Định nghĩa: ghép đồng loài, ghép tim người bị chết cho người bị bệnh tim nặng không thể hồi phục được.
Chỉ định: bệnh tim không rõ nguyên nhân không gây tắc nghẽn, bệnh nguyên phát của cơ tim dẫn tới suy tim giai đoạn cuối, tổn thương nghiêm trọng ở mạch vành làm mất chức năng của thất trái sau nhiều lần bị nhồi máu cơ tim. Một số bệnh van tim nặng (hở van động mạch chủ). Một số bệnh nhân được chỉ định ghép tim chết trước khi có được tim phù hợp để ghép.
Chống chỉ định: tăng áp suất động mạch phổi nặng và cố định. Nhiễm khuẩn toàn thân không thể điều trị được (có thể nặng thêm do dùng các thuốc ức chế miễn dịch), tiểu đường phụ thuộc insulin, loét dạ dày – tá tràng, túi thừa đại tràng, bị ung thư, nghiện rượu, suy tim hoặc suy thận. Tuổi cao (> 65 tuổi).
Theo dõi sau mổ: huyết động học không ổn định ở tuần đầu tiên: cần dùng những thuốc làm tăng sức co bóp tim. Nếu có hiện tượng thải ghép thì phải dùng các thuốc ức chế miễn dịch, nhất là ciclosporin.
Tiên lượng: được cải thiện nhiều nhờ các tiến bộ về ngoại khoa (thường hay dùng kỹ thuật Shumway) và nhất là dùng ciclosporin để ức chế miễn dịch.
Tỷ lệ sống sót đến 1 năm là 95%, đến 5 năm là 80%. Phần lớn người được ghép tim có cuộc sống xã hội – kinh tế năng động. Tỷ lệ tử vong trong thời gian 30 ngày do mổ khoảng 8%.
Chứng Huyết hàn là tên gọi chung cho trường hợp tà khí âm hàn xâm phạm huyết phận hoặc khí hư không được sưởi ấm dẫn đến biểu hiện lâm sàng huyết mạch bị ngưng trệ gây nên co rút.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là tay chân tê dại, da dẻ không nhuận, chân tay mát lạnh, sợ lạnh, vùng ngực bụng lạnh đau gặp nóng thì đỡ, chu kỳ thấy muộn và rối loạn, thống kinh, mạch Tế mà Hoãn v.v…
Chứng Huyết hàn thường gặp trong các bệnh Đống thương, Trúng hàn, Thoát thư, Phúc thống, và phụ nữ kinh nguyệt không đều v.v.
Cần chẩn đoán phân biệt với chứng Huyết ứ.
Phân tích
– Chứng Huyết hàn có thể xuất hiện trong nhiều tật bệnh. Như trong bệnh Đống thương – thui chột vì rét – thường phát sinh ở các bộ phận hở của cơ thể như ngón tay, ngón chân, tai, mũi; đầu tiên lớp da ở cục bộ trắng xanh, lạnh đau tê dại, sau đó là đỏ tối và sưng lan tỏa, hoặc xanh tía thành cục, đau buốt và ngứa. Đây là do hàn tà xâm phạm vào cơ biểu làm tổn thương huyết mạch, khí huyết ngưng trệ gây nên. Sách Ngoại khoa chính tông viết:”Đống sương là do thời tiết băng giá rét buốt, khí huyết ngưng đọng thành bệnh”. Điều trị nên theo phép ôn dương tán hàn, điều hòa doanh vệ, dùng bài Quế chi gia đương qui thang (Trúng ngoại khoa học) pha thêm Hoàng tửu cho uống.
– Nếu Huyết hàn trong bệnh Trúng hàn, biểu hiện lâm sàng là rét run đột ngột, mặt xanh nghiến răng, thổ tả đau bụng, chân tay giá buốt, hoặc chân tay co rúm, mạch Vi muốn tuyệt; Đây là do thể chất vốn hư yếu lại trúng phải hàn khí của thời tiết, hoặc bên trong bị nhiễm lạnh do đồ ăn uống gây nên; Điều trị nên ôn dương tán hàn, điều bổ khí huyết, dùng Sâm Phụ thang (Phụ nhân lương phương) hợp với Hoàng tửu cho uống.
– Trong bệnh Thoát hư xuất hiện chứng Huyết hàn, thường biểu hiện sắc mặt nhạt tối không tươi, ưa ấm sợ lạnh, chi bị đau tê dại, bắp chân đau rút, ngón chân đỏ tối hoặc tím tái mà lạnh buốt, da thịt teo tóp, móng chân dày cộp, đau nhức dữ dội có khi suốt đêm không ngủ được, lưỡi tía tối, mạch Huyền Tế mà Trì Sắc; Đây là do Can Thận bất túc, ngoại cảm hàn tà đến nỗi hàn ngưng huyết trệ, nghẽn tắc kinh mạch gây nên; Điều trị nên ôn dương tán hàn, hoạt huyết thông lạc, cho uống Dương hòa thang (Ngoại khoa toàn sinh tập)hợp với Đào hồng Tứ vật thang (Phụ khoa tâm pháp yếu quyết- Y tông kim giám).
– Trong bệnh Phúc thống xuất hiện chứng Huyết hàn, có chứng trạng bụng dưới đau nhói hoặc đau trướng lan toả tới cao hoàn cũng trệ và đau, thậm chí đau thúc tới liên sườn, đồng thời tay chân lạnh, sợ lạnh, rêu lưỡi trắng trơn, mạch Trầm Huyền hoặc Trì; Đây là do hạ tiêu hư hàn lại cảm thụ hàn tà, hàn tà ngưng đọng ở Can mạch gây nên; Điều trị nên ôn Can tán hàn. cho uống Ôn kinh thang (Kim Quỹ yếu lược) gia giảm. Chứng Huyết hàn xuất hiện khá nhiều ở người cao tuổi thể lực yếu, bởi vì người cao tuổi nguyên dương suy dần, huyết không được sưởi ấm, thường có những chứng tinh thần bạc nhược, sắc mặt kém tươi, bắp chân bị chuột rút, cơ bắp đau mỏi, chân tay lạnh, sợ lạnh. Phụ nữ gặp chứng Huyết hàn, biểu hiện chủ yếu là kinh nguyệt quá kỳ, vừa rít vừa ít không thông lợi. sắc tối nhạt có hòn cục, hoặc có các chứng bế kinh, thống kinh, sau khi đẻ ác lộ ra không sạch, bụng dưới lạnh đau, lạc mạch nghẽn trệ, tử cung bị lạnh không thụ thai.
Hàn là âm tà, tính ngưng trệ; Hàn tà ẩn náu trong huyết mạch, làm cho huyết mạch ngưng rít không thông, lạc mạch nghẽn trệ, biến thành chứng hàn ẩn náu Huyết ứ, nặng hơn thì thành Trưng tích.
Chẩn đoán phân biệt
– Chứng Huyết ứ với chứng Huyết hàn, cả hai đều có chứng trạng huyết mạch ngưng trệ, về nguyên nhân và cơ chế bệnh có liên quan rất chặt chẽ nhưng cũng có chỗ khác biệt nhất định. Nói theo nguyên nhân bệnh, chứng huyết hàn phần nhiều do cơ thể vốn dương hư, hàn tà ẩn náu ở trong huyết mạch đến nỗi huyết vận hành chậm chạp; Huyết hàn là một trong những nguyên nhân gây nên huyết ứ. Chứng Huyết ứ lại là kết quả của chứng Huyết hàn phát triển thêm một bước. Chỗ khác nhau là chứng Huyết hàn vừa có những hiện tượng về hàn như cơ thê lạnh chân tay lạnh, nơi đau ưa ấm, gặp ấm thì đỡ đau, vừa có các chứng trạng của ứ huyết như đau như dùi đâm, cố định không di chuyển, nặng hơn thì có trưng tích hòn cục, lưỡi có nốt ứ huyết, mạch Trầm Trì v.v… Rõ ràng là khác với chứng Huyết ứ đơn thuần, Chẩn đoán phân biệt không khó khăn.
Trích dẫn y văn
– Hàn khí phạm vào Kinh thì lưu thông trì trệ. Ẩn náu ở ngoài mạch thì huyết thiếu; ẩn náu ở trong mạch thì khí không thông, cho nên có chứng đau đột ngột (Cử thống luận Tố Vấn).
– Chứng Huyết hàn làm cho cơ bắp tê dại mềm nhũn, da dẻ không nhuận, chân tay mát lạnh; vùng Tâm phúc sợ lạnh, trong bụng có hòn cục và đau, gặp nhiệt thì hết đau; ơ phụ nữ kinh nguyệt bị xụt ngày mà đau bụng, mạch Tế mà Hoãn, phép chữa nên làm cho ấm (Huyết chứng – Chứng trị vậng bổ).
– Các chứng Huyết hàn hay Huyết hư, đều thuộc thời kỳ cuối của bệnh. Nhưng Huyết vì sao mà bị Hàn? Không phái là âm hàn từ bên ngoài lấn vào; từ sống lạnh bên trong làm tổn thương. Bởi lý do dương khí bất túc không gặp lúc xuân hoà, đến nỗi tân dịch không đầy đủ được, cho nên không thể đúng kỳ mà đến vậy (Kinh mạnh môn – La thị hội ước y kính).
Ho và khạc khác nhau. “Ho ra tiếng và không có đờm là ho. Ho không tiếng mà có đờm là khạc. Ho có tiếng và có đờm là ho khạc. Ho là phế đã tổn thương và không thanh túc. Khạc là do tỳ thấp mà sinh đờm. Ho khạc là có cả phế khí bị tổn thương và tỳ thấp động” (Nam dược thần hiệu).
Bệnh lý của ho khạc có liên quan mật thiết với phế. Song “ngũ tạng lục phủ cũng có thể gây ho” (ngũ tạng lục phủ giai lệnh nhân khái, phi độc phế dã – Tố vấn, khái luận).
Nguyên nhân gây ho khạc rất nhiều, song quy lại thường có hai loại ngoại cảm và nội thương. Người ta thường hiểu vấn đề này như sau: phế chủ bì mao, phế thích thanh túc. Ngoại tà (lục dâm) thường tác động vào bì mao rồi vào phế, làm khiếu của phế trở ngại, phế khí không giáng được nghịch lên gây ho (ho do ngoại cảm). Phế là tạng ở cao nhất, như cái lọng của lục phủ ngũ tạng. Các tạng phủ có bệnh là những nguyên nhân bên trong tác động đến chức năng của phế. Như tỳ sinh đờm, đờm tích ở phế gây ho khạc, can khí uất hóa hỏa, hỏa phạm phế (ho do nội thựơng).
Về điều trị, do ho khạc có những nguyên nhân khác nhau, cho nên cần tìm được gốc của ho để chữa. Như vậy mối mong đạt kết quả tốt. Sau đây trình bày các loại ho và cách điều trị chúng. Ho khạc thường thấy trong viêm đường hô hấp trên, viêm phế quản, dãn phế quản, viêm phổi, lao…
Ho với đờm trắng lỏng loãng, tắc mũi, chảy mũi, hắt hơi, ố hàn, không mồ hôi, ê mỏi xương khớp, căng đầu, đau đầu, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù hoặc không đổi. Phép điều trị: Sơ tán phong hàn, tuyên phế hóa đờm.
Phương thuốc (Trích từ Thuốc nam châm cứu – Ho)
Tô diệp 12g Lá hẹ 12g
Lá xương sông 12g Kinh giới 8g
Gừng tươi 8g
Sắc uống
Ý nghĩa: Tô diệp, Gừng tươi, Kinh giới để khu phong tán hàn. Lá hẹ, lá Xương sông để chỉ ho. Chú ý thuốc chữa ho do phong, thường dùng thuốc tân bình là Quế chi. Phòng phong, thuốc chữa ho do hàn thường dùng tân ôn là Tô diệp, Hạnh nhân, Gừng.
Vị thuốc Kinh giới
Phương thuốc: Hạnh tô tán (Ôn bệnh điều biện)
Hạnh nhân
2 đồng cân
Tử tô diệp
2 đồng cân
Trần bì
2 đồng cân
Bán hạ
2 đồng cân
Gừng
2 đồng cân
Chỉ xác
2 đồng cân
Cát cánh
2 đồng cân
Tiền hồ
2 đồng cân
Phục linh
2 đồng cân
Cam thảo
2 đồng cân
Đại táo
2 quả
Ý nghĩa: Tô diệp, Tiền hồ, Sinh khương, để sơ phong tán hàn làm ra mồ hôi nhẹ, Hạnh nhân, Cát cánh để tuyên phế hóa đờm trị ho; Bán hạ, Phục linh để trừ thấp hóa đờm; Chỉ xác, Trần bì để lý khí khoan hung; Cam thảo, Đại táo để điều hòa dinh vệ, điều hòa các vị thuốc. Những phương này dùng cho ho không có sốt.
Phương thuốc: Khung tô ẩm. (Chính trị chuẩn thằng)
Tô diệp 2 đồng cân Sài hồ 2 đồng cân
Bán hạ 1 đồng cân Phục linh 1 đồng cân
Chỉ xác 1 đồng cân
Trần bì 1 đồng cân
Cát cánh 1 đồng cân
Xuyên khung 1 đồng cân
Cát căn 1 đồng cân
Cam thảo 0,7 đồng cân
Gừng 1 lát
Táo 3 quả
Ý nghĩa: Tô diệp, Sinh khương, để sơ phong tán hàn, làm ra mồ hôi nhẹ, Sài hồ, Cát căn để giải cơ. Xuyên khung để thông lạc, trị đau đầu. Cam thảo, Cát cánh để tuyên phế lợi hầu họng, trị ho; Bán hạ, Phục linh, Chỉ xác, Trần bì để trừ thấp hóa đờm lý khí khoan hung; Cam thảo, Đại táo để điều hòa dinh vệ, điều hòa các vị thuốc. Phương thuốc này dùng để chữa ho có sốt ố hàn.
Ho do phong hàn kiêm thấp. Thêm chứng ngực đầy, rêu lưỡi cáu, mạch nhu. Dùng Hạnh tô tán thêm Thương truật, Hậu phác để kiện tỳ táo thấp trừ đầy.
Ho do hàn, song có lý nhiệt. Ho ố hàn, tiếng ho không thông thoát, đờm vàng khó khạc, khát, đau họng, rêu lưỡi trắng, mạch phù sác.
Phép điều trị: Tán biểu hàn, thanh lý nhiệt, sơ phong tuyên phế.
Phương thuốc: Ma hạnh thạch cam thang (Thương hàn luận).
Ma hoàng 5g Hạnh nhân 9g
Cam thảo 6g Thạch cao 18g
Ý nghĩa: Ma hoàng để tuyên phế tán hàn tà ở biểu. Thạch cao để tuyên phế, thanh phế để trị ho. Hạnh nhân để giáng phế khí. Cam thảo để ích khí hòa trung hợp với Thạch cao để sinh tân chỉ khát.
Có thể thêm Tang diệp, Bạc hà,Cát cánh, Thiền thoái, tùy trạng thái cụ thể.
Ho do phong nhiệt.
Triệu chứng: Ho, đờm vàng đặc kèm theo khát, họng đau, sốt, đau đầu sợ gió có mồ hôi, người đau ê ẩm, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch phù sác.
Phép điều trị: Sơ phong thanh nhiệt, tuyên thông phế khí.
Phương thuốc: (Trích từ Thuốc nam châm cứu – Ho)
Tang diệp 12g
Cúc hoa 8g
Bạc hà 8g
Rễ chanh sao vàng 8g
Liên tiền thảo 12g
Lá hẹ 8g
Phương thuốc: Tang cúc ẩm (Ôn bệnh điều biện)
Tang diệp 2,5 đồng cân
Cúc hoa 1 đồng cân
Liên kiều 1,5 đồng cân
Bạc hà 0,8 đồng cân
Cát cánh 2 đồng cân
Hạnh nhân 2 đồng cân
Lô căn (rễ lau) 2 đồng cân
Cam thảo 0,8 đồng cân
Ý nghĩa: Tang diệp, Cúc hoa, Bạc hà để thanh nhiệt, Liên tiền thảo, Lô căn để thanh nhiệt sinh tân chỉ khát. Cát cánh, Hạnh nhân, Rễ chanh, Lá hẹ để giải cơ, thông phế, chỉ ho hóa đờm.
Ý nghĩa: Liên kiều để thanh nhiệt giải độc, Sơn chi để tả hỏa ở tam tiêu, dẫn xuống, Bạc hà, Trúc diệp để sơ tán biểu, thanh lý, Đại hoàng để đưa hỏa tà ở hung cách ra đường đại tiện. Cam thảo để điều hòa các vị thuốc. Mạch môn để dưỡng phế âm.
Ho do phong nhiệt kiêm thấp: có thêm chứng ho nhiều đờm, ngực tức, ra mồ hôi, rêu cáu vàng, mạch nhu sác.
Phép điều trị: Sơ phong thanh nhiệt.
Phương thuốc: Tang cúc ẩm thêm Hạnh nhân. Ý dĩ nhân để nhuận phế, kiện tỳ hóa thấp.
Ho do phong nhiệt kiêm thử: ho, tức ngực, tâm phiền, khát nước, tiểu đỏ, lưỡi đỏ, rêu mỏng mạch nhu sác.
Ý nghĩa: Hoạt thạch (cam hàn) để thanh nhiệt lợi tiểu tiện và đưa nhiệt ở tam tiêu ra ngoài để trừ thử. Cam thảo để hòa trung và hợp với Hoạt thạch để sinh tân. Tiền hồ để sơ phong. Hoắc hương để hóa thấp trọc. Bội lan, Hương
Ho do cảm thấp
Triệu chứng: ho, người nặng nề đau mỏi xương khớp, tiểu tiện không lợi, mạch tế hoãn.
Phép điều trị: tuyên biểu hóa thấp, dùng thuốc khổ đạm: Hậu phác, Thông thảo, Ý dĩ nhân.
Phương thuốc: Ma hoàng gia truật thang (Kim quỹ yếu lược)
Ma hoàng 9g Quế chi 6g
Hạnh nhân 12g Cam thảo 3g
Bạch truật 9g
Ý nghĩa: Ma hoàng thang để giải biểu hàn, Truật để kiện tỳ trừ thấp; thêm Ý dĩ nhân, Thông thảo để kiện tỳ, lợi thấp.
Ho do phế táo
Thường phân làm hai loại: Hoặc sốt Ố hàn, không mồ hôi đau mỏi cơ xương, mạch phù khẩn. Đây là triệu chứng của lương táo (Táo hợp với phong hàn).
Hoặc sốt ố phong, họng đau, đờm dính máu, rêu lưỡi vàng, đầu lưỡi đỏ mạch phù sác. Đây là triệu chứng của ôn táo (Táo hợp phong nhiệt).
4.1. Triệu chứng chung về ho: Ho khan, mũi khô, họng ráo, đầu lưỡi đỏ, mạch phù sác.
Phép điều trị: Thanh phế nhuận táo (Thuốc cam lương để thanh nhuận).
Phương thuốc: Tang hạnh thanh (Ôn bệnh điều biện)
Tang diệp
1 đồng cân
Hạnh nhân
1,5 đồng cân
Đậu xị
1 đồng cân
Bối mẫu
. 1 đồng cân
Chi tử bì
1 đồng cân
Sa sâm
2 đồng cân
Lê bì
1 đồng cân.
Ý nghĩa: Tang diệp, Đậu xị tân lương sơ phong; Sa sâm, Lê bì để nhuận phế dưỡng âm; Chi tử để thanh nhiệt ở ngực; Bối mẫu, Hạnh nhân để hóa đờm chỉ ho. Nếu là ôn táo thêm Qua lâu bì, Mạch môn, Lô căn để thanh phế nhuận táo. Nếu là lương táo, bỏ Tang diệp, Sa sâm, Lê bì thêm Kinh giới Phòng phong, để tán hàn tuyên phế hóa đờm.
Phương thuốc: (Trích từ Thuốc nam châm cứu – Ho) Tạng bạch bì 12g Mạch môn 12g
Lá tre 8g Lá hẹ 8g
Ý nghĩa: Tang bạch bì, Trúc diệp để thanh phế nhiệt, Mạch môn để dưỡng âm nhuận táo, Lá hẹ để tuyên phế chỉ ho.
Nếu nặng hơn, thêm triệu chứng lưỡi đỏ, khô, ho nhưng khó khạc đờm, hoặc ho khan không đờm.
Phương thuốc: Thanh táo cứu phế thang (Y môn pháp luật)
Tang diệp
3 đồng cân
Thạch cao
2,5 đồng cân
Nhân sâm
0,7 đồng cân
Ma nhân
1 đồng cân
Cam thảo
1 đồng cân
A giao
0,8 đồng cân
Mạch môn
l,2 đồng cân
Hạnh nhân
0,7 đồng cân
Tỳ bà diệp
1 đồng cân
Ý nghĩa: Tang diệp để thanh tuyên phế táo. Thạch cao để thanh nhiệt ở kinh phế, Mạch môn để nhuận phế kim. Hạnh nhân, Tỳ bà diệp để lợi phế khí, giáng khí; A giao, Ma nhân để nhuận phế dưỡng âm. Nhân sâm, Cam thảo để ích khí hòa trung. Thêm Bối mẫu, Qua lâu, Thiên hoa phấn để nhuận phế hóa đờm. Phương này chủ yếu dùng cho ôn táo.
Ho do phế táo, lại có mất tiếng: chữa mất tiếng bằng:
Phương thuốc: (Trích từ Nam dược thần hiệu – Ho):
Củ sắn dây 2 phần Hoè hoa 2 phần
Chi tử 2 phần Muôi ăn 2 phần
Ô mai 1 phần Cam thảo 1 phần
Sắc, cho một ít mật, uống dần sau bữa ăn.
Ý nghĩa: Hoa hoè, Chi tử để thanh nhiệt, sắn dây để dưỡng âm, Ô mai, Cam thảo mật để lợi hầu họng, sinh tân.
Các loại ho do ngoại cảm chữa lâu không khỏi, hoặc tái phát có ngứa họng ho khạc, khạc đờm khó, chứng ở biểu không rõ ràng đều có thể dùng:
Phép điều trị: Tuyên phế chỉ ho hóa đờm.
Phương thuốc: Chỉ thấu tán (Ỳ học tâm ngộ).
Cát cánh
2 đồng cân
Kinh giới
2 đồng cân
Tử uyển
2 đồng cân
Bách bộ
2 đồng cân
Bạch tiền
2 đồng cân
Cam thảo
1 đồng cân
Trần bì
1 đồng cân
Ý nghĩa: Tử uyển, Bạch tiền (Tân hàn) Bách bộ để chỉ ho hóa đờm. Cát cánh, Trần bì để tuyên giáng phế khí, chỉ ho tiêu đờm, Kinh giới (Tân ôn) để khu phong giải biểu, Cam thảo để điều hòa các vị thuốc, hợp với Cát cánh để thanh lợi hầu họng.
Ho khạc lâu, tà khí không trừ hết: phế khí dần dần bị tổn thương dùng:
Phép điều trị: Tuyên phế chỉ ho.
Phương thuốc: Tam ảo thang (Cục phương).
Ma hoàng, Hạnh nhân, Cam thảo lượng bằng nhau, tán mịn. Mỗi lần uống 5 đồng cân với nước sắc 5 lát gừng (đắp chăn cho ra mồ hôi để tuyên phế giải biểu) thêm Cù túc xác, Kha tử (để chỉ ho).
Ho do nội thương:
Thường do bản thân phế và các tạng khác có bệnh ảnh hưởng đến phế gây nên.
Ho do phế hư: Có phế âm hư và phế khí hư.
Ở đây chỉ nói về phế âm hư gây ho (còn phế khí hư thường khó thở có ho – xem ở chứng suyễn).
Triệu chứng: – Bệnh phát triển từ từ, ho khan ít đờm hoặc đờm có dính máu.
Ngoài ra còn triệu chứng âm hư như gầy, mệt mỏi, kém ăn, họng khô, sốt về chiều, ngũ tâm phiền nhiệt, mồ hôi trộm, mạch tế sác.
Phép điều trị:
1.1. Đờm không dính máu: Dưỡng âm thanh phế, hóa đờm chỉ khái.
Phương thuốc:
Cao bổ phế âm (Thuốc nam châm cứu – bổ âm)
Mạch môn tẩm gừng sao 200g
Cao quy bản 400g
Thiên môn tẩm gừng sao 120g
Cao ban long 400g
Bách bộ tẩm gừng sao 120g
Tử hà xa 2 cái
Mật ong 250 ml
Thiên, Mạch, Bách bộ sấy khô tán mịn, cho vào mật ong, cao Ban long, Cao quy bản, nấu nhỏ lửa, quấy đều canh thành cao, đổ thành bánh. Mỗi lần ăn 20g, ngày 2 lần hòa với nước cơm hay nước cháo nóng.
Ý nghĩa: Cao ban long, cao quy bản, Thiên môn Mạch môn Bách bộ để dưỡng âm, sinh tân nhuận phế chỉ ho, Tử hà xa đại bổ âm, mật ong để kiện tì hòa vị. Nếu có ho máu thêm Trắc bách diệp 8g sao đen hòa với cao uống.
Phương thuốc: Sa sâm mạch đông thang (Ôn bệnh điều biện) gia giảm.
Sa sâm 3 đồng cân
Sa sâm 3 đồng cân
Ngọc trúc 2 đồng cân
Sinh Cam thảo 1 đồng cân
Sinh biển đậu 1,5 đồng cân
Mạch môn 3 đồng cân
Tang diệp 1,5 đồng cân
Mạch môn 3 đồng cân
Tang diệp 1,5 đồng cân
Thiên hoa phấn 1,5 đồng cân
Ý nghĩa: Tang diệp để thanh táo tuyên phế. Sa sâm, Mạch môn, Ngọc trúc để dưỡng âm sinh tân nhuận phế chỉ ho. Cam thảo để kiện tỳ bổ trung. Thiên hoa phấn, Biển đậu để dưỡng vị âm.
Có thể thêm Bối mẫu, Hạnh nhân để chỉ ho hóa đờm.
1.2. Nếu có ho máu: thêm Bạch cập, Ngẫu tiết, Sâm tam thất để chỉ huyết.
Phương thuốc: chữa ho máu (Trích từ Nam dược thần hiệu – Ho)
Phổi lợn luộc chín sắt miếng, Ý dĩ sao qua tán mịn. Trộn hai thứ ăn như thức ăn. Theo ý dùng tạng cùng tên để chữa bệnh ở tạng đó trên người.
Rễ cỏ tranh, Tang,bạch bì, Hắc chi tử (đều nhau) sắc uống khi có ho máu để thanh nhuận phế, tuyên phế, chỉ huyết.
Ho do hỏa nhiệt, hoặc khạc đờm có dính máu. Hoa hoè (sao đen) Tang bạch bì (tẩm mật nướng) Chi tử (sao với đồng tiện), mỗi vị 3 đồng cân. Ô mai 1 quả. sắc uống lúc nóng xa bữa ăn.
Ho lâu ngày có máu: Ngũ bội tử sao qua tán nhỏ, mỗi lần uống 1 đồng cân với nước trà hòa với nước cơm sau bữa ăn.
Ho nặng quá thổ huyết. Rễ dâu (kiêng sắt) ngâm nước gạo 3 đêm, bỏ lớp vỏ vàng ở ngoài và lõi cứng ở trong, cho vào 4 lạng gạo nếp cùng sấy khô tán nhỏ, mỗi lần 1 – 2 đồng cân cùng với nước cơm. Cao thiên môn 1 thìa con, hòa với nước sôi để uống. Ngày uống 2 lần sáng và chiều. Nếu ỉa lỏng thì uống với rượu. Cách chế: Thiên môn rửa, bóc bỏ lõi, giã lấy 10 cân nước cốt cho vào nồi đất cô thành cao, đến còn 3 cân, cho vào 4 lạng mật ong, cô đến thành châu (nhỏ vào nước không tan) thì lấy ra đổ vào hũ sành, bịt miệng chôn xuống đất 3 ngày cho hết hỏa độc rồi dùng.
Ho do đờm thấp
Triệu chứng:
Ho có nhiều đờm, đờm trắng, dính, ngực bụng trên cảm thấy khó chịu, hoặc ăn không ngon mỏi mệt, mạch nhu hoạt, rêu lưỡi trắng cáu. Đó là do đờm tích ở phế, làm phế khí không thông lợi gây nên.
Phép điều trị: Kiện vận tỳ vị, táo thấp hóa đờm.
Phương thuốc: Bình vị tán (Cục phương)
Thương truật
15g
Hậu phác chế
9g
Gừng
9g
Trần bì
9g
Cam thảo sao
4g
Đại táo
3 quả
Ý nghĩa: Thương truật, Hậu phác, Trần bì để táo thấp hóa đờm, Cam thảo để điều hòa các vị thuốc, hòa trung, Gừng, Táo để điều hòa tì vị. Có thể thêm Hạnh nhân, Ý dĩ để tuyên phế hóa đờm.
Phương thuốc (Trích từ Thuốc nam châm cứu – Ho)
Trần bì 12g Bán hạ 12g
Hậu phác 12g Cam thảo dây 12g
Hạt cải củ (la bặc tử) 12g Gừng 6g
Hạt cải bẹ (bạch giới tử)10g
Ý nghĩa: Trần bì, Bán hạ, Gừng, Hậu phác để táo thấp hóa đờm, Bạch giới tử đế ôn phế li khí tiêu đờm khoan hung, La bặc tử để tiêu thực đạo trệ, hành khí trừ đờm, Cam thảo để điều hòa các vị thuốc, hòa trung.
Khi chứng đã giảm dùng:
Phương thuốc: Lục quân tử thang (Cục phương) gia giảm:
Nhân sâm
10g
Bạch truật
9g
Phục linh
9g
Cam thảo
6g
Trần bì
9g
Bán hạ
12g
Ý nghĩa: Sâm Linh Truật Thảo để kiện vận tỳ vị. Bạch giới tử, La bặc tử, Trần bì, Bán hạ để hóa đờm hạ khí chỉ ho. Nếu có đau lan ra lưng có thể thêm Chỉ xác, Cát cánh để lý khí chỉ ho.
Nếu ho lâu ngày song người chưa suy yếu:
Phương thuốc: (Trích từ Nam dược thần liệu – Ho)
Trần bì, Thần khúc, Sinh khương sấy khô. Lượng bằng nhau. Tán mịn, làm hồ hoàn bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 40 – 50 hoàn sau bữa ăn và trước khi ngủ để lý khí hóa đờm kiện tỳ tiêu thực.
Nếu ho có đờm trắng bọt trắng mặt bệch không sốt hoặc ăn vào là nôn. Đó là do phế vị hư hàn.
Phương thuốc: Ôn phế thang (Chính trị chuẩn thằng)
Nhân sâm, Đồng nhũ phấn, Bán hạ, Nhục quế, Quất hồng, Can khương (bào) đều một lạng, Mộc hương, Cam thảo đều 5 đồng cân. Mỗi lần sắc uống 1 lạng.
Ý nghĩa: Quế, khương để ôn trung, Bán hạ, Trần bì, Cam thảo, Mộc hương để lý khí kiện tỳ, trị ho hóa đờm, Sâm, nhũ phấn để bổ khí, huyết.
Nếu khí hư không dủ để lên phế gây lúc ho lúc không, mặt vàng bệch, ít thần, mạch hư vi yếu, dùng: Phương thuốc: Bổ trung ích khí thang (Tỳ vị luận) gia giảm.
Hoàng kỳ
15-20g
Cam thảo
5g
Nhân sâm
10g
Đương quy
10g
Quất bì
6g
Bạch truật
10g
Thăng ma
3g
Sài hồ
3g
Bỏ Sài hồ, Thăng ma (vì không có hiện tượng khí hư hạ hãm) thêm Mạch môn, Ngũ vị.
Ý nghĩa: Kỳ, Sâm, Truật, Thảo để ích khí kiện tỳ dưỡng phế khí, Trần bì để lý khí, Đương quy để bổ huyết, Mạch môn Ngũ vị để liêm khí dưỡng phế âm chỉ ho.
Ho do Can.
Can khí
Triệu chứng: Ho thành tiếng và có cái gì như vướng ở cổ họng khạc không ra hay suy nghĩ, dễ cáu gắt, (do thất tình uất kết, đờm kết vôi khí, làm cho đường khí của phế không lợi gây ho khạc).
Phép điều trị: Lý khí hóa đờm.
Phương thuốc: Tứ thất thang gia vị.
Tứ thất thang: (Cục phương).
Tô diệp
2 đồng cân
Bán hạ
2 đồng cân
Hậu phác
2 đồng cân
Phục linh
2 đồng cân
Sinh khương
2 đồng cân
Đại táo
2 đồng cân
Gia: Hạnh nhân 2 đồng cân
Cát cánh
2 đồng cân
Ý nghĩa: Tô diệp, Sinh khương, Hạnh nhân, Cát cánh để tuyên phế hóa đờm, Bán hạ, Trần bì để trừ thấp hóa đờm, Hậu phác, Cam thảo để kiện tỳ lý khí.
– Nếu khi tức giận, khí nghịch lên gây ho, thì thêm Bạch thược, Trần bì, Chỉ xác để liễm can lý khí, Câu đằng để bình can. Đan bì, Chi tử để thanh nhiệt.
Phương thuốc: Thanh khí hóa đờm (Y phương thảo) Hoàng cầm, Qua lâu, Trần bì, Hạnh nhân, Chỉ thực, Phục linh đều 1 lạng. Bán hạ, Nam tinh đều l,5g.
Ý nghĩa: Nam tinh để thanh nhiệt hóa đờm, Hoàng cầm, Qua lâu để giáng hỏa của phế, hóa nhiệt đờm. Trần bì, Chỉ thực để lý khí, Phục linh để kiện tỳ lợi thấp, Hạnh nhân để lợi phế khí, Bán hạ để táo thấp hóa đồm.
Can hỏa phạm phế.
Triệu chứng: Ho sặc có đau cạnh sườn, họng khô đau, mặt đỏ, lưỡi ít tân dịch, rêu vàng mỏng, mạch huyền sác.
Phép điều trị: Thanh can tả hỏa, nhuận phế hóa đờm.
Phương thuốc (Trích từ Thuốc Nam châm cứu – Ho).
Rau má (Liên tiền thảo) 12g
Lá tre (Trúc diệp) 12g
Vỏ rễ dâu (Tang bạch bì) 12g
Chi tử sao 8gLá chanh 8g
Cam thảo dây 8gPhương thuốc (Trích từ Thuốc nam châm cứu – Ho)
Bách hộ 400g vỏ rễ dâu 400gThiên môn 800g Mạch môn 80gSắc cô 2 lần, được 1 lít cao nước pha đường / mật cho đủ ngọt đổ vào chai. Mỗi ngày uống 3 lần X 1/2 thìa canh.Phương thuốc: Tả bạch tán (Tiểu nhi dược chứng trực quyết) gia vị:Tang bạch bì 30g Địa cốt bì 30g
Ý nghĩa: Hoàng cầm, Rau má, Sơn chi, Địa cốt bì, Tang bạch bì, Trúc diệp, Hoàng liên, Tri mẫu để thanh tả can hỏa, phế nhiệt và tâm hỏa. Qua lâu, Bối mẫu, Bách bộ, Thiên môn, Mạch môn để nhuận phế hóa đờm chỉ ho. Trần bì, Bán hạ, Phục linh, Cam thảo, Nam Tinh, Cát cánh, Hạnh nhân, Quất diệp để lý khí hóa đờm chỉ ho.
Ho do thận.
Ho do thận âm hư.
Triệu chứng: Ho khan, có thể ho ra máu, đau lưng, sốt chiều, ngũ tâm phiền nhiệt. Đó là do hư hỏa bốc lên gây nên phế táo.
Phép điều trị: Tư âm bổ phế.
Phương thuốc: Sinh mạch địa hoàng thang.
Tức Lục vị hoàn gia, Nhân sâm, Mạch môn, Ngũ vị để tư dịch thêm tinh liễm khí.
Phương thuốc: Mạch vị địa hoàng hoàn (Y cấp)
Thục địa
36g
Sơn thù
12g
Hoài sơn
12g
Trạch tả
8g
Phục linh
8g
Đan bì
8g
Mạch môn
12g
Ngũ vị
8g
Thêm Nhân sâm – A giao.Ý nghĩa: Lục vị thêm A giao, Mạch môn để tư âm bổ phế ngũ vị để liễm khí nạp thận, Nhân sâm để bổ khí.
Ho do thận dương hư.
Triệu chứng: Ho khạc suyễn nghịch, thắt lưng yếu gối mỏi người lạnh, chân tay lạnh, có thể phù nề. Đó là do thủy tràn lên thành đờm gây ho.
Phép điều trị: Ôn bổ thận dương.
Phương thuốc: Thận khí hoàn (Kim quỹ yếu lược).
Địa hoàng 8 lạng
Sơn dược 4 lạng
Sơn. thù 4 lạng
Trạch tả 3 lạng
Phục linh 3 lạng
Đan bì 3 lạng
Quế chi 1 lạng
Phụ tử 1 lạng
Thêm: ích trí nhân, Trầm hương.
Ý nghĩa: Mục đích để “ích hỏa chi nguyên, dĩ tiêu âm ế. Có nghĩa không chỉ bổ hỏa mà còn sinh thiếu hỏa, tức sinh thận khí để tiêu phù nề.
Ho do tâm hỏa ảnh hưởng đế phế.
Triệu chứng: Ho và tâm thống, họng như tắc.
Phép điều trị: Thanh tâm chỉ ho.
Phương thuốc: Đạo xích tán (Tiểu nhi dược chứng trực quyết)
Sinh địa
12g
Mộc thông
12g
Sinh cam thảo
12g
Hạnh nhân
12g
Thêm Mạch môn
12g
Ý nghĩa: Sinh địa để lương huyết tư âm nhằm ức chế
tâm hỏa. Mộc thông để thanh nhiệt ở kinh tâm, thanh lợi tiểu tràng lợi thủy, Cam thảo để thanh nhiệt giải độc điều hòa các vị thuốc, Mạch môn, Hạnh nhân để nhuận phế chỉ ho.
Ho do đởm. Ho thường có mật đắng.
Phép điều trị: Hòa giải thiếu dương.
Phương thuốc: Tiểu sài hồ thang (Thương hàn luận)
Sài hồ
12g
Hoàng cầm
9g
Nhân sâm
6g
Bán hạ
9g
Sinh khương
9g
Cam thảo
5g
Đại táo
4 quả
Ý nghĩa: Sài hồ để sơ tà thấu biểu, Hoàng cầm để thanh tướng hỏa ở thiếu dương. Bán-hạ để hòa vị giáng nghịch chỉ ho. Sâm, Thảo, Khương, Táo để ích vị khí, sinh tân dịch, hòa dinh vệ, làm cho thượng tiêu được thông, tân dịch đi xuống, vị khí hòa, và ra mồ hôi thì hết bệnh.
Ho do tiêu trường: Khi ho có đánh trung tiện.
Phương thuốc: Thược dược cam thảo thang để hoãn cấp chỉ đau.
Thược dược, Cam thảo mỗi vị 4 đồng cân sắc uống. Thêm Mạch môn, Hạnh nhân, Tang bì để thanh nhiệt nhuận phế chỉ ho.
Ho do bàng quang: khi ho có són đái.
Phương thuốc: Phục linh cam thảo thang.
Phục linh 2 đồng cân Cam thảo 1 đồng cân
Quế chi 2,5 đồng cân Gừng 5 lát to
Thêm Bán hạ 2 đồng cân
Sắc uống.
Ý nghĩa: Quế chi để phấn chấn bàng quang, Phục linh, Cam thảo, Gừng, Bán hạ để kiện tỳ thảm thấp hóa đờm, giáng nghịch chỉ ho.
Ho do tam tiêu. Ho có bụng đầy, không muốn ăn uống.
Phương thuốc: Thất khí thang (Cục phương) gia: Hoàng liên, Chỉ thực.
Bán hạ
5 đồng cân
Hậu phác
3 đồng cân
Phục linh
4 đồng cân
Tử tô
2 đồng cân
Gừng
3 lát
Táo
3 quả
Ý nghĩa: Bán hạ, Phục linh để giáng nghịch chỉ ho, kiện tỳ hóa đờm, Tử tô, Hậu phác để giáng khí hóa đờm trừ đầy. Hoàng liên để thanh nhiệt, Khương Táo để ích khí hòa trung.
Tóm tắt: Loại chứng trị tài có một tóm tắt theo một cách khác như sau:
Nói chung, nếu ho do tạng lâu không khỏi có thể truyền sang phủ. Như can sang đởm, tâm sang tiểu trường, phế sang đại trường, thận sang bàng quang. Nếu ho do 5 phủ không khỏi sẽ truyền sang tam tiêu.
Ho thường không tách khỏi Phế, Tỳ, Thận.
Phế tích đờm, tỳ sinh đờm, phế với thận là quan hệ mẹ con.
Nếu có đờm gây ho, thì coi trọng đờm, chữa tỳ.
Nếu ho động đến đờm, thì coi trọng ho, chữa phế.
Nêu không có đờm mà ho, thì coi trọng âm hư, chữa thận. Trong ho khan này cần lưu ý có hỏa hay không có hỏa.
Nếu tạng bình không có hỏa thì là phế hư. Bổ khí sẽ sinh được tinh, thuốc dùng: Sâm, Thục địa, Đương quy, Bạch, Truật, Cam thảo (Ngũ phúc ẩm) là tốt.
Nếu tạng hơi hàn, phải dùng thuốc cay mới nhuận được và bổ dương thì có thể tự sinh âm. Dùng phương thuốc Lục quân tử thang là tốt.
Hoặc phương thuốc Lý âm tiễn (Thục địa 3 đồng cân, Đương quy 2 đồng cân, Bào khương 2 đồng cân, Cam thảo 1 đồng cân, Nhục quế 1 đồng cân).
Nếu nội nhiệt có hỏa, phải bảo vệ chân âm. Tráng thủy sẽ chế được hỏa.
Phương thuốc: Nhất âm tiễn (Loại chứng trợ tài)
Thục địa
3 đồng cân
Sinh địa
2 đồng cân
Bạch thược
2 đồng cân
Mạch môn
2 đồng cân
Đan sâm
2 đồng cân
Ngưu tất
0,5 đồng cân
Cam thảo
1 đồng cân
Nếu ho lâu không khỏi, đều không nên dùng phép thanh, mà nên dùng phép Bổ nguyên khí, và khạc sẽ tự hết.
Có thể dùng Bát vị địa hoàng hoàn (thận).
Hoặc Lý trung thang gia vị (Tỳ) Sâm, Khương, Truật, Thảo thêm Trần bì, Phục linh, Tế tân, Bán hạ, Ngũ vị tử, Đại táo.
Hoặc Lục vị hồi dương ẩm (Sâm, Phụ, Khương đều 2 đồng cân, Thục 5 đồng cân, Quy 3 đồng cân, Thảo 1 đồng cân, có mồ hồi – thêm Kỳ) (tỳ thận).
Nếu chữa ho theo mùa thì chú ý những điểm:
Mùa xuân, ho có liên quan đến khí của mộc thăng, cần có thuốc giáng khí như Tiền hồ, Hạnh nhân, Qua lâu nhân.
Mùa hạ, ho có liên quan đến khí của hỏa thượng viêm, cần có thuốc lương (mát) như Sa sâm, Thiên hoa phấn, Mạch môn, Tri mẫu, Huyền sâm.
Mùa thu, ho có liên quan đến khí táo thừa kim, cần có thuốc thanh nhuận như: Ngọc trúc, Bối mẫu, Hạnh nhân, A giao, Bách hợp.
Mùa đông, ho thường do phong hàn phạm phế, cần có thuốc ôn tán như: Tô diệp, Xuyên khung, Quế chi, Ma hoàng.
Khạc
Khạc cấp do cảm phong.
Triệu chứng: chảy mũi trong hoặc ố phong tự hãn mạch phù.
Phép điều trị: Giải biểu chỉ khạc.
Phương thuốc: Quế chi thang (Thương hàn luận) gia Thông bạch, Đậu xị, Hạnh nhân, Tiền hồ.
Quế chi 3 đồng cân Bạch thược 3 đồng cân
Cam thảo chích 2 đồng cân Sinh khương 3 đồng cân
Đại táo 3 quả
Ý nghĩa: Quế chi Khương, Thông bạch để giải cơ phát tán vệ khí ở phần biểu, khu phong, Thược để ích âm liễm dinh, Táo để ích khí bổ trung, Phòng phong để khu phong, Hành nhân, Tiền hồ để nhuận phế tuyên phế chỉ khạc.
Khạc cấp do cảm hàn.
Triệu chứng: Vai lưng trên ớn lạnh, hoặc ố hàn không mồ hôi, mạch khẩn.
Phép điều trị: Giải biểu chỉ khạc.
Phương thuốc: Hoa cái tán (Cục phương)
Ma hoàng
1 đồng cân
Tô tử
1 đồng cân
Tang bì
1 đồng cân
Hạnh nhân
1 đồng cân
Xích linh
1 đồng cân
Quất hồng
1 đồng cân
Cam thảo Táo
0,5 đồng cân 1 quả
Khương
3 lát
Ý nghĩa: Ma hoàng để thông dương khí ở biểu làm ra mồ hôi, tuyên phế bình suyễn. Quế chi để ôn kinh tán hàn thông kinh, Hạnh nhân, Tổ tử, Tang bì, Quất hồng để nhuận phế, giáng hí chỉ ho, Thảo Khương Táo để hòa trung ích vị điều hòa các vị thuốc.
Khạc cấp do cảm phong hàn.
Triệu chứng: mũi ngạt, tiếng vỡ nặng.
Phép điều trị: Giải biểu hóa đờm chỉ khạc.
Phương thuốc: Nhị trần thang gia vị (Cục phương).
Trần bì
1,5 đồng cân
Bán hạ
2 đồng cân
Phục linh
2 đồng cân
Cam thảo
1 đồng cân
Thêm
Hạnh nhân
1 đồng cân
Bạch giới tử
0,5 đồng cân
Tử tô
2 đồng cân
Xuyên khung
2 đồng cân
Cát cánh 1 đồng cân
Sinh khương 3 lát
Đại táo 3 quả
Ý nghĩa: Tử tô, Xuyên khung, Cát căn để tán phong hàn thư cân giáng khí chỉ ho, Nhị trần để táo thấp hóa đờm, Bạch giới tử để ôn phế lý khí tiêu đờm, Hạnh nhân để nhuận phếhóa đờm, Cát cánh để lợi phế khí, Khương táo để ích khí hòa vị.
Khạc do hỏa nhiệt.
Triệu chứng: Đờm quánh họng khàn và không thông lợi.
Phép điều trị: Thanh hỏa nhuận đờm.
Phương thuốc: Mạch đông thang (Kim quỹ yếu lược):
Mạch môn
2 lạng
Bán hạ
3 đồng cân
Sâm
3 đồng cân
Cam thảo
2 đồng cân
Gạo tẻ
2 đồng cân
Đại táo
3 quả
Bỏ Bán hạ thêmSa sâm
2 đồng cân
Qua lâu
2 đồng cân
Cát cánh
1 đồng cân
Ý nghĩa: Mạch môn, Sa sâm để dưỡng phế âm thanh hư hỏa, Nhân sâm để bổ trung ích khí, Qua lâu, Cát cánh để hóa đờm tuyên phế. Cam thảo, Cát cánh đê lợi hầu họng, Gạo Táo để ích khí hòa vị.
Khạc do cảm thấp
Triệu chứng: Mặt mắt phù thũng.
Phép điều trị: Giải thấp tà chỉ khạc.
Phương thuốc: Nhị trần thang gia, Hạnh nhân, Thông thảo, Hoạt thạch, Bối mẫu.
Ý nghĩa: Nhị trần thang để táo thấp hóa đờm, kiện tỳ thảm thấp, Hạnh nhân, Bối mẫu để nhuận phế tuyên phế, Hoạt thạch, Thông thảo để trừ thấp lợi thủy.
Khạc do táo.
Triệu chứng: Khạc vào mùa thu, khát, thỏ nhanh, khạc đờm khan hoặc không nhiều.
Phép điều trị: Nhuận táo chỉ khạc.
Phương thuốc: Phục mạch thang: (Thương hàn luận)
Cam thảo
4 đồng cân
Sinh khương
2 đồng cân
Quế chi
2 đồng cân
Nhân sâm
2 đồng cân
A giao
2 đồng cân
Sinh địa
3 đồng cân
Mạch môn
8 đồng cân
Ma nhân
8 đồng cân
Đại táo
4 quả
Ý nghĩa: Thảo Sâm, Táo để ích khí tâm tỳ. Sinh địa, Mạch môn, A giao, Ma nhân để tư âm dưỡng âm bổ huyết nhuận phế sinh tân, bỏ Quế Khương, thêm Hạnh nhân Ngọc trúc, Sa sâm để tăng tác dụng nhuận phế tuyên phế chỉ khạc.
Phương thuốc: Tang cúc ẩm (xem ho do phong nhiệt).
Khạc lâu ngày không khỏi, do tà ở phế làm tổn thương phế.
Phương thuốc: Hạnh tô tán (Ôn bệnh điều biện):
Hạnh nhân
2 đồng cân
Cát cánh
2 đồng cân
Chỉ xác
2 đồng cân
Bán hạ
2 đồng cân
Quất hồng
2 đồng cân
Tang bì
2 đồng cân
Cam thảo
2 đồng cân
Phục linh
2 đồng cân
Tử tô
2 đồng cân
Tiền hồ
2 đồng cân
Ý nghĩa: Tô diệp, Tiền hồ để giải biểu tán tà, Hạnh nhân, Cát cánh để tuyên phế đạt tà, lợi phế chỉ ho. Bán hạ, Phục linh để trừ thấp hóa đờm, Chỉ xác, Trần bì để lý khí khoan hung. Khương Táo Thảo để điều hòa dinh vệ.
Trong những tuần trước khi thực hiện, bạn sẽ tham gia một buổi khám sức khỏe trước khi nhập viện để đánh giá xem ca phẫu thuật có phù hợp hay không.
Đây cũng là thời điểm tốt để đặt ra bất kỳ câu hỏi nào bạn có về quy trình này.
Trong quá trình đánh giá này, bạn có thể:
Thực hiện một cuộc kiểm tra thể chất.
Được hỏi về tiền sử bệnh, bao gồm bất kỳ loại thuốc nào bạn đang dùng, bất kỳ dị ứng nào bạn có và liệu bạn có từng phản ứng với thuốc gây mê trước đây không.
Thực hiện các xét nghiệm để kiểm tra sức khỏe tổng quát và sức khỏe tim mạch của bạn – các xét nghiệm này có thể bao gồm xét nghiệm máu, X-quang, điện tâm đồ (ECG) và siêu âm tim.
Nếu bạn hút thuốc, bạn sẽ được khuyên ngừng hút thuốc trước khi phẫu thuật vì điều này có thể giảm nguy cơ biến chứng.
Bạn cũng sẽ được thông báo khi nào cần ngừng ăn và uống trước khi thực hiện.
Khi thực hiện phẫu thuật, bạn có thể sẽ ở bệnh viện khoảng một tuần, vì vậy bạn cần chuẩn bị một số thứ thực tế trước.
Những điều này bao gồm mang theo quần áo, đồ vệ sinh cá nhân và bất kỳ thiết bị nào bạn sử dụng, chẳng hạn như gậy đi bộ hoặc máy trợ thính.
Ca phẫu thuật
Thay thế van động mạch chủ được thực hiện dưới thuốc gây mê toàn thân.
Điều này có nghĩa là bạn sẽ ngủ trong suốt quá trình phẫu thuật và sẽ không cảm thấy đau trong khi thực hiện. Ca phẫu thuật thường kéo dài vài giờ.
Trong quá trình thực hiện:
Một vết rạch lớn (khoảng 25 cm) sẽ được thực hiện dọc theo giữa xương ức của bạn để cho phép bác sĩ phẫu thuật tiếp cận tim của bạn; mặc dù trong một số trường hợp có thể thực hiện vết rạch nhỏ hơn.
Các ống sẽ được chèn vào tim và các mạch máu lớn, được kết nối với một máy tim-phổi (bypass) – máy này sẽ thay thế công việc của tim bạn trong suốt quá trình phẫu thuật.
Thuốc sẽ được sử dụng để ngừng tim của bạn và động mạch chính (động mạch chủ) sẽ được kẹp lại – điều này cho phép bác sĩ phẫu thuật mở tim và thực hiện phẫu thuật mà không có máu bơm qua.
Động mạch chủ sẽ được mở và van động mạch chủ bị hỏng sẽ được gỡ bỏ.
Van mới sẽ được khâu vào vị trí bằng chỉ nhỏ.
Tim của bạn sẽ được khởi động lại bằng cách sử dụng sốc điện có kiểm soát trước khi bạn được đưa ra khỏi máy tim-phổi.
Xương ức của bạn sẽ được nối lại bằng dây kim loại và vết thương trên ngực sẽ được khâu lại bằng chỉ tan.
Lựa chọn van thay thế
Trước khi thực hiện thay thế van động mạch chủ, bạn sẽ cần quyết định loại van thay thế nào là phù hợp nhất cho bạn.
Có 2 loại van thay thế chính:
Van cơ học được làm từ vật liệu tổng hợp.
Van sinh học được làm từ mô động vật.
Mỗi loại có những ưu điểm và nhược điểm mà bác sĩ sẽ thảo luận với bạn.
Van cơ học
Ưu điểm chính của van cơ học là chúng bền và ít có khả năng cần thay thế hơn.
Điều này có nghĩa là chúng thường tốt hơn cho những người trẻ tuổi khi thực hiện thay thế van.
Nhưng có một xu hướng hình thành cục máu đông có thể nguy hiểm trên van, vì vậy cần điều trị suốt đời bằng thuốc chống đông như warfarin để ngăn chặn điều này.
Điều này sẽ làm tăng nguy cơ chảy máu quá mức từ vết cắt hoặc chấn thương, đặc biệt là khi bạn lớn tuổi, và có thể không phù hợp nếu bạn đã có vấn đề chảy máu đáng kể trong quá khứ.
Van cơ học cũng có thể phát ra âm thanh click nhẹ, điều này có thể gây khó chịu ban đầu, nhưng dễ dàng làm quen.
Van sinh học
Ưu điểm chính của van sinh học là có ít nguy cơ hình thành cục máu đông, do đó điều trị chống đông suốt đời thường không cần thiết.
Nhưng van sinh học có xu hướng mòn nhanh hơn một chút so với van cơ học và có thể cuối cùng cần được thay thế sau nhiều năm.
Điều này có nghĩa là chúng thường tốt hơn cho những người lớn tuổi khi thực hiện thay thế van.
Bệnh với đặc điểm là bệnh nhân bị đi bị lại những cơn kịch phát rối loạn chức năng của não, đặc biệt là những rối loạn về tri thức, về hoạt động vận động (có hoặc không bị co giật), về cảm giác và giác quan, hoặc về hành vi.
Cơn động kinh xảy ra do phóng xung của các nơron, siêu đồng bộ và tự duy trì, dễ tác động tới:
Cả hai bán cầu đại não (gọi là động kinh cơn lớn hoặc cơn toàn thể)
Toàn bộ cả một bên bán cầu đại não ( động kinh một bên)
Một phần của một bán cầu đại não (động kinh cục bộ).
Căn nguyên
ĐỘNG KINH NGUYÊN PHÁT (vô căn): trong đa số trường hợp động kinh, dù bằng các phương pháp khám xét hiện đại, người ta đều không tìm thấy một nguyên nhân nào được xác định rõ rệt hoặc một tổn thương nào của não có thể được coi là nguồn gốc của bệnh. Tính chất di truyền của bệnh động kinh đã được biết rõ, và đã được khẳng định bởi sự kiện là ở cha mẹ của người bị bệnh động kinh có một số những biến đổi đặc biệt của điện não đồ.
ĐỘNG KINH THỨ PHÁT (triệu chứng)
Do những quá trình bệnh lý ở não:
+ u não: những cơn động kinh có thể là biểu hiện duy nhất của khối u ở trên lều tiểu não, hiếm hơn là của khối u ở hố sọ sau.
+ Apxe não, những u lao, bệnh ấu trùng sán lợn (bệnh lợn gạo), bệnh do toxoplasma (ký
sinh trùng đơn bào), bệnh giang mai thần kinh, bệnh uốn ván, bệnh dại, những khu trú não của bệnh AIDS, bệnh sốt rét do p. falciparum và những bệnh nấm toàn thân, đặc biệt là nhiễm nấm cryptococcus (nấm men cryptococcus neoformans), tất cả đều có thể gây ra cơn động kinh.
+ Chấn thương sọ não: gây chảy máu từ động mạch màng não giữa, lún xương sọ chèn ép vào não, xuất huyết dưới màng nhện, hoặc những mảnh xương vụn kích thích vào vỏ não đều có thể gây ra cơn động kinh. Động kinh sau chấn thương là do các sẹo hình thành vài tháng sau khi bị chấn thương và có thể là cơn động kinh toàn thể hoặc khu trú (gọi là động kinh Bravais-Jackson).
+ Xuất huyết não hoặc nhồi máu não.
+ Viêm màng não, viêm màng não-não.
+ Các bệnh não ở trẻ em, những chấn thương sản khoa.
+ Loạn sản thần kinh-ngoại bì, xơ cứng não củ Bourneville, bệnh Alzheimer.
+ Di dạng động-tĩnh mạch bẩm sinh: có thể gây ra cơn động kinh cục bộ.
Do những quá trình toàn thân ảnh hưởng đến não hoặc có khu trú ở não:
+ Rối loạn tuần hoàn: tổn thương não có thể chỉ giới hạn (gây ra cơn động kinh cục bộ) trong trường hợp khối máu tụ trong não hoặc dưới màng cứng, nghẽn mạch hoặc nhũn não. Ngược lại, quá trình có thể lan toả (gây ra cơn động kinh toàn bộ) trong bệnh tăng huyết áp động mạch.
+ Nhiễm độc: nhiễm độc mạn tính chì hoặc thuỷ ngân. Các cơn co giật có thể xảy ra khi bị ngộ độc rượu, strychnin, long não, picrotoxin, pentetrazol, oxyd carbon (CO), chì.
+ Nhiễm khuẩn: phần lớn những bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có thể gây ra những cơn co giật ở trẻ em (xem phần dưới).
+ Những rối loạn chuyển hoá: những cơn co giật có thể xảy ra ở bệnh nhân nhiễm urê huyết, bệnh sản giật, nhiễm kiềm, hạ đường huyết, giảm calci huyết.
+ Thiếu oxy ở não: hội chứng Adams-Stokes (thiếu máu não cấp tính), ngộ độc co, ngừng thở kéo dài, suy nhược.
+ Sốc phản vệ: bệnh huyết thanh, dị ứng thuốc.
+ Hội chứng cai nghiện: những cơn co giật có thể xảy ra trong trường hợp nghiện rượu, nghiện thuốc ngủ và các thuốc hướng thần gây dung nạp và phụ thuộc sinh lý (nghiện).
+ Tăng thân nhiệt, cảm nóng.
Sinh lý bệnh
Ổ sinh động kinh được hình thành bởi những nơron (tế bào thần kinh) gây ra những đợt phóng xung thần kinh tần số cao, cách quãng. Những đợt tăng kích thích tại chỗ này có thể là bẩm sinh hoặc do một quá trình bệnh lý tại chỗ (rõì loạn mạch máu, chuyển hoá, viêm, ngộ độc hoặc ung thư). Những biểu hiện lâm sàng của cơn động kinh phụ thuộc vào vị trí của ổ sinh động kinh hơn là vào nguyên nhân của cơn động kinh. Những biểu hiện này cũng phụ thuộc vào kiểu cách mà những kích thích từ ổ sinh động kinh lan toả ra các phần khác của não bộ. Nếu những kích thích này lan toả ra toàn bộ các phần của não, thì sẽ gây ra cơn động kinh toàn thể, với những co cứng và co giật rung và bệnh nhân bất tỉnh (gọi là động kinh cơn lớn). Nếu ổ sinh động kinh chỉ kích thích tới những vùng lân cận, thì sẽ xảy ra cơn động kinh bộ phận, với những biểu hiện phụ thuộc vào vị trí của ổ sinh động kinh và mức độ rộng của phần thần kinh bị kích thích lan toả tới. Trong trường hợp này thì triệu chứng-tín hiệu khởi đầu của cơn động kinh, nếu xuất hiện nhiều lần qua mỗi cơn liên tiếp, sẽ có giá trị lớn về khu trú bệnh: khu trú ở hồi trán lên trong cơn động kinh Bravais- Jackson, khu trú ở thuỳ đỉnh trong cơn động kinh cảm giác, vỏ thuỳ chẩm trong cơn động kinh thị giác, vỏ thuỳ thái dương trong cơn động kinh thính giác, V..V…Trong những trường hợp khác nữa, ổ sinh động kinh có thể im lặng về lâm sàng, nhưng lại gây ra những rối loạn của não ở tầm xa, ví dụ cơn vắng ý thức hoặc cơn rung giật cơ. Hoạt động sinh động kinh được duy trì trong thời gian cơn diễn biến là do cơ chế phản hồi (feed-back), còn tác động ức chế toàn bộ hoạt động của não quyết định việc cơn động kinh kết thúc và tình trạng suy giảm sau cơn kịch phát. Những cơn động kinh toàn thể thường có xuất phát điểm dưới vỏ não, trong khi các cơn cục bộ lại thường có điểm xuất phát ở vỏ não. Những cơn động kinh thường được phát động bởi một kích thích bên ngoài (động kinh phản xạ), hoặc bởi một xúc cảm bên trong.
Giải phẫu bệnh
Trong bệnh động kinh nguyên phát không thấy có tổn thương đặc hiệu.
Dịch tễ học
Bệnh động kinh nguyên phát thể hiện ở 0, 5% dân số, nam giới mắc bệnh nhiều hơn nữ giới. Bắt đầu có cơn thường ở tuổi trẻ em hoặc tuổi vị thành niên, với những cơn đầu tiên không có sốt, những trường hợp bắt đầu có cơn sau 20 tuổi gặp ít hơn, và rất hiếm có cơn đầu tiên xuất hiện sau 40 tuổi. Tuỳ theo tuổi, cơn động kinh có những nguyên nhân dưới đây (xếp theo tần suất giảm dần):
Ở trẻ em: chấn thương sản khoa, viêm não, loạn sản não, chấn thương sọ não ở tuổi rất nhỏ, động kinh nguyên phát.
Ở trẻ vị thành niên: động kinh nguyên phát, một trong những thể kể trên nhưng xuất hiện muộn.
Ở người lân: khối u não, chấn thương sọ não, rối loạn mạch máu, nghiện rượu, nghiện ma tuý, động kinh nguyên phát.
Ở người già: bệnh xơ cứng động mạch, khối u não.
Triệu chứng
Động kinh cơn lớn: với thuật ngữ này, người ta tập họp những biểu hiện chính (lớn) của cơn động kinh toàn thể, đặc hiệu bởi những cơn co giật đi kèm với mất tri thức (bất tỉnh);
Bảng 4.22. Chẩn đoán phân biệt những cơn co giật xảy ra đột ngột
Tai biến mạch máu não
Nghẽn mạch hay gặp hơn, so VỚI huyết khối hoặc chảy máu.
Cơn co giật ở trẻ em
Hay xảy ra dưới 5 tuổi, đặc biệt là khi trẻ bị sốt
Bệnh não do gan hoặc urê huyết
Thường hay kết hợp với nhiễm kiềm hô hấp.
Bệnh não tăng huyết áp
Huyết áp thường tăng trên 250/150 mm Hg. Dưới mức này có thể kèm theo cơn co giặt nếu huyết áp tăng đột ngột
Cơn động kinh
Có tiền sử động kinh, về chi tiết: xem trong phần này.
Hạ đường huyết
Đường huyết dưới 40 mg / 100ml (2,2 mmol/l)
Tăng áp lực thẩm thấu
Áp lực thẩm thấu của huyết tương cao hơn 330 mOsm / kg.
Tăng thân nhiệt
Nhiệt độ đo ở trực tràng cao hơn 41 °- 42°c.
Giảm natri huyết
Natri huyết dưới 110 mmol /I.
Thiếu máu não
Loạn nhịp tim, ngừng tim-ngừng thở, sốc giảm thể tích máu, hạ huyết
áp tư thế, V..V…
Viêm màng não, viêm não
Do vi khuẩn, Virus, nấm.
Dùng quá liều một số thuốc
Nhất là những thuốc chống trầm cảm có ba nhân vòng, aminophyllin và những dẫn xuất khác cua theophyllin, lidocain, Isoniazid, dẫn xuất của phenothiazin.
Hội chứng cai nghiện
Rượu, thuốc chống động kinh, thuốc ngủ (trong trường hợp lạm dụng thuốc và nghiện). Có tiền sử nghiện ma tuý.
Nhiễm độc thai nghén
hay kết hợp với nhiễm kiềm hô hấp
Chấn thương sọ não
Chấn thương mới hoặc cũ kết hợp với vỡ xương sọ hoặc với khối máu tụ dưới màng cứng.
Khối u hoặc apxe não
Khối u nguyên phát hoặc di căn. Đôi khi dị dạng động tĩnh mạch (khối máu tụ trong não hoặc dưới màng cứng tự phát)
Urê huyết
Thường kết hợp với nhiễm kiềm hô hấp
NHỮNG HIỆN TƯỢNG TRƯỚC CƠN
Tiền triệu:đôi khi báo trước bệnh một vài giờ hoặc một vài ngày trước khi cơn xảy ra. Tiền triệu bao gồm: đau nửa đầu, đau dây thần kinh, dị cảm, rối loạn tiêu hoá, hồi hộp, run, thay đổi tính nết, trầm cảm.
Tiền chứng: những biểu hiện tại chỗ, xuất hiện ngay trước khi cơn toàn thể xảy ra, thường bao giờ cũng thuộc cùng một typ ở mỗi bệnh nhân. Những tiền chứng này phụ thuộc vào điểm xuất phát của cơn động kinh.
Tiền chứng vận động:nháy mắt, nghiến răng, có những động tác nhanh ở các chi.
Tiền chứng cảm giác:cảm giác kiến bò, cảm giác cơn gió thổi suốt thân thể (thuật ngữ “aura”, tiền chứng, xuất phát từ cảm giác này), cảm giác rát bỏng.
Tiền chứng giác quan:có thể là:
+ Thị giác: (hoa mắt, ám điểm lập loè, ánh sáng có màu, ảo giác thị giác).
+ Thính giác (tiếng ù trong tai, nghe thấy tiếng chuông, tiếng nói).
Tiền chứng tâm thần: lo âu, cáu giận, gây hấn, hồi ức hoặc nằm mơ.
CƠN CO CỨNG CƠ-RUNG GIẬT
Pha (giai đoạn) co cứng: bắt đầu bởi một tiếng kêu khàn (đặc biệt, nhưng không nhất thiết). Ngay sau đó, bệnh nhân ngã xuống và bất tỉnh. Trong lúc ngã, bệnh nhân không có khả năng tránh được những chướng ngại (vật cản) và đôi khi bị tự thương. Bốn chi bệnh nhân duỗi thẳng cứng, lồng ngực và cơ hoành bất động trong thì thở ra hết sức. Bệnh nhân bị ngừng thở trong vài giây kèm theo ngạt thở với tím tái. Hai hàm răng cắn chặt, nghiến răng, hai mắt lộn tròng (nhãn cầu xoay ngược lên trên). Pha này kéo dài trung bình 30 giây.
Pha rung giật (hoặc co giật): bệnh nhân bị kích động bởi những động tác giật đột ngột, theo nhịp, các động tác giật này ngày càng mạnh hơn và thưa hơn. Những động tác co giật này đồng bộ giữa các phần khác nhau của toàn bộ cơ thể, lưỡi thè ra ngoài miệng thành từng đợt, trong khi hai hàm cắn chặt, do đó mà bệnh nhân tự cắn vào lưỡi mình, vào môi và vào mặt trong của má. Các cơ bám da mặt cũng tham gia vào cơn co giật (nên mặt bệnh nhân nhăn nhó), và thường hay tăng tiết nước bọt (do đó bệnh nhân sùi bọt mép ). Những cơ thắt giãn ra và bệnh nhân thường hay đái ra quần. Pha này kéo dài trung bình từ 2- 3 phút và kết thúc bởi một động tác giãn cơ đột ngột, kèm theo một tiếng thở dài sâu và bọt mép sùi ra có màu đỏ vì tăng tiết nước bọt và tự cắn vào lưỡi.
Pha hôn mê (bất tỉnh): bệnh nhân nằm bất động, cơ giãn ra, không cảm nhận, và mất tri thức. Bệnh nhân thở ầm ĩ, thở rông. Tím tái giảm dần và chẳng bao lâu bệnh nhân có vẻ như ngủ rất say. Pha này kéo dài một vài phút tới vài giờ và tri thức trở lại dần dần nhanh hoặc chậm. Bệnh nhân thường tỏ ra mệt rã rời và tâm trí u ám khi tỉnh lại, và không nhớ điều gì về cơn động kinh của mình.
Pha sau cơn kịch phát: sau cơn động kinh, thường thấy bệnh nhân có những rối loạn vận động (liệt, liệt nhẹ, co cứng), rối loạn cảm giác (giảm cảm giác, mất cảm giác, dị cảm), rối loạn giác quan (nhìn loá, giảm thính lực), rối loạn nội tạng (nôn), rối loạn tâm thần (động tác tự động, nổi giận dữ dội). Trong trạng thái hoàng hôn bệnh nhân có thể bỏ nhà ra đi nhưng không nhớ được gì.
Với tên gọi liệt Todd, người ta đã mô tả những trường hợp liệt nửa người thoáng qua xảy ra ngay sau cơn động kinh.
– Nhịp điệu của các cơn: cơn động kinh hay xảy ra ban đêm. Mới đầu thưa thớt, rồi trở nên ngày càng mau hơn và có thể thuyên giảm trong một vài tháng hoặc hàng năm. Rượu là một yếu tố thuận lợi làm dễ phát cơn.
Động kinh cơn nhỏ: thường người ta tập hợp dưới tên gọi này những biểu hiện nhẹ (nhỏ) của cơn động kinh toàn thê, thấy chủ yếu ở trẻ em, và đặc biệt là những cơn này chỉ xảy ra trong nhiều giây nhưng có thể bị đi bị lại nhiều lần trong mỗi ngày.
CƠN ĐỘNG KINH VANG Ý THỨC: mất tri thức trong thời gian rất ngắn (từ 5-30 giây), trong thời gian này, đối tượng ngừng mọi hành động, trong khi những hoạt động tự động vẫn tiếp tục (đi bộ, nuốt, V..V…). Trong cơn, bệnh nhân không còn bất kỳ tri thức nào, và không nhớ được gì về cơn bệnh xảy ra, ngay cả những người xung quanh cũng không để ý đến. Cơn vắng ý thức bắt đầu đột ngột không có tiền chứng nào. Bệnh nhân không bị co giật và không ngã.
CƠN ĐỘNG KINH GIẬT cơ: cơn xảy ra rõ nét bởi co cơ một phần, đồng bộ, bị mất hoặc không bị mất tri thức.
CƠN ĐỘNG KINH MẤT TRƯƠNG LỰC CƠ HOẶC MẤT VẬN ĐỘNG: đặc hiệu bởi mất đột ngột trương lực những cơ giữ tư thế trong thời gian ngắn làm cho toàn thân bệnh nhân trở nên mềm yếu và ngã xuống.
ĐỘNG KINH DÀY CƠN: có những cơn vắng ý thức xảy ra rất mau (tới một trăm lần trong một ngày). Dưới tên gọi bệnh Friedmann, người ta đã mô tả một thể bệnh động kinh dày cơn không phải động kinh, có khả năng do những rối loạn thần kinh thực vật, những rối loạn này hết đi khi trẻ đến tuổi dạy thì.
Đông kinh cục bộ
CƠN ĐỘNG KINH BRAVAIS- JACKSON: là những cơn vận động bệnh lý đặc hiệu bởi những động tác giật rung một bên, bắt đầu ở cẳng chân hoặc cánh tay tuỳ theo vị trí của ổ sinh động kinh nằm ở cao hay thấp trong thuỳ trán lên của vỏ bán cầu đại não bên đối xứng. Thông thường thì trong cơn động kinh Bravais-Jackson, bệnh nhân không bị mất tri thức, nhưng khi những cơn co giật cơ lan rộng, thể hiện hoạt động phóng xung thần kinh của nơron lan rộng, thì cũng có khi dẫn tới cơn động kinh toàn thể, và lúc đó bệnh nhân sẽ bị mất tri thức. Vị trí bắt đầu của cơn co cơ bao giờ cũng không thay đổi và căn cứ vào đó mà biết được khu trú của ổ sinh động kinh ở trên vỏ não. Thể động kinh cục bộ này nói chung là do một tổn thương não khu trú (sẹo sau chấn thương, u mạch máu hoặc khối u não). Trong thời gian cơn động kinh diễn ra, có những hiện tượng giảm sút: bệnh nhân không còn khả năng thực hiện các động tác theo ý muốn ở đoạn chi hoặc thân thể bị co giật. Sau cơn động kinh các cơ của phần thân thể đó sẽ bị liệt một trong thời gian nhất định.
CƠN ĐỘNG KINH CẢM GIÁC: những cơn động kinh cảm giác có đặc điểm là bệnh nhân có những cảm giác không khách quan (rối loạn cảm giác) ở các chi, hoặc ở mặt (cảm giác kiến bò, cảm giác bị tê cứng, dị cảm). Các rối loạn cảm giác này có thể khu trú hoặc lan toả rộng dần. Cơn động kinh cảm giác là thể hiện của kích thích ở hồi đỉnh lên của não (vùng vỏ não cảm giác). Sau cơn, vùng đã bị tác động thường bị giảm cảm giác.
CƠN ĐỘNG KINH TÂM THẦN-GIÁC QUAN: cơn động kinh đặc hiệu bởi những biểu hiện giác quan cơ bản hoặc phức tạp (ảo giác) với nhận thức bị biến đổi hoặc không khách quan.
Rối loạn thị giác: chứng hoa mắt, chứng nhìn thu nhỏ (nhìn mọi vật thấy nhỏ hơn thực tế), chứng nhìn phóng to (nhìn mọi vật thấy to hơn thực tễ), thấy các chóp sáng ( ổ kích thích ở thuỳ chẩm), ảo giác thị giác với những hình ảnh không thật (ổ kích thích ở thuỳ thái dương).
Rối loạn thính giác: đi từ ảo giác âm thanh cơ bản hoặc tiếng ù trong tai tới ảo giác nghe thấy tiếng nói và tiếng nhạc (ổ kích thích ở thuỳ thái dương).
Rối loạn khứu giác: ngửi thấy mùi khó chịu, ảo giác khứu giác ((xem: cơn động kinh hồi móc).
Rối loạn tiền đình: thể hiện bởi những cơn chóng mặt, cảm giác mình được nâng lên cao hoặc hạ xuống thấp nhanh (ổ kích thích ở thuỳ thái dương)
Các rối loạn thần kinh thực vật: đau bụng (hiếm gặp).
Sau khi hết cơn, có thể thấy bệnh nhân bị suy giảm về giác quan, ví dụ bị bán manh hoặc nghe kém. Khi xảy ra mất tri thức thì đối tượng có thể kể lại những biểu hiện tâm thần-giác quan xảy ra trước khi mất tri thức.
CƠN TƯƠNG ĐƯƠNG TÂM THẦN VẬN ĐỘNG: dưới thuật ngữ này, người ta tập họp những cơn kịch phát tự động hoặc những rối loạn hành vi mà bệnh nhân không nhớ được. Người ta cho rằng những cơn này là do có một ổ sinh động kinh ở thuỳ thái dương của não, với những biến đổi khu trú về điện não đồ, đôi khi rất đậm nét trong giấc ngủ. Thể động kinh này khác hẳn với trạng thái hoàng hôn sau cơn kịch phát đã mô tả ở trên.
Trạng thái động kinh: là tình trạng bị cơn động kinh kéo rất dài (cơn kéo dài) hoặc nhiều cơn động kinh tiếp nối nhau qua những khoảng thời gian rất ngắn (cơn liên tiếp), do đó tạo nên một trạng thái động kinh bển vững, trong thời gian này tri thức của bệnh nhân không lúc nào trở lại hoàn toàn, hoặc bệnh nhân chìm đắm trong hôn mê. Thân nhiệt tăng lên, mạch nhanh, và những cơn co cơ sẽ gây ra nhiễm toan (nhiễm acid). Trạng thái này có thể kéo dài trong vài giờ tới vài ngày. Bệnh nhân có thể bị tử vong do phù não, truy tim mạch, hoặc phù phổi cấp. Trạng thái động kinh có thể xảy ra do ngừng đột ngột hoặc thay đổi đột ngột những thuốc chống động kinh đang sử dụng khi điều trị những bệnh nhân có cơn mau, hoặc do một bệnh mạch máu não, do nhiễm độc rượu, do những rối loạn chuyển hoá, do nhiễm khuẩn hoặc do khối u. Tiên lượng của trạng thái động kinh với những cơn co giật rung và co cứng vào khoảng 10%.
Những thể hiếm gặp
CƠN ĐỘNG KINH CỤC BỘ LIÊN TỤC KOJEVNIKOV: là một thể hiếm gặp của cơn động kinh vận động cục bộ, đặc hiệu bởi những cơn co giật cơ không ngừng, ở một bên, thường khu trú ở bàn tay hoặc ở mặt, không có rối loạn tri thức đi kèm. Ổ sinh động kinh của thể này nằm ngay dưới lớp vỏ đại não và kích thích vùng vỏ não vận động ở bên trên (ở nông hơn).
CƠN ĐỘNG KINH GIẬT CƠ TRẺ EM UNVERRICHT-LUNDBORG: những
cơn động kinh toàn thể có giật nhiều cơ, với suy giảm tâm thần tiến triển và trên điện não đồ có nhiều sóng nhọn (gai) nổi lên trên nền những nhịp sóng chậm dần. Đây là bệnh mang tính gia đình xuất hiện trước tuổi dậy thì.
CƠN ĐỘNG KINH CO CỨNG CƠ: một thể động kinh toàn thể, có đặc điểm là những cơn rất ngắn, chỉ kéo dài khoảng 10 giây, với tri thức u ám, và co cứng cơ, chủ yếu là những cơ giữ tư thế làm cho bệnh nhân giữ nguyên thân người ở thư thế ưỡn và các chi thì ở nguyên tư thế gấp-khép.
HỘI CHỨNG WEST (co cứng trẻ em): thấy ở trẻ em còn bú, từ 3 đến 9 tháng tuổi, biểu hiện bởi những cơn co cơ làm cho các chi và thân người bị cứng trong thư thế gấp. Trên điện não đồ thấy có dấu hiệu loạn nhịp cao thế (có những sóng nhọn hoặc gai và sóng chậm rất dễ thay đổi). Hội chứng này có thể xuất hiện ở trẻ còn bú bề ngoài bình thường hoặc có bệnh não từ trước.
HỘI CHỨNG LENNOX-GASTAUT: khởi phát ở trẻ em từ 2-7 tuổi, biểu hiện lâm sàng bởi những cơn vắng ý thức, những cơn co cứng cơ hoặc giật cơ. Trên điện não đồ có những sóng gai nhọn, chậm, tràn lan.
CƠN ĐỘNG KINH CO GIẬT: một thể động kinh toàn thể riêng của trẻ em nhỏ, trong đó có những cơn kéo dài trong một vài phút, với đặc điểm là mất tri thức, phóng xung thần kinh thực vật và co giật cơ cả hai bên, phân bố ít nhiều đều đặn trên toàn cơ thể.
CƠN ĐỘNG KINH XOAY NHÃN CẦU: chỉ thể hiện bởi lệch phối hợp đầu và mắt. Cần phải phân biệt thể này với những cơn xoay nhãn cầu do co các cơ vận nhãn nhưng không phải động kinh.
Co giật ở trẻ em: những cơn co giật của trẻ em còn nhỏ dưới 3 năm tuổi là biểu hiện của tố bẩm động kinh tự nhiên, với biểu hiện đạt mức tối đa ở lứa tuổi này và sau đó giảm nhanh. Co giật ở trẻ em là dấu hiệu của bệnh động kinh biểu hiện về sau chỉ là những trường hợp ngoại lệ (rất hiếm).
– Cơn động kinh do sốt: gặp ở mọi trường hợp sốt với mọi nguyên nhân khác nhau ở trẻ em từ 3 tháng tuổi tới 5 năm tuổi. Có khoảng 4% số trẻ em bị co giật trong khi sốt. Nếu trẻ bị co giật kéo dài trên 15 phút thì gọi là co giật kéo dài do sốt.
Viêm màng não nhiễm khuẩn: viêm não do virus, nhất là do nhiễm virus herpes, nhiễm toxoplasma.
Nguyên nhân chuyển hoá:thiếu oxy hoặc di chứng thiếu oxy sơ sinh, hạ đường huyết ở trẻ em có mẹ bị bệnh đái tháo đường, giảm calci huyết, giảm natri huyết (nhiễm độc nước uống), nhiễm toan chuyển hoá.
Những nguyên nhân khác:bệnh não ở trẻ em, tụ máu dưới màng cứng, xuất huyết não-màng não, dị tật não.
Co giật vô căn vào ngày thứ 5: gặp ở trẻ sơ sinh đủ tháng, tái phát sau 24-48 giờ, rồi hết tự nhiên không để lại di chứng.
Biến chứng
Gãy xương và dập nát khi bị ngã trong những cơn co giật và mất tri thức, ở những bệnh nhân bị động kinh cơn lớn xảy ra mau, lại không được điều trị liên tục bằng những thuốc chống động kinh, thì những rối loạn tâm thần có thể mỗi ngày một tăng: khả năng trí thức chậm dần, giảm trí nhớ, biến đổi tính cách, hay bị kích thích, dễ gây hấn, ảo giác.
Điện não đồ: cần thiết để chẩn đoán chính xác bệnh động kinh. Vì không thể ghi điện não được ngay trong cơn, và vì giữa các cơn thì điện não đồ là bình thường, nên người ta sử dụng phương pháp gây phát cơn (thở nhanh sâu kéo dài, kích thích bằng ánh sáng cách quãng). Không đi vào chi tiết, người ta thấy có những biến đổi điện não đồ như sau:
Động kinh cơn lớn:trong lúc có cơn, có hàng loạt những sóng nhọn, nhanh, lan tràn, và đồng bộ với biên độ cao (tần số: 15-50 sóng mỗi giây). Thời kỳ sau cơn kịch phát có những sóng chậm. Giữa những cơn, có thể thấy phóng xung ở cả hai bán cầu đại não (hai bên), đồng bộ và đối xứng, tự phát hoặc sau khi thở nhanh sâu hoặc sau khi kích thích bằng ánh sáng cách quãng. Nếu điện não đồ bình thường thì vẫn không loại trừ được chẩn đoán bệnh động kinh.
Động kinh cơn nhỏ:trong lúc có cơn thấy những phức hợp sóng- nhọn lúc đầu và lúc cuối, đồng bộ cả hai bên (tần số: 3-4 sóng/giầy).
Động kinh Bravais-Jackson: cóthể thấy phóng xung một bên tại chỗ và có giá trị định khu tổn thương.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Huyết đồ, đường huyết, test huyết thanh giang mai.
Xét nghiệm bổ sung: soi đáy mắt, chụp X quang hộp sọ, chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ, ghi hình chuyển hoá (PET và SPECT: Chụp cắt lớp phát xạ positron, và chụp quét cắt lớp vi tính phát xạ positron)…
Chẩn đoán phân biệt: với cơn Histeri (thường xảy ra trước người chứng kiến, bắt đầu kém đột ngột, bệnh nhân có thời gian để nằm xuống, không ngã, không tự cắn vào lưỡi), ngất (hạ huyết áp, giảm trương lực cơ, không có động tác co giật ít nhất vào lúc đầu). Chẩn đoán phân biệt cơn động kinh tâm thần-giác quan có thể khó, vì tính đa dạng của cơn này.
Điều trị
Bắt đầu bằng một thứ thuốc được chọn lựa tuỳ theo typ động kinh. Tiếp sau đó, nếu kết quả không thoả đáng thì thêm một loại thuốc thứ hai có bản chất hoá học khác với thuốc đầu tiên. Kiểm tra thường xuyên huyết đồ và chức năng gan là điều quan trọng để phát hiện những hiệu quả không mong muốn của thuốc có thể xảy ra từ lúc đầu.
ĐỘNG KINH CƠN LỚN: (cơn co cứng- giật cơ): khi một bệnh nhân đang được điều trị bằng các thuốc chống động kinh thì không nên ngừng thuốc đột ngột, vì sẽ có nguy cơ gây ra các cơn nặng hơn. Khi muốn thay thế một thuốc này bằng thuốc khác, thì cũng phải giảm dần liều của thuốc đang dùng và đồng thời cho thuốc mới với liều tăng dần.
Acid valproic (valproat natri): người lớn và trẻ em: 20-30 mg/kg/ngày chia thành 3 lần. Nếu có thể, thì tăng liều thêm 5 đến 10 mg/ kg hàng tuần. Ở trẻ em, liều tối thiểu là 400 mg/ngày. Hoặc
Carbamazepin: người lớn 10-15 mg/kg/ngày chia làm 2 lần. Nếu có thể, thì cứ hai ngày lại tăng liều thêm 200 mg, cho tối khi đạt 800 tối 1200 mg mỗi ngày chia làm 2-4 lần. Trẻ em: 20-23 mg/kg/ngày. Hoặc
Phenytoin: người lớn 2-6 mg/kg/ngày chia làm 2 lần uống. Trẻ em: 4-8 mg/ngày. Hoặc
Phénobarbital: người lớn: 150- 200 mg uống một lần vào buổi tối, bắt đầu bằng liều thấp nhất. Phénobarbital gây ra buồn ngủ lơ mơ mạnh. Có thể phối hợp với phenytoin khi thuốc này cắt được cơn. Trẻ em: 3-5 mg/kg/ngày.
ĐỘNG KINH CƠN NHỎ (cơn vắng ý thức)
Ethosuximid:người lớn, liều khởi đầu là 500 mg uống mỗi ngày chia làm 2 lần. Nếu cần thì có thể cứ 4-7 ngày lại tăng thêm liều lượng. Liều duy trì: 250-500 mg/ngày. Trẻ em: 20-30 mg/kg/ngày.
Acid valproic (valproat natri): chỉ sử dụng cho những thể kháng thuốc hoặc không điển hình. Người lớn: liều khởi đầu: 15 mg/kg/ngày chia làm 3 lần. Nếu cần thiết cứ mỗi tuần lại tăng thêm từ 5- 10 mg/kg. Trẻ em: 15-30 mg/kg/ngày.
Phenobarbital có thể có ích khi phối hợp với những thuốc kể trên.
Trong trường hợp kháng những thuốc kể trên thì sử dụng clonazepam hoặc lamotrigin.
TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH: trạng thái động kinh là một cấp cứu nội khoa, phải được điều trị ở khoa hồi sức cấp cứu. Điều thiết yếu là phải đảm bảo đường hô hấp luôn thông suốt và thông khí hỗ trợ, ngay cả khi đã làm chủ được cơn động kinh, vì chính những thuốc sử dụng trong điều trị cũng có thể có tác dụng ức chế trên hô hấp.
Diazepam: 0,1-0,2 mg/kg tiêm tĩnh mạch chậm (1-2mg/phút), rồi sau đó đặt ống truyền dịch tĩnh mạch. Hiệu quả không mong muốn: suy giảm hô hấp (cần thiết phải có những phương tiện hỗ trợ hô hấp). Diazepam tiêm tĩnh mạch thường có hiệu quả, nhưng hoạt tính của thuốc này ngắn, do đó cần phải tiếp tục cho thuốc. Trong trường hợp thất bại sau 10 phút, thì chuyển ngay sang dùng phenytoin.
Phenytoin: liều đầu tiên là 15-20 mg/kg theo đường tĩnh mạch với tốc độ 50 mg/phút. Nếu hiệu quả tốt thì tiếp tục bằng truyền tĩnh mạch 750 mg trong 24 giờ đầu, rồi tiếp tục 500 mg trong ngày thứ 2, và 300 mg trong ngày thứ 3.
Nếu những biện pháp nói trên không có hiệu quả sau 60 phút, thì nên gây mê toàn thân bằng thiopental hoặc propofol theo đường tĩnh mạch, với kiểm tra liên tục điện tâm đồ. Một số tác giả ủng hộ thử dùng phenobarbital theo đường tĩnh mạch trước khi gây mê bằng các thuốc kể trên.
Điều quan trọng là phải tiếp tục điều trị, hoặc trong trường hợp cần thiết, khởi đầu sớm hơn một liệu pháp chống động kinh dài hạn. Mới đầu có thể cho thuốc bằng ống thông (sonde) đặt qua mũi.
ĐỘNG KINH CỤC BỘ: trong cơn động kinh Bravais-Jackson, biện pháp điều trị giống như điều trị động kinh cơn lớn. Carbamazepin và phenytoin cũng có hiệu quả đối với cơn động kinh tâm thần-giác quan hoặc cơn động kinh cảm giác.
NHỮNG BIỆN PHÁP TOÀN THÂN
Giải thích cho bệnh nhân hiểu về bản chất của bệnh và khuyên đọc một quyển sách về bệnh động kinh. Chỉ được cho phép bệnh nhân lái ô tô khi những cơn đã hết hắn sau hơn một năm, và nếu chắc chắn là bệnh nhân vẫn tiếp tục uống thuốc. Đôi khi cần thiết phải chuyển nghề nghiệp.
Ngừng hẳn không uống những đồ uống có cồn.
Đảm bảo thuốc kê đơn phải được tuân thủ uống đều đặn.
Cũng có ích nếu giao cho bệnh nhân luôn mang theo mình một hồ sơ ghi tên tuổi, địa chỉ của bệnh nhân và của thày thuốc điều trị, chẩn đoán bệnh, và những thuốc đã sử dụng để điều trị cho người này.
NGỪNG ĐIỀU TRỊ: ngừng điều trị dần dần trong phần lớn các trường hợp sau 2-3 năm không có cơn động kinh nữa, tuy nhiên nguy cơ tái phát chiếm 30%.
BỆNH ĐỘNG KINH VÀ THAI NGHÉN: trong trường hợp đã biết từ trước là bị bệnh động kinh, thì phải hiệu chỉnh điều trị để kiểm soát những cơn toàn thể, nếu có thể thì bằng liệu pháp một thuốc (định lượng thuốc trong huyết thanh là có ích). Nguy cơ thai chết lưu trong tử cung và ảnh hưởng não của phôi thai là lớn hơn nguy cơ sinh quái thai do thuốc chống động kinh gây ra. Người ta khuyên nên dùng acid folic và kiểm tra protein phôi thai alpha trong huyết thanh.
TƯ VẤN DI TRUYỀN: bệnh động kinh nguyên phát ở người mẹ làm tăng lên gấp 2-3 lần nguy cơ dị tật ở con, tuy nhiên những dị tật này cũng nhẹ. Ngược lại nếu cả hai cha mẹ đều bị động kinh thì về nguyên tắc họ không nên sinh con.
PHẪU THUẬT: có thể chỉ định trong trường hợp kháng thuốc và khi tổn thương não khu trú được xác định chính xác.
Huyệt được coi là cửa (quan) của nguyên khí (nguyên) vì vậy gọi là Quan Nguyên (Trung Y Cương Mục).
Tên Khác:
Đại Trung Cực, Đan Điền, Đơn Điền, Hạ Kỷ, Tam Kết Giao, Thứ Môn.
Xuất Xứ:
Thiên ‘Hàn Nhiệt Bệnh’ (Linh Khu.21).
Đặc Tính:
+ Huyệt thứ 4 của mạch Nhâm.
+ Huyệt Hội của mạch Nhâm với 3 kinh âm ở chân.
+ Huyệt Mộ (chẩn đoán) của Tiểu trường.
+ Huyệt Hội của các kinh cân – cơ của Tỳ, Thận và Can.
+ Nơi phân chia (tách ra) của mạch Xung và Nhâm (Tố Vấn.34).
+ 1 trong nhóm 4 Huyệt Hội của khí Âm Dương gồm: Quan Nguyên (Nh.4) + Trung Quản (Nh.12) + Thiên Đột (Nh.22) và Chí Dương (Đốc.9) (Thiên ‘Kinh Mạch Biệt Luận’ – Tố Vấn.21).
Vị Trí:
Thẳng dưới rốn 3 thốn, trên bờ xương mu 2 thốn.
Giải Phẫu:
Huyệt ở trên đường trắng, sau đường trắng là mạc ngang, phúc mạc. Vào sâu có ruột non khi bàng quang bình thường và không có thai, có bàng quang khi bí tiểu tiện, có tử cung khi có thai.
Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D11 hoặc D12.
Tác Dụng:
Bồi Thận, cố bản , bổ khí, hồi dương, ôn điều huyết thất, tinh cung, khử hàn thấp, âm lãnh, phân thanh biệt trọc, điều nguyên tán tà, tăng sức, phòng bệnh.
Chủ Trị:
Trị bệnh về kinh nguyệt, đới hạ, vô sinh, di mộng tinh, liệt dương, bụng dưới đau, tiêu chảy, kiết l, tiểu gắt, buốt, tiểu bí, choáng, ngất, nâng cao sức đề kháng, bồi bổ cơ thể, bổ các chứng hư tổn, suy nhược toàn thân.
20. Phối Âm Cốc (Th.10) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) trị tiểu bí (Thần Cứu Kinh Luân).
21. Phối cứu Thần Khuyết (Nh.8) 5-7 tráng trị tiêu chảy không cầm (Thế Y Đắc Hiệu Phương).
22. Phối Khúc Cốt (Nh.2) trị chuyển bào không tiểu được (Bị Cấp Cứu Pháp).
23. Phối Cách Du (Bàng quang.17) + Đại Chùy (Đốc.14) + Khí Hải (Nh.6) trị thương hàn Thiếu âm chứng, âm thịnh dương suy (Thương Hàn Luận Châm Cứu Phối Huyệt Tuyển Chú).
24. Phối Thái Xung (C.3) + Trung Quản (Nh.12) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị Tỳ Vị dương hư, hàn trệ ở kinh mạch, tay chân quyết lãnh (Thương Hàn Luận Châm Cứu Phối Huyệt Tuyển Chú).
25. Phối cứu Đại Đôn (C.1) 7 tráng trị dịch hoàn lệch 1 bên (Châm Cứu Dị Học).
26. Phối Khí Hải (Nh.6) + Huyết Hải (Ty.10) + Địa Cơ (Ty.8) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Hành Gian (C.2) trị kinh nguyệt đến trước kỳ (thể hư) (Trung Quốc Châm Cứu Học).
27. Phối Liệt Khuyết (P.7) + Khúc Tuyền (C.8) + Tam Âm Giao (Ty.6) trị đường tiểu viêm (Trung Quốc Châm Cứu Học).
28. Phối Tiểu Trường Du (Bàng quang.27) + Thiên Xu (Vi.25) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị bụng đau, tiêu chảy (Châm Cứu Học Giản Biên).
29. Phối Mệnh Môn (Đốc.4) + Thận Du (Bàng quang.23) + Thái Khê (Th.3) + Bá Hội (Đốc.20) trị liệt dương (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).
30. Phối Ẩn Bạch (Ty.1) trị băng lậu (Trung Quốc Châm Cứu Học Khái Yếu).
31. Phối Tam Âm Giao (Ty.6) trị giun chỉ, đái ra dưỡng chấp (Châm Cứu Học Thượng Hải).
32. Phối Cấp Mạch (C.12) + Chương Môn (C.13) + Trung Cực (Nh.3) trị bàng quang xuất huyết (Châm Cứu Học Thượng Hải).
33. Phối Đại Đôn (C.1) + Phục Lưu (Th.7) + Trường Cường (Đốc.1) trị tuyến tiền liệt viêm (Châm Cứu Học Thượng Hải).
34. Phối Dũng Tuyền (Th.1) + Khí Hải (Nh.6) trị tiểu khó sau khi sinh (Châm Cứu Học Thượng Hải).
35. Phối Đại Hách (Th.12) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Trung Cực (Nh.3) trị liệt dương (Châm Cứu Học Thượng Hải).
36. Phối Thạch Môn (Nh.5) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị tiêu chảy (Châm Cứu Học Thượng Hải).
37. Phối Trung Cực (Nh.3) trị tiểu nhiều lần (Châm Cứu Học Thượng Hải).
38. Phối Tam Âm Giao (Ty.6) + Thạch Môn (Nh.5) trị đẻ ngược, đẻ khó (Châm Cứu Học Thượng Hải).
39. Phối Cưu Vĩ (Nh.15) + Thiên Xu (Vi.25) trị thổ tả (Châm Cứu Học Thượng Hải).
40. Phối Ẩn Bạch (Ty.1) + Huyết Hải (Ty.10) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị rử cung xuất huyết do chức năng (Châm Cứu Học Thượng Hải).
41. Phối Đại Chùy (Đốc.14) + Túc Tam Lý (Vi.36) trị còi xương.
42. Phối Khí Hải (Nh.6) để nâng huyết áp trong trường hợp choáng, ngất (Châm Cứu Học Thượng Hải).
43. Phối Địa Cơ (Ty.8) + Huyết Hải (Ty.10) + Tam Âm Giao (Ty.6) trị kinh đến trước kỳ (thực chứng) (Trung Hoa Châm Cứu Học).
44. Phối cứu Bàng Quang Du (Bàng quang.28) 3 tráng + Dũng Tuyền 5 tráng + Hành Gian (C.2) 3 tráng + Thận Du (Bàng quang.23) 3 tráng trị tiểu nhiều (Trung Hoa Châm Cứu Học).
45. Phối Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Quy Lai (Vi.29) + Tam Âm Giao (Ty.6) + Thái Xung (C.3) trị sán khí thể thấp nhiệt (Tứ Bản Giáo Tài Châm Cứu Học).
Châm Cứu:
Châm thẳng 0, 3 – 2 thốn. Cứu 10 hơn 20 phút trở lên.
Ghi Chú:
Bảo người bệnh đi tiểu trước khi châm.
Bí tiểu không châm sâu.
Có thai không châm sâu.
Châm đắc khí thấy căng tức tại chỗ hoặc chạy xuống bộ sinh dục ngoài.
Kem 20% được dùng để điều trị tại chỗ bệnh trứng cá đa dạng ở thiếu niên, gồm cả dạng trứng cá sùi. Bôi buổi sáng và tối lên các vùng tổn thương và xoa nhẹ.
Tránh tiếp xúc vào mắt
Adapalen
Differine @ (Galderma)
Retinoid khuyên dùng ở dạng gel để điều trị tại chỗ bệnh trứng cá mủ
Bôi một lần hàng ngày
Tránh tiếp xúc với mắt và môi
Erythromycin
Eryfluid ® (P.Fabre)
Erythrogel ® (Biorga)
Stimycine ® (Stiefel)
Tính chất: kháng sinh họ macrolid được dùng bôi tại chỗ trong chữa bệnh trứng cá, nhất là dạng viêm là nổi trội.
Liều dùng: bôi gel hay dung dịch cồn 1-2 lần mỗi ngày lên các vùng tổn thương và xoa nhẹ.
Thận trọng: không dùng khi có tiền sử dị ứng với erythromycin; không bôi ở gần mắt; dùng kéo dài có thể gây nên sự xuất hiện các chủng vi khuẩn để kháng với kháng sinh.
Tác dụng phụ: kích ứng, mẩn đỏ, cảm giác bị bỏng, khô và đỏ da
CÁC KHÁNG SINH TẠI CHỖ KHÁC
Clindamycin
Dalacine T ® Topic (Pharmacia & Upjohn) [dung dịch cồn 1%]
Isotretinoin dùng đường uống
Roaccutane ® (Roche)
Cùng tên: acid 13-cis retinoic
Tính chất: retinoid gần với vitamin A (retinol), đồng phân của tretinoin, tác dụng trên bệnh trứng cá bằng làm ngừng hoạt động của các hạch tiết chất nhày và giảm kích cỡ của chúng. Thời gian bán thải khoảng 20 giờ.
Chỉ định
Trứng cá bọc, tổn thương nặng, kháng lại các điều trị thông thường
Liều dùng
Liều ban đầu 0,5mg/kg/ngày trong một tháng rồi liều duy trì là 0,1- lmg/ngày (liều lmg/ngày chỉ được kê đơn cho thời gian ngắn)
Thời hạn điều trị thường là 16 tuần
Lúc đầu điều trị, có thể bệnh trứng cá nặng lên tạm thời
Thận trọng
Thuốc có tác dụng gây quái thai, chống chỉ định cho mọi phụ nữ độ tuổi sinh nở.
Khi viêm da nặng, gây tổn thương cho phụ nữ độ tuổi sinh nở, cho nên biện pháp tránh thai hữu hiệu và thường xuyên là cần thiết không chỉ trong suốt thời gian dùng thuốc mà còn cả một tháng trước và sau khi ngừng điều trị.
Khi isoretinoin được dùng một cách hãn hữu cho phụ nữ trong tuổi sinh nỏ, người bệnh phải hiểu tầm quan trọng của nguy cơ sinh quái thai và theo đúng các hướng dẫn.
Cần trình một phiếu thử thai âm tính trong 2 tuần trước khi bắt đầu điều trị
Chỉ bắt đầu điều trị vào ngày thứ 2 hay thứ 3 của các chu kỳ hành kinh tiếp sau.
Theo dõi transaminase, phosphatase kiềm và lipid trong máu ở người bệnh có nguy cơ cao (béo phì, nghiện rượu, đái tháo đường), kiểm tra trước khi điều trị rồi sau 1 tháng rồi tiếp theo cứ cách 3-4 tháng.
Tránh tiếp xúc ánh nắng và tia tử ngoại trong khi điều trị
Tránh mang kính áp tròng
Chống chỉ định
Đã bị mẫn cảm với retinoid
Suy gan hay suy thận
Cường lipid trong máu, thừa vitamin A
Có thai (chống chỉ định tuyệt đối): các dị dạng nặng ở đứa bé do dùng isoretinoin đã được xét thấy, nhất là não úng thuỷ, não nhỏ, biến dạng vành tai và ống tai ngoài, dị dạng tim mạch và tiểu não.
Khi cho con bú Tác dụng phụ
Tổn thương da-niêm mạc: viêm môi khô, kích ứng kết mạc, viêm mi-kết mạc, khô da, miệng và mũi; tróc vảy của da lành; đọng giác mạc, rụng tóc (phục hồi được)
Tổn thương về xương: chứng dày xương, vôi hoá các tổ chức mềm, loãng xương, sớm dính các đầu xương ở trẻ em.
Tăng áp lực nội sọ (nhức đầu, phù gai thị, rối loạn thị giác)
Tăng lipid trong máu (triglycerid và cholesterol toàn phần), các transaminase và phosphatase kiềm.
Tương tác: với vitamin A và các tetracyclin (nguy cơ tăng áp lực nội sọ)
Isotretinoin thấm qua da
Isotrex ® (Stiefel)
Roaccutane gel ® (Roche)
Chế phẩm: gel để bôi tại chỗ với nồng độ 0,05%
sử dụng: retinoid gần gũi với vitamin A (retinol) được dùng bôL.
tại chỗ để chữa bệnh trứng cá, nhất là trứng cá ở thiếu niên, những dấu hiệu cải thiện đầu tiên thường chỉ xuất hiện vào cuối tháng điều trị đầu tiên và cần phải tiếp tục trong 3 tháng.
Liều dùng: bôi 1 đến 2 lần mỗi ngày lên vùng tổn thương và xoa nhẹ
Thận trọng: tránh tiếp xúc với miệng, lỗ mũi, mắt và các niêm mạc: tránh ra nắng hay chiếu đèn tử ngoại.
Có tác dụng kháng Propionibacterium acnes, tụ cầu khuẩn và có tác dụng tiêu sừng nhẹ
Chỉ định: trứng cá thiếu niên đa dạng, nhất là với các dạng viêm
Liều dùng: bôi 1-2 lần mỗi ngày lúc đầu rồi 1-3 lần mỗi tuần
Chống chỉ định: đã bị mẫn cảm với peroxyd (nước oxy già)
Thận trọng: thử độ nhạy cảm bằng bôi chế phẩm lên một diện tích nhỏ; không phơi ra ánh nắng hay tia cực tím; không cho tiếp xúc với mắt và các niêm mạc.
Tác dụng phụ: kích ứng tại chỗ, nhạy sáng, viêm da do tiếp xúc
Tính chất: retinoid là dẫn xuất từ vitamin A được dùng bôi tại chỗ, có tác dụng tiêu sừng, tạo thuận lợi loại trừ mụn cám.
Chế phẩm: kem, gel, thuốc nước với nồng độ 0,025%, 0,05%, 0,1%, 0,2% và 0,3%
Chỉ định và liều dùng
Trứng cá đa dạng ở tuổi trẻ: chế phẩm 0,025%-ỏ,05%
Trứng cá ở lưng: chế phẩm 0,1%
Rối loạn sừng hoá (loạn sản sừng hoá, dày sừng, loạn sừng hoá): chế phẩm 0,2-0,3%.
Người ta bắt đầu bôi hàng ngày, buổi tối rồi điều chỉnh số lần bôi tuỳ theo sự dung nạp và hiệu quả thu được; sau đó chuyển sang điều trị duy trì bằng các chế phẩm loãng hơn và bôi thưa hơn lúc ban đầu (1-2 lần mỗi tuần); nếu sau 3 tháng mà không hết tổn thương thì phải nghĩ sang cách điều trị khác.
Thuốc dùng để cải thiện da bị tổn thương sau phơi nắng dài hạn (sự an toàn dài hạn chưa được xác minh)
Thận trọng
Khi bị bôi những lần đầu, cần thử độ nhạy cảm cá nhân bằng cách bôi chế phẩm lên một diện tích nhỏ
Tránh tiếp xúc với mắt, mi mắt, miệng, lỗ mũi
Việc phơi ra ánh nắng và tia cực tím làm tăng kích ứng
Khi bị kích ứng, giảm nồng độ của chế phẩm, tăng giãn cách bôi thuốc hay ngừng điều trị và chò cho phục hồi hoàn toàn trước khi bôi lại.
Chống chỉ định
Eczema cấp
Có thai, cho con bú Tác dụng phụ
Ban đỏ khô, rát với mất nước nhẹ, tập trung ở cổ và quanh miệng
Có thể bị lại trứng cá trong các tuần đầu với sự xuất hiện của các mụn đầu trắng nhỏ (loại bỏ các vi nang)
Thực phẩm từ thực vật chứa hàng nghìn hóa chất tự nhiên. Những hóa chất này được gọi là phytochemical hoặc phytonutrients. “Phyto” có nguồn gốc từ từ tiếng Hy Lạp nghĩa là cây. Những hóa chất này giúp bảo vệ thực vật khỏi vi trùng, nấm, côn trùng, và các mối đe dọa khác.
Trái cây và rau quả chứa phytonutrients. Các thực phẩm có nguồn gốc thực vật khác cũng chứa phytonutrients, chẳng hạn như:
Ngũ cốc nguyên hạt
Hạt
Đậu
Trà
Phytonutrients không cần thiết cho sự sống của bạn, khác với các vitamin và khoáng chất mà thực phẩm thực vật chứa. Nhưng khi bạn ăn hoặc uống phytonutrients, chúng có thể giúp ngăn ngừa bệnh tật và giữ cho cơ thể bạn hoạt động đúng cách.
Hơn 25.000 phytonutrients được tìm thấy trong thực phẩm thực vật. WebMD sẽ xem xét sáu phytonutrients quan trọng này — và các tác động sức khỏe tiềm năng của chúng:
Hơn 600 carotenoids cung cấp màu vàng, cam, và đỏ trong trái cây và rau quả.
Carotenoids hoạt động như các chất chống oxy hóa trong cơ thể bạn. Điều này có nghĩa là chúng chống lại các gốc tự do có hại làm hư hại các mô trong cơ thể bạn.
Các loại carotenoids có thể có lợi ích sức khỏe khác bao gồm:
Alpha-carotene, beta-carotene, và beta-cryptoxanthin. Cơ thể bạn có thể chuyển đổi tất cả chúng thành vitamin A. Vitamin này giúp duy trì hệ thống miễn dịch của bạn hoạt động đúng cách và cần thiết cho sức khỏe của mắt. Các thực phẩm màu vàng và cam như bí ngô và cà rốt là nguồn tốt của alpha- và beta-carotene.
Những thực phẩm này cũng chứa beta-cryptoxanthin, như ớt ngọt đỏ.
Lycopene. Đây là hợp chất tạo màu đỏ hoặc hồng cho:
Cà chua
Dưa hấu
Bưởi hồng
Lycopene đã được liên kết với nguy cơ thấp hơn về ung thư tuyến tiền liệt.
Lutein và zeaxanthin. Những hợp chất này có thể giúp bảo vệ bạn khỏi đục thủy tinh thể và thoái hóa điểm vàng liên quan đến tuổi tác, là hai loại vấn đề về mắt.
Các nguồn tốt của những phytonutrients này là rau xanh như:
Rau bina
Cải xoăn
Cải bẹ xanh
Acid Ellagic
Acid ellagic được tìm thấy trong một số loại trái cây và thực phẩm thực vật khác, đặc biệt là:
Dâu tây
Dâu tằm
Lựu
Acid ellagic có thể giúp bảo vệ chống lại ung thư theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ, nó có thể làm chậm sự phát triển của các tế bào ung thư. Và nó có thể giúp gan của bạn trung hòa các hóa chất gây ung thư trong cơ thể. Nhưng các nghiên cứu về acid này chủ yếu được thực hiện trong phòng thí nghiệm, vì vậy lợi ích của nó đối với sức khỏe con người vẫn chưa rõ ràng.
Flavonoids
Một số lượng lớn phytonutrients thuộc nhóm flavonoid. Chúng được tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm thực vật.
Các loại flavonoids bao gồm:
Catechins. Trà xanh là nguồn cung cấp catechins đặc biệt tốt. Đồ uống này có thể giúp ngăn ngừa một số loại ung thư.
Hesperidin. Được tìm thấy trong trái cây họ cam quýt, flavonoid này hoạt động như một chất chống oxy hóa, giảm viêm trong cơ thể để giúp ngăn ngừa bệnh mãn tính.
Flavonols. Quercetin là một loại flavonol được nghiên cứu nhiều. Nó được tìm thấy trong:
Táo
Các loại quả mọng
Cải xoăn
Hành tây
Nó có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh hen suyễn, một số loại ung thư, và bệnh tim mạch vành.
Resveratrol
Resveratrol có trong:
Nho
Nước nho tím
Rượu vang đỏ
Nó hoạt động như một chất chống oxy hóa và chống viêm.
Một số nghiên cứu cho thấy rằng resveratrol có thể đóng vai trò trong việc giảm nguy cơ bệnh tim và một số loại ung thư. Và nó có thể giúp kéo dài tuổi thọ, các nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra. Nhưng cần thêm nhiều nghiên cứu trên con người để xác định mối quan hệ rõ ràng.
Glucosinolates
Glucosinolates được tìm thấy trong các loại rau họ cải, bao gồm:
Súp lơ Brussels
Bắp cải
Cải xoăn
Bông cải xanh
Chúng mang lại cho những loại rau này mùi vị và hương vị sắc nét. Glucosinolates chuyển hóa thành các hóa chất khác trong quá trình nấu ăn và trong khi bạn tiêu hóa những thực phẩm này. Những hóa chất này có thể giúp kìm hãm sự phát triển và tăng trưởng của ung thư.
Phytoestrogens
Vì cấu trúc của chúng, phytoestrogens có thể có tác động giống như estrogen. Chúng cũng có thể chặn các tác động của nguồn cung estrogen tự nhiên của bạn.
Thực phẩm từ đậu nành chứa isoflavones — một loại phytoestrogen. Một số bằng chứng cho thấy rằng thực phẩm từ đậu nành có thể liên quan đến:
Nguy cơ thấp hơn về ung thư nội mạc tử cung
Nguy cơ thấp hơn về mất xương ở phụ nữ
Cơ thể bạn chuyển đổi lignans, một loại phytonutrient khác, thành các hóa chất có một số tác động giống như estrogen. Hai nguồn tốt đặc biệt của lignans là:
Hạt lanh
Hạt mè
Tuy nhiên, nghiên cứu ủng hộ vai trò của lignans trong việc ngăn ngừa ung thư nội mạc tử cung hoặc loãng xương còn hạn chế.
Luyện thư giãn: Nằm thoải mái, không chú ý đến các sự việc xung quanh, xua đuổi hết mọi ý nghĩ, suy tính trong óc (nhắm mắt lại để khỏi bị kích thích).
Thư giãn toàn thân: Hơi thở tự nhiên, êm và sâu dài, chậm đều (trí óc theo dõi hơi thở..)
Trong khi đó bắp thịt toàn thân, chân tay, đầu mình đều thả lỏng tự do… mềm nhũn ra.
Luyện thở để giúp giấc ngủ ngon: Nằm thẳng người, hai bàn tay úp sát bên trong bụng ngay rốn, hai chân duỗi thẳng và đặt khít bên nhau. Xong bắt đầu gạt bỏ hết mọi tư tưởng ý nghĩ trong đầu óc về công ăn việc làm trong đời sống hàng ngày … rồi hít một hơi thật dài thật sâu. Nín hơi một lúc (10- 20 giây tuỳ sức) thở ra cũng thật sâu thật dài (ý nghĩ theo dõi hối thở). Mỗi đêm làm như vậy 10- 20 lần sẽ ngủ ngon và rất có lợi cho sức khoẻ.
Luyện thở để giúp giấc ngủ ngon
Cách chữa mệt mỏi, nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt: Đưa ngón tay giữa bịt lỗ mũi trái hít một hơi dài bằng lỗ mũi bên phải, rồi ngậm hơi vài giây. Tiếp bịt lỗ mũi phải và thở ra bằng lỗ mũi trái. Làm như vậy từ 10- 20 lần. Lấy 2 tay day nhẹ nhàng từ 2 thái dương đến vùng giữa trán lên đỉnh đầu và về sau gáy (làm chừng 20 lần).
4. Luyện tập để lấy lại phong độ khi bạn bị suy nhược:
Bạn nên đọc sách, nghe nhạc nhẹ êm đềm, nhạc đồng quê… có nội dung lành mạnh, cao đẹp…và theo đuổi một công việc nào đó có mục đích hướng thiện mỹ.
Cách làm như sau có công dụng đưa được nhiều máu huyết tốt và chất bổ dưỡng vào các cơ quan ổ bụng:
a. Nằm ngửa, chống đầu lên bằng 2 khuỷu tay, co hai chân lại đến mức tối đa rồi từ từ duỗi ra và để cho hai gót chân gần sát đất mà không chạm. Sau đó từ từ co chân và đưa đầu gối lên gần vai. Tập vào buổi sáng và chiều 7- 10 lần.
b. Nằm ngửa như cũ và đạp hai chân như đạp xe đạp.
Tập động tác: “Đạp xe tưởng tượng”
c. Hai chân duỗi thẳng, đưa lên cao rồi từ từ hạ xuống (gần chạm đất) rồi lại đưa lên cao 7- 10 lần.
d. Hai chân duỗi thẳng, hơi dân ra và chậm rãi vẽ thành hình vòng tròn (chân lên cao xuống thấp, cách mặt đất 40 cm khi xuống thấp và cách mặt đất 10 cm khi lên cao).
Giữ gìn xuân sắc
Bạn nên luôn lạc quan yêu đời.
Không tắm nắng quá lâu hoặc thức khuya quá, không uống rượu hút thuốc…
Nên xoa bóp khuôn mặt bạn bằng phương pháp cổ truyền Nhật Bản sau:
Tìm trên hai thái dương huyệt mà khi ấn vào cảm thấy đau, nên xoa theo hình từ mũi tên lên đến thái dương 3 lần.
Dùng ngón tay áp út ấn nhẹ vào khoé mắt trong 3 giây để giữ ánh mắt tươi sáng.
Dùng mu bàn tay xoa cổ theo chiều từ giữa cổ hướng lên trên và ngược xuống.
Dùng ngón trỏ và ngón giữa xoa xoa vùng góc miệng bắt đầu từ giữa cằm dưới, môi dưới lên đến mép để giúp cho khoé miệng không bị nhăn.
Dùng ngón tay trỏ và giữa hơi ấn vào trán đi từ giữa trán đến thái dương giúp trán bớt nhăn.
Dùng đầu ngón tay bôi lớp kem thích hợp xoa tròn quanh má và toàn khuôn mặt.
Ngoài ra còn có 6 bí quyết duy trì xuân sắc như sau, bạn hãy làm thử và xem bạn có trở nên hấp dẫn không?
Đừng bao giờ ăn no quá, uống nước đầy đủ nhưng phải xa bữa ăn 1- 2 giờ.
Hoạt động tình dục điều độ chính là động có kích thích hữu hiệu đối với hệ tim mạch, dạ dày, thận, gan, đồng thời giúp cho não tiết ra các chất nội tiết rất cần cho sự điều hoà bộ não.
Vitamin A, E có trong hoa quả hoặc thuốc viên giúp cho bạn trẻ ra và các tế bào được bền vững.
Ngày nay các thầy thuốc Mỹ khuyên các bạn nên dùng thường xuyên các loại Vitamin với lượng nhỏ rất có lợi cho việc phòng chống một số bệnh trong đó kể cả bệnh ung thư.
Tận dụng không khí trong lành. Tập thở đúng cách. Chỗ ở cần thoáng khí.
Cần lạc quan yêu đời, không lo nghĩ nhiều.
Cần được mát mẻ, đừng để cho quá nóng nực (mùa đông cũng không được nên mặc quá ấm).
Lichen xơ hóa là một tình trạng da hiếm gặp, thường xuất hiện ở khu vực sinh dục hoặc hậu môn, mặc dù bạn cũng có thể thấy ở những nơi khác. Nó thường bắt đầu như những mảng trắng, bóng, ngứa, sau đó lớn dần. Da bị ảnh hưởng trở nên mỏng manh và dễ bị tổn thương.
Lichen xơ hóa chủ yếu ảnh hưởng đến những người đã trải qua thời kỳ mãn kinh. Tuy nhiên, những người khác cũng có thể mắc phải.
Đây là một tình trạng kéo dài có xu hướng trải qua các chu kỳ, trong đó triệu chứng bùng phát rồi giảm xuống. Mặc dù không có cách chữa trị, nhưng có những phương pháp điều trị để quản lý triệu chứng của bạn.
Các bác sĩ không biết tại sao một số người lại mắc lichen xơ hóa.
Họ cho rằng nguyên nhân có thể do gen, hormone, chấn thương, hoặc kích thích da của bạn, hoặc một sự kết hợp của những yếu tố này. Một lý thuyết khác là hệ thống miễn dịch của bạn tấn công vào da.
Lichen xơ hóa không lây truyền và bạn không thể lây lan nó qua quan hệ tình dục hoặc tiếp xúc khác.
Các yếu tố rủi ro của Lichen xơ hóa
Một số yếu tố dường như làm tăng khả năng bạn mắc lichen xơ hóa. Ví dụ:
Bạn đã trải qua thời kỳ mãn kinh hoặc chưa bắt đầu có kinh nguyệt.
Bạn có dương vật chưa cắt bao quy đầu.
Có người khác trong gia đình bạn đã mắc phải.
Bạn có các bệnh tự miễn, đặc biệt là bạch biến, rụng tóc, hoặc bệnh Hashimoto (viêm giáp tự miễn).
Da của bạn đã bị tổn thương, như từ phẫu thuật hoặc xỏ lỗ.
Da sinh dục của bạn thường bị kích thích, đặc biệt là do tiếp xúc với nước tiểu—như khi bạn bị tiểu không tự chủ và sử dụng bỉm hoặc băng vệ sinh.
Bạn bị béo phì.
Triệu chứng của Lichen xơ hóa
Thay đổi trong hình dạng của da là triệu chứng chính của lichen xơ hóa. Bạn thường thấy nó xung quanh vùng sinh dục hoặc hậu môn. Tuy nhiên, ít phổ biến hơn, nó cũng có thể ảnh hưởng đến cổ, vai, lưng trên, cánh tay trên, nách, thân, ngực, cổ tay, mông, và đùi trong. Hiếm khi, bạn có thể thấy nó trong miệng. Một số người không có triệu chứng nào khác. Nhưng đối với hầu hết mọi người, các mảng lichen xơ hóa rất ngứa. Bạn cũng có thể gặp phải:
Đau
Cảm giác nóng rát
Vết rách hoặc nứt trên da
Vết loét
Sẹo
Bầm tím
Bọng nước
Đau khi đi tiểu hoặc đại tiện
Đau khi quan hệ tình dục
Táo bón
Lichen xơ hóa trông như thế nào?
Nó bắt đầu như những mảng trắng nhỏ, bóng và mịn trên da. Những mảng này có thể trở nên lớn hơn và kết hợp với nhau thành các mảng lớn. Da có thể trở nên mỏng và nhăn nheo, dễ bị tổn thương khi gãi hoặc bị quần áo cọ xát.
Chẩn đoán Lichen xơ hóa
Bác sĩ của bạn thường có thể xác định liệu bạn có mắc lichen xơ hóa hay không thông qua việc kiểm tra thể chất và xem cách mà làn da của bạn trông như thế nào.
Họ có thể yêu cầu làm sinh thiết nếu họ nghĩ rằng bạn có thể bị ung thư da, hoặc nếu các phương pháp điều trị không hiệu quả. Điều này có nghĩa là họ sẽ lấy một mẫu nhỏ da của bạn và gửi nó đến một phòng thí nghiệm để xem dưới kính hiển vi.
Biến chứng của Lichen xơ hóa
Biến chứng nghiêm trọng của lichen xơ hóa có thể xảy ra, đặc biệt là nếu bạn không được điều trị.
Da của bạn trở nên mỏng manh và có thể dễ dàng bị tổn thương, với chảy máu, rách, và vết loét hở có thể bị nhiễm trùng.
Lichen xơ hóa có thể gây sẹo nghiêm trọng ở phần ngoài của cơ quan sinh dục nữ, gọi là âm hộ, và thay đổi hình dạng và cảm giác của cơ quan sinh dục.
Bạn có thể gặp phải đau mãn tính, hoặc kéo dài, ở âm hộ và thu hẹp lối vào âm đạo. Những biến chứng này có thể làm cho quan hệ tình dục trở nên khó khăn và đau đớn.
Nếu dương vật của bạn bị ảnh hưởng, nó có thể làm cho bao quy đầu dày và kém linh hoạt. Bạn có thể gặp khó khăn trong việc rút bao quy đầu để vệ sinh hoặc đi tiểu (hẹp bao quy đầu), hoặc bao quy đầu của bạn có thể bị kẹt lại sau đầu dương vật (hẹp bao quy đầu). Bạn cũng có thể gặp đau khi quan hệ tình dục và khó khăn khi đi tiểu.
Bạn cũng có thể có nguy cơ cao hơn để phát triển một loại ung thư da trên âm hộ hoặc dương vật của bạn.
Điều trị Lichen xơ hóa
Mặc dù không có cách chữa trị cho lichen xơ hóa, nhưng có những phương pháp điều trị có thể giúp ích.
Nếu bạn có nó ở vùng sinh dục, bạn nên được điều trị, ngay cả khi bạn không có triệu chứng. Bạn có khả năng gặp phải các vấn đề về quan hệ tình dục và tiểu tiện nếu không điều trị. Các mảng ở các bộ phận khác của cơ thể có thể tự biến mất theo thời gian.
Bác sĩ của bạn có thể sẽ cho bạn một loại kem steroid để thoa lên vùng bị ảnh hưởng. Điều này có thể giúp ngăn chặn cơn ngứa. Nhưng có thể mất thời gian lâu hơn—một vài tuần hoặc vài tháng—để da trở lại vẻ bình thường hơn.
Bạn có thể cần sử dụng các loại kem hoặc thuốc mỡ này trong một thời gian dài để ngăn ngừa tình trạng quay trở lại.
Bạn sẽ cần phải duy trì các cuộc hẹn với bác sĩ, vì việc sử dụng lâu dài các loại kem hoặc thuốc mỡ steroid có thể làm cho da bị đỏ hoặc mỏng và gây ra các vết rạn da. Việc điều trị cũng có thể gây nhiễm nấm âm đạo.
Nếu kem hoặc thuốc mỡ cortisone không có tác dụng với bạn, có những lựa chọn điều trị khác. Chúng bao gồm các loại thuốc giống vitamin A gọi là retinoids, liệu pháp ánh sáng cực tím, hoặc các loại kem và thuốc mỡ ức chế miễn dịch.
Pimecrolimus và tacrolimus được gọi là ức chế calcineurin. Chúng làm dịu hệ thống miễn dịch của bạn bằng cách chặn một protein gây viêm. Điều này có thể giảm ngứa.
Phẫu thuật Lichen xơ hóa
Phẫu thuật để điều trị lichen xơ hóa trên dương vật của bạn có thể là một lựa chọn tốt. Các bác sĩ thường thực hiện cắt bao quy đầu, tức là loại bỏ bao quy đầu—tissue phủ đầu dương vật. Sau đó, tình trạng này có thể sẽ không quay trở lại.
Nếu bạn có sẹo nặng ở âm hộ gây ra vấn đề khi quan hệ tình dục, phẫu thuật có thể giúp ích. Nhưng đó chỉ là một lựa chọn khi tình trạng đã được kiểm soát.
Tự chăm sóc Lichen xơ hóa
Có thể sẽ khó khăn, nhưng cố gắng không gãi. Điều đó có thể gây ra thiệt hại nhiều hơn cho da mỏng manh.
Bạn có thể làm dịu cơn ngứa bằng cách tắm trong vài inch nước ấm, không có xà phòng. Chỉ sử dụng một loại chất tẩy rửa nhẹ.
Nhẹ nhàng vỗ khô cơ thể và bôi một loại thuốc mỡ ngăn nước như vaseline lên da bị ảnh hưởng. Làm như vậy sau khi đi tiểu để nước tiểu không lưu lại trên da của bạn.
Tránh mặc quần áo chật, xịt nước hoa vùng sinh dục, chất tẩy rửa da mạnh, và các tấm vải hoặc giấy làm khô có mùi. Đừng ngồi trong quần áo ướt hoặc mồ hôi sau khi bơi hoặc tập thể dục.
Có thể cũng sẽ có ích nếu bạn mặc quần lót cotton vào ban ngày và không mặc quần lót khi ngủ vào ban đêm.
Dự đoán về Lichen xơ hóa
Bạn thường có thể nhận được sự giảm nhẹ triệu chứng của lichen xơ hóa với điều trị, đặc biệt nếu bạn phát hiện sớm. Nhưng có thể nó sẽ không hoàn toàn biến mất. Bạn có thể sẽ trải qua những giai đoạn mà nó bùng phát trong suốt phần còn lại của cuộc đời bạn.
Nó có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng, bao gồm sẹo và rối loạn tình dục.
Bạn cũng sẽ cần được kiểm tra thường xuyên để phát hiện ung thư da.
Thông tin tóm tắt
Lichen xơ hóa là một tình trạng hiếm gặp gây ra các mảng trắng, bóng, ngứa trên da của bạn, thường là xung quanh khu vực sinh dục và hậu môn. Nó có thể gây ra sẹo biến dạng và làm tăng nguy cơ ung thư da ở dương vật hoặc âm hộ của bạn. Hãy nói chuyện với bác sĩ nếu bạn có ngứa vùng sinh dục hoặc thay đổi trên da, vì lichen xơ hóa có thể được quản lý với điều trị.
Câu hỏi thường gặp về Lichen xơ hóa
Nguyên nhân nào gây ra tình trạng lichen xơ hóa bùng phát?
Các bác sĩ không biết chính xác nguyên nhân gây ra các đợt bùng phát, nhưng những thứ gây kích thích cho da của bạn có thể là một yếu tố kích thích. Một đợt bùng phát cũng có thể là dấu hiệu cho thấy bạn cần sử dụng kem steroid hoặc thuốc khác thường xuyên hơn.
Điều gì là tốt nhất cho lichen xơ hóa?
Hãy nói chuyện với bác sĩ nếu bạn có ngứa hoặc thay đổi trên da ở khu vực sinh dục. Lichen xơ hóa cần phải được điều trị để bạn không gặp phải các biến chứng nghiêm trọng. Các loại thuốc steroid mà bạn bôi lên da và các phương pháp điều trị khác thường hiệu quả tốt.
Bạn không nên mặc gì khi có lichen xơ hóa?
Bạn muốn tránh kích thích cho da bị ảnh hưởng. Đừng mặc các loại vải gãi như len, hoặc quần áo chật có thể cọ xát hoặc giữ ẩm gần da của bạn. Hãy thay đổi quần áo ướt hoặc mồ hôi ngay khi có thể.
Kinh chỉ vùng to lớn, ý chỉ cái trọng yếu. Môn chỉ môn hộ. Huyệt là Mộ huyệt của kinh Thận, trị thủy đạo không thông, mà thủy đạo là môn hộ, vì vậy gọi là Kinh Môn (Trung Y Cương Mục).
Tên Khác:
Khí Du, Khí Phủ.
Xuất Xứ:
Thiên ‘Kinh Mạch’ (Linh khu.10).
Đặc Tính:
Huyệt thứ 25 của kinh Đởm.
Huyệt Mộ của kinh Thận.
Vị Trí huyệt:
Ngang vùng bụng, huyệt ở bờ dưới đầu xương sườn tự do thứ 12.
Giải Phẫu:
Dưới da là cơ chéo to của bụng, cơ chéo bé của bụng, cơ ngang bụng, đầu cụt xương sườn 12, mạc ngang, phúc mạc, thận.
Thần kinh vận động cơ là 6 dây thần kinh gian sườn dưới và dây thần kinh bụng-sinh dục.
Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D9.
Tác Dụng:
Ôn Thận hàn, giáng Vị khí, dẫn Thuỷ thấp.
Chủ Trị:
Trị thần kinh liên sườn đau, bụng đầy, vùng bụng đau, Thận viêm.
Phối Huyệt:
1. Phối Hành Gian (C.2) trị lưng đau (Giáp Ất Kinh).
2. Phối Âm Lăng Tuyền (Tỳ 9) + Nhiên Cốc (Th.2) trị tiêu phân sống (Thiên Kim Phương ).
3. Phối Thạch Quan (Th.18) trị cột sống lưng đau như gẫy (Thiên Kim Phương).
4. Phối Lãi Câu (C.5) + Trung Phong (C.4) trị bụng dưới đau (Tư Sinh Kinh).
5. Phối Chiếu Hải (Th.6) trị tiểu vàng, tiểu không thông (Tư Sinh Kinh).
6. Phối Chương Môn (C.13) + Thiên Xu (V.25) trị các loại sán khí, thoát vị (Châm Cứu Học Thượng Haœi).
7. Phối Bàng Quang Du (Bàng quang.28) + Thận Du(Bàng quang.23) + Uỷ Trung (Bàng quang.40) trị lưng đau (Châm Cứu Học Giản Biên).
Hoa thiên lý còn gọi là dạ lý hương, dạ lài hương. Cây thiên lý mọc leo nhờ giá đỡ hay trên giàn, thân cành phần non có lông thưa. Lá mọc đối, phiến hình tim, chóp nhọn. Hoa nhỏ, mọc thành chùm màu vàng, lục nhạt, có mùi thơm dễ chịu. Hoa thiên lý thường được dùng nấu canh ăn và làm thuốc chữa bệnh. Đông y cho rằng hoa thiên lý có vị ngọt tính bình, giải nhiệt, chống rôm sảy, là một vị thuốc an thần, làm ngủ ngon giấc…
Thành phần dinh dưỡng có trong hoa thiên lý như chất xơ là 3%, chất đạm 2,8%, và gồm chất bột đường, các vitamin như C, B1, B2, pp và tiền vitamin A (caroten), cùng các khoáng chất cần cho cơ thể như calcium, phospho, sắt, đặc biệt là kẽm (Zn) có hàm lượng khá cao, vì vậy cây thiên lý cả lá non, ngọn và hoa đều là thực phẩm quý có tác dụng bổ dưỡng giúp trẻ chóng lớn, lại giúp người già giảm được chứng phì đại tuyến tiền liệt, làm tăng cường sức đề kháng cho người sử dụng.
Ngoài ra sự có mặt của chất kẽm còn có thể đẩy chì ra khỏi tinh dịch, chữa chứng vô sinh ở nam giới do nhiễm chì bởi thường xuyên tiếp xúc với vật liệu chứa chì như ắc quy, mực in, xăng pha chì, các động cơ có chì…
Đông y cho rằng: Hoa thiên lý có vị ngọt tính bình, giải nhiệt, chống rôm sảy, là một vị thuốc an thần, làm ngủ ngon giấc, tư bổ tâm, thận, bớt đi đái đêm, đỡ mệt mỏi đau lưng, có tính chống viêm và làm tan màng mộng, thúc đẩy chóng lên da non, được sử dụng trị liệu trong các chứng như viêm kết mạc cấp và mạn, viêm giác mạc và mờ đục màng mắt, viêm kết mạc do sởi, trị giun kim.
Sau đây xin giới thiệu cụ thể các phương thuốc từ cây hoa lý để có thể tự chọn lựa sử dụng sao cho phù hợp và hiệu quả.
Phòng rôm sảy ngày hè: Hằng ngày nấu canh hoa thiên lý ăn. Với trẻ có thể nghiền lá và hoa thiên lý ra nấu lẫn với bột khi cho trẻ ăn dặm.
Trị giun kim: Lấy lá thiên lý non nấu canh cho trẻ ăn liền từ 7-10 ngày sẽ hiệu quả.
Chữa lòi dom, sa dạ con: Lấy 1 nắm lá thiên lý rửa sạch, giã nát cho vào 5% muối ăn, vắt lấy nước cốt tẩm vào bông rịt vào hậu môn, hay âm hộ ngày thay 1-2 lần, sử dụng liền 5 – 7 ngày sẽ có tác dụng co dần phần dom hay dạ con lòi ra.
Làm giảm đau mình mẩy, nhức xương cốt: Hằng ngày lấy hoa thiên lý xào với thịt bò hoặc chấm với muối vừng ăn sẽ tác dụng.
Làm thư giãn sau các buổi làm việc căng thẳng, người khoan khoái, ngủ dễ ngon giấc, đỡ mệt mỏi, giảm tiểu đêm: Hằng ngày lấy hoa thiên lý nấu canh ăn.
Chữa đinh nhọt: Lấy lá cây thiên lý 30 – 50g giã nhỏ đắp vào chỗ mụn nhọt, ngày thay 1 lần, vài ba ngày sẽ khỏi.
Chữa đái buốt, đái ra máu, đái dắt, cặn trắng: Lấy rễ cây thiên lý từ 10 – 20g, sắc lấy nước uống 2-3 lần trong ngày.
Chú ý: Không ăn chung hoặc xào nấu cùng thiên lý với các thức ăn giàu chất sắt như gan, tiết, thịt nạc lợn, rau muống… vì chất sắt (Fe) có trong các loại thực phẩm này sẽ đẩy kẽm (Zn) ra khỏi cơ thể.
hoa thiên lý có vị ngọt, nhạt, tính bình
Theo Đông y, hoa thiên lý có vị ngọt, nhạt, tính bình. Tác dụng bình can, nhanh chóng lên da non, thanh mục, tiêu viêm mắt, làm tan màng mộng, thanh nhiệt giải độc, giải nhiệt an thần, gây ngủ, trừ giun kim, bớt đi tiểu đêm, chống mỏi lưng buồn mỏi chân tay.
Bài thuốc chữa bệnh từ Hoa thiên lý:
Bài 1. Thuốc chữa bệnh mất ngủ
+ Hoa thiên lý 30g
+ Hoa nhài 10g
+ Tâm sen 15g
Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 400ml nước, đun sôi kỹ, chắt 150ml nước đặc. Người bệnh chia đều uống ngày 3 lần, sau bữa ăn. cần uống liền 3-5 ngày.
Bài 2. Thuốc chữa giun kim
+ Hoa thiên lý 30g
+ Rau sam 20g
+ Lá đinh lăng 25g
Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 400ml nước, đun sôi kỹ, chắt 180ml nước đặc. Người bệnh chia đều 3 lần uống trong ngày, trước bữa ăn. cần uống liền 3 ngày.
Bài 3. Thuốc tiêu viêm mắt
+ Hoa thiên lý 30g
+ Lá mã đề 20g
+ Hoa cúc vàng 5g
Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 400ml nước, đun sôi kỹ, chắt 150ml nước đặc. Người bệnh chia đều làm 3 lần uống trong ngày, sau bữa ăn 30 phút, cần uống liền 5-7 ngày.
Chứng Can Vị bất hoà là tên gọi chung chỉ tình chí không thoải mái, Can uất Vị yếu, Can khí hoành nghịch phạm Vị gây nên một loạt chứng trạng; Biểu hiện chủ yếu là Vị quản trướng đầy đau, đau xiên tới liên sườn, ách nghịch ợ hơi, cồn cào nuốt chua, ăn vào không tiêu hoá, phiền táo dễ cáu giận, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc vàng mỏng, mạch Huyền.
Chứng Can Vị bất hoà thường gặp trong các bệnh Vị quản thống, Âu thổ, Ách nghịch.
Cần chẩn đoán phân biệt với các chứng Vị khí thượng nghịch, chứng Đởm uất đàm quấy rối.
Chứng Can Vị bất hoà gặp trong nhiều loại tật bệnh, nhưng biểu hiện lâm sàng không nhất trí, cần phân tích.
Chứng Can Vị bất hoà trong bệnh Vị quản thống biểu hiện là Vị quản trướng đầy, đau xiên tới liên sườn, thậm chí hai bên sườn đau căng không chịu nổi, ợ hơi liên tục, rêu lưỡi phần nhiều trắng mỏng, mạch Trầm Huyền, đa số do tình chí không thoải mái, Can khí uất kết không được sơ tiết, hoành nghịch phạm Vị, Vị mất hoà giáng gây nên; Điều trị nên sơ Can lý khí, hoà Vị giảm đau, cho uống bài Sài hồ sơ Can thang (Cảnh Nhạc toàn thư).
– Trong bệnh Ẩu thổ gặp chứng Can Vị bất hoà có các triệu chứng nôn mửa nuốt chua, ợ hơi liên tục, ngực sườn đầy đau, phiền muộn khó chịu, ven lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Huyền; Đây là tình chí không điều hoà, Can khí uất nén, hoành nghịch phạm Vị, Vị khí không giáng xuống, trái lại nghịch lên gây nên; Điều trị nên sơ Can lý khí hoà Vị, cho uống bài Tứ thất thang (Hoà tễ cục phương).
– Chứng Can Vị bất hoà gặp trong bệnh Ách nghịch, biểu hiện là nấc thành tiếng, lúc phát lúc ngừng nhất là khi tình tự giao động thì nấc càng rõ rệt, có thể kèm theo buồn nôn, ngực sườn trướng đau, miệng khô mà đắng, chất lưỡi đỏ rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Huyền; Đây là do tình chí không thư thái, khí cơ không lợi nghịch lên phạm Vị, Vị mất hoà giáng gây nên; Điều trị nên sơ Can hoà Vị giáng nghịch, cho uống Sài hồ sơ Can thang hợp với Quất Bì Trúc nhự thang (Kim Quỹ yếu lược).
Chứng Can Vị bất hoà phần nhiều gặp ở người thất tình bị uất nén hoặc phần nhiều khi gặp tình tự không thoải mái thì nặng thêm hoặc tái phát; Vì sự hoà giáng của Vị k hí phải nhờ vào sự sinh phát dồi dào và khí sơ tiết của tạng Can; Công năng sơ tiết bình thường lai cần dựa vào tâm tình thoải mái, tình chí thư thái không chút lưởng vưởng bận Tâm. Cho nên chứng Can Vị bất hoà trước khi phát cơn phần nhiều có bệnh sử tình tự không thư sướng, sau khi phát cơn thường biểu hiện tinh thần ức uất hoặc phiền táo, tình tự dễ bị kích động.
Chứng Can Vị bất hoà trong quá trình diễn biến cơ chế bệnh, thường có thể do Can khí uất kết, l âu ngày hoá hoả; tính của hoả cấp bách. Hoả khí khắc phạm Vị thổ, thì biểu hiện là chứng Hoả uất có cơn đau căng thẳng, tâm phiền dễ cáu giận, cồn cào ứa nước chua, miệng khô và đắng, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch Huyền Sác. Lại do hoả khí hun đốt ở trong, không những hun đốt tổn hai Can âm lại dễ tổn hại tân dịch của Vị hình thành Can Vị bất hoà mang tính chất Âm hư, thường biểu hiện là vùng sườn đau âm ỉ, Vị quản trướng đau, ợ hơi, nấc, đói mà không muốn ăn, đại tiện khô, miệng khô, chất lưỡi đỏ, ít rêu, hoặc giữa lưỡi có vết nứt, mạch Tế Huyền Sác. Ngoài ra, chung cục của chứng Can Vị bất hoà chủ yếu là ở khí cơ sáp trệ, khí là soái của huyết, huyết là mẹ của khí, khí hành thì huyết hành, khí trệ lâu ngày sẽ gây nên chứng Huyết ứ, biểu hiện là sườn và dạ dày đau cố định, đau như dùi đâm, nơi đau cự án; hoặc tiến thêm bước nữa làm tổn thương Lạc mạch mà xuất hiện các chứng trạng thổ huyết, đại tiện phân đen.
Chẩn đoán phân biệt
– Chứng Vị khí thượng nghịch với chứng Can Vị bất hoà: cả hai đều xuất hiện chứng trạng của Vị kinh, nhưng nguyên nhân và cơ chế bệnh khác nhau, cũng nên phân biệt.
Chứng Vị khí thượng nghịch do ăn uống không điều độ, đói no thất thường hoặc ấm lạnh không thích nghi, mất chức năng thông giáng của Vị, khí cơ nghịch lên gây nên bệnh, sự biến hoá bệnh lý là ở Vị, Còn chứng Can Vị bất hoà thì do tình chí không thư sướng Can uất không điều đạt hoành nghịch phạm Vị, Vị mất hoà giáng gây nên, bệnh lý biểu hiện nguyên phát là ở Can, thứ phát là ở Vị. Vị vậy mà trên lâm sàng tuy đều xuất hiện chứng trạng của Vị kinh như nôn mửa, nấc, ợ hơi, nhưng chứng Can Vị bất hoà còn biểu hiện cả chứng trạng của Can kinh như đau sườn, trướng sườn, ngực khó chịu, mạch Huyền v.v… vả lại phần nhiều trước có chứng trạng của Can kinh, rồi sau mới lại xuất hiện chứng trạng của Vị kinh.
– Chứng Đởm uất đàm quấy rối và chứng Can Vị bất hoà cả hai trên lâm sàng đều có thể xuất hiện chứng trạng gần giống nhau như nôn mửa, lợm lòng buồn nôn, cần phân biệt.
Chứng Đởm uất đàm quấy rối là do tình chí uất kết, khí uất sinh đờm, đờm và nhiệt quấy rối ở trong, Đởm mất sự sơ tiết, VỊ mất hoà giáng gây nên. Ngoài những chứng trạng của Vị kinh như nôn mửa, buồn nôn, còn có các triệu chứng hồi hộp không yên, phiền táo mất ngủ, choáng đầu hoa mắt, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Huyền Hoạt. Còn chứng Can Vị bất hoà thì lấy kinh khí không lợi có chứng trạng chủ yếu là sườn đau trướng. Hai chứng tuy đều có thể xuất hiện chứng trạng của Vị kinh, nhưng chứng Đởm uất đàm quấy rối phần nhiều không xuất hiện chứng đau, mà chứng Can Vị bất hoà thì lấy chứng đau làm chủ yếu; xem xét cho tỉ mỉ thì chẩn đoán phân biệt không khó.
Trích dẫn y văn
– Can khí lấn Vị, đau trung quản và mửa nước chua. Cho uống Nhị trần gia Tả kim hoàn, hoặc Bạch khấu, Kim linh tử (Tây Khê thư ốc dạ thoại lục – Vương Hức Cao y thư lục chủng).
– Chứng Ẩu thổ là do Vị khí mất hoà giáng, mà phần nhiều do Can nghịch xông lên Vị gây nên. Sách Linh Khu viết: “Túc Quyết âm sinh ra bệnh, ngực đầy và ẩu nghịch. Nghĩ như Vhu nhận đồ ăn, chủ về thông giáng, giờ khí nghịch lên mà nôn mửa đó là tà khí ở Can phạm Vị, hoặc Vị hư Can lấn. Cho nên trị nôn mửa phải tiết Can an Vị, thuốc dùng chủ yếu là đắng để giáng cay để thông kèm theo vị chua để tiết Can khí (Ẩu thổ – Loại chứng trị tài).
Mùa hè uống bia có thể giải khát và giải nhiệt, ngăn ngừa mồ hôi. Song mùa đông mà uống bia lạnh thì không thích hợp.
Bởi vì mùa đông uống bia tuy cũng là đồ uống tốt trong bữa ăn, song bia bị lạnh thì mất mất mùi vị, uống xong người rét run lên, đồng thời bia không nóng thì có vị chát đắng. Cho nên uống bia vào mùa đông nên có nhiệt độ 15oC là vừa, như vậy khẩu vị của bia mới chính xác. Song không thể đặt bia trực tiếp lên lửa được, mà khi uống nên ngâm chai bia vào chậu nước nóng khoảng 30oC để cho bia nóng lên là vừa.
Không nên đựng bia trong phích đựng nước
Trong bia có rất nhiều loại vitamin, axit amin, giàu chất dinh dưỡng, từng được gọi là “ Bánh bao nước ”, được quảng đại quần chúng rất hoan nghênh. Nhiều người đem phích nước nóng ra để đựng bia, để giữ cho bia được tươi lâu, như vậy là có hại chứ không có lợi.
Bởi vì dưới đáy phích thường có một lớp cặn nước (vôi), trong lớp vôi này thường có các chất ca đi mi, chất chì, chất sắt, chất thạch tín, thuỷ ngân v.v…, đồng thời còn có cả những chất gây bệnh ung thư nữa. Bia thuộc loại đồ uống có tính toan, dễ hoà tan những vật chất kể trên, uống vào sẽ rất có hại cho sức khỏe. Cho nên không nên đựng bia trong phích đựng nước.
Người bị sỏi thận không nên uống bia
Bia là loại đồ uống có chất dinh dưỡng tốt, và còn có tác dụng lợi tiểu. Nhưng người bị sỏi thận mà uống bia thì lại có hại.
Bởi vì trong mạch nha của men làm bia không những có chất can-xi và thảo toan, mà còn có cả chất ô-hạch-toan, những chất này có thể gây nên sỏi thận. Cho nên người bị sỏi thận không nên uống bia.
Người bị viêm dạ dày mãn tính không nên uống bia
Rượu bia tuy có nhẹ hơn rượu trắng, hàm lượng cồn có ít hơn, chất kích thích ít hơn, nhưng người bị bệnh đau dạ dày mãn tính thì không nên uống bia.
Bởi vì viêm dạ dày mãn tính là do chất axit ăn mòn niêm mạc dạ dày mà gây nên bệnh. Trong bia có một số thành phần đặc biệt. Nó có thể giảm bớt hoặc gây trở ngại cho niêm mạc dạ dày hợp thành chất vitamin E của tiền liệt tuyến, từ đó khiến cho chất vị toan làm tổn hại niêm mạc dạ dày. Nếu uống nhiều bia có thể gây nên viêm dạ dày mãn tính, cũng có thể làm cho người đang bị viêm dạ dày mãn tính càng trầm trọng hơn. Cho nên người viêm dạ dày mãn tính không nên uống bia.
Viên nén 200 mg: hộp 10 viên (vỉ nhôm bảo quản tránh độ ẩm).
THÀNH PHẦN
cho 1 viên
Kétoconazole
200 mg
DƯỢC LỰC
Nizoral viên là một dẫn xuất dioxolane imidazol tổng hợp có hoạt tính diệt nấm hoặc kìm nấm đối với vi nấm ngoài da nấm men (Candida, pityrosporum, Torulopsis, Cryptococcus), các nấm nhị độ và các eumycetes. Kém nhạy cảm hơn là các chủng Aspergillus, Sporothrix schenckii, một số Dematiaceae, các chủng Mucor và các phycomycetes khác ngoại trừ Entomophthorales.
Nizoral ức chế sự sinh tổng hợp ergosterol ở nấm và làm thay đổi các thành phần lipid khác ở màng tế bào vi nấm. Cho đến nay người ta chưa thấy có sự phát sinh đề kháng thuốc trong lúc điều trị bằng Nizoral.
DƯỢC ĐỘNG HỌC
Trung bình nồng dộ đỉnh trong huyết tương xấp xỉ 3,5 mg/ml đạt đươc trong voửng 1-2 giờ sau khi uống một liều 200 mg trong bữa ăn. Sự thải trừ trong huyết tương sau đó có 2 pha với thời gian bán hủy là 2 giờ trong 10 giờ đầu và 8 giờ sau đó. Sau khi hấp thu từ đường tiêu hóa, ketoconazol được chuyển đổi thành một số chất chuyển hóa không có hoạt tính. Đường chuyển hóa chính được biết là oxy hóa thoái giáng các vòng imidazole và piperazine, sự khử alkyl oxy hóa và hydroxy hóa vòng nhân thơm. Khoảng 13% liều dùng được bài xuất qua nước tiểu, trong đó 2-4% ở dạng không chuyển hóa. Đường bài xuất chính là qua đường mật vào ống tiêu hóa. In vitro, sự gắn protein huyết tương khoảng 99%, chủ yếu là albumin. Chỉ có một tỷ lệ không đáng kể ketoconazole vào dịch não tủy. Ketoconazole là thuốc có tính kiềm yếu và như vậy cần môi trường acid để hòa tan và hấp thu.
CHỈ ĐỊNH
Nhiễm nấm ở da, tóc và móng do vi nấm ngoài da và/hoặc nấm men (nấm da cạn, nấm móng, nhiễm Candida quanh móng, lang ben, nấm da đầu, viêm nang lông do Pityrosporum, nhiễm vi nấm Candida niêm mạc và da mãn tính) mà các trường hợp nhiễm này không thể điều trị tại chỗ được do vị trí hoặc sự lan rộng của thương tổn, hoặc do nhiễm vi nấm sâu ở da, hay không đáp ứng với điều trị tại chỗ.
Nhiễm nấm men ở đường tiêu hóa.
Nhiễm candida âm đạo tái phát, mãn tính mà không đáp ứng với điều trị tại chỗ.
Điều trị dự phòng cho những bệnh nhân giảm sút cơ chế đề kháng (do di truyền, do bệnh lý, hoặc do thuốc) với nguy cơ gia tăng các nhiễm vi nấm
Ketoconazole không thâm nhập tốt vào hệ thần kinh trung ương, vì vậy không nên điều trị viêm màng não do nấm bằng ketoconazole đường uống.
CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Không nên dùng Nizoral cho những bệnh nhân có bệnh lý gan cấp hay mãn tính hoặc bệnh nhân quá mẫn với thuốc.
Chống chỉ định dùng những thuốc sau với Nizoral: terfenadine, astemizole, cisapride, triazolam, midazolam uống, quinidine, pimozide, thuốc ức chế HMG-CoA reductase được chuyển hoá bởi CYP3A4 như là: simvastatine và lovastatine.
THẬN TRỌNG LÚC DÙNG
Nizoral có tiềm năng tương tác thuốc quan trọng trên lâm sàng (xem phần tương tác thuốc với những thuốc khác và các dạng khác nhau của sự tương tác).
Giảm axit dạ dày: sự hấp thu giảm khi axit dạ dày giả Ở bệnh nhân đang dùng thuốc trung hòa acit (ví dụ: aluminium hydroxide) nên dùng những thuốc này ít nhất là 2 giờ sau khi uống Nizoral. Ở những bệnh nhân vô toan như một số bệnh nhân AIDS và bệnh nhân dùng thuốc kháng tiết axit (như chất đối kháng H2, chất ức chế bơm proton) được khuyến cáo nên uống thuốc Nizoral cùng với nước giải khát cola.
Sự gia tăng nhẹ, tạm thời không triệu chứng của transaminases hay phosphatase kiềm đôi khi xảy Phản ứng không triệu chứng này vô hại và không nhất thiết phải ngưng thuốc nhưng cần phải theo dõi sát những bệnh nhân này.
Cần làm thử nghiệm chức năng gan khi điều trị Nizoral kéo dài hơn 2 tuần
Điều quan trọng là phải nhắc nhở những bệnh nhân điều trị dài ngày bằng Nizoral cảnh giác các triệu chứng của bệnh gan như mệt mỏi bất thường kèm theo sốt, nước tiểu vàng, phân nhạt màu hoặc vàng Các yếu tố gia tăng nguy cơ viêm gan là phụ nữ trên 50 tuổi, có tiền sử bệnh gan, không dung nạp thuốc, và sử dụng đồng thời các thuốc khác có tác hại cho gan. Các thử nghiệm chức năng gan nên được thực hiện ở bệnh nhân điều trị bằng Nizoral kéo dài hơn 2 tuần (trước khi điều trị, sau hai tuần và tiếp tục sau đó mỗi tháng một lần). Nếu các thử nghiệm này xác nhận bệnh gan, cần ngừng điều trị bằng Nizoral.
Trong những trường hợp bệnh không đe dọa đến tính mạng đòi hỏi thời gian điều trị dài, cần cân nhắc giữa lợi ích và yếu tố nguy cơ trước khi sử dụng ketoconazole.
Ở những người tình nguyện với liều dùng mỗi ngày là 400 mg hay cao hơn, đã cho thấy Nizoral làm giảm đáp ứng cortisol đối với sự kích thích ACTH. Do đó, nên theo dõi sát chức năng thượng thận ở bệnh nhân suy thượng thận và ở bệnh nhân bị stress kéo dài (phẫu thuật lớn, săn sóc đặc biệt v.v.).
Ảnh hưởng trên khả năng lái xe và điều khiển máy móc:
Không ảnh hưởng.
LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ
Ở liều 80 mg/kg, Nizoral gây ra tật dính ngón ở chuột nhắt. Chưa có những nghiên cứu về việc sử dụng thuốc ở phụ nữ có thai. Do đó, Nizoral không được dùng trong thai kỳ, trừ khi lợi ích tiềm tàng lớn hơn nguy cơ có hại cho bào thai.
Vì Nizoral được tiết trong sữa mẹ nên những người mẹ đang dùng thuốc không được cho con bú.
TƯƠNG TÁC THUỐC
Thuốc ảnh hưởng trên sự chuyển hóa ketoconazole:
Thuốc cảm ứng enzym như là rifampicin, rifabutin, carbamazepine, isoniazid và phenytoin làm giảm đáng kể khả dụng sinh học của ketoconazole.
Ritonavir làm tăng khả dụng sinh học của Do đó, khi thuốc được dùng chung, cầm xem xét việc giảm liều ketoconazole.
Tác dụng của ketoconazole trên chuyển hóa của những thuốc khác:
Ketoconazole có thể ức chế sự chuyển hóa của những thuốc được chuyển hóa bởi một số enzym P450 ở gan, đặc biệt là nhóm CYP3A. Điều này có thể dẫn đến sự gia tăng và/hoặc kéo dài tác dụng của chúng, bao gồm tác dụng phụ.
Ví dụ: những thuốc sau không được sử dụng chung với ketoconazole: terfenadine, astemizole, cisapride, triazolam, midazolam uống, quinidine, pimozide, thuốc ức chế HMG-CoA reductase được chuyển hóa bởi CYP3A4 như là simvastatin và lovastatin.
Những thuốc sau cần theo dõi sát nồng độ trong máu, tác dụng và tác dụng phụ. Nếu dùng chung với ketoconazole, những thuốc này nên được giảm liều nếu cần thiết:
Thuốc chống đông đường uống
Thuốc ức chế protease HIV như là ritonavir, indinavir, saquinavir.
Một số thuốc điều trị ung thư như là vinca alkaloids, busulphan, docetaxel và trimetrexate.
Thuốc ức chế canxi chuyển hóa bởi CYP3A4 như là dihydropyridines và verapamil.
Một số thuốc ức chế miễn dịch: cyclosporine, tacrolimus,
Các thuốc khác: digoxine, carbamazepine, buspirone, alfentanil, alprazolam, midazolam tiêm mạch, rifabutin, methylprednisolone và trimetrexate.
Ngoại lệ có một vài trường hợp có phản ứng khi uống rượu, giống như uống disulfiram với đặc điểm: đỏ bừng mặt, phát ban, phù ngoại biên, buồn nôn và nhức đầu. Tất cả các triệu chứng này sẽ hoàn toàn biến mất trong vòng vài giờ.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN
Những phản ứng phụ thường gặp nhất được ghi nhận có liên quan đến việc sử dụng Nizoral là những phản ứng phụ trên đường tiêu hóa, như là: rối loạn tiêu hóa, buồn nôn, đau bụng và tiêu chảy. Những phản ứng phụ ít gặp hơn được ghi nhận bao gồm nhức đầu, sự tăng có hồi phục các men gan, rối loạn kinh nguyệt, choáng váng, sợ ánh sáng, dị cảm và phản ứng dị ứng. Những tác dụng phụ được ghi nhận với tần suất thấp là giảm tiểu cầu, hói đầu (rụng tóc), bất lực và tăng áp lực nội sọ có hồi phục (ví dụ: phù gai thị, thóp phồng ở trẻ nhũ nhi).
Trong một số rất ít các trường hợp, với liều lượng cao hơn liều điều trị 200 mg và 400 mg mỗi ngày, người ta quan sát thấy chứng vú to và thiếu sản tinh trùng có hồi phục.
Ở liều điều trị 200 mg mỗi ngày, người ta có thể thấy sự giảm tạm thời nồng độ testosterone trong huyết tương. Nồng độ testosterone trở về bình thường trong vòng 24 giờ sau điều trị Nizoral. Trong thời gian điều trị lâu dài ở liều điều trị, nồng độ testosterone trong máu thường không khác biệt so với nhóm chứng.
Trong thời gian dùng Nizoral, viêm gan (đa số do đặc ứng) có thể xảy ra. Tình trạng này thường hồi phục nếu ngưng ngay việc dùng thuốc.
LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG
Nizoral nên được uống trong bữa ăn để được hấp thu tối đa. Điều trị:
Người lớn:
Nhiễm nấm da, nhiễm nấm đường tiêu hóa và nấm nội tạng: Một viên (200 mg) mỗi ngày một lần trong bữa ăn. Khi không đạt được đáp ứng đầy đủ ở liều này, liều dùng nên được tăng lên thành hai viên (400 mg), mỗi ngày một lần trong bữa ăn.
Nhiễm candida âm đạo: hai viên (400 mg), mỗi ngày một lần trong bữa ăn. Trẻ em:
Trẻ em cân nặng từ 15-30 kg: 100 mg mỗi ngày một lần trong bữa ăn.
Trẻ em cân nặng trên 30 kg: liều giống như người lớn
Nói chung, việc điều trị nên được tiếp tục, không gián đoạn đến khi ít nhất 1 tuần sau khi tất cả các triệu chứng đã biến mất và đến khi tất cả các mẫu cấy đều chuyển sang âm tính.
Điều trị phòng ngừa ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch:
Người lớn: 2 viên (400 mg) mỗi ngày.
Trẻ em: 4-8 mg/kg mỗi ngày một lầ Thời gian điều trị thông thường là:
Nhiễm Candida âm đạo: 5 ngày kế tiếp
Nhiễm nấm da do vi nấm ngoài da: khoảng 4 tuần
Lang ben: 10 ngày.
Nhiễm nấm ở miệng và da do Candida: 2-3 tuần
Nhiễm nấm tóc: 1-2 tháng.
Nhiễm nấm móng: 6-12 tháng, được xác định bởi tốc độ phát triển của móng, đòi hỏi phải đạt được sự phát triển ra ngoài một cách đầy đủ của móng bị nhiễm nấm.
Nhiễm nấm Candida nội tạng: 1-2 tháng.
Nhiễm nấm Paracoccidioides, Histoplasma, Coccidioides: thời gian điều trị tối ưu là 3-6 tháng.
QUÁ LIỀU
Trong trường hợp tai biến quá liều, nên áp dụng các biện pháp hỗ trợ. Trong vòng một giờ đầu sau khi uống, có thể rửa dạ dày. Có thể sử dụng than hoạt khi thích hợp.
ĐIỀU TRỊ :Nếu không điều trị, bệnh nặng dần, cơ thể biến dạng nặng, chết do nhiễm khuẩn phụ, co giật, co thắt thanh quản (tử vong đột ngột).
– Điều trị bằng uống mỗi ngày 2000 – 4000 đv Vitamin D2 kéo dài từ 6 đến 12 tuần, hoặc tiêm bắp 1 ống 25-hydrocholecalciferol 250mg (tác dụng chậm).
– Uống hoặc tiêm Calci mỗi ngày từ 500 – 1500 mg.
– Uống dầu cá giọt hoặc viên nang.
Bệnh thấp khớp – NXB Y học – 2002
TS. Trần Ngọc Ân
bệnh còi xương
Tương đương với bệnh nhuyễn xương, còi xương gặp ở trẻ con. Do thiếu Vitamin D, tạo nên sự khiếm khuyết quá trình vô cơ hóa của phần xương tăng trưởng mạnh nhất (phần sụn nối) là thể hiện trên lâm sàng bằng các dấu hiệu còi xương.
Về giải phẫu bệnh: xương trở nên mềm, rỗ, dễ bẻ cong, các phần sụn nối phì đại to hơn bình thường.
Về nguyên nhân: còi xương hay gặp ở lứa tuổi 3 – 18 tháng, thường là trẻ em nam, có thể là trẻ đẻ non, những nguyên nhân gây bệnh là những nguyên nhân gây thiếu Vitamin D.
– Thiếu ánh nắng mặt trời: nhà ở lụp sụp, kiêng cữ.
– Thức ăn thiếu vitamin D (do sữa, do thức ăn …)
– Ỉa chảy mãn tính.
1.Những dấu hiệu ở xương có tính chất đối xứng và không đau:
– Sọ và mặt: thóp lâu liền, rộng, sọ mềm.
– Lồng ngực: có chuỗi hạt sườn, lồng ngực biến dạng.
– Chi: nổi các u cục ở vùng sụn nối cổ tay, mắt cá, chân vòng kiềng. 2.Những triệu chứng ngoài xương: Cơ nhẽo, trương lực cơ giảm, các dây chằng lỏng lẻo, xanh xao thiếu máu. 3.X quang: Xuất hiện muộn, có dấu hiệu khoảng cách các xương giãn rộng ra ở vùng cổ tay, gối, cổ chân. Cấu trúc xương thưa, có các bè chạy theo một phía như chải bàn lược, xương biến dạng, vỏ mỏng. 4.Xét nghiệm:
– Calci và Phospho máu giảm.
– Định lượng 25-hydrocholecalciferol máu giảm.
– Phosphatase kiềm tăng.
– Calci niệu giảm, Phospho niệu tăng.
III. ĐIỀU TRỊ
Nếu không điều trị, bệnh nặng dần, cơ thể biến dạng nặng, chết do nhiễm khuẩn phụ, co giật, co thắt thanh quản (tử vong đột ngột).
– Điều trị bằng uống mỗi ngày 2000 – 4000 đv Vitamin D2 kéo dài từ 6 đến 12 tuần, hoặc tiêm bắp 1 ống 25-hydrocholecalciferol 250mg (tác dụng chậm).
– Uống hoặc tiêm Calci mỗi ngày từ 500 – 1500 mg.
– Uống dầu cá giọt hoặc viên nang. – Chiếu tia cực tím toàn thân.
Đau đầu một bên gọi là Thiên đầu thống. Sách Tế sinh phương gọi là “Thiên đầu phong”. Sách Nho môn sự thân gọi là “Ngạch giác thượng thống”. Sách Lan thất bí tàng gọi là “Đầu bán biên thống”. Sách Danh y loại án gọi là “Đầu giác thống”… đều là chỉ chứng Thiên đầu thống.
Thiên đầu thống là bệnh khá ngoan cố khó khỏi nhanh, nhưng nói chung chứng đầu thống trên lâm sàng không tách ra hoàn toàn, khi chẩn đoán phân biệt nên tham khảo với chứng “Đầu thống”,
Phân biệt
Chứng hậu thường gặp
Thiên đầu thống do Can dương: Có chứng trướng đau mà choáng váng, mắt rít, tai ù, Tâm phiền dễ cáu giận, đêm ngủ không yên có lúc đau sườn, miệng khô mặt đỏ, lưỡi hồng ít rêu, mạch Huyền hoặc Tế Sác.
Thiên đầu thống do ứ huyết. Bệnh trình kéo dài, nơi đau cố định, đau như dùi đâm, hồi hộp hay quên. Phụ nữ thì nguyệt kinh không đều, chất lưỡi tía tối hoặc có nốt ứ huyết, mạch Huyền hoặc Trầm sắc.
Thiên đầu thống do hàn ẩm: Có chứng nặng nề và đau, ngực bụng đầy tức, nôn ọe, mửa ra dãi hoặc Vị thống ưa ấm, chân tay nghịch lạnh, kém ăn, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Huyền Hoạt.
Phân tích
Chứng Thiên đầu thống do Can dương: Phần nhiều do tình chí bất toại, Can uất hóa hỏa, lâu ngày thương âm, hoặc vốn do Can Thận âm hư, Can dương thịnh một phía quấy rối thanh khiếu ở trên phát sinh Thiên đầu thống. Bệnh thường tùy theo tác động của tình chí mà nặng thêm. Yếu điểm biện chứng là: đau đầu choáng váng, Tâm phiền kém ngủ, nóng nẩy dễ cáu giận, vùng sườn trướng đầy… Điều trị nên dưỡng âm bình Can, cho uống Tư âm tiềm dương phương.
– Chứng Thiên đầu thống do hàn ẩm với chứng Thiên đầu thống do ứ huyết: cả hai đều do tà ngăn trở thanh khiếu. Một loại là ứ huyết ngăn trở đường lạc. Một loại là đờm ẩm ứ đọng. Chứng Thiên đầu thống do ứ huyết phần nhiều do khí uất dẫn đến ứ, hoặc bệnh trình kéo dài, ốm lâu, bệnh tà vào đường lạc ứ nghẽn mạch lạc. Yếu điểm biện chứng là: nơi đau cố định, đau như dùi đâm, chất lưỡi tía tối. Điều trị nên hoạt huyết thông lạc, dùng phương Thông khiếu hoạt huyết thang gia giảm. Chứng Thiên đầu thống do hàn ẩm phần nhiều do Tỳ dương vốn hư, vận hóa yếu, thủy thấp ứ đọng gây nên đàm ẩm. Hàn ẩm nghẽn tắc kinh lạc; thanh dương không thăng lên được nên vùng đầu nặng nề và đau. Hàn ẩm nghẽn tắc ở hung quản thì ngực bụng bĩ đầy. Vị thông ưa ấm, ăn uống kém, buồn nôn mửa dãi. Tỳ chủ tứ chi, Tỳ dương không mạnh không làm ấm ra tay chân cho nên tay chân nghịch lạnh. Yếu điểm biện chứng là: đau đầu nặng nề, nôn ọe mửa ra dãi, chân tay nghịch lạnh. Điều trị nên ôn trung giáng nghịch dùng phương Ngô thù du thang gia giảm.Đau nửa đầu trước tiên dùng các kinh Thủ Thiếu dương Dương minh sau đó dùng các kinh Túc Thiếu dương Dương minh, đó là chứng Thiên đầu thống (Lan thất bí tàng – Đầu thống môn).
Chứng Thiên đầu thông có khi tới 5, 7 năm, đại tiểu tiện táo kết, hai mắt sưng đỏ, choáng váng… khám mạch thấy cấp Sác mà có lực, đó là phong nhiệt quá nặng gọi là chứng Đầu giác thống, bệnh do đường kinh của Tam tiêu tướng hỏa bị dương táo kim nó thắng (Danh y loại án – Thủ phong).
Thiên đầu thông về bên phải, mũi chẩy nước mà vẫn không thông lợi, yết hầu loét nát, khi ngủ hoặc thức giấc chân tay lạnh vã mồ hôi là ngoại tà đầu phong đã lưu lại vài ngày, tà kéo đến hỗn độn, tinh hoa khí huyết vì thế bị che lấp làm sao dùng phép phát tán thanh hàn mà khỏi được? Thuốc men để chữa bệnh ở đỉnh đầu cần phải nhẹ nhàng, nên châm các huyệt Phong trì, Phong phủ và cho uống thuốc vẫn phải vận dụng phép thông (Lâm chứng chỉ nam y án – Đầu phong).
Bệnh Sprue nhiệt đới là bệnh ỉa chảy mỡ kéo dài (sau khi đã loại trừ các bệnh nhiễm KST: Giardia lamblia, Strongyloides stercoralis, Cappilaris phillipinesis và Coccicodiaris. ở những người ăn khẩu phần thiếu đạm. Loại trừ bệnh Sprue do gluten, các bệnh kém hấp thu khác (lao ruột, bệnh Crohn, bệnh Whipple) kèm theo hội chứng kém hấp thu.
2. Tổn thương giải phẫu bệnh lý
Biểu hiện hiện tượng teo nhung mao nhưng thường ở mức độ nhẹ giai đoạn 2-3 là cùng, ít khi ở giai đoạn 4 (theo Laumonier)
3. Triệu chứng học:
a. Lâm sàng
ỉa chảy mạn tính, ỉa ra chất mỡ
Suy sụp cơ thể nặng của hội chứng kém hấp thu với 2 đặc điểm lâm sàng:
+ Có các nốt loél ở niêm mạc miệng.
+ Thiếu máu loại nguyên hồng cầu khổng lồ
b. Xét nghiệm:
Mỡ trong phân 24 giờ tăng
Test axit folic, schilling, xyloza đều dương tính.
4. Điều trị:
Dùng kháng sinh phổ rộng: Tetraxyclin
+ Người lớn: 4 viên (loại 250-500mg)/24 giờ x 7-10 ngày
+ Trẻ em: 10-25 mg/kg/24 giờ chia 3 lần/24 giờ x 7-10 ngày
Vitamin B12: 200 microgam/24 giờ tiêm bắp l0-15 ngày cách nhật.
Axit folic:
+ Người lớn: 1-4 viên (5mg)/ 24 giờ chia 4 lần trong 10 ngày
+ Trẻ em: 1-2 viên (5mg)/ 24 giờ chia 2 lần trong 10 ngày.