Blog Trang 588

Huyệt Cấp Mạch

Cấp Mạch

Tên Huyệt:

Huyệt nằm ở vùng động mạch bẹn, hễ xung động thì cấp, vì vậy gọi là Cấp Mạch (Trung Y cương Mục).

Xuất Xứ:

Thiên ‘Khí Phủ Luận’ (Tố vấn.59).

Đặc Tính:

Huyệt thứ 12 của kinh Can.

Vị Trí huyệt:

Ở bờ trên xương mu 1 thốn, đo ngang ra 2, 5 thốn nằm trên nếp lằn của bẹn, dưới cung đùi.

Giải Phẫu:

Dưới da là cung đùi Fallope, khe cơ lược và cơ khép nhỡ, cơ khép bé và cơ bịt.

Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh bịt.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh L2.

Chủ Trị:

Trị bụng dưới đau, mặt trong đùi đau, dương vật đau, tử cung sa.

Phối Huyệt:

1. Phối Đại Đôn (C.1) + Quan Nguyên (Nh.4) trị dịch hoàn viêm (Châm Cứu Học Thượng Hải).

2. Phối Khúc Tuyền (C.8) + Tam Âm Giao (Tỳ 6) + Trung Đô (C.6) trị âm hộ hoặc dương vật đau. (Châm Cứu Học Việt Nam).

Cách châm Cứu:

Châm thẳng 0, 5 – 0, 8 thốn. Cứu 3 – 5 tráng, Ôn cứu 5-10 phút.

Ghi Chú:

Tránh làm tổn thương bó mạch thần kinh đùi.

Xạ trị ung thư phổi

Xạ trị ung thư phổi không tế bào nhỏ tiến triển tại vùng

Tổng quan

Hiện nay phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị tốt nhất và luôn là lựa chọn đầu tiên đối với ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn còn phẫu thuật được. Bên cạnh phẫu thuật, xạ trị đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn khu trú tại vùng. Gần đây, vai trò của hóa trị đã thay đổi nhiều, từ chỗ được chỉ định điều trị cho những bệnh nhân đã có di căn xa tới nay sử dụng phối hợp với phẫu thuật hoặc xạ trị nhằm kéo dài thời gian sống thêm (TGS), tăng tỷ lệ kiểm soát tại chỗ.

Chỉ định xạ trị đơn thuần

  • Bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật nhưng không đồng ý hoặc không phẫu thuật được, đây thường là những bệnh nhân ở giai đoạn I, II (T1-3 N0, T1-2 N1) và một số bệnh nhân ở giai đoạn IIIA (T1-3 N2, T3 N1).
  • Bệnh nhân giai đoạn IIIA hoặc IIIB (T1-3 N1-2, T4 N0-2), không bao gồm những giai đoạn IV hoặc giai đoạn IIIB có tràn dịch màng phổi do ung thư.

Kỹ thuật xạ trị

Xạ tr2 chiều

Hầu hết phương pháp xạ trị sử dụng cho điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ là xạ trị từ xa. Liều xạ: 60-65Gy trong 6 đến 6,5 tuần, phân liều 1,8 – 2 Gy/một lần xạ trị, với 5 ngày/tuần.

Kỹ thuật xạ trị:

  • Tư thế bệnh nhân: các bệnh nhân thường được đặt ở tư thế nằm ngửa, hai tay giơ cao qua đầ
  • Máy gia tốc photon năng lượng 6-25
  • Liều 40 -45 Gy, bao gồm toàn bộ u, với ranh giới vượt ra ngoài u 1-1,5 cm bằng hai chùm tia trước, sau. Tiếp đó khu trú vào u ban đầu với 15 – 20 Gy với một hoặc hai chùm tia chếch để tránh tuỷ sống.
  • Vùng chiếu xạ phải bao gồm toàn bộ hạch trung thất cùng bên, hạch dưới cựa phế quản (carina).
  • Chỉ xạ trị hạch thượng đòn trong những trường hợp u thùy trên hoặc có di căn hạch thượng đò

X tr3 chiều theo hình dạng u

Xạ trị 3 chiều theo hình dạng u hay còn gọi xạ phẫu có kết quả tốt ở các khối u đường kính 6 cm. Khi lập kế hoạch xạ trị, u được đánh giá qua các thông số: thể tích u (GTV) được đánh giá dựa trên phim CT (cả cửa sổ nhu mô và cửa sổ trung thất), lâm sàng và kết quả nội soi phế quản. Thể tích xạ trị lâm sàng (CTV) được xác định bằng GTV + (0,3 đến 0,7 cm) kể từ rìa u cho những vi di căn chưa xác định.

Thể tích xạ trị kế hoạch (PTV) = CTV + 1 cm theo mặt phẳng nằm ngang và cộng thêm 1,5 cm theo mặt phẳng dọc đứng.

Mức độ mở rộng trường chiếu hiện đang có nhiều tranh cãi đặc biệt là sự di động của u theo nhịp thở. Xạ trị không gian 3 chiều đơn pha với 2-4 góc chiếu có thể được sử dụng.

Xạ trị pha hai có thể được áp dụng để làm giảm tác động tới tổ chức lành, đặc biệt khi tủy sống nằm trong trường chiếu của pha I.

Khi tính liều xạ phải hiệu chỉnh tính không đồng nhất của tổ chức. Nhu mô phổi chứa khí làm cho chùm tia đi qua mạnh hơn. Tấm lọc được sử dụng nhằm làm giảm tác động của xạ trị tới phần mô lành. Tủy sống là cơ quan nhạy cảm với tia nên chỉ được nhận liều dưới 60 Gy với 2 Gy/ngày. Tránh tác động của xạ trị tới tổ chức phổi lành càng nhiều càng tốt, vùng phổi lành chỉ nên dưới 20 Gy. Tim cũng có nguy cơ bị biến chứng xạ trị muộn, nhưng trên thực tế không ảnh hưởng nhiều tới TGS. Liều xạ tới cơ tim nên dưới 40 Gy (nếu có thể), với diện xạ < 2/3 cơ tim.

Hiệu quả và biến chứng của xạ trị của xạ trị trong ung thư phổi không tế bào nhỏ (giai đoạn I -IIIB)

Các bệnh nhân được xạ trị quy ước có thời gian sống thêm 3 năm khoảng 30 – 40% và TGS 5 năm khoảng 10 – 20% (3-9).

Xạ trị phổi liều cao có thể gây những tác hại nghiêm trọng. Loại và mức độ nặng, nhẹ của mỗi biến chứng phụ thuộc vị trí giải phẫu, thể tích tổn thương cần xạ trị, tổng liều, số phân liều. Những cơ quan thường tổn thương khi xạ trị gồm: nhu mô phổi, tủy sống, thực quản và tim.

  • Phổi: Viêm phổi do xạ trị có thể được chia thành nhóm cấp tính và muộn. Biểu hiện cấp tính thường xuất hiện sau 1-4 tuần bắt đầu xạ trị với các biểu hiện lâm sàng: khó thở, h Các biểu hiện này thường đáp ứng tốt với steroid. Viêm phổi cấp tính do xạ trị điển hình thường thoái triển sau 4 – 6 tuần. Các biến chứng muộn xuất hiện sau xạ trị hàng tháng tới hàng năm dưới dạng xơ phổi tiến triển. Biến chứng này ở thời kỳ đầu thường không có biểu hiện lâm sàng, tuy nhiên, có thể thấy khó thở ở những bệnh nhân có chức năng hô hấp suy giảm. Điều trị giảm triệu chứng thường đạt được với việc dùng steroid và thở oxy.
  • Tủy sống: Tổn thương tủy sống do xạ trị là biến chứng thường gặp nhất trong xạ trị ngự Các triệu chứng ban đầu thường không đặc hiệu và có thể tiến triển với các biểu hiện thần kinh xấu dần. Những tài liệu cho thấy giới hạn an toàn cho tủy sống là liều xạ 60 Gy với phân liều 2 Gy. Tuy nhiên, trong thực hành lâm sàng, chỉ nên dùng liều xạ từ 45-50 Gy với phân liều quy ước là 2 Gy/ ngày.
  • Thực quản: Thực quản ít khi bị tổn thương, thường chỉ gặp khi có chiếu xạ trực tiếp trung thất. Triệu chứng đầu tiên của viêm thực quản cấp tính do xạ trị thường xuất hiện sau xạ trị 2-3 tuần, thường với liều 18-20 Bệnh nhân có biểu hiện khó nuốt, đau kiểu rát bỏng, đau tăng khi nuốt. Khoảng 30- 80% các bệnh nhân có biểu hiện viêm thực quản nhẹ tới vừa. Tỷ lệ viêm thực quản cấp, nặng do xạ trị vào khoảng 1,3%. Các triệu thường mất đi sau xạ trị 3- 4 tuần, tuy nhiên, tổn thương thực quản muộn nhất có thể xuất hiện sau xạ trị 3-8 tháng.

Xạ trị hậu phẫu

Xạ trị hậu phẫu được chỉ định cho những bệnh nhân có hạch trung thất hoặc tế bào ung thư diện cắt (+).

Những biện pháp làm cải thiện kết quả của xạ trị

  • Thay đổi phân liều và tăng phân liều: Xạ trị quy ước sử dụng phân liều 2 Gy/ngày, trong 6-7 tuầ Đây là mô hình áp dụng cho hầu hết các vị trí và loại u. Tổng liều xạ bị giới hạn do nguy cơ gây tổn thương các cơ quan và tổ chức lành. Mô hình phân liều biến đổi phát triển dựa trên nguyên lý: hiệu quả điều trị có thể được cải thiện hơn khi giảm liều ở mỗi phân liều và gia tăng số lần xạ/ngày. Điều này làm rút ngắn thời gian trị liệu, do đó làm giảm khả năng nhân lên của các tế bào u. Mô hình này được gọi là gia tốc tăng phân liều. Sử dụng phân liều 2 lần/ngày để đạt được tổng liều 69,6 Gy trong 58 phân liều cho thấy rõ hiệu quả kiểm soát tại chỗ và TGS hơn so với phân liều quy ước 2 Gy/ngày với tổng liều 60 Gy.
  • Xạ trị gia tốc tăng phân liều liên tục (CHART): sử dụng liều xạ 54 Gy chia ra 36 liều, xạ trị liên tiếp 3 lần/ngày trong 12 ngày cho các bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn I-III cho thấy cải thiện tỷ lệ tử vong từ 20-29% so với xạ trị quy ước liều 60 Gy. ở Anh, xạ trị gia tốc phân liều liên tục được xem là điều trị chuẩn cho những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ khu trú và không có chỉ định phẫu thuật. Tuy nhiên, CHART cần xạ trị 3 lần/ngày, liên tiếp, kể cả ngày nghỉ, do vậy có thể gặp khó khăn khi tiến hành tại một số trung tâm.
  • Xạ trị áp sát: Xạ trị áp sát được áp dụng cho ung thư phổi không tế bào nhỏ nội phế quản. Phương pháp sử dụng liều xạ cao iridium được đưa tới u thông qua một catheter đường kính 2-3 mm bằng máy nội soi phế quản. Xác định ranh giới gần và xa của u trong lòng phế quản, rút nòng ra và đưa nguồn xạ Iridium vào. Lưu nguồn xạ tại chỗ. Xạ trị áp sát nội phế quản giúp mở thông vùng phổi xẹp tốt hơn xạ trị đơn thuần. Tuy nhiên, chỉ nên thực hiện ở từng trường hợp cụ thể.
  • Xạ trị áp sát còn được sử dụng ở những bệnh nhân có u rất khu trú, chức năng thông khí phổi kém không cho phép xạ trị từ ngoà Xạ trị áp sát dùng với đơn liều hoặc đa liều. Kỹ thuật này còn được sử dụng triệt căn (thường được kết hợp với xạ trị từ ngoài).

Những biện pháp giảm biến chứng của xạ trị

  • Vai trò của chẩn đoán hình ảnh: Những tiến  bộ trong  chẩn đoán hình ảnh giúp xác định chính xác giai đoạn bệnh, cho phép lựa chọn bệnh nhân phù hợp hơn cho mỗi trị liệu. Ví dụ: PET/CT có độ nhạy cao trong việc phát hiện các hạch, tổn thương di căn, từ đó góp phần quan trọng vào việc lập kế hoạch trị liệu cho mỗi bệnh nhâ
  • Xạ trị điều biến liều lượng theo thể tích u: Mức cao hơn của xạ trị là theo 3D, xạ trị điều biến cường độ nhằm làm tăng liều xạ tới u trong khi làm giảm tác hại tới các cơ quan, tổ chức là Trong xạ trị điều biến liều, mỗi chùm tia chiếu được thiết kế dựa trên đặc điểm u được xạ trị và liều xạ tại các tổ chức nguy cấp. Khả năng phân biệt tác động của mỗi chùm tia cho phép phân liều xạ tối ưu cho tổ chức.

Phối hợp hóa xạ trị

Xạ trị đơn thuần cho những trường hợp ung thư phổi không tế bào nhỏ khu trú tiến triển chỉ cho phép kiểm soát tại chỗ đạt 15%, với TGS trung bình 8 tháng, TGS 5 năm đạt < 5%. Phối hợp hóa – xạ trị nhằm tăng cường hiệu quả trị liệu. Các tương tác giữa hai biện pháp trị liệu này bao gồm:

  • Tương tác về không gian: tổn thương ung thư ở những vị trí nhất định khi không tiếp cận được với trị liệu này, lại có thể được tiếp cận với trị liệu khác. Ví dụ, xạ trị được chỉ định cho những u trong lồng ngực, trong khi hóa trị liệu có thể hiệu quả ở những trường hợp khi u đã lan tràn ra ngoài lồng ngực.
  • Hiệu quả diệt tế bào độc lập, nhưng sự phối hợp làm gia tăng hiệu quả diệt tế bà
  • Những yếu tố bảo vệ tế bào có thể được dùng kèm nhằm làm gia tăng liều xạ mà không làm ảnh hưởng tới vùng nhu mô lành.
  • Mỗi trị liệu có thể làm gia tăng hiệu quả của trị liệu khác, ví dụ hóa trị liệu có thể làm gia tăng hiệu quả của xạ trị trên
  • Hóa – xạ trị xen kẽ: Hóa trị liệu có vai trò làm hạn chế sự phát triển của u và làm giảm di căn 3 nghiên cứu ngẫu nhiên lớn đều cho thấy hóa trị liệu giúp cải thiện về TGS và giảm di căn xa. Kiểm soát u tại chỗ và TGS của các bệnh nhân dùng hóa trị liệu tương tự xạ trị liệu đơn thuần.
  • Hóa – xạ trị đồng thời: Nhằm mục đích kiểm soát bệnh tại chỗ và hạn chế di căn xa, tuy nhiên, mô hình điều trị này làm tăng giá thành và tác dụng phụ. O’Rourke và cộng sự đã dẫn chứng 14 thử nghiệm ngẫu nhiên (với 393 bệnh nhân) cho thấy lợi ích của mô hình hóa – xạ trị so với xạ trị đơn thuần (giảm nguy cơ tử vong 7% trong vòng 2 năm) và cũng cho thấy có lợi hơn so với hóa – xạ trị tiếp nối (giảm nguy cơ tử vong 14% trong 2 năm).
  • Hóa trị bổ trợ: Hiện có nhiều bằng chứng cho thấy hiệu quả của hóa trị bổ trợ trong điều trị ung thư phổ Nghiên cứu thử nghiệm SWOG 9019 giai đoạn II tiến hành trên 50 bệnh nhân dùng hóa – xạ trị đồng thời, sau đó điều trị bổ trợ hai đợt cisplatin và etoposid, và nghiên cứu SWOG 9504 tiến hành trên 83 bệnh nhân điều trị hóa – xạ trị đồng thời, sau đó điều trị bổ xung hai đợt docetaxel, kết quả cho thấy tỷ lệ TGS sau 3 năm đạt 37% với trung vị đạt 26 tháng. Tuy nhiên, đây không phải là nghiên cứu bệnh chứng, do vậy sự cải thiện có được không rõ là do hiệu quả của phác đồ điều trị hay do tác động từ sự lựa chọn bệnh nhân. Vì vậy, cần tiến hành thêm những nghiên cứu tiếp để đưa ra được phác đồ trị liệu tối ưu.

Xạ trị triệu chứng trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ

Xạ trị được sử dụng trong điều trị các u trong lồng ngực từ những năm 1960. Trong nhiều trường hợp, xạ trị được sử dụng như một điều trị phối hợp với các trị liệu khác. Những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn thường được chỉ định hóa trị liệu. Tuy nhiên, xạ trị triệu chứng vẫn đóng vai trò quan trọng trong nhiều trường hợp cụ thể nhằm cải thiện triệu chứng và chất lượng cuộc sống.

  • Phương thức trị liệu: Hiện có ít bằng chứng so sánh về hiệu quả kiểm soát triệu chứng của xạ trị liều cao so với xạ trị liều thấp, tuy nhiên, xạ trị liều cao thường gây tác dụng không mong muốn nhiều hơn. ủy ban Nghiên cứu Y khoa Anh MRC đã tiến hành nghiên cứu trên 509 bệnh nhân có thể trạng tốt: so sánh nhóm điều trị liều xạ 17 Gy chia 2 phân liều với nhóm điều trị liều xạ 39 Gy chia 13 phân liề Kết quả cho thất tỷ lệ sống sau 2 năm được cải thiện 12% so với 9% đã cho thấy lợi ích của xạ trị chia 13 phân liều. Một nghiên cứu khác áp dụng xạ trị điều trị ung thư phổi di căn nhận thấy rằng những bệnh nhân được xạ trị với 5 phân liều có cải thiện triệu chứng đau tốt hơn 1 phân liều (p = 0,04). Nhóm bệnh nhân được xạ trị 5 phân liều có TGS lâu hơn 2 tháng so với xạ trị 1 phân liều.
  • Tác dụng phụ: Cải thiện triệu chứng thường đạt được với hai trị liệu sử dụng phổ biến hiện nay: xạ trị 17 Gy trong 2 phân liều và xạ trị 10 Gy đơn phân liều. Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm: buồn nôn, đau ngực, sốt và cảm giác gai rét trong 24 giờ đầu sau xạ trị đơn liều lớn vào ngực. Tỷ lệ viêm tủy vào khoảng 0,6% trong năm đầu và 2,2% trong 2 năm. Để giảm tỷ lệ tai biến trên tủy sống, các tác giả khuyến cáo sử dụng xạ trị liều 17 Gy chia 2 phân liều.

Hội chng chèn ép tĩnh mạch chủ trên

Là biểu hiện ít gặp trong ung thư phổi, được đặc trưng bởi các biểu hiện: phù vùng đầu, mặt, các tĩnh mạch vùng cổ nổi căng, xuất hiện tuần hoàn bàng hệ ở ngực, cổ căng, bạnh to, bệnh nhân có thể đau đầu. Nguyên nhân thường do u nguyên phát hoặc các hạch trung thất chèn ép vào tĩnh mạch chủ trên. Các trị liệu truyền thống bao gồm: steroids toàn thân và xạ trị (với ung thư phổi không tế bào nhỏ) hoặc hóa trị liệu (cho các trường hợp ung thư phổi tế bào nhỏ). Tuy nhiên, với những trường hợp không đáp ứng với cả hóa trị liệu và xạ trị liệu hoặc tái phát nhanh sau điều trị, cần phải đặt giá đỡ tĩnh mạch chủ trên để duy trì sự lưu thông dòng chảy. Xạ trị trong những trường hợp có hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên thường áp dụng chế độ xạ trị liều 20 Gy chia 5 phân liều trong 1 tuần nhằm giảm nhanh chèn ép.

Thở rít

Thở rít do u xâm lấn gây bít tắc lòng khí, phế quản. Xạ trị cấp cứu được chỉ định sớm, thường với liều 20 Gy chia 5 phân liều trong 1 tuần thường mang lại hiệu quả giảm tắc nghẽn đường  thở. Thường  dùng thêm liều  cao dexamethason trước và trong thời gian xạ trị nhằm tránh bít tắc hoàn toàn do phù nề tại u.

Tái điu tr

Những cơ sở có điều kiện, các trị liệu laser nội phế quản hoặc đặt giá đỡ khí phế quản thường được xem xét trước khi chỉ định tái xạ trị. Tái xạ trị thường được chỉ định cho những bệnh nhân có triệu chứng tắc nghẽn đường thở đã đáp ứng với xạ trị trước đây. Những vị trí mà tủy sống đã chịu tác động của xạ trị trước đó hoặc những trường hợp có tiên lượng sống thêm hơn 6 tháng, nên sử dụng những trường xạ trị với các trường chiếu chếch để tránh tổn thương tủy sống. Liều xạ 20 Gy với 5 phân liều trong thời gian 1 tuần thường được áp dụng. Không nên dùng những trường chiếu xạ.

Xạ trị cho ung thư phổi tế bào nhỏ

  • Các yếu tố tiên lượng

Quan trọng nhất là giai đoạn (giới hạn so với lan rộng). Bệnh giới hạn là giới hạn tại nửa lồng ngực, mặc dù tràn dịch màng phổi ác tính sẽ ảnh hưởng bất lợi đến kết quả.

  • Điều trị

Đối với bệnh nhân giai đoạn I lâm sàng (T1-2, N0), cắt bỏ hoàn toàn bằng cắt thuỳ với nạo vét hạch trung thất hoặc sinh thiết hạch có thể được xem xét trong một số trường hợp. Tuy nhiên, nội soi trung thất phải được thực hiện để loại trừ di căn hạch trước khi cắt bỏ. Hóa trị hậu phẫu cần được chỉ định ngay cả khi phẫu thuật bệnh lý cho thấy không có xâm lấn hạch. Đối với hạch (+) sau phẫu thuật, hóa trị và xạ trị cần được xem xét. Xạ trị não dự phòng cần được xem xét trong mọi trường hợp.

  • Phối hợp hoá xạ trị: Các nghiên cứu đã khẳng định xạ trị phổi đã làm giảm tỷ lệ tái phát tại chỗ và tăng tỷ lệ TGS.
  • Hoá xạ trị đồng thời: Những lợi thế tiềm năng của hóa xạ trị đồng thời là sử dụng sớm cả hai phương thức, chấp nhận độc tính cao hơn, khả năng lập kế hoạch xạ trị chính xác hơn, thời gian điều trị ngắn, và u nhạy cảm. Nhược điểm là tăng độc lên mô lành (có thể điều chỉnh liều lượng và/hoặc nghỉ điều trị) và không thể đánh giá đáp ứng của từng phương thức.
  • Liều xạ tại phổi: Liều xạ trị phổi cũng là vấn đề còn tranh luận. Viện Ung thư Quốc gia Canada báo cáo một nghiên cứu lớn cho kết quả liều – đáp ứng tại phổ Theo đó đáp ứng với TGS không tiến triển bệnh tại phổi tăng ở nhóm bệnh nhân được điều trị 37,5 Gy/15 phân liều trong 3 tuần so sánh với 25 Gy/10 phân liều trong 2 tuần sau khi hoàn tất cisplatin – etoposid và cyclophosphamid – doxorubicin-vincristin xen kẽ hoặc tuần tự. Đến thời điểm này, liều tối ưu xạ trị trong ung thư phổi tế bào nhỏ sử dụng 3D mô phỏng với hóa trị liệu đồng thời vẫn còn tranh cãi, thể thức 45 Gy với 1,5 Gy/phân liều/hai lần mỗi ngày được coi là xạ trị chuẩn.
  • Xạ trị não dự phòng: Vai trò của phương pháp này hiện còn tranh cãi do thiếu bằng chứng chứng minh cải thiện TGS toàn bộ trong khi gây biến chứng muộn cho hệ thần kinh.

Tài liệu tham khảo

  1. Albain K.S., Crowley J.J. et al.  (2002), “Concurrent cisplatin, etoposide, and chest radiotherapy in pathologic stage IIIB non-small- cell lung cancer: a Southwest Oncology Group phase II study, SWOG 9019”, J ClinOncol., 20 (16); pp.3454-
  2. Fisher D., D’Orazio A. (2000), “Concurrent chemoradiotherapy followed by consolidation docetaxel in stage IIIB non small-cell lung cancer (SWOG 9504)”, Clin Lung Cancer; 2 (1); pp.25-26.
  3. Payne G., Murray N., Warde P. (1994), “Small cell  lung carcinoma: role of thoracic irradiation and its timing in relation to chemotherapy”, Bull Cancer, 81 (2); pp.119-128.
  4. O’Rourke N., Roqué I. Figuls M., Farré Bernadó N., Macbeth F. (2010), “Concurrent chemoradiotherapy in non-small cell lung cancer”, Cochrane Database Syst Rev, (6) CD002140.

Các bệnh tự miễn

Định nghĩa

Suy giảm bộ máy miễn dịch khiến cơ thể không nhận ra các kháng nguyên xâm nhập từ bên ngoài là các kháng nguyên cần phải chống lại cũng như các kháng nguyên là thành phần của chính cơ thể (tự kháng nguyên) là các kháng nguyên không được chống lại.

Sinh lý bệnh

Mất khả năng phân biệt kháng nguyên bên ngoài và kháng nguyên nội sinh (tự kháng nguyên) dẫn đến việc tạo thành các tự kháng thể và làm xuất hiện các phản ứng tự miễn. Người ta cho rằng một số tự kháng nguyên bị biến đổi do các bệnh nhiễm khuẩn (nhất là nhiễm virus), tác nhân hoá học hoặc vật lý (bức xạ ion hoá) và trở thành nguyên nhân gây miễn dịch. Lympho B bị hoạt hoá và sản xuất ra các kháng thể một cách không phù hợp và quá nhiều.

Bảng 13.2. Kháng thể trong một số bệnh tự miễn hoặc được cho là bệnh tự miễn

BỆNH KHÁNG THỂ KHÁNG BỆNH KHÁNG THỂ KHÁNG
Bệnh chất tạo keo

Viêm màng tiếp Acid ribonucleic hoặc

hợp (Hội chứng ARN

Sharp)

Viêm da – cơ ?

Lupus ban đỏ rải Kháng nguyên nhân: rác AND, Ro, Sm

Bệnh Behqet ?

Xd cứng bì Scl – 70

Viêm đa khớp Yếu tố thấp khớp dạng thấp

Viêm cứng đốt ? sống

Hội chứng Sjögren Biểu mô tuyến nước bọt, kháng nguyên nhân

Bệnh tiêu hoá

Bệnh Herter Reticulin, gliadin

Loét đại tràng chảy ? máu

Bệnh Crohn ?

Bệnh gan

Xơ gan nguyên Ty lạp thể phát

Sơ gan mạn tính Cơ vân, lipoprotein của tế bào gan

Bệnh nội tiết

Một vài tiểu đường Tế bào beta tiểu đảo phụ thuộc insulin Langerhans

Bệnh Addison Macrosom tế bào tiểu nguyên phát cầu

Bệnh Basedow Kháng thể kháng thụ cảm TSH

Nhược năng tuyến Các tế bào bài tiết sinh dục Steroid

Nhược năng tuyến Tế bào chính của cận giáp nguyên tuyến cận giáp phát

Viêm tuyến giáp và Microsom của tuyến phù niêm nguyên giáp và thyroglobulin phát

Bệnh thận

Một số viêm cầu Kháng nguyên nhân và khối thận và viêm ống- u, IgG, thyro globulin cùng kẽ thận với các kháng nguyên tạo thành phức hợp miễn dịch

Hội chứng Màng đáy tiểu cầu thận. Goodpasture

Bệnh phổi

Viêm xơ hoá phế ? nang không rõ nguyên nhân

U hạt Weneger Tương bào bạch cầu hạt Hội chứng

Goodpasture Màng đáy phế nang

Bệnh vế máu

Thiếu máu tan Hổng cầu máu tự miễn

Thiếu máu ác tinh Microsom tế bào thành của dạ dày, yếu tố nội Tuỷ xương vô sản Các tế bào gốc của tuỷ xương

Bạch cầu giảm Bạch cầu Tiểu cầu giảm Tiểu cầu

Bệnh da

Pemphigus thực sự Chất nằm giữa các tế bào biểu bì

Pemphigus có Màng đáy biểu bì phỏng

Bạch biến Tế bào hắc tố (?)

Bệnh thần kinh   Viêm mạch máu
Nhược cơ nặng Thụ cảm với acetyl – cholin, tế bào tuyến ức, cơ vân Viêm động mạch thái dương ?
  u hạt Weneger Tương bào bạch cầu hạt
Xơ cứng rải rác Myelin Bệnh Churg – ?
Hội chứng Guillain- Barré ? Strauss

Viêm nút đa khớp

Hiếm khi có kháng nguyên nhân

Người ta phân ra thành:

  1. Tự kháng thể không đặc hiệu của các cơ quan\ kháng lại một số yếu tố của tế bào (kháng thể kháng nhân, kháng thể kháng tương bào).
  2. Tự kháng thể đặc hiệu của các cơ quan (tuyến giáp, dạ dày, tuỵ, thận v.v…).

Các yếu tố thuận lợi

  1. Giới: các bệnh tự miễn hay gặp ở phụ nữ nhiều hơn.
  2. Tuổi: người nhiều tuổi.
  3. Yếu tố di truyền: hệ thống HLA, thiếu hụt bổ thể.
  4. Bệnh do virus.
  5. Thuốc: lupus ban đỏ do thuốc. Phân loại: xem bảng 13.2.

Những Tác dụng chữa bệnh của Hoa Đu Đủ đực

Cây đu đủ thuộc loại thân thảo, sống lâu năm, thường được nhân dân trồng để lấy quả ăn. Lá to chia nhiều thùy. Quả to, không có hình dáng nhất định, nhiều hạt, khi non hạt màu trắng, khi già hạt màu đen. Hoa đu đủ có màu trắng vàng, chia hoa cái, hoa đực, mọc ở nách lá. Hoa đu đủ được dùng làm thuốc chữa bệnh. Theo Đông y, hoa đu đủ có vị ngọt, đắng, tính ấm. Khi dùng làm thuốc thường lấy hoa đu đủ đực. Chữa ho có đờm và ho gà ở trẻ em.

 hoa đu đủ có vị ngọt, đắng, tính ấm
hoa đu đủ có vị ngọt, đắng, tính ấm

* Thuốc ứng dụng:

Bài 1. Thuốc chữa bệnh ho

+ Hoa đu đủ đực                    30g

+ Rễ dâu                                 10g

+ Cam thảo đất                      15g

Rễ dâu lấy phần nằm trong đất, có màu vàng, cạo bỏ vỏ ngoài, bỏ lõi, tước nhỏ, tẩm mật sao thơm. Cùng các vị thuốc cho vào nồi 500ml nước, sắc lấy 150ml nước thuốc. Người bệnh chia 3 lần uống trong ngày, trước bữa ăn. cần uống liền 3 ngày.

Bài 2. Thuốc chữa bệnh ho gà ở trẻ em

+ Hoa đu đủ đực    30g

+ Hoa hồng bạch   20g

+ Lá húng chanh  30g

+ Đường phèn 10g

+ Rễ dâu 10g

+ Cam thảo đất 10g

Rễ dâu làm như bài trên. Các vị thuốc cho vào bát, đem hấp cách thủy, sau đó giã nhỏ cho thêm 100ml nước lọc, vắt kỹ lấy 100ml nước thuốc; cho đường phèn vào nước thuốc, đem hấp cách thủy. Khi đường phèn tan hết, cho trẻ uống 3 lần trong ngày, sau bữa ăn. cần uống liền 2-3 ngày.

Ngoài ra hoa đu đủ đực còn có các tác dụng

Chống lại bệnh ung thư

Thành phần trong hoa đu đủ đực rất đa dạng. Chất isothiocyanates trong hoa có khả năng bảo vệ cơ thể chống lại bệnh ung thư vú, ung thư phổi, ung thư dạ dày, ung thư ruột kết và ung thư tiền liệt tuyến.

Chất isothiocyanates trong hoa có khả năng bảo vệ cơ thể chống lại bệnh ung thư
Việc sử dụng chất chiết xuất từ đu đủ kháng ung thư có ưu điểm là không mang độc tính có hại cho các tế bào cơ thể và hệ tuần hoàn máu, không gây ra tác dụng phụ. Nó có thể tiêu diệt tế bào ung thư, nhưng không ảnh hưởng xấu đến hệ thần kinh trung ương, đến các tế bào khỏe mạnh.

Vì vậy sẽ tránh được các trường hợp làm tổn thương đến cơ thể người bệnh như khi dùng các biện pháp uống thuốc Tây y thông thường, tiêm truyền hóa xạ trị,…

Cách dùng: Hoa đu đủ đực phơi khô, sao vàng hạ thổ, dùng trong 1 tháng với liều lượng 100gr hoa đủ đực, 2 lít nước sắc còn 3 chén, uống làm 3 lần trong ngày trước hoặc sau khi ăn.

Hạ đường huyết

Đối với bệnh nhân đái tháo đường, uống nước sắc hoa đu đủ đực giúp làm tăng lượng insulin, nhờ đó làm hạ đường huyết tùy theo mức độ sử dụng.

Hỗ trợ tiêu hóa

Hoa đu đủ đực giúp hỗ trợ bộ máy tiêu hóa và tăng cường sự trao đổi chất trong cơ thể. Hàm lượng cao của các vitamin như A, C và E cùng với folate là những chất chống oxy hóa rất cao, bảo vệ các tế bào, ngăn ngừa cholesterol và lão hóa sớm. Trong hoa đu đủ có chứa men papain giúp tiêu hóa tốt và ngăn ngừa táo bón.

Giải quyết vấn đề hô hấp

Chỉ cần lấy hoa đu đủ đực trộn với vài muỗng mật ong hoặc đường phèn, đem chưng cách thủy rồi để hơi ấm, sau đó uống mỗi ngày 3-4 lần sẽ chữa được các vấn đề về hô hấp như ho và khản giọng hoặc đau rát cổ họng.

Giảm viêm loét dạ dày

Nhờ các hoạt chất chống oxy hóa cao trong hoa đu đủ đực nên giúp làm giảm viêm loét dạ dày và tác dụng kháng viêm này cũng giúp ngăn ngừa việc tích tụ mảng bám cholesterol trong lòng mạch.

Lưu ý khi dùng hoa đu đủ đực

– Không nên ăn quá nhiều, ngay cả đu đủ chín, sắc tố có thể gây vàng da, dù không nguy hiểm.

– Trong rễ của đu đủ có chứa glucoside cyangenic tạo thành cyanua, lá chứa tannin. Hai hợp chất này có thể có tác dụng phụ bất lợi khi dùng ở nồng độ cao.

– Tuyệt đối không nên dùng cho phụ nữ có thai vì chiết xuất papain trong đu đủ có khả năng gây sảy thai. Liều cao papain trong đu đủ có độc tính ảnh hưởng đến thai nhi.

Biện pháp tránh thai: Loại nào phù hợp với bạn?

Bạn có rất nhiều lựa chọn cho biện pháp tránh thai, từ bao cao su đến nắp cho đến viên uống. Hãy tìm một phương pháp mà bạn tự tin sử dụng — và mà bạn có thể cam kết sử dụng mỗi lần quan hệ tình dục.

Biện pháp tránh thai hormon

Những phương pháp này bao gồm các hình thức tránh thai có thể đảo ngược tác dụng lâu dài và ngắn hạn.

Các biện pháp tránh thai có tác dụng lâu dài (LARC) bao gồm dụng cụ tử cung (IUD) được chèn vào tử cung và các implant hormon được đặt ngay dưới da. Những phương pháp này không thất bại thường xuyên và ít phụ nữ có thai hơn vì chúng luôn ở vị trí và có thể kéo dài lâu. Do đó, tỷ lệ thất bại là dưới 1 trong 100. Các phương pháp LARC làm giảm số lần phụ nữ có thai khi họ không muốn, được gọi là thai ngoài ý muốn. Số ca phá thai cũng thấp hơn khi phụ nữ sử dụng LARC. Các phương pháp LARC cũng giúp phụ nữ theo nhiều cách khác và rất ít lý do mà chúng không thể được sử dụng. (IUD bằng đồng là một lựa chọn IUD không chứa hormon. Thông tin thêm bên dưới.)

Các lựa chọn có tác dụng ngắn hạn bao gồm viên uống tránh thai, miếng dán dính, vòng âm đạo có thể chèn vào, và tiêm. Tùy thuộc vào lựa chọn của bạn, bạn sẽ phải duy trì sử dụng chúng hàng ngày hoặc mỗi vài tuần hoặc tháng. Trong thực tế, mọi người có thể không thể duy trì phương pháp một cách hoàn hảo, vì vậy tỷ lệ ngăn ngừa thai thường là khoảng 90%. Bạn sẽ cần một đơn thuốc cho chúng.

Nếu bạn quyết định dùng viên uống tránh thai, hãy hỏi bác sĩ của bạn nên sử dụng một hình thức tránh thai khác trong bao lâu cho đến khi viên uống có tác dụng.

Biện pháp tránh thai bằng rào cản

Như tên gọi cho thấy, các phương pháp này tạo ra một rào cản để ngăn tinh trùng tiếp cận trứng. Bạn có thể mua hầu hết chúng tại hiệu thuốc mà không cần đơn.

Bao cao su nam là một lựa chọn đáng tin cậy và rẻ tiền. Bao cao su latex là một lựa chọn tốt. Chúng bền và có thể hiệu quả hơn trong việc bảo vệ chống lại các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs) so với bao cao su “tự nhiên” hoặc “da cừu”.

Với cách sử dụng thông thường, bao cao su nam có hiệu quả khoảng 80%. Nếu được sử dụng hoàn hảo mỗi lần, nó ngăn ngừa thai 98% thời gian.

Bao cao su nữ là một ống nhựa mỏng, linh hoạt mà bạn sẽ chèn một phần vào âm đạo, tạo ra một rào cản. Bao cao su nữ cũng có thể giúp bảo vệ chống lại STDs. Bao cao su nữ có hiệu quả khoảng 80%.

Các loại biện pháp tránh thai khác cũng hiệu quả trong việc ngăn ngừa thai, nhưng chúng không bảo vệ bạn khỏi các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs).

Bọt biển là một lựa chọn không cần đơn khác. Nó là một miếng bọt nhỏ, được xử lý bằng thuốc diệt tinh trùng, mà bạn đặt cao vào âm đạo. Nó có hiệu quả từ 68% đến 84%. Bạn cũng có thể sử dụng thuốc diệt tinh trùng — gel, kem và bọt — cùng với các biện pháp tránh thai khác hoặc riêng lẻ. Một mình, chúng có hiệu quả khoảng 70%.

Một vài lựa chọn — như màng ngăn, nắp cổ tử cung, và tấm chắn cổ tử cung — chỉ có sẵn theo đơn. Chúng là những rào cản bằng cao su hoặc silicone mà bạn đặt cao vào âm đạo. Chúng có hiệu quả khoảng 90% trong việc ngăn ngừa thai.

IUD (dụng cụ tử cung)

Đây là những thiết bị nhỏ bằng nhựa mà bác sĩ hoặc y tá sẽ chèn vào tử cung của bạn. Quy trình này đơn giản và nhanh chóng, mặc dù có thể hơi khó chịu. Khi đã ở vị trí, IUD sẽ bảo vệ bạn khỏi thai trong một thời gian dài.

IUD sử dụng hormone có tác dụng từ 3-8 năm tùy thuộc vào loại bạn chọn. Phiên bản đồng-T — sử dụng đồng, một chất tự nhiên diệt tinh trùng — có tác dụng lên đến 10 năm. IUD có hiệu quả khoảng 99% trong việc ngăn ngừa thai.

Biện pháp tránh thai âm đạo

Biện pháp tránh thai âm đạo được chèn vào âm đạo trước khi quan hệ tình dục để tạo ra môi trường không thuận lợi cho tinh trùng để chúng không thể tiếp cận trứng để thụ tinh. Chúng có nhiều hình thức khác nhau bao gồm bọt, gel, viên nén, kem, viên đặt, hoặc phim hòa tan.

Thuốc diệt tinh trùng chứa hóa chất tiêu diệt tinh trùng. Chúng có thể được mua không cần đơn và có hiệu quả từ 70-80%. Chúng hoạt động tốt hơn khi kết hợp với bao cao su hoặc màng ngăn.

Một loại gel không chứa hormon mới gọi là Phexxi được thiết kế để sử dụng môi trường âm đạo của cơ thể. Thông thường, trong khi quan hệ tình dục, mức pH của âm đạo tăng lên để cho phép tinh trùng di chuyển về phía ống sinh sản. Gel này giữ mức pH của âm đạo ở mức axit bình thường, tiêu diệt tinh trùng. Nó được coi là có hiệu quả từ 90-93% và bạn sẽ cần một đơn thuốc cho điều này.

Biện pháp tránh thai khẩn cấp

Bạn không nên xem đây như một hình thức biện pháp tránh thai thường xuyên. Nó dành cho việc sử dụng sau khi quan hệ tình dục không được bảo vệ hoặc nếu bao cao su của bạn bị rách. Nó có thể ngăn ngừa thai lên đến 3 đến 5 ngày sau đó, mặc dù càng sớm bạn uống càng tốt.

Hầu hết các sản phẩm biện pháp tránh thai khẩn cấp là các loại viên uống “sáng hôm sau”, nhưng IUD đồng-T cũng hoạt động như biện pháp tránh thai khẩn cấp. Nếu bạn muốn một IUD, một y tá hoặc bác sĩ cần phải đặt nó vào trong vòng 5 ngày sau khi bạn quan hệ tình dục. IUD bằng đồng là hình thức biện pháp tránh thai khẩn cấp hiệu quả nhất. Phụ nữ thừa cân hoặc béo phì muốn sử dụng biện pháp tránh thai khẩn cấp nên xem xét sử dụng IUD đồng-T, vì nghiên cứu cho thấy rằng các viên uống biện pháp tránh thai khẩn cấp bắt đầu mất hiệu quả đối với họ.

Có ba loại viên uống biện pháp tránh thai khẩn cấp được bán cả có và không có đơn thuốc. Tùy thuộc vào thương hiệu và liều lượng, bạn có thể nhận được một hoặc hai viên.

Viên uống chứa hormone gọi là levonorgestrel:

  • My Way (không cần đơn thuốc)
  • Plan B One-Step (không cần đơn thuốc)
  • Preventeza (không cần đơn thuốc)
  • Take Action (không cần đơn thuốc)

Viên uống tránh thai cũng có thể được sử dụng như biện pháp tránh thai khẩn cấp, nhưng bạn phải uống hơn một viên cùng lúc để tránh có thai. Phương pháp này hoạt động, nhưng kém hiệu quả hơn và có khả năng gây buồn nôn hơn so với levonorgestrel. Viên uống tránh thai cần có đơn thuốc. Hãy nói chuyện với bác sĩ hoặc y tá của bạn để đảm bảo bạn đang dùng đúng viên thuốc và liều lượng.

Một loại viên uống biện pháp tránh thai khẩn cấp thứ ba được gọi là ulipristal (Ella, ellaOne). Bạn cần có đơn thuốc để có được nó.

9 mẹo sử dụng biện pháp tránh thai

Bạn sẽ muốn làm những điều này để biện pháp tránh thai của bạn hoạt động:

  1. Chuẩn bị trước. Nó cần phải dễ dàng cho bạn sử dụng.
  2. Kiểm tra ngày hết hạn. Bao cao su và các loại biện pháp tránh thai bằng latex hoặc nhựa khác có thể bị hỏng theo thời gian. Viên uống trở nên kém hiệu quả hơn. Đừng dựa vào biện pháp tránh thai đã hết hạn.
  3. Lưu trữ đúng cách. Ánh sáng và nhiệt có thể làm hỏng bao cao su và các hình thức biện pháp tránh thai khác. Không bao giờ sử dụng bao cao su đã để trong ngăn đựng găng tay của xe hơi trong một thời gian dài hoặc nhét trong ví.
  4. Tuân theo hướng dẫn. Trong lúc nóng vội, bạn sẽ không dừng lại để đọc hướng dẫn trong hộp. Vì vậy, hãy đọc trước.
  5. Cẩn thận khi mở bao bì bao cao su. Đừng mạo hiểm làm rách bao cao su bằng cách mở nó bằng kéo hoặc răng của bạn. Bao cao su có thể rách hoặc bị hỏng.
  6. Sử dụng kích thước phù hợp. Một bao cao su quá nhỏ hoặc quá lớn có thể không hoạt động.
  7. Đeo bao cao su đúng cách. Hãy chắc chắn rằng bạn cuộn nó theo hướng đúng. Khi bạn đặt nó lên, hãy giữ đầu để ngăn không khí tạo ra bọt. Không khí có thể làm tăng khả năng rách.
  8. Sử dụng chất bôi trơn. Nó làm giảm nguy cơ rách bao cao su. Chỉ sử dụng chất bôi trơn gốc nước. Đừng sử dụng bất kỳ chất nào có gốc dầu, như dầu em bé hoặc mỡ xoa. Chúng có thể làm hỏng bao cao su. Để được bảo vệ tốt hơn, hãy sử dụng chất bôi trơn có chứa thuốc diệt tinh trùng.
  9. Có biện pháp tránh thai khẩn cấp sẵn sàng. Ngay cả khi bạn cẩn thận, mọi chuyện vẫn có thể xảy ra. Nếu bao cao su bị rách, bạn có thể muốn sử dụng biện pháp tránh thai khẩn cấp chỉ trong trường hợp.

Biện pháp tránh thai vĩnh viễn

Có các lựa chọn vĩnh viễn cho biện pháp tránh thai nếu bạn chắc chắn rằng bạn không muốn có thai trong tương lai. Mỗi phương pháp này có hiệu quả từ 99%-100%.

Phụ nữ có thể chọn thực hiện một thủ thuật thắt ống dẫn trứng, trong đó các ống dẫn trứng được đóng lại, ngăn không cho trứng tiếp cận tinh trùng. Quy trình này yêu cầu gây mê toàn thân. Thủ thuật này cũng được gọi là “thắt ống dẫn trứng”.

Đối với nam giới, lựa chọn biện pháp tránh thai vĩnh viễn sẽ là thắt ống dẫn tinh. Trong quy trình này, bác sĩ của bạn sẽ tạo ra một sự gián đoạn vĩnh viễn trong ống cho phép tinh trùng vào tinh dịch

Cấp cứu và điều trị ngộ độc khí than

Cấp cứu ngộ độc khí than

Với người bị ngộ độc nhẹ, không cần phải có biện pháp đặc biệt, mà điều quan trọng là phải rời khỏi hiện trường ngay, hoặc phải mở thông hết các cửa để không khí lưu thông, người bệnh cần được nghỉ ngơi yên tĩnh, tránh các hoạt động dùng đến sức khỏe, tránh cho tim phổi phải hoạt động nhiều và gia tăng tiêu hao lượng ôxy. Sau khi xử lý như vậy, triệu chứng có thể hết đi rất nhanh. Với người bị ngộ độc tương đối nặng, thường hay bị rơi vào trạng thái bán hôn mê hoặc hôn mê sâu, cần phải có biện pháp cấp cứu kịp thời. Việc đầu tiên là đưa bệnh nhân rời khỏi hiện trường ngộ độc, hoặc cần có biện pháp nhanh chóng làm thay đổi không khí ở đó. Tiếp đến cần nhanh chóng cấp cứu hô hấp, mạch đập, và huyết áp của bệnh nhân. Nếu như người bệnh ngừng thở, cần làm hô hấp nhân tạo, có thể đặt bệnh nhân nằm ngửa rồi ép ngực, giơ hai tay bệnh nhân ép ngực và cách kề mồm thổi, trong đó cách kề mồm vào thổi là biện pháp có hiệu quả nhất. Phương pháp này được tiến hành như sau: người cấp cứu vòng tay ra sau gáy bệnh nhân, nâng đầu bệnh nhân lên, vành mồm to ra, dùng tay còn lại bịt mũi bệnh nhân để tránh khi thổi khí vào bị lọt qua mũi. Sau đó hít một hơi thật sâu, dùng sức thổi mạnh vào mồm bệnh nhân, làm liên tục như vậy 16 đến 20 lần 1 phút. Khi thổi khí vào có thể thấy ngực phồng to lên cho thấy thể khí đã được thổi vào. Do luồng khí được thổi vào có khí ôxy, không những gạt được khí than ra mà còn kích thích thần kinh trung ương, trong tình hình thiếu thiết bị cung cấp ôxy, cách cấp cứu này rất hiệu quả. Với những đơn vị có điều kiện, cần kịp thời cấp đủ ôxy cho bệnh nhân. Nếu bệnh nhân tự chủ được hô hấp. có thể dùng ống thông qua mũi để cung cấp ôxy, hoặc cho thở bằng mạt nạ ôxy. Nếu như không tự chủ được hô hấp, cần sử dụng máy hô hấp. Cung cấp ôxy liên tục cho bệnh nhân giúp ho cải thiện được tình trạng thiếu ôxy của cơ thể, giảm được thiệt hại ở trung ương thần kinh do hiện tượng thiếu ôxy gây ra. Đồng thời làm tăng khả năng phân giải Carbon trong Hemoglobin, làm cho CO trong cơ thể nhanh chóng bài tiết ra ngoài. Nếu tim ngừng đập, cần lập tức tiến hành cách mát xa ngoài lồng ngực, đặt bệnh nhân nằm ngửa trên tấm phản hay nền nhà, người cấp cứu dùng bàn tay ép xương ngực bệnh nhân, tay bệnh nhân đưa kéo ra gập vào, lợi dụng sức nặng của cơ thể và cánh tay, ấn thẳng xuống thật mạnh theo nhịp đều, làm thẳng vào phía nửa dưới cách 3 đến 4 cm, khi ấn xong lại nhả ra đột ngột, để ngực trở lại vị trí cũ, bàn tay đàn hồi về nguyên vị trí cũ, tiếp tục ấn liên tục mỗi phút 60 đến 80 lần. Có thể duy trì cách làm này liên tục với lượng tuần hoàn máu hạn chế, nếu phương pháp này có hiệu quả tốt thì có thể thấy các động mạch ở cổ hoạt động, huyết áp có thể duy trì ở 60 ml thủy ngân trở lên. Thông qua việc xoa bóp, nhằm mục đích tim sẽ đập trở lại. Trong tình trạng tim ngừng đập, khi hô hấp có thể tiêm thêm thuốc trợ tim. Có thể dùng mũi kim dài 5 đến 7 mm, chọc xuyên vào chỗ sát trùng dưới da, mép bên trái khoang liên sườn thứ 4, rồi tiêm trực tiếp vào tim liên tục 3 mũi. Làm như vậy có tác dụng giúp tim hồi phục, tăng cường sức co bóp của cơ tim, điều chỉnh sự bất thường cho tim đập bình thường, từ đó duy trì lượng tuần hoàn có hiệu quả. Sau khi hô hấp và tuần hoàn của bệnh nhân cơ bản đã hồi phục, nhanh chóng đưa đến bệnh viện trung tâm để làm các bước cấp cứu tiếp theo.

Dùng ôxy để điều trị ngộ độc khí than

Vấn đề chủ yếu của ngộ độc khí than là thiếu ôxy ở thần kinh não. Thiếu ôxy ở não sẽ gây ra phù não, tụt não, gây nguy hiểm cho tính mạng. Ngoài ra còn gây ra một loạt các di chứng về thần kinh, nhũn não. Do vậy việc kịp thời đưa ôxy vào trong các bộ phận của cơ thể là điều mấu chốt trong điều trị bệnh này.

Việc kịp thời truyền ôxy cho người bệnh có hai tác dụng: (1) Việc truyền ôxy cho bệnh nhân giống như cá gặp được nước, có thể nhanh chóng giải quyết được trạng thái thiếu ôxy của các bộ phận, tránh xảy ra các biến chứng khác do bị thiếu ôxy. (2) Có thể phân giải được Carbon trong Hemoglobin đã hình thành trong cơ thể, làm cho CO trong cơ thể nhanh chóng được thải ra ngoài. Như đã nói ở trên, khí CO tác dụng với Hemoglobin sẽ hình thành nên Carbọn trong Hemoglobin, chúng kết hợp với nhau rất chặt chẽ, khí phân tách ra; nhưng trong điều kiện đầy đủ ôxy, sẽ làm cho áp lực ôxy ở tế bào phổi tăng cao, làm cho Carbon ở Hemoglobin bị tách ra, hình thành nên hợp chất oxy kết hợp với Hemoglobin mà cơ thể cần. Phương pháp tiếp ôxy thì rất nhiều. Khi đưa người bệnh đến bệnh viện, nếu phát hiện bệnh nhân đã có cắm ông thông ở mũi, thì đó được gọi là cấp ôxy qua ống thông vào mũi. Đây là phương pháp thông thường để cung cấp đủ lượng ôxy cho bệnh nhân. Nhưng đối với các ca ngộ độc khí than nặng, thì còn lâu mới đạt được yêu cầu về hiệu quả điều trị bệnh, cần phải có hai điều kiện tiên quyết là cung cấp đủ lượng ôxy, hai là ôxy phải có đầy đủ áp lực. Lượng ôxy đưa vào qua ống thông mũi không quá 30%. Y học hiện đại đã chứng minh, nếu như được cung cấp đầy đủ lượng ôxy, sẽ cho hiệu quả rõ rệt. Nó có thể làm cho lượng ôxy hòa tan trong máu tăng lên, cải thiện sự chuyển hóa tế bào thần kinh, làm gia tăng tốc độ phân tích Carbon trong Hemoglobin, giảm được các di chứng.

Hiện nay các thiết bị để cấp cứu loại bệnh này lực cao đã được các bệnh viện ở các thành phố lớn trang bị “phòng ôxy cao áp”. Trong căn phòng này ôxy được cung cấp đầy đủ, dưới áp lực lớn, từ 1,5 đến 1,8 khí ép phụ. Nếu như người bệnh bị ngộ độc khí than cấp tính, có thể phải sớm đưa vào phòng này để điều trị ngay bằng ôxy, thông thường sẽ tỉnh lại sau 2 đến 3 giờ. Công tác nghiên cứu đã chứng minh, dưới tác dụng của ôxy cao áp, lượng ôxy trong máu sẽ tăng cao rõ rệt. Nếu dưới khí áp lớn, bình thường hít vào không khí tươi mát, thì lượng ôxy hòa tan trong 100 ml máu là 0,31 ml. Nếu khi hít ôxy nguyên chất trong hai trường hợp khí áp lớn thì lượng ôxy hòa tan trong 100 ml máu là 0,31 ml. Nếu trong môi trường hai khí áp lớn hít vào lượng ôxy thuần túy, thì lượng ôxy hòa tan trọng 100 ml máu là 4 ml tương đương đã tăng lên 13 lần, Nếu khi có ba khí áp lớn thì có thể tăng lên tới 6 ml, tương đương mức tăng 19,3 lần. Oxy áp lực cao còn có tác dụng phân giải Carbon trong Hemoglobin, với công hiệu là cực kỳ rõ rệt, trong môi trường hít vào ôxy nguyên chất dưới áp lực khí lớn có phụ gia 2 thì tỷ lệ CO bị tiêu trừ cao hơn, so với ôxy cao áp thường là nhanh gấp 2 đến 2,5 lần, nhanh hơn cao áp không khí là 7 lần. Thở ôxy áp lực cao có phụ gia 2 trong 10 phút, khí Cácbon trong Hemoglobin sẽ giảm từ 66,5% xuống 33,2%. Nếu thở ôxy trong 60 phút sẽ giảm xuống là 3,2%. Có thể thấy rõ hiệu quả điều trị khá lý tưởng. Điều trị bằng ôxy áp lực cao và hiệu quả điều trị như vậy, thì tại sao lại không dùng ôxy áp lực cao để điều trị? Bởi vì khả năng con người chịu đựng được áp lực của ôxy là có hạn, dùng áp lực quá cao cũng đem lại rất nhiều nguy hiểm. Dùng ôxy quá nhiều cũng có thể gây ngộ độc ôxy, bệnh nhân có thể bị viêm phổi, tức ngực, ho khan, phổi xuất hiện âm ảnh, v.v… Cũng có thể có ngộ độc ôxy dạng thần kinh, biểu hiện là toàn thân co giật, cơ bắp giần giật giống như động kinh, cũng có thể bị viêm tai giữa, hoặc viêm xoang mũi; còn có thể xảy ra bệnh giảm áp, tức là bệnh mà do người bệnh đang thở trong môi trường áp lực cao, do sự giảm áp quá nhanh đã gây ra bệnh, bệnh nhân còn cảm giác thấy da bị ngứa hoặc nóng rát, cơ bắp toàn thân, các khớp xương bị đau nhức, thậm chí tuỷ sống còn bị tổn thương, bị tê liệt từng chỗ, rồi hôn mê, v.v… Do vậy, khi điều trị bằng ôxy không thể tăng áp lực ôxy một cách không hạn chế.

Người như thế nào thì thích hợp với việc điều trị bằng ôxy áp lực cao, người bị ngộ độc khí than liệu có chữa khỏi được không? Thông thường, với những người bị ngộ độc nặng, thậm chí bị ngừng thở, tim ngừng đập, hôn mê sâu trong thời gian dài, lượng Carbon trong Hemoglobin cao cũng thích hợp với việc điều trị bằng ôxy áp lực cao. Đương nhiên càng được điều trị sớm thì sẽ càng cho hiệu quả tốt. Điều trị người bị ngộ độc trong vòng 30 giờ cho hiệu quả tốt, ngược lại sẽ cho hiệu quả không mỹ mãn. Đối với những người không được điều trị triệt để, có thể tái phát các triệu chứng có di chứng về tinh thần và thần kinh. Bệnh tình không vượt quá nửa năm, có thể thử điều trị bằng ôxy áp lực cao, nhưng hiệu quả cũng kém hơn cách điều trị trên.

Điều trị phù não và thoát vị não do ngộ độc khí than

Sớm điều trị phù não và đề phòng xảy ra thoát vị não là vấn đề cực kỳ quan trọng trong việc điều trị ngộ độc khí than. Để giải quyết vấn đề này, ngoài cách điều trị bằng ôxy như đã kể trên, vẫn còn có một số cách làm như sau:

  1. Điều trị bằng Adrenalin với liều lượng lớn: như Decadron (Detxamethasone) 5 đến 10 mg/lần, ngày chia 2 đến 3 lần tiêm chậm vào tĩnh mạch. Cũng có thể dùng Hydrocortisone mỗi ngày 200 đến 400 mg, tiêm tĩnh mạch, loại thuốc này có thể giúp tế bào thần kinh não giảm phù, giảm bớt thẩm thấu vào huyết quản, sẽ giảm nhẹ phù thũng não, nên cần điều trị sớm.
  2. Dùng thuốc lợi tiểu, mất nước: Dùng thuốc có độ thẩm thấu cao tiêm vào trong máu, nhằm nâng cao sự thẩm thấu trong huyết tương, làm cho thủy phần trong tủy não quá nhiều có thể di chuyển tuần hoàn theo máu lại bài tiết ra ngoài cơ thể, từ đó giảm nhẹ phù não, giảm áp lực ở sọ não. Thuốc hay được dùng là Mannitol 20%, liều lượng là 1 đến 2 g trên 1 kg thể trọng/lần. Truyền thuốc từ từ qua tĩnh mạch, sau 15 đến 20 phút truyền xong thuốc. Sau 4 đến 6 giờ tiêm tiếp tục như vậy. Sau khi dùng thuốc này lượng nước tiểu sẽ tăng lên rõ rệt, áp lực sọ não giảm, dùng thuốc sau 2 đến 3 tiếng sẽ đạt điểm thấp nhất, có thể duy trì dùng thuốc liên tục trong 6 giờ. Đối với các thuốc chống mất nước khác như Sorbitol và Urê lượng dùng và cách dùng giống như Mannitol. Urê thường dùng dung dịch 30%, lượng dùng và cách dùng cũng giống như Mannitol, song loại thuốc này chẳng qua cũng nhằm chuyển hóa chất lòng trắng trứng. Sau khi dùng thuốc sẽ làm cho chất có Nitơ trong cơ thể tăng cao, rất nguy hiểm đối với người bị bệnh thận. Ngoài ra sau khi sử dụng, thuốc này còn có thể có hiện tượng máu không đông và “dội ngược”. Cái gọi là hiện tượng “dội ngược” là chỉ sau khi dùng thuốc, áp lực ở sọ não giảm rõ rệt, nhưng nếu khi ngừng dùng thuốc, lại thấy áp lực ở sọ não tăng lên rõ rệt. Do các nguyên nhân kể trên, nên khi sử dụng thuốc này cần hết sức cẩn thận. Khi cùng đồng thời sử dụng thuốc mất nước, tốt nhất nên dùng thêm thuốc lợi tiểu, lợi dụng tác dụng của thuốc lợi tiểu để thải phần nước trong cơ thể ra, gián tiếp làm cho não mất nước.

Thông thường dùng Sodium lợi tiểu mỗi lần 25 đến 50 mg, tiêm tĩnh mạch.

  1. Hạn chế lượng dung dịch đưa vào cơ thể: Nếu như người bệnh không ở tình trạng hoàn toàn bị mất nước, thì mỗi ngày lượng dung dịch đưa vào và bài tiết ra tối thiểu cũng phải duy trì ở mức cân bằng, thậm chí đạt mức cân bằng âm, tức là lượng “xuất” nhiều hơn lượng “nhập”. Lượng nước nhập vào cơ thể cần ít hơn lượng xuất ra là 500 ml đến 1000 ml là được. Thông thường thì lượng nước nhập vào cơ thể trung bình hàng ngày là 1500 đến 2000 ml là đủ.

Điều trị ngộ độc khí than bằng biện pháp ngủ đông và ở nhiệt độ thấp

Liệu pháp nhiệt độ thấp là chỉ dùng phương pháp để hạ thấp nhiệt độ cơ thể. Nhiệt độ cơ thể của người bình thường là 37°c. Khi người bị ngộ độc khí than, thì nhiệt độ có thể tăng lên 39°c đến 40°c. Liệu pháp là nhằm giảm nhiệt độ cơ thể tới 35°c, thậm chí khoảng 32°c. Giảm nhiệt độ cơ thể xuống có lợi gì? Mọi người đều biết rằng, tỷ lệ chuyển hóa ở người, đặc biệt là tỷ lệ chuyển hóa ở não tỷ lệ thuận với nhiệt độ của cơ thể, nhiệt độ cơ thể càng cao thì chuyển hóa càng nhanh, lượng ôxy tiêu hao trong chuyển hóa càng lớn. Do vậy có thể thấy, sau khi hạ nhiệt độ cơ thể thì cơ thể hạ thấp tỷ lệ chuyển hóa ở não giảm được lượng ôxy tiêu hao ở tế bào não. Qua nghiên cứu đã chứng minh, mỗi khi nhiệt độ cơ thể giảm lnc, thì tỷ lệ chuyển hóa ở não giảm 6 đến 7%, áp lực ở sọ não có thể giảm 5,5%. Khi nhiệt độ cơ thể xuống ở 32°c, chuyển hóa ở tổ chức của não giảm có thể khoảng 50%, lượng tiêu hao ôxy ở tim khoảng 80% là bình thường, lượng thải ở tim ra khoảng 75% là bình thường. Khi bị ngộ độc khí than, hàm lượng ôxy trong máu giảm xuống cực thấp, tế bào thần kinh não rơi vào trạng thái thiếu ôxy, như nhiệt độ cơ thể quá cao, các chuyển hóa quá cao, lượng tiêu hao ôxy quá lớn, thì thần kinh não bị tổn thương sẽ càng nặng. Cho nên liệu pháp giảm nhiệt độ có thể là cách giải quyết rất tốt. Giống như thời kỳ ngủ đông của động vật, nhu cầu về ôxy của chúng rất thấp, thậm chí không cần ăn, nhưng vẫn có thể duy trì sự sinh tồn trong thời gian dài. Một người trong trạng thái thiếu ôxy hoặc sau khi thiếu ôxy, đặc biệt đối với những bệnh nhân đã từng bị ngừng hô hấp, sau khi trải qua hồi sức cấp cứu đã tự thở được, rất dễ xảy ra phù não. Trong tình trạng đó, biện pháp cấp cứu tốt nhất là nên làm giảm nhiệt độ cơ thể, đặc biệt là làm giảm nhiệt độ ở sọ não. Phương pháp thông thường là dùng khăn lạnh hoặc gối bằng túi nước đá, hoặc bao lạnh đắp lên trán. Ngoài ra còn có thể hạ nhiệt độ toàn thân, dùng cồn xoa vào toàn thân, chỗ các mạch máu lớn ở toàn thân như cổ, nách, bụng để túi lạnh vào, v.v.., để làm giảm nhiệt độ xuống. Phương pháp này thỉnh thoảng có thể duy trì liên tục từ 3 đến 5 ngày, cần căn cứ vào bệnh tình cụ thể để định ra. Có cần phải hạn chế việc làm giảm nhiệt độ cơ thể không? Liệu có thể hạ nhiệt độ cơ thể xuống dưới 320C không? Không được. Khi nhiệt độ cơ thể xuống quá thấp cũng xảy ra nguy hiểm, khi nhiệt độ cơ thể xuống dưới 300C có thể xảy ra co giật các dây ở tâm thất, tiếp theo là tim ngừng đập, dẫn đến tử vong.

Liệu pháp ngủ đông là gì? Liệu pháp ngủ đông là dùng thuốc để cho người bệnh ngủ. Tác dụng của biện pháp này là làm cho bệnh nhân giữ được nhiệt độ thấp của cơ thể, duy trì tốt tuần hoàn máu, đề phòng được chứng phản ứng rét run khi hạ nhiệt độ cơ thể. Thuốc ngủ đông phần nhiều là thuốc ngăn cản thần kinh thực vật trong cơ thể người, nó có thể cắt đứt phản ứng rét run sau khi người bệnh bị lạnh, làm cho các mạch máu nhỏ mở rộng, như vậy cũng có tác dụng giúp cho tỏa nhiệt và hạ nhiệt độ cơ thể. Thuốc ngủ đông còn có thể làm cho động mạch nhỏ cơ bắp không căng ra, giúp giảm được ách tắc ở động mạch nhỏ, làm cho máu trong nội tạng được lưu thông dễ hơn, bảo đảm cho các bộ phận thực hiện đầy đủ chức năng của mình. Các loại thuốc ngủ đông thường dùng là Chlorpromazine Wintermine. Liều dùng cho người lớn mỗi lần là 50 mg, tiêm tĩnh mạch. Căn cứ vào tình hình lâm sàng của bệnh để điều chỉnh lượng dùng, tiếp tục tiêm. Đồng thời với việc dùng thuốc cần theo dõi chặt chẽ sự thay đổi về hô hấp, mạch đập và huyết áp. Có một số người bệnh có hiện tượng tụt huyết áp, hô hấp không đều.

Phải chăng liệu pháp ngủ đông và hạ nhiệt độ cơ thể đều có thể áp dụng cho tất cả các ca ngộ độc khí than? Liệu pháp ngủ đông và hạ nhiệt độ cơ thể chỉ thích hợp với người bị ngộ độc khí than nặng, đặc biệt là hợp với những bệnh nhân bị phù não. Dựa vào kinh nghiệm, hai liệu pháp trên cũng thích hợp với những bệnh nhân có các hiện tượng như mặt xám ngoét, môi thâm, huyết áp tụt, tay chân lạnh, máu tuần hoàn yếu hoặc rất bồn chồn, tay chân co giật, sốt cao, hôn mê, v.v…

Uống dấm và ăn canh chua có giải được độc khí than không?

Các phương pháp này là không có căn cứ khoa học, trên thực tế điều trị cũng không có hiệu quả. Khi bị ngộ độc khí than chủ yếu là không được giải quyết được vấn đề căn bản do Carbon Hemoglobin được hình thành trong máu, ảnh hưởng đến việc cung cấp ôxy, lại thêm vào acid, ngược lại đem theo kết quả không tốt trong điều trị.

Thuốc đông y có chữa trị được ngộ độc khí than không?

Y dược học là một kho ngọc vô cùng quý giá. Có vô số sự thực đã chứng minh, thuốc đông y chữa trị ngộ độc khí than rất hiệu quả. Khi có các hiện tượng như đau đầu, chóng mặt, ù tai, hoa mắt, hồi hộp, thở hổn hển, hôn mê bất tỉnh, nóng sốt không có mồ hôi, đờm dãi liên tục, mặt đỏ như đánh phấn, môi đỏ như son, răng cắn chặt lại, cổ cứng đỏ, mạch nhỏ nhanh, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô, tim, gan, phổi bị tổn thương do ngộ độc khí than. Phương pháp điều trị là thanh nhiệt giải độc, bổ âm, mát tim. Nên dùng các thuốc như Tô hợp hương hoàn, Thập hương phản sinh đan, Cục phương chí bảo, v.v… Đồng thời cũng có thể sử dụng Ngọc nữ tiến, Thanh doanh thang, uống Sa sâm mạch đông gia giảm, v.v… Các thuốc thường dùng như Mẫu đơn bì, Thanh đại, Tê giác, Lá tre, Sinh thạch cao, Xích thược, Huyền sâm, Mạch đông, Sinh địa hoàng, Sa sâm, Thạch hộc, Đảng sâm, Đan sâm, v.v… Khi bị hôn mê bất tỉnh có thể thêm Xương bồ, Viễn chí, Táo nhân, Phù tiểu mạch, Xuyên bối, Câu đằng, Trân châu mẫn, Bạch cương tàm, Sinh thạch quyết, V.V… Khi bị co giật, thêm Toàn yết, Rết, Kê huyết đằng, Uất kim, v.v… cần căn cứ vào bệnh tình cụ thể mà chọn dùng các loại thuốc khác nhau điều trị cho thích hợp.

Điều trị tổng hợp về ngộ độc khí than

Khi bị ngộ độc khí than cấp tính thì trong cấp cứu y tế hoặc trong nội khoa là một triệu chứng khá phức tạp. Nguyên nhân là: (1) Bệnh này do thiếu ôxy nên đã gây tổn thương hệ thần kinh, trực tiếp uy hiếp đến tính mạng. (2) Kèm theo nhiều triệu chứng, dường như liên can tới nhiều chứng bệnh nguy hiểm trong nội khoa như tim ngừng đập, không thở, phù não, khí thũng phổi, sốc, ngộ độc acid, rối loạn chất điện giải, viêm nhiễm, loạn nhịp tim. (3) Để lại nhiều di chứng ở hệ thần kinh, nên khi xử lý không thể chỉ điều trị đơn lẻ được, mà phải quan tâm đến nhiều mặt, áp dụng các phương pháp điều trị tổng hợp, còn phải nắm bắt các khâu trung tâm, giải quyết các mâu thuẫn chủ yếu. Các bác sỹ phải dựa vào sự phát triển của các biểu hiện lâm sàng, nắm bắt các vấn đề có thể xảy ra để kịp thời giải quyết. Một số chứng bệnh kèm theo khi phát bệnh sẽ trở thành mâu thuẫn chủ yếu, như ngộ độc acid, rối loạn chất điện giải, loạn nhịp tim, bị sốc, v.v… đều dẫn đến tử vong, do vậy cần kịp thời chữa trị ngay. Khi người bị ngộ độc khí than rơi vào tình trạng hôn mê, do thiếu dinh dưỡng, thiếu ôxy… nên sức đề kháng của cơ thể giảm rõ rệt; có khi còn có thể bị sặc các thứ nôn ra vào khí quản, nên rất dễ gây ra viêm nhiễm đường hô hấp. Khi bị ngộ độc khí than nặng, nếu như còn bị hôn mê trong nhiều ngày, thì hiện tượng phổ biến là thường có kèm theo viêm phổi. Do vậy với những bệnh nhân ấy cần cho dùng kháng sinh để chống viêm nhiễm.

Để bảo vệ tế bào thần kinh não, bảo vệ và khôi phục chức năng của một số cơ quan nội tạng, thì một số thuốc giàu dinh dưỡng và tăng năng lượng cho tế bào là điều rất cần thiết. Như Vitamin B1, B12, Vitamin C, thuốc loại Nucleic acid, Adenosine Triphosphate và sắc tố C, … Các loại thuốc này đều rất có ích cho bệnh nhân loại này. Nhiều bác sỹ đều chủ trương truyền máu tươi cho những bệnh nhân nặng rất có ích cho công tác điều trị. Bởi vì khi khí than vào cơ thể, nhanh chóng kết hợp với Hemoglobin trong hồng cầu trở thành Hemoglobin Carbon, làm mất khả năng nhận ôxy, gây ra thiếu ôxy.

Nếu như được truyền máu tươi từ ngoài vào, chính lượng máu này sẽ mang theo khá nhiều ôxy vào cơ thể. Giống như nắng hạn gặp mưa rào, lượng khí này làm tươi mát trở lại các cơ quan trong cơ thể, làm cho chúng hồi phục sức sống trở lại, như vậy không chỉ giảm được tỷ lệ tử vong, mà còn giảm được các di chứng về thần kinh.

Cho bệnh nhân uống thuốc hồi sức, có thể làm cho bệnh nhân sớm tỉnh lại, phương pháp này liệu có đúng không? Cần xem xét tình hình cụ thể, nếu dùng liều lượng lớn thuốc hồi sức chưa chắc đã có lợi cho bệnh nhân. Thuốc kích thích hồi sức có thể làm gia tăng sự chuyển hóa tế bào, tăng thêm lượng ôxy cần thiết. Nếu như bệnh nhân đang ở trạng thái hôn mê sâu mà cho dùng quá nhiều thuốc hồi sức sẽ chẳng có lợi gì, còn gây tác hại lớn. Nó sẽ gia tăng tiêu hao ôxy ở não, làm cho não phù nặng hơn gây nguy hiểm cho tính mạng. Mâu thuẫn chủ yếu ở giai đoạn này không phải làm cho bệnh nhân tỉnh táo, mà ngược lại cần có biện pháp hạ thấp sự chuyển hóa, làm giảm lượng tiêu hao ôxy như hạ nhiệt độ, ngủ đông… Sau khi bệnh nhân trải qua thời kỳ phù não, tình hình thường phát triển theo hướng hồi phục nhưng tâm thần vẫn lơ mơ. Lúc này có thể dùng thuốc kích thích hồi sức như Meclofenoxate và Antiradon có tác dụng xúi thúc đẩy, khuấy động lên.

Những điều cần biết về thời gian uống thuốc

Uống thuốc hợp lý có quan hệ rất lớn đến việc chữa khỏi bệnh tật. uống thuốc đúng vào lúc thích hợp sẽ có lợi lớn trong việc phát huy đầy đủ hiệu quả của thuốc. Thực tiễn nghiên cứu và lâm sàng đều phát hiện: Uống thuốc vào đúng lúc cần thiết nhất thường sẽ thu được hiệu quả hết sức bất ngờ, chỉ cần một lượng thuốc vừa đủ thôi nếu uống vào đúng thời điểm lí tưởng thì hiệu quả của thuốc sẽ tăng lên nhiều.

Thuốc tây
Thuốc tây

UỐNG THUỐC ĐÔNG Y

Mỗi khi cho đơn thuốc, thầy thuốc thường yêu cầu người bệnh uống ngày 1 thang chia 2 lần sớm và tối. Như vậy chủ yếu có xét đến việc giữ gìn nồng độ thuốc nhất định ở trong cơ thể. Thực tế, căn cứ vào nơi bị mắc bệnh trên cơ thể, tác dụng của thuốc và nhịp điệu, qui luật của khí huyết lưu thông trong phủ tạng của con người có khác nhau mà thời gian uống thuốc cũng có những chỗ khác nhau. Chính vì thế, các nhà y học Trung Quốc đã đề ra 3 nguyên tắc trong uống thuốc Đông y như sau:

  1. Căn cứ vào chỗ, vào bộ phận mắc bệnh để chọn thời điểm uống thuốc: Do sau khi uống thuốc phải kinh qua trung tiêu tì vị mới có thể đến tới chỗ bị bệnh. Trên mặt điều trị sẽ phải căn cứ vào vị trí trên dưới, cao thấp khác nhau để áp dụng uống thuốc trước khi ăn cơm hay sau khi ăn cơm. Nếu bệnh ở ngũ quan, ở khoang ngực thì phải uống thuốc lúc ăn cơm, như vậy dược lực sẽ di động đến chỗ bị bệnh tiếp cận ở trên. Nếu bệnh ở bụng, ở ruột, ở bàng quang thì phải uống thuốc xong mới ăn cơm, như vậy dược lực sẽ phải chìm lắng xuống dưới và tiếp cận với chỗ bị bệnh ở phía dưới.
  2. Căn cứ vào tác dụng của thuốc để chọn thời điểm uống thuốc: Tác dụng của thuốc có thăng trầm, chìm nổi khác nhau. Đông y trị bệnh lại được tiến hành dưới sự chỉ dẫn của “Nhân thể quan tự nhiên”, cho nên trong một ngày, tùy theo sự biến hóa của tự nhiên như lúc mặt trời mọc, lúc mặt trời lặn, mà việc uống thuốc cũng có yêu cầu nhất định. Ví dụ như sáng sớm thì cần uống những loại thuốc bổ thận, thuốc hành thủy lợi thấp, thuốc gây nôn. Trước buổi trưa cần phải uống thuốc phát tán mồ hôi ra ngoài; sau buổi trưa hoặc buổi tối thì cần phải uống thuốc tiêu chảy và các loại thuốc tẩm bổ âm huyết. Trước khi đi ngủ thì uống thuốc an thần.
  3. Căn cứ vào dòng chảy của khí huyết để chọn giờ uống thuốc: Đông y lấy qui luật dòng chảy của khí huyết trong lục phủ ngũ tạng để tính là 12 tạng phối hợp với 12 giờ trong một ngày. Ở một thời gian nào đó (khoảng 2 giờ đồng hồ), lưu hành khí huyết đến thời điểm của tạng nào thì công năng của tạng đó là cường thịnh nhất. Lúc đó là thích hợp nhất với việc chữa trị thực chứng (tức bệnh khí phát có các triệu chứng sốt, không có mồ hôi, khó đại tiện, đầy v.v…) của tạng đó, dùng biện pháp cho chảy nhanh. Nếu như đứa trẻ bản tính nóng nảy, hấp tấp, bị chứng chảy máu cam, thì tức là thuộc về can nhiệt. Việc chữa trị cần phải chọn đúng vào giờ sửu là giờ khí huyết của can tạng thịnh vượng, lúc đó uống thuốc tả can (giải thoát gan), sau 12 giờ, công năng của gan cường thịnh nhất lại là thời điểm công năng của tạng này hư suy nhất, lúc này lại thích hợp với chữa trị chứng hư của tạng này, dùng phương pháp bổ. Nếu thuốc bổ thận thì phần lớn là phải uống sau lúc 12 giờ cho đến giờ dậu là giờ chính của thận.

DÙNG THUỐC TÂY

Đông y đề xướng chọn giờ uống thuốc, Tây y cũng không ngoài lệ thường đó. Đã từ rất lâu nay, trên lâm sàng đều dưới tiền đề bảo đảm chữa trị bằng thuốc, áp dụng biện pháp khống chế lượng thuốc để hạ thấp tác dụng phụ độc hại. Hầu như đơn thuốc nào, bác sĩ cũng đều ghi uống “ngày 3 lần” như vậy là đều có mục đích cả. Trong thực tế khi uống thuốc nếu không xét đến việc giữ nồng độ thuốc nhất định trong cơ thể, thì sẽ tạo nên sự biến động về nồng độ huyết dược quá lớn, tất nhiên ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị. Như các loại thuốc Penicillin, Terramycin, nếu không theo 6 giờ uống một lần, sự gián cách về thời gian uống thuốc không đều nhau thì sẽ không đạt được mục đích giữ lâu nồng độ huyết dược trong thời gian nhất định, ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị bệnh. Lại như Gentamycin tiêm bắp là 80.000 đơn vị, mỗi ngày tiêm 2 lần, nếu thời gian gián cách không đảm bảo 12 giờ, như vậy thời gian duy trì trị số cao nhất của huyết dược trong phạm vi thời gian tốt nhất (từ 4 đến 8 micrôgam trên ml tức 4-8 pg/ml) mà ngắn, thời gian duy trì trị số cao nhất của huyết dược thấp hơn nồng độ hữu hiệu 2 pg/ml (2 micrôgam/ml) lại quá dài thì như vậy sẽ không thể nào đạt được hiệu quả điều trị bệnh như mong muốn được.

Thang điểm thân não Pittsburgh

Khái quát: thang điểm thân não Pittsburgh được sử dụng để đánh giá các phản xạ thân não ở bệnh nhân hôn mê.

Phản xạ thân não Dấu hiệu Điểm
Phản xạ mi mắt Có ít nhất 1 bên 2
Mất cả 2 bên 1
Phản xạ giác mạc Có ít nhất 1 bên 2
Mất cả 2 bên 1
Mát búp bê Có ít nhất 1 bên 2
Mất cả 2 bên 1
Phản xạ của đồng tử bên (P) với ánh sáng Có phản xạ 2
Mất 1
Phản xạ của đồng tử bên (T) với ánh sáng Có phản xạ 2
Mất 1
Phản xạ rặn , ho Có phản xạ 2
Mất 1

Điểm thân não Pittsburgh được tính bằng tổng điểm các phản xạ cộng lại

Ý nghĩa:

  • Điểm thấp nhất: 6 điểm
  • Điểm cao nhất: 12 điểm
  • Điểm càng cao, tiên lượng càng tốt.
  • Thang điểm thân não Pittsburgh có thể được thêm vào thang điểm Glasgow tạo thành một thang điểm phối hợp, khi đó điểm của thang điểm từ 9-27 điểm.

Công thức đánh giá:

Dữ liệu Nhập
Bạn đang đánh giá bệnh nhân có nguy cơ bị hôn mê? (Có hay Không)
Phản xạ có mi mắt ở bên trái? (Có hay Không)
Phản xạ có ở mi mắt bên phải? (Có hay Không)
Phản xạ giác mạc bên trái? (Có hay Không)
Phản xạ giác mạc bên phải? (Có hay Không)
Mắt búp bê có ờ bên trái? (Có hay Không)
Mắt búp bê có ở bên phải? (Có hay Không)
Đồng tử trái đáp ứng ánh sáng? (Có hay Không)
Đồng tử phải đáp ứng ánh sáng? (Cỏ hay Không)
Có phản xạ rặn? (Có hay Không)
Có phản xạ ho? (Có hay Không)

Đánh dẫu “x” vào ô trống thích hợp cho mỗi câu hỏi (mỗi dòng chỉ đưa 1 câu trả lời)

Tuân lệnh Định khu Co chi Phản xạ bất thường Duỗi cứng Không đáp ứng
Đáp ứng vận động
Định hướng Lộn xộn Từ không thích hợp Âm thanh khó hiểu Không có đáp ứng
Tự nhiên Đáp ứng lời nói Kích thích đau Không đáp ứng
Mở mắt

Tính                                                    Kết quả

Hoàn thành dữ liệu ——————————

Đánh giá phù hợp                     —————–

Điểm Pittsburgh                        —————– trên tổng điểm 12 (thấp nhất 6 điểm)

Điểm Glasgow                           —————– trên tổng điểm 15 (thấp nhất 3 điểm)

Điểm phối hợp                          —————– trên tổng 27 (thấp nhất 9 điểm)

Ưu năng tuyến cận giáp thứ phát

Định nghĩa

Ưu năng tuyến cận giáp kèm theo những tổn thương ở xương, xảy ra thứ phát do giảm calci huyết mạn tính ở những bệnh nhân suy thận.

Căn nguyên: nguyên nhân của ưu năng tuyến cận giáp thứ phát là tình trạng giảm calci huyết mạn tính ở bệnh nhân suy thận (ưu năng tuyến cận giáp thứ phát gặp ở 5-30% số bệnh nhân thẩm phân máu mạn tính), và trong hội chứng kém hấp thu, tuy hiếm hơn.

Ưu năng tuyến cận giáp cấp ba: sau khi giảm calci huyết là nguyên nhân khởi đầu của ưu năng tuyến cận giáp mất đi, thì ưu năng tuyến cận giáp vẫn tiếp tục tồn tại một cách tự động.

Giải phẫu bệnh: Tăng sản hoặc u tuyến cận giáp lành tính.

Triệu chứng

  • Ớ người lớn: những rối loạn về xương cũng giống như rối loạn xảy ra trong trường hợp ưu năng tuyến cận giáp nguyên phát.
  • Ở trẻ em: có thể thấy bệnh cảnh lâm sàng của bệnh còi xương do thận, hoặc chứng lùn do thận, loạn dưỡng xương do thận, bệnh xương xơ-hang do thận, loạn sản xương do thận, hoặc viêm xương lan tràn do thận (xem: hội chứng Albright).

Xét nghiệm cận lâm sàng: hàm lượng hormon tuyến cận giáp trong huyết tương cao. Những kết quả khác phụ thuộc vào bệnh gốc (bệnh chính gây ưu năng tuyến cận giáp).

Calci huyết thấp hoặc bình thường trong trường hợp suy thận. Phospho huyết tăng rõ rệt.

Chẩn đoán phân biệt: điều quan trọng là phải phân biệt ưu năng tuyến cận giáp nguyên phát với thứ phát, vì biện pháp điều trị của hai trường hợp là khác nhau. Thể thứ phát, tổn thương thận xảy ra trước những rối loạn chuyển hoá calci và phospho. Còn thể nguyên phát tổn thương thận lại là hậu quả của tăng calci huyết và tăng calci niệu.

Điều trị

Hạn chế những thực phẩm hoặc nước uống có phospho, hấp thu đủ calci. Cho vitamin D (ví dụ calcitriol 0,24-0,50 pg mỗi ngày), đồng thời theo dõi calci huyết và phospho huyết, cắt bỏ tuyến cận giáp trong trường hợp viêm xương xơ hoá với tăng phosphatase kiềm rõ rệt. Điều trị nguyên nhân.

Phác đồ điều trị Loãng xương

Loãng xương là một hội chứng với đặc điểm sức bền của xương bị suy giảm dẫn đến gia tăng nguy cơ gãy xương. Sức bền của xương phản ánh sự kết hợp của mật độ xương – chất khoáng trong xương và chất lượng xương.

I. Chẩn đoán loãng xương

1.   Lâm sàng

a- Biểu hiện lâm sàng:

  • Đau mỏi mơ hồ ở cột sống , đau dọc các xương dài, đau mỏi cơ bắp, ớn lạnh, hay bị chuột rút các cơ
  • Đau thực sự cột sống, đau khi ngồi lâu. Có thể đau mãn tính hoặc cấp tính sau chấn thương
    • Đầy bụng chậm tiêu, nặng ngực khó thở
  • Gù lưng, giảm chiều cao
b- Biến chứng của loãng xương:
  • Đau kéo dài do chèn ép thần kinh
  • Gù vẹo cột sống, biến dạng lồng ngực…
  • Gãy xương cổ tay, gãy lún đốt sống, gãy cổ xương đùi
  • Giảm khả năng vận động

2.   Cận lâm sàng

  • Chụp X quang xương
  • Đo mật độ khoáng xương (BMD)
  • Xét nghiệm:

Máu: Osteocalcin, alkaline phosphatase Nước tiểu: Deoxy lysyl pyridinoline

* Tiêu chuẩn chẩn đoán loảng xương do WHO 1994:

 Chẩn đoán                                                              Tiêu chuẩn

Bình thường- Normal                                                T > -1

Thiếu Xương- Osteopenia                                       -2.5 < T < -1.1

Loãng xương- Osteoporosis                                       T < -2.5

Loãng xương nghiêm trọng (severe osteoporosis)             Loãng xương + Tiền sử gãy xương gần đây

*   Chỉ định đo mật độ xương cho phụ nữ theo NOF đề nghị:

1/ Tất cả phụ nữ sau mãn kinh, dưới 65 tuổi và có một trong những yếu tố nguy cơ :

Tiền sử gãy xương ở sau tuổi 30.

Có thân nhân từng bị gãy xương (cha mẹ, anh chị em).

Người da trắng

Cao tuổi

Phụ nữ # 46 tuổi.

Mất trí nhớ (dementia).

Sức khỏe yếu

Hút thuốc lá.

Trọng lượng thấp ( <56 Kg).

Thiếu nội tiết tố nữ: mãn kinh sớm( trước 45 tuổi hay do phẩu thuật), thời gian tiền mãn kinh (kéo dài hơn 5 năm).

Thiếu canxi

Nghiện bia rượu   Suy yếu thị lực   Hay bị té ngã

Thiếu vận động cơ thể.

2/ Tất cả phụ nữ 65 tuổi trở lên.

3/ Phụ nữ sau mãn kinh với tiền sử gãy xương.

4/ Phụ nữ muốn được điều trị phòng chống loãng xương và nếu xét nghiệm MĐX cho thấy họ có MĐX thấp.

5/ Phụ nữ đã từng được điều trị bằng liệu pháp thay thế hormon trong một thời gian dài hơn 10 năm.

II/ ĐIỀU TRỊ:

  • Thay đổi các thói quen xấu và nếp sống.
  • Điều chỉnh sự thiếu canxi và sinh tố D:
  • Lượng calci cần dùng 1000 – 1200mg/ngày.
  • Lượng sinh tố D tối thiểu 400UI/ngày.
  • Các thuốc chống hủy xương:
– Nhóm hormon và các thuốc giống hormon

Estrogen Replacement 0.625 mg uống/ngày Raloxifen 60 mg/uống/ngày

– Nhóm Bisphosphonates

Alendronat: 10 mg uống/ngày hoặc 70 mg uống/tuần Risedronat: 5mg uống/ngày hoặc 35mg uống/tuần

  • Điều trị giảm đau theo bảng hướng dẫn sử dụng thuốc giảm đau của WHO

* Đối tượng cần điều trị:

Theo Tổ chức loãng xương Hoa Kỳ (NOF):

Nếu chỉ số T của mật độ xương trên (-1): không cần điều trị.

Nếu T nằm trong khoảng (-1) đến (-2.4) có gãy xương thì nên điều trị.   Nếu T dưới (-2.5) : cần điều trị.

Nữ thời kỳ sau mãn kinh hơn 20 năm.   Nữ trên 75 tuổi.

Xem thêm: Bệnh Loãng xương – triệu chứng và điều trị

Bệnh do Brucella – triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Tên khác: bệnh nhiễm melitococcus, sốt đảo Malta, sốt Bang, sốt kiểu làn sóng Địa Trung Hải, sốt ra mồ hôi-đau.

Định nghĩa

Là bệnh ở động vật được truyền ngẫu nhiên sang người, tác nhân gây bệnh là nhiều loài brucella khác nhau; bệnh có đặc điểm là có một pha (thời kỳ) cấp tính thể hiện bởi sốt gián cách không đều, và trong những đợt sốt nối tiếp nhau bệnh nhân bị suy nhược, ra mồ hôi nhiều, những đợt sốt nối tiếp này bị ngắt quãng bởi những thời kỳ lui bệnh trong vài tuần.

Căn nguyên

Mầm gây bệnh là những vi khuẩn thuộc loài Brucella. Những loài gây bệnh ở người đều có hình thái như nhau, nhưng chúng gây bệnh cho các loài động vật khác nhau. Trực khuẩn Brucella hình que (dài 1 pm), thường ký sinh nội tế bào (bên trong tế bào), nằm riêng rẽ từng cá thê hoặc thành từng đôi, không di động, Gram âm, ái khí tuyệt đối. Trực khuẩn này bị huỷ diệt ở nhiệt độ cao và có thể tồn tại từ 4-10 tuần trong nước canh thịt (thịt dê) trong phân bón và trong nước. Người ta phân biệt các loài sau:

Brucella melitensis (typ sinh học 1-3): gây bệnh cho dê và cừu, lây truyền sang người thông qua các sản phẩm của sữa. Gây ra sốt đảo Malta hoặc bệnh nhiễm melitococcus; bệnh này phát thành dịch địa phương ở vùng bò biển Địa Trung Hải.

Brucella abortus (typ sinh học 1- 4): gây bệnh ở bò (bò cái, ngựa cái); trực khuẩn gây ra dịch xảy thai ở những động vật này. Có thể lây truyền sang người và gây ra sốt Bang, là một dịch địa phương ở châu Âu.

Brucella suis (typ sinh học 1-4): gây bệnh ở lợn và loài gặm nhấm, có thể lây truyền sang người và gây ra sốt kiểu làn sóng, hay gặp ở châu Mỹ.

Những loài khác hiếm khi lây truyền sang người: gồm có Brucella canis, gây bệnh ở chó; B. rangiferi gây bệnh ở loài tuần lộc (hươu) ở Alaska và ở Sibêri.

Nguồn dự trữ brucella trong tự nhiên là động vật, trực khuẩn thường cư trú trong tuyến vú và trong tử cung đang mang thai của những động vật này. Người mắc bệnh brucella là do uống sữa không đun sôi hoặc ăn thực phẩm bị nhiễm trực khuẩn, hoặc do tiếp xúc trực tiếp nhân lúc da có vết xước với các động vật mang trực khuẩn, hoặc với chất chế tiết và bài tiết của chúng (sữa, nước tiểu). Trong trường hợp nhiễm trực khuẩn do tiếp xúc, thì có thể xuất hiện một vết săng nhiễm ở da. Bệnh Brucella mang tính nghề nghiệp ở các bác sỹ thú y, người chăn nuôi gia súc, người vắt sữa và người bán thịt. Lầy nhiễm trong phòng thí nghiệm cũng có thể xảy ra.

Dịch tễ học: bệnh Brucella có thể gặp ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở vùng bò biển Địa Trung Hải (ở nước Pháp, hàng năm có khoảng 100 trường hợp được khai báo, trong đó 30% là do nhiễm trực khuẩn từ thực phẩm, và 70% là do tiếp xúc nghề nghiệp), ở châu Âu, Trung – Á , Mêhicô, và Nam Mỹ. Nam giới mắc bệnh với tần suất nhiều hơn gấp 6 lần so với nữ giới. Bệnh hiếm thấy ở trẻ em và nếu có thì cũng không điển hình. Bệnh Brucella xảy ra nhiều hơn vào giữa tháng 10 và tháng 5 hàng năm (là mùa cừu đẻ). Bệnh nhân đã khỏi có thể mắc bệnh lại.

Giải phẫu bệnh: khi mầm bệnh xâm nhập vào trong cơ thể, mới đầu chúng tối các hạch bạch huyết. Nhiễm trực khuẩn có thể kết thúc ở đây, hoặc diễn biến mang tính chất của vãng khuẩn huyết với sự hình thành những ở nhiễm khuẩn thứ phát ở lách, gan, tuỷ xương. Tổn thương mang đặc tính của một u hạt giống với tổn thương lao, nhưng không bã đậu hoá.

Triệu chứng

THỜI KỲ ủ BỆNH: từ 5 đến 21 ngày.

SỞ NHIỄM Ở HẠCH BẠCH HUYẾT: thời gian đầu bệnh thường âm ỉ, với những tiền triệu không rõ rệt kèm theo tăng thân nhiệt về buổi chiều. Đôi khi sốt kiểu làn sóng, với những đợt sóng thân nhiệt tăng cao tới 39- 40°c tiếp nối nhau trong 10 đến 20 ngày, giữa các đợt đó sốt dịu đi, nhưng không thật sự hết sốt. Bệnh nhân thường bị đau, ra mồ hôi nhiều, nhất là về ban đêm (do đó có tên gọi “sốt ra mồ hôi-đau”). Tình trạng toàn thân vẫn duy trì tốt, nhưng mệt nhiều. Thường thấy gan to và/hoặc lách to vừa phải. Một nửa số bệnh nhân bệnh Brucella bị sưng nhiều hạch bạch huyết. Trong trường hợp không được điều trị, thì bệnh nhân có thể bị sốt lại từ 3 đến 6 cơn, cơn nọ tiếp sau cơn kia. Cũng có những thể nhẹ, bệnh nhân vẫn đi lại bình thường.

THỜI KỲ TRỰC KHUẨN LAN TRÀN GÂY NHIỄM KHUẨN HUYẾT: với sốt cao kiểu cao nguyên, rét run, bệnh nhân rơi vào trạng thái li bì và mê sảng.

THỜI KỲ THỨ BA VỚI KHU TRÚ NỘI TẠNG:

Khu trú thần kinh: ngoài trạng thái loạn trương lực thần kinh thực vật và giảm thính lực vì bệnh tác động tới dây thần kinh sọ số VIII, có thể thấy xuất hiện viêm màng não tương tự như lao màng não. Hiếm thấy những thể viêm não hoặc viêm dây thần kinh.

Xét nghiệm dịch não tuỷ thấy có phản ứng màng não với nồng độ albumin và những yếu tố tế bào tăng nhiều.

Khu trú xương khớp: với biểu hiện từ đau khốp đơn thuần đến viêm xương khốp khu trú. Có thề gặp những trường hợp bệnh tác động đến một khớp hoặc đa khớp và tối cột sống (gây ra viêm đốt sống đĩa đệm, viêm khốp cùng chậu, bệnh Pott do melitococcus).

Khu trú ở các tuyến: có thể viêm tinh hoàn làm bệnh nhân rất đau nhưng khỏi hoàn toàn hoặc viêm tuyến vú, nhưng hiếm gặp.

Khu trú ở cơ quan hô hấp: gây ra viêm phế quản, viêm màng phổi kiểu như lao.

Khu trú tim mạch: gây ra viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn bán cấp.

Khu trú ở gan: gây ra viêm gan ít nhiều rõ rệt, đôi khi có vàng da, ban xuất huyết, xuất huyết, cổ chướng (báng nước).

Khu trú ở lách: gây ra apxe lách.

NHỮNG THỂ MẠN TÍNH: với các triệu chứng: chán ăn, táo bón, mất ngủ, bất lực, trầm cảm tâm thần. Có những thể mạn tính kéo dài hàng năm mà không biểu hiện triệu chứng đặc biệt nào.

ở phụ nữ đang mang thai, bệnh Brucella không gây xảy thai nhiều hơn, so với những nhiễm khuẩn khác.

Xét nghiệm cận lâm sàng

Huyết đồ: giảm bạch cầu thường thấy trong giai đoạn cấp tính, nhưng tăng tương đối tế bào lympho và bạch cầu đơn nhân. Thiếu máu ít nhiều rõ rệt.

Xét nghiệm tìm Brucella: xét nghiệm bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang trực tiếp với huyết thanh đặc hiệu những bệnh phẩm như: máu, dịch chọc hút từ các hạch bạch huyết, dich não tuỷ, dịch khớp. Đây là phương pháp chẩn đoán nhanh.

Cấy máu và cấy tuỷ xương: hay có kết quả dương tính nhưng •không phải lúc nào cũng dương tính trong thời kỳ vãng khuẩn huyết ở giai đoạn đầu tiên của bệnh, hoặc trong các đợt sốt lại. Cấy vi khuẩn thường mọc chậm (sau 12-60 ngày). Có thể cấy các bệnh phẩm như dịch chọc hút từ hạch bạch huyết, dịch não tuỷ, và nước tiểu.

Các test huyết thanh: (không cho phép phân biệt được giữa các loài gây bệnh khác nhau).

+ Chẩn đoán huyết thanh của Wright: Kể từ ngày thứ 10 sau khi bệnh khởi phát, thì hiệu giá ngưng kết cao hơn 1/80 là có ý nghĩa. Nếu trong vòng 1-4 tuần mà hiệu giá tăng lên gấp 4 lần, thì đó là dấu hiệu nhiễm khuẩn cấp tính. Hiệu giá ngưng kết cao có thể còn duy trì một thồi gian dài sau khi đã khỏi bệnh. Phản ứng có thể âm tính trong những trường hợp nhiễm khuẩn khu trú. Kết quả dương tính giả với hiệu giá tương đối thấp đã thấy trong những trường hợp bệnh tularemia và nhiễm trực khuẩn Yersinia enterocolitica.

+ “Test Card” (Card test): là test định tính, thực hiện trên phiến kính dùng để điều tra phát hiện.

+ “Test kìm hãm” (Blocking test): là test tìm những kháng thể kìm hãm (không gây ngưng kết), kết quả có thể dương tính trong những trường hợp bệnh Brucella mạn tính.

+ Phản ứng lệch hướng bổ thể (dương tính kể từ ngày thứ 20-25).

+ Các phản ứng huyết thanh khác: gồm có: test miễn dịch huỳnh quang gián tiếp, test ngưng kết hồng cầu thụ động (có ích trong những thể mạn tính), định lượng phóng xạ miễn dịch ELISA.

Phản ứng nội bì với melitin: dương tính kể từ tuần lễ thứ 3. Phản ứng không có giá trị chẩn đoán, nhưng nếu kết quả âm tính thì có thể loại trừ được trường hợp bệnh brucella cũ, mạn tính hoặc đã khỏi.

Chẩn đoán dựa vào:

Hoàn cảnh lây nhiễm qua thực phẩm (sử dụng sữa, phó-mát tươi), hoặc lây nhiễm nghề nghiệp (làm nghề thú y, lao động trang trại).

Bệnh khởi phát âm ỉ với cảm giác khó ở, nhức đầu, đôi khi đau khớp.

Sốt kiểu làn sóng ít nhiều rõ rệt, ra mồ hôi nhiều.

Sưng hạch bạch huyết, lách to. Tăng tế bào lympho trong máu.

Chẩn đoán xác định nhờ cấy máu dương tính và hiệu giá ngưng kết tăng.

Chẩn đoán phản biệt (xác định bởi

các xét nghiệm cận lâm sàng) với:

Sốt thương hàn: bệnh nhân bị mệt lử (thiểu lực) nhiều hơn, ban màu hồng.

Bệnh cúm: khởi phát đột ngột, hội chứng phổi rõ rệt, diễn biến nhanh hơn.

Lao phổi: phát hiện trực khuẩn lao trong dòm, chụp X quang phổi thấy tổn thương lao đặc hiệu.

Bệnh sốt rét: xét nghiệm thấy ký sinh trùng trong máu và đáp ứng với thuốc đặc trị.

Các loại sốt nhiễm khuẩn khác: bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn, bệnh Hodgkin thể bụng, bệnh viêm nội tâm mạc bán cấp, bệnh thấp khớp cấp.

Tiên lượng: tỷ lệ tử vong không vượt quá 2%. với những thể cấp tính, được điều trị và không có biến chứng, thì bệnh nhân khỏi bệnh sau

3 tuần, trong khi diễn biến tự nhiên (không được điều trị) kéo dài từ 3-6 tháng hoặc lâu hơn nữa. Có khoảng 5% số bệnh nhân bị tái phát sau khi được điều trị khỏi bệnh. Có những thể mạn tính diễn biến trong nhiều năm. Đối với người già, bệnh nguy hiểm là do biến chứng.

Điều trị

ĐIỀU TRỊ TOÀN THÂN: nghỉ tại giường trong thời kỳ có sốt và sốt nhẹ, chỉ cho corticoid trong trường hợp bệnh nhân bị nhiễm độc-nhiễm khuẩn nặng.

ĐIỀU TRỊ ĐẶC HIỆU: rifampicin (900 mg uống vào buổi sáng) cộng thêm doxycyclin (200 mg uống vào buổi chiều), liệu trình kéo dài ít nhất 6 tuần (nếu là thể khu trú trong nội tạng thì liệu trình là 6 tháng). Có thể thay thế rifampicin bằng Streptomycin (1 g mỗi ngày, tiêm bắp). Cũng có thể dùng Sulfamethoxazol + trimethoprim, nhưng những thuốc này chỉ có hiệu quả nếu điều trị sớm.

Đối với những thể mạn tính có phản ứng dị ứng, người ta đề xuất thực hiện biện pháp giải mẫn cảm bằng cho tiêm melitin với những liều tăng dần.

Phòng bệnh: bệnh do Brucella bắt buộc phải khai báo y tế. Vì sữa bò và nhất là sữa dê là nguồn lây nhiễm chính, nên biện pháp phòng bệnh chủ yếu là diệt khuẩn sữa bằng phương pháp Pasteur, và tiêm chủng vaccin cho động vật dễ bị lầy nhiễm. Khi tiêm loại vaccin dành cho người (PI Merieux) cho những công nhân viên làm nghề có nguy cơ lây nhiễm thường hay gây phản ứng (do đó tuốc khi tiêm chủng vaccin phải làm test bì).

Hướng dẫn Trang điểm môi, mũi đẹp quyến rũ

Trang điểm làn môi

Đối với các bạn làm công tác nghệ thuật, phục vụ khách sạn quốc tế, phiên dịch thường phải giao dịch với khách nước ngoài cần tô điểm làn môi. Trước hết, nếu có điều kiện bạn nên chọn dùng các loại son môi cho thích hợp. Bạn có làn da trắng muốt nên tô son môi màu hồng thẫm hoặc màu hồng tươi. Bạn có làn da hồng hào, trắng trẻo nên tô son môi màu hồng nhạt hoặc hồng vàng nhạt.

Bạn có màu da trắng ngả vàng nên dùng loại đỏ trung bình.

Bạn có màu da xanh tái có thể dùng son môi màu hồng tím hay hồng thẫm. Bạn có màu da xám hay chì nên dùng màu đỏ hoặc đỏ đậm.

Bạn có màu da nâu bánh mật nên dùng màu nâu hồng.

Bạn có màu da đen hoặc ngăm đen nên dùng màu đỏ thường.

Tô son phải tùy theo lứa tuổi: nếu còn trẻ nên dùng màu tươi, nếu đã có tuổi nên dùng các loại màu đậm đà hơn. Trong những buổi liên hoan, tiệc tùng hoặc biểu diễn trên sân khấu có ánh đèn pha sáng chói nên tô môi thẫm hơn nếu không môi sẽ bị ánh sáng chói làm nhợt nhạt đi.

Son môi có nhiều loại. Thường dùng nhất là những thỏi son đóng trong ống tròn có bọc nhựa hoặc kim loại có nắp. Đầu thỏi son thường thuôn và hơi bẹt. Son môi tốt, có chất lượng là loại mềm vừa, óng ả, khi tô không đóng cục và dính sát vào niêm mạc môi.

Ngoài ra, còn có loại son môi ướt, đựng trong lọ, cần dùng bút lông để vẽ tô lên môi.

Trang điểm môi dày
Trang điểm môi dày

Khi bắt đầu tô môi nên dùng một ít Po- mát thường xoa nhẹ nhàng khắp làn môi cho niêm mạc môi ướt dịu, mềm đều. Sau đó dùng một khăn mỏng, mềm lau đi (khi tô môi bao giờ cũng cần chuẩn bị sẵn một chiếc khăn mỏng mềm để có thể lau đi và tô theo ý mình thích).

Muốn tô môi tốt, nhất là khi chưa quen, bạn nên dùng bút chì tô trước, sau đó cầm thỏi son thoa đều mỏng lên khắp làn môi trong khung vẽ sẵn, thỉnh thoảng nhếch nhẹ miệng cho niêm mạc môi căng nhẹ và mím nhẹ hai môi nhằm làm dàn đều son môi vào các kẽ nhăn của niêm mạc môi. Nếu có chỗ chưa đều hoặc dày quá thì dùng giấy mỏng mịn thấm nhẹ ra.

Làn môi đẹp phải bóng và mịn.

Trang điểm môi quá mỏng
Trang điểm môi quá mỏng

Cách tô môi để khắc phục nhược điểm của môi (xem hình).

Có thể dùng son môi để khắc phục một số nhược điểm của môi. Nếu tô khéo, các bạn vẫn có một làn môi đẹp mặc dù môi bạn quá rộng, quá dày hay quá nhỏ.

 Cách trang điểm làn môi
Cách trang điểm làn môi

 Cách trang điểm làn môi

a) Nếu môi dày        

b) Nếu môi trên dày

c) Nếu môi dưới dày

d) Nếu môi rủ xuống

e) Nếu môi quá mỏng

Nếu môi mỏng quá: bạn có thể dùng chì tô ngoài khóe môi một chút và phía vành môi trên.

Nếu môi bạn quá to thì có thể kẻ khung môi hẹp hơn, có đường giới hạn trong khung vành mép…

Kỹ thuật trang điểm mũi:

Đánh phấn ở mũi cũng như đánh phấn ở da mặt, cần lưu ý là da ở mũi thường nhờn nên phải dùng loại kem khô hơn để bôi mũi trước khi đánh phấn.

Trường hợp chân mũi hơi rộng và thân mũi hơi bè nên dùng phấn thẫm màu đánh hai bên dọc thân mũi.

Nếu mũi hơi dài, dùng phấn má hồng thấm đậm hơn nơi chóp mũi.

Nếu mũi gồ ghề không nhẵn nên dùng kem loại khô bôi lên một lớp đều trên các chỗ lõm ở thân và cánh mũi rồi mới thoa phấn.

Muốn mũi cao thì hai bên sống mũi thoa phấn sậm, tránh vẽ một lằn trắng như các diễn viên cải lương.

Nhung hươu

LỘC NHUNG

Tên khác:

Ban long châu (Đạm Liêu Phương), Hoàng mao nhung, Huyết nhung, Quan lộc nhung, Huyết nhung, huyết phiến, đại đỉnh phấn..

Tên khoa học: Cornus cervi Parvum. Họ khoa học:

Họ Hươu (Cervidae).

Nguồn gốc:

Đây là sừng non, chưa bị xương hoá và mọc lông nhung dầy đặc của con đực loài hươu sao hoặc hươu ngựa thuộc loài động vật họ hươu. Nhung hươu sao gọi là “hoa lộc nhung, nhung hươu ngựa gọi là “mã lộc nhung”. Hoa lộc nhung sản xuất chủ yếu ở Cát Lâm, Liêu Ninh v.v… hươu sao ngày nay chủ yếu là hươu nuôi; mã lộc nhung sản xuất chủ yếu ở Cát Lâm, Hắc Long Giang, Nội Mông, Tân Cương, Thanh Hải và Tứ Xuyên v.v… Sừng hươu là sừng con đực đã phát triển thành sừng xương hoá. Sừng hươu cho nước vào ninh thành keo, cô đặc lại, làm lạnh cho cứng, thái ra từng miếng để khô, gọi là lộc giác giao (keo sừng hươu). Bã sừng còn lại sau khi rút keo sừng hươu (lộc giác giao) ra, gọi là “lộc giác sương*’. Dương vật và tinh hoàn hươu gọi là lộc thận (cũng gọi là lộc tiên). Máu hươu khô gọi là lộc huyết.

Lộc nhung
Lộc nhung

Phân biệt tính chất, đặc điểm:

  • Hoa lộc nhung (nhung hươu sao): Là sừng non của con hươu sao, chia ra làm 2 loại, gọi là “cứ nhung’ và “khảm nhung’.

Cứ nhung (nhung cưa). Có hình trụ tròn, phần lớn có từ 1 đến 2 nhánh, vỏ ngoài màu nâu đỏ hoặc màu gụ, có lớp lông nhung màu vàng đỏ hoặc màu vàng gụ dày đặc, thể nhẹ, mặt cưa trắng toát, mặt cắt có hình tổ ong nhỏ xíu, chung quanh bên ngoài không có chất xương. Mùi hôi tanh, vị hơi mặn.

Khảm nhung (Nhung chặt). Tức là nhung có dính cả xương sọ, phía trước xương sọ bằng phẳng, phía sau có một đôi xương hình vòng cung, xương sọ trắng toát, không có thịt sót lại, bên ngoài có da đầu, trên da có lớp lông nhung dầy đặc.

Hoa lộc nhung loại nào to, nhánh chính tròn, đầu mút mập, chất non, lông nhỏ, da màu nâu đỏ, trơn bóng có ánh quang là loại tốt.

  • Mã lộc nhung (nhung hươu ngựa): Là sừng non của loài hươu ngựa hình dáng thô, to hơn so với nhung hươu sao, phân nhánh khá nhiều, da màu đen xám, lông màu xám xanh hoặc màu vàng xám, thô mà thưa, phía ngoài chỗ miệng cưa có chất xương, mùi tanh, hôi, vị mặn. Loại nào nhung mập, thể nhẹ, phía dưới không có sợi suốt, mặt cắt lỗ chỗ tổ ong, lông màu be xám là loại tốt.

Bảo quản:

Vì hàm chứa chất albumin khá nhiều nên nhung hươu rất dễ bị mọt. Phương pháp bảo quản thông thường là nghiền cây tế tân thành bột, pha chế thành hồ, bôi vào các vết nứt, chỗ cưa nhung và chung quanh, sau đó sấy khô, đựng trong hộp gỗ, cùng cất giữ với tế tân, hoa tiêu.

Bào chế:

Sừng hươu, nai (chỉ có hươu đực, nai đực mới cho sừng) chia làm hai giai đoạn: sừng non và sừng già.

Sừng non của hươu gọi là nhung hươu hoặc lộc nhung (hoa lộc nhung là sừng non của hươu sao). Sừng non của nai là nhung nai hay mê nhung. Sừng non khi mới mọc là đoạn ngắn chưa phân nhánh, chất mềm, phủ đầy lông nhung mịn, màu vàng hồng hoặc vàng nâu, có rất nhiều mạch máu, gọi là huyết nhung (loại nhung quý nhất). Sau 2 – 3 tháng, sừng non nhú ra một nhánh (hay chạc) gọi là nhung yên ngựa. Một con hươu sao đực, khoảng 3 tuổi trở lên, mỗi năm cung cấp một cặp nhung nặng khoảng 700g tươi. Nhung của hươu nai săn bắn và nhung của hươu nai nuôi đều được sử dụng. Có người còn cho rằng mê nhung tốt hơn lộc nhung.

Sừng già hay gạc của hươu, nai gọi là lộc giác, sừng của hươu sao là hoa lộc giác. Bộ sừng lúc này phân nhánh đối xứng, mỗi bên có 2 – 4 chạc dài ngắn không đều, cong hướng về phía trước, độ to và dày giảm dần từ gổc đến ngọn, chất cứng chắc, nhẵn bóng, có những đường khía dọc màu nâu vàng. Hàng năm, sừng rụng vào mùa hạ do hươu, nai tự cọ vào cây. Người ta thu nhặt sừng này và sử dụng như sừng săn bắn được. Sừng rụng còn đế tốt hơn sừng không còn đế. Hươu, nai còn sống hoặc vừa săn bắn được cho sừng có chất lượng tốt hơn vì còn dính liền với xương đầu, gọi là nhung liên tảng.

Nhiều bộ phận khác của hươu, nai đôi khi cũng được dùng như thịt, huyết, chân và gân, đuôi, quả cật.

– Cách chế biến nhung hươu, nai:

Nhung hươu, nai thu hoạch được (nếu là nhung hươu, nai nuôi thì cưa chứ không chặt) đem đặt ngược trong vật đựng để máu bên trong sừng không chảy ra. Lấy cát rang nóng vừa phải (nóng quá làm nhung bị nứt, kém phẩm chất) rồi đổ vào nhung cho ngập đến sát mặt cắt. Khi cát nguội, đổ ra, rang tiếp rồi lại đổ vào nhung. Làm nhiều lần đến khi nhung khô thì thôi. Thời gian mất khoảng 2 – 3 ngày. Có thể dùng phương pháp sấy nhung ở nhiệt dộ 70 – 80°c trong nhiều giờ cho khô. Có nơi, người lại ngâm nhung vào nước sôi (chừa mặt cắt) trong 2 – 3 phút (lần đầu), vớt ra để nguội, ngâm tiếp nước sôi khoảng 5 – 6 phút (những lần sau) đến khi nhung rắn chắc lại, rồi phơi hoặc sấy khô.

Nhung hươu, nai phải được chế biến ngay, để tránh bị thối hỏng nếu để lâu. Khi dùng, tẩm nhung vào rượu cho mềm, thái mỏng, sấy khô, tán bột. Đựng bột trong hộp kín, có chất hút ẩm, chống sâu mọt.

– Cách chế biến cao ban long và lộc giác sương:

Luộc sừng (gạc) bằng nước phèn 1% trong 10-15 phút, cạo hoặc đánh rửa bằng bàn chải sắt cho sạch hết lớp đen vàng bám bên ngoài, đến khi sừng trắng ra. Cưa sừng ra từng khúc dài 5 – 6 cm, rồi chẻ thành những bản mỏng, rửa sạch, nếu còn tủy thì cạo sạch, rồi phơi thật khô. Sau đó, xếp sừng đã chẻ nhỏ vào thùng nhôm, ở giữa đặt một rọ tre để múc dịch chiết ra. Đổ nước cho ngập dược liệu chừng 10 cm. Đun sôi liên tục trong 24 giờ, nếu cạn nước cho thêm nước sôi vào, luôn giữ mức nước cho ngập sừng. Múc nước chiết lần thứ nhất, đem cô riêng, tiếp tục thêm nước sôi và đun sôi 24 giờ nữa.

Múc nước chiết lần thứ hai, cô riêng. Tiếp tục làm lần thứ ba. Khi nước chiết lần cuối cô gần được thì dồn số cao của hai lần trước vào đánh đều, cô tiếp đến khi được cao đặc. ĐỔ cao vào khay đã bôi dầu lạc hay mỡ lợn cho khỏi dính. Để nguội, cắt thành bánh. Ta được cao ban long hoặc lộc giác cao.

Lộc giác sương lại được chế bằng cách đốt sừng hươu, nai cho đen lại, tán nhỏ hoặc dùng bã sừng đã nấu cao ban long, tẩm với mật rồi sao vàng, tán bột.

Thành phần hóa học:

Trong Lộc nhung có đến 25 loại Acid Amin, Calci Phosphat, Calci Carborat, chất keo, Oestrogen, Testosteron và 26 loại nguyên tố vi lượng như Cu, Fe, Zn, Mg, Cr, Br, Coban, Kiềm… (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).

+ Pavelenco (Liên xô) lấy từ nhung các loại hươu nai ở Xiberi 1 số chất nội tiết gọi là ‘Lộc Nhung Tinh’ (Pantocrin), rồi chế thành thuốc uống hoặc tiêm mang tên Pantocrin (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).

+ Glycine, Lysine, Arginine, Aspartic acid, Glutamic acid, Proline, Alanine, Leucine (Phạm Ngọc Lâm, Trung Thảo Dược Thông Báo 1979, (8): 4).

+ Cholesteryl myristate, Cholesteryl oleate, Cholesteryl palmitate, Cholesteryl stearate, p-Hydroxybenzaldehyde, Cholesterol, Cholest-5-en-3b-ol-7-one (Hattori M và cộng sự, Sinh Dược Học Tạp Chí [Nhật Ban] 1989, 43 (2): 173).

+ Sphingomyelin, Ganglioside (Phan Lân Sĩ, Phúc Kiến Y Dược Tạp Chí, 1980, 2: 64).

+ Estradiol (Kim Thuận Đơn, Thụ Sản Khoa Học Thực Nghiệm 1979, (4): 24).

Tác dụng dược lý:

+ Báo Y Học Liên Xô tháng 2-1954, Rexetnikova A.D giới thiệu tác dụng của Lộc nhung như sau:

Lộc nhung có tác dụng tốt đối với toàn thân, nâng cao năng lượng công tác, giúp ăn ngủ ngon, bớt mệt mỏi, làm nhanh lành các vết thương, tăng sức lợi niệu, tăng nhu động ruột và bao tử, ảnh hưởng tốt đến việc chuyển hóa các chất Protid và Glucid.

Liều lượng khác nhau của Lộc nhung có tác dụng khác nhau đối với mạch máu tim: liều cao gây hạ huyết áp, biên độ co bóp của tim tăng, tim đập nhanh, lượng huyết do tim phát ra cũng tăng lên.

Tính vị:

+ Vị ngọt, tính ôn (Trung Dược Học).

+ Vị ngọt, mặn, tính ôn (Đông Dược Học Thiết Yếu).

+ Vị ngọt, tính ôn (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Quy kinh:

+ Vào kinh Thận, Can, Tâm và Tâm Bào (Đông Dược Học Thiết Yếu).

+ Vào kinh Can, Thận (Trung Dược Đại Từ Điển).

+ Vào kinh Can, Thân, Tâm, Tâm bào (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Công dụng:

Có công hiệu tráng thận dương, ích tích huyết, cường gân cốt, điều chỉnh, giải độc cho cơ thể. Thích hợp với các bệnh liệt dương, hoạt tính, cùng lãnh không có mang, huyết hư hoa mắt, đau thắt lưng, xương sống, gân cốt mềm yếu, thần kinh mệt mỏi, sợ rét, băng lậu, đới hạ, âm thư bất liễm và trẻ con phát dục không bình thường v.v…

Liều dùng:

Lộc nhung không cho vào thuốc sắc, chỉ tán nhỏ, hòa uống riêng từ 1,2 – 4g.

Những cấm kỵ khi dùng thuốc:

Người nào âm hư dương cang, huyết phân hửu nhiệt, hoặc phổi có đờm nóng và có hoả trong dạ dày kiêng dùng; người nào ngoại cảm phát nhiệt, lưỡi đỏ, tưa lưỡi vàng kiêng không dùng.

Đơn thuốc nhung hươu chữa bệnh:

  • Chữa thổ huyết, nôn ra máu, dạ dày và ruột chảy máu, tử cung xuất huyết, kinh nguyệt nhiều: Cao ban long (4g), bồ hoàng (phấn hoa cỏ nến, 5g), cam thảo (2g). Tất cả sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.
  • Chữa thiếu máu, suy nhược thần kinh, di mộng tinh: Lộc giác sương (260g), thỏ ty tử (260g), hà thủ ô đỏ (260g), cám nếp (260g), hạt sen (130g), ngải cứu (80g), đậu đen (80g), màng mề gà (50g), mộc nhĩ (50g), muối rang (50g), trứng gà (10 quả), mật mía hoặc kẹo mạch nha (520g).

Hà thủ ô, cám nếp, lộc giác sương, màng mề gà sao vàng. Đậu đen sao cháy. Thỏ ty tử và hạt sen sao qua. Mộc nhĩ tẩm giấm, phơi khô. Trứng gà luộc chín, bóc lấy lòng đỏ, sấy khô giòn. Tất cả tán bột, rây mịn, luyện với mật hoặc kẹo mạch nha làm viên bằng hạt ngô. Ngày uống hai lần, mỗi lần 20 viên.

Hoặc lộc giác sương (50g), vỏ hàu sống (mẫu lệ, 50g), trộn đều, tán nhỏ, rây bột, uống mỗi ngày 8 – 16g với nước sắc dây tơ hồng (20g).

  • Chữa suy nhược cơ thể, gầy yếu, kém tiêu, bạch đới: Lộc giác sương (50g, sao với gừng), đậu nành (100g, sao thơm), hạt sen (50g), hạt bí đỏ (50g), vỏ quýt (25g). Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn. Ngày uống 3 – 4 lần, mỗi lần 10g. Có thể làm viên với mật ong mà uống.
  • Chữa ho lâu ngày, nóng ở phổi, khạc ra máu: Lộc giác sương (10g), a giao (10g), linh dương giác (10g), tắc kè (10g). Tất cả tán nhỏ, đổ vào nồi đất cùng với 3 bát nước. Đun nhỏ lửa cho cạn còn nửa bát. Bỏ bã. Thỉnh thoảng nhấp 3 – 4 giọt (Nam dược thần hiệu).
  • Thuốc kích thích sinh dục ở nam giới: Lộc giác sương, thỏ ty tử, sung úy tử, bá tử nhân, ngũ vị tử, nhục thung dung (lượng mỗi thứ bằng nhau), tán bột, uống với rượu, mỗi lần một thìa cà phê sau bữa ăn. Ngày hai lần.

Các bài thuốc bổ dưỡng thường dùng:

Lộc nhung tửu (rượu nhung hươu)

Nhung hươu 6g – Rượu trắng 500ml

Sơn dược 30g

Ngâm 7 ngày sau có thể đem ra dùng được. Uống ngày 2 lần, mỗi lần một cốc nhỏ.

Dùng cho nam giới hư lao tinh suy, liệt dương hoạt tinh, lưng đau gối mỏi, phụ nữ tử cung hàn không có mang, băng lậu, đới hạ v.v…

Lộc nhung phấn (bột nhung hươu)

Nhung hươu 200g, nghiền thành bột mịn. Uống ngày 1 lần, mỗi ngày từ 1 – 3g.

Dùng cho các bệnh tinh suy, huyết thiểu, đầu váng mắt hoa, tai ù, sợ rét, không có sức lực v.v…

Lộc nhung huyết tửu (rượu huyết nhung hươu)

Khi cưa lấy nhung hươu, huyết ở nhung chảy ra hứng ngay lấy, hoà vào rượu trắng, làm thành rượu huyết nhung 20%. Uống, ngày 3 lần, mỗi lần 10ml.

Dùng cho người bị thiếu máu, thể hư.

Lộc nhung đản (nhung hươu trứng gà)

Bột nhung hươu 0,3g – Trứng gà 1 quả

Trứng gà cho nước vừa phải, hoà bột nhung vào trộn đều, hấp chín, cho thêm chút muối cho vừa, uống lúc đói vào buổi sớm. Uống liền trong 15 ngày.

Dùng cho người huyết áp thấp và thể chất hư nhược, tiêu gầy, sợ rét, chân tay lạnh giá, liệt dương, đái đêm nhiều V.V.. Người già không nên uống lâu, đề phòng béo ra và dần tới huyết áp lên cao.

Lộc nhung trùng thảo tửu (rượu nhung hươu – đông trùng hạ thảo)

Nhung hươu 20g – Trùng thảo 90g

Rượu cao lương 1500 ml

Ngâm sau 10 ngày có thể đem ra uống, mỗi lần 10ml, ngày 2 – 3 lần.

Dùng cho người thận dương hư suy, tinh huyết khuy hư dẫn tới đau lưng mỏi gối, không có sức lực, sợ rét, chân tay giá lạnh, nam giới liệt dương không hoạt động tình dục được v.v…

Lộc nhung đồn dương thận (nhung hươu hầm cật dê)

Nhung hươu 5g – Tiểu hồi hương 9g

Thỏ ti tử 15g – Cật dê 1 đôi

Cật dê bổ đôi rửa sạch hầm chung với các vị thuốc cho chín, uống thang, ăn thịt.

Dùng cho người thận hư lưng đau, tăng thêm mệt nhọc khi lao động, liệt dương, xuất tinh sớm, tinh ít, mắt hoa v.v…

Lộc nhung trư bào thang (thang nhung hươu, bong bóng lợn)

Nhung hươu 6g – Sơn dược 30g

Bạch quả nhân 20g – Bong bóng lợn 1 cái

Bong bóng lợn bổ ra rửa sạch. Các vị thuốc giã nát nhét vào trong bóng lợn, khâu miệng, cho vào nồi hầm, cho muối vừa miệng, ăn thuốc, uống thang cùng một lúc.

Dùng cho người thận hư, khí hư loãng và lạnh, lượng nhiều. Sắc mặt u ám, đái loãng và kéo dài, đau ở vùng lưng, bụng dưới đau và lạnh v.v…

Lộc nhung hương cô thái tâm (Nhung hươu, nấm hương, thái tâm) Bột gừng 10g

Thái tâm 300g

Rượu gia vị vừa phải

Muối 5g

Nhung hươu miếng 2g

Nấm hương 200g

Rượu trắng 20ml

Mỡ lợn 75g

Ngọc lan phiến 50g

Mì chính vừa phải

Nước dùng 200ml

Nhung hươu ngâm rượu trắng 2 lần riêng biệt, lấy rượu đó dùng sau. Các miếng nhung còn lại đó để dành trang trí trên bề mặt món ăn sau này. Mỡ lợn cho nóng già, đổ gừng bột vào, đảo lên, rồi cho ngay nấm hương, thái tâm, ngọc lan thái miếng vào đảo qua lên, sau đó cho muối tinh, rượu gia vị, nước dùng và rượu ngâm nhung trên đây, pha chút bột dính vào, đổ lên đĩa, rải các miếng nhung đã ngâm rượu lên trên để trang trí.

Dùng để chữa cho người già cơ thể suy nhược, ốm lâu ngày sinh ra gầy yếu, khí đoản lực khiếm. Không thiết ăn uống, liệt dương, hoạt tinh, lưng đau gối mỏi, tai ù mắt hoa v.v…

Lộc nhung sao giáp ngư (Nhung hươu sào ba ba)

Ba ba 750g – Gia vị vừa phải

Nhung hươu thái miếng 1g

Ba ba giết thịt xong rửa sạch, bóp ma-di cho dậy mùi, cho vào rán trong chảo, mỡ nóng. Khi nào chín vàng thì xúc ra bỏ vào bát, trong chảo còn mỡ, cho gừng, hành, tỏi, hạt tiêu nấu thành món nước chấm, đổ lên trên bát thịt ba ba, cho thêm rượu gia vị, ma di, mì chính, nước luộc gà, đường trắng, nhung hươu, bỏ vào ngăn nồi hấp, hấp chín, lấy ra; chắt hết nước vào nồi đun sôi lên, cho bột dính vào đánh lên cho dính, cho rau thơm vào, đổ lên bát thịt ba ba, ăn thịt, uống thang.

Dùng cho người thận dương hư sinh ra liệt dương, hoạt tinh, tử cung lạnh không có mang, hoặc đau lưng do can thận dương hư, băng huyết, ra khí hư V. V…

Lộc nhung hoàn (viên nhung hươu)

Nhung hươu 30g – Con hà sao 90g

Nhục thung dung 90g – Hạt sen bỏ tâm 150g

Bỏ nhung vào rượu ngâm, rồi đem phơi, sau đó nghiền chung với ba vị thuốc còn lại thành bột luyện với mật làm thành viên. Uống ngày 2 lần, mỗi lần 10g, uống bằng nước sôi ấm.

Dùng cho phụ nữ ra khí hư lâu ngày không khỏi.

Lộc nhung hội dương bình (Thuốc nhung hươu chống lở loét)

Nhung hươu 25g – Hoàng kỳ 150g

Đương qui 60g

Trước hết ngâm nhung vào rượu, sau đó sấy khô, rồi nghiền chung với hoàng kỳ, đương qui thành bột. Uống ngày 2 lần, mỗi lần 5g, uống bằng nước sôi ấm.

Dùng cho người bị lở loét kinh niên, chữa mãi không khỏi.

Lộc nhung bổ huyết hoàn (Viên nhung bổ máu)

Nhung hươu 30g – Long nhãn 500g

Hoàng Kỳ 150g

Nhung hươu đem ngâm rượu gạo, sấy khô, nghiền chung với long nhãn, hoàng kỳ thành bột, cho mật vào luyện thành viên. Uống ngày 2 lần, mỗi lần 10g, bằng nước sôi ấm.

Dùng cho người thiếu máu đau đầu, thể hư sợ lạnh.

Lộc nhưng tráng cốt cao (Cao nhung bổ xương)

Nhung hươu 30g – Hoàng Kỳ 90g

Đương qui 45g – Địa hoàng 100g

Nhân sâm 10g

Keo sừng hươu (đã cho chảy) 60g

Nhung hươu và nhân sâm nghiền thành bột. Địa hoàng, hoàng kỳ, đương qui sắc 3 nước, bỏ bã lấy nước, hoà keo sừng hươu và bột nhung, nhân sâm vào, trộn thêm 1000ml mật ong, luyện nhuyễn thành cao. Uống ngày 2 lần, mỗi lần 1 thìa.

Dùng cho trẻ con phát dục kém, còi xương.

Nam bảo tán (Thuốc bột đàn ông)

Nhung hươu 50g – Hoàng Kỳ 250g

Đương qui 100g – Dâm dương hoắc 250g

Hồng sâm 100g – Bạch thược 250g

Nhung ngâm rượu gạo cho nhuận, sau đem sấy khô, rồi nghiền chung với 5 vị thuốc trên thành bột mịn. uống ngày 2 lần, mỗi lần 5g, với rượu gạo.

Dùng chữa bệnh liệt dương.

Lộc giác giao chúc (Cháo keo sừng hươu)

Keo sừng hươu 6g – Gạo lức 50g

Gạo lức nấu thành cháo, đánh lẩn keo sừng hươu đã cho chảy vào, cho thêm đường trắng vừa phải là dùng được. Uống ngày 2 lần, mỗi lần một bát.

Dùng cho các bệnh can thận dương hư, sợ rét, chân tay lạnh giá, liệt dương v.v…

Lộc giác keo ngưu nãi (Keo sừng hươu sữa bò)

Sữa bò tươi 250ml – Keo sừng hươu 6g

Mật ong vừa phải

Sữa bò đun sôi pha keo sừng hươu đã chảy vào, cho mật ong trộn đều uống. Ngày 1-2 lần.

Dùng cho các bệnh tinh huyết bất túc, thận hư lưng đau, chân tay mỏi mệt, đầu váng mắt hoa, sắc mặt xanh xao v.v…

Lộc thận a giao thang (thang keo da lừa, cật hươu)

Cật hươu 1 bộ – Keo da lừa 50g

Cật hươu cho nước vào nấu keo, trộn đều với keo da lừa uống ngày 2 lần.

Dùng cho phụ nữ huyết hư, lâm đới, lưng đau gối mỏi, không có chửa v.v…

Lộc tiên tửu (Rượu lộc tiên)

Dương vật tinh hoàn hươu 1 bộ

Rượu trắng 500ml

Ngâm 7 ngày sau mang ra uống ngày 2 lần, mỗi lần 1 cốc nhỏ.

Dùng cho người thận dương hư, liệt dương.

Lộc tiên chúc (cháo lộc tiên)

Dương vật tinh hoàn hươu 1 bộ (tức lộc tiên)

Nhục thung dung 60g

Gạo lức 150g

Gạo lức nấu thành cháo, khi nào chín thì cho ‘-‘lộc tiên”, nhục thung dung cùng hành, muối, mì chính cho vừa mà ăn.

Dùng cho người ngũ lao thất thương (xem chú thích trang 64), lưng đau gối nhức, chân tay bải hoải, dương khi hư nhược v.v…

Lộc giác sương tán (Thuốc bột lộc giác sương)

Lộc giác sương (bả sừng hươu nấu keo còn lại) 250g Nghiền thành bột mịn, uống ngày 2 lần, mỗi lần 10g, uống với nước sôi ấm. Chữa bệnh viêm tuyến sữa.

Đan sâm

Huyết sâm, Xích sâm
Huyết sâm, Xích sâm

Tên khoa học:

Dược liệu là rễ đã phơi hoặc sấy khô của cây Đan sâm (Salvia mitiorrhiza Bunge), họ Bạc hà (Lamiaceae).

Tên khác: Huyết sâm, Xích sâm, Huyết căn, Tử đan sâm, sơn sâm, hồng căn.

Mô tả:

Cây: Cây thảo lâu năm, cao chừng 40-80cm; rễ nhỏ dài hình trụ, đường kính 0,5- 1,5cm, màu đỏ nâu (nên còn có tên là Xích sâm, Huyết sâm, Hồng căn). Lá kép mọc đối, thường gồm 3-7 lá chét; lá chét giữa thường lớn hơn, mép lá ch t có răng cưa tù; mặt trên lá chét màu xanh tro, có lông. Hoa mọc thành chùm ở đầu cành, dài 10-15cm, với 6 vòng hoa; mỗi vòng 3-10 hoa, thông thường là 5 hoa, màu đỏ tím nhạt. Tràng hoa 2 môi, môi trên cong hình lưỡi liềm, môi dưới xẻ ba thuỳ; 2 nhị ở môi dưới; bầu có vòi dài. Quả nhỏ, dài 3mm, rộng 1,5mm. Ra hoa tháng 4-6, kết quả tháng 7-9.

Nguồn gốc:

Đây là rễ và thân rễ đan sâm khô thuộc loài thực vật họ Bạc hà . Cây trồng ở Trung Quốc, có trồng ở nước ta. Vị thuốc phải nhập từ Trung Quốc. Sản xuất chủ yếu ở An Huy, Sơn Đông, Giang Tô, Hà Bắc v.v…

Bào chế:

Đan sâm khô, loại bỏ tạp chất và thân sót lại, rửa sạch, ủ mềm, thái lát dày, phơi khô để dùng.

Tửu đan sâm (Chế rượu): Lấy đan sâm đã thái phiến, thêm rượu, trộn đều dược liệu với rượu, đậy kín, để 1 giờ cho ngấm hết rượu, đem sao nhỏ lửa đến khô, lấy ra, để nguội. Cứ 10 kg đan sâm cần 1 lít rượu.

Phân biệt tính chất, đặc điểm:

Thuốc này có dạng thái miếng hoặc sắt khúc không đồng đều nhau. Bề mặt bên ngoài có màu đỏ nâu hoặc gụ tối, sần sùi, có vân nhăn dọc. Miếng thái xếp, có kẽ nứt mà dày đặc, vỏ ngoài hai bên màu đỏ nâu, phần gỗ màu vàng xám hoặc màu be tía, có thể thấy các đường ống dẫn kết thành bó dưới dạng những chấm trắng vàng, xếp với nhau như hình tên bắn, chất cứng mà giòn, mùi nhẹ, vị hơi đắng. Loại nào rễ to, thô, màu hồng tía là loại tốt.

Tác dụng dược lý:

Các dẫn chất có nhóm ceton (tansinon I, tansinon II, tansinon III ) và chất tinh thể màu vàng cryptotanshinon, isocryptotanshinon, methyl-tanshinon. Ngoài ra còn có acid lactic, phenol, vitamin E. Có thể giãn động mạch cơ tim, tăng cường lưu lượng máu, cải thiện sức co bóp của quả tim, điều chỉnh nhịp tim; có thể cải thiện Vi tuần hoàn, nâng cao sức chịu đựng của cơ thế khi phải thiếu oxy; Có thể đẩy mạnh sự phục hồi và tái sinh của các tổ chức tê bào, ức chế sự tăng trưởng của các tẽ bào xơ và sự sinh trưởng của các ung nhọt, có thể hạ thấp lượng đường trong máu, hạ huyết áp, và có tác dụng trân tĩnh trở lại.

Thành phần hoá học:

Các dẫn chất có nhóm ceton (tansinon I, tansinon II, tansinon III ) và chất tinh thể màu vàng cryptotanshinon, isocryptotanshinon, methyl-tanshinon. Ngoài ra còn có acid lactic, phenol, vitamin E.

Tính vị và công hiệu:

Đan sâm tính hơi hàn, vị đắng, lợi về kinh tâm, can, có công hiệu hoạt huyết, làm tan máu tụ, an thần tĩnh tâm, tiêu mủ giảm đau. Phù hợp với các bệnh kinh nguyệt không điều hoà, tắc kinh, có chửa ngoài dạ con, gan lách sưng to, đau thắt cơ tim, buồn bực trong lòng, mất ngủ, các vết thương lở loét mưng mủ V.V….

Công năng: Khứ ứ chỉ thống, hoạt huyết thông kinh, thanh tâm trừ phiền.

Công dụng: Chữa hồi hộp mất ngủ, kinh nguyệt không đều, bế kinh, hạ tiêu kết hòn cục, khớp sưng đau, mụn nhọt sưng tấy.

Bảo quản:

Để nơi dâm mát, đề phòng biến thành độc tố.

Cách dùng, liều lượng:

Ngày 6 – 12g, dạng thuốc sắc.

Bài thuốc:

  1. Chữa kinh nguyệt không đều, động thai, đẻ xong máu hôi không ra hết, đau khớp xương: Dùng Ðan sâm rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô, tán nhỏ, ngày uống 8g chia 3 lần, chiêu thuốc với nước nóng.
  2. Chữa viêm gan mạn tính hoặc sưng gan, đau vùng gan: Dùng Ðan sâm, Cỏ nọc sởi, mỗi vị 20g, sắc uống hàng ngày.
  3. Chữa phong nhiệt, ghẻ lở: Dùng Ðan sâm 20g, Thổ sâm 16g, Sà sàng (hạt) 16g, nấu nước để rửa khi còn nóng.
  4. Chữa tim sưng đau, hoặc điên cuồng, tâm thần hoảng hốt: Dùng Ðan sâm, Mạch môn, Ngưu tất, Sinh địa, mỗi vị 20g, Tâm sen sao, Hoàng liên (hay Dành dành) mỗi vị 8g, sắc uố

Kiêng kỵ:

Không dùng chung với Lê lô. Lê lư (hay lê lô) là loài cây thân cỏ, lá hình trứng tròn, hoa nhỏ màu tím đen, mọc ở vùng núi, là loài cây có độc tố. Đông y lấy làm vị thuốc, có tác dụng kích thích nôn mửa rất mạnh. Một số vị thuốc không được dùng chung với nó, ghi là phản (hoặc chống) lê lư (hay lê lô), kỵ giấm. Người nào ỉa lỏng kiêng dùng, người không bị tụ máu phải thận trọng.

Các bài thuốc bổ dưỡng thường dùng:

Đan sâm trà (trà đan sâm)

Đan sâm 6g, hãm nước sôi, uống thay trà nhiều lần, khi nào loãng quá thì thôi. Ngày uống 1 – 2 lần.

Dùng cho người trong tim phiền muộn, mất ngủ, người có bệnh cơ tim.

Đan sâm tán (thuốc bột đan sâm)

Đan sâm vừa phải, nghiền thành bột mịn, mỗi lần uống 6g với rượu.

Dùng cho người kinh nguyệt không điều hoà, động thai, tụ máu sau khi đẻ…

Đan sâm ngũ vị tử ẩm (thuốc sắc đan sâm ngũ vị tử)

Đan sâm 15g – Ngũ vị tử 3g

Sắc uống. Dùng cho người thần kinh suy nhược, hay quên, mất ngủ…

Đan sâm ích mẫu thảo ẩm (thuốc sắc đan sâm ích mẫu)

Đan sâm 9g – Ích mẫu thảo 9g

Hương phụ tử 9g

Sắc uống. Dùng cho người đau bụng tụ huyết sau khi đẻ, đau bụng do tắc kinh.

Thư can giải uất thang (thang chữa viêm gan)

Đan sâm 15g

Uất kim 15g

Bản lam căn 15g

Nhân trần 25g

Sắc 2 nước trộn lẫn, uống ngày 1 thang chia 2 lần.

Bài thuốc này có tác dụng thư gan hoạt huyết, giải uất trừ thấp.

Dùng cho người viêm gan cấp hoặc mạn tính, đau nhức ở vùng liên sườn.

Khư phong thấp tửu (rượu chống phong thấp)

Đỗ trọng 24g – Đương qui 12g

Đan sâm 15g – Xuyên khung 12g

Độc hoạt 12g – Địa hoàng 12g

Bỏ cả vào túi thuốc bằng vải mỏng, cho rượu ngập túi thuốc ngâm, ít ngày sau mang ra uống ngày 3 lần, mỗi lần 10 – 15ml.

Dùng cho người lưng đau gối mỏi sau khi đẻ, đau suốt từ thắt lưng xuống đùi xuống ống chân, đau gót chân và bứt rứt toàn thân sau khi đẻ.

Đan sâm tán: (thuốc bột đan sâm)

Đan sâm 60g – Thược dược 60g

Bạch chỉ 30g

Nghiền thành bột mịn, trộn thêm hoàng tửu vào, đắp lên chỗ đau, dùng vải băng băng lại. Dùng cho phụ nữ bị u vú, đau đớn nhức nhối.

Trị sán thông phương (bài thuốc chữa sa đì)

Đan sâm 30g – Cau quả 30g

Thanh bì 15g

Nghiền chung thành bột. Uống ngày 2 lần, mỗi lần 5g.

Bài thuốc này hành khí giảm đau, hoạt huyết, làm tan máu tụ. Chủ trị cơ quan sinh dục ngoài bị sa đì hoặc sưng đau nhức nhối.

Đan sâm chúc (cháo đan sâm)

Đan sâm 30g

Gạo nếp 50g

Táo tầu 3 quả

Đường đỏ một ít

Đan sâm đem sắc lấy nước, bỏ bã, cho gạo nếp, táo tàu, đường đỏ vào nấu cháo ăn ngày 2 lần, 10 ngày là một liệu trình.

Dùng cho người tụ máu tắc kinh, kinh nguyệt không điều hoà, sinh nở xong ác lộ không dứt, tích tụ bụng đau v.v… Cũng dùng cả cho người có bệnh cơ tim, cao huyết áp. Nên uống lâu dài.

Đan sâm mật (mật ong đan sâm)

Đan sâm 100g – Mật ong trắng 100ml.

Đan sâm cho 1/2 lít nước sắc lấy 400ml thuốc, cho mật

ong trắng vào làm cao. Uống ngày 2 lần, mỗi lần 20ml.

Dùng cho người khí trệ máu tụ, thời kỳ kinh về sau, lượng ít, sắc xỉn, đau bụng dưới, tắc kinh v.v…

Phúc phương đan sâm mật ẩm (thuốc sắc kép đan sâm mật ong)

Đan sâm 15g – Cam thảo sao 3g

Đàn hương 9g – Mật ong 30g

Đan sâm, đàn hương, cam thảo sắc 2 nước, trộn lẫn, cho mật ong vào đun sôi một lúc nữa. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 20ml.

Dùng cho người loét dạ dày và hành tá tràng, đau âm ỷ trong dạ dày, lúc đói, lúc lao động mệt nhọc thì đau, ăn xong đỡ căng thẳng hơn V.V….

Đan sâm đỗ trọng tửu (rượu đan sâm đỗ trọng)

Đỗ trọng 30g – Xuyên khung 20g

Đan sâm 30g – Giang mễ tửu 750ml.

(rượu gạo nếp)

Ba vị thuốc trên nghiền chung thành bột, ngâm rượu, 5 ngày sau bỏ bã dùng dần. Uống tuỳ thích, không lệ thuộc thời gian.

Dùng cho người bị đau lưng, nhức dọc hai bên đùi.

Đan sâm hoàng tinh trà (trà đan sâm củ dong)

Đan sâm 10g – Hoàng tinh 10g

Chè khô 5g

Nghiền chung thành bột thô, hãm nước sôi 10 phút sau đem uống.

Dùng cho người bị bệnh thiếu máu và bạch cầu bị giảm thiểu.

Quán tâm II hiệu ẩm (thuốc cơ tim độ II)

Đan sâm 30g – Xích thược 15g

Xuyên khung 15g – Hồng hoa 15g

Sắc chung 2 nước, trộn lẫn, uống ngày 1 thang chia 2 lần

Dùng cho người bị bệnh cơ tim.

Theo “Dược phẩm vựng yếu”

ĐAN SÂM

(Màu sắc nhuận, vị mặn là tốt)

Khí vị:

Vị đắng, hơi hàn, không độc, vào 3 kinh Tâm, Can, và Tâm bào lạc.

Chủ dụng:

An thần, tán ứ kết, bổ khí âm dương, thông điều các mạch, khử huyết ứ mà sinh huyết mới, an thai sống mà hạ được thai chết, chữa đới hạ, băng huyết, và các bệnh thai tiền, sản hậu, chân tê yếu thì khỏe được, mắt sưng đỏ cũng tiêu, tan hết bướu cổ, trưng hà, mưng mủ sinh da non, đuổi ma quỷ, tà mỵ, dưỡng chính khí, trừ tà khí, trị phong tà, nóng phát cuồng, buồn bực, và chứng lao có tật nóng trong bụng, đau đỉnh đầu, khớp xương, eo lưng, xương sống cứng, chân tay không cựa quậy được.

Kỵ dụng:

Neu Vị khí hư hàn thì có thể châm chước dùng được, nhưng người có thai mà không bệnh gì thì chớ dùng.

Nhận xét:

Đan sâm màu sắc đỏ, hợp với hành hỏa, quẻ ly thuộc phương nam, đặc biệt vào Tâm kinh, chuyên chủ vào huyết chứng.

Người xưa bảo công dụng một vị Đan sâm bằng cả bài Tứ vật thang là khen ngợi nó bố được âm, công dụng tuy nhiều hơn bổ huyết, nhưng lại sở trường về mặt hành huyết, thật là thuốc chủ yếu của Can hỏa.

Cách chế:

Muốn thanh Tâm trừ nhiệt thì dùng sống, muốn dưỡng Tâm huyết, trừ chứng đau vùng Tim thì nên sao với tim Lợn để điều hòa chân âm của Tim, muốn điều hòa Tâm khí thì sao với Rượu và Mật.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO “Y tông kim giám”

Bài Đan sâm ẩm

Đan sâm 12-30g, Đàn hương 6g, Sa nhân 6g. sắc uống, có tác dụng hành khí, hóa ứ, chỉ thống.

Trị đau Dạ dày, đau thắt lưng, đau Tim do huyết ứ khí trệ gây nên.

“Y học tâm ngộ”

Bài Khải cách hoàn

Đan sâm 6g, Sa sâm 6g, uất kim 2g, Cuống lá Sen 2 cái, Bạch linh 2g, Xuyên bối mẫu 4g, Cám đầu chày 5g, sắc nước uống, có tác dụng nhuận táo, giải uất.

Trị nghẹn do uất ức lâu ngày, khí kết, tân dịch khô ráo, nuốt vào là nghẹn, nặng thì đau nhức, nôn mửa.

“Tâm đắc thần phương”-Hải Thượng Lãn Ông Bài Bổ âm liễm dương phương

Nhân sâm, Đan sâm, Thục địa, Mạch môn, Ngưu tất, Bạch thược, Phục thần, Viễn chí, thán Khương, sắc uống.

Trị chứng mặt đỏ như son, tinh thần mê mẫn không biết gì, miệng nói nhảm, chân tay vật vã, mạch hồns đai, đó là chân âm không giữ được, hư dương bốc lên, thần khí sắp thoát.

“Hiệu phỏng tân phương”-Hải Thượng Lãn Ông Bài Bình can khí hòa can huyết phương Sinh địa 3đ,Thục địa 2đ, Đương quy 2đ, Bạch thược 2đ, Đan sâm l,5đ, Sơn thù lđ, Sài hồ l,5đ, Táo nhân lđ (dùng sống) Ngô thù lđ (tẩm Hoàng liên, sao), Quế mỏng 0,7đ, Đan bì lđ (tẩm rượu), sắc, chia uống ấm vài lần trong ngày.

Chủ trị các chứng: Âm hư, huyết kém, đau sườn thuộc Can kinh, thở khó, không quay trở được và phong nhiệt bế tắc lấn lên, đầu choáng, mắt mờ đau.

Đức Phật Dược Sư và nghiệp chữa bệnh

Phật Dược Sư (tiếng Phạn: bhaiṣajyaguru; chữ Hán: 藥師佛; nghĩa là “vị Phật thầy thuốc”), còn gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật (bhaiṣajyaguruvaidūrya-prabha-buddha; 藥師琉璃光佛), Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai (Phạn: Bhaiṣaijya guru vaiḍuria prabhà ràjàya tathàgatàya), Dược Sư Như Lai (Phạn: Bhaiṣaijya guru tathàgatàya), Dược Sư Lưu Ly Như Lai (Phạn: Bhaiṣaijya guru vaiḍuria tathàgatàya), Đại Y Vương Phật (Phạn: Mahà Bhaiṣaijya ràja buddha), Vương Thiện Đạo, do bổn nguyện của ngài là “cứu tất cả các bệnh khổ cho các chúng sinh” cho nên còn có tên Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật, là vị Phật đại diện cho sự trọn vẹn của Phật quả ngự cõi phía đông (là cõi Tịnh Lưu ly). Tranh tượng của vị Phật này hay được vẽ với tay trái cầm thuốc chữa bệnh và tay mặt giữ Ấn thí nguyện.

Theo niềm tin Phật giáo, một người có từ tâm là vị thầy chữa bệnh thần kỳ nhất, không những chỉ chữa lành bệnh hay giải quyết được các nan đề cho chính họ, mà còn là vị thầy chữa bệnh cho những người khác. Đa số chúng ta đều xác nhận rằng trong nhà thương, nơi căn bệnh đang hoành hành và bệnh nhân đang chịu đựng nỗi đau, với nụ cười thân thiện và lời khích lệ của vị y sĩ, bệnh nhân sẽ đỡ đau và mau khỏe hơn. Thật ra chính là do tình thương mà bệnh được chữa lành. Một khi tình thương được lan tỏa ra từ nơi sâu thẳm của một người, chính tình thương yêu đã tạo nên sức khỏe tốt.

Về ý nghĩa Thánh hiệu: Dược Sư, nghĩa đen là thầy thuốc chữa bệnh. Lưu ly là một loại ngọc màu xanh trong suốt. Quang là ánh sáng. Lưu ly quang là ánh sáng ngọc lưu ly. Dược Sư Lưu Ly Quang Phật là vị Phật có danh hiệu Thầy thuốc chữa bịnh, ánh sáng như ngọc lưu ly. Phật Dược Sư hiểu biết và thông suốt tất cả y dược của thế gian và xuất thế gian, Ngài có thể chữa trị hết tất cả những thứ bệnh khổ của chúng sinh, những điên đảo vọng tưởng do tham, sân, si phiền não gây ra. Ánh sáng của Phật Dược Sư thật không nghĩ bàn “Trong ngoài sáng suốt, tinh sạch hoàn toàn, không có chút nhơ bợn, ánh quang minh chói lọi khắp nơi”. Ánh sáng ấy chiếu đến đâu đều phá hết tăm tối vô minh của chúng sinh, đem lợi lạc và diệt tất cả những bệnh khổ thân tâm của chúng sinh, khiến cho họ xa lìa mê vọng mà hướng đến giác ngộ, giải thoát.

Trong truyền thống Phật giáo, vị thầy chữa bệnh nguyên thủy và đầu tiên là đức Phật. Thường được gọi là Đức Phật Dược Sư, chính đức Phật Dược Sư đã tiết lộ các bài pháp thiêng liêng được gói ghém trong những bài kinh được gọi là Tứ Mật Y Kinh (Four Medical Tantras). Tất cả y thuật của Phật giáo đều bắt nguồn từ bộ kinh thiêng liêng này. Như đã giải thích trong bài đầu tiên của các bài kinh này, đức Phật Dược Sư một lần đã ngồi thiền định, và xung quanh các vị đệ tử gồm có các vị y sĩ, các vị thông thái, thiên vương và các vị Bố Tát, tất cả đều ước muốn học hỏi về phương pháp chữa bệnh.

Tất cả đều lặng người bởi hào quang sáng rỡ trang nghiêm của đức Phật, mà không dám mở lời. Biết được nguyện vọng của họ, đức Phật Dược Sư đã phát ra hai ánh hào quang, ánh hào quang thứ nhất là lời thỉnh cầu học pháp, và ánh hào quang thứ hai giảng giải về pháp nầy. Nhờ vậy, bài kinh nầy được nói ra, và đức Phật Dược Sư giải thích những chứng bệnh khác nhau về thân cũng như tâm, giảng về nguyên nhân của chúng, sự chẩn đoán bệnh tình, và cách chữa trị.

Mặt khác, đức Phật hiểu rõ nguyện vọng của các đệ tử mà không cần họ phải nói ra, việc nầy cho thấy lòng từ bi vô hạn của đức Phật đối với các đệ tử. Thật vậy, các thầy chữa bệnh như đức Phật được gọi là những vị đại y sĩ không những chỉ vì khả năng chữa lành bệnh – mà còn là vì lòng từ bi và trí tuệ để chẩn đoán và chữa trị tận gốc rễ của căn bệnh, dù là thân bệnh hay tâm bệnh.

Trong nghệ thuật tranh ảnh, hình đức Phật Dược Sư được vẽ với màu vàng hoàng kim, dù các đặc điểm khác vẫn là màu xanh dương.Trong bất cứ hình ảnh nào, bàn tay trái của đức Phật Dược Sư đều để trên đùi trong tư thế bắt ấn của thiền định, với một cái bát bằng sắt. Tay phải ngửa lên, như đang ban phát, một cử chỉ thể hiện sự rộng lượng, một nhánh myrobalan (một loại thảo dược trong y học Tây Tạng). Đây là một loại trái cây có thể chữa bệnh rất phổ biến trong y học Tây Tạng và ở đây là biểu tượng của sự phục hồi mạnh mẽ của thế giới thực vật, nhắc nhở chúng ta là trái đất cung cấp miễn phí cho chúng ta, và không đòi hỏi gì hơn là gìn giữ sự mầu mỡ của nó với sự chăm sóc nhẹ nhàng, nâng niu.

Tuy nhiên, y học Phật giáo chỉ áp dụng thuốc men một cách có giới hạn. Việc sử dụng thuốc chỉ được áp dụng vừa phải để chữa các triệu chứng ngoại tại của căn bệnh. Việc chữa trị căn bệnh cho con người tận gốc rễ cần phải nương vào sự chứng ngộ tâm linh, mỗi người chúng ta đều có thể tự chữa trị bằng cách nầy. Đức Phật Dược sư thường được vẽ với đủ loại dược thảo thơm tho bao quanh, trong y dược Tây Tạng, với vô số thiên vương, và Bồ Tát. Hình vẽ như thế nầy được gọi là Thiên đàng của đức Dược Sư.

Theo lời Romio Shrestha Đức Phật Dược Sư là nhà bào chế thuốc tâm linh. Để khám phá ra sức mạnh chữa bệnh tiềm tàng ngay trong con người chúng ta, là lối vào thiên đàng của “Bậc thầy về thuốc giải” . Cũng có nghĩa là thiên đàng nầy nằm ngay trong lòng mỗi chúng ta, chỉ cần tâm thức sáng suốt để nhận diện và sử dụng nó. Romio Shrestha còn nói thêm, “Thân thể chúng ta có khả năng tự chữa bất cứ căn bệnh nào. Mỗi một cây, mỗi một dược thảo, mỗi thuốc giải đều có vật bổ sung của nó nằm trong cốt lõi tinh tế của thân thể con người.”

Hành trì Đức Phật Dược sư, the Supreme Healer (hay Sangye Menla ở Tây Tạng) không chỉ là một phương thuốc mạnh mẽ để chữa bệnh và tăng sức mạnh chữa lành bệnh cho bản thân và người khác, mà còn giúp chiến thắng khổ đau bên trong, cả sự hận thù và ngu dốt, như vậy hành thiền qua Đức Phật Dược sư có thể giúp giảm bệnh tật và đau khổ về thể chất và tinh thần.

Thần chú Đức Phật Dược sư cực kỳ mạnh mẽ để chữa lành bệnh tật và thanh lọc nghiệp xấu. Một hình thức thực hành từ vị Phật thầy thuốc được thực hiện khi một người bị bệnh nặng. Bệnh nhân phải trì chú này 108 lần trên một ly nước. Nước trong ly bây giờ được tin là sự ban phước lành bởi sức mạnh của thần chú và sự gia trì của chính đức Phật Dược sư, sau đó nước được cho bệnh nhân uống. Phương pháp này được thực hành lặp lại hằng ngày cho đến khi bệnh được chữa khỏi.

Viêm tổ chức hốc mắt – triệu chứng, điều trị

1. ĐẠI CƯƠNG

Viêm tổ chức hốc mắt là viêm của phần mô mềm trong hốc mắt. Viêm tổ chức hốc mắt gặp ở cả trẻ em và người lớn. Ở trẻ em dưới 5 tuổi thì hay phối hợp với viêm đường hô hấp trên. Ở trẻ em trên 5 tuổi hay phối hợp với viêm xoang. Ở người lớn hay gặp ở những người đái tháo đường, suy giảm miễn dịch hay do dị vật nằm trong hốc mắt.

2. NGUYÊN NHÂN

  • Do vi khuẩn, nấm, virus và ký sinh trùng.
  • Các yếu tố thuận lợi như :
  • Ở trẻ em hay gặp do viêm đường hô hấp trên, viêm xoang.
  • Ở người lớn hay gặp ở những người đái tháo đường, suy giảm miễn dịch.
  • Có thể gặp do những nguyên nhân lan truyền trực tiếp từ những cấu trúc như nhãn cầu, mi và phần phụ cận của nhãn cầu cũng như các xoang lân cận.
  • Do chấn thương xuyên làm tổn thương vách hốc mắt, đặc biệt những chấn thương có dị vật hốc mắt.
  • Những phẫu thuật như phẫu thuật giảm áp hốc mắt, phẫu thuật mi, phẫu thuật lác, nội nhãn… viêm tổ chức hốc mắt cũng có thể gặp sau viêm nội nhãn sau phẫu thuật.

3. CHẨN ĐOÁN

Lâm sàng

Cơ năng

  • Xuất hiện đau đột ngột, đau ở vùng hốc mắt
  • Đau khi vận động nhãn cầu, liếc mắt…
  • Đau đầu

Thực thể

  • Mi phù
  • Xung huyết kết mạc
  • Phù kết mạc
  • Lồi mắt: lồi mắt có thể lồi thẳng trục hoặc không thẳng trục
  • Song thị
  • Sụp mi
  • Hạn chế vận nhãn hoặc liệt vận nhãn
  • Giảm thị lực nhiều mức độ khác nhau
  • Nếu viêm gần đỉnh hốc mắt có thể có giảm thị lực trầm trọng
  • Có thể có viêm hắc mạc hoặc viêm thị thần kinh
  • Có thể tăng nhãn áp do chèn ép

Triệu chứng toàn thân

  • Mệt mỏi, sốt
  • Những triệu chứng hô hấp hay xoang

Cận lâm sàng

  • Chụp XQ hoặc chụp CT: hình ảnh viêm tổ chức hốc mắt, hình ảnh viêm xoang.

+    Có thể thấy hình ảnh viêm xoang với những xương và màng xương đẩy về phía hốc mắt.

+    Hình ảnh ổ áp-xe cạnh màng xương: điển hình trên CT là hình ảnh tổn thương cạnh xoang mờ, có bờ xung quanh mềm mại và có thể có khí bên trong.

+    Trong trường hợp chấn thương có thể xác định được dị vật hốc mắt.

  • Siêu âm: có giá trị trong một số trường hợp chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt như có viền dịch quanh nhãn cầu.
  • Công thức máu: bạch cầu đa nhân trung tính tăng cao, CRP tăng trong nhiễm khuẩn.
  • Lấy bệnh phẩm ở hốc mắt hoặc mủ ở ổ áp-xe làm xét nghiệm soi tươi, soi trực tiếp, nuôi cấy vi khuẩn để chẩn đoán nguyên nhân và để điều trị.
  • Lấy bệnh phẩm ở xoang hay vùng mũi họng.
  • Cấy máu nếu nghi ngờ hoặc có nhiễm trùng huyết

Chẩn đoán xác định

  • Dựa vào triệu chứng lâm sàng

Đau đầu, đau quanh mắt, đau khi liếc mắt

Lồi mắt

Phù mi và kết mạc

Hạn chế vận nhãn

Viêm hắc mạc hoặc viêm thị thần kinh, phù gai

Tăng nhãn áp do chèn ép

  • Dựa vào triệu chứng cận lâm sàng

CT thấy hình ảnh viêm xoang, hình ảnh ổ áp xe hay dị vật

Siêu âm có hình ảnh viền dịch quanh nhãn cầu

Công thức máu: bạch cầu đa nhân trung tính

Chẩn đoán phân biệt

  • Những trường hợp lồi mắt khác như lồi mắt do bệnh Basedow, lồi mắt viêm giả u, viêm tuyến lệ: lồi mắt những không đau khi vận nhãn. Chụp CT có thể giúp chẩn đoán phân biệt
  • Do khối u hốc mắt, ung thư nguyên bào võng mạc xuất ngoại, ung thư cơ vân. Chụp CT thấy hình ảnh khối u hốc mắt.
  • Siêu âm có thể thấy hình ảnh khối u nội nhãn có ổ canxi
  • Bệnh sarcoidose: bệnh toàn thân có biểu hiện ở hốc mắt. Chụp XQ phổi và xét nghiệm miễn dịch giúp chẩn đoán phân biệt.
  • Bị côn trùng đốt: chỉ ảnh hưởng đến tổ chức ở trước vách hốc mắt.

4.       ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc chung:

  • Phải điều trị cấp cứu viêm tổ chức hốc mắt cấp tính để phòng biến chứng viêm màng não, tắc xoang hang và nhiễm khuẩn huyết.
  • Người bệnh phải được điều trị nội trú.
  • Điều trị theo kháng sinh đồ.
  • Tìm các ổ viêm phối hợp như viêm xoang, viêm đường hô hấp trên để điều trị.
  • Điều trị ngoại khoa khi cần thiết.

Điều trị cụ thể

  • Kháng sinh đường tĩnh mạch liều cao, phổ rộng trong giai đoạn sớm và kháng sinh đặc hiệu sau khi đã nuôi cấy phân lập được vi khuẩn.
  • Trong thời gian chờ đợi nuôi cấy vi khuẩn có thể dùng kháng sinh nhóm Cephalosporin thế hệ 3: 15mg/kg cân nặng uống hoặc truyền tĩnh mạch.
  • Chống viêm:  Steroid  đường  uống  và  đường  tĩnh  mạch  (Methyl prednisolon 1mg/kg cân nặng).
  • Nâng cao thể trạng: vitamin nhóm B, C.
  • Điều trị phối hợp những trường hợp viêm xoang, viêm đường hô hấp, đái tháo đường.

5. TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG

  • Viêm tổ chức hốc mắt là bệnh nặng, diễn biến phức tạp và có thể gây biến chứng nặng. Tuy nhiên nếu điều trị tốt bệnh cũng có thể khỏi không để lại di chứng gì.
  • Những biến chứng có thể xảy ra là:
  • Nhiễm trùng huyết có thể gây tử vong hoặc tắc xoang hang.
  • Áp xe hốc mắt.
  • Viêm màng não.
  • Viêm thị thần kinh giảm thị lực.

6. PHÒNG BỆNH

  • Điều trị những viêm nhiễm của mi, viêm phần trước vách phòng lan vào tổ chức hốc mắt.
  • Phòng những bệnh như hô hấp, viêm xoang ở trẻ Khi trẻ mắc bệnh cần được điều trị và theo dõi cẩn thận để những biến chứng không xảy ra.
  • Theo dõi và điều trị tốt những người có bệnh mạn tính như đái tháo đường, viêm xoang, viêm răng…
  • Khi có viêm tổ chức hốc mắt phòng các biến chứng xảy ra

Bùm bụp-Bùm bụp bông to-Bùm bụp gai-Bùm bụp nâu

Bùm bụp

Loài phân bố ở lục địa Đông Nam á châu. Ở nước ta, thường gặp trên các đồi, trong rừng thưa. Thu hái rễ quanh năm, rửa sạch, thái nhỏ và phơi khô. Vỏ thân thu hái vào mùa xuân- hè, phơi khô.

Bùm bụp, Bùng bục, Ba bét trắng, Cây ruông – Mallotus apelta (Lour.) Muell. -Arg., thuộc họ Thầu dầu -Euphorbiaceae.

Mô tả: Cây gỗ nhỏ hay cây bụi cao 1-2m hay hơn, có thể tới 5m; cành non có lông màu vàng nhạt. Lá mọc so le, nguyên, hoặc chia thuỳ rộng, có 2 tuyến ở gốc, mép khía răng; cuống lá và mặt dưới của lá có lông dày mịn màu trắng. Hoa đực và hoa cái riêng mọc thành bông đuôi sóc dài đến 50cm, thõng xuống. Quả nang, to 2cm, có gai mềm, dài 5mm. Hạt màu đen bóng. Ra hoa tháng 4-7, có quả tháng 7-9.

Bộ phận dùng: Rễ, vỏ cây và lá – Radix, Cortex et Folium Malloti Apeltae.

Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở lục địa Đông Nam á châu. Ở nước ta, thường gặp trên các đồi, trong rừng thưa. Thu hái rễ quanh năm, rửa sạch, thái nhỏ và phơi khô. Vỏ thân thu hái vào mùa xuân- hè, phơi khô.

Tính vị, tác dụng: Bùm bụp có vị hơi đắng và chát, tính bình. Rễ có tác dụng hoạt huyết, bổ vị tràng, thu liễm; lá và vỏ đều có tác dụng tiêu viêm, cầm máu.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Rễ dùng chứa: 1. Viêm gan mạn tính, sưng gan lá lách; 2. Sa tử cung và trực tràng; 3. Huyết trắng, phù thũng khi có thai; 4. Viêm ruột ỉa chảy. Vỏ thân chống nôn, chữa viêm loét hành tá tràng và cầm máu. Liều dùng 15-30g, dạng thuốc sắc. Lá dùng ngoài trị viêm tai giữa, cụm nhọt, đòn ngã tổn thương, chảy máu.

Đơn thuốc:

  1. Viêm gan mạn tính, sưng gan lách: Rễ Bùm bụp 15g, rễ Muỗng truồng 30g và rễ Sim 30g, sắc uống.
  2. Sa tử cung và trực tràng: Rễ Bùm bụp 30g, rễ Kim anh 15g, sắc uống.
  3. Băng huyết sau khi đẻ: Vỏ thân khô Bùm bụp 15g, phối hợp với thân cây Lấu, rễ Vú bò, cành lá Chua ngút, mỗi vị 12g, sắc uống.

Bùm bụp bông to

Bùm bụp bông to – Mallolus macrostachyus (Miq.) Muell – Arg., thuộc họ Thầu dầu – Euphorbiaceae.

Mô tả: Cây gỗ cao đến 10m; nhánh thòng có lông hung. Lá có phiến xoan nhọn, to đến 20 x 18cm, gốc tròn, gân hơi hình lọng, với tuyến ở nơi gắn của cuống, mép nguyên hay có hai thuỳ nhỏ, mặt trên không lông, mặt dưới có gân bậc ba lồi và lông nâu; cuống to, dài đến 20cm, lá bắc cao 1cm. Chuỳ hoa đực dài đến 20cm; hoa đực có 4 lá đài, nhiều nhị. Bông cái dài 20-40cm, không nhánh. Quả nang to 1cm, có gai nạc cao 2,5mm, có lông hung, có 3 nhánh vỏ. Ra hoa tháng 7-8, quả tháng 8-10.

Bộ phận dùng: Lá – Folium Malloti Macrotachyi.

Nơi sống và thu hái: Cây mọc ở trong các lùm bụi và ven rừng đến độ cao 400m, ở Ninh Bình, Lạng Sơn, Thừa Thiên – Huế, Lào Cai, Hoà Bình… còn phân bố ở nhiều nước khác như Thái Lan. Malaixia, Inđônêxia.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Lá non giã đắp cầm máu vết thương. Nước sắc lá dùng rửa sạch vết thương và lá hơ nóng dùng làm thuốc đắp vết thương và mụn nhọt.

Bùm bụp gai

Bùm bụp gai, Ba bét lông, Bông bét, Cám lợn – Mallotus barbatus (Wall) Muell – Arg., thuộc họ Thầu dầu -Euphorbiaceae.

Mô tả: Cây nhỡ cao đến 6m; nhánh, mặt dưới lá có lông hình sao, mịn như bông, màu vàng. Lá có 7-9 gân gốc toả ra hình lọng, phiến lá chia 3 thuỳ hay không, mép có răng thưa; cuống như tròn; lá kèm 1cm. Bông dài đến 20cm; hoa đực có hơn 50 nhị; hoa cái có bầu dầy lông. Quả nang to 13 – 15mm, có lông vàng vàng dày và gai nạc cao 2-3mm; hột 4mm, đen. Ra hoa vào mùa xuân và mùa hạ.

Bộ phận dùng: Rễ, vỏ cây, lá và bột ở vỏ hạt – Cortex, Folium et Farina Tegumenti Malloti Barbati.

Nơi sống và thu hái: Cây mọc ở trên đồi, trong rừng thưa, ngoài bãi hoang và ven đường, vùng núi cho đến 1100m, khắp nước ta. Có phân bổ ở Trung Quốc, Ấn Độ, Philippin.

Thành phần hoá học: Hạt chứa dầu.

Tính vị, tác dụng: Rễ có vị hơi đắng, chát, tính bình; có tác dụng thanh nhiệt lợi niệu, giảm đau, chỉ tả.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ở Trung Quốc, rễ dùng trị viêm ruột, ỉa chảy, tiêu hoá không bình thường, viêm niệu đạo, bạch đới, sa tử cung; lá dùng trị ghẻ ngứa và ngoại thương xuất huyết. Người ta còn dùng vỏ sắc dùng trị cụm nhọt, buồn nôn, trị viêm hành tá tràng và dạ dày. Lá sắc nước dùng trị phù thũng. Lớp bột ở ngoài hạt và lông dùng trị sán xơ mít và giun.

Bùm bụp nâu

Bùm bụp nâu, Bông bét – Mallotus paninculatus (Lam.) Muell.- Arg. (M. cochinchinensis- Lour.), thuộc họ Thầu dầu – Eu-phorbiaceae.

Mô tả: Cây nhỡ hay cây lớn đến 20m. Lá có phiến xoan tam giác hay hình bánh bò, có ba thuỳ hay không, có hai tuyến ở gốc phiến, mặt dưới có lông hình sao; cuống dài đến 18cm. Cụm hoa có lông nâu, dài 7-35cm; hoa đực có 50-60 nhị; hoa cái có bầu 2-3 ô. Quả nang to 7-8mm, có gai nạc thưa dài; hạt tròn. Hoa tháng 5-6, quả tháng 11-12.

Bộ phận dùng: Rễ, quả – Radix et Fruetus Malloti Paniculati.

Nơi sống và thu hái: Cây mọc nhanh trên các nương rẫy bị bỏ hoang hay rừng bị tàn phá kiệt quệ, thường mọc lẫn với Ba soi, Lành ngạnh, Hu day, Cỏ lào… Ở nhiều nơi khắp nước ta dưới độ cao 500-600m, từ Hà Giang, Lào Cai cho tới Lâm Đông, Kiên Giang (Phú Quốc). Có thể thu hái rễ quanh năm, thường dùng tươi; quả thu hái tháng 10-11.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Hạt có chất mỡ đặc có thể dùng để thắp. Rễ và quả dùng đắp chữa các vết thương đụng giập, sưng tấy. Cần chú ý là vỏ cây có nhiều sợi, có thể dùng để bện thừng

Triệu chứng và điều trị đau thần kinh

 

MỞ ĐẦU

Thuật ngữ tương đương

Đau do bệnh thần kinh

Đau thần kinh: neuropathic pain.

Đau do căn nguyên thần kinh: neurogenic pain.

Đau mất hướng tâm: deafferentation

  • Chúng tôi xin được gọi là đau thần kinh.

Định nghĩa đau thần kinh

Đau thần kinh là chứng đau do những thương tổn của bản thân các cấu trúc thần kinh cảm giác (trung ương và/hoặc ngoại vi) gây nên.

Phân loại cảm giác đau

Trong thực tế có nhiều cách phân loại cảm giác đau. Nếu tuỳ thuộc vào vị trí xuất hiện của xung thần kinh cảm giác đau, tuỳ thuộc vào con đường mà xung thần kinh đó đi qua người ta phân biệt ba cảm giác đau sau:

  • Cảm giác đau thông thường hay đau cảm thụ (nociceptive pain): xung động thần kinh được tiếp nhận từ thụ cảm thể đau và đi lần lượt dọc theo con đường sinh lý (qua tất cả các chặng giải phẫụ của đau như rễ sau, sừng sau, mép xám trước, cột bên đối diện, đi dọc lên tới đồi thị và từ đồi thị lên vỏ não). Cảm giác đau này có ý nghĩa phản ánh một quá trình tổn thương ở tổ chức ngoại vi và gồm có hai loại là đau thân thể (somatic pain) và đau nội tạng (visceral pain).
  • Đau thần kinh (neuropathic pain): trong chứng đau này, xung động thần kinh không xuất phát từ thụ cảm thể đau, mà xuất hiện dọc trên chặng đường dẫn truyền cảm giác. í nghĩa của chứng đau thần kinh là phản ánh một tổn thương của bản thân các cấu trúc giải phẫu của hệ thần kinh cảm giác.
  • Đau căn nguyên tâm lý, hay đau tâm căn (psychogenic pain): chứng đau này không do những tổn thương thực thể mà do chấn thương tâm lý gây nên.

Lịch sử

Trong thực tế những chứng đau thần kinh (như đau dây V, đau sau đột qụy, đau sau zona…) đã được biết từ lâu, nhưng chỉ những năm gần đây các tác giả trên thế giới mới gộp chúng lại dưới một thuật ngữ chung là đau thần kinh.

Cho tới nay các tác giả vẫn xác định, đau thần kinh là một chứng bệnh phức tạp vì những lý do sau:

  • Mỗi loại đau thần kinh thường kèm theo nhiều triệu chứng rất khác nhau vì chúng có những nguyên nhân khác nhau.
  • Những bệnh nhân có cùng một loại đau thần kinh như nhau, nhưng có mức độ đáp ứng khác nhau với cùng một liệu pháp điều trị.
  • Các thuật ngữ liên quan tới đau thần kinh còn chưa được thống nhất.
  • Không có quy trình, tiêu chuẩn chẩn đoán thống nhất và chính xác.

Sinh lý bệnh

Bộ phận nhận cảm đau ngoại vi đã bị cảm ứng hoá, hoạt động theo quy luật riêng và theo nhịp riêng.

Có sự xuất hiện các xung động thần kinh lạc vị dọc trên đường dẫn truyền cảm giác.

Tăng tính nhậy cảm đối với hoạt động giao cảm ly tâm.

LÂM SÀNG

Đặc điểm nhận biết chung

Đau kéo dài hơn 1 tháng.

Khu trú tại vùng phân bố của các dây thần kinh.

Đau cả ở những vùng bị giảm cảm giác, đã mất cảm giác hoặc đã mất cấu trúc giải phẫu.

Tăng về đêm.

Đáp ứng rất kém đối với liều truyền thống của thuốc giảm đau truyền thống.

Triệu chứng đau

Tăng cảm đau (hyperalgesia).

Loạn cảm đau (hyperpathia).

Dị cảm đau (allodynia): là chứng đau xuất hiện khi không có kích thích (tự phát), có kích thích nhưng chỉ với cường độ rất nhẹ (kích thích này bình thường không gây đau) hoặc khi có kích thích không đặc hiệu (do va chạm, do vận động…).

Vô cảm đau (anesthesia nodosa).

  • Đặc tính chung của các loại đau trên là rất dễ xuất hiện, cường độ đau rất nặng nề, có tính chất hủy diệt; đau như xuyên, như đâm, như điện giật, cháy bỏng, rát… khiến bệnh nhân rất khó chịu, sinh hoạt và làm việc không được.

Các triệu chứng kèm theo khác

Triệu chứng cảm giác khác: tê, giảm tri giác.

Những thay đổi thực vật: ra mồ hôi, da lạnh, rối loạn trương lực mạch máu, phù….

Triệu chứng rối loạn vận động: bệnh nhân có thể bị liệt ở các mức độ khác nhau.

Triệu chứng rối loạn phản xạ.

Các thể đau thần kinh

Đau thần kinh do tiểu đường.

Đau thần kinh sau

Đau thần kinh sau đột qụy.

Đau thần kinh do tổn thương tủy sống.

Đau dây thần kinh số V.

Đau phantom v.

ĐIỀU TRỊ

Lịch sử

Các chứng đau thần kinh đã từng được điều trị như sau:

Đau dây V

Carbamazepin: Blom (1962), Bondulle (1963), Spillane (1964), Burke (1965), Cambell (1966), Rockliff (1966), Killian (1968), Nicol (1969).

Gabapentin: Sist (1997), Valzania (1998).

Phenytoin: Berguignan (1942), Swerdlow (1980).

Lamotrigin: Zakrzewska (1997).

Đau chi ma

Thuốc chẹn ß: Lacono (1987).

Thuốc chống trầm cảm ba vòng: Baron (1998).

Calcitonin: Jaeger (1992).

Ketamin: Nicolajsen (1996).

Thuốc chống co giật: lacono (1987).

Đau cục bộ hỗn hợp

Phong bế hạch giao cảm: MacFarlane (1997).

Phetolamine đường tĩnh mạch: Raja (1991).

Đau thần kinh trong ung thư

Gabapentin: Caraceni (1999).

Opioids toàn thân và tiêm vào khoang dịch não tuỷ: Hogan (1991), Cherny (1994).

Amitriptylin: Eija (1996).

Thuốc chống co giật: Kloke (1991).

Các thuốc được sử dụng điều trị chứng đau thần kinh hiện nay

Các thuốc chống trầm cảm ba vòng: amitriptylin.

Các thuốc chống động kinh.

Các thuốc chống loạn nhịp: mexiletin.

Giảm đau cục bộ và phong bế giao cảm.

Capsaicin cream.

Các phương pháp không dùng thuốc: ..

Vai trò của gabapentin (neurontin) trong điều trị chứng đau thần kinh

Thành phần

  • Hoạt chất: gabapentin.
  • Tá dược: lactose, bột ngô, bột talc, gelatin, oxyd sắt, titandioxid, natriumlaurylsulfat và nước.
  • Dạng thuốc:

+ Viên nang: 100, 300, 400mg + Viên nén: 600, 800mg.

+ Dạng dung dịch uống: 250mg/5ml

Đặc điểm cấu tạo

Gabapentin là một acid amin có nhân thơm.

Tinh thể màu trắng, cấu trúc giống như GABA.

Tan tự do trong nước, trong dung dịch nước của acid và base, tan trong mỡ.

Tác dụng trên lâm sàng

Ngăn ngừa triệu chứng tăng cảm đau và dị cảm đau.

Làm giảm đáp ứng đau sau một quá trình viêm ngoại vi.

Không thay đổi tập quán đáp ứng tức thì liên quan tới đau.

Chỉ định điều trị chứng đau thần kinh

Trong thực tế gabapentin được coi là có tác dụng giảm đau tốt đối với các chứng đau sau Herpes, viêm đa dây than kinh do tiểu đường…, sau đó tới chứng đau thần kinh số V.

Cơ chế tác dụng của gabapentin

Không gắn kết với thụ cảm thể GABA hoặc các thụ cảm thể thông thường khác.

Không làm thay đổi chuyển hoá GABA, không làm thay đổi hoạt tính của chất ức chế GABA.

Neurontin có ái tính cao với các vùng não: vỏ não mới, hồi hải mã.

Chuyển hoá

Không bị chuyển hoá ở gan.

Chỉ dưới 5% thuốc có gắn kết với protein.

Được thải qua thận ở dạng không chuyển hoá.

Rất ít tương tác thuốc

Liệu trình điều trị

Liều dùng có thể từ 600 – 3600mg/24h, tuỳ theo khả năng dung nạp và mức độ đáp ứng thuốc của từng bệnh nhân.

Trong tuần đầu chỉnh liều từ 0 lên đến 600mg.

Tuần thứ hai tăng liều thêm 600mg.

Có thể tăng tiếp trong tuần thứ ba và tuần thứ tư.

Sau đó uống duy trì thêm 4 tuần, tổng số ngày điều trị là 8 tuần.

Tác dụng phụ của thuốc

  • Các tác dụng phụ thường gặp là:

+ Buồn ngủ: 14,4 – 27,4% (plazebo 5,2 – 6,2%)

+ Chóng mặt: 23,8 – 24,2 (plazebo 4,9 – 7,9%)

+ Thất điều: 7,1% (plzb 0%).

Hiếm hơn là các triệu chứng:

+ Đau đầu: 9,2 -10,7% (plazebo 3,7-13,8%).

+ Buồn nôn: 8,3 – 9,2% (plazebo 1,2 – 9,2%).

+ Phù ngoại vi.

+ Đi lỏng.

+ Lú lẫn.

Các triệu chứng mức độ từ nhẹ đến vừa và có thể mất đi trong vòng 2 tuần.