. Sau khi ngừng cần đo lại. Nếu sau 1 phút mà mạch trở lại như trước khi đi bộ là tốt. Các bạn có thể xem nhịp đập của quả tim mình để đánh giá sức khỏe của mình tốt hay xấu. Bảng này chỉ áp dụng cho phụ nữ (nam giới phải trừ đi 5).

Khi ngồi bạn đếm mạch thấy

Dưới 70 là tốt.

Từ 70 – 80 là trung bình.

Trên 80 là không tốt

Trên 90 là xấu

Bây giờ bạn thử xem cách kiểm tra khác về tim khi đi lên gác.

Nếu bạn đi lên gác tầng bốn, đi một cách bình thường và sau đó đếm mạch đập của mình, nếu mạch dưới 100 là rất tốt.

Dưới 120 là tốt

Dưới 140 là trung bình

Trên 140 là xấu

Nếu đã là xấu thì không cần thử nghiệm thêm cách gì nữa mà nhất thiết bạn cần phải quyết tâm luyện tập từ đầu nghĩa là tập từ từ, từ nhẹ nhất rồi nặng dần lên đến mức có thể chịu được. Cứ như vậy bạn sẽ có một sức khỏe tốt sau một thời gian kiên trì luyện tập. Ví dụ, khi đi lên thang gác bốn, nghỉ 2 phút rồi đếm mạch mà mạch trở lại gần bình thường là tốt.

Ngoài ra, còn có cách thử nghiệm khác để kiểm tra sức khỏe của mình như đứng lên ngồi xuống (khi ngồi xuống giơ thẳng 2 tay về phía trước ngang vai), tiến hành chầm chậm 20 lần. Sau đó đếm mạch đập, tăng dưới 25% là rất tốt, từ 25-50% là tốt, từ 50-70% là trung bình còn trên 75% là xấu. Sự tăng số lượng mạch đập gấp đôi hoặc trên nữa chứng tỏ trái tim của bạn đã có suy yếu’phần nào đó, thể hiện tình trạng hưng phấn vất vả của nó. Tốt nhất bạn nên yêu cầu bác sĩ tim mạch kiểm tra lại tim của bạn để có lời khuyên giữ gìn thích đáng.

Điều cuối cùng trong thể dục thể thao là tôi khuyên bạn hãy làm đều tức là hữu hàng như người Trung Hoa thường nói.

Mỗi buổi sáng, mỗi buổi tối trước khi đi ngủ bạn hãy tập vươn vai và thở 5- 10 phút, đi bộ 15 phút hoặc thiền định 10 phút. Bí quyết của sự thành công chính là sự làm đều đều không bỏ một buổi nào, dù ở nhà, hay đi công tác, dù trời nóng hay lạnh, mưa hay nắng. Nếu bạn tập thật lâu thật nhiều nhưng thỉnh thoảng bỏ tập một buổi thì coi như không có tác dụng so với bạn tập ít nhưng tập đều.

Chạy: chạy là mức độ tập luyện cao hơn đối với người có thần kinh và trái tim khá hơn. Cũng như đi bộ chạy phải từ từ ít một, trước 5 phút rồi tăng dần lên, trước chạy chậm sau chạy nhanh, khi chạy phải thở đều đều bằng mũi theo nhịp chạy. Sau khi chạy xong (tùy theo sức) thì chạy tại chỗ chậm chân rồi đi đi lại lại một lúc mới ngừng hẳn và hít thở sâu vài lần. Chạy là phương pháp tích cực nhất để rèn luyện các khớp, giây chàng và quả tim, rèn luyện bắt buộc cho bộ máy hô hấp và tác động đến toàn bộ các cơ quan phủ tạng, da và hệ bài tiết (thải chất độc) và đặc biệt giảm tất cả các lượng mỡ thừa ở dưới da, trong phủ tạng làm người thanh thoát, dễ chịu, an thần thần kinh và tinh thần.Đi bộ theo tư thế đi thẳng người, mắt nhìn thẳng phía trước

Sau khi chạy 15 phút, nghỉ 15 phút rồi tắm nước nóng là tốt nhất với người lớn tuổi, tắm nước lạnh với người trẻ tuổi. Chạy đều hàng ngày bạn sẽ có một tâm hồn sảng khoái, ăn ngon, ngủ kỹ. Nhưng phải chạy vừa sức, không được cố gắng quá sức mà gây nguy hiểm (mạch đập không quá 120). Đối với bạn có bệnh tim, huyết áp cao cần xin phép bác sĩ nội khoa trước khi tập chạy chậm ở nhà để có một lời khuyên thích đáng.

Tập thở: chắc có bạn sẽ cười vì nghĩ rằng ai mà chẳng thở hàng ngày, cần gì phải tập. Bạn chớ nghĩ nhầm như vậy.

Tập thở là một nghệ thuật. Hàng ngày lồng ngực của bạn chỉ cho phép thở bình thường nhưng nếu bạn thở hít chầm chậm và giữ lâu trong lồng ngực hoặc thở phương pháp bụng (tức là phồng bụng) thì tác dụng đến tận các phế nang và kích thích thần kinh phế vị đưa lượng oxy vào bất cứ các gian bào trong phổi mà nhờ đó làm huyết cầu có chất lượng tốt hơn đồng thời thải được lượng khí cacbonic ra ngoài. Hít vào và giữ lại trong phổi hoặc ở bụng một lúc tuỳ theo sức khỏe của bạn sau đó cũng thở ra từ từ như lúc hít vào. Có thể đứng dạng chân thở vươn vai nhưng cũng có thể ngồi xếp bằng tròn để thở. Khi hít vào thì ưỡn hết sức ngực và đưa 2 vai về phía sau, còn khi thở ra thì cơ ngực lại và thu hai vai co vào giữa. Thở chính là sự ăn uống không khí vô cùng quý giá. Chúng ta coi thường thở vì không mất tiền mua không khí mà.

Luyện thở để giúp giấc ngủ ngon
Luyện thở để giúp giấc ngủ ngon

Khi tập thở bạn nên chọn chỗ không khí thoáng mát (trên lầu cao) và tốt nhất là trước khi đi ngủ hoặc ở công viên vào sáng sớm tinh mơ, lúc ấy ít bụi bặm. Bạn cũng nên tranh thủ tập vươn vai thở sâu vào những lúc mệt mỏi căng thẳng, giữa giờ làm việc rất tốt.

Tập thở đều đều thường xuyên bạn sẽ có một dung tích phổi lớn, tăng cường lượng oxy cho máu đồng thời còn tránh được những viêm nhiễm thông thường đường hô hấp, mũi họng, phế quản và phổi, tránh được những cảm mạo thông thường.

Ở Trung Quốc cũng như các nước Á Đông môn luyện tập dưỡng sinh và khí công đã trở thành bổ ích say mê có tác dụng tốt trong việc lành mạnh hoá cơ thể và kéo dài tuổi thọ mà mỗi người phụ nữ đẹp nào trước tiên cũng phải có.

Thể dục và tập thở còn có ích trong việc chống được lạnh. Rèn luyện làm tăng cao sức đề kháng của cơ thể chống cảm mạo. Như đã biết các vùng niêm mạc mũi họng thường quen giữ được một chế độ nhiệt ổn định khi tràn họng. ở những chị em chưa rèn luyện, khi bị nhiễm lạnh sẽ thấm từng vùng và làm ức chế các tế bào bảo vệ của niêm mạc. Hay nói một cách khác, lạnh đã làm tê liệt hệ thống miễn dịch của tế bào cơ thể và Cổ thể dễ dàng bị nhiễm khuẩn do sự tấn công mạnh mẽ của các vi khuẩn do sức đề kháng của cơ thể đã bị giảm sút suy yếu.

Về mùa đông chị em thường tự mình hoặc bắt con cái mặc quá ấm là một sai lầm lớn. Cần mặc vừa thôi nhưng phải vận động tích cực, chạy càng nhanh càng tốt, cơ thể sẽ nóng lên và dần sẽ át tất cả bệnh tật của cảm mạo. Có hát hơi, sổ mũi cũng đừng sợ, sau khi luyện tập các bạn còn trẻ nên lau người bằng nước lạnh để củng cố dần thần kinh của mình.

Về hô hấp bạn có thể thử nghiệm xem mình tốt hay xấu như sau: bạn thở ra hết mức rồi cố nhịn hít vào. Nếu nhịn được dưới 20 giây là kém, từ 20 – 40 giây là bình thường, từ 40- 60 giây là tốt. Hơn 60 giây là rất tốt.

Bây giờ tôi nói một chút về thể thao. Nói chung thì thể thao cũng là một hình thức của thể dục nhưng không lặp đi lặp lại như các động tác thể dục thường dễ ngán và buồn chán. Thể thao thường linh hoạt hơn và đủ dạng hơn, toàn diện về tất cả các phương diện, đặc biệt rất có lợi cho thần kinh và làm con người thích thú đặc biệt khi thi đấu. Nếu bạn lái xe thì đấy là động tác tập phản xạ linh hoạt rất tốt.

Tất cả các môn bóng, môn quần vợt, bơi lội, xà đơn xà kép, thi điền kinh đều rất toàn diện làm độ phản ứng, độ dẻo của cơ cấu xương khớp, độ trao đổi khí, độ thăng bằng tinh thần và thần kinh chính là một thời gian thu giãn tích cực nhất đối với những bạn lao động trí óc căng thẳng.

Nhưng thể thao lại đòi hỏi các điều kiện và tổ chức cũng như dụng cụ sân bãi khá không đơn giản. Có lẽ môn thể thao đơn giản và rẻ tiền nhất là chạy trong môi trường trung bình ở công viên hoặc ở thôn quê…

Du lịch ngoài trời:

Càng ngày càng có nhiều bạn thấy rõ tác dụng và yêu thích phát triển du lịch. Người người đi du lịch, hàng tháng, hàng quý, hàng năm đi du lịch. Đi du lịch trong địa phương nơi ỏ, đi du lịch từ huyện này sang huyện nọ, đi trong tỉnh, đi ngoài tỉnh, đi ngoài nước. Bất cứ nơi nào dù xa dù gần đều có tác dụng như nhau. Đi vùng núi hay vùng biển đều có những tác dụng thêm rất đặc biệt (vi khí hậu có tác dụng rõ rệt đến sức khỏe và tâm trạng con người).

Du lịch ngoài trời có những lợi ích sau đây:

  1. Biết thêm cảnh đời, cảnh người, cảnh thiên nhiên mà ta thu nhận được (xem người lại ngẫm đến ta) chiêm ngưỡng thiên nhiên phong phú.
  2. Thay đổi không khí (cả về tinh thần lẫn vật chất của cơ thể)
  3. Rèn luyện sự thích ứng với hoàn cảnh giá rét, nắng nóng, độ ẩm, độ khô, độ thấp, độ cao…
  4. Luyện tập đầu óc quan sát, so sánh tốt hơn.
  5. Học tập những kinh nghiệm của người khác, địa phương khác (đi một ngày đàng học một sàng khôn). Cái lợi cơ bản của đi du lịch là thoải mái tinh thần, làm mình yêu đời, yêu thiên nhiên, trẻ ra, vui vẻ thêm, thích sống hơn và dĩ nhiên trao đổi của các tế bào trong cơ thể có chất lượng tốt hơn, làm tăng năng suất lao động, học tập và nghiên cứu.

Hiện nay, toàn thế giới đang đi du lịch mạnh mẽ trong đó dân tộc Nhật và các dân tộc ở Châu Âu phát triển mạnh mẽ nhất.

Sống với thiên nhiên một ngày bằng sống ở nhà một tuần lễ. Vì vậy chất lượng sống khi đi du lịch ngoài trời hơn hẳn khi ở nhà. Xin mời các bạn phụ nữ hãy thu xếp công việc, học tập và nội trợ của mình để cùng bạn bè, chồng con đi du lịch. Du lịch là liều thuốc bổ tự nhiên, tự điều hoà, tăng chất lượng cuộc sống, tăng niềm lạc quan trong cuộc sống, yêu đời, yêu cảnh vật thiên nhiên, yêu con người trong cộng đồng xã hội làm cho chị em chúng ta khỏe thêm và đẹp thêm, đẹp hơn.

Lác mắt là gì – Bệnh thần kinh mắt

I. MỞ ĐẦU

Lác mắt là sự lệch trục nhìn của mắt, thường kèm theo rối loạn thị giác hai mắt. Lác mắt là một bệnh khá phổ biến. Lác được chia thành hai loại chính:
– Lác đồng hành (concomitant strabismus) hoặc lác cơ năng: trong đó mắt lác luôn luôn di chuyển cùng hướng với mắt lành, do đó góc lác không thay đổi ở mọi hướng nhìn. Trong lác đồng hành, sự lệch trục thị giác gây ra những rối loạn thị giác hai mắt. Lác đồng hành thường gặp ở trẻ em, tỉ lệ thường được nêu lên là 5%-7%.
– Lác liệt (paralytic strabismus) hoặc lác bất đồng hành (incomitant strabismus): trong đó cơ vận nhãn bị liệt gây ra hạn chế vận động của nhãn cầu và góc lác không bằng nhau ở các hướng nhìn. Lác liệt thường gặp ở người lớn.
Lác mắt có thể do nhiều nguyên nhân:
– Nhược thị thực thể: đục thể thuỷ tinh, ung thư võng mạc, bệnh Toxoplasma, lệch khúc xạ hai mắt.
– Tật khúc xạ: cận thị nặng, viễn thị làm tăng tỉ số AC/A.
– Liệt vận nhãn: liệt cơ ngoại nhãn bẩm sinh hoặc mắc phải.
– Di truyền: trên 50% các trường hợp lác có yếu tố gia đình.
– Bất thường khi sinh: thiếu cân, đẻ non.
– Tổn thương não: lác thường gặp ở những trẻ có tổn hại vận động.
– Bất thường giải phẫu: cơ yếu hoặc bám bất thường, dị dạng hốc mắt.
– Môi trường: một số yếu tố kích thích sự nhìn gần lâu dài.

II. GIẢI PHẪU CÁC CƠ NGOẠI NHÃN

Vận động của nhãn cầu nhờ vào 6 cơ ngoại nhãn: 4 cơ thẳng (cơ thẳng trên, cơ thẳng dưới, cơ thẳng trong, và cơ thẳng ngoài) và 2 cơ chéo (cơ chéo lớn và cơ chéo bé).
Trừ cơ chéo bé có nguyên uỷ là thành trong hốc mắt ở gần ống lệ-mũi, 5 cơ còn lại đều bắt nguồn từ vòng gân ở đỉnh hốc mắt, 4 cơ thẳng đi ra phía trước để bám tận tại củng mạc ở trước xích đạo cách rìa 7,5 mm (cơ thẳng trên), 7,0 mm (cơ thẳng ngoài), 6,5 mm (cơ thẳng dưới), và 5,5 mm (cơ thẳng trong). Hai cơ chéo bám tận ở củng mạc sau xích đạo phía thái dương (Hình 19.1 và 19.2).

cơ ngoại nhãn

Hình 19.1. Bám tận của các cơ thẳng      Hình 19.2. Bám tận của các cơ chéo

Phân bố thần kinh của các cơ vận nhãn

Cơ chéo lớn do dây thần kinh số IV điều khiển, cơ thẳng ngoài do dây thần kinh số VI điều khiển. Tất cả các cơ còn lại là do dây thần kinh số III điều khiển. Tất cả các nhân thần kinh vận nhãn đều nằm ở sàn não thất IV thuộc thân não.

III. SINH LÝ VẬN NHÃN

Thành ngoài và thành trong của hốc mắt tạo thành một góc 45°, do đó góc giữa trục hốc mắt với thành ngoài và thành trong xấp xỉ bằng 23°. Khi nhãn cầu ở tư thế nguyên phát (nhìn thẳng trước mặt) thì trục nhãn cầu và trục hốc mắt tạo thành một góc 23° (Hình 19.3).
Tác dụng của các cơ ngoại nhãn phụ thuộc vị trí của nhãn cầu tại thời điểm đó.
Nhãn cầu chuyển động theo 3 trục Fick của mặt phẳng Listing (mặt phang tưởng tượng đi qua tâm xoay của nhãn cầu) (Hình 19.4):Giải phẫu các cơ ngoại nhãn

Hình 19.3. Giải phẫu các cơ ngoại nhãn     Hình 19.4. Mặt phẳng Listing

– Quay sang phải hoặc quay sang trái quanh trục z (trục dọc).
– Quay lên trên hoặc quay xuống dưới quanh trục X (trục ngang).
– Xoáy, ra ngoài hoặc xoáy vào trong quanh trục Y (trục trước sau).

IV. CHỨC NĂNG CỦA CÁC CƠ NGOẠI NHÃN (Bảng 19.1)

1. Cơ thẳng trong: chỉ có tác dụng đưa nhãn cầu vào trong.

2. Cơ thẳng ngoài: chỉ có tác dụng đưa nhãn cầu ra ngoài.

Bảng 19.1. Tác dụng của các cơ ngoại nhãn.

 Tác dụng chính Tác dụng phụ
Thẳng ngoài Đưa ra ngoài Không
Thẳng trong Đưa vào trong Không
Thẳng trên Đưa lên trên  Xoáy vào trong và đưa vào trong
Thẳng dưới Đưa xuống dưới  Xoáy ra ngoài và đưa vào trong
Chéo lớn Xoáy vào trong Đưa xuống dưới và đưa ra ngoài
Chéo bé  Xoáy ra ngoài  Đưa lên trên và đưa ra ngoài

3. Cơ thẳng trên (Hình 19.5)

– Khi mắt ở vị trí nguyên phát: tác dụng chính của cơ là đưa nhãn cầu lên trên, tác dụng phụ là đưa nhãn cầu vào trong và xoáy vào trong.
– Khi mắt đưa ra ngoài 23° thì trục nhãn cầu trùng với trục cơ. Do đó, cơ chỉ còn tác dụng đưa nhãn cầu lên trên. Đây là vị trí tốt nhất để đánh giá chức năng của cơ thẳng trên.
– Khi mắt đưa vào trong 67° thì trục nhãn cầu và trục cơ tạo thành một góc 90°. Do đó, cơ chỉ còn có tác dụng xoay nhãn cầu vào trong.

4. Cơ thẳng dưới

– Khi mắt ở vị trí nguyên phát: tác dụng chính của cơ là đưa nhãn cầu xuống dưới, tác dụng phụ là đưa nhãn cầu vào trong và xoáy ra ngoài
– Khi mắt đưa ra ngoài 23° thì trục nhãn cầu trùng với trục cơ. Do đó, cơ thẳng dưới chỉ còn tác dụng đưa nhãn cầu xuống dưới. Đây là vị trí tốt nhất để đánh giá chức năng của cơ thẳng dưới.
– Khi mắt đưa vào trong 67° thì trục nhãn cầu và trục cơ tạo thành một góc 90°. Do đó, cơ chỉ còn tác dụng xoáy nhãn cầu ra ngoài.

5. Cơ chéo lớn (Hình 19.6)

– Khi mắt ở vị trí nguyên phát: tác dụng chính của cơ là xoáy nhãn cầu vào trong, tác dụng phụ là đưa nhãn cầu xuống dưới và ra ngoài.
– Khi mắt đưa vào trong 51° thì trục nhãn cầu trùng với trục cơ. Ở vị trí này, cơ chỉ còn tác dụng đưa mắt xuống dưới. Đây là vị trí tốt nhất để đánh giá chức năng của cơ chéo lớn.Ở
– Khi mắt đưa ra ngoài 39° thì trục nhãn cầu và trục cơ tạo thành một góc 90°. Do đó, cơ chỉ còn tác dụng xoáy nhãn cầu vào trong.

6. Cơ chéo bé

– Khi mắt ở vị trí nguyên phát: tác dụng chính của cơ là xoáy nhãn cầu ra ngoài, tác dụng phụ là đưa nhãn cầu lên trên và ra ngoài.
– Khi mắt đưa vào trong 51° thì trục nhãn cầu trùng với trục cơ. ở vị trí này, cơ chỉ còn tác dụng đưa nhãn cầu lên trên. Đầy là vị trí để đánh giá chức năng của cơ chéo bé.
– Khi mắt đưa ra ngoài 39° thì trục nhãn cầu và trục cơ tạo thành một góc 90+. Do đó, cơ chéo bé chỉ còn tác dụng xoay nhãn cầu ra ngoài.

V. CÁC ĐỊNH LUẬT VẬN NHÃN

Trong vận nhãn một mắt, cơ chủ vận (agonist) là cơ chính đưa nhãn cầu về một hướng nào đó (thí dụ khi đưa mắt vào trong thì cơ thẳng trong là cơ chủ vận). Cơ đôi vận (antagonist) là cơ tác dụng ngược lại với cơ chủ vận (thí dụ, cơ thẳng ngoài là cơ đối vận với cơ thắng trong). Cơ đồng vận (synergists) là các cơ của cùng một mắt có tác dụng đưa nhãn cầu đi cùng một hướng (thí dụ, ở mắt phải cơ thẳng trên và cơ chéo bé là cặp cơ đồng vận cùng đưa nhãn cầu lên phía trên).
Trong vận nhãn hai mắt, cơ phối vận (yoke muscles) là cặp cơ ở hai mắt có tác dụng liên hợp vận nhãn hai mắt (thí dụ, cơ phối vận của cơ chéo lớn mắt trái là cơ thẳng dưới mắt phải).
Vận động của nhãn cầu tuân theo 2 định luật cơ bản:
1. Định luật Sherrington (phân bố thần kinh đảo ngược): khi môt cơ co thì cơ đối vận với nó giãn. Thí dụ, khi mắt phải đưa ra ngoài thì cơ thẳng ngoài co, trong khi đó cơ thắng trong giãn.
2. Định luật Hering: trong mọi động tác vận nhãn liên hợp hai mắt, xung thần kinh được phân đồng đều và đồng thời cho các cơ đồng vận ở hai mắt. Định luật Hering cho phép giải thích hiện tượng góc lác thứ phát lớn hơn góc lác nguyên phát trong lác liệt.

VI. BIẾN ĐỔI THỊ GIÁC DO LÁC MẮT

ở trẻ dưới 7-8 tuổi, não có khả năng đáp ứng để thích nghi với những rối loạn thị giác hai mắt do lác, những đáp ứng này bao gồm: song thị, ức chế, tương ứng võng mạc bất thường và định thị ngoại tâm.

1. Song thị

Khi mắt bị lác, hoàng điểm của hai mắt không còn chung một hướng nhìn và sẽ tiếp nhận hai ảnh khác nhau. Do đó, bệnh nhân sẽ đồng thời thấy hai vật khác nhau. Hiện tượng này gọi là nhìn chồng hình (confusion). Một vật hiện ảnh ở hoàng điểm của mắt lành sẽ hiện ảnh ở một vùng ngoài hoàng điếm của mắt lác. Do hai điểm võng mạc này không phải là cặp điểm tương ứng nên mắt sẽ nhìn thấy hai hình (song thị).

2. Ức chế (suppression)

Hiện tượng chồng hình và song thị gây nên sự khó chịu, vì vậy não sẽ thích ứng bằng cách bỏ qua ảnh của mắt lác (ức chế), ức chế thể hiện dưới dạng một ám điểm ở mắc lác (ám điểm ức chế) trong điều kiện nhìn hai mắt. Nếu lác thường xuyên ở một mắt thì sự ức chế thị giác một mắt lâu dài ở trẻ nhỏ sẽ dẫn đến giảm thị lực ở mắt lác (nhược thị). Nếu lác luân phiên hai mắt thì có thể không có nhược thị.

3. Tương ứng võng mạc bất thường

Ở mắt bình thường, các vùng võng mạc tương ứng của hai mắt đều có chung một thị hướng. Thí dụ hai hoàng điểm có thị hướng trước mặt, vùng võng mạc phía mũi của một mắt tương ứng với vùng võng mạc phía thái dương của mắt kia. Đó là tương ứng võng mạc bình thường. Khi mắt lác, vùng võng mạc ngoại vi ngoài ám điểm ức chế sẽ tương ứng với hoàng điếm của mắt lành và tạo ra một tương ứng võng mạc bất thường. Tương ứng võng mạc bất thường là một cơ chế tương ứng tích cực của mắt để cho phép bệnh nhân vẫn có thể hợp thị một phần. Tương ứng võng mạc bất thường hay có ở độ lác nhỏ, ít gặp ở lác độ lớn (do hai ảnh cách quá xa) và lác điều tiết (do độ lác thay đổi).
Tương ứng võng mạc bất thường có bất lợi là cản trở sự hồi phục thị giác hai mắt sau khi đã được phẫu thuật lác, vì thế sau mổ lác dễ bị tái phát để trở lại thị giác hai mắt bất thường.

4. Định thị ngoại tâm

Trong những trường hợp nhược thị nặng, mắt sẽ sử dụng một vùng võng mạc ngoại tâm để định thị thay cho hoàng điếm. Định thị ngoại tâm cũng là một yếu tố cản trở sự hồi phục thị lực và sự cân bằng hai mắt sau mổ.

5. Nhược thị (amblyopia)

Nhược thị là sự giảm thị lực tương đối ở một mắt hoặc hai mắt. Người ta gọi là nhược thị thực thể nếu là do tổn thương ở mắt hoặc ở đường thị giác và nhược thị cơ năng nếu không có nguyên nhân thực thể.
Những nguyên nhân chính của nhược thị bao gồm:
– Bệnh lác: mắt lác bị ức chê kéo dài dẫn đến giảm thị lực.
– Lệch khúc xạ hai mắt: tương tác hai mắt bất thường do ảnh võng mạc hai mắt có độ rõ nét khác nhau hoặc độ lớn khác nhau, hoặc do ức chế bên mắt có ảnh võng mạc mờ hơn.
– Mắt không được nhìn: xảy ra ở một mắt hoặc hai mắt (thí dụ do đục thể thuỷ tinh, sụp mi).
– Tật khúc xạ: do mắt không nhìn được rõ, thí dụ tật khúc xạ cao, viễn thị. Trong loạn thị thì nhược thị là do ảnh võng mạc không đều giữa các kinh tuyến.
Chẩn đoán nhược thị cơ năng chủ yếu dựa vào dấu hiệu giảm thị lực từ hai hàng chữ trở lên và không thấy tổn thương thực thể. Một dấu hiệu gợi ý nhược thị là bệnh nhân đọc chữ thử đơn độc tốt hơn là đọc chữ nằm trong một hàng (dấu hiệu đám đông).
Nhược thị được phân chia thành các mức độ: nhẹ (thị lực 6/10), trung bình (thị lực 2/10-5/10), nặng (thị lực 1/10). Nhược thị tương đối nếu thị lực hai mắt chênh lệch 4/10-5/10 trở lên. Nhược thị sâu nếu thị lực hai mắt chênh lệch dưới 3/10-4/10.

Viêm dạ dày-ruột không có hiện tượng viêm

BACILLUS CEREUS

Dịch tễ học

Thực phẩm bị ô nhiễm, đặc biệt là cơm, cháo (món ăn nấu bằng gạo), để dành và trước khi ăn không đun sôi lại, kem, món ăn nghiền dừ, các món canh. Bệnh có ở khắp nơi trên thế giới.

Thời kỳ ủ bệnh: 2-18 giờ.

Triệu chứng:

  • Thể gây nôn:thời kỳ ủ bệnh ngắn, tương tự như ngộ độc thức ăn bị nhiễm tụ cầu khuẩn.
  • Thể ỉa chảy: thời kỳ ủ bệnh dài hơn, giống như ngộ độc thức ăn bị nhiễm Clostridium perfringens. Các triệu chứng của bệnh là do độc tố ruột của vi khuẩn gây ra.

Phân: Bacillus cereus có thể là một vi sinh cư trú thường xuyên và bình thường trong đại tràng, do đó tìm thấy vi khuẩn này trong phân cũng không có ý nghĩa chẩn đoán. Cấy vi khuẩn này ở mẫu lấy từ thức ăn bị ô nhiễm thì có ý nghĩa hơn. Bệnh thường khỏi sau vài ngày.

Điều trị: điều trị triệu chứng.

CLOSTRIDIUM PERFRINGENS (WELCHII)

Dịch tễ học: các triệu chứng xảy ra là do độc tố của vi khuẩn đã nằm sẵn trong thức ăn là thịt hoặc thịt lợn ướp không đủ độ lạnh, lại ăn nguội. Bệnh xảy ra khắp nơi trên thế giới.

Thời kỳ ủ bệnh: 6-16 giờ.

Triệu chứng: ỉa chảy dữ dội (nhiều phân lỏng), đôi khi nôn, không sốt. Khỏi tự nhiên.

Phân: cấy phân hiếm khi có kết quả dương tính, nhưng Clostridium perfringens có trong thực phẩm bị hư hỏng. Phân không lẫn máu.

Điều trị: điều trị triệu chứng.

GHI CHÚ: có những trường hợp ngộ độc thức ăn do nhiễm Clostridium perfringens typ c , tuy hiếm gặp, nhưng typ vi khuẩn này sản xuất ra độc tố beta gây hoại tử, có thể dẫn tới viêm ruột hoại tử rất nặng, chủ yếu thấy ở trẻ em ở Tản-Guinê.

ESCHERICHIA COLI SINH ĐỘC TỐ RUỘT

– Trực khuẩn coli sinh độc tố ruột (ETEC) sản xuất ra một ngoại độc tố gây ra những rối loạn ở đường tiêu hoá. Nhiễm trực khuẩn coli sinh độc tố ruột hay xảy ra ở những nước đang phát triển, và là nguyên nhân chính của bệnh ỉa chảy ở những người đi du lịch. Sau một thời kỳ ủ bệnh lâu từ 24-72 giờ, bệnh nhân sẽ bị ỉa chảy phân lỏng như nước, đôi khi kèm theo nôn. ỉa chảy kéo dài trong vòng 3-4 ngày, và chỉ có khoảng 10% số trường hợp là bệnh kéo dài hơn một tuần.

Điều trị, xem: bệnh ỉa chảy ở những người đi du lịch.

– Trực khuẩn coli sinh bệnh đường ruột (EPEC): có thể là nguyên nhân của những vụ dịch ỉa chảy trong các nhà trẻ. Bệnh có khắp nơi trên thế giới.

GIARDIA LAMBLIA, xem: bệnh do lamblia.

TỤ CẦU VÀNG

Dịch tễ học: những triệu chứng gây ra bởi một nội độc tố rất mạnh do tụ cầu khuẩn sản xuất ra, cấc vi khuẩn này sinh sản ở trong những thực phẩm-bị ô nhiễm, đặc biệt là trong những loại bánh ngọt, sản phẩm từ sữa, nước đá. Bệnh có ở khắp nơi trên thế giới.

Thời kỳ ủ bệnh: ngắn (1-6 giò).

Triệu chứng: nôn không cầm được, ỉa chảy và đau bụng vừa phải, sốt nhẹ hoặc không sốt. Tình trạng nhiễm độc kéo dài khoảng vài giờ (3-6 giò) và khỏi bệnh không để lại di chứng. Tuy nhiên, bệnh có thể nặng nếu xảy ra ở người già là do cơ thể bị mất nước và chất điện giải.

Phân: cấy phân cho kết quả âm tính, nhưng xét nghiệm enzym coagulase tụ cầu vàng (enzym do tụ cầu khuẩn chế tiết ra có tác dụng làm đông máu bệnh lý) ở mẫu vật lấy từ thực phẩm bị nhiễm thì dương tính. Hiếm khi phân lẫn máu.

Điều trị: điều trị triệu chứng.

Phòng bệnh: bằng các biện pháp vệ sinh trong quá trình chế biến và bảo quản thực phẩm (ví dụ, không để những người bị bệnh mụn nhọt làm công việc có liên quan tới thực phẩm hoặc thức ăn).

VIRUS

Dịch tễ học: những trường hợp viêm dạ dày-ruột do virus thường hay xảy ra, nhất là vào mùa đông và ở trẻ em. Người ta gọi những trường hợp này là “bệnh cúm dường ruột”. Một số chủng virus cũng là nguyên nhân gây ra “bệnh ỉa chảy ở người đi du lịch”. Những chủng hay gặp nhất trong những trường hợp bệnh này là virus Norwalk, nguyên nhân của 40% số trường hợp ỉa chảy do nhiễm tác nhân vi sinh không phải vi khuẩn, rotavirus, và đôi khi cả echovirus, virus Coxsackie và adenovirus đường ruột. Bệnh ỉa chảy do virus có ở mọi nước trên thế giới.

Triệu chứng: ỉa chảy, đau bụng, buồn nôn, nôn, sốt vừa phải. Khỏi bệnh tự nhiên sau vài ngày. Tuy nhiên bệnh viêm dạ dày-ruột cấp tính do virus có thể nặng ở những trẻ em ốm yếu và thiếu dinh dưỡng. Bệnh có thể gây ra tình trạng kém hấp thu trong thời gian ngắn.

Phân: phát hiện virus trong phân không nằm trong các biện pháp xét nghiệm thông thường. Phân hiếm khi lẫn máu.

Điều trị: sửa chữa những rối loạn cân bằng nước và chất diện giải trong những thể nặng. Không cho thuôc kháng sinh.

Mitomycin-C Kyowa

Thuốc Mitomycin-C-Kyowa
Thuốc Mitomycin-C-Kyowa

MITOMYCIN-C KYOWA

KYOWA HAKKO KOGYO

Bột pha tiêm 2 mg : hộp 10 lọ – Bảng A. Bột pha tiêm 10 mg : hộp 1 lọ – Bảng A.

THÀNH PHẦN

cho 1 lọ
Mitomycin C J.P. 2 mg
cho 1 lọ
Mitomycin C J.P. 10 mg

DƯỢC LỰC

tả :

  • Đặc tính chung :
Cảm quan pH ASTT nồng độ/dd muối
ống 2 mg tím xanh 5,5-7,0 #1 0,96% (pha trong 5 ml nước cất)
ống 10 mg tím xanh 5,5-7,0 #1 0,96% (pha trong 25 ml nước cất)
  • Tên thông thường : Mitomycin
  • Tên hóa học : Azirizino[2′, 3′ : 3, 4]pyrrolo[1, 2-a]indole-4, 7-dione-6-amino-1, 1a, 2, 8, 8a, 8b- hexahydro-8(hydroxymethyl)8a-methoxy-5-methyl-carbamate.
  • Công thức phân tử : C15H18N4O5= 334,33
  • Mô tả : bột kết tinh hay tinh thể kết tinh màu xanh tím. Tan nhẹ trong nước, methanol và aceton ; rất tan trong ethyl acetat hay chloroform ; không tan trong tetrachlorua
  • Độ bền vững : dạng kết tinh bền vững ở nhiệt độ thườ Trong dung dịch, bền vững ở pH 8, độ bền vững sẽ giảm khi pH giảm xuống 7.

Tính chất dược lực :

Nhóm Mitomycin bao gồm một số các chất chống tân sản được tìm thấy trong dịch nuôi cấy Streptomyces caespitosus bởi Hata và cộng sự tại Viện nghiên cứu Kitasato năm 1955.

Trong số những kháng sinh này, Mitomycin C có tác dụng tốt nhất và được chiết tách, tinh khiết hóa vào năm 1956.

Mitomycin C Kyowa là chế phẩm tiêm chứa Mitomycin C có hoạt phổ rộng kháng ung thư và tác động chống khối u. Chất này đã được xác định có tác dụng lên các dạng ung thư đường ruột, ung thư phổi, ung thư vú, ung thư tử cung, ung thư đầu và cổ, ung thư bàng quang và bệnh bạch cầu mạn tính.

Dược lý :

  • Tác động chống khối u :

Mitomycin thể hiện phổ kháng khối u rộng và có hoạt tính hữu hiệu trên những tế bào u được nuôi cấy : carcinôm Ehrlich, sarcôm 180, bệnh bạch cầu P388, sarcôm Yoshida.

  • Cơ chế tác động :

Mitomycin kết hợp với DNA của tế bào ung thư và ức chế sự nhân đôi của DNA qua sự liên kết chéo của xoắn đôi DNA này nhờ đó ngăn chặn được khối u. Bằng chứng cho thấy rằng những tế bào ở giai đoạn sau của quá trình tiền sinh tổng hợp (G) và nửa giai đoạn đầu của quá trình sinh tổng hợp thì rất nhạy cảm với thuốc.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Một phần của liều tiêm vào được đào thải qua nước tiểu (khoảng 4,3-4,8% trong vòng 4 giờ sau khi tiêm) : từ 30 đến 120 phút sau khi tiêm tĩnh mạch, người ta phát hiện thấy lượng thuốc được đào thải qua nước tiểu là nhiều nhất và giảm dần sau đó.

Phần còn lại của liều tiêm vào được phân phối rộng rãi đến các mô để gây tác động : trong 15 đến 30 phút ở các mô lành và nhanh hơn ở các mô ung bướu.

Nồng độ của thuốc trong máu giảm tương đối nhanh. Mitomycin được chuyển hóa ở gan. Tuy nhiên, sau 24 giờ, người ta vẫn còn tìm thấy trong nước tiểu khoảng 10% liều tiêm vào.

THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG

Tác động lâm sàng :

Kết quả thử nghiệm lâm sàng tiến hành tại 49 bệnh viện ở Nhật như sau :

Tỉ lệ đạt hiệu quả trị liệu trên 2.680 trường hợp là 39,1% (1.049/2.680) (những trường hợp này được đánh giá theo tiêu chuẩn 1-A của Karnofsky cũng như tiêu chuẩn của Hội Trị liệu Ung thư Nhật).

Tỉ lệ đạt hiệu quả trị liệu đơn lẻ Mitomycin C là 39,4% (488/1.239), trong đó 29,7% trường hợp (131/441) ung thư bao tử ; 34,4% trường hợp (11/32) ung thư ruột già ; 36,7% trường hợp (87/237) ung thư phổi ; 29,4% trường hợp (5/17) ung thư gan ; 67,2% trường hợp (90/134) ung thư tử cung ; 50,0% trường hợp (18/36) ung thư vú ; 40,0% trường hợp (8/20) ung thư đầu và cổ ; 76,9% trường hợp (40/52) ung thư bàng quang và 95,0% trường hợp (19/20) bệnh bạch cầu mạn.

Tỉ lệ đạt hiệu quả của trị liệu kết hợp là 38,3% (572/1.493). Trong khi tỉ lệ đạt hiệu quả của trị liệu bằng đường tiêm tĩnh mạch là 35,8% (867/2.419), bằng đường động mạch là 66,5% (129/194), thì hiệu quả khi trị liệu cục bộ như liệu pháp nội bàng quang là 79,1% (53/67).

Phản ứng bất lợi :

Những phản ứng bất lợi được khảo sát trên 329 trường hợp trị liệu bằng đường tĩnh mạch, kết quả như sau :

(Tổng số trường hợp khảo sát cho mỗi dạng không phải luôn luôn là 329)

  • Giảm bạch cầu : 130 trường hợp (40,2%).
  • Giảm tiểu cầu : 75 trường hợp (24,6%).
  • Biếng ăn : 58 trường hợp (21,85).
  • Buồn nôn-ói mửa : 41 trường hợp (15,4%).
  • Khó chịu : 15 trường hợp (5,6%).
  • Sút cân : 18 trường hợp (5,5%).
  • Hay chảy máu : 12 trường hợp (3,6%).
  • Thiếu máu : 10 trường hợp (3,0%).

THỬ NGHIỆM PHI LÂM SÀNG

Độc tính cấp : LD50 mg/kg

I.V. I.P. P.O.
chuột nhắt ICR 4,3 8,4 53,5
chuột nhắt ddy 8,2 8,4 26,8
chuột cống 3,1 5,0 67,4
thỏ 3,4
chó 0,72

Độc tính mạn :

Với liều 0,4 ; 1,2 ; 3,6 ; 11 ; 33 ; 100 mg/kg tiêm phúc mô cho chuột cống liên tục trong 6 tuần, sự ức chế tăng trưởng nhận thấy ở thú thí nghiệm với liều trên 11 mg/kg, giảm vận động, co cứng được nhận thấy ở nhóm liều 100 mg/kg, tử vong được nhận thấy sau 130 ngày.

Những xét nghiệm sinh hóa máu (150 ngày sau khi tiêm) ở liều 100 mg/kg cho thấy có hiện

tượng giảm bạch cầu, tăng K+, tăng BUN và NPN ở đực và cái. Ở nhóm đực, giảm hồng cầu, giảm thể tích lắng hồng cầu, giảm nồng độ hemoglobin, bất thường ở các tế bào lưới và giảm protein huyết tương.

Ngoài ra, xét nghiệm (150 ngày sau khi tiêm) ở nhóm liều 100 mg/kg cho thấy có hiện tượng teo lá lách và teo tuyến ức, teo tinh hoàn, tuyến tiền liệt ở nhóm đực và teo buồng trứng ở nhóm cái.

Gây dị dạng :

Ở chuột đang mang thai, với liều duy nhất 2-10 mg/kg vào ngày thứ 10-14 của thời kỳ có thai, thấy có hiện tượng chậm phát triển bào thai. Với liều 7,5 mg/kg, gây dị dạng như hở môi, cằm ngắn, dính ngón.

Gây ung thư :

Tiêm dưới da cho chuột nhắt với liều 2 mg x 2 lần 1 tuần, tổng cộng 35 lần, sarcôm được quan sát thấy trong tuần thứ 39 đến 54.

CHỈ ĐỊNH

Làm thuyên giảm những triệu chứng chủ quan hay khách quan của những bệnh sau :

Bệnh bạch cầu limphô mạn, bệnh bạch cầu tủy mạn, ung thư bao tử, ung thư ruột già, ung thư phổi, ung thư tụy, ung thư gan, ung thư cổ tử cung, ung thư nội mạc tử cung, ung thư vú, ung thư đầu cổ và ung thư bàng quang.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Tuyệt đối :

  • Bệnh nhân có tiền sử dị ứng với Mitomycin Tương đối :

Điều trị rất cẩn thận với những bệnh nhân sau :

  • Có rối loạn chức năng gan (các phản ứng bất lợi có thể xảy ra rất nghiêm trọng).
  • Có rối loạn chức năng thận (các phản ứng bất lợi có thể xảy ra rất nghiêm trọng).
  • Suy tủy (tình trạng suy tủy có thể trở nên nghiêm trọng hơn).
  • Đang bị nhiễm khuẩn (tình trạng nhiễm khuẩn có thể nghiêm trọng hơn do suy tủy).
  • Đang mắc bệnh thủy đậu (có thể gây rối loạn toàn thân, nguy cơ tử vong).

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Tổng quát :

  • Có thể xảy ra những phản ứng bất lợi nghiêm trọng như suy tủy xương. Cần phải theo dõi bệnh nhân thường xuyên bằng các xét nghiệm cận lâm sàng (xét nghiệm về huyết học, chức năng gan thận…). Nếu có những bất thường xảy ra, xử trí thích hợp như giảm liều hoặc ngưng thuốc. Trị liệu trong thời gian dài cần phải theo dõi bệnh nhân cẩn thận vì những phản ứng bất lợi này có thể gây hiệu quả nghiêm trọng và kéo dài.
  • Cần có những chú ý đặc biệt đến những dấu hiệu ban đầu hay sự trầm trọng thêm của các triệu chứng nhiễm khuẩn và xuất huyết
  • Thận trọng khi trị liệu cho trẻ em, theo dõi những biểu hiện ban đầu có thể dẫn đến những phản ứng bất lợi
  • Việc trị liệu cho trẻ em và những bệnh nhân còn khả năng sinh sản cần phải thận trọng vì có sự ảnh hưởng lên cơ quan sinh dụ

Trị liệu cho người già :

Ở những bệnh nhân lớn tuổi các chức năng sinh l{ đã suy yếu, đặc biệt sự suy tủy có thể kéo dài cũng như rối loạn chức năng thận, Mitomycin C Kyowa cần được dùng trị liệu dưới sự theo dõi nghiêm ngặt về liều và phân liều.

Những lưu ý khi sử dụng : Khi sử dụng :

  • Để tránh đau mạch, viêm tĩnh mạch và chứng huyết khối, nên tiêm tĩnh mạch càng chậm càng tố Phải hết sức chú ý đến vị trí và phương pháp tiêm.
  • Khi tiêm tĩnh mạch cần chú ý để tránh thuốc tràn ra ngoài gây xơ cứng và hoại tử nơi tiêm. Chuẩn bị dung dịch tiêm : Mitomycin C được hòa tan trong dung dịch acid và cần được sử dụng càng sớm càng tốt để tránh giảm hiệu lực thuốc. Không kết hợp với chế phẩm tiêm có pH thấp.

Đề phòng khác :

Đã có những báo cáo cho thấy rằng có những khối u khác xảy ra ở chuột nhắt có sử dụng Mitomycin qua đường tiêm dưới da và chuột cống có sử dụng Mitomycin qua đường phúc mạc hay tiêm tĩnh mạch.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Mitomycin đã được báo cáo rằng có thể gây quái thai ở động vật thí nghiệm. Do đó, không nên sử dụng cho phụ nữ có thai hay nghi ngờ có thai.

Chưa có kết luận về sự an toàn trong thời kỳ cho con bú. Tốt hơn cả, ngưng cho con bú nếu bệnh nhân cần trị liệu.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Cần phải đề phòng khi sử dụng cùng lúc với những thuốc như các chất chống ung thư khác, hoặc đang xạ trị (các phản ứng bất lợi như suy tủy xương có thể trầm trọng hơn).

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Dạng nặng :

  • Hội chứng hồng cầu niệu : cần phải theo dõi bệnh nhân bằng những xét nghiệm định kỳ. Nếu có bất cứ triệu chứng nào như thiếu máu hồng cầu vỡ, giảm tiểu cầu, suy thận, phải ngưng thuốc và xử trí kịp thời
  • Suy tủy xương : giảm bạch cầu, giảm tiểu cầu, xuất huyết, thiếu máu… có thể xảy Cần theo dõi bệnh nhân cẩn thận. Nếu có những hiện tượng bất thường, giảm liều hoặc ngưng thuốc và xử trí kịp thời.
  • Viêm phổi kẻ và xơ hóa phổi : viêm phổi kẻ với các triệu chứng sốt, ho, khó thở, X-quang bất thường, ái eosin, xơ hóa phổ Nếu những phản ứng này xảy ra, cần ngưng thuốc và xử trí kịp thời như dùng corticoid thượng thận.

Các dạng khác :

  • Thận : đôi khi xảy ra protein niệu, huyết niệu, phù, tăng huyết áp. Cần theo dõi bệnh nhân cẩn thậ Nếu có triệu chứng bất thường, cần ngưng thuốc và xử trí thích hợp.
  • Gan : đôi khi gây rối loạn chức năng gan.
  • Tiêu hóa : chán ăn, buồn nôn ói mửa, viêm miệng, tiêu chảy có thể xảy ra.
  • Phản ứng nhạy cảm : các phản ứng dị ứng như nổi ban có thể xảy
  • Hệ tiết niệu : viêm bàng quang, huyết niệu, teo bàng quang có thể xảy ra khi sử dụng liệu pháp nhỏ giọt nội bàng quang.
  • Phản ứng khác : khó chịu, rụng tóc.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Trị liệu từng đợt :

Áp dụng cho người lớn, tiêm tĩnh mạch 4-6 mg Mitomycin C một hay hai lần một tuần. Trị liệu liên tục :

Áp dụng cho người lớn, tiêm tĩnh mạch 2 mg Mitomycin C mỗi ngày một lần. Trị liệu từng đợt với liều cao :

Áp dụng cho người lớn, tiêm tĩnh mạch 10-30 mg Mitomycin C mỗi đợt cách nhau 1 đến 3 tuần hoặc lâu hơn.

Trị liệu phối hợp với các thuốc chống ung thư khác :

Áp dụng cho người lớn, liều 2-4 mg một hoặc hai lần một tuần và kết hợp với các thuốc kháng ung thư khác. Nếu cần thiết có thể dùng đường động mạch, đường tiêm vào tủy, đường tiêm màng phổi, đường phúc mạc với liều 2-10 mg/ngày. Liều này có thể được điều chỉnh tùy theo tuổi tác của bệnh nhân và tình trạng bệnh lý.

Trong 1 ống, hòa tan bằng 5 ml nước cất pha tiêm cho mỗi 2 mg hoạt chất. Ung thư bàng quang :

Thông thường được dùng để đề phòng tái phát, bơm bàng quang 4-10 mg Mitomycin C mỗi ngày hay mỗi hai ngày. Để trị liệu, bơm bàng quang 10-40 mg mỗi ngày. Liều này có thể được điều chỉnh tùy theo tuổi tác của bệnh nhân và tình trạng bệnh lý.

QUÁ LIỀU

Sự quá liều có thể gây ra những phản ứng phụ nghiêm trọng như suy giảm chức năng tủy xương mà có thể đề phòng tránh được. Trong trường hợp thiếu chất giải độc chuyên biệt, dùng một lượng lớn thuốc có nhóm SH như vitamine B2, B6, C và glutation sẽ có tác dụng bất hoạt thuốc nhờ tăng tốc quá trình chuyển hóa phân hủy.

BẢO QUẢN

Hạn dùng 4 năm.

Bảo quản ở nhiệt độ phòng (1-30oC).