Blog Trang 586

Bệnh Xơ Cứng Teo Cơ Một Bên (ALS)

Bệnh ALS là gì?

Bệnh ALS là một bệnh lý khiến các tế bào thần kinh vận động, những tế bào thần kinh gửi thông điệp từ não đến tủy sống và sau đó đến các cơ bắp, bị suy giảm và chết đi. Các tế bào thần kinh vận động này điều khiển tất cả các cử động tự nguyện của bạn, cho phép bạn thực hiện những việc như đi bộ, nhai và nuốt thức ăn, và thậm chí thở.

Có hai loại chính của các tế bào thần kinh này. Tế bào thần kinh vận động trên (upper motor neurons) nằm trong não. Chúng gửi tín hiệu xuống tủy sống đến các tế bào thần kinh vận động dưới (lower motor neurons), những tế bào này ra lệnh cho các cơ bắp hoạt động.

Với bệnh ALS, não của bạn không còn gửi được thông điệp đến các cơ bắp nữa. Do không nhận được tín hiệu nào, các cơ bắp trở nên rất yếu và dần dần bị teo lại. Điều này được gọi là teo cơ (atrophy). ALS là một bệnh tiến triển, có nghĩa là nó sẽ trở nên tồi tệ hơn theo thời gian. Khi các cơ bắp bị teo lại, bạn sẽ gặp khó khăn hơn trong việc đi bộ, nói chuyện, ăn uống và thở.

 

Với bệnh ALS, não của bạn không thể gửi thông điệp đến các cơ bắp nữa. Điều này khiến cho các cơ bắp trở nên rất yếu và dần dần bị teo lại, làm cho bạn gặp khó khăn trong việc đi bộ, nói chuyện, ăn uống và thở. Thuốc men và các liệu pháp khác có thể giúp cuộc sống hàng ngày trở nên dễ chịu hơn, nhưng không có cách nào để phục hồi những tổn thương do bệnh ALS gây ra.

Các loại bệnh ALS

Có hai loại bệnh ALS:

  1. Bệnh ALS sporadic (Bệnh ALS ngẫu nhiên) là dạng phổ biến nhất. Nó ảnh hưởng đến khoảng 95% người mắc bệnh. “Ngẫu nhiên” có nghĩa là nó xảy ra đôi khi mà không có nguyên nhân rõ ràng.
  2. Bệnh ALS familial (Bệnh ALS di truyền) xảy ra trong các gia đình. Khoảng 5% đến 10% người mắc bệnh xơ cứng teo cơ một bên thuộc loại này. Những thay đổi trong gen gây ra bệnh FALS. Cha mẹ truyền gen lỗi cho con cái của họ. Nếu một trong hai cha mẹ có gen gây bệnh ALS, mỗi đứa trẻ sẽ có 50% cơ hội nhận gen và mắc bệnh.

Nguyên nhân gây bệnh ALS

Các nhà nghiên cứu vẫn chưa biết chính xác nguyên nhân gây ra bệnh xơ cứng teo cơ một bên. Các thay đổi gen, hoặc đột biến, là nguyên nhân đứng sau 5% đến 10% các trường hợp. Các nhà nghiên cứu đã liên kết hơn 12 đột biến với bệnh này.

Một trong những đột biến là ở gen tạo ra một protein gọi là SOD1. Protein này có thể độc hại đối với các tế bào thần kinh vận động. Các thay đổi gen khác trong bệnh ALS cũng có thể làm hỏng các tế bào thần kinh vận động.

Môi trường cũng có thể đóng vai trò trong bệnh ALS. Các nhà khoa học đang nghiên cứu xem liệu những người tiếp xúc với một số hóa chất hoặc vi khuẩn có nhiều khả năng mắc bệnh hay không.

Các nhà khoa học cũng đang xem xét những nguyên nhân khác có thể:

  • Glutamate. Hóa chất này là một loại chất dẫn truyền thần kinh – nó gửi tín hiệu tới và từ não và các dây thần kinh. Với bệnh xơ cứng teo cơ một bên, glutamate tích tụ trong không gian xung quanh các tế bào thần kinh và có thể làm hỏng chúng. Thuốc riluzole (Rilutek) hoạt động bằng cách giảm mức glutamate và có thể giúp làm chậm tiến triển của bệnh.
  • Vấn đề với hệ thống miễn dịch. Hệ thống miễn dịch của bạn bảo vệ cơ thể khỏi những kẻ xâm nhập bên ngoài như vi khuẩn và virus. Microglia là loại tế bào miễn dịch chính trong não của bạn. Chúng tiêu diệt vi khuẩn và các tế bào bị hỏng. Với bệnh ALS, microglia cũng có thể tiêu diệt các tế bào thần kinh vận động khỏe mạnh.
  • Vấn đề với ti thể. Ti thể là các bộ phận trong tế bào nơi tạo ra năng lượng. Vấn đề với chúng có thể dẫn đến bệnh xơ cứng teo cơ một bên hoặc làm cho trường hợp hiện tại trở nên tồi tệ hơn.
  • Căng thẳng oxy hóa. Các tế bào của bạn sử dụng oxy để tạo ra năng lượng. Cơ thể bạn có thể hình thành một số oxy này thành các chất độc hại gọi là gốc tự do, có thể gây tổn thương cho các tế bào. Thuốc edaravone (Radicava) là một chất chống oxy hóa có thể giúp kiểm soát các gốc tự do này.

Triệu chứng của bệnh ALS

Bệnh xơ cứng teo cơ một bên ảnh hưởng đến mọi người theo những cách khác nhau, nhưng nó gây ra sự mất kiểm soát dần dần của các cơ bắp tự nguyện – những cơ mà bạn sử dụng để đi bộ, nói chuyện, di chuyển, ăn uống, uống nước và thở.

Triệu chứng sớm của bệnh ALS

Triệu chứng sớm của bệnh xơ cứng teo cơ một bên có thể bao gồm:

  • Co cơ ở cánh tay, chân, vai hoặc lưỡi
  • Chuột rút cơ, đặc biệt là ở tay và chân
  • Cơ bắp chặt chẽ hoặc cứng nhắc
  • Yếu cơ ở tay, cánh tay, chân, hoặc chỉ một bên cơ thể
  • Khó khăn khi nói to
  • Nói lắp
  • Vấn đề trong việc nhai hoặc nuốt

Triệu chứng tiến triển của bệnh ALS

Sau đó, bệnh xơ cứng teo cơ một bên có thể khiến bạn:

  • Hay vấp ngã hoặc ngã nhiều hơn
  • Hay làm rơi đồ vật
  • Giảm cân
  • Chảy nước miếng hoặc nghẹn khi uống
  • Cảm thấy mệt mỏi suốt thời gian
  • Gặp khó khăn trong việc điều khiển các biểu cảm trên khuôn mặt
  • Cười hoặc khóc mà không có lý do

Khi bệnh tiến triển, nó ảnh hưởng nhiều hơn đến cơ thể của bạn. Cuối cùng, bạn có thể không thể kiểm soát các cơ bắp và thực hiện những việc như:

  • Di chuyển tay và chân
  • Đứng hoặc đi bộ
  • Vào và ra khỏi giường
  • Nhai hoặc nuốt
  • Nói hoặc phát âm
  • Thở mà không cần sự trợ giúp của máy móc

Ít phổ biến hơn, bạn có thể nhận thấy sự thay đổi trong trí nhớ hoặc cách bạn suy nghĩ và hành động.

Chẩn đoán bệnh ALS

Bác sĩ của bạn sẽ tiến hành kiểm tra thể chất và hỏi về lịch sử y tế của bạn. Bạn cũng sẽ được kiểm tra thần kinh để kiểm tra mức độ hoạt động của các cơ và dây thần kinh. Những bài kiểm tra này đo phản xạ của bạn và kiểm tra các vấn đề về cơ như yếu, teo hoặc co cứng (cứng nhắc).

Triệu chứng của bệnh ALS có thể giống với các vấn đề y tế khác. Bạn sẽ cần nhiều bài kiểm tra để loại trừ các tình trạng sức khỏe khác và xác nhận chẩn đoán bệnh ALS. Những bài kiểm tra phổ biến nhất là:

  • Điện cơ đồ (EMG). Bác sĩ sẽ đưa một kim qua da vào cơ bắp của bạn để đo hoạt động điện. Nếu bạn mắc bệnh ALS, các sợi cơ của bạn sẽ không hoạt động như bình thường.
  • Nghiên cứu dẫn truyền thần kinh. Bài kiểm tra này kiểm tra các vấn đề trong việc truyền tín hiệu giữa dây thần kinh và cơ bắp của bạn.
  • Chụp cộng hưởng từ (MRI). Bác sĩ sẽ chụp hình ảnh chi tiết não và tủy sống của bạn để kiểm tra sự hiện diện của khối u hoặc những vấn đề khác có thể gây ra triệu chứng của bạn.
  • Xét nghiệm máu và nước tiểu. Những bài kiểm tra này có thể giúp bác sĩ loại trừ các tình trạng sức khỏe khác.
  • Chọc dò tủy sống. Đây cũng được gọi là chọc dò thắt lưng. Bác sĩ có thể đưa một kim rỗng vào lưng dưới để lấy mẫu dịch tủy sống của bạn.
  • Sinh thiết cơ. Bác sĩ có thể loại bỏ một phần nhỏ cơ bắp để quan sát dưới kính hiển vi. Họ sẽ cho bạn thuốc gây tê trước để không cảm thấy đau. Bạn có thể có khả năng cao hơn trong việc thực hiện bài kiểm tra này nếu có khả năng bạn mắc một bệnh cơ khác ngoài ALS.

Bệnh Xơ Cứng Teo Cơ Một Bên (ALS) so với Bệnh Đa Xơ Cứng (MS)

Bệnh xơ cứng teo cơ một bên và bệnh đa xơ cứng đều ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Chúng có nhiều triệu chứng giống nhau, bao gồm yếu cơ và khó khăn trong việc đi lại. Tuy nhiên, hai tình trạng này là khác nhau.

Miệng mắt méo xếch – Phân biệt triệu chứng bệnh Đông y

Khái niệm

Miệng mắt méo xếch còn gọi là “Diện nan”, “Điếu tuyến phong”, “Lịch thư phong”, biểu hiện chứng trạng là miệng mắt là méo xếch không nhắm kín, ngậm kín.

Chứng này trong sách Linh khu gọi là “Khẩu oa”, “Tích”, “Thốt khẩu tích”. Sách Kim quỹ yếu lược gọi là “Oa tích”, sách Chư bệnh nguyên hậu luận thì có mục “Phong khẩu oa hậu”, đến đời Tống mới có tên gọi “Khẩu nhãn oa tà”. (Tam nhân cực nhất bệnh chứng phương luận). Sách Y học cương mục thì gọi chứng này là “Lệ”, từ đó về sau cáe tác phẩm của nhiều thầy thuốc đa số gọi là “Khẩu nhãn oa tà”.

Chứng Khẩu nhãn oa tà (miệng mắt méo xếch) người xưa phần nhiều xếp ở dưới mục Trúng phong. Vì Trúng phong có trúng kinh lạc, trúng tạng phủ khác nhau. Phong trúng kinh lạc thì chỉ thấy miệng mắt méo xếch còn phong trúng tạng phủ thì miệng mắt méo xếch phần nhiều kèm theo các chứng ngã lăn, hôn mê đột ngột bất tỉnh nhân sự. Mục này giới thiệu chủ yếu là loại Miệng mắt méo xếch do trúng kinh lạc và loại Miệng mắt méo xếch do di chứng Trúng phong cho đến những nguyên nhân khác dẫn đến miệng mắt méo xếch, còn ngoài ra không thuộc phạm vi thảo luận ở mục này.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Miệng mắt méo xếch do phong tà từ ngoài xâm phạm. Có chứng Miệng mắt méo xếch đột ngột vùng mặt có cảm giác lạ thường kiêm các chứng đau đầu tắc mũi, cổ gáy căng cứng, cơ vùng mặt co giật, mạch Phù, rêu lưỡi hắng mỏng.
  • Miệng mắt méo xếch do Can phong nội động: Có chứng Miệng mắt méo xếch đột ngột từng cơn, vùng mặt đỏ bừng chân tay tê dại, gốc tai đau trướng, choáng váng kịch liệt, đầu nặng chân nhẹ, mạch Huyền Sác có lực, lưỡi đỏ sạm, rêu lưỡi vàng hoặc ít rêu, thiếu tân dịch.
  • Miệng mắt méo xếch do Can khí uất kết: Có chứng Miệng mắt méo xếch, thường xuất hiện theo sự kích thích tinh thần, kiêm chứng thở dài, ngực sườn đầy tức không muốn ăn uống, đau buồn muốn khóc mạch Huyền, rêu lưỡi trắng mỏng.
  • Miệng mắt méo xếch do khí huyết đều suy: Có chứng Miệng mắt méo xếch, cơ mặt nhão, mi mắt vô lực, thiếu khí biếng nói, mạch Tế vô lực, chất lưỡi nhợt non, rêu lưỡi trắng mỏng.
  • Miệng mắt méo xếch do phong đờm ngăn trở đườnglạc: Có chứng miệng mắt méo xếch, cơ mặt tê dại, nói năng không rõ, trong họng có tiếng đờm khò khè thể lưỡi có cảm giác cứng chắc, mạch Huyền Hoạt hoặc Huyền Hoãn, rêu lưỡi trắng nhớt.

Phân tích

  • Chứng Miệng mắt méo xếch do phong tà từ ngoài xâm phạm: Vì phong tà ẩn náu ở mạch lạc Dương minh vùng mặt khiến cho sự vận hành của khí huyết trái thường, lạc mạch không được nuôi dưỡng cho nên xuât hiện miệng mắt méo xếch. Nhưng lâm sàng có phong hàn, phong nhiệt, phong thấp khác nhau, điểm chung của ba loại này là đột ngột phát sinh miệng mắt méo xếch, có triệu chứng ngoại cảm rõ rệt, mạch Phù, rêu lưỡi trắng mỏng. Điểm khác nhau là: người bị phong hàn thì cơ mặt bên bị bệnh căng rút hoặc đau, bì phu thấy dầy ra và cứng chắc. Người bị chứng phong nhiệt thì cơ mặt nhẽo, bì phu có cảm giác nóng bừng. Người bị chứng phong thấp thì cơ mặt bị sưng, mi mắt hơi bị nề. Điều trị chứng phong hàn nên sơ phong tán hàn dùng phương Cát căn thang gia giảm. Điều trị chứng phong nhiệt nên sơ phong tán nhiệt chọn dùng phương Sài Cát giải cơ thang. Điều trị chứng phong thấp nên sơ phong tán thấp dùng phương Khương hoạt thắng thấp thang.
  • Chứng Miệng mắt méo xếch do Can phong nội động: Can là cương tạng thể âm dụng dương. Nếu cáu giận khí nghịch. Can dương hóa phong xông lên vùng mặt làm tổn hại lạc mạch của Dương minh co kéo khuyết bồn vùng má liền xuất hiện miệng mắt méo xếch, thậm chí cơ bắp vùng mặt giật động hoặc cơ thịt nhấp nháy. Tuy nhiên chứng này với loại miệng mắt méo xếch do ngoại phong xâm phạm đều phát cơn đột ngột nhưng một loại là Nội phong, một loại là Ngoại phong. Nội phong có dấu hiệu báo trước Can phong nội động như vốn có chứng choáng váng tai ù hoặc chân tay’tê dại. Ngoại phong còn có thể thấy biểu chứng. Còn Nội phong thì mạch phải Huyền.

Ngoại phong mạch phần nhiều Phù. Nội phong phần nhiều phát sinh ở người cao tuổi. Ngoại phong phần nhiều gặp ở lứa tuổi thanh niên và trung niên. Điều trị Nội phong chủ yếu phải “Dẹp phong”. Điều trị Ngoại phong chủ yếu phải “Sơ tán” cho nên điều trị Can phong nội động nên dùng phép bình Can dẹp phong, chọn dùng phương Thiên ma câu đằng ẩm hoặc Linh giác câu đằng thang.

  • Chứng Miệng mắt méo xếch do Can khí uất kết: Chứng này phần nhiều gặp ở người tinh thần buồn bực, phần nhiều hay lo sầu nữ tính, trước khi mắc bệnh thường có dụ nhân rõ rệt hoặc có việc tranh chấp với người khác, hoặc tự bản thân lo nghĩ bất toại, hoặc mắt thấy tai nghe những điều không vui dẫn đến Can khí bực tức, lạc mạch Dương minh bất hòa xuất hiện miệng mắt méo xếch. Đặc điểm lâm sàng là: trước khi phát hiện tinh thần không vui, sau khi phát bệnh biểu hiện tâm tình khổ sở, thần chí trì trệ hoặc rên khóc nức nở, cơ mặt có lúc giật động thường dùng châm thích vàọ huyệt Nhân trung, méo xếch có thể đạt tới bình thường, điều trị theo phép thư Can giải uất điều hòa mạch lạc cho uống ức Can tán.
  • Chứng Miệng mắt méo xếch do khí huyết đều suy. Khí chủ về sưởi ấm, huyết chủ về mềm mại, huyết chủ âm thuộc tĩnh, khí thuộc dương chủ động. Khí hư không dẫn lên vùng mặt cũng khó mà tưới nhuận Dương minh, cơ bắp vùng mặt mất đi sự ôn dưỡng khí huyết, xuất hiện miệng mắt méo xếch, chứng này phần nhiều gặp ở di chứng sau khi Trúng phong hoặc là sau khi đẻ và sau khi mắc tật bệnh khác. Lâm sàng không thể xem xét hàn nhiệt và cũng không có hiện tượng chắc chắn về phong, phải căn cứ vào những triệu ‘chứng dĩ vãng và kèm theo các chứng trạng thiểu khí biếng nói, thân thể khốn đốn hay nằm, cơ mặt nhão, mạch Tế, lưỡi nhợt mới có thể chẩn đoán là chứng khí huyết đều suy. Nếu nghiêng về Khí phận bị suy điều trị theo phép bổ khí hoạt huyết giải Kính, chọn dùng phương Bổ dương hoàn ngũ thang chiêu với Nhị trùng tán. Nếu nghiêng về Huyết phận bị suy thì nên dưỡng huyết khư phong dùng phương Đại Tần giao thang. Nếu khí huyết đều suy thì nên đại bổ khí huyết dùng phương Thập toàn đại bổ thang hoặc phối hợp với châm cứu mà điều trị.
  • Chứng Miệng mắt méo xếch do phong đờm ngăn trở đường lạc: Thể trạng vốn khí hư, lại có đàm ẩm phục sẵn hoặc là khí uất quấy rối đờm, đơm động sinh phong. Hoặc là ngẫu nhiên gặp phong hàn, phong xâm phạm làm đờm bị động, phong và đàm câu kết với nhau len lỏi vào kinh lạc, quấy rối lên vùng mặt, lạc mạch của Dương minh bị úng trệ không lợi nên phát sinh miệng mắt méo xếch. Đơm ẩm phục ở bên trong thường xảy ra ở thể trạng người béo mập, mắt không có thần thái, sắc mặt tối trệ hoặc mắt bị thâm quầng, hoặc mi mắt nề nhẹ, hoặc mặt nổi những vết bẩn không sạch, thể lưỡi to mập, rêu lưỡi trơn nhuận. Đặc điểm biện chứng là: cơ ở bên bị bệnh tê dại như có sâu bò, hàm răng cắn chặt kiêm các chứng đầu choáng, mắt hoa, nôn ọe, rêu lưỡi trắng nhớt, mạch Huyền Hoạt, điều trị theo phép hóa đàm khư phong, khai thiếu thông lạc, chọn dùng phương Thanh châu bạch hoàn tử hoặc Đạo đàm thang gia giảm.

Điều trị miệng mắt méo xếch bằng phương pháp châm cứu có đặc điểm đơn giản thuận tiện tiết kiệm có hiệu quả, tổng hợp những kinh nghiệm xử phương dùng huyệt của người xưa xin giới thiệu hai loại kinh nghiệm có hiệu quả khá tốt như sau:

  1. Dùng những huyệt vị ở kinh mạch của 6 kinh dương lưu trú ở vùng mặt là chủ yếu.
  2. Kinh Túc Dương minh ở vùng mặt với kinh cân phân bố rất rộng vì vậy người xưa lấy huyệt ở Kinh Dương minh làm chủ yếu. Các huyệt thường dùng là Giáp xa, Địa thương, Thủy câu, Hạ quan, Tứ bạch, Dương bạch, Thái dương, Nghinh hương, Thừa tương, E phong, Phong trì, HỢp cốc, Toản trúc. Dùng thấu huyệt gồm có: Địa thương thấu Giáp xa, Dương bạch thấu Ngư yêu, Toản trúc thấu Tinh minh, Nghinh hương thấu Tứ bạch, Nhân trung thấu Địa thương, Thừa tương thấu Địa thương; Trong đó dùng Địa thương thấu huyệt là rất tốt. Nhưng sử dụng thấu huyệt hết sức tránh đầu kim lọt khỏi ngoài da và việc tiêu độc cần nghiêm túc.

Miệng mắt méo xếch trên lâm sàng không phải là bệnh hiếm thấy, điều trị phần nhiều là khỏi hẳn. Nếu là người bị bệnh lâu ngày, thể trạng hư yếu, khí huyết bất túc nên phối hợp thuốc ích khí dưỡng huyết, dẹp phong hoạt lạc bổ tả cùng dùng, nhưng đừng lạm dụng phong dược sợ nó cay ráo thương âm. cần thiết phải dẹp phong trấn kính có thể trên cơ sở biện chứng thi trị cho uống thêm Khiên chính tán. Nếu điều trị sai lầm hoặc lỡ cơ hội thì vùng mặt khó mà hồi phục nguyên dạng hoặc biến thành cơ thịt ở vùng mặt co giật kế phát hoặc nhăn nheo. Người xưa qua thực tiễn lâm sàng lâu dài quan sát thấy chứng Miệng mắt méo xếch là một dấu hiệu báo trước của Trúng phong, vì vậy tích cực điều trị miệng mắt méo xếch không những có thể tiêu trừ được nỗi đau khổ của người bệnh mà đối với phát sinh Trúng phong cũng có tác dụng phòng ngừa tích cực.

Trích dẫn y văn.

  • Mạch của Túc Dương minh Vị… sở sinh bệnh là… miệng méo (Linh khu – Kinh mạch thiên).
  • Gân của Túc Dương minh… bị bệnh… đột nhiên liệt mặt (Linh khu – Kinh cân).
  • Phong tà phạm vào các kinh Túc Dương minh. Thủ Dương minh gặp hàn thì gân ở má co kéo cho nên méo miệng nói không chuẩn, mắt không nhìn được bình thường.

Xem mạch thấy Phù mà Trì thì chữa được (Chư bệnh nguyên hậu luận – Phong bệnh chư hậu).

  • Chứng Phì phong miệng mắt méo xếch phải phân biệt hàn nhiệt, ở kinh thì nói: “Kinh của Túc Dương minh dẫn đến khuyết bồn và má, méo miệng đột ngột, có kéo thì mắt không nhắm được, nhiệt thì gân chùng ra, mắt không mở được. Gân ở má gặp lạnh thì căng kéo mà lệch miệng gặp nhiệt thì gân nhẽo ra chùng lại không có được cho nên méo”. Đây là phân biệt hàn nhiệt của bệnh, nói đến sự hoãn cấp của gân nhưng huyết khí không suy thì dẫu nhiệt cũng chưa đến nôi chùng, dẫu hàn cũng chưa chắc đã căng, tất cả đều biết đó là khí huyết suy gây nên (Cảnh Nhạc toàn thư – Phí phòng).
  • Hoặc nói là bán thân bất toại đã là không do phong thế thì tại sao còn miệng mắt méo xếch? Tôi nói: Người xưa đặt ra cái tên méo xếch, tất cả là tại lý do lâm sàng không xem xét kỹ, miệng mắt méo xếch không hoàn toàn là méo xếch mà gây nên lệch nửa bên mắt không có khí, không có khí thì nửa bên mắt thu hẹp lại. Một mắt không có khí lực thì không mở tròn được, góc nhỏ của mắt nhíu lại nửa bên miệng không có khí lực cũng không mở được, cơ nhai nhíu lại trên dưới trái nhau nhìn thấy giống như méo, thực ra không phải là méo trái hay méo phải… (Y lâm cải thác -Khẩu nhãn lịch tà biện).
  • Lại nói miệng mắt méo xếch tất cả là do nửa mi mắt không có khí hay sao? Tôi nói: Trên kia chỉ bàn về nửa người bất toại. Nếu là người khỏe mạnh sẽ không bán thân bất toại, đột ngột miệng mắt méo xếch đó là chứng bị phong tà làm nghẽn trệ kinh lạc. Kinh lạc bị phong tà nghẽn trệ khí tất nhiên không đạt lên trên, khí không đạt lên đầu mặt cũng không thể làm thành bệnh miệng mắt méo xệch, dùng thang thuốc thông kinh lạc tán phong chỉ một ấm mà khỏi không phải là dùng phương thuốc để chữa bán thân bất toại.

Khi uống bia cần chú ý những gì?

  1. Sau khi lao động hay tập luyện vất vả mệt nhọc, kỵ uống bia ngay lúc đó: Có nhiều người sau khi lao động vất vả nặng nhọc muốn uống một cốc bia mát lạnh cho đỡ khát, nghĩ rằng để lấy sức giải được mệt nhọc và cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Thực ra, uống như vậy rất có hại đến sức khỏe. Các nhà khoa học qua nghiên cứu, thực nghiệm đã chứng minh: Sau khi lao động hoặc tập luyện vất vả mệt nhọc mà uống bia sẽ làm cho uric acid trong huyết dịch tăng lên dữ dội, dễ gãy nên bệnh phong tê thấp. Ta biết uric acid là chất kết hợp hữu cơ cao phân tử trong cơ thể con người, là sản vật bị men tiêu hóa phân giải. Khi trị số uric acid trong huyết dịch lên cao khác thường thì có thể tụ tập lại ở các khớp làm cho khớp bị kích thích rất lớn dễ dẫn tới bệnh viêm khớp, dẫn tới bệnh phong tê thấp, về vấn đề này, các nhà khoa học đã từng thử nghiệm trong 1 nghìn nam giới ở tuổi thành niên, để cho họ chạy trong 15 phút, rồi cho uống 633 mg bia, sau đó đo uric acid và nồng độ hypoxanthine trong huyết dịch, thì thấy hàm lượng uric acid đã tăng lên gấp 2,1 lần so với trước lúc chạy, còn trị số hypoxanthine thì cao gấp trên 500 lần trước lúc chạy. Vì thế các nhà khoa học khẳng định sau khi vận động nặng nhọc vất vả, không nên uống bia.Bọt bia
  2. Không uống bia với các món ăn hải sản: Các học giả ở Thái Lan qua nghiên cứu chứng tỏ uống bia với các món ăn hải sản (như cá mực và các loại cá biển v.v…) dễ sinh bệnh phong tê thấp. Bệnh phong tê thấp là do cơ thể không có cách gì bài tiết nhanh uric acid quá nhiều, nên tích đọng lại trong các khớp hoặc phần mềm quanh khớp, gây ra chứng viêm. Khi phát bệnh phong tê thấp, không những các khớp bị sưng tấy đỏ lên và đau buốt, thậm chí còn dẫn tới sốt cao, toàn thân như triệu chứng của bệnh nhiễm trùng máu vậy. Lâu dần, các khớp bị phá hoại dần, thậm chí dẫn tới bệnh sỏi thận và nhiễm độc nước tiểu. Sở dĩ vậy vì các thức ăn hải sản như các loại cá biển khi ăn đều tạo cho cơ thể quá nhiều chất uríc acid, thế mà bản thân bia khi uống vào cũng đã tạo nên khá nhiều uric acid rồi, mặt khác, chính nó lại có tác dụng phá rối hoạt động bài tiết và điều chỉnh sự hấp thu lượng uric acid vừa phải đúng với nhu cầu của cơ thể.
  3. Khi uống bia không được pha nước ngọt có ga vào, vì pha vào như vậy sẽ làm tăng gấp bội lượng dioxide carbon trong bia, làm tăng mạnh sự hấp thu nhanh của dạ dày và ruột đối với chất rượu cồn có trong bia, dễ sinh nhiễm độc rượu cồn.
  4. Tuyệt đối không nên vừa uống bia, vừa uống rượu trắng trong bữa ăn. sở dĩ như vậy vì bản thân bia tuy là đồ uống có độ rượu cồn thấp, nhưng trong đó có thành phần dioxide carbon và lượng lớn nước. Sau khi uống rượu xong lại uống bia, hay ngược lại, sẽ tăng nhanh tác dụng thẩm thấu chất rượu cồn vào toàn thân, gây kích thích rất mạnh và làm nguy hại rất nghiêm trọng đối với các cơ quan gan, thận, dạ dày, ruột v.v… của cơ thể, ảnh hưởng đến sự phát sinh chất men tiêu hóa, làm giảm sút lượng tiết ra dịch vị, dễ dẫn tới các chứng bệnh co giật dạ dày, viêm dạ dày và ruột cấp tính, viêm hành tá tràng và xuất huyết đường tiêu hóa, mặt khác, cũng sẽ gây nguy hại càng lớn hơn đối với tim mạch. Do đó, đứng về giác độ y tế, bảo vệ sức khỏe, chúng ta khuyên tất cả mọi người tuyệt đối không nên uống bia cùng với uống rượu trong một bữa ăn.

Huyệt Dương Giao

Dương Giao

Tên Huyệt:

Huyệt là nơi giao hội của Kinh Đởm với mạch Dương Duy vì vậy gọi là Dương Giao (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Biệt Dương, Túc Mão.

Xuất Xứ:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính:

Huyệt thứ 35 của kinh Đởm.

Huyệt hội với Dương Duy Mạch.

Huyệt Khích của Dương Duy Mạch.

Vị Trí huyệt:

Nằm trên đường nối huyệt Dương Lăng Tuyền và đỉnh cao mắt cá ngoài, trên mắt cá ngoài 7 thốn, bờ trước xương mác, trong khe cơ mác bên đùi và cơ mác bên ngắn.

Giải Phẫu:

Dưới da là khe giữa cơ mác bên dài vẫn cơ mác bên ngắn, xương mác.

Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh cơ – da.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh L5.

Chủ Trị:

Trị thần kinh tọa đau, cẳng chân đau nhức, hen suyễn.

Phối Huyệt:

1. Phối Phong Long (Vị 40) + Thừa Tương (Nh.24) trị mặt sưng phù (Giáp Ất Kinh).

2. Phối Lâm Khấp (Đ.41) trị ngực đầy tức (Tư Sinh Kinh).

3. Phối Giải Khê (Vị 41) trị hồi hộp, lo sợ (Bách Chứng Phú).

4. Phối Âm Lăng Tuyền (Tỳ 9) + Huyết Hải (Tỳ 10) + Lương Khâu (Vị 34) + Tam Âm Giao (Tỳ 6) + Túc Tam Lý (Vị 36) trị đầu gối sưng đau, đùi đau do lạnh (Châm Cứu Học Giản Biên).

5. Phối Côn Lôn (Bàng quang.60) + Giải Khê (Vị 41) + Hợp Cốc (Đại trường.4) trị gân cơ vùng cẳng chân viêm (Châm Cứu Học Thượng Hải )

Cách châm Cứu:

Châm thẳng 1 – 1, 5 thốn. Cứu 3-5 tráng, Ôn cứu 5 – 10 phút.

Biến chứng võng mạc mắt trong đái tháo đường

Đại cương

Thuật ngữ bệnh võng mạc đái tháo đường dùng để chỉ tất cả những thay đổi ở võng mạc xảy ra trong bệnh đái tháo đường. Các tổn thương có thể khác nhau từ những xuất tiết, vi phình mạch đơn lẻ đến xuất huyết, vi phình mạch nhiều, dày võng mạc và xuất tiết dọc theo các mạch máu và ở vùng hoàng điểm, các mạch tân tạo, xơ hóa và bong võng mạc. Các tổn thương mạch máu nặng dẫn đến tổn thương thị lực và mù lòa do tích tụ dịch, lipid, các lipoprotein bị thoát mạch ở vùng hoàng điểm và/hoặc các xuất huyết, tăng sinh các mạch máu bất thường gây hậu quả là bong võng mạc. Bệnh võng mạc đái tháo đường là nguyên nhân của tổn thương thị giác và mù lòa ở 86% người bệnh đái tháo đường typ 1 và 33% người bệnh đái tháo đường typ 2. Trong thập kỷ 80, tỷ lệ mắc mới hàng năm của mù lòa do đái tháo đường ước tính là 2/100.000 dân ở Nam Đức và 3,3/100.000 dân ở Wisconsin. Bệnh võng mạc đái tháo đường cũng là nguyên nhân thường gặp gây mù loà ở những người trong độ tuổi lao động ở Tây Âu. Nguy hiểm hơn, mặc dù đã áp dụng nhiều biện pháp phòng chống nhưng hiệu quả rất khiêm tốn. Bệnh lý võng mạc đái tháo đường tiếp tục tăng, tỷ lệ mắc mới hàng năm dường như không giảm.

Một trong những nguyên nhân là những biểu hiện được phát hiện khi thăm khám lâm sàng của bệnh võng mạc đái tháo đường quá nghèo nàn. Người ta không thể chỉ được coi là bệnh lý khi đã có những bất thường vi mạch. Mặc dù các neuron và các tế bào gai chiếm trên 95% của mô võng mạc nhưng nhiều khi người ta cũng không thấy những thay đổi của chúng. Những thay đổi bệnh lý phải được ghi nhận ngay từ khi có những bất thường trong quá trình thu nhận các thông tin thị giác bởi các thụ thể ánh sáng, được biến đổi và truyền bởi một loạt các neuron, các tế bào 2 cực của hạch và cuối cùng là bởi dây thần kinh thị giác về não. Các tế bào gai, các tế bào Mueller và đệm thần kinh hình sao đõ các neuron và các mạch máu. Những thành phần này đều có vai trò trong sự điều hòa nồng độ ion ngoại bào và các chất dẫn truyền thần kinh.

Trương lực của mạch máu được duy trì bởi các tế bào cơ trơn ở các động mạch võng mạc và các tế bào quanh mạch (p‘ericytes). Các tế bào này có ở các mao mạch, tiểu động mạch và tiểu tĩnh mạch. Giống như não, tuần hoàn võng mạc được duy trì bằng sự tự điều hòa trong mối tương quan đáp ứng với các nhu cầu chuyển hóa hệ thống và tại chỗ. Tuần hoàn võng mạc có khả năng tự điều hoà, không bị tác động bởi những thay đổi về áp lực của hệ thống động mạch. Bình thường, sự tự điều hoà này đáp ứng với áp lực riêng phần của C02 và 02. Do các thay đổi liên quan đến bệnh đái tháo đường dẫn đến sự mất cân bằng giữa chuyển hóa của võng mạc và sự cung cấp của mạch máu, hậu quả tiếp theo là tổn thương mạch.

Vấn đề phân loại bệnh lý võng mạc đái tháo đường cũng còn nhiều bàn cãi. Đa số các tác giả chia ra 3 loại là thể tổn thương cơ bản, thể nặng nhưng không tăng sinh và thể tăng sinh võng mạc. Cũng có phân loại chỉ có hai hình thái tăng sinh (mức độ nhẹ và mức độ nặng) và không tăng sinh.

Do tính phổ biến và tầm quan trọng của bệnh những tổn thương của võng mạc cần được kiểm tra thường xuyên, ngay cả những bác sĩ đa khoa cũng cần đựơc đào tạo để có thể phát hiện được khi dùng đèn soi đáy mắt. Vì thế các bác sĩ chuyên khoa đái tháo đường đều phải được học cách sử dụng dụng cụ này. Hàng năm người đái tháo đường phải được những nhà chuyên khoa mắt kiểm tra định kỳ.

Tỷ lệ

Nghiên cứu Wisconsin về bệnh võng mạc đái tháo đường là một khảo sát nhãn khoa lớn nhất, có thời gian dài nhất. Nghiên cứu đã mô tả tỷ lệ hiện mắc và tỷ lệ mắc mới của bệnh võng mạc đái tháo đường ở 2 nhóm. Một nhóm có tuổi khởi phát đái tháo đường trước 30 tuổi và được điều trị bằng insulin, được gọi là đái tháo đường typ 1; nhóm thứ 2 có tuổi lúc khởi phát bệnh từ 30 tuổi trở lên, được gọi là đái tháo đường typ 2. ở nhóm sau này những người được điều trị và không được điều trị bằng insulỉn được mô tả riêng biệt.

Với người đái tháo đường typ 1

Tỷ lệ hiện mắc toàn bộ của bất kỳ tổn thương võng mạc nào là 71%, bệnh võng mạc có ý nghĩa lâm sàng là 14% và bệnh võng mạc tang sinh là 23%.

Biến chứng võng mạc thường xảy ra sau 5 năm kể từ khi mắc bệnh. Sau 15 năm có trên 50% người bệnh có bệnh võng mạc tăng sinh và sau 20 năm hầu hết người bệnh đái tháo đường mắc bệnh võng mạc. Vì thế người ta buộc phải có qui định là các thầy thuốc lâm sàng phải gửi ngay người bệnh đi khám chuyên khoa mắt khi thấy các triệu chứng báo hiệu sự nguy hiểm.

  • Các tổn thương có yếu tố nguy cơ cao của bệnh lý võng mạc tăng sinh gây mù là:
  • Tạo mạch mới chiếm trên 25% diện tích đĩa thị giác.
  • Các mạch mới có xuất huyết hoặc mạch máu tân tạo ở rìa các đĩa thị giác.
  • Lượng mạch tân tạo (cả trong và ngoài đĩa thị giác) chiếm tới trên 50%, kèm theo xuất huyết.

Khi đã có các tổn thương trên phải xét điều trị can thiệp ngay càng sớm càng tốt. Nhưng thực tế khi đã có những tổn thương này, tiên lượng bệnh rất khó xác định. Để điều trị bệnh võng mạc đái tháo đường có kết quả tốt phải có kế hoạch quản lý và giám sát tốt. Đây cũng là mục tiêu dự phòng và hạn chế sự tiến triển xấu của bệnh đái tháo đường nói chung và bệnh mắt đái tháo đường nói riêng.

  • Các yếu tố để đánh giá tiên lượng bệnh lý mắt ở người đái tháo đường typ 1 là:
  • Thời gian mắc bệnh càng lâu, tiên lượng càng xấu.
  • Tình trạng kiểm soát glucose máu, kiểm soát kém thì tiên lượng rất xấu.
  • Tăng huyết áp.
  • Protein niệu dương tính, tiên lượng xấu.
  • Giới tính, nam mắc bệnh mắt đái tháo đường có tiên lượng xấu hơn nữ.

Với người đái tháo đường typ 2

Hàng năm ở Mỹ có gần 5000 trường hợp bị mù có liên quan đến đái tháo đường. Đại đa số người bị mắc các biến chứng này là ở trong lứa tuổi từ 20 – 70. Trên 60% người bệnh đái tháo đường typ 2 có tổn thương võng mạc ở mức độ khác nhau sau 20 năm kể từ khi bệnh được phát hiện. Trong thời gian gần đây có nhiều tiến bộ trong quản lý bệnh lý về mắt của người mắc bệnh đái tháo đường. Nhờ điều trị kịp thời bằng laser đông lạnh đã làm giảm 50% các trường hợp mất khả năng nhìn, thậm chí ở những người đã có tổn thương bệnh võng mạc tăng sinh và phù hoàng điểm

Cũng giống như đái tháo đường typ 1, bệnh lý võng mạc ở người đái tháo đường typ 2 phụ thuộc nhiều vào thời gian mắc bệnh và tình trạng quản lý glucose máu. Nhưng hình thái tổn thương có khác với người đái tháo đường typ1 ở chỗ ngoài bệnh lý võng mạc, một tỷ lệ lớn người bệnh đái tháo đường typ 2 còn mắc bệnh đục thủy tinh thể.

Bệnh lý võng mạc ở người mắc bệnh đái tháo đường typ 2 còn chịu ảnh hưởng của phương pháp điều trị bệnh đái tháo đường. Nghiên cứu Wiscosin cho thấy:

  • Để hạ glucose máu có dùng insulin, tỷ lệ hiện mắc bất kỳ tổn thương võng mạc nào là 70,0%, bệnh võng mạc có ý nghĩa lâm sàng là 11,0% và bệnh võng mạc tăng sinh là 14,0%.
  • Những người không dùng insulin để hạ glucose máu có tỷ lệ hiện mắc bất kỳ tổn thương võng mạc nào là 39,0%, bệnh võng mạc có ý nghĩa lâm sàng là 4,0% và bệnh võng mạc tăng sinh là 2,0%.

Tỵ lệ hiện mắc bệnh mắt đái tháo đường liên quan đến thời gian mắc đái tháo đường ở tất cả các nhóm nghiên cứu. Ở những người mắc đái tháo đường typ 1 dưới 5 năm, tỷ lệ hiện mắc bệnh võng mạc vào khoảng 10%, trong khi ở những người mắc đái tháo đường typ 2 tỷ lệ này giao động từ 25 đến 40%, có thể do phát hiện đái tháo đường muộn ở nhóm này. Khi thời gian mắc đái tháo đường tăng lên, tỷ lệ mắc bệnh võng mạc trở lên thường gặp hơn, đạt gần 100% trong đái tháo đường typ 1, 85% ở người bệnh đái tháo đường typ 2 dùng insulin và 65,0% ở người đái tháo đường typ 2 không dùng insulin.

Tỷ lệ hiện mắc phù hoàng điểm và bệnh võng mạc tăng sinh cũng khác nhau đáng kể theo thời gian mắc bệnh. Trong nhóm đái tháo đường typ 1 có thời gian mắc bệnh đái tháo đường từ 2 đến 35 năm, tỷ lệ phù hoàng điểm giao động từ 0 đến 20%, bệnh võng mạc tăng sinh từ 0 đến 60%. Những con số tương ứng của nhóm đái tháo đường typ 2 dùng insulin là 5 – 35% đổi với phù hoàng điểm và 5 – 30% đối với bệnh võng mạc tăng sinh. Ớ nhóm đái tháo đường typ 2 không dùng insulin, tỷ lệ hiện mắc của cả hai loại tổn thương phù hoàng điểm và bệnh võng mạc tăng sinh sau 22 năm mắc bệnh đái tháo đường, tương ứng là 15% và 10%, sau đó tỷ lệ này giảm đi, có thể do giảm số người sống sót ở thời điểm nghiên cứu.

Như vậy, tỷ lệ hiện mắc bệnh võng mạc đái tháo đường có liên quan chặt chẽ với thời gian mắc bệnh đái tháo đường. Với đái tháo đường typ 1, tỷ lệ là thấp lúc ban đầu nhưng tăng vọt sau đó và gặp ở 100% sau 25 năm mắc bệnh đái tháo đường. Với đái tháo đường typ 2, bệnh võng mạc gặp nhiều hơn chỉ sau vài năm bệnh đái tháo đường được phát hiện.

Diễn biến tự nhiên của bệnh võng mạc đái tháo đường

Những biểu hiện đe dọa thị giác chủ yếu của bệnh võng mạc đái tháo đường như phù hoàng điểm và bệnh võng mạc tăng sinh cũng là những biểu hiện giai đoạn cuối của tăng tính thấm mạch và tắc mạch.

Thành mao mạch của võng mạc bao gồm các tế bào nội mạc liên kết chặt với nhau, các tế bào quanh mạch trong thành và màng đáy. Giai đoạn sớm trong quá trình diễn biến của bệnh võng mạc đái tháo đường, các tế bào quanh mạch trong thành mạch bị mất đi và màng đáy bị dày lên, dẫn đến sự hình thành các mao mạch không tưới máu và các phình mạch nhỏ (vi phình mạch). Do mất các tế bào quanh mạch làm suy yếu thành mạch, giảm khả năng co của các vi mạch. Hậu quả tiếp theo là các tổn thương liên kết giữa các tế bào nội mạc, các phình hình túi và tăng sinh tế bào nội mạc khu trú, dẫn đến hình thành các vi phình mạch. Tắc mạch là kết quả của hàng loạt các rối loạn bị gây ra bởi dày màng đáy, tăng độ ngưng tập tiểu cầu, hoạt hóa bạch cầu và/hoặc di trú của các tế bào cơ trơn qua thành mạch. Tất cả dẫn đến giảm khả năng tưới máu và thiếu oxy tổ chức. Phản ứng tự điều hoà tiếp theo là giãn các tiểu động mạch và tăng huyết áp thuỷ tĩnh trong các mao mạch và tiểu tĩnh mạch. Huyết áp tăng tạo thêm gánh nặng đối với thành mạch đã yếu sẵn. Tính thấm của mạch tăng lên, dẫn đến xuất huyết võng mạc và tích tụ dịch, lipid và các lipoprotein ở khu vực ngoại bào. Các vi phình mạch và các đọan bị giãn của các mao mạch và các tiểu động mạch là những nơi thoát mạch chính. Sự thoát mạch từ các vi phình mạch và dày màng đáy sau đó được khu trú lại, thường chúng được bao quanh bởi các vòng xuất tiết cứng, là những lắng đọng của lipid và/hoặc các lipoprotein ở các lớp ngoài của võng mạc hoặc thậm chí ở dưới võng mạc. Sự phá vỡ lan tỏa của hàng rào võng mạc dẫn đến giãn lan toả mạng mao mạch và dày võng mạc liền kề. ở những mắt tổn thương này, thường không có các xuất tiết cứng. Dấu hiệu này gợi ý rằng hàng rào máu võng mạc trong vẫn đủ khả năng để giữ các phân tử lipoprotein lớn trong mạng mao mạch. Sự tích tụ dịch ở các lớp sâu hơn của võng mạc thường xuất hiện dưới dạng những nang. Người ta cũng có thể tìm thấy bằng chứng về tổn thương chức năng của hàng rào ngoài, như những chức năng của biểu mô sắc tố…

Sự tắc nghện các mao mạch dẫn đến những vùng không được tưới máu và sau đó là giãn các mao mạch, hình thành các mạch máu mới trong võng mạc. Những mạch máu này thường thấy gần kề với các tổn thương “đám bông gòn” – dấu hiệu của rối loạn vận chuyển axon, cũng có thể là thứ phát do thiếu oxy tổ chức ở các lớp của dây thần kinh.

Những vùng có tăng sinh các mạch máu thường xảy ra ở ranh giới của vùng được tưới máu và vùng không được tưới máu. Sự hình thành các mạch máu mới làm hoạt hóa các tế bào gai, làm lỏng lẻo các mối liên kết chặt chẽ giữa các tế bào. Những mạch máu mới này ban đầu phát triển trên bề mặt của võng mạc hoặc trên đĩa thị giác, tạo thành một mạng lưới, nhưng về sau có thể lan rộng và cùng với mô xơ bám vào màng sau của dịch kính, xuyên qua và phát triển tiếp vào vỏ sau của dịch kính. Vì các mạch máu mới dễ vỡ, thường gây ra xuất huyết trước võng mạc và/hoặc trong dịch kính. Trong trường hợp có mạch tân tạo và mô xơ bám vào dễ làm co hoặc thu nhỏ lại của bề mặt sau của dịch kính. Khi màng sau của dịch kính co lại rõ rệt, phức bộ xơ-mạch bong ra bị kéo về phía trước, làm tăng lực kéo võng mạc và có thể dẫn đến bong võng mạc khu trú. Nếu mô xơ-mạch phát triển rộng, nó có thể gây bong võng mạc hoàn toàn.

Các mạch máu mới cũng có thể xuất hiện trên mống mắt. Chúng có thể khởi phát như những túm lông nhỏ ở rìa con ngươi hoặc ở góc tiền phòng. Ban đầu, chúng không có triệu chứng nhưng khi phát triển lên chúng có thể làm tắc góc tiền phòng, dẫn đến glaucome tân mạch. Một tổn thương gây đau, có thể dẫn đến mù và có thể cần phải can thiệp phẫu thật.

Đặc điểm sinh lý bệnh

Sinh lý bệnh của bệnh lý võng mạc đái tháo đường còn nhiều bí ẩn. Tuy nhiên những tiến bộ gần đây về nghiên cứu bệnh lý mức phân tử đã mở ra nhiều vấn đề mới về các quá trình bệnh nguyên.

Các yếu tố có vai trò quan trọng trong sinh bệnh học

* Ở mức tế hào, các yếu tố có khả năng làm khởi phát và thúc đẩy bệnh mạch máu chính là tăng glucose máu, là chuyển hóa glucose theo các con đường polyol, glycat hóa không enzym, là các stress oxy hóa, hoạt hóa protein kinase c, là vai trò cuả các hormon có tác dụng tăng trưởng và hoạt mạch.

Một số thay đổi cũng diễn ra ở hệ mạch võng mạc, gây ra thay đổi dòng máu võng mạc, làm tăng dòng chảy đến võng mạc nhưng lại có sự phân bố không đồng nhất. Những bất thường vi mạch này có thể tạo ra những vùng không được tưới máu và thiếu máu. Võng mạc phản ứng với sự thiếu oxy tổ chức này bằng cách tăng sản xuất yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch (VEGF), hậu quả là mạng mạch máu tân tạo.

  • Con đường polyol

Aldose reductase là enzym đầu tiên, quan trọng của con đường polyol. Khi nồng độ glucose máu bình thường, chuyển hóa trong con đường này là rất thấp, nhưng ở mức glucose máu cao con đường này sẽ bị hoạt hóa, gây nên sự chuyển đổi có enzym thành sorbitol, với sự giảm đồng thời NADPH. Sorbitol được oxy hóa tiếp theo thành fructose bởi enzym sorbitol dehydrogenase, với sự khử NAD+ thành NADH. Tuy nhiên, những nghiên cứu về ức chế con đường polyol in vivo cho những kết quả trái ngược trong các mô hình động vật đái tháo đường thực nghiệm về khả năng kìm hãm bệnh võng mạc và vì một số nghiên cứu lâm sàng ở người cho kết quả âm tính, nên còn được tiếp tục nghiên cứu.

  • Glycat hóa không enzym

Tăng glucose máu kéo dài dẫn đến hình thành kết nối không enzym của glucose với các protein ngoại bào, tạo ra các sản phẩn cuối gycat hóa mạnh (AGE). Sự hình thành AGE có thể gây ra những thay đổi bệnh lý bởi nó có thể làm biến đổi chức năng của protein ở các mô đích một cách trực tiếp, những con đường truyền tín hiệu bao gồm các chất kết nôì ở chất ngoại bào, sự biểu lộ gen thông qua sự tương tác với các thụ thể tế bào đặc hiệu với AGE. AGE cũng sẽ làm tăng sản sinh các chất có oxy phản ứng có khả năng làm tổn thương các đại phân tử sinh học như ADN và carbohydrat, gây tổn thương màng tế bào thông qua peroxyd hóa lipid.

  • Stress oxy hóa

Stress oxy hóa được xác định như tình trạng tăng trạng thái ổn định của các chất chứa oxy phản ứng (ROS). Các nguồn của ROS trong đái tháo đường bao gồm sự tự oxy hóa glucose, hình thành ÀGE và gắn AGE vào các thụ thể của AGE, tăng luồng vào con đường polyol và sự kích thích chuyển hóa eicosanoid. Trong cơ thể có một số hệ thống thu dọn enzym nội sinh bảo vệ tế bào và mô khỏi ROS, như các enzym superoxid dismustase, catalase và gluthathion peroxidase. Tang ROS có thể gây rối loạn chức năng tế bào như đột biến ADN ty thể và gây rối loạn sự giãn mạch phụ thuộc nội mạc thông qua sự bất hoạt NO.

  • Protein kinase c (PKC)

Protein kinase c có những vai trò quan trọng trong việc truyền tín hiệu nội bào cho các hormon và cytokin. Do ảnh hưởng của glucose máu tăng cao, kéo dài đã làm tăng hoạt hóa con đường truyền tín hiệu diacylglycerol-PKC ở mô mạch và các tế bào mạch như ở các tế bào nội mô võng mạc. Ó võng mạc của chuột bị đái tháo đường, các đồng phân beta của PKC tăng nhiều nhất. Sự hoạt hóa PKC, làm thay đổi điều hòa một số chức năng mạch như tính thấm của mạch, tính co, tăng sinh tế bào, tông hợp màng và các cơ chế truyền tín hiệu cho các hormon và các yếu tố tăng trưởng. Một đồng phân mới của chất ức chế đặc hiệu của PKC, Ly333531 được phát hiện, đã cho thấy tính chọn lọc với PKC beta. Trong các động vật thực nghiệm, khi cho Ly333531 làm giảm thời gian tuần hoàn trung bình qua võng mạc. ở chuột bị đái tháo đường, khi tiêm vào dịch kính Ly333531, sẽ làm giảm hoạt hóa PKC võng mạc, giảm thời gian tuần hoàn trung bình qua võng mạc và tăng dòng máu qua võng mạc. Trong các nghiên cứu khác, điều trị bằng Ly333531 cho chuột đái tháo đường đã làm bình thường hóa sự giảm hoạt tính do đái tháo đường của cả Na+-K+-ATPase và Ca-ATPase trong võng mạc. Kết quả này đã khẳng định sự liên quan của PCK beta đến tính thấm mạch qua trung gian VEGF ở chuột.

  • Sự thay đổi mạng mạch máu võng mạc

Có sự giao động của dòng chảy tuần hoàn võng mạc ở người bệnh. Đó là giảm dòng chảy ở giai đoạn sớm của bệnh võng mạc và tăng tiến triển dòng máu ở các giai đoạn muộn hơn. Hệ mạch võng mạc phụ thuộc vào các cơ chế điều hoà tại chỗ. Các yếu tố làm giãn nội mạc quan trọng là NO, yếu tố tăng khử cực nội mạc và prostacyclin. Trong điều kiện sinh lý những yếu tố làm giãn mạch này được cân bằng bởi các yếu tố co mạch như endothelin-1 và các sản phẩm của cyclooxygenase khác nhau. Mức glucose tại chỗ tham gia điều hoà những yếu tố này tăng và chính tăng glucose máu đã làm giảm các yếu tố thư giãn và tăng các yếu tố co mạch, dẫn đến sự thay đổi dòng máu võng mạc, xuất hiện sự không đồng nhất của phân bố dòng máu võng mạc, đưa đến thiếu máu cục bộ võng mạc.

Các yếu tố khác đóng góp vào sự phát triển của thiếu máu võng mạc như tăng tổng hợp các thành phần của màng đáy ở võng mạc mà có thể làm tắc các mao mạch. PKC kích thích các tế bào nội mạc, bạch cầu và tiểu cầu sinh ra yếu tố hoạt hóa tiểu cầu (PAF) kích thích các thụ thể PAF trên tiểu cầu, mà đến lượt nó lại đóng góp vào hình thành sự tắc mạch. Các bạch cầu được hoạt hóa, gắn chặt hơn vào các tế bào nội mạc cũng có thể góp phần vào quá trình này. Tổn thương mạng mạch võng mạc có thể dẫn đến thiếu oxy võng mạc tiến triển. Thiếu oxy mạn tính là nguyên nhân trực tiếp gây ra tân tạo mạch ở võng mạc và bệnh võng mạc tăng sinh. Chính các mạch máu tân tạo được quan sát thấy xảy ra ở gần những vùng không được tưới máu, đã ủng hộ giả thuyết các yếu tố tạo mạch được giải phóng từ tổ chức bị thiếu oxy.

  • Các yếu tố tăng trưởng và các hormon hoạt mạch

Đái tháo đường đã tạo điều kiện bộc lộ những bất thường và hoạt động của một số yếu tố tăng trưởng điều hoà hệ mạch võng mạc như yếu tố tăng trưởng tế bào nội mạc (VEGF), yếu tố sắc tố nguồn gôc nội mạc (PEDF) và yếu tố tăng trưởng giống insulin 1 (IGF-1). Các bất thường này củng tham gia vào sự phát triển và tiến triển của bệnh võng mạc đái tháo đường.

Tăng mức VEGF đã được tìm thấy trong dịch kính và võng mạc ở người bệnh đái tháo đường. VEGF cũng có vai trò quan trọng trong sự phát triển của bệnh võng mạc không tăng sinh, nó có khả năng làm khởi phát quá trình tăng tính thấm liên quan với hệ mạch võng mạc trong đái tháo đường.

PEDF có nhiều chức năng đa dạng, trong số đó có yếu tố điểu hòa sự phát triển của hệ mạch võng mạc và yếu tố ức chế sự tân tạo mạch võng mạc và màng trạch trên một số mô hình động vật. PEDF được điểu hoà giảm bởi thiếu oxy và ở mắt có bệnh võng mạc tăng sinh, điều này gợi ý rằng PEDF hoạt động như một yếu tố điều hoà âm tính của sự tạo mạch.

In vitro, IGF-1 có vai trò gây ra tăng sinh tế bào nội mạc, di trú, và tiêu huỷ màng đáy. Những kết quả này đã được khẳng định ở các thực nghiệm động vật, tăng mức IGF-1 cũng đã tìm thấy trong dịch kính của người bệnh võng mạc tăng sinh. Đây cũng là bằng chứng chứng minh tác động tại chỗ của IGF-1 trong quá trình phát triển mạng mạch tân tạo. Các nghiên cứu đang tiến hành ở người bệnh đái tháo đường có sử dụng một chất tương tự của somatostatin là octreotid. Qua nghiên cứu này người ta hy vọng có thể trả lòi được câu hỏi liệu hormon tăng trưởng và IGF-1 có đóng vai trò quan trọng gì trong sự phát triển của bệnh võng mạc ở người hay không?.

Các yếu tố ảnh hưởng khác

  • Kiểm soát glucose máu

Mối liên quan giữa chất lượng kiểm soát glucose máu và các biến chứng mạn tính của người bệnh đái tháo đường đã được nhiều nghiên cứu chứng minh. Biến chứng võng mạc cũng không nằm ngoài quy luật này.

Năm 1982, người ta đã bắt đầu và thiết kế một thử nghiệm để đánh giá xem chế độ điều trị tích cực nhằm đạt mức glucose máu gần tới mức có thể như ở người không mắc đái tháo đường, có tác động đến sự khởi phát hoặc tiến triển của bệnh võng mạc sớm ở những người bệnh đái tháo đường typ 1 so với điều trị quy ước hay không- Thử nghiệm DCCT đã bắt đầu vào năm 1983 và thu nạp 726 bệnh nhân không bị bệnh võng mạc và bài xuất albumin niệu dưới 40mg/ngày trong một nhóm dự phòng tiên phát và 715 người đái tháo đường có bệnh võng mạc nhẹ đến trung bình (< 47/47 theo thang ETDRS), bài tiết albumin niệu 40 — 199 mg/ngày trong nhóm dự phòng thứ phát. Các nhóm dự phòng tiên phát và thứ phát được phân bố ngẫu nhiên vào nhóm điều trị tích cực với 3 hoặc 4 mũi tiêm insulin hoặc điều trị bằng bơm insulin, tự theo dõi glucose máu 4 lần/ngày. Nhóm điều trị quy ước với 1 hoặc 2 mũi tiêm insulin/ngày, thử glucose niệu vài lần mỗi ngày; vào giai đoạn sau của nghiên cứu tự kiểm tra glucose máu 1 lần/ngày.

Nghiên cứu DCCT kết thúc vào năm 1993, thời gian theo dõi trung bình là 6,5 năm. Những người bệnh được điều trị tích cực đạt được kiểm soát chuyển hóa tốt hơn nhiều và duy trì HbA1c trung bình 7,3% so với 9,1% ở nhóm điều trị quy ước. Điều trị tích cực làm giảm sự tiến triển của bệnh võng mạc được xác định như tăng 3 mức trên thang ETDRS 76% ở nhóm dự phòng tiên phát và 54% ở nhóm dự phòng thứ phát, giảm sự tiến triển đến bệnh võng mạc không tăng sinh nặng 47% và giảm 56% điều trị laser. Phân tích các dữ liệu của DCCT đã chứng minh mổì hên quan mạnh cấp số mũ giữa nguy cơ bệnh võng mạc và HbA1c trung bình trên cơ sở đo thường xuyên trong suốt nghiên cứu tương tự như ở 2 nhóm. Điều này dẫn đến kết luận chắc chắn rằng giảm glucose máu sẽ giảm nguy cơ bệnh lý võng mạc. Thời gian mắc bệnh đái tháo đường typ 1 lúc bắt đầu nghiên cứu càng ngắn thì lợi ích của điều trị tích cực càng cao. Trong mỗi nhóm nghiên cứu, HbA1c trung bình là yếu tố dự báo nổi trội đối với sự tiến triển của bệnh võng mạc và sự giảm nguy cơ là tương tự ở 2 nhóm, có nghĩa là HbA1c thấp hơn 10%, ví dụ như từ 8,0 xuống 7,2%, có kết hợp với giảm 43 – 45% nguy cơ ở cả 2 nhóm. Người ta cũng đã chứng minh được rằng, không có ngưỡng glucose máu an toàn đến mức không có nguy cơ bệnh lý võng mạc.

Cũng đã có bằng chứng là mức độ nặng của bệnh võng mạc đái tháo đường bị ảnh hưởng bởi các yếu tố gia đình. Tuy nhiên để có kết luận chính xác còn cần được nghiên cứu sâu hơn nữa.

Tựu chung lại, những kết quả này chỉ ra tầm quan trọng của cả thời gian mắc bệnh và tác động của việc quản lý tốt nồng độ glucose đối với sự phát triển của bệnh lý võng mác trong đái tháo đường typ 1.

Lúc kết thúc nghiên cứu DCCT vào năm 1993, toàn bộ 1375 đổi tượng của DCCT (95%) tham gia vào một nghiên cứu theo dõi mở, nhóm nghiên cứu dịch tễ học các can thiệp và biến chứng đái tháo đường (EDIC) để đánh giá xem liệu những lợi ích đạt được trong thời gian nghiên cứu DCCT còn tồn tại sau thời gian 4 năm hay không?. Tất cả người bệnh được nhận điều trị tích cực và được theo dõi chặt chẽ. Để đánh giá tình trạng bệnh võng mạc người ta tiến hành chụp đáy mắt trung tâm chọn lọc. Tuy mức độ kiểm soát chuyển hóa giữa nhóm điều trị quy ước và điều trị tích cực tương tự nhau trong thời gian theo dõi 4 năm, HbA1c tương ứng là 8,2% so với 7,9%, tỷ lệ người bệnh có bệnh võng mạc xấu đi, bao gồm bệnh võng mạc tăng sinh, phù hoàng điếm và nhu cầu điều trị laser thấp hơn ở nhóm được điều trị tích cực trước đây với giảm tỷ suất chênh từ 72 – 87%. Thậm chí 7 năm sau theo dõi của nghiên cứu EDIC, tỷ lệ mắc mới tích luỹ của sự tiến triển 3 bậc theo thang ETDRS từ mức lúc cuối nghiên cứu DCCT cũng thấp hơn ở nhóm đã được điều trị tích cực trước đó.

Những kết quả này, một lần nữa chứng minh rằng tăng glucose máu có hiệu quả lâu dài đối với bệnh lý võng mạc. Quản lý tốt mức glucose máu do điều trị tích cực có tác dụng giảm nguy cơ tiến triển của bệnh lý võng mạc ở những đối tượng đái tháo đường typ 1 kéo dài ít nhất 4 năm, mặc dù sau đó tình trạng có tăng glucose máu trở lại.

Sự ảnh hưởng của kiểm soát chuyển hóa đối với sự phát triển và tiến triển của bệnh võng mạc cũng đã được nghiên cứu ở những người bệnh đái tháo đường typ 2. Nghiên cứu UKPDS thu nạp 3867 người bệnh đái tháo đường typ 2 mới được chẩn đoán tuổi 48 — 60, được phân bổ ngẫu nhiên vào điều trị tích cực bằng insulin hoặc sulíonylure hoặc chế độ ăn đơn độc. Các kết cục của bệnh võng mạc bao gồm thị lực dưới 6/10 ở một mắt, xấu đi 2 bậc của bệnh võng mạc theo thang ETDRS, giảm đi 3 hàng của thị lực và một kết cục xấu, kết hợp bao gồm cả xuât huyết dịch kính, buộc phải điều trị laser và lấy thuỷ tinh thể. Trong 12 năm theo dõi kết thúc vào 1998, khác biệt 0,9% về HbA1c được duy trì giữa 2 nhóm. Sự cải thiện kiểm soát chuyển hóa ở nhóm điều trị tích cực kết hợp với giảm 21% nguy cơ xấu đi của bệnh võng mạc, giảm 29% điều trị laser và giảm 24% lấy thuỷ tinh thể, không có sự khác biệt về xuất huyết dịch kính và mù một mắt.

  • Tăng huyết áp

Tăng huyết áp là một đặc điểm thường gặp ở những người bệnh đái tháo đường có tổn thương mắt. Sự kết hợp giữa tăng huyết áp và mức độ nặng của bệnh võng mạc đái tháo đường cũng đã được ghi nhận.

Nghiên cứu Wisconsin cho thấy, tỷ lệ hiện mắc tăng huyết áp ở những người bệnh đái tháo đường typ 1 (ở lứa tuổi dưới 25 tuổi) lúc bắt đầu nghiên cứu là 25,9%. Trong nghiên cứu này, số huyết áp tâm thu lúc bắt đầu nghiên cứu có liên quan đến sự tiến triển của bệnh võng mạc tăng sinh, đến tỷ lệ mắc mới của phù hoàng điểm. Tăng huyết áp ở thời điểm bắt đầu nghiên cứu có kết hợp với tăng 91% nguy cơ phát triển bệnh võng mạc tăng sinh và tăng 40% nguy cơ phát triển phù hoàng điểm trong 14 năm theo dõi.

Những kết quả tương tự được tìm thấy ở người bệnh đái tháo đường typ 2. Trong nghiên cứu UKPDS, có tới 38% người bệnh đái tháo đường typ 2 mối được chẩn đoán đã có tăng huyết áp. Trong nghiên cứu này, sự phát triển của bệnh võng mạc có kết hợp mạnh với nồng độ glucose máu lúc ban đầu. Giảm mỗi 10 mmHg huyết áp trung bình, kết hợp với giảm 10 – 16% nguy cơ các biến chứng vi mạch (bệnh võng mạc cần điều trị quang đông, xuất huyết dịch kính và suy thận gây tử vong và không tử vong) và cũng không tìm được ngưỡng của nguy cơ.

Hầu hết các nghiên cứu đã chứng minh có sự kết hợp giữa huyết áp và bệnh võng mạc. Một mốĩ liên quan nguyên nhân giữa tăng huyết áp và bệnh võng mạc đái tháo đường được gợi ý rõ ràng bởi các kết quả của UKPDS, trong đó người bệnh tham gia nghiên cứu được phân bổ ngẫu nhiên vào nhóm kiểm soát chặt huyết áp và nhóm kiểm soát huyết áp kém chặt hơn. Huyết áp trung bình ở nhóm điều trị tích cực là 144/82 mmHg so với 154/87mmHg ở nhóm kiểm soát kém chặt hơn. Các đối tượng nghiên cứu được theo dõi trong thời gian trung bình là 8,5 năm. Kết quả giảm 37% các kết cục vi mạch đái tháo đường, chủ yếu do giảm nhu cầu điều trị laser. Trong nhóm kiểm soát chặt huyết áp, có giảm 34% nguy cơ tiến triển của bệnh võng mạc và giảm 47% tổn thất thị lực mức độ vừa. Những hiệu quả này không phụ thuộc vào mức độ kiểm soát đường máu. Các thuốc như atenolol và captopril có hiệu quả như nhau trong giảm nguy cơ phát triển các biến chứng vi mạch võng mạc.

Thử nghiệm kiểm soát huyết áp thích hợp trong đái tháo đường (ABCD), những người mắc bệnh đái tháo đường typ 2 có tăng huyết áp (HA tâm trương > 90 mmHg) được phân bổ ngẫu nhiên vào nhóm điều trị bằng chẹn kênh calci, nisoldipin hoặc nhóm điều trị bằng ức chế men chuyển – enalapril. Huyết áp trung bình đạt được là 132/78 mmHg trong nhóm điều trị tích cực và 138/86mmHg ở nhóm điều trị kinh điển. Trong 5 năm theo dõi không có sự khác biệt về sự tiến triển của bệnh võng mạc đái tháo đường và không có sự khác biệt về hiệu quả giữa nisoldipin và enalapril.

Thử nghiệm đối chứng EURODIAB về lisinopril đã nghiên cứu hiệu quả của lisinopril đối với bệnh võng mạc ở người bệnh đái tháo đường typ 1 có huyết áp bình thường. Sau 2 năm dùng ức chế men chuyển thấy có giảm tiến triển bệnh võng mạc ít nhất là một mức EURODIAB. Nhóm giả dược có HbA1c trung bình cao hơn nhóm được điều trị.

Như vậy, các kết quả từ các nghiên cứu khác nhau có thể không thông nhất, nhưng tăng huyết áp luôn là một yếu tố nguy cơ của sự phát triển và tiến triển của bệnh võng mạc đái tháo đường cần được kiểm soát. Cho đến nay, không có phương pháp điều trị tăng huyết áp đái tháo đường đặc hiệu nào đã được chứng minh có ưu thế hơn các loại khác.

Dù có đái tháo đường hay không hoặc chỉ có tăng huyết áp, đặc biệt chỉ có tăng huyết áp tâm thu, cũng có thể phát triển tới bệnh võng mạc với phình mạch máu lớn và mạch máu nhỏ, tổn thương xuất huyết hình ngọn lửa, các đám bông gòn, các tổn thương xuất tiết hoàng điểm và phù đĩa thị (xem thêm các hình tổn thương mắt ở phụ bản).

  • Với bệnh thận do đái tháo đường

Sự kết hợp giữa bệnh thận và bệnh võng mạc đã được mô tả vào năm 1954 và dường như bắt đầu ở mức có microalbumin niệu. Trong một nghiên cứu tiến cứu trên 211 người mắc bệnh đái tháo đường typ 1, tỷ lệ hiện mắc của bệnh võng mạc tăng sinh đái tháo đường tăng từ 7% lúc bắt đầu có microalbumin niệu lên 29% sau 4 năm từ lúc bắt đầu có microalbumin niệu so với 3 và 8% ở những người bệnh không có microalbụmin niệu. Ớ giai đoạn bệnh thận đái tháo đường tiến triển, có protein niệu phát triển và dự báo bệnh võng mạc tăng sinh, có 80% người bệnh có protein niệu dai dẳng có bệnh võng mạc tăng sinh so với 25% ở những người không có protein niệu. Khi bệnh thận tiến triển đến giai đoạn cuối, hầu hết tất cả người bệnh đái tháo đường typ 1 và 2/3 người bệnh đái tháo đường typ 2 được lọc máu có bệnh võng mạc, thường là bệnh võng mạc tăng sinh. Bệnh võng mạc do đái tháo đường được tìm thấy ở 85-99% người bệnh có đái tháo đường typ 1 có protein niệu dai dẳng, nhưng chỉ ở 47 – 63% người bệnh đái tháo đường typ 2, điều này gợi ý rằng khoảng 30% protein niệu ở người đái tháo đường typ 2 có nguyên nhân khác ngoài bệnh thận do đái tháo đường.

Điều đáng quan tâm là khoảng 1/3 người bệnh đái tháo đường có bệnh võng mạc tăng sinh, nhưng không có dấu hiệu tổn thương của bệnh thận đái tháo đường. Điều này gợi ý có thể có các cơ chế bệnh sinh khác nhau, dù chúng được xếp chung vào nhóm “tổn thương vi mạch”.

  • Tăng lipid và lipoprotein huyết thanh

Các tác động của các lipid và lipoprotein huyết thanh vào quá trình phát triến và tiến triển của bệnh võng mạc đái tháo đường đã được nghiên cứu trong các nghiên cứu cắt ngang.

Nghiên cứu dịch tễ bệnh lý võng mạc do đái tháo đường ở Wiscosin (WESDR – Wiscosin Epididemiology Study of Diabetic Retinopathy) và Chương trình nghiên cứu điều trị sớm bệnh võng mạc do đái tháo đường (ETDRS – Early Treatment Diabetic Retinopathy Study) của Mỹ, đều thấy bệnh lý võng mạc ở người đái tháo đường tăng tịnh tiến với tỷ lệ tăng cholesterol, tăng triglycerid máu. Người ta cũng thấy các hình thái tổn thương dịch rì nặng thường kết hợp với giảm sức nhìn đều có liên quan đến các rối loạn về chuyển hóa lipid máu.

Tuy số lượng các nghiên cứu về lĩnh vực này còn ít, nhưng cũng có thể kết luận quản lý tốt chuyển hóa lipid ở người đái tháo đường không chỉ làm giảm các yếu tố nguy cơ cho bệnh lý mạch vành mà còn cải thiện tốt tiên lượng cho cả bệnh lý võng mạc.

Trong bệnh đái tháo đường typ 1, sự kết hợp về mức độ tổn thương đã được tìm thấy giữa bệnh võng mạc nặng hơn với cholesterol toàn phần và HDL-C, nhưng không tìm thấy có liên quan gì với triglycerid. Trong các nghiên cứu cắt ngang khác, mức cholesterol toàn phần có kết hợp với mức độ nặng của xuất huyết cứng và tỷ lệ mắc mối của phù hoàng điểm ở những người mắc bệnh đái tháo đường typ 1, nhưng không thấy mối liên quan này ở người bệnh đái tháo đường typ 2.

  • Hút thuốc lả

Hút thuốc lá là một yếu tố nguy cơ của sự tiến triển của albumin niệu và bệnh thận ở cả đái tháo đường typ 1 và đái tháo đường typ 2, nhưng các tác động của hút thuốc đối với bệnh võng mạc do đái tháo đường thì ít rõ ràng hơn. Muhlhauser đã tổng kết rằng sự kết hợp giữa hút thuốc và bệnh võng mạc vẫn còn ít nhất quán hơn so với sự kết hợp giữa hút thuốc và bệnh thận.

Bệnh võng mạc do đái tháo đường và thai kỳ

Khi mang thai bệnh võng mạc đái tháo đường thường tiến triển xấu đi. Thông thường bệnh có thể xấu đi trong thời gian từ tháng thứ 4 đến tháng thứ 6, sau đó ổn định ở 3 tháng cuối của thai kỳ. Tình trạng này được cải thiện ngay sau khi sinh. Nếu bệnh võng mạc có trước khi mang thai đã ở mức độ nặng thì những biến đổi tăng sinh có thể xảy ra và gây ra tổn thương thị giác nặng. Cũng có thể gặp phù thoáng qua ở vùng hoàng điểm. Nhưng tổn thương này có thể hết sau đẻ trong hầu hết các trường hợp; cũng có thể gặp những tổn thương dai dẳng, gây giảm sút thị giác không hồi phục.

Triệu chứng và phân loại giai đoạn tổn thương

Phân loại bệnh võng mạc đái tháo đường nhằm 2 mục đích.

Thứ nhất để đặt giới hạn ngưỡng cho các giai đoạn khác nhau của bệnh võng mạc đái tháo đường, trong nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng.

Thứ hai là phát hiện các giai đoạn có đe doạ trực tiếp thị lực hoặc có thể có nguy cơ cao về mặt tiên lượng, nhằm mục tiêu can thiệp kịp thời. Đây là điểm quan trọng trong thực hành lâm sàng, vì phát hiện bệnh võng mạch đe doạ thị giác có thể dự phòng các biến chứng nặng, như mù loà chẳng hạn, nếu được điều trị hợp lý và không quá muộn.

Trong các thử nghiệm lâm sàng, các thang điểm khác nhau đã được áp dụng. Những thang điểm này đã được sử dụng cho từng mắt người bệnh; ví dụ, trong khi một mắt của người bệnh được chỉ định điều trị laser, còn mắt khác thì lại trì hoãn không điều trị.

Phân loại Airli House sửa đổi phân biệt 8 mức từ không có bệnh võng mạc đến xuất huyết dịch kính nặng. Thiết kế của nghiên cứu cho phép quan sát diễn tiến tự nhiên của bệnh võng mạc ở mắt không được điều trị từ đầu.

Vào năm 1991, Chương trình nghiên cứu điều trị sớm bệnh võng mạc do đái tháo đường (ETDRS) đưa ra một thang mức độ nặng của bệnh võng mạc cho mỗi mắt. Dựa trên ảnh chụp không gian ba chiều của 7 trường xác định. Thang này chia bệnh võng mạc đái tháo đường thành 13 mức từ không có bệnh võng mạc đến xuất huyết dịch kính nặng và bong võng mạc. Vì tốc độ tiến triển là rất giống nhau ở mức ban đầu, thang này đã được công nhận là thật sự có ích cho việc đánh giá sự thay đổi ở võng mạc, ít nhất trong thời kỳ theo dõi ngắn, thường là từ 1-3 năm. Tuy nhiên, thang này là quá phức tạp trong thực hành hàng ngày; vì thế người ta thường tìm đến những thang đơn giản hơn.

Vào năm 2002, Viện hàn lâm nhãn khoa Mỹ đã tổ chức một hội thảo với các bác sĩ nhãn khoa và các bác sĩ nội tiết từ khắp thế giới. Nhóm dự án bệnh võng mạc đái tháo đường toàn cầu đã nhất trí một thang đơn giản hơn, mô tả 5 giai đoạn của bệnh võng mạc do đái tháo đường, tương ứng với các mức 10-15, 20, 35-47, 53 và > 61 của thang mức độ nặng ETDRS.

Trong thực hành lâm sàng, quan trọng nhất là nhận diện được những giai đoạn đe doạ thị giác có nguy cơ cao về tổn thương thị lực cũng như những giai đoạn có thể dự báo tiến triển nặng trong vòng 1-2 năm, có nghĩa là phù hoàng điểm, bệnh võng mạc không tăng sinh nặng và bệnh võng mạc tăng sinh. Nói cách khác là những người bệnh có bệnh võng mạc đe doạ thị giác phải được chuyển đến các chuyên gia nhãn khoa để điều trị thích hợp và kịp thời.

Tổn thương cơ bản

Giai đoạn này thường được biểu hiện bằng những nốt chảy máu tập trung thành đám. Giai đoạn sớm nhất được biểu hiện bằng các vi phình mạch (microaneurysms) và các xuất huyết dạng chấm và vết trong võng mạc (xem các hình minh hoạ tổn thương mắt ở phụ bản). Bệnh có ở đa số người bệnh đái tháo đường typ 2 mắc bệnh lâu ngày, nhiều trường hợp không gây phiền phức gì, chưa ảnh hưởng đến sức nhìn của người bệnh. Tuy nhiên nếu có tổn thương mạch gây dò rỉ sẽ gây ra hiện tượng phù hoàng điểm làm thị lực bị giảm đột ngột.

  • Phù hoàng điểm:

Phù hoàng điểm là hiện tượng dày lên của trung tâm võng mạc. Trong trường hợp này sức nhìn giảm đột ngột, nhất là khi phù ở hố võng mạc trung tâm. Phù hoàng điểm là “kết quả của sự tích tụ hất thường dịch ngoại bào ở võng mạc” do các hàng rào bảo vệ không còn hiệu quả ở phần trung tâm của mắt. Trong thực hành lâm sàng, dày võng mạc và xuất tiết cứng trong phạm vi 2 lần đường kính đĩa thị từ hố hoàng điểm, thường được coi là phù hoàng điểm.

Trong nghiên cứu tiến cứu về điều trị laser, nhóm ETDRS có một định nghĩa chặt chẽ hơn về phù hoàng điểm; đó là “tình trạng dày võng mạc trong phạm vi một đường kính đĩa thị, tính từ trung tâm hoàng điểm hoặc xuất tiết cứng rõ ràng trong vùng này”. Phù hoàng điểm rất khó chẩn đoán bằng các phương tiện thăm khám thông thường. Tuy nhiên có một số hình ảnh gợi ý như có dịch rỉ màu trắng ngà, sáng lấp lánh, lắng đọng trong võng mạc, thường là ngay trên vùng tổn thương.

Phù hoàng điểm có thể nhẹ và có thể không ảnh hưởng ngay đến thị lực. Nhưng buộc phải điều trị vì nó đe doạ nhanh chóng đến thị giác trung ương. Soi đáy mắt nếu thây dịch rỉ nhiều xếp hình vòng cạnh các “vết dát” phải nghĩ ngay đến phù hoàng điểm và phải gửi ngay người bệnh đến các chuyên gia về bệnh lý võng mạc đái tháo đường. Sự hiện diện của những tổn thương này chứng tỏ phần tuần hoàn mao mạch không còn hoạt động chức năng.

Phù hoàng điểm trong đái tháo đường là mối đe doạ nghiêm trọng đối với chức năng thị giác, đặc biệt ở người cao tuổi. Tổn thương thị giác thứ phát do phù hoàng điểm hiếm khi được hồi phục. Tuy nhiên, cũng có những nghiên cứu cho thấy thị lực vẫn tốt và không thay đổi đáng kê trong thời gian theo dõi 3 năm ở một số trong những mắt bị tổn thương theo tiêu chuẩn này, có nghĩa là những mắt có những vùng dày võng mạc giới hạn hoặc xuất tiết cứng ở ngoài trung tâm hoàng điếm.

Để thuận tiện cho thực hành lâm sàng, một thuật ngữ mới được hình thành: “P/iù hoàng điểm có ý nghĩa lâm sàng (clinically significant macular edema – CSME”. Khái niệm này được định nghĩa như sự dày lên của võng mạc có liên quan hoặc đe dọa đến trung tâm hoàng điểm; Đó là:

  • Dày võng mạc ở hoặc trong phạm vi 500 micromet cách trung tâm hoàng điểm.
  • Xuất tiết cứng ở trung tâm hoàng điểm hoặc trong phạm vi 500 micromet cách trung tâm hoàng điểm kết hợp với dày võng mạc kế cận.
  • Một hoặc nhiều vùng ở võng mạc đã bị dày lên bằng ít nhất 1 diện tích đĩa thị mà bất kỳ phần nào của nó ở trong phạm vi 1 đường kính thần kinh thị giác từ trung tâm hoàng điểm.

Nhóm dự án bệnh võng mạc đái tháo đường thế giới (The Global Diabetic Retinopathy Project Group) đã xác định mức độ nặng của phù hoàng điểm là xuất tiết cứng và/hoặc thoát dịch ở cực sau, phụ thuộc vào mức độ gần trung tâm của hoàng điểm.

Bệnh võng mạc không tăng sinh (Non Proliferative Diabetic Retinopathy-NPDR)

Nhiều người cho rằng đây là thể trung gian giữa thể không tăng sinh và tăng sinh. Cũng có người gọi đây là thể “tiền tăng sinh”, vì nếu tìm thấy các tổn thương của thể này, chúng sẽ nhanh chóng chuyển sang thể tăng sinh. Nhiều tác giả cho rằng nên xếp hình thái này vào thể nặng của nhóm “bệnh võng mạc không tăng sinh”; nhưng cũng có người muôn đặt riêng thành một thể vì mức độ tiến triển không mấy “ lành tính” của thể loại bệnh này.

Các tổn thương có thể gặp ở giai đoạn này gồm:

– Các mạch nhỏ bị “kéo” dài ra. Người ta cho đây là biểu hiện sổm của các mạch tăng sinh của võng mạc. Tĩnh mạch cũng có thể bị giãn ra, quanh co, gấp khúc và không đều về khẩu kính.

  • Các tổn thương màu trắng, thường được ví như những đám “bông gòn trắng”, hậu quả của thiếu máu do nhồi máu trong vòng của đĩa thị giác.
  • Tổn thương “chuỗi hạt” của mạch thị giác
  • Những bất thường khác về vi mạch trong võng mạc: Các mạch bị giãn ra, mao mạch thị giác bị gấp khúc. Trong nhiều trường hợp là sự hình thành các mạch máu mới trong khuôn khổ võng mạc.

Tuy bệnh’võng mạc không tăng sinh nặng tự nó không đe doạ thị lực, nhưng điểm quan trọng cần ghi nhận ở giai đoạn này là nguy cơ tiến triển đến bệnh võng mạc tăng sinh. Các yếu tố đã được nhận diện là quan trọng nhất trong dự báo sự tiến triển nhanh bao gồm:

  • Xuất huyết trong võng mạc (ở một trong 4 góc phần tư).
  • Giãn tĩnh mạch hình chuỗi hạt (ở 2 góc phần tư).
  • Bất thường vi mạch trong võng mạc.

ở những giai đoạn này tốc độ tiến triển đến bệnh võng mạc tăng sinh trong vòng 1 năm là 32%, trong 3 năm là 58% và trong 5 năm là 68%. Sự tiến triển đến bệnh võng mạc tăng sinh nặng xảy ra ở các thời điểm tương ứng với tỷ lệ là 14%, 38% và 53%. Vì thế khi có những tổn thương này xuất hiện, người ta còn đề nghị một tên gọi khác là bệnh võng mạc không tăng sinh thể nặng (severe NPDR) (xem hình 7 trong phụ bản).

Bệnh võng mạc tăng sinh (Proliterative Diabetic Retinopathy -PDR)

Bệnh võng mạc tăng sinh không có triệu chứng ở giai đoạn sớm, nhưng các mạch máu phát triển và bám vào bao sau của dịch kính, gây nguy cơ đối với thị lực tăng dần lên. Tốc độ phát triển của các mạch máu mới rất khác nhau. Sự tân tạo mạch có thể ổn định hàng năm và thậm chí có thế thoái triển tự nhiên, trong khi một số trường hợp tiến triển nhanh và gây ra nguy cơ cao về tổn hại thị lực sau đó. Những mắt có mạch máu mới bằng khoảng 1/4 diện tích đĩa thị trên hoặc trong phạm vi 1 đường kính đĩa thị từ đĩa thị và những mắt có mạch máu mối và xuất huyết trước võng mạc hoặc trong dịch kính là có nguy cơ cao.

Thuật ngữ bệnh võng mạc đái tháo đường tăng sinh nguy cơ cao dùng để chỉ những tổn thương sau:

  1. Những mạch máu mới trên hoặc trong phạm vi một đường kính đĩa thị từ đĩa thị mà bao phủ 1 diện tích trên 1/4 đến 1/3 của đĩa thị.
  2. Những mạch máu mới trên hoặc trong phạm vi 1 đường kính đĩa thị có kết hợp với xuất huyết tiền võng mạc hoặc dịch kính.
  3. Những mạch máu mới cách rời đĩa thị >1 đường kính đĩa thị và lớn hơn nửa diện tích đĩa thị kết hợp với xuất huyết tiền võng mạc và dịch kính.

Ở những mắt đã bị những tổn thương này, tốc độ tổn hại thị lực tích luỹ 1 năm là khoảng 10% và trong 3 là 35% và 5 năm là 50%; trong khi các tổn thương tương ứng của bệnh võng mạc không tăng sinh không có nguy cơ cao là 0%, 5% và 25%.

Vê cơ chế bệnh sinh còn nhiều bàn cãi, song nhiều ý kiến cho rằng các mạch tân tạo ra đòi là do hậu quả của việc thiếu oxy tô chức và nhu cầu dinh dưỡng của mô. Như vậy, các mạch máu tân tạo là kết quả của đáp ứng do thiếu máu gây ra. Tỷ lệ PDR ở người đái tháo đường typ 2 trên 20 năm có tới 30%.

Bệnh võng mạc tăng sinh do đái tháo đường nhanh chóng đe doạ đến thị lực bởi:

  • Các mạch máu tân tạo luôn có nguy cơ chảy máu, đặc biệt khi chúng bị kéo dài ra bởi sự co kéo của thuỷ tinh thể.
  • Sự tăng sinh các mô xơ tiếp sau khi đã có tăng sinh các mạch máu dẫn đến hậu quả co kéo làm bong võng mạc.

Với những người bệnh đái tháo đường có tổn thương võng mạc người ta khuyên nên có chế độ khám chuyên khoa đặc biệt (bảng 13.6).

Bảng 13.6. Kế hoạch kiểm tra võng mạc trong bệnh mắt do đái tháo đường.

Tình trạng võng mạc Kiểm tra sau*
Không có tổn thương võng mạc, chỉ có các vi phình mạch 12
Không phù hoàng điểm, VM không tăng sinh nhẹ đến trung bình 6-12
Có phù hoàng điểm nhưng không gây triệu chứng lâm sàng, VM không tăng sinh mức độ từ nhẹ đến trung bình 4-6
Có phù hoàng điểm kèm theo triệu chứng lâm sàng, VM không tăng sinh từ mức độ nhẹ đến trung bình 3-4
Bệnh võng mạc không tăng sinh từ nặng đến rất nặng 3-4
Bệnh võng mạc tăng sinh từ nhẹ đến trung bình 2-3
Bệnh võng mạc tăng sinh có yếu tố nguy cơ cao 3-4

* Thời gian kiểm tra tính bằng tháng; VM: võng mạc.

Về tiên lượng khi đã có tổn thương võng mạc tăng sinh, việc cần làm là phải đánh giá tình trạng bệnh một cách toàn thể. Ví dụ phải xem xét tình trạng quản lý glucose máu, tình trạng của cầu thận, số đo huyết áp được quản lý v.v. Tất cả cần được đánh giá như những yếu tố tiên lượng. Khi xuất hiện các yếu tố nguy cơ cao (HRCS) thì vấn đề điều trị bằng liệu pháp quang đông (photocoagulation) là bắt buộc, vấn đề ở chỗ là càng được can thiệp điều trị nhanh bao nhiêu thì tác hại của bệnh càng được hạn chế.

Glaucoma

Thường là hậu quả của bệnh võng mạc tăng sinh. Các mô sẹo xơ bắt nguồn từ mạch tăng sinh có thể bịt mất dòng chảy của thuỷ dịch, gây tăng áp lực trong nhãn cầu.

Lâm sàng biểu hiện bằng đau đột ngột, dữ dội, mù đột ngột.

Glaucoma góc đóng là biến chứng hay gặp ở người đái tháo đường.

Phương pháp chẩn đoán

  • Khám lâm sàng và chụp đáy mắt

Ngoài khám lâm sàng qua đồng tử giãn bằng sử dụng đèn soi và thấu kính khuếch đại hoặc bằng kính soi trực tiếp, chụp đáy mắt có xu hướng ngày càng đóng vai trò quan trọng không chỉ đối với chẩn đoán mà còn làm bằng chứng tư liệu của các tổn thương võng mạc. Trong nghiên cứu Wiscosin phân loại 8 mức độ dựa trên ảnh màu nổi của 7 trường 30°, nhưng cho thấy đối với 4 mức bệnh võng mạc, sự tương đồng về phân tích kết quả giữa 7 và từ 2 đến 4 trường là tốt, đạt 91%. Bằng cách sử dụng góc rộng hơn, 45-60°, sự cải thiện về phạm vi chụp cho phép phát hiện nhiều tổn thương ngoại vi, có nghĩa là các mạch máu mới.

Kỹ thuật giác lập phương (stereopsis) là cần thiết đối với bất kỳ sự đánh giá nào về độ dày của võng mạc. Những bệnh nhân có vi phình mạch và/hoặc xuất tiết cứng trong phạm vi 2 đường kính đĩa thị tính từ trung tâm hoàng điểm cần được chuyển đến chuyên gia nhãn khoa. Trong trường hợp này có thể ảnh chụp đáy mắt nổi hoặc khám lâm sàng bằng đèn soi sử dụng thấu kính khuếch đại, có thế không phát hiện.

Ngày nay ảnh màu đã được thay thế bằng ảnh kỹ thuật số, người ta có thể truyền hình ảnh này đến các chuyên gia nhãn khoa hoặc các trung tâm đọc ảnh chuyên biệt.

  • Chụp mạch huỳnh quang

Hệ mạch võng mạc có thể được nhìn thấy bằng chụp mạch huỳnh quanh. Chất huỳnh quang natri được tiêm vào tĩnh mạch gắn vào albumin và phân tán tự do qua hệ mao mạch màng trạch nhưng không qua được biểu mô sắc tố hoặc các kết nối giữa các tế bào nội mạc trong điều kiện bình thường. Chụp mạch huỳnh quang đặc biệt quan trọng để đánh giá mức độ phù hoàng điểm. Các điểm thoát quản khu trú và những vùng phù lan toả có thể được nhận diện. Người ta cũng có thể nhận thấy độ lớn của những vùng không mạch máu. Hơn nữa, ảnh huỳnh quang có thể có ích trong việc vẽ bản đồ những vùng không tưới máu; phân biệt giữa các bất thường vi mạch nội võng mạc không thoát quản và sự tân tạo mạch máu có thoát quản.

  • Siêu âm

Siêu âm đặc biệt có ý nghĩa ở những người có mò hệ thống quang học mắt và bệnh võng mạc dịch kính, ví dụ như khi đục thuỷ tinh thể, xuất huyết dịch kính,… những tổn thương này cản trở việc thăm khám võng mạc. Trong những trường hợp này, siêu âm tiếp xúc B-scan, có khả năng phát hiện sự bong dịch kính phía sau, các màng xơ mạch và những vùng bong võng mạc khu trú hoặc lan tỏa.

  • Chụp cắt lớp gắn dính quang học (Optical Coherence Tomography – OCT)

Đây là kỹ thuật laser không xâm nhập, sử dụng sự phản xạ các sóng của tia hồng ngoại từ các cấu trúc ở mắt theo cách thức tương tự như siêu âm. Nó tạo ra hình ảnh cắt ngang của võng mạc theo 2 chiều. Với độ phân giải 10 mcm, OCT là một công cụ chẩn đoán quan trọng cho hình ảnh không xâm nhập, độ phân giải cao của võng mạc và các tô chức kế cận của mắt. Kỹ thuật này có thể cho thấy những mô hình thay đổi cấu trúc của phù hoàng điểm và tỏ ra có vai trò đặc biệt trong việc phát hiện các màng hyaloid phía sau và sự co kéo hoàng điếm — dịch kính. Đây cũng là phương pháp thăm dò có giá trị và tin cậy để đánh giá và theo dõi độ dày của võng mạc.

Điều trị

Các hướng dẫn điều trị bệnh võng mạc đái tháo đường dựa chủ yếu vào kết quả và kinh nghiệm rút ra từ 3 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng:

  1. Nghiên cứu bệnh võng mạc đái tháo đường (DRS) năm 1971-1978.
  2. ETDRS, năm 1980-1989.
  3. Nghiên cứu phẫu thuật cắt bỏ dịch kính năm 1976-1983.

Các kết quả của các nghiên cứu này vẫn còn được áp dụng, tuy laser và các kỹ thuật cắt bỏ dịch kính-võng mạc đã cải thiện đáng kể từ đó. Đèn cung xenon không còn được sử dụng cho quang đông, laser trạng thái đơn sắc như hồng ngọc neodymium: yttrium-albumin tần số gấp đôi hoặc laser diod chắc sẽ dần thay thế laser argon và các dụng cụ và kỹ thuật phẫu thuật dịch kính-võng mạc đã trở lên tinh tế hơn từ khi có phẫu thuật cắt bỏ dịch kính năm 1970.

Để điều trị các bệnh lý mắt đái tháo đường buộc phải có sự phổi hợp giữa các thầy thuốc chuyên khoa mắt và nội tiết. Tuỳ thuộc vào tổn thương của bệnh để có phương pháp điều trị thích hợp.

Phương pháp quang đông

  • Những chỉ định tuyệt đối:

Xuất huyết thuỷ tinh thể hoặc tiền võng mạc, thậm chí thị lực vẫn bình thường.

Mạch máu tân tạo xâm lấn > 1/3 đĩa thị giác.

Phù hoàng điểm.

Các nghiên cứu này cũng cho biết, người bệnh có các yếu tố nguy cơ trên, nếu không được điều trị bằng quang đông thì sau 2 năm sẽ có từ 25 – 50% bị mất thị lực.

  • Phương pháp quang đông toàn bộ võng mạc, nguyên tắc cơ bản là sử dụng tia laser Argon hoặc Xenon, điều trị bệnh lý võng mạc ở người đái tháo đường.

Chỉ định này được áp dụng cho người bệnh có bệnh võng mạc tăng sinh, kết quả đạt tới 60% ngăn chặn được mất thị lực.

  • Quang đông từng ổ

Thường áp dụng điều trị thể phù hoàng điểm, hoặc các vi phình mạch, các điểm chảy máu và các bất thường mạch máu khác sau khi được phát hiện nhờ chụp mạch có chất huỳnh quang.

Đôi khi quang đông cũng được chỉ định điều trị dự phòng ngăn ngừa tạo các mạch máu mới.

Quang đông là hậu quả của sự hấp thụ tia laser định hướng cao bởi melanin ở biểu mô sắc tố võng mạc và màng trạch. Kết quả là sự chuyển ánh sáng thành nhiệt tạo ra sự tăng nhiệt độ ở màng trạch-võng mạc. Nhanh chóng, trong khoảng vài mili giây, sự dẫn truyền nhiệt lan đến võng mạc trong suốt nằm ở trên, biểu mô sắc tố võng mạc kế cận và màng trạch.

Các cơ chế hoạt động của quang đông còn chưa được rõ. Qúa trình hấp thu ánh sáng ở biểu mô sắc tố có thể gây ra phản ứng, giải phóng các chất hóa học tác động vào các mạch máu võng mạc. Người ta đã thấy rằng điều trị laser gây ra sự tăng sinh tế bào nội mạc của các mao mạch và tiểu tĩnh mạch của võng mạc. Các vết bỏng do laser làm mất các thụ thể ánh sáng và như thế làm giảm bề dày của võng mạc. Điều này có thể cải thiện sự khuếch tán oxy và giảm tiêu thụ oxy, gây ra sự co hẹp các mạch máu đã bị giãn. Tác động có lợi của quang đông sẽ là sự cải thiện cung cấp oxy, bình thường hóa đường kính mạch máu và giảm áp lực thuỷ tĩnh. Cũng có bằng chứng rằng quang đông toàn bộ võng mạc làm giảm lượng VEGF trong dịch kính, một trong những động lực quan trọng nhất cho sự tăng trưởng của các mạch máu mới.

  • Quang đông đối với điều trị phù hoàng điểm:

Nghiên cứu ETDRS thấy rằng quang đông laser làm giảm 50% nguy cơ tổn thất thị lực nặng và trung bình đối với những mắt có phù hoàng điểm có ý nghĩa lâm sàng nhưng sự hồi phục thị lực không đáng kể. Quang đông ở dạng kích thước điểm 50-200 micromet đã được sử dụng trực tiếp vào nơi có rò chất huỳnh quang khu trú của các vi phình mạch và/hoặc ở dạng giống đường kẻ (ô) vào các vùng của võng mạc bị dày, biểu hiện bằng rò chất huỳnh quang lan tỏa. Nghiên cứu ETDRS cho thấy rằng quang đông hoàng điểm làm ngừng lại sự tiến triển của tổn thất thị lực nhưng nó hiếm khi khôi phục được thị lực.

Các tác động có lợi của điều trị laser có thể bị cản trở bởi tổn thương võng mạc và dẫn đến sẹo bị gây ra bởi tổn thương nhiệt trực tiếp và/hoặc tổn thương nhiệt kế cận với vùng được điều trị. Các hốc teo biểu mô sắc tố, xơ hóa và các màng tân tạo mạch đã được phát hiện có liên quan đến quang đông bằng laser argon cho phù hoàng điểm đái tháo đường. Để hạn chế tổn thương võng mạc, người ta đã để xuất phương pháp quang đông dưới ngưỡng cho phù hoàng điểm có ý nghĩ lâm sàng. Phương pháp này nhằm gây các vết bỏng võng mạc không thây được vào thời điểm điều trị. Trong thực tế điều trị dưới ngưỡng có thể thành công nhưng cho đến nay hiện chưa có thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên tiến cứu nào để khẳng định các kết quả này.

  • Quang đông cho hênh võng mạc tăng sinh do đái tháo đường:

Nghiên cứu DRS cho thấy rằng quang đông toàn bộ võng mạc làm giảm ít nhất 50% tỷ lệ mất thị lực nặng ở những người có bệnh võng mạc tăng sinh và các đặc điểm nguy cơ cao. Quang đông toàn bộ võng mạc thường được tiến hành trong 2 đến 3 buổi. Tổng số 1200-2000 vết bỏng laser kích thước 500 micromet; thường được áp dụng theo kiểu rải rác, cách nhau 1 bề rộng vết bỏng. Điều trị cần mở rộng từ ngoài các cung mạch võng mạc đến, hoặc nếu có thể, quá đường xích đạo ở ngoại vi.

Trong nghiên cứu DRS, hai loại nguồn tia được sử dụng: đèn cung xenon và laser argon. Tác động có lợi đối với thị giác là tương tự nhau đối với 2 kỹ thuật; tác dụng bất lợi đối với các thị trường ngoại vi gặp nhiều hơn ở nhóm người điều trị bằng xenon, có mất nhẹ thị trường trong 25% và mất nặng thị trường ở 25% nữa. Trong khi ở nhóm điều trị bằng argon chỉ có 5% mất thị giác ở mức vừa. Người bệnh cũng nhận thấy rằng cả hai loại điều trị đều dẫn đến thích nghi với bóng tối kéo dài. Từ khi đèn cung xenon được thay thế bằng các nguồn tia khác, tác dụng phụ hiện nay ít và nhẹ đi đáng kể.

Tuy nhiên quang đông toàn bộ võng mạc có thể làm xấu thêm tình trạng phù hoàng điểm đã có trước. Trong trường hợp phù hoàng điểm, điều trị kiểu khu trú và/hoặc đường kẻ ô cần được tiến hành trước hoặc ngay lúc ban đầu của các buổi điều trị. Quang đông toàn bộ võng mạc có thể được xem xét chỉ định cho những người có bệnh võng mạc không tăng sinh nặng, đặc biệt ở người có bệnh đái tháo đường typ 2.

Điều trị nội khoa

Mục đích của điều trị nội khoa là giữ huyết áp bình thường là điều tối quan trọng trong bệnh lý võng mạc của người đái tháo đường.

Các điều trị dự phòng khác gồm:

  • Chống đông bằng aspirin.
  • Các thuốc làm ngăn cản quá trình bệnh lý võng mạc là: ức chế enzym aldose reductase và protein kinase c (P – Isoform).

Aldose reductase là một enzym chuyển glucose thành sorbitol, trên động vật thực nghiệm người ta thấy ức chế quá trình này sẽ làm chậm sự phát triển của bệnh võng mạc do đái tháo đường. Thử nghiệm cũng đã được tiến hành trên 497 người đái tháo đường phụ thuộc insulin chưa có hoặc có tổn thương võng mạc không đáng kể. Thử nghiệm này được theo dõi trong 3 – 4 năm, nhưng kết quả không rõ ràng.

Nhiều ý kiến cho rằng liệu pháp điều trị nội khoa chủ yếu là làm chậm sự tiến triển của bệnh võng mạc và bệnh lý thần kinh do đái tháo đường.

  • Tiêm steroid nội dịch kính:

ở những bệnh nhân có phù hoàng điểm lan tỏa, tiêm steroid nội dịch kính có thể có ích đối với thị lực. Tuy nhiên, các kết quả từ các thử nghiệm ngẫu nhiên là cần thiết trước khi điều trị này được khuyến cáo.

Vi phẫu thuật

Trong các trường hợp:

Tháo dịch, máu ứ làm ngập thủy tinh thể.

Cắt bỏ bè xơ, hạ nhãn áp.

Cắt màng xơ trên bề mặt võng mạc.

  • Cắt bỏ dịch kính đối với phù hoàng điểm:

Người ta còn chưa biết liệu dịch kính có vai trò bệnh sinh trong sự phát triển của phù hoàng điểm đái tháo đường hay không, nhưng đã có giả thuyết rằng, chất hyaloid bám căng và kết đặc ở phía sau có thể làm nặng lên và duy trì tình trạng phù hoàng điểm lan toả trong bệnh lý võng mạc-đái tháo đường. Bong dịch kính phía sau ít gặp hơn ở người bệnh đái tháo đường cao tuổi.

Thị lực có thể được bảo tồn hoặc cải thiện bằng cách giải phóng sự co kéo dịch kính-hoàng điểm bằng phẫu thuật ở những mắt không bị đái tháo đường, không có bong dịch kính phía sau hoặc có bong không hoàn toàn. Người ta đề xuất rằng cắt bỏ dịch kính và sự loại bỏ hyaloid phía sau có thể có ích ở những mắt có phù hoàng điểm lan toả và hyaloid dày dính có bị kéo căng ở phía sau.

  • Cắt bỏ dịch kính trong bệnh võng mạc tăng sinh:

Quang đông toàn bộ võng mạc làm giảm nhiều nguy cơ tổn thất thị giác nặng, nhưng ở một số người bệnh các mạch máu mới và các phức hợp xơ-mạch vẫn có thể tiếp tục phát triển mặc dù có quang đông thích hợp. Người ta còn gặp tình trạng này ở những người mắc đái tháo đường mà không được điều trị do những nguyên nhân khác nhau, ở những bệnh nhân từ chối điều trị laser. ở những mắt có xuất huyết dịch kính hoặc bong võng mạc do co kéo, còn có cơ hội khôi phục hoặc ổn định thị giác nếu mờ dịch kính có thể được loại bỏ và nếu sự co kéo do tăng sinh xơ-mạch được loại bỏ.

Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên chứng minh rằng 25% có thị lực 20/40 hoặc tốt hơn sau 2 năm cắt bỏ sớm dịch kính đối với xuất huyết dịch kính nặng do bệnh võng mạc tăng sinh so với 15% ở nhóm chứng. Kết quả này còn cao hơn ở những người bệnh đái tháo đường typ 1 có thời gian mắc bệnh dưới 20 năm, sự khác biệt thậm chí còn cao hơn, 35% so với dưới 5%, thậm chí sau 4 năm theo dõi, thị lực là 20/40 hoặc tốt hơn, ở nhóm cắt bỏ dịch kính sớm so với 10% nhóm chứng, cắt bỏ dịch kính sớm đối với các tân tạo mạch hoạt động mạnh dẫn đến tỷ lệ thị lực trên 20/40 sau 4 năm là 44% so với 28% ở nhóm điều trị theo quy ước.

Với những kết quả này từ những năm 80 người ta đã mở rộng chỉ định cắt bỏ dịch kính. Như thế, phẫu thuật dịch kính-võng mạc cần được xem xét trong trường hợp xuất huyết dịch kính nặng mà không có dấu hiệu cải thiện tiên lượng, xuất huyết hoàng điểm dưới hyaloid rộng, tăng sinh xơ-mạch tiến triển, bong do co kéo đe doạ hoàng điểm, hoặc co kéo có kết hợp với rách võng mạc.

Tác dụng phụ như xuất huyết dịch kính tái phát, bong võng mạc và viêm mông mắt có thể xảy ra.

Phòng bệnh

Sàng lọc để phát hiện sớm bệnh võng mạc do đái tháo đường

Ở thời điểm phát hiện bệnh đái tháo đường những tổn thương mạch máu võng mạc nặng có thể đã có mà không có triệu chứng. Kết cục tình trạng thị giác phụ thuộc rất nhiều vào kết quả của điều trị quang đông đúng thời điểm lý tưởng, tức là trước khi chức năng thị giác bị ảnh hưởng. Để phát hiện đúng thời điểm này, khám đáy mắt thường xuyên là rất quan trọng và cần được được thực hiện bắt buộc cho tất cả mọi người mắc bệnh đái tháo đường, thậm chí cả khi chưa mắc bệnh võng mạc. Test sàng lọc tin cậy nhất ở thời điểm hiện nay là chụp võng mạc có giãn đồng tử.

Một số báo cáo từ các nước châu Âu đã chứng minh tỷ lệ thấp tổn thương thị giác và mù ở những vùng mà chương trình sàng lọc phát hiện sớm bệnh võng mạc đái tháo đường đe doạ thị giác, được thực hiện thành công. Đối với những người không có bệnh võng mạc, hầu hết các hướng dẫn sàng lọc khuyến cáo khám đáy mắt cách 1-2 năm một lần; bắt đầu từ tuổi dậy thì với người mắc bệnh đái tháo đường typ 1 và vào lúc chẩn đoán đái tháo đường với người mắc bệnh đái tháo đường typ 2. Gần đây, người ta cũng có đề xuất cho những người bệnh đái tháo đường typ 2, khoảng cách thời gian 3 năm/1 lần sau lần khám đầu tiên. Đối với những người không có bệnh võng mạc, khoảng cách khám phụ thuộc vào tình trạng bệnh lý của từng cá nhân. Mức độ phụ thuộc không chỉ vào mức độ bệnh võng mạc mà còn vào các yếu tố nguy cơ nội khoa khác.

Quản lý chặt chẽ glucose máu, phát hiện, xử trí kịp thời bệnh võng mạc

Các nghiên cứu DCCT và UKPDS đều chứng minh để phòng chống các bệnh lý võng mạc ở người đái tháo đường typ 1 hoặc typ 2 đều phải tiến hành liệu pháp điều trị tích cực (phối hợp đa trị liệu).

Nghiên cứu WESDR (Wisconsin Epidemiologic Study of Diabetic Retinopathy) chứng minh sự liên quan chặt chẽ giữa tỷ lệ HbA1c với sự tiến triển của bệnh lý võng mạc. Để phòng bệnh người ta cũng khuyên nên có chỉ định điều trị laser đông lạnh kịp thời để tránh hậu quả mù loà do đái tháo đường gây ra.

Tóm lại: Để tránh những hậu quả nặng nề về bệnh lý võng mạc đái tháo đường tất cả người bệnh đái tháo đường typ 2 đều phải đi khám mắt theo định kỳ, cần được kiểm tra một cách kỹ lưỡng ở các thày thuốc chuyên khoa. Với người bệnh đái tháo đường typ 2, việc đánh giá này phải làm hệ thống bắt đầu ngay từ khi vừa được phát hiện bệnh đái tháo đường. Vì trong thực tế các rối loạn chuyển hóa glucid, lipid… đã có từ lâu trước khi bệnh được chẩn đoán.

Để kịp thời có thái độ xử trí người ta thường chia ra các mức độ tổn thương khác nhau. Với người bệnh đái tháo đường typ 1 hàng năm đều phải đi khám mắt. Nếu thời gian phát hiện bệnh đã trên 3 năm buộc phải khám chuyên khoa định kỳ bởi các thầy thuốc chuyên khoa có kinh nghiệm.

Xử trí theo mức độ các yếu tố nguy cơ (ở người bệnh đái tháo đường typ 2)

  • Những người bệnh có yếu tố nguy cơ cao:

Mạch máu tân tạo phủ kín >1/3 đĩa thị giác.

Chảy máu thuỷ tinh thể hoặc trước võng mạc, kèm theo bất kỳ mạch tân tạo nào, đặc biệt khi có ở đĩa thị giác.

Phù hoàng điểm.

  • Người bệnh có các triệu chứng báo động:

Nhìn mờ dai dẳng trên một ngày mà không có sự thay đổi glucose máu.

Đột nhiên mất thị lực ở 1 hoặc 2 mắt.

Xuất hiện những điểm đen, nhìn mạng nhện hoặc những chấm sáng khi nhìn.

  • Khi khám có:

Dịch rỉ nhiều xếp thành vòng.

Có bất kỳ đặc tính nào của dấu hiệu tiền tăng sinh hoặc tăng sinh.

Những người bệnh không có triệu chứng hoặc có thai

Kiểm tra định kỳ hàng năm.

Nhiều tác giả cũng đã thấy, nồng độ glucose máu thay đổi có thế ảnh hưởng đến thị lực.

Khám sàng lọc để tìm bệnh lý mắt ở người đái tháo đường

Bởi vì các tổn thương mắt thường không có biểu hiện lâm sàng, khi đã có các dấu hiệu lâm sàng cũng là lúc các biến chứng đã muộn, đã gây ra những hậu quả không bất lợi cho người bệnh. Bởi vậy nhiều người đã đề nghị phải nên khám sàng lọc để có biện pháp giải quyết kịp thời.

Dưới đây xin giới thiệu một số gợi ý đánh giá.

  • Bệnh lý phù đe doạ sức nhìn

Phù ở hố thị giác.

Nhiều dịch rỉ ở hố của đĩa thị giác.

Phù hoàng điểm chiếm tới 2/3 của đĩa thị giác.

Nhiều điểm dịch rỉ trên và dưới hố thị giác.

Nhiều phình mạch và đám chảy máu.

  • Bệnh lý võng mạc tiền tăng sinh

Chảy máu tĩnh mạch và/hoặc có hiện tượng tĩnh mạch bị cuộn lại.

Thành động mạch bị “bào mỏng” và/ hoặc có những đường trắng.

Những bất thường của các mao mạch máu.

Nhiều đám tổn thương “bông gòn”.

Chảy máu nặng ở các tĩnh mạch ngoại vi.

  • Bệnh lý võng mạc tăng sinh

Nhiều mạch máu tân tạo trên đĩa thị giác.

  • Các dấu hiệu bất lợi khác

Chảy máu ở tiền phòng hoặc thuỷ tinh thể.

Tổn thương là những dát có hình thái vòng vèo, xoắn vặn.

Mống mắt đỏ.

Chúng tôi cũng xin giới thiệu một tiêu chuẩn đánh giá khác của các chuyên gia châu Âu giành cho các nhà chuyên khoa mắt.

(1) Cần phải hành động can thiệp ngay lập tức, phải theo dõi liên tục (trong vài ngày hoặc có thể phải tư vấn điều trị qua điện thoại).

  • Bệnh lý võng mạc tăng sinh:

Mạch máu tân tạo xuất hiện, thậm chí ở bất kỳ nơi nào, không nhất thiết phải có ở đĩa thị giác.

Chảy máu tiền phòng.

  • Những bệnh về mắt đang tiến triển nguy hiểm:

Chảy máu ở thuỷ tinh thể.

Mống mắt đỏ.

Xuất hiện các mô xơ.

(2) Cần phải can thiệp sớm (mức độ nhẹ hơn):

  • Bệnh lý võng mạc chưa tăng sinh nặng (thể tiền tăng sinh):

Những bất thường về hệ thống tĩnh mạch như chảy máu, mạch bị xoắn vặn…

Nhiều nốt, chấm chảy máu.

Nhiều tổn thương“ bông gòn”.

  • Các tổn thương phù:

Các tổn thương phù gây giảm thị lực đột ngột.

Chảy máu hoặc dịch rỉ xuất hiện nhiều trong phạm vi của đĩa thị giác.

(3) Theo dõi kiểm tra thường qui:

  • Bệnh lý võng mạc không tăng sinh, không có phù thâm nhiễm.

Tài liệu hướng dẫn này hiện được áp dụng rộng rãi không chỉ ở châu Âu mà còn ở nhiều quốc gia khác vì thuận tiện cho công tác thực hành lâm sàng.

Giáo dục người bệnh

Đây là yếu tố quan trọng nhất, không chỉ là yếu tố phòng mà còn là để chữa bệnh kịp thời. Các nội dung của giáo dục người bệnh gồm:

  • Ngay từ lúc mới được chẩn đoán mắc bệnh đái tháo đường, người bệnh đã được cảnh báo về nguy cơ bệnh lý võng mạc, nhất là bệnh có thể gây mù loà.
  • Giới thiệu mối liên quan chặt chẽ giữa chất lượng kiểm soát glucose máu và bệnh lý võng mạc. Từ đó để người bệnh có kê hoạch quản lý bệnh tật của mình một cách chu đáo, tự giác.
  • Người mắc bệnh đái tháo đường cần biết tăng huyết áp là yếu tố làm nặng thêm bệnh võng mạc, nên việc chẩn đoán và điều trị tăng huyết áp đạt hiệu quả cao là rất quan trọng.
  • Xác định rõ tầm quan trọng khám mắt định kỳ của các nhà chuyên khoa để có lời khuyên khoa học, có thái độ xử trí chính xác.
  • Người mắc bệnh đái tháo đường cũng nên biết các phương pháp điều trị hiện tại, kết quả ưu, nhược điểm của từng phương pháp với bệnh lý võng mạc.
  • Người mắc bệnh đái tháo đường có bệnh võng mạc tăng sinh cần được giáo dục những kiến thức để biết lựa chọn một chế độ sinh hoạt, luyện tập phù hợp với tình trạng bệnh lý của mình. Sự luyện tập không phù hợp có nguy cơ làm tăng áp lực trong mắt, làm bệnh võng mạc tăng sinh nặng hơn lên.

Bệnh viêm phổi vi khuẩn – Nhiễm trùng cơ hội HIV

Viêm phổi vi khuẩn xảy ra cả khi miễn dịch còn tốt (CD4 trên 200). Nó không liên quan chặt chẽ tới suy giảm miễn dịch và tỷ lệ mắc viêm phổi giảm đi không nhiều nếu so với các nhiễm trùng cơ hội khác từ khi có HAART. Nếu tái diễn nhiều lần (hơn 1 lần trong vòng 12 tháng trước), viêm phổi cấp có khẳng định bằng X quang và nuôi cấy được coi là bệnh chỉ điểm AIDS. Tương tự như bệnh nhân không nhiễm HIV, viêm phổi cộng đồng cần phân biệt với viêm phổi bệnh viện. Cần hỏi tiền sử đi lại, đặc biệt đối với viêm phổi cộng đồng.

Các vi khuẩn thường gây viêm phổi cộng đồng ở bệnh nhân HIV nhất là phế cầu và Hemophilus influenza. Mycoplasma cũng cần lưu ý, đặc biệt ở bệnh nhân trẻ tuổi. Klebsiella, Staphylococcus aureus Pseudomonas aeruginosa cũng là các mầm bệnh thường gặp.

Legionella hiếm gặp. Người sử dụng ma túy tĩnh mạch hay mắc viêm phổi cộng đồng hơn so với các nhóm bệnh nhân khác.

Viêm phổi bệnh viện thường do các mầm bệnh tại bệnh viện gây nên (Klebsiella, Staphylococcus, Pseudomonas). Trong những trường hợp đó, điều trị phụ thuộc đặc điểm kháng thuốc tại vùng và kinh nghiệm của bác sỹ (Gant 2000, Vogel 2000).

Dấu hiệu và triệu chứng/Chẩn đoán

Bệnh cảnh điển hình là sốt cao cấp tinh, ho khạc đờm. Bệnh nhân có thể đau khi thở do viêm màng phổi nhưng hiếm khi khó thở thực sự. Nghe phổi có thể phân biệt được với Viêm phổi Pneumocystis. Nếu nghe được gì đó thì phần nhiều không phải là Viêm phổi Pneumocystis! Chụp phim phổi sẽ giúp chẩn đoán. CRP tăng cao, LDH bình thường. Cần cấy máu khi nhiệt độ trên 38.5˚C và trước khi điều trị. Cấy đờm là biện pháp đơn giản có thể giúp xác định căn nguyên trong gần ½ số ca – tuy nhiên việc sử dụng rộng rãi vẫn còn tranh cãi (Cordero 2002).

Điều trị

Đại cương

Điều trị viêm phổi vi khuẩn ở bệnh nhân HIV cũng tương tự như bệnh nhân không nhiễm HIV. Đầu tiên cần bắt đầu bằng điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm, không nên chờ kết quả cấy máu hoặc cấy đờm. Nhiều bệnh nhân HIV mắc viêm phổi vi khuẩn có thể được điều trị ngoại trú. Bệnh nhân có tình trạng miễn dịch kém, sốt cao (trên 39.5˚C), tuân thủ kém, có dấu hiệu suy phủ tạng, rối loạn thần kinh trung ương (lú lẫn) và các dấu hiệu sinh tồn bị đe dọa (nhịp tim nhanh, thở nhanh, hạ huyết áp) và các bệnh nhân cao tuổi (trên 65 tuổi) cần được nhập viện ngay.

Bù đủ dịch là rất quan trọng đối với mọi bệnh nhân. Nếu bệnh nhân vẫn ở khu điều trị thông thường, họ phải uống nhiều nước (hơn 2 lít/ngày). Việc sử dụng các thuốc long đờm hoặc làm loãng đờm như N-acetylcysteine hoặc các thuốc giảm ho hiện vẫn còn tranh cãi. Nếu điều trị đúng, có thể thấy đáp ứng tốt sau 48-72 giờ. Nếu bệnh nhân, đặc biệt là bệnh nhân suy giảm miễn dịch nặng, vẫn sốt liên tục, cần xem lại phác đồ sau 72 giờ. Cần lưu ý là các phác đồ bậc 1 hiện nay không còn tác dụng với Pseudomonas aeruginosa!

Thuốc điều trị

Các thuốc dùng điều trị khá nhiều. Thậm chí penicillin cũng có thể dùng trong một số trường hợp – tùy thuộc đặc điểm kháng thuốc của phế cầu và HI. Bệnh nhân HIV thường bị dị ứng.

Các aminopenicillin có hiệu quả với Hemophilus influenza và nhiều vi khuẩn gram âm. Tuy nhiên, khi kết hợp với acid clavulanic, nó lại có nhiều tác dụng phụ tiêu hóa hơn.

Các cephalosporin đường uống có phổ rộng chống lại nhiều vi khuẩn gram âm, đồng thời có hiệu quả tốt với phế cầu và Hemophilus. Tuy nhiên chúng khá đắt.

Các macrolide có tác dụng tốt với các vi khuẩn không điển hình như Mycoplasma, Chlamydia và Legionella – nhưng tỷ lệ phế cầu kháng macrolide ngày càng tăng (14% ở Đức). Các yếu điểm còn xảy ra ở các chủng Hemophilus.

Đối với quinolones, cần lưu ý rằng ciprofloxacin không hoặc có rất ít tác dụng với nhiều mầm bệnh quan trọng. Do đó nên dùng các quinolone mới.

Nếu bệnh nhân điều trị nội trú, cần điều trị đường tĩnh mạch nếu có thể. Khi đó, cần phối hợp ít nhất 2 kháng sinh.

Sau khi phân lập được vi khuẩn, cần điều trị theo đúng mầm bệnh, đặc biệt đối với vi khuẩn bệnh viện cần chọn theo đặc điểm kháng thuốc tại vùng đó và khuyến cáo của các nhà vi sinh.

Dự phòng

Vacxin Pneumovax™ có hiệu quả bảo vệ tốt. Cần tiêm vacxin cho mọi bệnh nhân HIV có miễn dịch đủ (CD4 trên 200).

Điều trị theo kinh nghiệm viêm phổi vi khuẩn cộng đồng (liều hàng ngày) – giá thành có thể rất khác nhau
Ngoại trú Thời gian 7-10 ngày
Nhẹ Amoxicillin + clavulanic acid 1 viên 875/125 mg ngày 3 lần
Nhẹ Clarithromycin 1 viên 500 mg ngày 2 lần
Nhẹ Roxithromycin 1 viên 300 mg hàng ngày
Nhẹ Cefuroxim 1 viên 500 mg ngày 2 lần
Nhẹ Cefpodoxim 1 viên 200 mg ngày 2 lần
Nhẹ Moxifloxacin 1 viên 400 mg hàng ngày
Nội trú
Nặng Piperacillin   (+ tazobactam)+ macrolide Tazobac® 1 lọ 4.5 g TM ngày 3 lần cộng với 

roxithromycin 1 viên 300 mg hàng ngày hoặc

clarithromycin 1 viên 500 mg ngày 2 lần

Nặng Ceftriaxon+ macrolide Ceftriaxon 1 infusion à 2 g hàng ngày TM cộng với roxithromycin 1 viên 300 mg hàng ngày hoặc clarithromycin 1 viên 500 mg ngày 2 lần
Nặng Cefuroxim+ macrolide Cefuroxim 1 infusion à 1.5 g ngày 3 lần TM cộng vớiroxithromycin 1 viên 300 mg hàng ngày hoặc

clarithromycin 1 viên 500 mg ngày 2 lần

Dự phòng Tiêm vacxin (pneumococcal polysaccharide) Pneumovax 23® xi lanh đóng sẵn, tiêm bắp

Bệnh viêm cầu thận ở trẻ em nên ăn gì tốt

Chứng nầy thường gặp ở trẻ em từ 3 tuổi trở lên. Biểu hiện bên ngoài là sắc mặt nhợt nhạt, mí mắt như bị phù thủng, ăn uống không ngon, sức khỏe kém, phát dục trễ, dễ bị nhiễm các bệnh ở đường hô hấp.

Món 1: CANH CÁ DIẾC VỚI BÍ ĐAO

Nguyênliệu:

  • Cá diếc 250gr
  • bí đao 500gr.

Cách chế biến:

Cá diếc đem về rửa sạch, móc mang đánh vảy bỏ ruột, rửa lại thật sạch vùng bụng. Bí đao gọt vỏ bỏ ruột rửa sạch xắt miếng, nấu canh cá. Chú ý: khi thịt cá chín bí mềm rục là được, nêm nếm thêm gia vị cho vừa ăn.

Cách ăn: Dùng để ăn cơm, nên uống canh và ăn thịt cá.

Món 2: CANH CÁ CHÉP ĐẬU ĐỎ, BÍ ĐAO

Nguyên liệu:

  • Cá chép 250gr
  • bí đao 50gr
  • đậu đỏ 30gr.

    Quả bí đao
    Quả bí đao

Cách chế biến:

  • Cá chép tươi đem về đánh vảy, móc mang mổ bỏ ruột rửa thật sạch, bí đao gọt vỏ rửa sạch xắt miếng, đậu đỏ ngâm nước nóng độ nửa tiếng.
  • Ba loại nguyên liệu trên bỏ vào nồi đổ nước vừa đủ nấu canh nêm nếm vừa ăn.

Cách ăn: Uống nước canh, ăn cá và bí đao.

Công hiệu: Trị phù thũng, lợi tiểu.

Món 3: SƠN DƯỢC XÀO VỚI TỬ HÀ XA

Nguyên liệu:

Sơn dược tươi, Tử hà xa mỗi loại 50gr.

Vị thuốc Hoài sơn
Vị thuốc Hoài sơn

Cách chế biến:

Sơn dược, tử hà xa rửa sạch xắt miếng đem xào cho thêm giấm, nước tương gia vị, nêm nếm vừa ăn.

Cách ăn: Là món xào ăn với cơm.

Công hiệu: Bổ thận, tiêu thũng.

Món 4: CHÈ TANG CÚC ĐẬU XANH

Nguyên liệu:

  • Tang bạch bì 30gr
  • Bạch cúc hoa 9gr
  • đậu xanh 60gr.

Cách chế biến:

Đậu xanh rửa sạch nấu chung với Tang bạch bì và hoa cúc trắng (loại mua ở tiệm thuốc Bắc) đến khi đậu xanh chín nhừ ta cho đường cát vào.

Cách ăn:

Dùng như chè uống nước ăn cái. Không cho bất kỳ chất hóa học nào làm mềm đậu như muối diêm…

Công hiệu: Tiêu thũng, bổ phổi, lợi tiểu.

Danh mục thuốc tai mũi họng

DANH MỤC THUỐC TAI MŨI HỌNG

HOẠT CHẤT HÀM LƯỢNG ĐƠN VỊ BIỆT DƯỢC
KHÁNG SINH
1. β lactam  

 

500mg

 

 

Viên

 

 

– Amoxicillin, Ospamox

* Amoxicillin
– Amoxycillin + 281,25 Gói – Auclanityl
clavulanic
562,5mg Viên – Augtipha
625mg Viên – Curam, Augmentin, Ofmantine
1000mg Viên – Auclanityl, Augmentin, Medoclav
1200mg Lọ – Curam
* Cephalexin 500mg Viên – Cephalexin
– Cephadroxil 500mg Viên – Biodroxil, Droxistad
– Cefaclor 500mg Viên – Cefaclor
250mg – Cefaclor, Ceclor
– Cefuroxim 125mg Viên, gói – Zinnat
250mg Viên – Zaniat, Zinnat, Tekeden, Oxipa, Ninzats
500mg Viên – Zinnat, Ninzats
750mg Lọ – Zinacef
1500mg – Biloxim
– Ceftazidim 1000mg Lọ – Ceftazidim
– Cefixim 50mg Gói – Cefixim, Mecefix
100mg Viên – Cefixim
200mg Viên – Cefixim
250mg Viên – Mecefix
– Cefotaxim 1000mg Lọ – Claforan
– Ceftizoxim 1000mg Lọ – Clorme
– Cefpodoxime 100mg Viên – Cefpodoxime, Cadicefpo, Podoxi
200mg Lọ – Cadicefpo, Napotel, Oxifide, Tizoxim
– Cefoperazon + 1000g Lọ – Zontum,
sulbactam*
– Ceftriaxon* 1000g Lọ – Ceftrione, Megion,

 

 

2. Macrolide

* Clarithromycin

–  Spiramycin

–  Azithromycin

 

 

250mg, 500mg 1,5 – 3M

250mg 500mg

 

 

Viên Viên Viên Viên

 

 

–  Klacid

–  Rovamycin

–  Azoget,

–  Zithromax

3. Lincosamid

–  Lincomycin

–  Clindamycin

 

 

500mg 300mg

 

 

Viên Viên

 

 

–  Lincomycin

–  Dalacin

4. Quinolon

–  Ciprofloxacin

–  Ofloxacin

–  Levofloxacin

–  Gatifloxacin

 

 

500mg 200mg 500mg 400mg

 

 

Viên Viên Viên Viên

 

 

–  Ciprobay, Serviflox,

–  Oflocet

–  Levaquin,

–  Tequin

5. Nitroimidazol

– Metronidazol

 

 

250mg 500mg

 

 

Viên Viên, chai

 

 

–  Flagyl

–  Metronidazol, Metrozyl

KHÁNG VIÊM – GIẢM ĐAU
* Steroid

–  Prednisolon

–  Methyl prednisolon

 

 

–  Dexamethason

 

 

5mg 4mg, 16mg

 

 

40mg 4mg

 

 

Viên Viên

 

 

Lọ Ống

 

 

–  Prednisolon

–  Medrol, Agimetpred

 

 

–  Solu medrol

–  Dexamethason

* Non Steroid  

 

50mg

 

 

Viên

 

 

– Diclofenac, Voltaren

– Diclofenac
– Meloxicam 7,5mg Viên – Mobic,
– Loxoprofen 60mg Viên – Japrolox
– Etodolac 200mg Viên – Etodoc,
– Nabumeton 500mg Viên – Coxtone, Novidol
– Nefopam 20mg Ống – Acupan

 

 

– Paracetamol 500mg 650mg 1000mg Viên

 

 

chai

–  Paracetamol, Efferalgan

–  Acepron, Panactol

–  Perfalgan, Paracetamol

* Kháng viêm dạng men

–  Alpha chymotrypsin

–  Bromelain+ Trypsine

–  Lysozym

–  Serratiopeptidase

 

 

 

4,2mg 40mg 90mg

 

 

 

Viên Viên

Viên Viên

 

 

 

–  Alphachymo, Alpha choay

 

 

–  Kotase

 

 

–  Noflux

–  Danzen

KHÁNG HISTAMIN
– Chlopheramin 4mg Viên – Allermin
– Levocitirizin 5mg Viên – Grarizine, Levoagi
– Loratadin 10mg Viên – Loreta, Oziatidin
– Fexofenadin 60mg, 120mg Viên – Telfast, Malag, Fefasdin, Telgest
– Desloratadin 5mg Viên – Des – OD, Loranic, Zolastyn, Delevon
– Ebastin 10mg Viên
THUỐC LOÃNG NHẦY
–  Acetylcystein

–  Bromhexin

–  Ambroxol

200mg 8mg 30mg Viên, gói Viên Viên –  Esomez, Acetylcystein, Mucoserin

–  Bromhexin

–  Muxol, Ambron

THUỐC ĐIỀU TRỊ CHÓNG MẶT – Ù TAI
– Flunarizin 5mg Viên – Sibelium, Vasotense
– Betahistin 16mg Viên – Betaserc
– Cinnarizin 25mg Viên – Stugeron
– Piracetam + Viên – Phezam
Cinnarizin
– Piracetam 12g Chai – Nootropyl
400mg, 800mg Viên – Neurofit, Nootropyl
– Ginkgo biloba 40mg Viên – Tanakan
– Acetyl  DL leucin 500mg Viên, ống – Tanganil

 

 

THUỐC NHỎ (XỊT) TAI, MŨI, HỌNG
– Naphtazolin  

 

0,05%, 0,1%

Chai – Rhinex, Euvinex
– Xylometazoline Chai – Otrivin, Otilin
– Fluticason Chai – Flixonase, Flunex, Avamys
– Acid boric Chai – Cồn boric
– Ciprofloxacin 0,3% Chai – Ciplox, Ciloxan
– Tobramycin Chai – Metobra, Clesspra
– Tobramycin+ Chai – Clesspra DX, Letodex
Dexamethason
– Neomycin + Chai – Polydexa, Neodex
Dexamethason
– Nước biển sâu Chai – Xisat, Sterima
– Tyrothricin Chai – Dorithricin
– Bacitrcin Chai – Lysopain, Gepacin
– Nacl0,9% Chai – Efticol, Xisat

 

Rốn của bạn có thể gặp bệnh liên quan gì?

U tuyến bã

Đây là một cục dưới da phát triển chậm và di chuyển khi bạn chạm vào. Bạn có thể bị một cái nếu có gì đó làm tắc nghẽn một tuyến hoặc kích thích khu vực xung quanh một sợi lông (nang lông). Một vết cắt hoặc trầy xước cũng có thể gây ra nó. Chúng thường không đau, nhưng bạn có thể nhận thấy một mùi khó chịu nếu u thoát nước. Bạn thường có thể bỏ qua một u nhỏ. Nhưng nếu nó lớn, sưng hoặc đau, bác sĩ của bạn có thể thoát nước, loại bỏ hoặc tiêm thuốc để giảm sưng.

Thoát vị rốn

Trẻ sơ sinh có một lỗ nhỏ trong cơ bụng nơi mà dây rốn kết nối. Ống tiêu hóa (ruột) có thể chui qua để chạm vào rốn trước khi lỗ này đóng lại. Hầu hết các trường hợp sẽ cải thiện khi trẻ được 5 tuổi. Bất kỳ điều gì làm tăng áp lực trong bụng, như nâng tạ, ho mạnh, hoặc sinh con, có thể gây ra ở người lớn. Bác sĩ của bạn có thể cố gắng xoa bóp nó trở lại vị trí, nhưng nếu nó quá chặt, bạn có thể cần phẫu thuật.

Dây niệu đạo

Trước khi sinh, bàng quang của bạn kết nối với rốn thông qua kênh này trong ruột của bạn. Mặc dù nó thường biến mất khi bạn sinh ra, đôi khi nó vẫn tồn tại. Bạn có thể không nhận thấy điều đó, nhưng nếu nó hoàn toàn mở, rốn của bạn có thể bị ướt khi nước tiểu chảy lên và thậm chí rò rỉ ra ngoài. Bác sĩ của bạn sẽ thực hiện phẫu thuật để sửa chữa vấn đề.

U niệu đạo

Dây niệu đạo có thể đóng lại đủ để chặn chất lỏng nhưng vẫn để lại không gian cho một khối mô, hoặc u, phát triển. Nó có thể nhỏ đến mức bạn không biết nó tồn tại. Nhưng nếu nó bị nhiễm trùng, bạn có thể cảm thấy đau rốn, sốt và nước tiểu có máu. Bác sĩ của bạn có thể cho bạn kháng sinh, thoát nước hoặc loại bỏ u, và có thể sửa chữa khu vực này bằng phẫu thuật.

U hạt rốn

Khối mô ẩm, màu đỏ này hình thành trên rốn của trẻ sơ sinh sau khi dây rốn khô và rụng. Đây không phải là một vấn đề nghiêm trọng và thường không đau. Nhưng nó có thể chảy dịch làm kích thích da. Bạn điều trị nó bằng thuốc mỡ bạc nitrat để làm giảm kích thước. Trong một số trường hợp, bác sĩ của bạn có thể buộc phần dưới của khối u bằng chỉ để cắt nguồn cung cấp máu, khiến nó co lại và rụng đi.

Nhiễm khuẩn

Vi khuẩn có thể nhiễm vào một vết thương hoặc một u trên rốn của bạn hoặc ở phía sau nó. Bạn có thể có đau, sưng, và mủ hoặc chất lỏng rò rỉ từ rốn của bạn. Bác sĩ có thể cho bạn kháng sinh hoặc thoát nước cho bất kỳ chất lỏng nào tích tụ. Nếu một vấn đề sức khỏe khác gây ra nó, bạn có thể cần phẫu thuật để ngăn điều đó xảy ra lần nữa. Giữ khu vực này sạch sẽ để giúp ngăn ngừa nhiễm trùng, đặc biệt nếu bạn có một vết cắt hoặc trầy xước.

Nấm Candida

Nấm candida phát triển mạnh ở những nơi tối, ấm, ẩm như rốn của bạn. Nó gây ra một phát ban da khô, ngứa và sưng. Bạn có nhiều khả năng bị nhiễm nếu bạn đang mang thai, béo phì, hoặc dùng kháng sinh. Bạn có thể giúp ngăn ngừa nó nếu mặc quần áo rộng rãi và giữ cho rốn của bạn sạch sẽ, đặc biệt là trong thời tiết nóng ẩm. Bạn điều trị nó bằng các loại kem, bột, hoặc lotion chống nấm thoa trực tiếp lên khu vực này.

U rốn

Trẻ em bị dị tật bẩm sinh này có thể chỉ còn lại một vết sẹo, hoặc không có gì cả, cho rốn của mình. Khi chúng được sinh ra, thành bụng chưa hoàn thiện, cho phép một số phần ruột, gan, và các cơ quan khác thoát ra vào gốc của dây rốn. Có thể mất một thời gian để đưa mọi thứ trở lại bên trong, ngay cả sau phẫu thuật, đây là phương pháp điều trị thông thường.

Mang thai

Nếu bạn đang mang thai, rốn của bạn có thể chuyển từ “vào” thành “ra” khi áp lực tăng lên trong bụng bạn. Trong một số trường hợp, nó có thể nhô ra đủ để được coi là một thoát vị rốn. Bác sĩ của bạn nên nhận thấy điều này trong một trong những lần khám thai định kỳ và có thể cố gắng xoa bóp nó trở lại vị trí. Trong những trường hợp hiếm hoi, bạn có thể cần phẫu thuật.

Xỏ khuyên rốn

Bạn thích vẻ ngoài này nhưng không muốn bị nhiễm trùng hoặc sẹo. Vì vậy, chỉ đến những người chuyên nghiệp có giấy phép và đảm bảo rằng họ rửa tay, đeo găng tay, và sử dụng thiết bị được tiệt trùng tốt. Chọn trang sức làm từ kim loại ít có khả năng gây dị ứng: thép phẫu thuật, titanium, vàng 14 karat. Để nó ở lại trong vòng 6 tuần hoặc hơn. Làm sạch bằng xà phòng và nước, và cố gắng không chạm vào nó. Gọi bác sĩ của bạn nếu nó vẫn sưng, đỏ, hoặc đau sau vài ngày.

Phẫu thuật tạo hình rốn

Bạn có một rốn nhô ra và muốn có một cái rốn lõm, hoặc bạn không thích hình dạng của rốn của mình? Có phẫu thuật thẩm mỹ cho điều đó. Bạn có thể thực hiện nó cùng với phẫu thuật tạo hình bụng (abdominoplasty) hoặc riêng biệt, hoặc để sửa chữa tổn thương do thoát vị. Bác sĩ của bạn sẽ di chuyển và loại bỏ mô xung quanh rốn của bạn để tạo ra hình dạng bạn thích, đôi khi tạo ra một lỗ mới trên da trong quá trình này.

Vấn đề về da

Hóa chất mạnh trong một số loại xà phòng có thể gây kích ứng da ở và xung quanh rốn của bạn. Tìm các loại chất tẩy rửa nhẹ nhàng không có cồn, vì có thể để lại cho da bạn khô và ngứa. Và đừng rửa quá nhiều, vì điều đó có thể làm phiền da bạn. Nếu bạn cũng có đau hoặc sưng, hãy nói với bác sĩ của bạn.

Nốt Mary Joseph

Khối mô này (khối u) nhô ra vào rốn của bạn do ung thư đang lây lan trong ruột của bạn. Màu sắc có thể dao động từ trắng đến nâu đỏ. Nó có thể cứng hoặc rò rỉ chất lỏng. Các dấu hiệu khác của ung thư có thể là bụng sưng, buồn nôn, giảm cân, và chảy máu khi bạn đi vệ sinh. Phẫu thuật có thể loại bỏ nốt này nếu nó đau, nhưng điều này không làm chậm bệnh. Nó được đặt theo tên y tá đã nhận thấy mối liên hệ với ung thư.

Phương pháp châm đầu (đầu châm) trong châm cứu chữa bệnh

Phương pháp điều trị châm ở đầu còn gọi là châm da đầu. Đây là một phương pháp mới kết hợp giữa lý luận của từng tác dụng, từng vùng não của y học hiện đại với phương pháp châm cứu của y học cổ truyền. Châm cứu vùng da đầu tương ứng có thể chữa một số bệnh.

Thiên mạch yếu tinh vi luận sách Tố Vấn viết : “Đầu giả tình minh chi phủ”. Trương Giới Tân đời Đường giải : “Tinh khí của ngũ tạng, lục phủ đều đi lên đầu”, nói rõ mối quan hệ mật thiết giữa đầu và toàn thân. Người xưa nói vùng đầu là thông kinh hình hài toàn thân. Lý luận về tác dụng từng vùng của tầng đại não, y học hiện đại đã phân thành từng vùng tỷ mỉ trên vỏ đại não.

PHÂN VÙNG CHÂM Ở ĐẦU

Phân khu vực kích thích châm cứu ở đầu phần lớn là phải chia bằng thước. Khi thuần thục mới có thê dựa vào kinh nghiệm. Tại đây đầu tiên ta xác định hai tiêu chuẩn.

Giữa trước sau

Nhĩ châm : Khu kích thích cụ thể xem hình bên, xác định khu kích thích châm ở đầu và có tác dụng điều trị xem bảng dưới đây.

Phân vùng châm ở đầu
Phân vùng châm ở đầu

 

VÀI NÉT VỀ ĐẦU CHÂM

Do các nhà nghiên cứu y học hiện đại tìm ra.

Dựa trên sự quan hệ giữa đầu và các cơ quan tạng phủ được mô tả trong Thiên mạch yếu tinh vi luận (Tố Vấn) và sự liên hệ giữa phản ứng da và nội tạng, nội tạng – da của y học hiện đại.

Được áp dụng có hiệu quả trong việc trị liệu các bệnh liên hệ đến thần kinh não như : di chứng viêm não, tai biến mạch máu não…

Cách châm : tuỳ theo chứng trạng biểu hiện, chọn vùng có liên hệ bệnh lý để châm.

Thường châm nghiêng, luồn kim dưới da (scalfnecdling) khoảng 15-45 độ.

Cũng có thể xoa bóp, vuốt, day hoặc lăn bằng dụng cụ trên các vùng được chọn.

BẢNG XÁC ĐỊNH KHU CHÂM Ở ĐẦU VÀ TÁC DỤNG

Tên VỊ trí Tác dụng điều trị
1 2 3 4 5
‘ Khu vận động Chi dưói và não xám Lấy sau điểm giữa đường trước sau 0,5cm(l/4 đồng thân thốn)làm điểm trên

điểm giao nhau của tuyến mi chẩm và chân tóc làm điểm dưới. Tuyến này là

khu chính (đường nối hai điểm trên dưới)

1/5 khu trên mày Chi dưới co ngắn
Vùng chi trên 2/5

giữa khu

Chi trên co quắp
Vùng bộ phận mặt 2/5 dưới khu này Trung khu mặt co giật, mất tiếng, chảy nước dãi, phát âm khó
Khu cảm giác Chi dưới, đầu não xám Khu tự vận động hướng về sau l,5cm

(bằng 3/4 đồng thân thốn)

1/5 trên khu này Đau đùi và lưng tê, cảm giác dị thường, đau sau đầu cổ, hoa mắt
Vùng cảm giác Khu chi trên 1/5 giữa khu này 1

Chi trên tê, đau đớn, cảm giác dị thường

Khu mặt 2/5 dưới khu này Đau bên đầu, đau thần kinh tam thoa, đau răng, viêm khớp, cd
Vận cảm ở chân Từ điểm giữa đường trước sau mỏ ra hai bên lcm, ngang bằng với các tuyến khác, sáu điểm trên đây của khu tự giác lcm châm về phía trước 3cm Đau chi dưới, tê, đau đớn, trẹo lưng cấp, đái đêm, sa dạ con
Không chê mỏ mắt và churee Từ khu vận động kéo dài ra phía trước chừng l,5em Bệnh thấp khớp ở trẻ em gây múa giật, tê bì V.V..
Vùng co thắt huyết quản Từ khu khống chế hướng ra phía trước 1,5cm Phù thủng, cao huyết áp
Vùng ù tai Trên đỉnh tai l,5cm, hướng ra phía trước 2cm và lùi về phía sau 2cm làm thành tuyến thẳng dài 4cm Ù tai, váng đầu, thính lực giảm, tai trong ù
1,2 3,4 5
Ngôn ngữ 2 Phía dưới khớp xương đỉnh 2cm hướng vê phía sau làm thành tuyến chính giữa dài 3cm Mất tiếng
Ngôn ngữ 3 Giữa khu ù tai, dịch vê sau 4cm Chứng cảm giác mất tiếng
Khu vận dụng Khỏi điểm từ đầu khớp xương đỉnh châm kim theo 3 hướng : xuống dưới, ra trưốc, ra sau. Làm thành góc 40“. Mỗi kim châm 3 cm Bệnh mất tác dụng
Khu nhìn Ngang bằng ngoài châm hai bên mở ra 1cm hướng lên trên cùng với tuyến chính giữa làm thành tuyến thẳng dài 4cm Chứng mất ngủ
Vùng thăng bằng Từ chỗ ngang ngoài chẩm mở ra hai bên 3cm, hưổng xuông dưổi ngang với tuyến chính giữa làm thành tuyến thẳng dài 4cm Bệnh ở tiểu não gây mất cân bằng
Khu dạ dày Từ điểm trên đồng tử sát chân tóc hướng ra sau và cách đường chính giữa chừng 2cm Có tác dụng nhất định khi bụng dưới đầy
Khu can đởm (gan, mật) Từ khu dạ dày hướng ra phía trước làm thành tuyến thẳng dài 2cm Có tác dụng nhất định với điều trị đau bụng trên bên phải sườn phải, viêm gan mạn
Vùng khoang ngực Giữa tuyến chính giữa trước sau và khu dạ dày lấy chân tóc làm điểm giữa hướng ra trước và sau làm thành tuyến thẳng dài 4cm Khó thở, tức ngực, tim đập nhanh
Vùng sinh dục Cạnh ngoài vùng dạ dày lấy cự ly khu dạ dày và khu khoang ngực hướng về sau làm thành tuyến 1 thẳng dài 2cm Chảy máu dạ con có thể chữa sa dạ con cùng với khu vận động ở chân

NGUYÊN TẮC CHỌN HUYỆT

Bệnh ở một bên phần lớn chọn khu kích thích cả hai bên, bệnh cả hai nơi thì lấy cả hai nơi của khu kích thích.

Phần lớn châm những bệnh khác nhau trên đầu thì lấy những khu kích thích đại biểu, cũng có thể căn cứ vào chứng mà lấy thêm những khu kích thích để phối hợp điều trị.

Ví dụ như ngứa chân ngoài khu vận động chi dưới ra còn lấy phối hợp khu cảm giác vận động chân, tê tay và đau khớp vai có thể châm khu vận động chi trên phối hợp với khu cảm giác chi trên.

PHƯƠNG PHÁP THAO TÁC

  1. Vạch tóc, hở da đầu khu kích thích, sát trùng cồn 75°.
  2. Chọn kim số 26-28 dài 2,5-3cm, châm từ từ vào dưới da theo hướng đã định và đạt độ sâu ở mức cần có. Phải cố định không được nâng lên hạ xuống.
  3. Phương pháp niên châm : Cố định ngón tay cái đốt thứ nhất và thứ hai của ngón trỏ gấp khúc để giữ chặt cán kim, do khớp ngón cái không ngừng co duỗi khiến cho kim chuyển động. Mỗi phút yêu cầu chuyển động từ 200 lần trở lên, độ chuyển phải lớn. Sau khi xuất hiện cảm giác châm, lại tiếp tục chuyển 3-4 phút, lưu kim 5-10 phút.
  4. Khi bắt đầu châm dùng cán kim ấn thành lỗ 1-2 phút để đề phòng chảy máu.
  5. Cảm giác của đầu châm

Thường xuất hiện cảm giác nóng, tê. Thời kỳ giữa là thấy nóng nhất. Bộ phận vốn có cảm giác dị thường như tê, sợ, đau… trong quá trình châm những cảm giác này nhẹ đi hoặc mất hẳn. Những cảm giác trên thường xuất hiện ở một phía, có khi là cả hai bên hoặc toàn thân. Trường hợp đặc biệt lại xuất hiện trên khớp hoặc ở cơ nào đó. Có khi còn xuất hiện hiện tượng cảm giác lan dọc đường kinh. Phần lớn người bệnh có phản ứng khi châm thi có hiệu quả tương đối tốt, nhưng cùng có những người bệnh tuy không có cảm giác khi châm mà cũng mang lại hiệu quả điều trị nhất định.

CHÚ Ý

Phải chẩn đoán vị trí chính xác.

Phải nắm vững lượng kích thích thích hợp, phần lớn kích thích mạnh, phản ứng mạnh, hiệu quả cao.

Phải sát trùng nghiêm túc, phòng trừ nhiễm trùng.

Khi châm chọn tư thế ngồi dựa hoặc nằm để đề phòng hiện tượng vựng châm.

KẾT LUẬN

Đầu châm là một phương pháp kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền, nhưng dựa vào lý luận thần kinh của y học hiện đại là chủ yếu. Qua kết quả điều trị thăm dò trong y học dân tộc, Trường Đại học Y và Bệnh viện BI7 Quân khu V đối với di chứng của các bệnh mạch máu não, nếu bệnh nhân đến ngay từ đầu đạt kết quả từ 80-90%. Chúng tôi hy vọng phương pháp này được vận dụng trong một số bệnh như đã nêu ở trên.

Hòe hoa

Hòe hoa
Hòe hoa

Hòe hoa ( 槐花 )

Tên và nguồn gốc

+ Tên thuốc: Hòe hoa (Xuất xứ: Nhật Hoa tử bản thảo).

+ Tên khác: Hòe nhị (槐蕊).

+ Tên Trung văn: 槐花 HUAIHUA+ Tên Anh văn: Flower of Japanese Pagodatree, Pagodatree Flower Bud

+ Tên La tinh: Sophora japonica L.

+ Nguồn gốc: Là bông hoa hoặc búp hoa của Hòe thực vật họ Đậu (Pea family)

Hình thái thực vật

Hòe (槐), còn tên Đậu hòe (豆槐), Bạch hòe (白槐), Tế diệp hòe (细叶槐), Kim diệp thụ (金药树), Hộ phòng thụ (护房树).

Cây cao to rụng lá, cao đến 25m, vỏ cây sắc tro hoặc sắc tro đậm, nứt dọc xù xì. Vỏ trong sắc vàng tươi, có mùi hôi; cành sắc nâu, lúc nhỏ sắc xanh, có lông, lỗ vỏ rõ rệt. Lá phức mọc cách hình lông số lẻ, dài 25 cm, đáy cuống lá phình to; lá nhỏ 7 ~ 15, hình mũi giáo dạng trứng đều hình bầu dục dạng trứng, dài 2,5 ~ 5 cm, rộng 1,5 ~ 2,6 cm, trước dạng kim, phần đáy hình tròn hoặc hình nêm rộng, mép đủ, mặt trên sắc xanh, hơi sáng, mặt dưới mọc nép xuống lông ngắn sắc trắng, cuống lá nhỏ dài 2, 5 cm; lá kèm hình lưỡi liềm, mau rụng.

Hoa tự hình bầu dục mọc ở đỉnh, hoa sắc trắng sữa, dài 1,5 cm; đài hoa hình chuông, tách cạn, 5 thùy; tràng hoa hình bướm, hình đồng tâm cánh cờ, có ngọn ngắn, mạch hơi tím; nhị đực 10, phân ly mọc không đều; bầu nhụy hình ống, có lông dài nhỏ, ống nhị cái hoa cong. Quả dài 2,5 ~ 5 cm, có đốt, hình chuỗi châu, không lông, sắc xanh, chất thịt, không nứt, giửa hạt co rất nhỏ, hạt 1 ~ 6 hạt, sắc nâu đậm, hình trái cật.Thời kỳ ra hoa tháng 7 ~ 8. Thời kỳ kết quả tháng 10 ~ 11. Mọc ở sườn núi, đồng bằng hoặc trồng ở sân vườn.

Rễ của bổn thực vật (Hòe căn 槐根), cành non (Hòe chi 槐枝), phần vỏ mềm dai của vỏ cây và vỏ rễ (Hòe bạch bì 槐白皮), lá (Hòe diệp 槐叶), quả (Hòe giác 槐角), nhựa cây (Hòe giao 槐胶) cũng cung ứng dùng làm thuốc.

Thu hoạch

Mùa hè, lúc hoa mới nở thu hái bông hoa, thương phẩm gọi là Hòe hoa; Lúc hoa chưa nở thu hái búp hoa, thương phẩm gọi là Hòe mễ. Nhặt bỏ tạp chất, phơi khô lúc đó.

Phân bố

Trung Quốc phần lớn các vùng đều có phân bố.

Dược liệu

Dược liệu Hòe hoa FLOS SOPHORAE

– Hòe hoa: Bông khô ráo, cánh hoa phần nhiều rơi rụng, hoa hòan chỉnh có hình chim bay, đường kính 1,5 cm, cánh hoa 5 cái, sắc vàng hoặc nâu nhạt, nhăn teo, cuốn cong. Ống đài hoa phần đáy sắc xanh vàng, trước đầu mút tách cạn làm 5. Nhị đực sắc vàng nhạt, hình râu, có khi cong. Bầu nhụy phình to. Chất nhẹ, mùi yếu, vị hơi đắng. Dùng thứ trắng vàng, đều đủ, không tạp chất cuống cành là tốt.

Dược liệu Hòe mễ FLOS SOPHORAE

– Hòe mễ còn tên: Hòe hoa mễ (槐花米) (Y phương dị giản)

Búp hoa khô ráo, có hình trứng hoặc hình bầu dục, dài 2,5 ~ 5 mm, rộng 1,5 ~ 2 mm. Bên ngòai sắc nâu vàng hoặc sắc xanh vàng, hơi teo nhăn, phần dưới là đài hoa hình chuông, trước đầu mút có 5 răng nứt không rõ lắm, có khi có cuống ngắn, phần trên là tràng hoa chưa nở, kích cỡ không đều, mặt ngòai đài hoa và tràng hoa đều mọc thưa lông mềm ngắn sắc trắng. Chất xốp giòn. Mùi yếu vị hơi đắng. Dùng thứ búp hoa chắc nẩy, đài hoa sắc xanh mà dày, không cuống cành là tốt.

Bào chế

Hòe hoa thán: Lấy Hòe hoa sạch bỏ vào trong nồi, sao đến cháy sém đen, tồn tính, phun qua nước sạch, lấy ra phơi khô.

 Tính vị

– Trung dược đại từ điển: Đắng, mát.- Trung dược học: Đắng, hơi lạnh.

– Nhật Hoa tử bản thảo: Vị đắng, bình, không độc.

– Điền Nam bản thảo: Vị đắng chát, tính hàn.

– Cương mục: Vị đắng, khí mát.

– Bản thảo cầu nguyên: Đắng mặn, lạnh.

Qui kinh

– Trung dược đại từ điển: Vào kinh Can, Đại trường.- Trung dược học: Vào kinh Can, Đại trường.

– Bản thảo hối ngôn: Vào kinh Thủ dương minh, Túc quyết âm.

– Dược phẩm hóa nghĩa: Vào 2 kinh Phế, Đại trường.

– Bản thảo kinh giải: Vào kinh Thủ thái âm Phế, Thủ thiếu âm Tâm.

Công dụng và chủ trị

Thanh nhiệt, lương huyết, cầm máu.

Trị trường phong đại tiện ra máu, trĩ huyết, tiểu ra máu, huyết lâm, băng lậu, chảy máu cam, xích bạch lỵ hạ, phong nhiệt mắt đỏ, ung nhọt lở độc, và dùng phòng ngừa trúng phong.

– Nhật Hoa tử bản thảo: Trị 5 thứ trĩ, tâm đau, mắt đỏ, sát trùng trong bụng và nhiệt, trị phong ở da dẻ, và trường phong tiêu ra máu, xích bạch lỵ.

– Y học khải nguyên: Mát đại trường nhiệt.

– Cương mục: Sao thơm nhai nhấm nhiều lần, trị mất tiếng và hầu tý. Còn trị thổ huyết, chảy máu cam, băng trung lậu hạ.

– Bản thảo chính: Mát đại trường, giết cam trùng. Trị ung nhọt lở độc, âm sang thấp ngứa, trĩ lậu, giải dương mai ác sang, hạ cam phục độc.

– Y lâm tỏan yếu: Tiết Phế nghịch, tả Tâm hỏa, thanh Can hỏa, kiên Thận thủy.

– Bản thảo cầu chân: Trị đại tiểu tiện ra máu, chảy máu lưỡi.

– Bản thảo cầu nguyên: Là yếu dược mát máu, trị vị quản chợt đau, giết giun đũa.

– Đông bắc dược thực chí: Điều trị viêm võng mạc bệnh tiểu đường.

– Dùng thuốc phân biệt –

Địa du, Hòe hoa đều có thể lương huyết cầm máu, dùng trị các chứnng xuất huyết do huyết nhiệt vọng hành, do tính của nó chạy xuống, cho nên dùng trị hạ bộ xuất huyết là thích hợp. Tuy nhiên Địa du trong lương huyết kiêm năng thu sáp, phàm huyết nhiệt xuất huyết ở hạ bộ, như tiêu ra máu, trĩ huyết, băng lậu, huyết lỵ v.v… đều thích hợp; Hòe hoa không có tính thu sáp, công cầm máu của nó ở đại trường, cho nên dùng trị tiêu ra máu, trĩ máu là tốt.

 Cách dùng và liều dùng

Sắc uống 10 ~ 15g. Dùng ngòai lượng thích hợp. Cầm máu phần nhiều dùng sao than, thanh nhiệt tả hỏa nên dùng sống.

Kiêng kỵ

– Trung dược học: Người tỳ vị hư hàn và âm hư phát sốt mà không thực hỏa dùng thận trọng.

Nghiên cứu hiện đại

  1. Thành phần hóa học:

Bổn phẩm hàm chứa Rytub, Quercetin, Tannin v.v…(Trung dược học).

  1. Tác dụng dược lý: Thuốc ngâm nứơc Hòe hoa có thể rút ngắn rõ rệt thời gian xuất huyết và đông huyết, sau khi chế thành than tác dụng xúc tiến đông máu mạnh hơn; Dịch sắc của nó có tác dụng giảm bớt lượng ô – xy hao hụt ở cơ tim, bảo hộ công năng tim (Trung dược học).
  2. Nghiên cứu lâm sàng:

Riêng có báo cáo, dùng bổn phẩm làm chủ, còn có thể dùng trị lao lim pha cổ, chứng mỡ máu cao và bệnh xuất huyết mao mạch v.v…

Bài thuốc cổ kim tham khảo

+ Phương thuốc 1:

Trị đại trường hạ huyết: Hòe hoa, Kinh giới tuệ lượng bằng nhau. Nghiền nhỏ, rượu uống thìa 1 chỉ.

(Kinh nghiệm phương)

+ Phương thuốc 2:

Trị tạng độc, bệnh rượu, đại tiện ra máu: Hòe hoa (nửa lượng sao, nửa lượng sống), Sơn chi tử 1 lượng (bỏ vỏ, sao). Thuốc trên nghiền nhỏ. Mỗi lần uống 2 chỉ, nước mới múc điều uống. Uống trước bửa ăn.

(Kinh nghiệm lương phương – Hòe hoa tán)

+ Phương thuốc 3:

Trị các chứng trĩ xuất huyết: Hòe hoa 2 lượng; Địa du, Thương truật đều 1,5 lượng, Cam thảo 1 lượng. Đều sao qua, nghiền thành bột, mỗi sớm tối đều uống trước bửa ăn 2 chỉ. Khí trĩ (do lao tổn trung khí mà xuất huyết) Nhân sâm thang điều uống; Tửu trĩ (do rượu tích độc quá nhiều mà xuất huyết) Trần bì, Cát căn thang điều uống; Trùng trĩ (do ngứa mà bên trong có trùng động xuất huyết) Ô mai làm thang điều uống; Mạch trĩ (do lao động mà tổn thương, lỗ trĩ máu ra bắn xa như tia) A giao thang điều uống.

(Đỗ thị gia sao phương)

+ Phương thuốc 4:

Trị tiểu tiện ra máu: Hòe hoa (sao), Uất kim (nướng) đều 1 lượng. Nghiền nhỏ. Mỗi lần uống 2 chỉ, Đạm thị thang uống.

(Khiếp trung bí bảo phương)

+ Phương thuốc 5:

Trị huyết lâm: Hòe hoa cháy qua, khứ hỏa độc, chầy giã thành bột. Mỗi lần uống 2 chỉ, rượu nước tống uống.

( Điền Nam bản thảo)

+ Phương thuốc 6:

Trị huyết băng: Hòe hoa cũ 1 lượng, Bách thảo sương nửa lượng. Nghiền nhỏ. Mỗi lần uống 3, 4 chỉ, rượu nóng điều uống; Nếu mê mẩn bất tỉnh nhân sự, thì rượu tôi cái cân đốt đỏ uống.

(Lương bằng hối tập – Hòe hoa tán)

+ Phương thuốc 7:

Trị bach đới không ngừng: Hòe hoa (sao), Mẫu lệ (nung) lượng bằng nhau.

Nghiền nhỏ. Mỗi lần uống 3 chỉ với rượu, hiệu nghiệm.

(Trich nguyên phương)

+ Phương thuốc 8:

Tri chảy máu cam không ngừng: Hòe hoa, Ô tặc ngư cốt lượng bằng nhau.

Nửa sống nửa sao, nghiền nhỏ, thổi mũi.

(Thế y đắc hiệu phương)

+ Phương thuốc 9:

Trị thổ huyết không ngừng: Hòe hoa không kễ nhiều ít, lửa đốt tồn tính, nghiền nhỏ, cho vào Xạ hương chút ít. Mỗi lần uống thìa 3 chỉ, nước gạo nếp ấm điều uống.

(Tánh tể tổng lục – Hòe hoa tán)

+ Phương thuốc 10:

Trị lưỡi ra máu không ngừng, tên là Thiệt nục: Hòe hoa, phơi khô nghiền nhỏ, đắp trên lưỡi, hoặc lửa sao, ra hỏa độc, nghiền nhỏ đắp.

(Kỳ hiệu lương phương – Hòe hoa tán)

+ Phương thuốc 11:

Trị lỵ trắng đỏ: Hòe hoa (sao qua) 3 chỉ, Bạch thược dược (sao) 2 chỉ, Chỉ xác (sao cám) 1 chỉ. Cam thảo 5 phân. Sắc nước uống.

(Bản thảo hối ngôn)

+ Phương thuốc 12:

Trị nhọt lở: Hòe hoa 2 hợp, Kim ngân hoa 5 chỉ. Rượu 2 chén sắc uống, lấy mồ hôi.

(Y học khải mông – Hòe hoa Kim ngân hoa tửu)

+ Phương thuốc 13:

Trị dương mai sang, miên hoa sang độc và hạ cam, mới mắc hoặc độc thịnh lâu ngày khó khỏi: Hòe hoa nhị (nhặt sạch, không cần sao, mỗi lần trước bửa ăn rượu trong nuốt độ 3 chỉ, sáng trưa tối mỗi ngày 3 lần. Nếu không uống rượu được, nước muối sôi có thể tống uống.

(Cảnh Nhạc tòan thư)

+ Phương thuốc 14:

Trị trúng phong mất tiếng: Hòe hoa sao, sau canh 3 nằm ngửa nhai nuốt.

(Thế y đắc hiệu phương)

+ Phương thuốc 15: Hòe mễ 30g, Tảo hưu, Sanh cam thảo đều 15g, sấy khô nghiền bột, phân 2 lần sáng tố, dùng nước, rượu tống uống; phối hợp đắp nóng cục bộ. Điều trị 32 ca viêm tuyến vú cấp tính, đều trị khỏi. Thời gian điều trị ngắn nhất 2 ngày, dài nhất 7 ngày; thường uống thuốc 2 ngày sưng đau tiêu mất, 4 ngày mà khỏi.

+ Phương thuốc 16:

Dùng Hòe hoa sao vàng nghiền thành bột, mỗi lần 3g, mỗi ngày 2 lần, , dùng nước ấm uống sau bửa ăn. Điều trị 53 ca bệnh vẩy nến , khỏi hòan tòan 6 ca, tiến bộ rõ 22 ca, tiến bộ 19 ca, vô hiệu 6 ca.

+ Phương thuốc 17: Hoè hoa trà phòng Trúng phong

– Thành phần: Hoè hoa 6g.

– Cách dùng: Ngâm nước sôi, uống thay trà.

– Công hiệu: Phòng ngừa trúng phong.

+ Phương thuốc 18: – Chủ trị: Khạc ra máu, chảy máu cam.

– Thành phần: Hòe hoa 15g, Tiên hạc thảo 18g, Bạch mao căn 30g, Trắc bá diệp 20g.

– Cách dùng: Sắc nước uống, mỗi ngày 1 thang.

+ Phương thuốc 19: – Chủ trị: Trĩ huyết, đại tiện ra máu.

– Thành phần: Hòe giác 15g, Địa du thán 20g

– Cách dùng: Sắc nước uống, mỗi ngày 1 thang.

Tham khảo thêm

HOÈ HOA

Tên Việt Nam: Hòe hoa, cây Hòe.

Tên Hán Việt khác:

Hòe Thực (Bản Kinh), Hòe Nhụy (Bản Thảo Đồ Kinh), Hòe nhụy (Bản Thảo Chính), Thái dụng (Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Hòe mễ, Hòe hoa mễ, Hoà trần mễ (Hòa Hán Dược Khảo), Hòe hoa thán, Hòe mễ thán, Hòe nga, Hòe giao, Hòe nhĩ, Hòe giáp (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

Tên khoa học: Sophora japonica Linn. Họ khoa học: Fabaceae.

Địa lý:

Cây mọc hoang và được trồng khắp nơi trong nước ta, có nhiều ở miền Bắc Việt Nam. Trồng bằng hạt hoặc dâm cành.

Mô tả:

Cây cao 7-10m, có khi tới 25m, nhánh nhỏ màu xanh lục, có lông hoặc không có lông. Lá lông chim lẻ, mọc so le, dài 15-25cm, lá chét 7-15 phiến, hình trứng hoặc hình trứng hẹp, dài 3-6cm, mép nguyên, mặt trên có lông và phấn trắng. Hoa nhỏ màu trắng xanh, mọc thành chùm ở ngọn, dài 15-30cm, quả đậu thắt lại ở giữa các hạt, chất nạc, chủng tử 1-6 hạt màu đen hình thận.

Phân biệt:

Hoa hòe thường cánh hoa đã rơi rụng, nếu còn nguyên thì có 5 cánh hoa, mầu trắng vàng, rất mỏng, trong số đó hai cánh hoa tương đối to, hình gần tròn, đỉnh hơi lõm, cuộn lật ra phía ngoài, các cành hoa khác thì hình tròn dài. Phía dưới các cánh hoa có đài hoa hình chuông mầu lục. Giữa kẽ cánh hoa có các nhụy mầu vàng nâu, giống như những sợi râu và một nhụy hình trụ nhưng uốn cong. Chất nhẹ, khi khô dễ bị vụn nát, không mùi, vị hơi đắng.

Thu hái, sơ chế:

Vào mùa hè khi hoa sắp nở, Quả chín, thu hái trước hoặc sau tiết Đông chí phơi khô dùng. Hoa phải hái lúc còn nụ mới. Phơi hoặc sấy khô. Thứ hoa đầu sắp nở nhưng chưa nở, nguyên vẹn, không vụn nát, mầu vàng, không tạp chất là loại tốt.

Phần dùng làm thuốc:

  • Nụ hoa (Flos sophorae Japonicae).
  • Quả (Fructus sopharae Japonicae) Xem: Hòe Thự

Mô tả dược liệu:

Hoa hòe khô biểu hiện hình viên chùy ở búp, nhỏ dần ở bộ phận cuống, hoa, hơi cong, đài búp hoa hình chuông màu vàng lục chiếm cứ hầu hết cả búp hoa, trước mút búp chia làm 5 đường khe cạn, cánh hoa chưa được trưởng thành búp lại biểu hiện hình trứng tròn, bên ngoài màu vàng đỏ, toàn thể dài chừng 3,2m – 10mm, chất nhẹ, hơi có khí vị đặc biệt. Nụ hoa màu vàng ngà không ẩm mốc, không bị cháy, không lẫn lộn cuống lá, tạp chất là thứ tốt.

Bào chế:

  • Dùng Hòe hoa phải dùng vào lúc hoa chưa nở, để lâu năm càng tố Khi dùng vào thuốc thì sao vàng để dùng.
  • Hái hoa lúc còn nụ, phơi hay sấy khô, dùng sống hay sao hơi vàng để pha nước uống, hoặc cho vào nồi đất đun to lửa sao cháy tồn tính 7/10, để cầm máu (Trung Dược Đại Từ Điển).
  • Bỏ cành lá, lấy nụ hoa cho vào thuốc sắc uống, hoặc sao cháy thành than dùng hoặc tán nhỏ cho vào thuốc hoàn tán (Đông Dược Học Thiết Yếu).
  • Hòe Hoa Sao: Lấy Hoa hòe sạch, cho vào nồi, sao bằng lửa nhẹ cho đến khi mầu hơi vàng, lấy ra để nguội là được (Dược Tài Học).
  • Hòe Hoa Thán: Lấy Hoa hòe, cho vào nồi, dùng lửa mạnh đun nóng, sao cho đến khi gần thành mầu đen (tồn tính), phun ướt bằng nước sạch, lấy ra, phơi khô (Dược Tài Học).

Thành phần hóa học:

+ Rutin, Betulin, Soporradiol, Glucuronic acid (Trung Dược Học).

+ Azukisaponin, Soyasaponin, Kaikasaponin (Bắc Xuyên Huân, Dược Học Tạp Chí [Nhật Bản] 1988, 108 (6): 538).

+ Quercetin (Mộc Thôn Nhã Vệ, Dược Học Tạp Chí [Nhật Bản] 1984, 104 (4): 340).

+ Isorhamnetin (Ishida Hitoshi và cộng sự, Chem Pharm Bull 1989, 37 (6): 1616).

+ Betulin, Sophoradiol (Ngải Mễ Đạt Phu, Dược Học Tạp Chí [Nhật Bản] 1956, 76: 1210).

+ Dodecenoic acid, Myristic, Tetradecadieoic acid, Arachidic acid, Beta-Sitosterol (Mitsuhashi Tatsuo và cộng sự C A 1973, 79: 134385u).

Tác dụng dược lý:

+ Tác dụng cầm máu: Hoa hòe có tác dụng rút ngắn thời gian chảy máu. Nếu sao thành than, tác dụng mạnh hơn (Trung Dược Học).

+ Giảm bớt tính thẩm thấu của mao mạch và làm tăng độ bền của thành mao mạch (Trung Dược Học).

+ Tác dụng đối với hệ tim mạch: Chích dịch Hoa hòe vào tĩnh mạch cho chó đã được gây mê, thấy huyết áp hạ rõ. Thuốc có tác dụng hưng phấn nhẹ đối với tim cô lập của ếch và làm trở ngại hệ thống dẫn truyền. Glucozid ở vỏ của Hòe có tác dụng làm tăng lực co bóp của tim cô lập và tim tại thể cuae ếch. Hòe bì tố có tác dụng làm gĩan động mạch vành (Trung Dược Học).

+ Tác dụng hạ mỡ trong máu: Hòe bì tố có tác dụng làm giảm Cholesterol trong máu, Cholesterol ở gan và ở cửa động mạch. Đối với xơ mỡ động mạch thực nghiệm, thuốc có tác dụng phòng và trị (Trung Dược Học).

+ Tác dụng kháng viêm: Đối với viêm khớp thực nghiệm nơi chuột và chuột nhắt, thuốc đều có tác dụng kháng viêm (Trung Dược Học).

+ Tác dụng chống co thắt và chống loét: Hòe bì tố có tác dụng giảm trương lực cơ trơn của đại trường và phế quản, tác dụng chống co thắt của Hòe bì tố gấp 5 lần của Rutin. Rutin trong Hoa hòe có tác dụng làm giảm vận động bao tử của chuột, giảm bớt rõ số ổ loét của bao tử chuột do co thắt môn vị (Trung Dược Học).

+ Tác dụng chống phóng xạ: Rutin làm giảm bớt tỉ lệ tử vong của chuột nhắt do chất phóng xạ với liều gây chết (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Rutin trong Hoa hòe có tác dụng phòng ngừa tổn thương do đông lạnh thực nghiệm. Đối với tổn thương độ 3 càng rõ, đối với độ 1, 2 cũng có tác dụng (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

+ Tác dụng chống tiêu chảy: Dịch Hoa hòe bơm vào ruột của thỏ thấy kích thích niêm mạc ruột sinh chất tiết dịch có tác dụng làm giảm tiêu chảy (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Tính vị:

+ Vị đắng, tính bình, không độc (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).

+ Vị đắng, tính mát (Bản Thảo Cương Mục).

+ Vị đắng, tính hàn (Cảnh Nhạc Toàn Thư).

+ Vị đắng, Tính bình (Trung Dược Học).

+ Vị đắng, tính mát (Trung Dược Đại Từ Điển).

Quy kinh:

+ Vào kinh Dương minh (Đại trường), Quyết âm (Can) (Bản Thảo Cương Mục).

+ Vào kinh thủ Dương minh (Đại trường), túc quyết âm (Can) (Bản Thảo Hối Ngôn).

+ Vào kinh Phế, Đại trường (Dược Phẩm Hóa Nghĩa).

+ Vào kinh Can, Đại trường (Trung Dược Học).

+ Vào kinh Can, Đại trường (Trung Dược Đại Từ Điển).

Tác dụng:

+ Lương (làm mát) Đại trường nhiệt (Y Học Khải Nguyên).

+ Lương đại trường, sát cam trùng (Bản Thảo Chính).

+ Tiết Phế nghịch, tả Tâm hỏa, thanh Can hỏa, kiên Thận thủy (Y Lâm Toản Yếu).

+ Lương huyết, chỉ huyết, thanh lợi thấp nhiệt (Trung Dược Học).

+ Thanh nhiệt, lương huyết, chỉ huyết (Trung Dược Đại Từ Điển).

Chủ trị:

+ Trị năm loại trĩ, tâm thống, măt đỏ, trừ giun sán và nhiệt trong bụng, trị phong ngoài da, trường phong hạ huyết, xích bạch lỵ (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).

+ Sao thơm, ăn được nhiều trị mất tiếng, họng đau, thổ huyết, chảy máu cam, băng trung lậu hạ (Bản Thảo Cương Mục).

+ Trị tiêu ra máu, tiểu ra máu, chảy máu mũi (Bản Thảo Cầu Chân).

+ Trị tiểu đường và võng mạc mắt viêm (Đông Kinh Dược Vật Chí).

Liều dùng: 8-20g/ngày. Kiêng kỵ:

+ Không có thực hỏa, thực nhiệt cấm dùng. Kỵ sắt (Trung Dược Học).

+ Bệnh do hư hàn, không có nhiệt: không dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu). Bảo quản: Dễ bị mốc. Cần để nơi khô ráo, thoáng gió.

Đơn thuốc kinh nghiệm:

+ Trị chảy máu không cầm: Hòe hoa, Ô tặc cốt, lượng bằng nhau, để nửa sống nửa sao, tán bột thổi vào (Phổ Tế Phương).

+ Trị thổ huyết không cầm: Hòe hoa đốt tồn tính, bỏ vào một tý Xạ hương vào, trộn đều. Mỗi lần dùng 12g uống với nước gạo nếp (Phổ Tế Phương).

+ Trị lưỡi chảy máu không cầm: Hòe hoa tán bột, xức vào (Chu Thị Tập Nghiệm Phương).

+ Trị ho ra máu, khạc ra máu: Hòe hoa sao, tán bột. Mỗi lần uống 12g với nước gạo nếp, cúi ngửa một lát thì đỡ (Chu Thị Tập Nghiệm Phương).

+ Trị tiểu ra máu: Hòe hoa sao, Uất kim (nướng), mỗi thứ 1 lượng tán bột lần 8g với nước sắc Đậu xị (Bí Tàng Phương).

+ Trị đại tiện ra máu: Hòe hoa, Kinh giới tuệ, các vị bằng nhau tán bột, uống lần 4g với rượu (Kinh nghiệm phương), hoặc dùng Trắc bá diệp 3 chỉ, Hòe hoa 6 chỉ sắc uống hàng ngày (Tập giản phương).

+ Trị đại tiện ra máu: Hòe hoa, Chỉ xác, các vị bằng nhau sao tồn tính tán bột, lần uống 8g với nước (Tụ Trân Phương).

7- Trị sốt cao đột ngột tiêu ra máu: Ruột heo sống 1 cái rửa sạch phơi khô, lấy Hòe hoa sao tán bột bỏ đầy vào trong ruột heo, lấy giấm gạo ngâm trong hũ sành nấu chín, làm viên bằng hạt đạn lớn phơi nắng, mỗi lần uống 1 viên lúc đói với rượu ngâm Đương quy (Vĩnh Loại Kiềm Phương).

+ Trị đi tiêu ra máu do độc của rượu: Hòe hoa nửa sống nửa sao 40g, Sơn chi tử 20g, tán bột uống lần 8g với nước (Kinh Nghiệm Lương Phương).

+ Trị lỵ ra máu, trĩ ra máu: Hòe hoa sao, tán bột, mỗi lần uống 12g với rượu, ngày uống 3 lần hoặc dùng vỏ trắng của cây Hòe hoa sắc uống (Phổ tế phương).

+ Trị rong kinh không cầm: Hòe hoa sao tồn tính, mỗi lần uống 8~12g với rượu nóng trước khi ăn (Thánh Huệ Phương).

+ Trị băng huyết không cầm: Hòe hoa 120g, Hoàng cầm 80g, tán bột. Mỗi lần uống 20g với một ch n rượu (Càn Khôn Bí Uẩn Phương).

+ Trị trúng phong mất tiếng: Hòe hoa sao, sau canh ba nằm ngửa nhai nuốt (Thế Y Đắc Hiệu Phương).

+ Trị ung thư phát bối, nhiệt độc ở trong người, hoa mắt, đầu váng, miệng khô, lưỡi đắng, hồi hộp, lưng nóng, tay chân tê, có sưng ở sau lưng: Hòe hoa một mớ, sao cho thành mầu nâu đen, ngâm với một ch n rượu con, lúc rượu còn đang nóng thì uống, nếu chưa đỡ, uống tiếp, sau khi uống thì nhọt sẽ nhúm mủ lại (Bảo Thọ Đường Phương).

+ Trị trĩ ngoại: Hòe hoa sắc rửa nhiều lần và uống thì sẽ teo lên (Tập Giản Phương).

+ Trị độc nhọt lở sưng tấy, tất cả các loại ung nhọt phát bối, chẳng kể là có mủ hay chưa, nhưng có tấy sưng nóng đau: Hòe hoa sao qua, Hạch đào nhân đều 80g, Dấm 1 chén sắc uống. Nếu chưa đỡ thì uống 2 -3 lần, đã vỡ mủ thì uống 1 -2 lần thấy hiệu quả (Y Phương Trích Yếu Phương).

+ Trị phát bối tán huyết: Hòe hoa, Bột đậu xanh, mỗi thứ 40g sao như màu ngà voi, tán bột, dùng 40gTế trà sắc còn 1 ch n, để ngoài sương một đêm, lấy 12g phết vào, chừa lỗ cho ra mủ (Nhiếp Sinh Diệu Dụng Phương).

+ Trị băng huyết, hạ huyết: Hòe hoa 40g, Tông lư thán 8g, Muối 1 ít, sắc với 3 chén nước còn nửa chén, uống (Trích Huyền Phương).

+ Trị bạch đới không dứt: Hòe hoa (sao), Mẫu lệ nung, các vị bằng nhau tán bột. Mỗi lần uống 12g với rượu (Trích Huyền Phương).

+ Trị độc dương mai và độc do dương minh tích nhiệt gây ra, dùng Hòe hoa 4 lượng sao qua bỏ vào 2 ch n rượu sắc uống nóng, người bị hư hàn thì cấm dùng (Tập Giản Phương).

+ Trị thổ huyết: Hòe hoa 12g, Bách thảo sương 4g. Tán bột, uống với nước sắc rễ Tranh (Mao căn) (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị trường phong hạ huyết: Hòe hoa, Trắc bá (đốt cháy), Chỉ xác đều 12g, Kinh giới 8g. Tán bột uống với nước hoặc làm thang tể. (đại tiện ra máu) (Hòe Hoa Tán

– Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị huyết áp cao: Hòe hoa, Hy thiêm thảo, mỗi thứ 20 ~ 40g. Sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Tham khảo:

+ Hòe hoa thể nhẹ, màu vàng nhạt, khí bình hòa, vị đắng, khí lạnh mà trầm, có sức lượng huyết, tính khí mỏng màvị đầy, nhập vào 2 kinh Phế và Đại trường, manh nha vào tháng 2 tháng 3, tháng 4 tháng 5 mới bắt đầu nở, bắt đầu từ tháng Mộc mà sinh nhưng thành ở tháng Hỏa. Tính hỏa vị đắng, vị đắng thì có thể đi thẳng xuống mà vị hậu thì trầm xuống chủ về mát ruột và trị hạ huyết, các chứng trĩ lở sưng đau, có công lương huyết chỉ riêng ở Đại trường. Đại trường và Phế có quan hệ biểu lý, có thể sơ phong nhiệt ở bì phu, là tiết khí của Phế kim ra vậy (Biện Dược Chỉ Nam).

+ Hòe hoa là búp hoa của cây Hòe, Hòe thật là (quả đậu) của cây Hòe (Xem: Hòe thật), có tính vị và công dụng giống nhau. Người xưa có thuyết “Dùng hoa có tác dụng thăng lên, các loại hạt có tác dụng giáng xuống”. Chứng nghiệm trên lầm sàng thì Hèo hoa và Hòe thật có công dụng cầm máu. Mặc dù lấy dù lấy việc trị xuất huyết ở phần hạ bộ là chính, chẳng qua dùng Hòe hoa lại dùng trong các chứng thổ huyết chảy máu cam.. Như Phổ Tế phương trị chảy máu cam không cần với Hòe hoa và Ô tặc cốt. Còn trị thổ huyết không cầm, dùng Hòe hoa bỏ vào một tý Xạ hương, bài “Tôn Sinh Hòe Hoa Tán”, dùng một vị này cùng với Bách thảo sương tán bột, uống với nước rễ Tranh trị chảy máu cam, có thể nói rằng mặc dù thuốc rất đơn giản nhưng hiệu quả cao. Còn vị Hòe Thực có tính thiên về hạ giáng, dùng chủ yếu trong đi cầu xuống huyết thuộc hỏa thịnh ở đại trường, cho tới các loại ra máu ở trĩ lở thuộc thấp nhiệt ứ kết. Tóm lại 2 vị này đều có thể lương huyết chỉ huyết, lúc ứng dụng cũng cần phân biệt. Theo văn hiến ghi lại thì Hòe Thực có tác dụng trụy thai, thúc sinh cho nên phụ nữ có thai dùng một cách cẩn thận (Trung Dược Học Giảng Nghĩa).

+ Hòe hoa và Hòe Thực (Quả Hòe) đều là thuốc lương huyết, chỉ huyết. Ngày nay người ta thường hay dùng Hoa hòe. Hoa hòe vị đắng, tính mát, thể nhẹ, chủ chữa về xuất huyết ở các khiếu bên trên, thiên về miệng, mũi. Còn Hòe Thực vị đắng, tính hàn, thể nặng, là vị thuốc thuần âm, thiên về chữa huyết ở hâi kinh âm, chủ yếu trị trường phong hạ huyết, trĩ dò chảy máu (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Thuốc Cadexomer iodine

Tên chung: cadexomer iodine

Tên thương hiệu: Iodosorb

Nhóm thuốc: Chăm sóc vết thương

Cadexomer iodine là gì và được dùng để làm gì?

Cadexomer iodine là một loại thuốc sát trùng tại chỗ, được sử dụng để điều trị và ngăn ngừa nhiễm trùng ở những vết bỏng nhỏ, vết cắt, và vết trầy xước, cũng như làm sạch các vết loét và vết thương ướt để bảo vệ chúng khỏi nhiễm trùng.

Cadexomer iodine có sẵn không cần đơn (OTC) dưới dạng gel hoặc thuốc mỡ. Cadexomer iodine hấp thụ dịch tiết từ các vết loét ướt, giúp chúng khô và lành, đồng thời ngăn ngừa nhiễm trùng bằng cách tiêu diệt vi khuẩn.

Cadexomer iodine được tạo thành từ các hạt nhỏ của tinh bột cadexomer chứa iodine. Iodine là một khoáng chất được tuyến giáp sử dụng để sản xuất hormone, và nó cũng là một tác nhân diệt khuẩn phổ rộng mạnh, hiệu quả chống lại nhiều loại vi khuẩn, virus, nấm, động vật nguyên sinh và bào tử. Khi được thoa lên vết thương ướt và loét, các hạt cadexomer hấp thụ dịch, loại bỏ các dịch tiết, mủ và chất bẩn, đồng thời giải phóng iodine để tiêu diệt các mầm bệnh có mặt trong vết thương.

Công dụng của cadexomer iodine bao gồm:

  • Phòng ngừa nhiễm trùng ở các vết bỏng nhỏ, vết cắt, và vết trầy xước
  • Sát trùng ngoài da trước khi phẫu thuật
  • Làm sạch các vết loét và vết thương ướt bao gồm các vết thương phẫu thuật và chấn thương bị nhiễm trùng, loét do áp lực, loét do tiểu đường, và loét chân do suy giảm tuần hoàn máu ở tĩnh mạch (loét tĩnh mạch)

Cảnh báo

  • Không sử dụng ở những bệnh nhân mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào trong công thức cadexomer iodine.
  • Không sử dụng cadexomer iodine cho những bệnh nhân có rối loạn tuyến giáp như:
    • Viêm tuyến giáp Hashimoto
    • Tiền sử bệnh Graves
    • Bướu cổ không độc
  • Không sử dụng cadexomer iodine cho phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú.
  • Không sử dụng cadexomer iodine quá 3 tháng. Ngừng sử dụng khi vết thương không còn dịch tiết.
  • Một số công thức có thể chứa tới 47% cồn. Iodine và/hoặc cồn có thể được hấp thụ vào hệ thống cơ thể ở một số bệnh nhân, tùy thuộc vào độ tuổi và tình trạng của da. Cần thận trọng khi sử dụng.

Tác dụng phụ của cadexomer iodine là gì?

Các tác dụng phụ thường gặp của cadexomer iodine bao gồm:

Phản ứng tại chỗ sử dụng, bao gồm:

  • Đau và kích ứng cục bộ
  • Đỏ da tại chỗ (ban đỏ)
  • Sưng tấy tại chỗ (phù nề)
  • Chàm
  • Phản ứng dị ứng
  • Tăng nồng độ hormone kích thích tuyến giáp (TSH)

Gọi ngay cho bác sĩ nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng nào sau đây khi sử dụng thuốc này:

  • Triệu chứng nghiêm trọng về tim bao gồm nhịp tim nhanh hoặc đập mạnh, rung trong lồng ngực, khó thở, chóng mặt đột ngột;
  • Đau đầu nghiêm trọng, nhầm lẫn, nói lắp, yếu ớt nghiêm trọng, nôn mửa, mất phối hợp, cảm thấy không ổn định;
  • Phản ứng nghiêm trọng đối với hệ thần kinh với cơ cứng đơ, sốt cao, đổ mồ hôi, nhầm lẫn, nhịp tim nhanh hoặc không đều, run rẩy, và cảm giác như sắp ngất;
  • Triệu chứng nghiêm trọng về mắt bao gồm mờ mắt, nhìn đường hầm, đau mắt hoặc sưng, hoặc nhìn thấy hào quang xung quanh ánh sáng.

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra khi sử dụng thuốc này. Hãy gọi cho bác sĩ để được tư vấn y tế về các tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc phản ứng bất lợi. Bạn cũng có thể báo cáo tác dụng phụ hoặc vấn đề sức khỏe cho FDA tại 1-800-FDA-1088.

Liều dùng của cadexomer iodine là gì?

Gel

  • 0.9% iodine

Thuốc mỡ

  • 4.7%

Người lớn:

  • Làm sạch vết loét và vết thương ướt:
    • Bôi một lớp mỏng từ 1/8 đến 1/4 inch lên gạc vô trùng khô; đặt gạc lên vết thương.
    • Không dùng quá 50 g mỗi lần, không dùng quá 150 g mỗi tuần.
    • Thay gạc 3 lần/tuần hoặc khi màu chuyển sang vàng/xám.
  • Sát trùng vết cắt, trầy xước, bỏng nhỏ:
    • Thoa một lượng nhỏ lên vùng bị ảnh hưởng mỗi ngày hoặc mỗi 8 giờ.

Trẻ em:

  • Độ an toàn và hiệu quả chưa được xác định.

Quá liều

  • Sử dụng ngoài da của cadexomer iodine ít có khả năng gây quá liều. Nuốt phải cadexomer iodine có thể gây buồn nôn, nôn mửa, đau bụng, tiêu chảy, sốt, và khó đi tiểu. Điều trị có thể bao gồm chăm sóc triệu chứng nếu các triệu chứng không tự biến mất

Thuốc nào tương tác với cadexomer iodine?

Hãy thông báo cho bác sĩ về tất cả các loại thuốc bạn đang sử dụng, để bác sĩ có thể tư vấn về các tương tác thuốc có thể xảy ra. Tuyệt đối không bắt đầu sử dụng, ngừng đột ngột, hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự hướng dẫn của bác sĩ.

Cadexomer iodine không có tương tác nghiêm trọng, nghiêm trọng hay vừa phải được liệt kê với các thuốc khác.
Các tương tác nhẹ của cadexomer iodine bao gồm:

  • amiloride
  • drospirenone
  • i-ốt (phóng xạ)
  • iodoquinol
  • lithium
  • methimazole
  • kali acid phosphate
  • kali chloride
  • kali citrate
  • propylthiouracil
  • spironolactone
  • triamterene

Các tương tác thuốc liệt kê trên không phải là tất cả các tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về tương tác thuốc, hãy tham khảo Bộ Kiểm Tra Tương Tác Thuốc RxList.

Quan trọng là luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ, hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe về tất cả các loại thuốc kê đơn và thuốc không kê đơn bạn đang sử dụng, cũng như liều lượng của mỗi loại thuốc, và giữ một danh sách thông tin này. Hãy kiểm tra với bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về thuốc.

Mang thai và cho con bú

I-ốt được hấp thu vào cơ thể khi sử dụng cadexomer iodine bôi ngoài da. Việc sử dụng thuốc này trong thai kỳ có thể gây suy giáp tạm thời ở trẻ sơ sinh, vì vậy nên tránh sử dụng nếu bạn đang mang thai.

I-ốt có mặt trong sữa mẹ và có thể gây suy giáp tạm thời ở trẻ bú mẹ. Nên tránh sử dụng nếu bạn đang cho con bú.

Những điều cần biết về cadexomer iodine

Sử dụng cadexomer iodine chính xác theo chỉ định của bác sĩ hoặc theo hướng dẫn trên nhãn.

Cadexomer iodine chỉ dùng ngoài da. Rửa tay kỹ trước và sau khi sử dụng.

Tránh tiếp xúc với mắt, nếu tiếp xúc xảy ra, rửa mắt ngay lập tức với nước.

Không sử dụng trên vết thương sâu, vết thương đâm thủng, vết cắn của động vật hoặc bỏng nghiêm trọng mà không tham khảo ý kiến bác sĩ.

Không sử dụng trên diện tích lớn của cơ thể hoặc băng vết thương quá chặt, không có không khí.

Ngừng sử dụng nếu có kích ứng hoặc đỏ da tại vị trí thoa thuốc.

Liên hệ với bác sĩ nếu tình trạng của bạn không cải thiện sau 7 ngày.

Bảo quản thuốc an toàn, xa tầm tay trẻ em.

Nếu vô tình nuốt phải, hãy tìm kiếm sự trợ giúp y tế hoặc liên hệ với Trung tâm Chống độc.

Tóm tắt

Cadexomer iodine là một thuốc sát trùng dùng ngoài da để điều trị và ngăn ngừa nhiễm trùng ở các vết bỏng, vết cắt và trầy xước nhỏ, làm sạch vết loét và vết thương ẩm, và bảo vệ chúng khỏi nhiễm trùng. Cadexomer iodine có sẵn trên thị trường dưới dạng gel hoặc mỡ, không cần kê đơn (OTC). Các tác dụng phụ thường gặp của cadexomer iodine bao gồm phản ứng tại vị trí thoa thuốc, eczema, phản ứng quá mẫn, và tăng mức độ hormone kích thích tuyến giáp (TSH). Không sử dụng nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú.

Chứng đau ngực (hung tý) Đông y và pháp, phương thuốc điều trị

Chứng đau ngực (Hung tý) là chứng tắc ở ngực không thông, có biểu hiện chính là khí ở trong ngực tắc và đau ngực. Thiên quyết bệnh Sách Linh khu gọi là chân tâm thông tức là đau ngực nặng, còn thể nhẹ chỉ có thấy ngực đầy nghẽn, (Kim quỹ yếu lược) Nguyên nhân thường là khí dương ở trong ngực không phân bố được vì bị khí âm thượng nghịch chiếm mất vị trí của khí dương, nói khác đi là trong ngực dương khí bất túc và âm hàn thịnh làm trở ngại cho việc dương phân bố ở trong ngực. Cũng có thể do cả khí, âm ở ngực đều hư gây nên. Các chứng bệnh của động mạch vành cơ tim (cơn đau thắt ngực nhồi máu cơ tim…) thuộc phạm vi chứng hung tý.

Hàn thịnh là trở ngại khí dương ở ngực

Triệu chứng: Ngực đầy, khó thở cấp, đoản khí, thở ra hít vào khó khăn, ngực đau, mạch thốn khẩu trầm trì. Đó là do âm hàn thịnh làm khí dương không vận hành được và tắc lại gây nên.

Phép điều trị: Tân ôn thông dương.

Phương thuốc: Qua lâu giới bạch, bạch tửu thang (Kim quỹ yếu lược)

Qua lâu 12g (1 quả)                        Giới bạch                 12g

Rượu trắng lượng vừa đủ sắc uống.

Vị thuốc Qua lâu
Vị thuốc Qua lâu

Đờm ẩm làm trở ngại khí dương ở ngực.

Triệu chứng: Thêm ngực đau lan ra lưng không nằm được.

Phép điều trị: Thông dương trục đờm

Phương thuốc: Qua lâu giới bạch bán hạ thang (Kim quỹ yếu lược)

Qua lâu                       12g              Giới bạch                 9g

Bán hạ                        12g

Rượu trắng vừa đủ sắc uống.

Đờm khí kết ở trong ngực làm khí không giáng, nghịch lên.

Triệu chứng: Trong tim tức đau, khí kết ở trong ngực, ngực đầy, đau ở sườn thốc lên tim. Đó là do đờm khí kết tụ ở ngực, khí nghịch lên mà không giáng được.

Phép điều trị: Thông dương, giáng khí, khử đờm.

Phương thuốc: Chỉ thực giới bạch quế chi thang (Kim quỹ yếu lược)

Chỉ thực 12g Hậu phác 12g
Giới bạch 9g Quế chi 6g
Qua lâu 12g
Vị thuốc Chỉ thực
Vị thuốc Chỉ thực

Đờm khí kết tắc, làm khí cơ không thông.

Triệu chứng: Khí tắc ở trong ngực, nằm ngồi đều khó chịu. Đó là do đờm kết với khí làm tắc đường vận hành của khí cơ.

Phép điều trị: Tuyên khí khai uất.

Phương thuốc: Quất chỉ khương thang (Kim quỹ yếu lược)

Quất bì                      12g               Chỉ     thực               12g

Sinh khương              12 g

Âm tà nghịch lên.

  • Triệu chứng: Tắc ở trong tim, khí nghịch, tim đau như treo lên.

Phép điều trị: Thông dương tán kết.

Phương thuốc: Quế chi Sinh khương Chỉ thực thang.

Quế chi                      12g               Sinh     khương        12g

Chỉ thực                    12g

  • Ngực đau kịch liệt, từ tim xuyên ra ngực, từ lưng xuyên vào tim.

Đó là do khí đại hàn trực tiếp đánh vào tim ngực.

Phép điều trị: Công trục gấp âm tà.

Phương thuốc: Ô đầu xích thạch chi hoàn (Kim quỹ yếu lược)

Ô đầu                   1    phần                Xích thạch chi 2 phần

Bán hạ                  1    phần                Phụ tử chế 1 phần

Can khương         1 phần                   Thục tiêu 1 phần

Hoàn mật bằng hạt ngô đồng, ngày uống 3 lần mỗi lần 1 hoàn.

Ý nghĩa: Các hài thuốc trên: Qua lâu, Bán hạ, Chỉ thực để hạ khí phá kết trừ đờm để thông tý (tắc). Quế chi, Giới bạch để thông dưdng. Trần bì, Bán hạ để trừ đờm thấp, Hậu phác để hạ khí trừ mãn. ô đầu, Phụ tử, Can khương, Thục tiêu đại nhiệt để công trục đại hàn để thông ý (tắc)

Hàn thấp đều thịnh.

Triệu chứng: Hung tý lúc đau, lúc hết, khi hoãn thì không đau, khi cấp lại đau.

Phép điều trị: Ôn hóa hàn thấp.

Phương thuốc: Ý dĩ phụ tử tán (Kim quỹ yếu lược)

Ý dĩ                           30g                Phụ tử                       6g

Ý nghĩa: Ý dĩ để lợi thấp. Phụ tử hợp Ý dĩ để ôn dương tán hàn lợi thấp.

Vị thuốc Phụ tử
Vị thuốc Phụ tử

Khí trệ huyết ứ

Triệu chứng: Trên ngực đau nhói như bị đâm, đoản khí, tâm phiền không yên, rêu lưỡi hơi dày, mạch huyền.

Phép điều trị: Lý khí hoạt huyết hóa ứ.

Phương thuốc: Đan sâm ẩm (Thời phương ca quát) gia

Đan sâm 5 đồng cân Đàn hương 1 đồng cân
Sa nhân 1 đồng cân
Thêm:
Thanh bì 2 đồng cân Bách hợp 5 đồng cân
Ô dược 2 đồng cân Uất kim 2 đồng cân
Xuyên luyện tử 3 đồng cân

Ý nghĩa: Đan sâm để hoạt huyết khứ ứ Đàn hương, Sa nhân để hành khí khai hung chỉ đau.

Phương thuốc: Phức phương đan sâm phiến (Nội khoa học)

Đan sâm                   2 lạng            Đương quy       1 lạng

Xương bồ         5 đồng cân            Giáng hương   5 phân

Tế tân                       3phân

Ba vị trên nấu thành cao, hai vị dưới tán mịn, rây kỹ, trộn với cao để làm viên, uống trong một ngày (có thể có tác dụng phụ như khó chịu trong dạ dày, bụng trướng, ỉa lỏng hoặc táo bón). Dùng trong chứng đau thắt ngực (co thắt mạch vành).

Vị thuốc Đương quy
Vị thuốc Đương quy

Dương hư âm thịnh

Triệu chứng: Tim đau, đoản khí, tim đập, tự hãn, người lạnh, mạch trầm vô lực hoặc kết đại.

Phép điều tri: Trợ dương ích khí.

Phương thuốc: Linh quế truật cam thang

Phục linh       16g         Quế chi       12g

Bạch truật    8g            Cam thảo    8g

Ý nghĩa: Phục linh để kiện tỳ thảm thấp, Quế chi để ôn dương hóa khí để lợi tiểu, Bạch truật để kiện tỳ táo thấp, Cam thảo để ích khí, hòa trung.

Phương thuốc: Nhân sâm thang gia vị (Kim quỹ yếu lược)

Nhân sâm         2 đồng cân            Bạch truật 3 đồng cân

Can khương     2 đồng cân            Cam thảo  2 đồng cân

Thêm Quế chi 2 đồng cân Sắc uống.

Ý nghĩa: Can khương để ôn trung khử lý hàn, Sâm để đại bổ nguyên khí, Bạch truật để kiện tỳ táo thấp, Cam thảo để ích khí, hòa trung, Quế chi để thông dương.

Khí âm đều hư.

Triệu chứng: Tim đau, khí đoản, tim đập, mồm khô, ít tân dịch, lưỡi đỏ, mạch huyền tế vô lực kết đại. Đó là dương hư không tuyên thông được mạch khí, âm hư không nuôi được tâm huyết.

Phép điều trị: ích khí dưỡng âm.

Phương thuốc: Chích cam thảo thang (Thương hàn luận)

Cam thảo        3 đồng cân       Sinh khương   3 đồng cân

Nhân sâm    2 đồng cân          Sinh địa                   5 đồng cân

Quế chi    3 đồng cân         A giao                     3 đồng cân

Ma nhân    3 đồng cân      Mạch môn               3 đồng cân

Đại táo              5-10 quả

Ý nghĩa: Thảo, Sâm, Táo để ích khí bổ tâm tỳ; Địa, Mạch, A giao, Ma nhân để dưỡng tâm bổ huyết, nhuận phế sinh tân; Khương Quế để thông dương phục mạch.

Dương khí suy vi.

Triệu chứng: Suyễn thở không nằm được, mặt bệch và mồ hôi lạnh, chân tay quyết lạnh, mạch trầm tế (Vi). Đó là dương suy không ôn dưỡng được trong ngoài.

Phép điều tri: Hồi dương cứu nghịch.

Phương thuốc: Tứ nghịch thang (Thương hàn luận)

Cam thảo                    6g            Can khương 6-9g

Sinh phụ tử           6-10g

Ý nghĩa: Phụ tử nhằm bổ mệnh môn hỏa thông cả 12 kinh để thông dương trục hàn. Can khương để ôn trung, khu lý hàn. Cam thảo chích để giải độc Phụ tử, hòa hoãn tính cay của Khương Phụ, hợp với nhau để hồi dương cứu nghịch. Có thể gia Nhân sâm 6g để bổ nguyên khí, ích khí hồi dương cùng tứ nghịch để cứu nghịch cố thoát.

Như vậy ta có thể thấy rõ Hung tý có hai loại thực và hư. Thực là do các yếu tố gây bệnh hàn thịnh, đồm, ẩm, thấp làm tắc ngực, làm khí dương trong ngực tắc không thông, làm khí trệ huyết ứ. Hư là do dương hư, khí hư, âm hư, không đủ sức nuôi dưỡng, sưởi ấm trong ngoài, trên cơ sở đó âm hàn có thể làm bệnh thêm nặng.

Thuốc Herpevir

Thuốc Herpevir
Thuốc Herpevir

HERPEVIR

SANOFI SYNTHELABO VIETNAM

Viên nén 200 mg: vỉ 5 viên, hộp 4 vỉ – Bảng B.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Acyclovir 200 mg

DƯỢC LỰC

Acyclovir có tác dụng chống virus Herpes simplex type I và type II, virus varicella-zoster. Tác dụng này do men Thynidine Kinase của virus biến đổi Acyclovir trong tế bào thành dạng monophosphate, sau đó thành diphosphate và triphosphate có hoạt tính. Dạng triphosphate ức chế sự tổng hợp và nhân đôi của DNA bằng cách ức chế men DNA polymerase của Herpes virus cũng như bằng cách kết dính với DNA của virus. Virus Epstein-Barr và virus Cytomegalo cũng nhạy cảm với acyclovir nhưng ít hơn Herpes virus và Varicella-Zoster virus. Acyclovir không có tác dụng trên những loại virus tiềm ẩn.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Khoảng 15-30% của Acyclovir uống vào được hấp thu qua đường tiêu hóa. Với liều 200 mg/4 giờ sẽ cho nồng độ tối đa trong huyết thanh khoảng 0,56 mg/ml. Nồng độ trong huyết thanh ổn định vào khoảng ngày thứ 2. Thời gian bán hủy 3,3 giờ. Thuốc qua được nhau và hiện diện trong sữa mẹ. Thuốc thải trừ qua thận.

CHỈ ĐỊNH

  • Điều trị nhiễm virus Herpes simplex (Herpes quanh miệng, Herpes môi và Herpes sinh dục, Herpes genitalis) và nhiễm virus thủy đậu và giời ăn (varicella-zoster virus).
  • Phòng ngừa nhiễm virus Herpes ở những người bị giảm miễn dịch.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Quá mẫn với các THÀNH PHẦN của thuốc.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Ở bệnh nhân suy thận hay người lớn tuổi: phải giảm liều.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Lúc thai:

Thử nghiệm trên súc vật ở liều cao cho thấy Acyclovir gây quái thai. Acyclovir không được dùng cho phụ nữ mang thai trừ trường hợp đã cân nhắc lợi ích thật cẩn thận.

Lúc nuôi con bú:

Thuốc qua được sữa mẹ. Vì vậy cần thận trọng khi cho Acyclovir trên phụ nữ đang cho con bú.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Phát ban ngoài da, rối loạn tiêu hóa: tiêu chảy, chán ăn, nôn và buồn nôn, đau họng mệt mỏi, nhức đầu, chóng mặt.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

  • Điều trị nhiễm virus nguyên phát: 1 viên, uống 5 lần/ngày, kéo dài từ 5-10 ngày.
  • Điều trị phòng ngừa tái phát ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch: 1 viên, 2-5 lần/ngày, kéo dài trong 6 tháng.

BẢO QUẢN

Giữ ở nơi khô ráo,nhiệt độ không quá 25oC.

Điều trị cơn hen cấp ở trẻ em

1. ĐỊNH NGHĨA

Cơn hen phế quản là đợt tiến triển nặng của bệnh hen làm cho các triệu chứng như: Ho, khò khè, thở ngắn hơi và nặng ngực tăng lên có hoặc không kèm theo các biểu hiện khác, trong đó hay gặp nhất là suy hô hấp (hình 14.1). Diễn biến cường độ triệu chứng cơn hen cấp theo thời gian.

Hình 14.1. Diễn biến cường độ triệu chứng cơn hen cấp theo thời gian.

2.  ĐẶC ĐIỂM

  • Độ nặng của cơn cấp thay đổi từ nhẹ đến rất nặng, đe doạ cuộc sống. Thông thường mỗi cơn chỉ xảy ra trong vài giờ, vài ngày, nhưng đôi khi chỉ xảy ra trong vài phút.
  • Cơn cấp xảy ra nhanh thường do tiếp xúc với các yếu tố khởi phát cơn như: Nhiễm virus hoặc tiếp xúc với dị nguyên.
  • Cơn cấp xảy ra từ từ, nặng dần lên trong một vài ngày thường gặp ở các trẻ thất bại trong điều trị dự phòng, kiểm soát hen.
  • Điều đáng lưu ý là tỷ lệ mắc và tử vong trong cơn cấp tăng lên thường do sự chủ quan, coi thường hoặc không đánh giá được đầy đủ mức độ nặng của cơn hen, do đó dẫn đến điều trị không kịp thời hoặc không phù hợp với mức độ nặng của cơn

3.  CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ LIÊN QUANG ĐẾN TỬ VONG

  • Tiền sử có cơn hen nặng đe doạ tử vong, phải thông khí nhân tạo hoặc phải đặt nội khí quản
  • Phải nhập viện hoặc cấp cứu vì hen trong năm trước
  • Đang sử dụng hoặc vừa mới ngừng glucocorticosteroids đường uốn
  • Quá phụ thuộc vào thuốc cắt cơn β2 tác dụng
  • Tiền sử có rối loạn tâm thần hoặc có vấn đề về tâm lí xã hội, có sử dụng thuốc an thần
  • Tiền sử không thực hiện đúng các thuốc điều trị

4.  ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ NẶNG CƠN HEN

Hỏi bệnh, thăm khám và đánh giá nhanh để có thể tiến hành điều trị ban đầu ngay sau khi đánh giá được mức độ nặng của cơn hen. Các xét nghiệm cũng cần làm ngay nhưng không được làm chậm quá trình điều trị

  • Cần hỏi về các thuốc đã điều trị bao gồm tên thuốc và cả liều lượng và cách dùng, các yếu tố nguy cơ
  • Thăm khám thực thể tập trung vào các dấu hiệu xác định độ nặng của cơn như: bệnh nhân có khả năng nói cả câu hay chỉ nói được vài từ, mạch, nhịp thở, co kéo cơ hô hấp phụ và các dấu hiệu khác trong đó đặc biệt cần chú ý phát hiện các biến chứng như viêm phổi, xẹp phổi, tràn khí màng phổi hoặc tràn khí trung thất
  • Đo PEF hoặc FEV1để so sánh với số lý thuyết hoặc với số tốt nhất của bệnh nhân trước đó. Cần đo các chỉ số này trước, trong và sau điều trị để đánh giá đáp ứng của bệnh nhân với điều trị.
  • Đo độ bão hoà oxy máu động mạch (SaO2) là chỉ số tốt đối với trẻ em, đặc biệt là với trẻ nhỏ, những trẻ không thể đo được PEF và FEV1. Nếu SaO2 <92% thì cần phải cho trẻ nhập viện
  • Sau điều trị ban đầu, có thể cần chụp Xquang phổi cho một số bệnh nhân, đặc biệt là những trẻ không đáp ứng với điều trị hoặc nghi ngờ viêm phổi hoặc có các biến chứng
  • Đo khí máu động mạch không nhất thiết phải làm thường xuyên nhưng cần phải làm cho các bệnh nhi có PEF bằng 30-50% so với lý thuyết hoặc những bệnh nhi không đáp ứng với điều trị ban đầ Nếu bệnh nhi đang được thở oxy mà PaO2<60mmHg hoặc PaO2>45mmHg thì cần đưa trẻ tới khoa điều trị tích cực Nhi (PICU) để điều trị tích cực hơn.
  • Cần chú ý rằng ở trẻ nhỏ và trẻ còn bú do có những đặc điểm khác biệt về giải phẫu và sinh lý phổi cộng thêm với việc đáp ứng điều trị thường kém hơn trẻ lớn nên dễ bị suy hô hấp nặng hơn.

Dưới đây là các bảng 14.1 và 14.2 hướng dẫn đánh giá mức độ nặng cơn hen theo tuổi

Bảng 14.1. Đánh giá mức độ nặng cơn hen ở trẻ từ 0-5 tuổi

Triệu chứng Nhẹ Nặng

(Có 1 trong bất kỳ dấu hiệu nào)

Tinh thần Bình thường Kích thích, Lú lẫn, Lờ đờ
SpO2 (đo khi không thở Oxy và trước khi dùng thuốc giãn phế quản) ≥ 94% <90%
Câu nói

(áp dụng với trẻ nói được)

Nói được cả câu Nói từng từ
Mạch <100 nhịp/phút >200 (0-3 tuổi)

>180 (4-5 tuổi)

Tím tái Không Tím tái
Khò khè Nghe được Không nghe được

Bảng 14.2. Đánh giá mức độ nặng cơn hen ở trẻ 5 tuổi trở lên

Dấu hiệu * Nhẹ Trung

bình

Nặng/sắp ngừng thở
Khó thở Khi đi lại vẫn nằm được Khi nói Thích ngồi Phải ngồi gục đầu về phía trước
Câu nói Nói được cả câu Nói câu ngắn Nói từng tiếng
Tinh thần Có thể kích thich Kích thích Kích thích/Lú lẫn, lờ đờ
Nhịp thở Tăng Tăng >30
Nhịp thở bình thường theo tuổi khi thức:

< 2th: < 60; 2-12th: < 50; 1-5 tuổi: <40; 6-8tuổi: <30

Co kéo cơ hô  hấp phụ Không Có/Di động nghịch thường ngực bụng
Tiếng thở khò khè Chỉ có ở cuối thì thở ra Rất rõ/ Không nghe thấy
Mạch < 100 100-120 >120 / Nhịp chậm
Nhịp tim bình thương của trẻ:

2- 12th :  < 160;  1-2 tuổi: < 120; 2-8 tuổi : < 110

Mạch nghịch đảo Không

<10mmHg

Có thể có 10-25mmHg

>25mmHg (người lớn) 20-40mmHg (trẻ em) Không do cơ hô hấp kiệt sức

PEF (sau khi dùng thuốc giãn PQ lần đầu) > 80% 60-80% <60%
PaO2 (mmHg) PaCO2 (mmHg) (thở khí trời) > 60%

< 45%

>60%

<45%

≤60%

≥45%

SpO2

(thở khí trời)

> 95% 91-95% ≤ 90%
Chú ý: + Tăng CO2   xảy ra ở trẻ nhỏ nhanh hơn ở trẻ lớn và người lớn

+ Chỉ cần vài thông số (thông thường từ 4 trở lên) chứ không cần tất cả là phân loại được vào

mức độ nặng nhẹ tương ứng

5. XỬ TRÍ

Kết quả xử trí cơn hen cấp phụ thuộc nhiều vào tình trạng bệnh nhi, kinh nghiệm của người thầy thuốc, thuốc và các trang thiết bị y tế sẵn có tại phòng cấp cứu. Do vậy các chiến lược điều trị trình bày dưới đây giúp cho các thầy thuốc lựa chọn những biện pháp tốt nhất phù hợp với điều kiện của địa phương mình. Bảng 14.3 dưới đây tóm tắt xử trí theo mức độ nặng nhẹ của cơn hen cấp

Bảng 14.3. Xử trí, điều trị ban đầu theo mức độ cơn hen

so-do-dieu-tri-hen so-do-dieu-tri-hen2

5.1.  Liệu pháp Oxygen

Thở oxygen qua cannula mũi, mask sao cho duy trì được SaO2≥ 95%. Nếu không kết quả thì đặt nội khí quản và thở máy.

5.2.  Thuốc kích thích b2

Mặc dù chưa có các nghiên cứu so sánh việc sử dụng thuốc kích thích b2 giữa 2 đường dùng là hô hấp và toàn thân ở trẻ em. Tuy nhiên đưa thuốc qua đường hô hấp, nói chung có tỷ lệ hiệu quả trên tác dụng phụ tốt hơn so với dùng đường toàn thân trong cơn hen cấp nặng ở người lớn. Hơn nữa dùng thuốc qua đường hô hấp ít chịu ảnh hưởng bởi các điều trị khác cho các trẻ bị hen trước khi đến bệnh viện cấp cứu. Do đó hiện nay người ta vẫn thích dùng các thuốc kích thích b2 đường hô hấp hơn là dùng đường toàn thân cho trẻ em. Trong cơn cấp có thể dùng .

20 phút/1lần trong 1 giờ đầu dạng thuốc khí dung hoặc xịt thở qua đường hô hấp, sau đó nếu tình trạng tốt lên thì từ 1-3 giờ có thể dùng 1 lần cho tới khi cắt cơn 1;6;7;9;22

5.2.1.  Khí dung

  • Một trong những ưu điểm của việc dùng thuốc b2qua đường khí dung ở bệnh viện là có thể cho bệnh nhân thở oxy đồng thời với khí Điều này dễ sử dụng đối với các bệnh viện có hệ thống oxy tường để khí dung trực tiếp theo kiểu phụt khí bằng oxygen. Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng kích thước hạt thuốc khi khí dung rất hay thay đổi phụ thuộc vào loại máy nén khí, loại thiết bị phụt khí và thể tích thuốc đưa vào bình đựng thuốc. Điều này có thể ảnh hưởng đến hiệu quả điều trị và cũng khó so sánh hiệu quả điều trị giữa các loại máy với nhau.
  • Khí dung có thể dùng qua mặt nạ (mask) hoặc qua một ống ngậm ở miệng (mouth – piece). Cả hai loại khí dung trên đều có thể đưa thuốc vào đường hô hấp của trẻ như nhau nhưng cũng bị thất thoát ra ngoài môi trường khá nhiều. Người ta ước tính chỉ có khoảng 15-50% lượng thuốc khí dung vào được đường hô hấp của trẻ.

5.2.2.  Xịt thở định liều qua Spacer

Đưa thuốc qua đường này dễ dàng và cũng có hiệu quả tương đương như khí dung. Bởi vì thuốc bị thất thoát ra ngoài khá nhiều qua đường khí dung nên khó xác định đúng liều xịt thở qua Spacer có tương đương với khí dung hay không? Nhìn chung, mặc dù liều thuốc xịt thở qua Spacer thấp hơn so với liều khí dung nhưng vẫn cho kết quả tương đương.

Cần lưu ý rằng không được xịt quá 1 cái vào spacer 1 lần vì nếu xịt từ 2 cái trở lên thì các phân tử hạt thuốc sẽ va đập với nhau nhiều hơn và sẽ đọng vào thành trong của spacer nhiều hơn do đó thuốc vào đường hô hấp của bệnh nhi sẽ ít đi. Lượng các hạt phân tử thuốc trong spacer cũng có thể giảm rõ rệt nếu ta dùng spacer mới hoặc mới rửa gây thay đổi điện tích do tích điện ở thành spacer. Điều này có thể khắc phục bằng cách tăng số lần xịt và khi đó không được đánh giá là bệnh nhi bị cơn hen nặng hơn do phải dùng liều thuốc cao hơn.

Liều lượng:

+ Trẻ dưới 5 tuổi:

Khí dung: 1 lần 1 ống Salbutamol (Ventollin) 2,5mg/2,5ml hoặc 1/2 ống terbutaline (Bricanyl) 10mg/2ml hoặc

Phun mù qua Spacer: 1 lần 6 nhát xịt salbutamol (Ventollin) 100mcg

+ Trẻ trên 5 tuổi.

Khí dung: 1 lần 1 ống Salbutamol (Ventollin) 5mg/2,5ml hoặc 1/2 ống Terbutaline (Bricanyl) 10mg/2ml hoặc

Phun mù qua Spacer: 1 lần 12 nhát xịt salbutamol (Ventollin) 100mcg

5.2.3.  Các đường dùng khác

Nếu không có thuốc kích thích b2 loại đưa qua đường hô hấp thì có thể dùng dạng uống. Dạng uống bắt đầu có tác dụng trong khoảng 30 phút, tác dụng tối đa sau 2-3 giờ và kéo dài khoảng 6- 8 giờ

*Uống

Salbutamol hoặc Terbutaline (Bricanyl)

Liều lượng:

  • Cho trẻ 2 tháng đến 1 tuổi: Salbutamol 2mg 1/2viên/lần, hoặc dạng siro 2,5 ml/lần hoặc Bricanyl dạng siro 2,5 ml/lần. Dùng 3lần/ngày.
  • Cho trẻ 1- 5 tuổi: Salbutamol 2mg 1viên/lần, hoặc dạng siro 5 ml/lần hoặc Bricanyl dạng siro 5 ml/lần. Dùng 3lần/ngày.
  • Cho trẻ trên 5 tuổi: Salbutamol 4 mg ½-1viên/lần, hoặc Bricanyl 5mg ½-1viên/lần. Dùng 3lần/ngày

*Tiêm truyền tĩnh mạch

Trong các trường hợp dùng đường khí dung hoặc phun mù không kết quả thì dùng đường tiêm tĩnh mạch

  • Salbutamol dạng tiêm (ống 0,5mg/ml) chỉ nên dùng trong cơn hen nặng với liều 1mcg/kg, tiêm tĩnh mạch chậm trong 10 phút, sau đó truyền tĩnh mạch với liều 0,2mcg/kg/phút. Hoặc dùng
  • Bricanyl (ống 0,5mg/ml), liều khởi đầu là 1,5 mcg/kg (0,003ml/kg) tiêm tĩnh mạch chậm trong 10 phút sau đó truyền tĩnh mạch 25mcg/kg/24giờ (0,05ml/kg/24giờ).
  • Dùng đường này dễ có tai biến nhịp nhanh kịch phát hoặc rung thất nên cần phải theo dõi điện tâm đồ hoặc nhịp tim nếu thấy nhịp tim quá nhanh hoặc có rối loạn nhịp thì phải ngừng truyền

5.3.  Thuốc kháng cholinergic (Ipratropium bromide)

Các nghiên cứu gần đây cho thấy phối hợp dùng thuốc b2 với kháng cholinergic qua đường hô hấp có tác dụng giãn phế quản tốt hơn là chỉ dùng riêng các thuốc trên và là biện pháp điều trị tiếp theo nếu sau khi dùng thuốc b2 khí dung hoặc phun mù không hiệu quả và trước khi xem xét có nên dùng Methylxanthine hay không? Các nghiên cứu trên người lớn và trẻ em đều cho thấy khi phối hợp 2 thuốc làm giảm tỷ lệ bệnh nhân hen cấp phải nhập viện và cải thiện PEF và FEV1 tốt hơn chỉ dùng 1 thuốc

5.3.1.  Phun mù

Ipratropium bromide (Atrovent) dùng xịt thở, liều định lượng cho mỗi lần xịt là 20mcg. Ngày xịt 2-4 lần mỗi lần 2 cái. Hiện nay người ta phối hợp Ipratropium bromide với một thuốc tác dụng chọn lọc beta 2 -Adrenergic trong một biệt dược để làm tăng tác dụng giãn phế quản của thuốc. Đó là các biệt dược Berodual kết hợp giữa Ipratropium 0,02mg và Fenoterol 0,05 mg trong một liều xịt thở

5.3.2.Khí dung

Ipratropium bromide (Atrovent) dạng khí dung, ống 250mcg/2ml. Liều cho trẻ dưới 5 tuổi dùng 1/2 ống và cho trẻ trên 5 tuổi là 1 ống. Hiện nay cũng đã có dạng phối hợp với một thuốc tác dụng chọn lọc beta 2-Adrenergic trong một biệt dược đó là Combivent. Trong 1 ống 2,5ml Combivent có 0,5mg Ipratropium bromide và 2,5mg Salbutamol base. Mỗi lần khí dung có thể dùng 1 ống Combivent cho trẻ trên 5 tuổi và 1/2 ống cho trẻ dưới 5 tuổi. Ngày dùng từ 2-4 lần

5.4.  Methylxanthine tác dụng ngắn và nhanh

Thuốc có tác dụng giãn phế quản tương đương với thuốc kích thích b2 đường hô hấp. Tác dụng này phụ thuộc vào nồng độ của thuốc trong huyết tương từ 10-20 mcg/ml kể cả khi tiêm và uống. Tuy nhiên độc tính lại tăng lên ở mức nồng độ này. Do thuốc có nhiều tác dụng phụ hơn nên chỉ dùng làm thuốc thay thế cho thuốc b2. Hiện nay việc sử dụng loại thuốc tác dụng ngắn và nhanh trong điều trị cơn hen cấp vẫn còn tranh luận. Mặc dù lợi ích của thuốc có thể là tăng cường kích thích hô hấp hoặc chức năng cơ trơn phế quản, kéo dài hoặc hỗ trợ đáp ứng của bệnh nhân với thuốc kích thích b2 trong khoảng thời gian giữa  2 liều dùng thuốc nhưng vì nguy cơ có tác dụng phụ và độc tính cao nên chỉ được dùng như là liệu pháp thay thế khi các biện pháp cắt cơn hen bằng thuốc kích thích beta 2 không kết quả

Nếu bệnh nhân đã dùng theophylin hàng ngày rồi thì cần phải đo nồng độ thuốc trong huyết thanh trước khi sử dụng theophylin tác dụng nhanh.

Liều 5-7 mg/kg/lần pha với 20-40 ml dung dịch glucose 5% tiêm tĩnh mạch chậm trong 10 phút. Sau 8 giờ có thể tiêm lại. Nếu trước đó bệnh nhân đã được dùng Theophylline thì phải giảm liều và tốt nhất nên đo nồng độ của thuốc trong huyết tương trước khi quyết định dùng liều tiếp theo.

5.5.  Epinephrine

Tiêm Adrenalin dưới da có tác dụng nhanh từ 1-5 phút và kéo dài từ 1-3 giờ. Có thể dùng Adrenalin 1 phần nghìn để tiêm dưới da với liều 0,01ml/kg/lần, tối đa một lần không quá 0,3 ml để điều trị cơn hen trong shock quá mẫn và phù mạch. Thuốc cũng có thể được dùng trong điều trị cơn hen cấp nếu không có thuốc b2 đường hô hấp và đường tĩnh mạch. Tuy nhiên vì thuốc có nhiều tác dụng phụ hơn, đặc biệt ở những bệnh nhân có thiếu oxy nên ít được sử dụng

5.6.  Corticosteroid

Thuốc có tác dụng chống viêm, làm giảm tính mẫn cảm của phế quản. Thuốc cũng có tác dụng kích thích làm tăng AMP vòng thông qua tác dụng trên beta 2 –Adrenergic nhưng tự nó không làm giãn phế quản. Do vậy thuốc dùng để ngăn ngừa các cơn tái phát về sau nên chỉ bắt đầu dùng thuốc sau khi đã sử dụng thuốc giãn phế quản

Trong điều trị cơn hen cấp người ta ưu tiên dùng đường uống. Khi không thể dùng đường uống được do bệnh quá nặng đến mức bệnh nhân không thể uống được hoặc có các chống chỉ định dùng đường uống thì mới dùng đường tiêm tĩnh mạch. Cần chú ý rằng kể cả đường uống và tiêm tĩnh mạch đều phải mất 4 giờ sau thì thuốc mới có tác dụng trên lâm sàng và hiệu quả của cả 2 đường này là như nhau

*Uống

Prednisolon liều 1- 2 mg/kg uống từ 3-7 ngày hoặc Betamethasone 0,1- 0,2 mg/kg uống 3-7 ngày hoặc Methylprednisolone 5-10mg/kg uống 3-7 ngày.

*Tiêm tĩnh mạch

Depersolon 1mg/kg/lần hoặc Methylprednisolone 40mg 1-2ống/lần hoặc Hydrocortisone 200-400mg/lần. Ngày dùng 2-6 lần. Thời gian dùng từ 3-5 ngày. Khi tình trạng bệnh nhân ổn định thì chuyển sang uống.

* Khí dung

Một số nghiên cứu cho thấy dùng khí dung Budesonide liều cao 2,4 mg/ngày chia 4 lần cũng có tác dụng như khi dùng corticoide đường uống. Như vậy có thể dùng thuốc này khi có chống chỉ định dùng corticoide đường toàn thân như trường hợp bệnh nhi có loét dạ dày tá tràng hoặc có nguy cơ chảy máu đường tiêu hóa, những bệnh nhi cao huyết áp hoặc tiểu đường hoặc những trường hợp trẻ không thể dùng đường uống do nôn nhiều hoặc đường tiêm do không thể lấy được tĩnh mạch

5.7.  Magnesium

Mặc dù không phải là thuốc được sử dụng thường xuyên trong cơn hen cấp ở trẻ em nhưng một số nghiên cứu cho thấy thuốc có thể làm giảm tỷ lệ trẻ bị hen cấp phải nhập viện ở một số nhóm trẻ thất bại với điều trị hen ban đầu, những trẻ có FEV1<60% so với lý thuyết sau 1 giờ điều trị ban đầu khi đó có thể truyền tĩnh mạch magiesium với liều 2g trong 20 phút. Cũng có thể dùng trong cơn hen nặng với Magnesium sulphat 50% 0,1ml/kg (50mg/kg) truyền TM trong 20 phút sau đó 0,06ml/kg/h (30mg/kg/h)

6.  CÁC THUỐC KHÔNG DÙNG ĐIỀU TRỊ CƠN HEN CẤP

  • Thuốc an thần (tránh tuyệt đối, trừ khi bệnh nhân được thông khí nhân tạo).
  • Thuốc long đờm vì làm ho nhiều hơn.
  • Vỗ rung và vật lý trị liệu vùng ngực vì có thể làm bệnh nhi khó chịu hơn.
  • Truyền dịch với khối lượng lớn cho trẻ lớn (tuy nhiên với trẻ nhỏ hoặc trẻ còn bú thì có thể cần thiết).

Kháng sinh là không cần thiết nhưng có thể dùng được cho bệnh nhi có viêm phổi hoặc nhiễm khuẩn khác như viêm xoang chẳng hạn

Stamaril Pasteur

Thuốc Stamaril Pasteur
Thuốc Stamaril Pasteur

STAMARIL PASTEUR

AVENTIS PASTEUR

Bột đông khô và dung môi để pha huyền dịch tiêm: hộp 1 ống vaccin đông khô + 1 bơm tiêm chứa 0,5 ml chất pha loãng, hộp 10 ống 5 liều + hộp 10 ống chứa 2,5 ml chất pha loãng*, hộp 10 ống 10 liều + hộp 10 lọ chứa 5 ml chất pha loãng*, hộp 10 ống 20 liều + hộp 10 lọ chứa 10 ml chất pha loãng*, hộp 10 ống 50 liều + hộp 10 lọ chứa 25 ml chất pha loãng*.

  • Hộp chứa các ống hay các lọ chứa chất pha loãng được cung cấp riêng.

THÀNH PHẦN

cho 0,5 ml
Virus gây bệnh sốt vàng, chủng 17D không có virus gây bệnh leuco ở gà, cấy trên phôi gà tối thiểu 1000 LD50
Chất pha loãng đệm 0,5 ml

CHỈ ĐỊNH

Phòng ngừa bệnh sốt vàng. Vaccin được khuyến cáo dùng ở:

  • Những người du lịch, ngay cả khi chỉ đi du lịch trong thời gian ngắn, hay những người ở trong vùng dịch tễ.
  • Những người ở trong vùng dịch tễ nhưng chưa tiêm ngừa đi đến một vùng không có dịch.
  • Những người có nguy cơ nhiễm bệnh do nghề nghiệp.
  • Những người nhiễm HIV không có triệu chứng, có nguy cơ nhiễm bệnh sốt vàng.

Để được công nhận chính thức, việc tiêm ngừa vaccin sốt vàng phải được ghi trên một giấy chứng nhận quốc tế, ký tên và xác nhận bởi một trung tâm tiêm ngừa chính thức được công nhận. Giấy chứng nhận tiêm ngừa có giá trị trong mười năm, kể từ ngày thứ 10 sau khi tiêm.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Các chống chỉ định tiêm vaccin sốt vàng nói chung cũng giống chống chỉ định của các vaccin khác:
– Các bệnh nhiễm trùng đang tiến triển.
– Các bệnh ác tính đang tiến triển.
– Đang điều trị ức chế miễn dịch.
Các chống chỉ định đặc biệt của tiêm ngừa sốt vàng:
– Thực sự dị ứng với protein của trứng.
– Suy giảm miễn dịch bẩm sinh hay mắc phải.
Phụ nữ có thai và trẻ em dưới 6 tháng tuổi không nên tiêm ngừa. Tuy nhiên, nếu đang có dịch, phụ nữ có thai và trẻ em từ 4 tháng tuổi có thể tiêm ngừa.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Những người dị ứng được đề nghị thử nghiệm về dung nạp thuốc: tiêm trong da 0,1 ml vaccin, theo dõi, nếu trong vòng 10 đến 15 phút mà không có phản ứng, tiêm dưới da phần thuốc còn lại, tức là 0,4 ml.

Trong vài trường hợp đặc biệt, có thể quyết định tiêm ngừa sốt vàng ở những người đã điều trị ức chế miễn dịch. Thận trọng, thì chỉ nên tiêm ngừa sau khi ngưng điều trị một tháng, sau khi chắc chắn rằng, trong mọi trường hợp, các chỉ số sinh học đều bình thường.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Vaccin Stamaril Pasteur có thể tiêm cùng lúc với vaccin viêm màng não do não mô cầu nhóm A và nhóm C (vaccin méningococcique A+C), vaccin bại liệt dạng uống hay dạng tiêm, vaccin sởi, vaccin Typhim Vi và vaccin bạch hầu, uốn ván và ho gà mà không ảnh hưởng gì đến tính sinh miễn dịch của các vaccin này.

Chống chỉ định tiêm ngừa sốt vàng đồng thời với các vaccin tả, thương hàn và phó thương hàn A và B dạng tiêm trong vòng 3 tuần lễ.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Phản ứng có thể xuất hiện từ ngày thứ tư đến ngày thứ bảy sau khi tiêm dưới các dạng như sốt, đau mình mẩy, mệt và nhức đầu.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Liều lượng:

Tiêm ngừa cơ bản: tiêm dưới da hay tiêm bắp một liều 0,5 ml vaccin đã pha.

Tiêm nhắc: những qui định quốc tế về sức khỏe yêu cầu tiêm nhắc 0,5 ml vaccin mỗi 10 năm.

Cách dùng:

Dạng trình bày đơn liều:

Pha vaccin cẩn thận bằng cách bơm chất pha loãng trong bơm tiêm vào ống vaccin đông khô. Sau khi hòa tan hoàn toàn, vaccin được rút trở lại vào bơm tiêm và tiến hành tiêm.

Dạng trình bày đa liều:

Lượng chất pha loãng cần thiết để pha vaccin:

  • 2,5 ml cho ống chứa 5 liều,
  • 5 ml cho ống chứa 10 liều,
  • 10 ml cho ống chứa 20 liều,
  • 25 ml cho ống chứa 50 liều,

Pha vaccin đông khô trong ống với một lượng nhỏ chất pha loãng, lắc và thêm dần lượng chất hòa tan còn lại. Trước khi tiêm, phải lắc kỹ lọ vaccin đã pha. Vaccin được tiêm dưới da.

Vaccin sau khi pha phải bảo quản ở nơi tránh ánh sáng và nên dùng trong vòng một giờ sau khi pha.

BẢO QUẢN

Bảo quản ở nhiệt độ từ +2oC đến +8oC (trong tủ lạnh). Không được để đông đặc.

Sử dụng ngay sau khi pha vaccin.

Không dùng quá thời hạn sử dụng ghi rõ trên hộp thuốc.

Thuốc Decaquinon 10mg chữa bệnh suy tim sung huyết

Hoạt chất của Decaquinon là ubidecarenone (Coenzyme Q10, Ubiquinone 50), chất này được phân lập đầu tiên từ cơ tim bò, điều trị triệu chứng có liên quan đến suy tim xung huyết nhẹ và vừa ở những bệnh nhân đang được điều trị với phác đồ chuẩn.

DECAQUINON

Viên nén 10 mg: vỉ 10 viên, hộp 25 vỉ.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Ubidecarenone
10 mg

MÔ TẢ

Ubidecarenone có tên hóa học là 2,3-Dimethoxy-5-methyl-6-decaprenyl-benzoquinone. Công thức phân tử: C59H90O4. Trọng lượng phân tử: 863,36.

Ubidecarenone tồn tại dưới dạng bột tinh thể màu vàng đến cam, không mùi, không vị. Nó rất dễ tan trong chloroform và carbon tetrachloride, tan tự do trong dioxane, ether và hexane, tan một phần trong acetone và hầu như không tan trong nước, methanol và ethanol. Khi ra ngoài ánh sáng, nó bị phân hủy dần và chuyển sang màu sẫm.

Điểm nóng chảy: khoảng 48oC.

DƯỢC LỰC

Hoạt chất của Decaquinon là ubidecarenone (Coenzyme Q10, Ubiquinone 50), chất này được phân lập đầu tiên từ cơ tim bò vào năm 1957 dưới dạng các tinh thể tan trong chất b o. Sau đó, Cooly và Folkers cùng các cộng sự đã chứng minh hoạt tính của Ubidecarenone suy giảm trong cơ tim người bị bệnh tim. Ubidecarenone (CoQ10), sau khi uống, được hấp thu thông qua hệ thống bạch huyết và thâm nhập vào ty thể trong tế bào. Hiện nay, người ta đã xác nhận rằng CoQ10 có tác động trực tiếp trên cơ tim bị thiếu máu cục bộ và tăng cường hiệu suất sử dụng oxy. Các tác dụng này của CoQ10 giúp cơ tim duy trì chức năng sản sinh năng lượng ở mức độ cao, ngay cả trong các trường hợp bị thiếu máu cục bộ, do đó làm giảm các tổn thương của tế bào cơ tim do thiếu máu gây ra. Trong thực tế lâm sàng, hiệu quả của CoQ10 trên các rối loạn cơ tim được khảo sát bằng điện tâm đồ lúc nghỉ ngơi và khi gắng sức, người ta đã xác nhận rằng CoQ10 giúp khôi phục sự suy giảm chức năng tim. Hơn nữa, các thử nghiệm lâm sàng mù đôi có kiểm chứng cho thấy hiệu quả của Decaquinon trong việc cải thiện các triệu chứng của suy tim xung huyết có kèm theo sự suy giảm chức năng tâm thất trái do thiếu máu cục bộ tim mạn tính hay bệnh tim huyết áp cao.

DƯỢC LÝ LÂM SÀNG

Dược lý học :

Cải thiện hiệu quả sử dụng oxy trên cơ tim bị thiếu máu cục bộ :

Thực nghiệm dùng cơ tâm thất của chuột lang đã cho thấy Ubidecarenone cải thiện sự suy giảm lực co cơ xảy ra trong tình trạng thiếu oxygen do tiêm truyền Tyrode, cũng như cải thiện sự suy giảm thời gian điện thế hoạt động trong điều kiện thiếu oxygen.

Kích hoạt sự tổng hợp ATP trong các ty thể của tế bào cơ tim :

Ubidecarenone điều chỉnh hệ số kiểm soát hô hấp và sự tổng hợp ATP ở ty thể tế bào cơ tim bị thiếu máu trong một thực nghiệm trên chó. Nó cũng ngăn cản sự giảm tổng hợp ATP trong thiếu máu cục bộ và tái tưới máu, và tăng cường tổng hợp ATP trong một thực nghiệm tưới máu khi sử dụng tim thỏ và tim chuột.

Cải thiện sự suy giảm chức năng tim :

Trong một thực nghiệm ở chuột, Ubidecarenone ức chế sự giảm thiểu lực co bóp cơ tim do thiếu máu cục bộ và tái tưới máu, đồng thời cải thiện chức năng tim bị suy.

Bảo vệ cơ tim :

Ubidecarenone có tác dụng chống oxy hóa và làm bền màng tế bào; nó có tác dụng hạn chế tổn thương cơ tim gây ra do doxurobicin hydrochloride ở chuột. Nó cũng ức chế sự phóng thích các enzym của cơ tim vào máu, gây ra bởi thiếu máu cục bộ thực nghiệm ở chó.

Tác dụng kháng aldosterone :

Một thực nghiệm ở chuột đã chứng tỏ Ubidecarenone ức chế sự tiết aldosterone và đối kháng với sự lưu giữ Na+ do aldosterone gây ra, dẫn đến sự gia tăng bài tiết Na+ qua đường tiểu. Tuy nhiên, Ubidecarenone không có tác dụng trên sự bài tiết K+.

Nghiên cứu lâm sàng :

Hiệu quả lâm sàng :

Trong những nghiên cứu mù đôi và các nghiên cứu mở, Decaquinon đã cho thấy có hiệu quả và hữu ích trong điều trị các triệu chứng khách quan và chủ quan (phù, xung huyết phổi, gan phì đại và các triệu chứng đau thắt ngực) liên quan đến suy tim xung huyết trong bệnh tim do thiếu máu, do huyết áp cao hoặc bệnh thấp tim.

Tác dụng không mong muốn và những biến đổi trị số cận lâm sàng :

Trong số 5.350 bệnh nhân điều trị với Decaquinon, tác dụng không mong muốn chỉ được ghi nhận trên 78 bệnh nhân (1,46%). Thông thường nhất là khó chịu dạ dày 21 ca (0,39%), chán ăn 13 ca (0,24%), buồn nôn 10 ca (0,19%), tiêu chảy 6 ca (0,11%), phát ban da 9 ca (0,17%).

Không có biến đổi các trị số sinh hóa.

CHỈ ĐỊNH

Các triệu chứng có liên quan đến suy tim xung huyết nhẹ và vừa ở những bệnh nhân đang được điều trị với phác đồ chuẩn.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Đến nay, không có chống chỉ định nào đối với Decaquinon.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Khả năng sinh quái thai của Decaquinon chưa được ghi nhận. Trong lâm sàng, độ an toàn của Decaquinon trong thời gian mang thai chưa được xác định.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Chưa có báo cáo nào ghi nhận Decaquinon tương tác với các thuốc khác một cách đáng kể về mặt lâm sàng.

Tương kỵ viên nén Decaquinon được bao đường và tính tương kỵ của nó chưa được ghi nhận.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Trên hệ tiêu hóa :

Khó chịu dạ dày, chán ăn, buồn nôn hoặc tiêu chảy có thể xảy ra nhưng không thường xuyên. Quá mẫn :

Những triệu chứng như phát ban da có thể xảy ra nhưng không thường xuyên.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Liều thông thường đối với người lớn là uống 1 viên (10 mg Ubidecarenone) x 3 lần/ngày sau các bữa ăn chính.

BẢO QUẢN

Do đặc tính vật lý (điểm nóng chảy của hoạt chất khoảng 48oC), viên nén Decaquinon phải được lưu trữ ở nhiệt độ phòng, tránh ánh sáng và tránh ẩm

Chẩn đoán và điều trị ngộ độc chì ở trẻ em

ĐẠI CƯƠNG

Chì là kim loại nặng có trong không khí, đất, nước bị ô nhiễm. Chì được hấp thụ vào máu và phân tán vào các mô. Chì gây rối loạn nhiều hệ thống enzym của tế bào, rối loạn sinh tổng hợp nhân Heme, ngăn cản vận chuyển sắt vào cơ thể.

Nồng độ chì máu toàn phần bình thường < 10pg/dL, nồng độ lý tưởng là 0pg /dL.

Trẻ tiếp xúc với chì qua nhiều nguồn khác nhau:

  • Các thuốc nam: dùng uống, bôi, được gọi là thuốc cam…
  • Sơn có chì: loại sơn cũ, đồ chơi dùng sơn chì.
  • Môi trường sống: bụi từ sơn chì cũ, đất bị nhiễm sơn chì, ô nhiễm từ hoạt động công nghiệp có chì.
  • Thực phẩm: đồ hộp có chất hàn gắn hộp sử dụng chì, đồ nấu ăn bằng chì, các nguồn thực phẩm bị ô nhiễm từ môi trường do không được kiểm soát tốt.
  • Các nguồn có chì khác: vật dụng (Ví dụ: đồ gốm, sứ thủ công có chì), mảnh đạn chì trên cơ thể, pin có chì, lưới đánh cá buộc chì.

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

  • Có tiếp xúc với các nguồn có chì, hoặc có triệu chứng gợi ý.
  • Xét nghiệm chì máu > 10 pg/dL (tiêu chuẩn bắt buộc).

Chẩn đoán phân biệt

  • Các nguyên nhân gây bệnh lý não, màng não cấp do các bệnh lý, ngộ độc khác.
  • Các bệnh lý thần kinh ngoại biên, như Guillain – Barré,
  • Thiếu máu do các nguyên nhân khác.
  • Các nguyên nhân đau bụng cấp không do chì.

CHẨN ĐOÁN NGỘ ĐỘC CHÌ ở TRẺ EM

Ngộ độc chì đến sớm

  • Mức độ nặng:
  • Thần kinh trung ương: hội chứng não cấp (thay đổi hành vi, co giật, hôn mê, phù gai thị, liệt dây thần kinh sọ, tăng áp lực nội sọ), dịch não tuỷ biến đổi.
  • Tiêu hoá: nôn kéo dài, táo bón, giảm cân.
  • Biểu hiện thiếu máu, có thể kết hợp thiếu sắt.
  • Xét nghiệm: nồng độ chì máu: > 70μg /dL.
  • Mức độ trung bình:
  • Thần kinh trung ương: tăng kích thích, ngủ lịm từng lúc, bỏ chơi, quấy khóc, giảm trí nhớ.
  • Tiêu hoá: nôn từng lúc, đau bụng, chán ăn.
  • Xét nghiệm: nồng độ chì máu: 45 – 70pg /dL.
  • Mức độ nhẹ:
  • Kín đáo hoặc không triệu chứng.
  • Nồng dộ chì máu: < 45g /dL.

Ngộ độc chì đến muộn

Chậm phát triển tinh thần vận động, co giật, thiếu máu, giảm cân.

CÁC XÉT NGHIỆM, THĂM DÒ

Xét nghiệm, thăm dò thông thường

  • Huyết học: công thức máu có thể thiếu máu, huyết đồ có thể thấy hồng cầu có hạt ưa kiềm, protoporphyrin hồng cầu tăng.
  • Sinh hoá: urê, đường, creatinin, điện giải, AST, ALT, calci, giảm sắt, ferritin tổng phân tích nước tiểu: đường, protein, đái máu, acid
  • Dịch não tuỷ: protein tăng những tế bào < 100 tế bào /ml. Áp lực có thể tăng.
  • Chẩn đoán hình ảnh:

+ Chụp Xquang bụng: nếu ngộ độc qua đường tiêu hóa có thể thấy hình cản quang.

+ Chụp Xquang tìm viên /mảnh đạn chì còn trên cơ thể.

+ Chụp khớp: có thể thấy viền tăng cản quang ở sụn liên hợp ở đầu xương dài.

+ Chụp cắt lốp sọ não nếu hôn mê, co giật có thể thấy tăng áp lực nội sọ.

  • Điện não: có thể thấy sóng kiểu động kinh.

Xét nghiệm độc chất

  • Nồng độ chì máu toàn phần: trên 10p.g/dL là xét nghiệm quan trọng nhất.
  • Chì niệu (lấy nước tiểu 24 giờ): giúp theo dõi khi điều trị, tăng khi được dùng thuốc gắp chì. (Xét nghiệm chì máu, chì niệu cần làm trước, trong và ngay sau mỗi đợt dùng thuốc gắp chì).
  • Cần làm xét nghiệm các kim loại nặng khác nếu nghi ngờ ngộ độc phối hợp.

ĐIỀU TRỊ

Tiêu chuẩn nhập viện

  • Ngộ độc trung bình và nặng.
  • Hoặc diễn biến phức tạp cần theo dõi sát và thăm dò kỹ hơn.

Điều trị triệu chứng, điều trị hỗ trợ

  • Xử trí cấp cứu điều trị các triệu chứng: suy hô hấp, co giật, hôn mê, tăng áp lực nội sọ,… theo phác đồ cấp cứu.
  • Điều trị co giật nếu có sóng động kinh trên điện não.
  • Truyền máu nếu thiếu máu nặng, khẩu phần ăn nhiều calci, phospho, vitamin D.
  • Dùng thuốc chống co thắt nếu đau bụng.

Điều trị để hạn chế hấp thu chì

  • Xác định nguồn chì và ngừng phơi nhiễm.
  • Rửa dạ dày: nếu mối uống, nuốt chì dạng viên thuốc, bột trong vòng 6 giờ.
  • Rửa ruột toàn bộ:

+ Khi Xquang có hình ảnh kim loại (chì) ở vị trí của ruột.

+ Chống chỉ định: suy thở, hôn mê, sốc, thủng ruột.

+ Dùng dung dịch polyethylen glycol và điện giải (như Fortrans):

  • Trẻ 9 tháng 12 tuổi: 20ml/kg/giờ.

. Từ 12 tuổi trở lên: 1 lít /giờ

. Uống hoặc nhỏ giọt qua ống thông dạ dày, bệnh nhân ngồi hoặc Fowler 45 độ.

. Dùng tối khi phân nước trong và chụp Xquang bụng lại thấy hết hình ảnh cản quang.

Nội soi lấy dị vật có chì

Khi:

  • Có hình ảnh mảnh chì, viên thuốc có chì ở vị trí dạ dày trên phim chụp Xquang bụng.
  • Mảnh chì, viên thuốc có chì vẫn còn ở đại tràng mặc dù đã rửa ruột toàn bộ.

sử dụng thuốc giải độc chì (gắp chỉ)

  • Chỉ định thuốc gắp chì dựa trên nồng độ chì máu, tuổi và triệu chứng của bệnh nhân.
  • Ngộ độc chì nặng: dùng dimercaprol (British anti-Lewisite, BAL), calcium disodium edetate (CaNa2EDTA).
  • Ngộ độc chì trung bình, nhẹ:

+ Ưu tiên dùng succimer (2,3-dimercaptosuccinic acid, DMSA).

+ Khi không có hoặc không dùng được các thuốc trên: dùng D-penicillamin.

  • Cách dùng thuốc gắp chì:
  • Mục tiêu: chì máu < 20pg/dL và ổn định (hai lần xét nghiệm cuối cùng cách nhau 3 tháng).
  • Cách dùng:

+ Dùng theo đợt:

. BAL, EDTA: 3-5 ngày/đợt.

. Succimer: 19 ngàỵ/đợt.

. D-penicillamin: 7-30 ngày/đợt, theo dõi nếu không có tác dụng phụ thì dùng tối đa 30 ngày/đợt, tạm ngừng hoặc giảm liều ngay khi có tác dụng phụ.

+ Khoảng thời gian nghỉ:

  • Dùng BAL, EDTA: sau đợt 1 nghỉ 2 ngày, sau đợt 2 nghỉ 5-7 ngày, các đợt sau có thể dài hơn tùy theo nồng độ chì máu.
  • Succimer: thường nghỉ ít nhất 2 tuần trước khi dùng thuốc đợt tiếp theo.

. D-penicillamin: bệnh nhân có triệu chứng nhẹ, nghỉ 10-14 ngày trước khi bắt đầu đợt gắp tiếp theo, các đợt nghỉ 14 ngày.

– Chỉ định, liều thuốc điều trị (gắp chì) cụ thể theo bảng 2.6:

Bảng 2.6. Chỉ định và liều điều trị giải độc chì (gắp chì)

Triệu chứng, nồng độ chì máu (pg/dL) Tên thuốc, liều dùng Cách dùng 1 đợt
Bệnh não do chì Dùng kết hợp:

BAL: 450mg/m2/24giờ (24mg/kg/24giò)

–    Chia làm 6 lần, 75mg/m2/lần (4mg/kg/lần), 4 giờ /lần, tiêm bắp sâu, đổi vị trí tiêm mỗi lần.

–  Dùng 5 ngày / đợt.

Bệnh não do chì Và:

CaNa2EDTA1500

mg/m2/24giờ

(50-75mg/kg/24giờ)

–  Bắt đầu sau khi đã dùng BAL được

4 giờ. •

–  Truyền tĩnh mạch liên tục trong 24 giờ hoặc chia làm 2-4 lẩn để truyền ngắt quãng.

–  Dùng 5 ngày / đợt

Chì máu > 70 hoặc có triệu chứng Dùng kết hợp:

BAL. 300 –

450mg/m2/24giờ

(18-24mg/kg/24giờ)

–   Chia làm 6 lần, 50-75mg/m2/Iần (3- 4mg/kg/lần), 4 giờ /lần, tiêm bắp sâu, đổi vị trí tiêm mỗi lần.

–  Dùng 3-5 ngày/đợt

–  Liều cụ thể, thời gian dùng căn cứ vào chì máu, mức độ nặng của triệu chứng

Chì máu > 70 hoặc có triệu chứng Và:

CaNa2EDTA 1000 1500mg /m2/24giờ (25-75mg/kg/24giờ)

–  Bắt đầu sau khi đã dùng BAL được 4 giờ.

–  Truyền tĩnh mạch liên tục trong 24 giờ hoặc chia làm 2-4 lần để truyền ngắt quãng.

–  Dùng 5 ngày/đợt

–  Liều cụ thể, thời gian dùng căn cứ vào chì máu, mức độ nặng của triệu chứng.

 

Triệu chứng, nồng độ chì máu (pg/dL) Tên thuốc, liều dùng Cách dùng 1 đợt
Chì máu 45-70 Succimer 700-

1050mg/m2/24giờ

(20-30mg/kg/24giờ)

Uống 350mg/m2/lần (10 mg/kg/lần), 3 lần/ngày, trong 5 ngày, sau đó 2 lần /ngày trong 14 ngày.
Chì máu 45-70 Hoặc:

CaNa, EDTA, 1000

mg/m2/24giờ

(25-50mg/kg/24giờ)

Truyền tĩnh mạch liên tục trong 24 giờ, hoặc chia 2-4 để truyền ngắt quãng trong ngày, đợt 5 ngày.
Chì máu 45-70 Hoặc (hiếm khi): D-penicillamin:

25-35mg/kg/ngày, bắt đầu liều nhỏ hơn 25% liều này, sau 2 tuần tăng về liều trung bình.

–  Liều trong ngày chia thành các liều nhỏ, uống xa bữa ăn.

–  Nếu không có chỉ định gắp nhanh chóng thì chỉ nên dùng trong 1 tháng, sau đó tạm nghỉ ít nhất 2 tuần trước khi dùng thuốc đợt tiếp theo. Các đợt nghỉ sau có thể 2 tuần hoặc kéo dài hơn.

–   Vì nhiều tác dụng phụ chỉ nên dùng liều thấp nhất có hiệu quả.

Chì máu 20-44 Không chỉ định gắp thường quy.

Dùng thuốc gắp nếu: trẻ <2 tuổi, gợi ý có triệu chứng kín đáo, chì máu 35-44pg /dL, chì máu vẫn không giảm sau ngừng phơi nhiễm 2 tháng.

Dùng succimer hoặc D-penicillamin như trên.
Chì máu < 20 Không chỉ định gắp. Ngừng phơi nhiễm Theo dõi sự phát triển của trẻ và nồng độ chì máu mỗi 6 tháng.
  • Theo dõi dùng thuốc, lâm sàng tác dụng không mong muốn của chì máu, chì niệu: trước, trong sau mỗi đợt, công thức máu, chức năng thận gan, đường máu, điện giải, calci, sắt, ferritin, bổ sung nước và các khoáng chất, (lưu ý không bù sắt khi đang dùng BAL)
  • Cần phải loại bỏ hết nguồn phơi nhiễm chì trước khi cho trẻ xuất viện về nhà.

TIÊN LƯỢNG

  • Nồng độ chì máu > 70pg/dL thường gây hội chứng não cấp ở trẻ nhỏ (5 tuổi), có thể tử vong là 65%, 25-30% trẻ sẽ bị di chứng vĩnh viễn bao gồm chậm phát triển tinh thần, vận động, động kinh, mù, liệt.
  • Phần lớn các trẻ có chì máu tăng có nguy cơ chậm phát triển trí tuệ và thể chất, cần phải điều trị.
  • Có mối liên quan tỷ lệ nghịch giữa chỉ số IQ của trẻ em và nồng độ chì máu, ngay cả khi nồng độ chì máu thấp.

PHÒNG BỆNH

  • Tăng cường tuyên truyền, giáo dục sức khỏe, nâng cao nhận thức của người dân đối với chì, chỉ dùng các thuốc lưu hành hợp pháp.
  • Loại bỏ các sản phẩm có nguy cơ gây nhiễm độc chì trong cuộc sống hàng ngày như sơn có chì, đồ chơi có chì.
  • Giữ vệ sinh môi trường. Trẻ em ở nơi có ô nhiễm chì bên cạnh việc xử lý môi trường cần chú ý thường xuyên cung cấp đủ các chất khoáng cần thiết như calci, sắt, kẽm, ma giê.
  • Kiểm tra sức khỏe (gồm xét nghiệm chì máu) định kỳ ở những vùng phơi nhiễm chì.