Blog Trang 585

Equal – Chất ngọt dành cho người tiểu đường

EQUAL

MERISANT

Đường equal
Đường equal

Viên nén 19 mg: hộp 100 viên, 200 viên. Cốm uống 38 mg: hộp 10 gói, 25 gói, 50 gói. Bột uống 40 mg: hộp 1 lọ.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Aspartam 19 mg
cho 1 gói
Aspartam 38 mg
cho 1 lọ
Aspartam 40 mg

DƯỢC LỰC

Aspartam là a-L,-aspartyl-L-3-phenylalanine methyl ester. Đây là một dipeptid cấu tạo từ 2 acid amin thiên nhiên: L-aspartic acid và L-phenylalanine (dưới dạng methyl ester).

Tác động của Equal chỉ được biết là cung cấp vị ngọt tương tự như của đường sucrose nhưng mạnh hơn gấp 200 lần.

Năng lượng Số muỗng cà phê đường tương đương
1 viên Equal < 1/2 1
1 gói Equal 4 2

CHỈ ĐỊNH

Chất ngọt dành cho người tiểu đường.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Phenylketonuria.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

  • viên thay thế 1 muỗng cà phê đường. 1 gói thay thế 2 muỗng cà phê đường.

QUÁ LIỀU

Các thử nghiệm trên người cho thấy không tồn tại nguy hiểm tiềm tàng nào ngay cả khi dùng aspartam với lượng lớn.

Nhu cầu nước của cơ thể con người

Nước trong cơ thể người đóng vai trò rất quan trọng, trung bình có từ 55-65%. Trẻ sơ sinh có đến 80% nước. Sau 03 tháng tuổi sẽ giảm dần xuống 65% và sau đó sẽ giảm rất chậm. Ở tuổi 50, số nước trung bình vẫn còn trên 60%, tuổi 75 còn độ 55%. Có thể giảm khoảng 06% ở người lớn và 15% ở trẻ em so với mức trung bình, nhưng nếu quá mức đó sẽ nguy hại cho sức khỏe. Nước được giữ thăng bằng trong người qua cảm giác khát khi thiếu nước và mót đi tiểu khi uống nước quá nhiều.

Ăn là phải uống, không ăn cũng phải uống để có đủ nước trong cơ thể và để hòa tan các chất phế thải được thận lọc ra như: muối, Ure… khi nhịn ăn đến ngày thứ 02, những phân tử mỡ và đạm dự trữ trong cơ thể sẽ phân hủy thành Glucoza để nuôi não và Acid Amin để tái tạo những tế bào bị hủy hoại. Trong trường hợp này, một số phế thải được đưa ra ngoài qua bộ máy lọc của thận và phải có đủ nước mới lọc lọc được. Như vậy, ta có thể nhịn ăn 02 đến 03 tuần hoặc hơn nữa nhưng không thể nhịn uống được. Nhịn uống 02 ngày là bắt đầu thiếu nước rồi sinh bệnh.nhu cầu nước của cơ thể

Lượng nước trong các thức ăn, thức uống mỗi ngày khoảng 2.100ml; nước ở trong cơ thể kết lại do phản ứng hóa học độ 300ml. Tổng cộng là 2.400ml. Lượng nước tiết ra ngoài cũng tương đương bao gồm: nước tiểu 1.500ml; nước phân 100ml; nước ở phổi thở ra 300ml; hơi nước ở da toát ra 500ml. Tổng cộng cũng 2.400ml.

Nước có mặt trong tất cả các tổ chức và can thiệp vào mọi quá trình đồng hóa, dị hóa, hấp thu, bài tiết của cơ thể nên cơ thể không thể sống và hoạt động nếu thiếu nước.

Nhưng nếu lạm dụng nước trong ăn uống cũng sẽ gây trở ngại cho các quá trình sinh hóa như làm loãng dịch vị tác động không bình thường cho tiêu hóa, làm loãng máu, khiến tim phải làm nhiều hơn và thận cũng phải hoạt động quá mức bình thường để bài tiết lượng nước thừa trong máu.

Nước trong thân thể không phải là nước lã mà là những dung dịch của nhiều thứ muối và chất hữu cơ như Acid amin, Hormon, Enzym… Máu có 83% nước, thịt có 70-75% nước, xương có 30% nước… Tất cả những chuyển hóa và phản ứng hóa học đều xảy ra trong môi trường dung dịch nước. Khi đã thấy được sự cần thiết của nước trong cơ thể như vậy, ta càng phải sử dụng cho đúng, không khát không uống cũng là một yếu tố trong ăn uống hợp lý.

Điều trị chứng sợ khoảng rộng (Agoraphobia)

Một phương pháp tiếp cận từng bước thường được khuyến nghị để điều trị chứng sợ khoảng rộng và bất kỳ rối loạn hoảng loạn tiềm ẩn nào.

Các bước như sau:

  1. Tìm hiểu thêm về tình trạng của bạn, những thay đổi lối sống bạn có thể thực hiện và các kỹ thuật tự giúp để giảm triệu chứng.
  2. Tham gia chương trình tự giúp có hướng dẫn.
  3. Thực hiện các liệu pháp điều trị chuyên sâu hơn, chẳng hạn như liệu pháp nhận thức hành vi (CBT), hoặc xem liệu triệu chứng của bạn có thể được kiểm soát bằng thuốc hay không.

Kỹ thuật tự giúp và thay đổi lối sống

Tìm hiểu thêm về chứng sợ khoảng rộng và mối liên hệ của nó với rối loạn hoảng loạn và cơn hoảng loạn có thể giúp bạn kiểm soát triệu chứng tốt hơn.

Ví dụ, có những kỹ thuật bạn có thể sử dụng trong cơn hoảng loạn để kiểm soát cảm xúc của mình.

Có nhiều sự tự tin hơn trong việc kiểm soát cảm xúc của bạn có thể khiến bạn tự tin hơn trong việc đối phó với những tình huống và môi trường trước đây khiến bạn không thoải mái.

  • Ở lại nơi bạn đang đứng – cố gắng kiềm chế cơn thèm chạy đến một nơi an toàn trong cơn hoảng loạn; nếu bạn đang lái xe, hãy dừng lại và đỗ xe ở nơi an toàn.
  • Tập trung – rất quan trọng để bạn tập trung vào một thứ gì đó không đe dọa và dễ thấy, chẳng hạn như thời gian trôi qua trên đồng hồ của bạn, hoặc các mặt hàng trong siêu thị; nhắc nhở bản thân rằng những suy nghĩ và cảm giác đáng sợ chỉ là dấu hiệu của cơn hoảng loạn và sẽ qua đi.
  • Hít thở chậm và sâu – cảm giác hoảng loạn và lo âu có thể trở nên tồi tệ hơn nếu bạn thở quá nhanh; hãy cố gắng tập trung vào việc hít thở chậm, sâu trong khi đếm từ từ đến 3 trong mỗi lần hít vào và thở ra.
  • Thách thức nỗi sợ hãi của bạn – cố gắng xác định điều gì khiến bạn sợ hãi và thách thức nó; bạn có thể đạt được điều này bằng cách liên tục nhắc nhở bản thân rằng những gì bạn sợ là không thực và sẽ qua đi.
  • Hình dung sáng tạo – trong một cơn hoảng loạn, cố gắng kiềm chế cơn thèm nghĩ những suy nghĩ tiêu cực, chẳng hạn như “thảm họa”; thay vào đó, hãy nghĩ về một nơi hoặc tình huống khiến bạn cảm thấy bình yên, thư giãn hoặc dễ chịu: khi bạn có hình ảnh này trong tâm trí, hãy cố gắng tập trung sự chú ý của bạn vào nó.
  • Đừng chống lại cơn tấn công – cố gắng chống lại các triệu chứng của một cơn hoảng loạn có thể làm mọi thứ trở nên tồi tệ hơn; thay vào đó, hãy trấn an bản thân bằng cách chấp nhận rằng mặc dù nó có thể cảm thấy xấu hổ và các triệu chứng có thể khó chịu, cơn tấn công không gây nguy hiểm đến tính mạng.

Việc thực hiện một số thay đổi trong lối sống cũng có thể giúp ích. Ví dụ, hãy chắc chắn rằng bạn:

  • Tập thể dục thường xuyên – tập thể dục có thể giúp giảm căng thẳng và cải thiện tâm trạng của bạn.
  • Có chế độ ăn uống lành mạnh – một chế độ ăn uống lành mạnh, cân bằng và kiểm soát trọng lượng có thể giúp duy trì sức khỏe tổng thể.
  • Tránh sử dụng ma túy và rượu – chúng có thể mang lại sự giảm nhẹ tạm thời, nhưng về lâu dài, chúng có thể làm triệu chứng trở nên tồi tệ hơn.
  • Tránh đồ uống có chứa caffeine, như trà, cà phê hoặc nước ngọt – caffeine có tác dụng kích thích và có thể làm triệu chứng của bạn trở nên tồi tệ hơn.

Liệu pháp nói

Nếu các triệu chứng của bạn không đáp ứng với các kỹ thuật tự giúp và thay đổi lối sống, bác sĩ của bạn có thể đề nghị thử một liệu pháp nói.

Nếu bạn muốn, bạn có thể tự giới thiệu mình để nhận liệu pháp nói, chẳng hạn như liệu pháp nhận thức hành vi (CBT), mà không cần gặp bác sĩ đa khoa.

Hỗ trợ tự giúp có hướng dẫn

Với hỗ trợ tự giúp có hướng dẫn, bạn sẽ làm việc qua một cuốn sách hoặc khóa học trên máy tính dựa trên CBT với sự hỗ trợ của một nhà trị liệu.

Nhà trị liệu sẽ làm việc cùng bạn để hiểu các vấn đề của bạn và tạo ra những thay đổi tích cực trong cuộc sống của bạn.

Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT)

Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) dựa trên ý tưởng rằng những suy nghĩ không hữu ích và không thực tế dẫn đến hành vi tiêu cực.

CBT nhằm phá vỡ chu kỳ này và tìm ra những cách suy nghĩ mới giúp bạn hành xử tích cực hơn. Ví dụ, nhiều người mắc chứng sợ khoảng rộng có suy nghĩ không thực tế rằng nếu họ có cơn hoảng loạn, nó sẽ giết chết họ.

Nhà trị liệu CBT sẽ cố gắng khuyến khích một cách suy nghĩ tích cực hơn – ví dụ, mặc dù có một cơn hoảng loạn có thể không dễ chịu, nhưng nó không gây chết người và sẽ qua đi.

Sự thay đổi trong cách suy nghĩ này có thể dẫn đến hành vi tích cực hơn về việc một người sẵn sàng đối mặt với những tình huống mà trước đây khiến họ sợ hãi.

CBT thường được kết hợp với liệu pháp tiếp xúc. Nhà trị liệu của bạn sẽ đặt ra các mục tiêu tương đối vừa phải vào đầu liệu trình điều trị, chẳng hạn như đến cửa hàng gần nhà.

Khi bạn trở nên tự tin hơn, các mục tiêu thách thức hơn có thể được đặt ra, chẳng hạn như đi đến một siêu thị lớn hoặc ăn một bữa tại một nhà hàng đông đúc.

Một khóa học CBT thường bao gồm 12 đến 15 buổi hàng tuần, với mỗi buổi kéo dài khoảng một giờ.

Thư giãn áp dụng

Thư giãn áp dụng dựa trên tiền đề rằng những người mắc chứng sợ khoảng rộng và rối loạn hoảng loạn liên quan đã mất khả năng thư giãn. Do đó, mục tiêu của thư giãn áp dụng là dạy bạn cách thư giãn.

Điều này đạt được thông qua một loạt các bài tập nhằm dạy bạn cách:

  • Nhận biết các dấu hiệu và cảm giác căng thẳng.
  • Thư giãn cơ bắp để giảm căng thẳng.
  • Sử dụng những kỹ thuật này trong các tình huống căng thẳng hoặc hàng ngày để ngăn không cho bạn cảm thấy căng thẳng và hoảng loạn.

Giống như CBT, một khóa học thư giãn áp dụng bao gồm 12 đến 15 buổi hàng tuần, với mỗi buổi kéo dài khoảng một giờ.

Thuốc

Đôi khi, thuốc có thể được sử dụng như một liệu pháp điều trị duy nhất cho chứng sợ khoảng rộng. Trong những trường hợp nặng hơn, nó cũng có thể được sử dụng kết hợp với CBT hoặc liệu pháp thư giãn áp dụng.

Chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRIs) Nếu thuốc được khuyến nghị cho bạn, bạn sẽ thường được kê đơn một liệu trình chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRIs).

SSRIs ban đầu được phát triển để điều trị trầm cảm, nhưng chúng cũng đã chứng minh hiệu quả trong việc điều trị các rối loạn tâm trạng khác, như lo âu, cảm giác hoảng loạn và suy nghĩ ám ảnh.

Một loại SSRI gọi là sertraline thường được khuyến nghị cho những người mắc chứng sợ khoảng rộng. Các tác dụng phụ liên quan đến sertraline bao gồm:

  • Cảm giác buồn nôn.
  • Giảm ham muốn tình dục (libido).
  • Nhìn mờ.
  • Tiêu chảy hoặc táo bón.
  • Cảm thấy lo âu hoặc run rẩy.
  • Ra mồ hôi nhiều.

Các tác dụng phụ này thường sẽ cải thiện theo thời gian, mặc dù một số có thể kéo dài.

Nếu sertraline không cải thiện triệu chứng của bạn, bạn có thể được kê đơn một loại SSRI thay thế hoặc một loại thuốc tương tự được gọi là chất ức chế tái hấp thu serotonin-norepinephrine (SNRIs).

Thời gian bạn sẽ phải dùng SSRI hoặc SNRI sẽ khác nhau tùy thuộc vào phản ứng của bạn với điều trị. Một số người có thể phải dùng SSRIs trong 6 đến 12 tháng hoặc lâu hơn.

Khi bạn và bác sĩ quyết định rằng việc ngừng sử dụng SSRIs là hợp lý, bạn sẽ được giảm liều từ từ. Bạn không bao giờ nên ngừng dùng thuốc của mình trừ khi bác sĩ của bạn cụ thể khuyên bạn làm như vậy.

Pregabalin Nếu bạn không thể dùng SSRIs hoặc SNRIs vì lý

Huyệt Hoang Du

Hoang Du

Tên Huyệt Hoang Du:

Hoang chỉ phúc mạc. Huyệt ở Vị Trí huyệt ngang với rốn, rốn được coi là hoang mạc chi du, vì vậy gọi là Hoang Du (Trung Y Cương Mục).

Xuất Xứ:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính Hoang Du:

Huyệt thứ 16 của kinh Thận.

Huyệt giao hội với Xung Mạch.

Vị Trí huyệtHoang Du

:

Rốn (huyệt Thần Khuyết – Nh.8) đo ngang ra 0, 5 thốn.

Giải Phẫu:

Dưới da là cân cơ chéo to của bụng, bờ trong cơ thẳng to, mạc ngang, phúc mạc, ruột non hoặc bàng quangkhi bí tiểu tiện nhiều, tử cung khi có thai 7-8 tháng.

Thần kinh vận động cơ là 6 nhánh dây thần kinh gian sườn dưới và dây thần kinh bụng-sinh dục.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D10.

Tác DụngHoang Du

:

Thanh Thận nhiệt, lợi hạ tiêu, điều hòa Xung Mạch.

Chủ TrịHoang Du

:

Trị dạ dày bị co thắt, đau do thoát vị, kinh rong, táo bón, hoàng đản.

Phối Huyệt:

1. Phối Kỳ Môn (C.14) + Trung Quản (Nh.12) trị bụng dưới có khối u (Thiên Kim Phương).

2. Phối Hoành Cốt (Th.11) trị ngũ lâm, Cửu tích (Bách Chứng Phú).

Cách châm Cứu:

Châm thẳng 1 – 1, 5 thốn. Cứu 5 – 7 tráng, Ôn cứu 5 – 10 phút.

Thuốc chống vảy nến

BÔI TẠI CHỖ

Calcipotriol [thuốc mỡ].

Daivonex ® (Leo).

Dẫn chất của vitamin D3, được dùng làm thuốc mỡ chữa vẩy nến thông thường, mạn tính, thành mảng có diện tích nhỏ hơn 40% diện tích da. Bôi lên các tổn thương 2 lần mỗi ngày, thường từ 4 đến 8 tuần.

Không bôi lên mặt và các nếp gấp của da. Không dùng khi có thai hay cho con bú (tính vô hại chưa được xác lập).

Dithranol (antharalin).

Anaxéryl ® (Bailly-Speab) [phối hợp].

Chất khử được dùng trong điều trị tại chỗ bệnh vẩy nến thành mảng trên người và da đầu.

Nhưa than đá (coaltar).

Carbo-Dome ® (Dome-Hollister- Stier).

Nhựa than đá được dùng trong dung dịch, nhũ dịch hay kem bôi da với nồng độ 1-5% như là thuốc chống eczema, chống bệnh vẩy nến và tiêu sừng (tổn thương trong bệnh vẩy cá). Tránh sử dụng kéo dài; hiếm có các phản ứng dị ứng.

Dầu cade

Caditar ® (Iprad).

Chất khử được dùng trong điều trị tại chỗ bệnh vẩy nến, bệnh vẩy cá và các tổn thương tiêu sừng.

ĐƯỜNG TOÀN THÂN

Acitretin

Soriatane ® (Roche)

Tính chất: retinoid gần gũi với Vitamin A (retinol) có tác dụng trên sự tăng sinh và sự phân hoá các tế bào biểu bì tổng hợp keratin; acitretin có tác dụng gây quái thai cao; thuốc tích tụ trong tổ chức mỡ, từ đó có thể giải phóng ra trong những thời gian rát dài. Acitretin tác dụng bằng làm giảm sinh ra một protein (keratin), chất này tạo ra một lốp cứng bên ngoài da và được dùng theo đường uống trong điều trị bệnh vẩy nến nặng, đề kháng lại các điều trị khác; thời hạn điều trị không vượt quá 3-4 tháng, với thời gian giãn cách vài tháng; thuốc cũng được dùng trong rối loạn sừng hoá bẩm sinh hay mắc phải (vảy nến, bệnh Darier, bệnh chai sừng lòng bàn chân).

Thận trọng: acitretin không bao giờ được dùng cho phụ nữ có thai hay nghi ngờ có thai bởi việc sử dụng nó có một nguy cơ quan trọng: dị dạng trầm trọng cho bào thai; thuốc này cũng được khuyên không dùng cho trẻ em do nguy cơ rối loạn tăng trưởng xương.

Khi acitracin được dùng một cách hữu hạn ở phụ nữ đang tuổi sinh nồ, người bệnh phải:

Hiểu được tầm quan trọng của nguy cơ có dị dạng và tuân theo những điều thận trọng khi dùng thuốc.

Áp dụng triệt để các biện pháp tránh thai

Xuất trình các phiếu thử thai âm tính trong 2 tuần trước khi bắt đầu điều trị.

Chỉ bắt đầu điều trị vào ngày thứ 2 hay thứ 3 của các chu kỳ kinh nguyệt sau.

Áp dụng các biện pháp tránh thai hữu hiệu không chỉ trong suổt thời gian điều trị mà cả một tháng trước và 2 năm sau khi đã ngừng; người bệnh phải được thông báo lý do của các biện pháp đó nhằm tránh nguy cơ cao gây các dị dạng thai nhi nặng. Nếu đã có biện pháp mà vẫn có thai trong điều trị hay trong 2 năm sau khi đã ngừng, nguy cơ dị dạng là rất cao.

Chống chỉ định

Có thai (chống chỉ định tuyệt đối), cho con bú.

Đã bị mẫn cảm với etretinat.

Suy gan hay suy thận

Cường lipid huyết, thừa vitamin A.

Trẻ em: nguy cơ sớm liền cốt hoá đầu xương.

Tác dụng phụ

Buồn nôn, nôn, nhức đầu.

Tổn thương da-niêm mạc: viêm môi khô, khô miệng và mũi, mất nước của da lành, rụng tóc.

Nhãn khoa: viêm kết mạc, viêm giác mạc, loét giác mạc.

Tăng lipid trong máu, transaminase và phosphatase kiềm.

Tổn thương về xương: tăng cốt hoá, vôi hoá các tổ chức mềm, loãng xương.

Thiếu máu cơ tim cục bộ và nhồi máu cơ tim (hiếm).

Viêm gan cấp hay mạn tính

Cách chữa viêm kết mạc cấp tính tại nhà

Viêm kết mạc là do vi khuẩn hoặc vi rút gây nên, có hai loại: Cấp tính và mạn tính. Viêm kết mạc cấp tính thường gọi là “mắt đỏ” và “mắt lửa”. Đông y gọi là “Thiên hành xích nhãn” do phong nhiệt tà độc gây nên. Mùa hè và mùa thu nhiều người mắc bệnh, bệnh này dễ truyền nhiễm. Biểu hiện chủ yếu của bệnh này là: mắt sưng đỏ, ứ máu và chảy nước mắt, có nhiều dử mắt có mủ hoặc chất dính, cộm và ngứa mắt, hoặc có cảm giác nóng rát, người bị nặng ảnh hưởng đến thị lực. Viêm kết mạc mạn tính phần lớn là do viêm cấp tính không chữa triệt để gây nên, hoặc do bụi bặm kích thích và viêm tuyến nước mắt gây nên.

Nội dung chữa bệnh

  1. Không được dùng chung khăn mặt và chậu rửa mặt. Người bệnh phải dùng khăn tay, khăn mặt và chậu rửa mặt riêng, dùng xong phải rửa nước sôi tiêu độc, tránh truyền nhiễm sang người khác.
  2. Miệng lọ thuốc không nên tiếp xúc với mắt đau hoặc dử mắt để tránh lây sang người khác.
  3. Tránh ăn những thứ kích thích và nóng như: hành, hẹ. tỏi, ớt, thịt dê, thịt chó v.v…
  4. Không nên ăn các loại chất bổ như rượu nếp, rau cải, các loại tôm cá biển.
  5. Cỏ bờm ngựa lá khuynh tử, củ niễng, dưa hấu, khổ qua, mướp đắng, đậu xanh, đài hoa cúc, mã thầy, chuối tiêu, bí đao V V… có tác dụng giải nhiệt, khử độc có thể ăn nhiều hỗ trợ cho việc chữa bệnh.
  6. Tốt nhất là nhắm mắt nghỉ ngơi, để nhãn cầu đỡ kích thích

Phương pháp chữa bệnh

Phương thuốc hiệu nghiệm

  1. Cúc hoa 15 gam, rau diếp cá 30 gam, sắc làm 2 lần, xông trước uống sau, ngày 1 thang
  2. Cây rành rành, cỏ trân châu, cây sen cạn, mỗi thứ 30 gam sắc uống, ngày một thang.
  3. Bồ công anh 100 gam, sắc uống, ngày 1 thang

    Ngư tinh thảo ( dấp cá)
    Ngư tinh thảo ( dấp cá)

Phương pháp ăn uống.

  1. Mộc nhĩ đen 10 gam, đậu phụ 30 gam, một ít đường đỏ, một ít dầu vừng, sắc uống, ngày 1 thang.
  2. Đậu xanh 30 gam, cúc hoa 12 gam, lá dâu 12 gam, sắc làm 2 lần lấy nước, cho thêm 15 gam đường, quấy đều uống, ngày 1 thang uống liền một tuần.
  3. Rau kim châm, rau sam, đài hoa cúc mỗi thứ 30 gam, sắc uống, ngày 2 lần, mỗi ngày 1 thang, uống liền trong một tuần.

Chữa bệnh bên ngoài.

  1. Sữa người 20cc, hoàng hiên 2,5 gam, chưng cách thuý, lọc xong nhỏ mắt, mỗi ngày 4 lần.
  2. Mỗi buổi sáng ngủ dậy, lấy nước chè để cách đêm rửa mắt vài lần, có kết quả rất tốt đối với việc chữa bệnh viêm kết mạc.
  3. Giun sống 40 con, rửa sạch, để trong bát sạch, cho 10 gam đường trắng, đợi giun tan thành nước, lấy nước nhỏ mắt, mỗi lần 2-3 giọt, mỗi ngày 4 lần.
  4. Lấy xương rồng cắt thành miếng, dán xung quanh mắt đau.

Những việc cần chú ý

  1. Khi nhỏ thuốc đau mắt, chỉ nhỏ thuốc vào mắt đau, không nhỏ thuốc vào mắt không đau, để tránh khỏi lây sang mắt không đau.
  2. Người bệnh tự chườm nóng hoặc băng bó sẽ làm bệnh tình nặng thêm.

Thuốc amlodipine/atorvastatin – oral, Caduet

TÊN GỌI THÔNG THƯỜNG: AMLODIPINE/ATORVASTATIN – UỐNG (am-LOE-di-peen/a-TOR-va-STAT-in)
TÊN THƯƠNG MẠI: Caduet

Công dụng của thuốc | Cách sử dụng | Tác dụng phụ | Biện pháp phòng ngừa | Tương tác thuốc | Quá liều | Ghi chú | Liều bỏ lỡ | Bảo quản

CÔNG DỤNG: Sản phẩm này chứa 2 loại thuốc: amlodipine và atorvastatin. Amlodipine là một chất chặn kênh canxi, được sử dụng để điều trị huyết áp cao hoặc ngăn ngừa cơn đau ngực (đau thắt ngực). Nó hoạt động bằng cách làm giãn các mạch máu để máu có thể chảy dễ dàng hơn và tim không cần phải làm việc quá sức. Giảm huyết áp cao giúp ngăn ngừa đột quỵ, cơn đau tim và các vấn đề về thận. Ngăn ngừa cơn đau ngực có thể giúp cải thiện khả năng tập thể dục của bạn. Amlodipine giúp làm giảm huyết áp, trong khi atorvastatin được sử dụng cùng với chế độ ăn uống hợp lý để giúp giảm cholesterol “xấu” và chất béo (như LDL, triglycerides) và tăng cholesterol “tốt” (HDL) trong máu. Nó thuộc về một nhóm thuốc được gọi là “statins.” Nó hoạt động bằng cách giảm lượng cholesterol được sản xuất bởi gan. Giảm cholesterol “xấu” và triglycerides và tăng cholesterol “tốt” làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim và giúp ngăn ngừa đột quỵ và cơn đau tim. Ngoài việc ăn chế độ ăn uống hợp lý (như chế độ ăn ít cholesterol/ít chất béo), những thay đổi lối sống khác có thể giúp thuốc này hoạt động hiệu quả hơn bao gồm tập thể dục, giảm cân nếu thừa cân, và ngừng hút thuốc. Tham khảo ý kiến bác sĩ của bạn để biết thêm chi tiết.

CÁCH SỬ DỤNG: Đọc tờ thông tin bệnh nhân nếu có sẵn từ dược sĩ của bạn trước khi bạn bắt đầu dùng thuốc này và mỗi lần bạn nhận thuốc lại. Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào, hãy hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn. Uống thuốc này qua miệng với hoặc không có thức ăn theo chỉ định của bác sĩ, thường là một lần mỗi ngày. Liều lượng dựa trên tình trạng sức khỏe của bạn, phản ứng với điều trị, độ tuổi và các loại thuốc khác mà bạn có thể đang dùng. Hãy chắc chắn cho bác sĩ và dược sĩ biết về tất cả các sản phẩm bạn sử dụng (bao gồm cả thuốc kê đơn, thuốc không kê đơn và sản phẩm thảo dược). Tránh ăn bưởi hoặc uống nước ép bưởi trong khi sử dụng thuốc này trừ khi bác sĩ của bạn hướng dẫn khác. Bưởi có thể làm tăng lượng thuốc này trong máu của bạn. Tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn để biết thêm chi tiết. Nếu bạn cũng đang dùng một số thuốc khác để giảm cholesterol (như resin gắn axit mật như cholestyramine hoặc colestipol), hãy dùng sản phẩm này ít nhất 1 giờ trước hoặc ít nhất 4 giờ sau khi dùng những loại thuốc này. Những sản phẩm này có thể tương tác với atorvastatin, ngăn cản sự hấp thụ hoàn toàn của nó. Hãy dùng thuốc này đều đặn để nhận được lợi ích tối đa từ nó. Hãy nhớ dùng nó vào cùng một thời điểm mỗi ngày. Có thể mất tới 2 tuần trước khi bạn nhận được đầy đủ lợi ích của amlodipine, và lên tới 4 tuần trước khi bạn nhận được đầy đủ lợi ích của atorvastatin. Điều quan trọng là tiếp tục dùng thuốc này ngay cả khi bạn cảm thấy khỏe. Hầu hết những người bị huyết áp cao hoặc cholesterol/triglycerides cao không cảm thấy bị bệnh. Nếu sản phẩm này được sử dụng cho cơn đau ngực, nó phải được dùng đều đặn để có hiệu quả. Nó không nên được sử dụng để điều trị cơn đau ngực khi nó xảy ra. Sử dụng các loại thuốc khác (như nitroglycerin đặt dưới lưỡi) để làm giảm cơn đau ngực theo chỉ định của bác sĩ. Hãy cho bác sĩ biết nếu tình trạng của bạn không cải thiện hoặc nếu nó trở nên tồi tệ hơn (như các chỉ số huyết áp của bạn vẫn cao hoặc tăng, cơn đau ngực của bạn xảy ra thường xuyên hơn).

TÁC DỤNG PHỤ: Chóng mặt hoặc cảm giác nhẹ đầu có thể xảy ra khi cơ thể bạn điều chỉnh với thuốc. Sưng tay/mắt cá chân/chân, mệt mỏi hoặc bừng bừng nóng có thể cũng xảy ra. Nếu bất kỳ tác dụng nào trong số này kéo dài hoặc nặng hơn, hãy báo cho bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn ngay lập tức. Hãy nhớ rằng bác sĩ của bạn đã kê đơn thuốc này vì ông hoặc bà ấy đã đánh giá rằng lợi ích cho bạn lớn hơn nguy cơ tác dụng phụ. Nhiều người sử dụng thuốc này không gặp tác dụng phụ nghiêm trọng. Một số rất ít người dùng atorvastatin có thể gặp vấn đề nhẹ về trí nhớ hoặc nhầm lẫn. Nếu những tác dụng hiếm gặp này xảy ra, hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn. Hãy cho bác sĩ biết ngay lập tức nếu bất kỳ tác dụng phụ không thường xảy ra nhưng nghiêm trọng nào sau đây xảy ra: ngất xỉu, nhịp tim nhanh/cảm giác đập mạnh. Thuốc này có thể hiếm khi gây ra vấn đề về cơ bắp (mà hiếm khi có thể dẫn đến các tình trạng rất nghiêm trọng được gọi là tiêu cơ vân và viêm cơ tự miễn). Hãy báo cho bác sĩ ngay lập tức nếu bạn phát triển bất kỳ triệu chứng nào trong số này trong quá trình điều trị và nếu những triệu chứng này kéo dài sau khi bác sĩ ngừng thuốc: đau/cảm thấy nhạy cảm/yếu cơ (đặc biệt là kèm theo sốt hoặc mệt mỏi bất thường), thay đổi lượng nước tiểu. Thuốc này có thể hiếm khi gây ra vấn đề về gan. Nếu bạn nhận thấy bất kỳ tác dụng phụ hiếm nhưng nghiêm trọng nào sau đây, hãy báo cho bác sĩ ngay lập tức: mắt/da vàng, nước tiểu sẫm màu, đau bụng/dạ dày dữ dội, buồn nôn/nôn kéo dài. Mặc dù thuốc này hiệu quả trong việc ngăn ngừa cơn đau ngực (đau thắt ngực), một số người đã có bệnh tim nặng có thể hiếm khi phát triển cơn đau ngực nặng hơn hoặc một cơn đau tim sau khi bắt đầu dùng thuốc này hoặc tăng liều. Hãy gọi trợ giúp y tế ngay lập tức nếu bạn trải qua: cơn đau ngực nặng hơn, triệu chứng của cơn đau tim (chẳng hạn như đau ngực/hàm/trái tay, khó thở, ra mồ hôi bất thường). Phản ứng dị ứng nghiêm trọng với thuốc này là hiếm. Tuy nhiên, hãy gọi trợ giúp y tế ngay lập tức nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào của phản ứng dị ứng nghiêm trọng, bao gồm: phát ban, ngứa/sưng (đặc biệt là ở mặt/lưỡi/họng), chóng mặt dữ dội, khó thở. Đây không phải là danh sách đầy đủ các tác dụng phụ có thể xảy ra. Nếu bạn nhận thấy các tác dụng khác không được liệt kê ở trên, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn.

CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA: Trước khi sử dụng sản phẩm này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết nếu bạn bị dị ứng với amlodipine hoặc atorvastatin; hoặc với các thuốc chẹn kênh canxi khác (chẳng hạn như nifedipine); hoặc nếu bạn có bất kỳ dị ứng nào khác. Sản phẩm này có thể chứa các thành phần không hoạt động, có thể gây ra phản ứng dị ứng hoặc các vấn đề khác. Hãy nói chuyện với dược sĩ của bạn để biết thêm chi tiết.

Trước khi sử dụng thuốc này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết về tiền sử bệnh của bạn, đặc biệt là về: bệnh gan, bệnh thận, sử dụng rượu, các vấn đề cấu trúc tim nhất định (hẹp động mạch chủ/hẹp van hai lá).

Trước khi tiến hành phẫu thuật, hãy cho bác sĩ hoặc nha sĩ biết về tất cả các sản phẩm bạn sử dụng (bao gồm thuốc kê đơn, thuốc không kê đơn và các sản phẩm thảo dược).

Thuốc này có thể khiến bạn cảm thấy chóng mặt. Không lái xe, sử dụng máy móc hoặc thực hiện bất kỳ hoạt động nào cần sự tỉnh táo cho đến khi bạn chắc chắn rằng mình có thể thực hiện các hoạt động đó một cách an toàn.

Để giảm nguy cơ chóng mặt và cảm giác nhẹ đầu, hãy đứng dậy từ từ khi rời khỏi tư thế ngồi hoặc nằm.

Hạn chế đồ uống có cồn. Sử dụng rượu hàng ngày có thể làm tăng nguy cơ gặp phải các vấn đề về gan, đặc biệt là khi kết hợp với atorvastatin. Hãy hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn để biết thêm thông tin.

Người lớn tuổi có thể nhạy cảm hơn với tác dụng phụ của thuốc, đặc biệt là các vấn đề về cơ bắp và chóng mặt.

Sản phẩm này không được sử dụng trong thời gian mang thai. Atorvastatin có thể gây hại cho thai nhi. Do đó, điều quan trọng là ngăn ngừa thai trong khi sử dụng thuốc này. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để biết thêm chi tiết và thảo luận về việc sử dụng các biện pháp kiểm soát sinh sản đáng tin cậy (như bao cao su, thuốc tránh thai) trong khi dùng thuốc này. Nếu bạn trở nên mang thai hoặc nghĩ rằng bạn có thể đang mang thai, hãy cho bác sĩ biết ngay lập tức.

Chưa biết liệu amlodipine hoặc atorvastatin có đi vào sữa mẹ hay không. Do có nguy cơ có thể xảy ra cho trẻ sơ sinh, việc cho con bú trong khi sử dụng sản phẩm này không được khuyến nghị. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi cho con bú.

TƯƠI TƯỞI THUỐC: Xem thêm phần Cách Sử Dụng. Các tương tác thuốc có thể làm thay đổi cách hoạt động của thuốc hoặc làm tăng nguy cơ gặp phải các tác dụng phụ nghiêm trọng. Tài liệu này không chứa tất cả các tương tác thuốc có thể xảy ra. Hãy giữ một danh sách tất cả các sản phẩm bạn sử dụng (bao gồm thuốc kê đơn/không kê đơn và các sản phẩm thảo dược) và chia sẻ với bác sĩ và dược sĩ của bạn. Không bắt đầu, ngừng, hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự chấp thuận của bác sĩ.

Một số sản phẩm có thể tương tác với thuốc này bao gồm: cyclosporine, gemfibrozil, telaprevir, tipranavir cộng với ritonavir.

Các thuốc khác có thể ảnh hưởng đến việc loại bỏ atorvastatin ra khỏi cơ thể bạn, điều này có thể ảnh hưởng đến cách atorvastatin hoạt động. Ví dụ bao gồm colchicine, saquinavir, telithromycin, một số loại thuốc kháng nấm azole nhất định (như itraconazole, ketoconazole, posaconazole), và nhiều thuốc khác.

Không sử dụng bất kỳ sản phẩm gạo men đỏ nào trong khi bạn đang dùng amlodipine/atorvastatin vì một số sản phẩm gạo men đỏ có thể cũng chứa một loại statin gọi là lovastatin. Việc dùng amlodipine/atorvastatin cùng với các sản phẩm gạo men đỏ có thể làm tăng nguy cơ gặp phải các vấn đề nghiêm trọng về cơ bắp và gan.

Kiểm tra nhãn trên tất cả các loại thuốc của bạn (như sản phẩm trị ho và cảm lạnh, thuốc hỗ trợ giảm cân, hoặc NSAIDs như ibuprofen, naproxen) vì chúng có thể chứa các thành phần có thể làm tăng huyết áp của bạn. Hãy hỏi dược sĩ của bạn để biết thêm chi tiết.

QUÁ LIỀU: Nếu nghi ngờ bị quá liều, hãy liên hệ ngay với trung tâm kiểm soát độc tố hoặc phòng cấp cứu. Triệu chứng của quá liều có thể bao gồm: chóng mặt nghiêm trọng, ngất xỉu, nhịp tim nhanh.

GHI CHÚ: Không chia sẻ thuốc này với người khác. Các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm và/hoặc y tế (như mức cholesterol/triglyceride trong máu) nên được thực hiện định kỳ để theo dõi tiến triển của bạn hoặc kiểm tra các tác dụng phụ. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ của bạn để biết thêm chi tiết.

Kiểm tra huyết áp của bạn thường xuyên trong khi sử dụng thuốc này. Học cách tự theo dõi huyết áp tại nhà và chia sẻ kết quả với bác sĩ.

LIỀU THUỐC BỊ BỎ LỠ: Nếu bạn quên một liều, hãy uống ngay khi nhớ ra. Nếu gần đến thời gian uống liều tiếp theo (trong vòng 12 giờ), hãy bỏ qua liều đã quên và quay lại lịch trình liều dùng thường xuyên của bạn. Không gấp đôi liều để bù lại.

LƯU TRỮ: Bảo quản ở nhiệt độ phòng, tránh ánh sáng và độ ẩm. Không bảo quản trong phòng tắm. Giữ tất cả thuốc tránh xa trẻ em và thú cưng. Không xả thuốc xuống toilet hoặc đổ vào cống trừ khi được chỉ định. Vứt bỏ sản phẩm này đúng cách khi hết hạn hoặc không còn cần thiết. Hãy tham khảo dược sĩ hoặc công ty xử lý chất thải địa phương của bạn để biết thêm chi tiết về cách vứt bỏ sản phẩm của bạn một cách an toàn.

CẢNH BÁO Y TẾ: Tình trạng của bạn có thể gây ra các biến chứng trong trường hợp khẩn cấp y tế.

Nhũ trấp, nhân nhũ, sữa người

Nhũ trấp 乳汁

Khí vị:

Vị ngọt, mặn, khí bình, không độc, vào 4 kinh Tâm, Thận, Tỳ, Phế.

Chủ dụng:

Bồi bổ nguyên dương, thêm da thịt, đẹp nhan sắc, sáng mắt, an thần, bổ cả 5 tạng, tư nhuận Ruột và Dạ dày, chữa chứng nóng sốt thuộc hư, làm cho trong họng trơn nhuận khỏi nghẹn, bô hư lao, trừ măt đỏ, ngăn chảy nước măt, dùng lâu làm cho khí huyết của người được xung hòa, béo khỏe, lại chữa cả chứng phong tê liệt, chân tay đau nhức, chữa người già bị sốt thuộc hư, lở niệng, phụ nữ huyết khô, kinh bế. Lại nói sữa là thuốc thánh làm cho người ta tăng tuổi thọ

Hợp dụng:

Cho vào thang Tứ quân thì bổ khí, cho vào thang Tứ vật thì bổ huyết.

Cấm kỵ: Công năng của nó chuyên chủ về bổ âm, nếu chứng Vị yếu, dương hư, Tỳ hàn, đi tả thì cấm dùng.

Cách chế:

Có thể cô đặc rồi phơi khô gọi là Nhũ kim đan.

Nhận xét:

Sữa là do huyết hóa ra, sinh ra ở Tỳ và Vị, tàng trữ ở mạch Xung và mạch Nhâm, không giáng xuống mà thăng lên, là thuốc để trừ bệnh và làm cho người ta sống lâu.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Tâm đắc thần phương”

Bài Cam lộ thần cao

Cam lộ (giọt sương đọng)-căng vải trên cỏ xanh, hứng lấy 1 chén, Nhân sâm 1đ sắc nước lấy 1 chén (bỏ bã), Sữa người 1 chén, Mật ong 1 chén rưỡi. Trộn 4 vị trên, chia uống ấm. Chữa các chứng ho, lao thổ huyết rất hay.

“Hiệu phỏng tân phương”- Hải Thượng Lãn Ông

Bài Tư thủy nhuận táo phương

Thục địa 1-2 lạng, Thiên môn 6đ, Mạch môn 6đ, Phụ tử 2đ, Ngũ vị tử 20 hat, Sữa người 1 bát to. Các vị trên sắc nước, bỏ bã, hòa Sữa người vào, đun sôi vài dạo, chia uống vài lần trong ngày.

Chủ trị các chứng: Tiên thiên thủy suy, tinh kiệt, Hậu thiên âm hư, huyết kém, trong ngực phiền đau, từ cổ họng đến giang môn, trong tràng vị đau như dao cắt, chết đi sống lại. Suy rộng ra có thể chữa chứng Đại tràng mất huyết, táo kết, và hết thảy các chứng khô cháy ráo khan.

Gia giảm:

Phiền nhiệt gia Quy bản giao, không ngủ được gia Táo nhân sao, Đại tiện bí gia Đương quy, Nhục thung dung, nhiệt uất, bụng đầy gia Ngưu tất, mình nóng mồ hôi nhiều gia A giao, mình lạnh tự ra mồ hôi gia Nhân sâm, Bạch truật, Hoàng kỳ, bỏ Thiên môn, Sữa người.

“Hiệu phỏng tân phương”-Hải Thượng Lãn Ông

Bài Nhân vật tư vinh cao

Bố sâm 40g, Sữa người 40g, Cao Ban long 160g

Bố sâm nấu riêng, bỏ bã, cô thành cao, trộn với Sữa và cao Ban long, nấu tan cao Ban long, khuấy đều, thêm 40g mật Ong, nấu nhỏ lửa đến khi thành châu mềm vừa phải làm chừng. Bảo quản cẩn thận để dùng dần, mỗi lần ngậm nuốt 1 thìa canh, ngày vài lần.

Chủ trị các chứng: Phần âm của Tiên thiên khô kiệt, mạch 6 bộ hồng đại, rối loạn nhịp, chứng hiện ra là bại liệt nửa người, co rút, đại tiện táo kết, phân như cứt dê, tiểu tiện đi luôn. Phương này dùng âm dược không hại đến phần dương, dương dược không hại đến phần âm, âm dương cùng dựa vào nhau mà có thể làm cho tư nhuận, tươi tốt.

Nhân nhũ 人乳

“Nhân nhũ Vị cam

Bổ âm ích dương

Duyệt nhan, minh mục

Nuy liệt tiên phương. ”

Nhân nhũ hay nhân nhũ trấp (sữa người) vị ngọt, khi mát, không độc. Bổ huyết, bỏ khi. Làm đẹp da mặt. Sáng mắt. Trị liệt nhược rất hiệu quả.

+ Ngoài ra còn trị được chứng đau mắt đỏ nhiều ghen, giải độc của thịt hay gan trâu bò. Cũng chữa được người tự nhiên không nói được (hòa với rượu tốt mà uống), người kinh nguyệt không đều, không thông.

QUY KINH: Đi vào các kinh TỲ, CAN, TÂM và THẬN.

LIỀU DÙNG: Có thể dùng nhiều.

KIÊNG KỴ: Người tạng khí hư hàn, có chứng tiết tả, hoặc mắc nhiều bệnh quá đến nỗi suy nhược tiêu hóa thì không nên dùng.

Các đường vận động thần kinh

Hệ thống vận động bao gồm ba thành phần:

  • Nơron trên hay nơron trung ương.
  • Nơron dưới hay nơron ngoại vi.
  • Nơron ngoại tháp.

Tất cả các cử động đều xảy ra trên một nền hằng định là sự điều hoà tự động trương lực cơ, tư thế và thăng bằng. Sự điều hoà này được đảm bảo một phần bởi nơron ngoại tháp và một phần bởi nơron tiểu não. Các cử động tuỳ ý được kiểm soát nhờ nơron trung ương mà thân tế bào có hình tháp nằm ở hồi trán lên.

Nơron ngoại vi có chức năng truyền đạt các xung động từ các trung tâm thần kinh tới các cơ. Thân tế bào nằm ở sừng trước tủy sống; còn đối với các dây thần kinh sọ thì thân nằm ở các nhân vận động của các dây này. Phá huỷ nơron ngoại vi sẽ dẫn đến mất tất cả các cử động tuỳ ý, không tuỳ ý, các phản xạ và trương lực cơ.

NƠRON VẬN ĐỘNG

NƠRON TRÊN HAY NƠRON TRUNG ƯƠNG (đường tháp): thân tế bào nằm ở lớp vỏ não trước rãnh Rolando (hồi trán lên). Sợi tạo thành bó tháp và tới tiếp xúc với một nơron ở sừng trước tủy sống ở phía đối bên. Các cử động tuỳ ý được nơron này truyền.

NƠRON DƯỚI HAY NƠRON NGOẠI VI (con đường chung cuối cùng): thân tế bào nằm ở sừng trước tủy sống và sợi tạo thành sợi thần kinh ngoại vi, tận cùng ở trong cơ. Nơron này không chỉ nhận kích thích từ nơron trung ương mà còn nhận các kích thích từ cung phản xạ tủy sống và từ đường ngoại tháp nên có tên gọi là con đường chung cuối cùng (Sherrington). Các nơron ngoại vi được tô chức thành các đơn vị vận động tới chi phối một vài sợi cơ (các cử động tinh tế) hoặc chi phối một số lớn sợi cơ (ví dụ cơ nhị đầu). Người ta phân biệt sợi vận động alpha chi phối phần chính của mô cơ và các sợi beta, gamma là những sợi có chức năng phức tạp (duy trì độ dài của cơ và trương lực cơ).

NƠRON NGOẠI THÁP: thân tế bào nằm ở các nhân xám của não (cấu tạo lưới, nhân đỏ, liềm đen, thể Luys v.v…) hay trong tiểu não. Các đường truyền xuống dài và tận cùng tại các tế bào ở sừng trước tủy sống. Hệ ngoại tháp có. vai trò trong điều hoà trương lực cơ và các động tác không tuỳ ý.

CÁC ĐƯỜNG VẬN ĐỘNG

ĐƯỜNG VỎ-TỦY HAY ĐƯỜNG THÁP: bắt nguồn từ các tế bào tháp ở hồi trán lên. Các sợi trục tạo thành bó tháp. Các sợi từ mỗi bán cầu hội tụ lại cùng bên về phần sau của bao trong, đi qua phần trước của cuống não, cầu não và hành não.

Phần lớn số sợi bắt chéo ở phần dưới của hành não và đi xuống trong các cột trắng bên của tủy sống (bó tháp bắt chéo). Các nơron trung ương (là phần tạo thành vỏ não) tận cùng ở các tế bào vận động của sừng trước tủy sống đối bên.

Một phần nhỏ của bó tháp không bắt chéo và đi xuống theo cột trắng trước của tủy sống (bó tháp thẳng). Các sợi của bó này bắt chéo qua đường giữa ở mép trước và tới tiếp xúc với các tế bào vận động của sừng trước tủy sống. Các sợi nào của bó tháp càng xuất phát ở các phần cao trên vỏ não thì bắt chéo càng thấp ở hành não và trong tuỷ.

Đường dưới vỏ-tủy hay đường ngoại tháp:

  • Bó đỏ – tủy của Von Monakov: xuất phát từ nhân đỏ, bắt chéo vổi bó đôi bên và đi xuống theo cột trắng bên của tủy tới đoạn tủy cùng.
  • Bó mái – tuỷ: xuất phát từ củ não sinh tư ở mái não giữa, bắt chéo phía trên ống Sylvius rồi đi xuống trong phần trước của cầu não và hành não, theo cột trắng trước của tủy sống tới đoạn lưng. Bó này là thành phần của cung phản xạ tư thế xuất phát từ mắt.
  • Bó tiền đình – tuỷ: xuất phát từ nhân tiền đình của Deiters và đi theo cột trắng trước, không bắt chéo. Là thành phần của cung phản xạ tư thế xuất phát từ cơ quan tiền đình.
  • Bó trám – tủy của Helway: đi trong cột trắng sau.
  • Sợi tiểu não đi xuống hay sợi Marchi: xuất phát từ thuỳ nhộng và đi trong sừng sau.

CÁC KIỂU TỔN THƯƠNG NƠRON VẬN ĐỘNG

Phá huỷ nơron vận dộng trên hay nơron trung tâm (bó tháp); là tổn thương các nơron ở vỏ não vận động và các sợi trục của các nơron này đi qua bao trong, các cuông não, cầu não và hành não để đi vào tủy sống. Phá huỷ các nơron và sợi trục này gây ra mất hay giảm các động tác tuỳ ý, tăng trương lực cơ (liệt cứng), tăng phản xạ gân và có dấu hiệu Babinski.

Vì các động tác chứ không phải là các cơ được đại diện trên vỏ não nên tổn thương vỏ não làm mất một số động tác hơn là làm liệt một số cơ. Mặt khác, do các động tác không tuỳ ý được chỉ huy bởi bó ngoại tháp nên một tổn thương chỉ khu trú ở bó tháp không làm mất đi các cử động không tuỳ ý. Ví dụ, bị liệt dây mặt trung tâm thì bệnh nhân không co tuỳ ý các cơ mặt được nhưng vẫn có thể mỉm cười và biểu hiện các cảm xúc của mình qua nét mặt. Liệt có tăng trương lực cơ (liệt cứng) là dấu hiệu có tổn thương nơron trên (là nơron vốn ức chế trương lực tủy và kiểm soát cung phản xạ tuỷ). Do đó, trong trường hợp nơron trung ương bị tổn thương, có hiện tượng các phản xạ gân mạnh lên (tăng phản xạ).

Về mặt lâm sàng, cần chú ý rằng tăng phản xạ không xảy ra ngay tức khắc: trong trường hợp bị liệt nửa người do tổn thương bó tháp, trước hết người ta thấy có giảm trương lực và mất phản xạ gân rồi bệnh cảnh điển hình của tổn thương nơron trên mới xuất hiện. Sự chậm trễ này có thể là do tình trạng toàn bộ hệ thống thần kinh bị sốc ngay tức khắc sau một cú đột quỵ hay chấn thương. Hiện tượng tăng phản xạ cũng có thể không xảy ra trong liệt thứ phát do các tổn thương không phải ở vùng tiền vận động hay ở các sợi từ vùng tiền vận động. Trong một số chứng liệt cứng ở thể gấp có thể không gây ra được các phản xạ gân. Cuối cùng, đôi khi có sự không tương xứng giữa liệt nhẹ và mức độ giảm trương lực nặng trong một số tổn thương khu trú ở vùng trán trước. Người ta có thể thấy có dấu hiệu Babinski.

Phá huỷ nơron vận động dưới hay nơron ngoại vi (con đường chung cuối cùng): các nơron vận động ở sừng trước tủy sống và các sợi trục nằm trong các rễ trước dây thần kinh tủy sống và dây thần kinh ngoại biên. Tổn thương này làm mất hoặc làm yếu động tác, giảm trương lực cơ và phản xạ gân, gây teo cơ.

Do không nhận được bất kỳ một kích thích nào nên cơ bị liệt và không thể co theo ý muôn cũng như không thể co không theo ý muôn, co theo phản xạ được. Trương lực cơ – lực kháng lại các cử động thụ động – bị giảm hay bị mất (giảm trương lực hay mất trương lực). Các rối loạn dinh dưỡng xuất hiện. Teo cơ rõ hơn là teo cơ do không hoạt động (không có tổn thương ở nơron ngoại vi).

Trong khi các tế bào sừng trước bị thoái hoá, các cơ thường có những co nhẹ (rung cơ hay tạo bó ở cơ). Hiện tượng này chấm dứt khi tế bào bị thoái hoá hoàn toàn. Ngoài ra còn có các đáp ứng điện, thể hiện sự thoái hoá một phần hay toàn phần và có rối loạn về điện cơ.

Phá huỷ nơron ngoại tháp: trong trường hợp này, người ta thường thấy có tăng trương lực cơ (không có liệt, không tăng phản xạ gân, không có dấu hiệu Babinski); tăng các phản xạ tư thế và chỉnh thế, xuất hiện các động tác không tuỳ ý (run, múa giật, múa vờn), về chi tiết: xem hội chứng tiểu não.

Bảng 4.1. Triệu chứng tổn thương nơron trung ương và nơron ngoại vi

Tổn thương nơron trung ương Tổn thương nơron ngọai vi
1. Các động tác tuỳ ý bị mất hoặc bị yếu. vẵn còn một số động tác không tuỳ ý. 1. Các động tác tuỳ ý và không tuỳ ý bị yếu hoặc bị mất. Nếu ton thương ĩà ở túỷ thì liệt theo tiết đoạn.
2. Liệt cứng (trương lực tăng). 2. Liệt mềm (trương lực giảm hoặc bị mất).
3. Không bị teo cơ (trừ teo cơ do không hoạt động). 3. Teo cơ và thoái hoá các sợi cơ.
4. Không có rung cơ. 4. Có rung cơ.
5. Đáp ứng điện bình thường. 5. Phản ứng điện thể hiện có thoái hoá (sau 10- 15 ngày)
6. Phản ứng gân tăng , 6. Mất hay giảm phản xạ gân.
7. Có dấu hiệu Babinski. 7. Không có dấu hiệu Babinski.

 

 

Làm thế nào để biết tôi có bị ung thư bàng quang không?

Để xác định xem bạn có bị ung thư bàng quang hay không, điều đầu tiên mà bác sĩ có thể làm là lấy lịch sử y tế đầy đủ. Họ sẽ hỏi bạn về tình trạng sức khỏe tổng quát cũng như bất cứ yếu tố nào làm tăng nguy cơ, chẳng hạn như việc có thành viên trong gia đình từng bị ung thư bàng quang.

Tiếp theo, bác sĩ có thể thực hiện khám lâm sàng. Điều này có thể bao gồm khám vùng chậu (cho phụ nữ) hoặc khám trực tràng bằng tay (DRE). Trong thủ thuật này, bác sĩ sẽ đeo găng tay và đưa một ngón tay vào trực tràng của bạn. Việc này có thể giúp họ cảm nhận được khối u trong bàng quang, đồng thời cho họ biết kích thước hoặc liệu nó có lan rộng hay không.

Nếu bác sĩ phát hiện điều gì đó bất thường, họ sẽ yêu cầu các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Họ cũng có thể giới thiệu bạn đến gặp bác sĩ chuyên khoa tiết niệu, người chuyên về các bệnh ảnh hưởng đến hệ thống tiết niệu (thận, bàng quang, v.v.) và hệ thống sinh sản nam giới. Bác sĩ tiết niệu của bạn có thể thực hiện các xét nghiệm sau để hiểu rõ hơn về tình trạng của bạn:

Xét nghiệm nước tiểu

Khi bạn đi tiểu trong cốc tại phòng khám của bác sĩ, có nhiều điều họ và các chuyên gia y tế khác có thể kiểm tra:

  • Phân tích nước tiểu: Bác sĩ sẽ kiểm tra xem có máu hoặc các chất khác trong nước tiểu của bạn hay không.
  • Tế bào học nước tiểu: Bác sĩ sẽ sử dụng kính hiển vi để kiểm tra nước tiểu của bạn có tế bào ung thư hay không.
  • Nuôi cấy nước tiểu: Bác sĩ sẽ gửi mẫu nước tiểu của bạn đến phòng thí nghiệm. Sau vài ngày, kỹ thuật viên sẽ kiểm tra xem có loại vi khuẩn nào phát triển trong đó không. Kết quả này sẽ cho bác sĩ biết liệu bạn có bị nhiễm trùng bàng quang hay không.
  • Xét nghiệm dấu ấn khối u trong nước tiểu: Xét nghiệm này tìm các chất được tiết ra bởi các tế bào ung thư bàng quang. Bác sĩ có thể sử dụng một hoặc nhiều xét nghiệm này cùng với tế bào học nước tiểu để xác định bạn có mắc bệnh hay không.

Nội soi bàng quang

Bác sĩ sẽ đặt một ống nội soi qua lỗ mở của niệu đạo – ống dẫn nước tiểu – vào bàng quang của bạn.

Ống nội soi là một ống mỏng có gắn đèn và camera video ở đầu. Bác sĩ sẽ bơm nước muối qua ống vào bàng quang của bạn để giúp họ nhìn thấy lớp niêm mạc bên trong của bàng quang bằng camera. Các loại nội soi bàng quang màu xanh và trắng kết hợp với các chất hình ảnh đặc biệt rất hiệu quả trong việc phát hiện ung thư bàng quang xâm lấn.

Họ có thể cho bạn thuốc để gây tê niệu đạo và bàng quang. Nếu thủ thuật được thực hiện trong phòng phẫu thuật, bạn sẽ được gây mê để không tỉnh dậy trong quá trình này.

Cắt bỏ khối u bàng quang qua niệu đạo (TURBT)

Nếu bác sĩ phát hiện điều gì đó bất thường trong quá trình nội soi bàng quang, họ sẽ lấy mẫu (sinh thiết) để kiểm tra xem đó có phải là ung thư hay không.

Trong quá trình TURBT, bác sĩ phẫu thuật sẽ loại bỏ khối u và một số mô cơ của bàng quang gần nó. Các mẫu này sẽ được gửi đến phòng thí nghiệm để kiểm tra ung thư.

Xét nghiệm hình ảnh

Các xét nghiệm này sử dụng tia X, từ trường, sóng âm hoặc chất phóng xạ để tạo ra hình ảnh về những gì đang diễn ra bên trong cơ thể bạn. Dưới đây là một số xét nghiệm hình ảnh mà bác sĩ có thể sử dụng để kiểm tra xem bạn có bị ung thư bàng quang hay không:

  • Chụp tĩnh mạch bài tiết (IVP): Đây là một loại tia X của hệ thống tiết niệu. Bác sĩ sẽ tiêm thuốc nhuộm vào tĩnh mạch của bạn, thuốc này sẽ làm nổi bật các khối u trong hệ tiết niệu.
  • Chụp ngược dòng tĩnh mạch: Bác sĩ sẽ đặt một ống mỏng (ống thông) vào niệu đạo và bàng quang của bạn, sau đó tiêm thuốc nhuộm qua ống thông để xem lớp niêm mạc của bàng quang. Nếu có bất kỳ khối u nào trong hệ tiết niệu, chúng sẽ hiển thị trong hình ảnh.
  • Chụp cắt lớp vi tính (CT): Phương pháp này sẽ cung cấp hình ảnh về thận, bàng quang và niệu quản (ống dẫn nước tiểu từ thận đến bàng quang). Nó sẽ cho thấy các khối u trong hệ tiết niệu và cũng có thể hiển thị các hạch bạch huyết có chứa ung thư.
  • Chụp cộng hưởng từ (MRI): Xét nghiệm này sử dụng sóng radio và nam châm âm thanh để tạo ra hình ảnh về hệ tiết niệu của bạn.
  • Siêu âm: Sóng âm tạo ra hình ảnh về hệ tiết niệu, cho phép bác sĩ thấy kích thước của khối u bàng quang.
  • Chụp X-quang ngực: Nếu ung thư bàng quang đã lan đến phổi, xét nghiệm này sẽ cho phép bác sĩ nhìn thấy nó.
  • Quét xương: Ung thư đã lan từ bàng quang đến xương sẽ hiển thị qua quá trình quét này.

Chứng Đại trường kết nhiệt

Chứng Đại trường kết nhiệt là tên gọi chung cho những chứng trạng do táo nhiệt thực hỏa kết ở Đại trường làm cho bế tắc đường ruột, thông thường gọi là chứng Đại trường thực nhiệt. Chứng này đa số do thể chất vốn dương thịnh hỏa vượng hoặc ăn quá nhiều cay nóng nồng hậu hoặc do Phế nhiệt chuyển xuống Đại trường gây nên.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu có các chứng đại tiện khô ráo bí kết, giang môn nóng rát, miệng khô phiền khát, tiểu tiện sẻn đỏ, bụng trướng rắn đầy thậm chí đau bụng cự án, mình nóng mặt đỏ, rêu lưỡi vàng khô thậm chí đen sạm nổi gai, mạch Hồng Sác có lực.

Trong các bệnh Tiện bí, Phúc thống, Thương hàn Dương minh bệnh và Ôn bệnh thường gặp chứng Đại trường kết nhiệt.

Cần chẩn đoán phân biệt với các chứng Đại trường thấp nhiệt, chứng Khí trệ, chứng Trường táo do tân dịch ở Dương minh bị tổn thương.

Phân tích

– Trong bệnh Tiện bí, chứng Đại trường kết nhiệt thường gặp các chứng trạng miệng khô phiền khát thích uống, giang môn nóng rát, tiểu tiện vàng đỏ, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô, mạch Hồng Sác có lực, đây là táo nhiệt câu kết với nhau, úng tắc đường ruột, khí cơ bị vít lấp gây nên; Điều trị nên thanh tả kết nhiệt, cho uống Lương Cách tán (Hòa tễ cục phương) gia giảm.

– Chứng Đại trường kết nhiệt gặp trong bệnh Phúc thống, phải có chứng bụng rắn đầy mà đau, thậm chí cứng rắn và đau, thân thể và bụng đều nóng, đại tiện không thông, miệng khát nôn lợm, tiểu tiện đỏ và rít; Đây là táo nhiệt úng tắc ở đường ruột, khí cơ vít lấp không thông “bất thông thì đau”, nên dùng phép tả nhiệt thông Phủ, cho uống Đại sài hồ thang (Thương hàn luận) gia giảm.

– Thương hàn Dương minh bệnh gặp chứng Đại trường kết nhiệt phần nhiều do bệnh ở Thái dương điều trị không thỏa đáng, hàn tà vào lý hóa nhiệt, tà nhiệt quấn quít ở Vị t rường, tổn hại tân dịch, hóa táo, đến nỗi Đại tiện khô kết không thông. Điều 181 trong Thương hàn luận viết: “Bệnh Thái dương, nếu phát hãn, nếu hạ, nếu lợi tiểu tiện, đó là mất tân dịch, trong Vị khô ráo, do đó truyền vào Dương minh; Bên trong có thực tà, không đại tiện hoặc đại tiện khó khăn, gọi là Dương minh”. Chứng Đại trường kết nhiệt trong bệnh Thương hàn Dương minh chỉ có chứng trạng ố nhiệt không ố hàn, mình nóng đau bụng, đại tiện bí kết, phép trị nên dùng thuốc đắng lạnh để công hạ, tả hỏa thông tiện, cho uống Tiểu thừa khí thang (Thương hàn luận). Nếu nhiệt kết có xu thế nặng, thì bụng cứng rắn đầy, đau và cự án, phát nhiệt phiền táo, nói sảng, nôn mửa, hoặc phân táo kết ở trong ruột, ỉa chảy ra nước loãng rất hôi, đây là chứng nhiệt kết bàng lưu, rêu lưỡi vàng khô nổi gai, mạch Trầm Thực có lực, điều trị nên dùng phép hạ mạnh để quét bỏ thực nhiệt, cho uống Đại sài hồ thang(Thương hàn luận).

– Ôn tà cảm nhiễm ở trên, trước tiên phạm Phế, Phế biểu lý với Đại trường, Ôn bệnh nhiệt tà ở Phế Vệ chưa giải được thì Phế nhiệt chuyển xu ống Đại trường, táo nhiệt kết ở đường ruột, thì thành chứng Đại trường kết nhiệt, chứng này thường gặp ở giai đoạn sau c hứng P hế Vệ nhiệt, tức l à trước ti ên thấy sốt nặng, ố hàn nhẹ, đau họng, khái thấu, thậm chí khái suyễn thở gấp, tiếp theo là đại tiện bí kết, phát nhiệt không ố hàn, vùng bụng ấn đau, thậm chí nhiệt quấy rối thần minh mà hôn mê nói sảng; Điều trị nên thanh tả thực nhiệt ở Đại trường kiêm thanh Phế hỏa, cho uống bài Can cát thang(Chứng nhân mạch trị) gia Hoàng cầm, Tang bạch bì, Qua lâu.

– Nếu tuổi cao thể lực yếu, phụ nữ sau khi đẻ hoặc sau khi bị mất huyết mà bị chứng Đại trường kết nhiệt, t nhiệt kết, nhưng chứng trạng không Thực lắm, bụng không đau nặng lắm, ấn vào bụng không rắn, bụng cũng trướng vừa phải, thì không được dùng thuốc quét rửa hạ mạnh, nên dùng phép thanh nhiệt nhuận trường, cho uống bài Ma tử nhân hoàn (Thương hàn luận).

– Nếu thương thực tích nhiệt, táo nhiệt kết ở Đại trường, có chứng đại tiện khô ráo bí kết, nôn mửa ra chua hăng, vùng bụng trướng đau cự án, điều trị theo phép thanh nhiệt đạo trệ, dùng bài Chỉ thực đạo trệ hoàn (Nội ngoại thương biện hoặc luận).

Ngũ tạng biệt luận sách Tố Vấn viết: Thủy cốc vào miệng thì Vị đặc mà Trường rỗng, ăn vào thì Trường đặc mà Vị rỗng. Trên lâm sàng, Vị với Đại trường thường ảnh hưởng lẫn nhau; Chứng Đại trường kết nhiệt có thể kiêm cả chứng Vị nhiệt, ngoài các chứng trạng bí kết, bụng trướng, giang môn nóng rát, còn có thể kiêm chứng Vị nóng rát, phiền khát thích uống, hay đói và ăn nhiều, chân răng sưng đau.

Chẩn đoán phân biệt

– Chứng Đại trường thấp nhiệt với chứng Đại trường kết nhiệt: Cả hai tuy đều thuộc Thực chứng nhiệt kết ở Đại trường, có thể thấy các chứng trạng thực nhiệt như bụng trướng đầy, mình nóng phiền táo, giang môn nóng rát, rêu lưỡi vàng, mạch Sắc có lực v.v… Nhưng chứng Đại trường thấp nhiệt là một loạt hiện tượng về thấp nhiệt như thấp nhiệt nung nấu uất kết, đại tiện tiết tả hoặc đại tiện ra dính nhớt, miệng khát không muốn uống nước, lý cấp hậu trọng hoặc đại tiện ra mủ máu, mạch Hoạt Sác, rêu lưỡi vàng nhớt. Còn chứng Đại trường kết nhiệt là táo nhiệt câu kết với nhau, đại tiện khô táo bí kết, đồng thời thấy hàng loạt chứng trạng táo nhiệt kết ở trong như môi miệng khô ráo, phiền khát thích uống, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô, mạch Hồng Sác có lực.

– Chứng Khí trệ với chứng Đại trường kết nhiệt, cả hai đều thuộc Thực chứng, nhưng nguyên nhân và cơ chế bệnh khác nhau. Loại trên phần nhiều do ưu tư quá độ, tâm tình không thoải mái, hoặc là ngồi lâu lười hoạt động, khí cơ không thư sướng khiến cho đường ruột mất chức năng truyền đạo, cặn bã ứ đọng gây nên đại tiện bí kết; Đây là chứng khí trệ ngăn trở lấn át, hắn phải thấy ngực sườn đầy tức, trướng bụng ợ hơi, trung tiện thì dễ chịu, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Trầm Huyền. Chứng Đại trường kết nhiệt thì phải có hiện tượng nhiệt, mình nóng phiền táo, đại tiện bí nóng giang môn, rêu lưỡi vàng khô, mạch Hồng Sác. Chứng trên trọng yếu là Khí trệ; Chứng sau trọng yếu ở chỗ nhiệt kết, đó là cơ sở để chẩn đoán phân biệt.

– Chứng Dương minh tân dịch tổn thương Trường táo với chứng Đại trường kết nhiệt. Chứng Dương minh tân dịch tổn thương Trường táo là chỉ “Bệnh Dương minh, tự ra mồ hôi”, thày thuốc lại dùng thuốc ra mồ hôi để phát hãn nữa, khiến cho tân dịch ở Dương minh khô cạn thêm một bước nữa, biểu hiện đại trường khô ráo mà xuất hiện chứng Đại tiện kết rắn khó bài tiết, thường kèm theo các chứng trạng phát nhiệt, tự ra mồ hôi, tiểu tiện tự lợi, ngủ nhiều, bề mặt lưỡi khô ráo ít rêu, mạch Hừ Đại. Chứng này với chứng Đại trường kết nhiệt đều có thể xuất hiện trong Dương minh nhiệt bệnh; Một là vì bệnh giảm nhiệt lui, nhưng tân dịch hao thương quá nhiều, đại trường khô ráo mà gây nên táo bón; Hai là vì táo và nhiệt câu kết với nhau, nội nhiệt hun đốt quá thịnh, đại tiện khô kết, hai chứng tuy đều thấy bí đại tiện, nhưng nhiệt tà ở chứng Dương minh tân dịch tổn thương gây nên táo kết đã giảm, chỉ còn chứng trạng hơi phiền. Còn nhiệt tà của chứng Đại trường kết nhiệt còn thịnh, mình nóng phiền khát, rêu lưỡi vàng, mạch Hồng.

Trích dẫn y văn

– Nghĩ như Đại trường thực, Thực thì sinh nhiệt, nhiệt thì Trường kết mà trướng đầy, hay ho suyễn, mình và mặt nóng, họng bị nghẹn… Đại trường có túc trệ thì phát nhiệt rét run như bị sốt rét, bí rít không thông, đó là chứng hậu Đại trường thực nhiệt (Trị Đại trường Thực nhiệt chư phương – Thái bình thánh huệ phương).

– Đại trường thực nhiệt, bụng trướng không thông kiêm chứng đau vùng rốn, ăn không tiêu hóa, suyễn không ngồi được lâu, miệng phá lở (Phế Đại trường kinh hư thực hàn nhiệt chứng trị – Tam nhân phương).

– Đại trường thực là Vị thực chuyển nhiệt đến, mạch Hữu Xích phải Hồng Thực, và có chứng trạng bế đại tiện… (Bút hoa y kính).

Cơn tăng huyết áp ác tính là gì và cách xử trí tại nhà

CƠN TĂNG HUYẾT ÁP ÁC TÍNH LÀ GÌ?

Là cơn Tăng huyết áp nặng, nguy hiểm và kéo dài, khi huyết áp tối đa từ 220mmHg trở lên hoặc huyết áp tối thiểu của bệnh nhân > 120mmHg. Ngoài các triệu chứng của cơn Tăng huyết áp thường có các triệu chứng tổn thương đáy mắt như nhìn mờ, nảy đom đóm… và có tổn thương thận như suy thận thường khó hồi phục: Đái ít, đái đêm nhiều lần, thậm chí có thể vô niệu, sức khoẻ người bệnh suy sụp nhanh, gầy, khát nước dữ dội, vật vã khó chịu, bứt rứt….

Tăng huyết áp ác tính
Tăng huyết áp ác tính

Đây là tình trạng Tăng huyết áp nặng, nguy hiểm và kéo dài, có thể dẫn đến tử vong.

Theo Goldberger:

Cơn Tăng huyết áp ác tính thường xảy ra ở bệnh nhân trước đó có huyết áp bình thường do các nguyên nhân:

  • Viêm cầu thận cấp
  • Phản ứng thuốc
  • Nhiễm độc thai nghén

Hoặc cơn Tăng huyết áp ác tính xảy ra ở bệnh nhân trước đó có Tăng huyết áp mạn tính do các nguyên nhân:

  • Viêm cầu thận
  • Viêm bể thận
  • Bệnh mạch máu

Cơn Tăng huyết áp ác tính thường kèm theo rất nhiều biến chứng xảy ra một cách dồn dập như:

Bệnh nhân có triệu chứng khó thở, tức ngực, có thể có triệu chứng phù phổi cấp: Khó thở, thở ra bọt màu hồng, không nằm được, ở tư thế nửa nằm nửa ngồi dễ chịu hơn.

Bệnh nhân tăng huyết áp kịch phát cần yên tĩnh tránh kích động
Bệnh nhân tăng huyết áp kịch phát cần yên tĩnh tránh kích động

Các dấu hiệu suy tim như: phù, khó thỏ, gan to….

Các triệu chứng suy thận tiến triển nhanh và nặng với các triệu chứng như đái ít hoặc có thể vô niệu, bệnh nhân bồn chồn, bứt rứt, nhức đầu, mệt mỏi… Xét nghiệm máu và nước tiểu có: urê máu cao, protein, hồng cầu, bạch cầu, trụ hạt trong nước tiểu.

Bệnh nhân có thể có các triệu chứng xuất huyết dưới da, dưới niêm mạc hoặc chảy máu cam….

Các triệu chứng xuất huyết, xuất tiết ở võng mạc mắt làm giảm thị lực, nhìn mờ, ruồi bay….

CƠN TĂNG HUYẾT ÁP KỊCH PHÁT LÀ GÌ?

Là cơn Tăng huyết áp do nhiều nguyên nhân khác nhau, thường bao giờ cũng có các triệu chứng:

Nhức đầu

Đau tức ngực

Hoa mắt, chóng mặt

Nảy đom đóm mắt

Có hiện tượng “Ruồi bay”

Khó thở

Nôn mửa

Mệt mỏi

Cơn Tăng huyết áp kịch phát có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm như: Tai biến mạch máu não, phù phổi cấp, suy tim, đau thắt ngực, co giật…. đặt vấn đề sống chết của bệnh nhân trong thời gian ngắn.

Cấp cứu bệnh nhân tăng huyết áp ác tính
Cấp cứu bệnh nhân tăng huyết áp ác tính

LÀM GÌ KHI BỆNH NHÂN BỊ TĂNG HUYẾT ÁP KỊCH PHÁT HOẶC TĂNG HUYẾT ÁP ÁC TÍNH?

Xử trí tại nhà khi bệnh nhân có cơn Tăng huyết áp kịch phát hoặc cơn Tăng huyết áp ác tính như thế nào?

Cần để bệnh nhân thư giãn, ở tư thế nửa nằm nửa ngồi, tránh căng thẳng thần kinh… Không được hoạt động thể lực kể cả đi lại.

Cho bệnh nhân ngậm dưới lưỡi 1/2-1 viên Seduxen 5mg hoặc 1 viên Trénxène 10 mg và uống 1 viên Nifedipin retard 20mg hoặc Coversyl 4 Nếu không có các thuốc này thì có thể ngậm 3-5 giọt Adalat dưới lưỡi nhưng phải theo dõi chặt chẽ huyết áp. Một số trường hợp, huyết áp hạ quá nhanh do uống Adalat cũng gây tai biến mạch máu não dẫn tới tử vong. Uống thuốc lợi tiểu 1-2 viên Furosemid 40mg.

Đây thực sự là một cấp cứu nội khoa, cần nhanh chóng khẩn trương mời thầy thuốc thăm khám xử trí tại nhà và đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất để được cấp cứu tiếp.

115 là số điện thoại cấp cứu bạn cần nhớ! Trung tâm cấp cứu có trách nhiệm xử trí bước đầu và chuyển bạn đến bệnh viện.

Cách làm lẩu dạ dày lợn ngon tuyệt

Nguyên liệu món ăn

Dạ dày lợn: 1500g

Đậu phụ: 750g

Măng: 50g

Nấm hương: 50g

Sợi bột mỳ cán: 150g

Rau thơm: 250g

Dầu vừng: 50g

Xì dầu: 0,0501ít

Mắm tôm: 50g

Rượu thực phẩm: 0,005 lít

Hạt tiêu bột: 0,5g

Muối 10g

Mỳ chính: 10g

Nước luộc thịt: 1,25 lít

Nguyên liệu lẩu dạ dày
Nguyên liệu lẩu dạ dày

Cách làm lẩu dạ dày lợn

Lấy dao bổ đôi cổ hũ, cạo sạch lớp màng nhầy và hai màng cứng, trắng ở hai bên, rửa sạch bằng nước lã rồi thái miếng mỏng kích thước 6cm X 3cm, càng mỏng càng tốt, cho vào bốn đĩa, tưới rượu thực phẩm vào ướp.

Đậu phụ cắt thành miếng vuông dày 3 cm, đề vào khay đưa vào ngăn đá ướp lạnh khoảng 4 tiếng, sau đó bỏ ra, đợi cho đậu phụ bớt lạnh mới nhúng đậu phụ vào nước sôi, vớt ra đựng vào hai đĩa. Măng, nấm hương thái thành miếng mỏng, rau thơm rửa sạch cho vào đĩa. Gắp sợi bột mỳ cán thái nhỏ vào đĩa.

Pha nước chấm, dùng loại gia vị ăn lẩu tái.

Đổ nước thịt vào nồi nấu lẩu, đun sôi bằng lửa to, cho muối, rượu thực phẩm, mỳ chính, măng vào nồi, đun sôi lại, rồi bày các đĩa dạ dày, đậu phụ, mỳ ướt, rau thơm, bát nước chấm pha sẵn lên mâm.

Khi ăn: Gắp miếng dạ dày nhúng vào trong nồi nước thịt vớt ra chấm nước chấm. Sau khi trần xong, đổ đậu phụ, sợi bột mỳ vào nồi lẩu, đậy vung, đun nước sôi là được. Có thể múc lẩu vào ăn, hoặc chấm nước chấm để ăn.

Yêu cầu thành phẩm:

Dạ dày trắng giòn. Măng vàng thơm mùi nấm hương.

Lẩu dạ dày dày
Lẩu dạ dày dày

Những Điều Cần Biết Về Gối Khi Mang Bầu

Tại Sao Ngủ Nghiêng Bên Là Lựa Chọn Khuyến Nghị Trong Thai Kỳ?

Có nhiều sự khó chịu đi kèm với thai kỳ, bao gồm thay đổi cơ thể, biến động tâm trạng và những cơn đau bất ngờ. Một tác dụng phụ không may là cách thai kỳ làm thay đổi giấc ngủ của bạn. Nếu bạn không phải là người ngủ nghiêng từ trước, bạn có thể phải học cách điều chỉnh, vừa để thoải mái vừa để bảo vệ sức khỏe của bạn và em bé.

Một công cụ có thể giúp làm dịu quá trình chuyển tiếp này là gối thai kỳ. Gối thai kỳ là những chiếc gối có hình dạng đặc biệt hỗ trợ việc ngủ thoải mái khi nằm nghiêng trong thai kỳ.

Các nghiên cứu sơ bộ cho thấy ngủ bên trái là tư thế tốt nhất cho một thai kỳ khỏe mạnh. Tư thế này liên quan đến tỷ lệ thai chết lưu muộn thấp hơn so với việc nằm ngửa hoặc nằm nghiêng bên phải.

Ngủ ngửa cũng hạn chế lưu lượng máu đến tử cung, điều này có thể dẫn đến cân nặng lúc sinh thấp và các vấn đề sức khỏe khác cho em bé.

Ngủ nghiêng bên cũng có lợi cho sức khỏe ngay cả khi bạn không mang thai. Ngủ bên giúp cải thiện hô hấp trong khi ngủ và là một biện pháp khắc phục phổ biến cho chứng ngưng thở khi ngủ. Ngủ bên trái cũng có thể cải thiện chứng ợ nóng và trào ngược axit, và có thể cải thiện sức khỏe đường ruột bằng cách sử dụng trọng lực để hỗ trợ tiêu hóa tự nhiên.

Dù có nhiều lợi ích cho sức khỏe, nhưng ngủ nghiêng bên cũng có nhược điểm – cụ thể là tăng cơn đau khớp. Trong khi việc ngủ nghiêng đúng cách có thể giúp giảm các vấn đề như đau lưng dưới, nhiều người ngủ nghiêng gặp phải nhiều cơn đau hơn ở cổ, vai, và hông, đặc biệt ở bên mà họ ngủ, do vị trí không đúng hoặc hỗ trợ không đủ. Điều này trở nên tồi tệ hơn với trọng lượng cơ thể cao, vì vậy sự tăng cân liên quan đến thai kỳ có thể làm điều này càng tồi tệ hơn.

Gối Thai Kỳ Có Thể Giúp Gì Trong Việc Ngủ Nghiêng?

Gối thai kỳ được thiết kế đặc biệt để giúp giảm cơn đau liên quan đến việc ngủ nghiêng và hỗ trợ bụng đang phát triển của bạn.

Chúng thường có hình dạng của một chiếc gối lớn giúp hỗ trợ lưng, cổ, bụng, đầu gối và hông của bạn. Hỗ trợ thêm này làm giảm cơn đau do vị trí không đúng khi nằm nghiêng, và giúp ngăn ngừa các khớp bị gập hoặc xoắn trong khi ngủ, đặc biệt là trên các đệm mềm.

Mặc dù có thể đạt được kết quả tương tự bằng cách sử dụng nhiều gối thông thường, nhưng sự di chuyển trong khi ngủ có thể làm cho chúng bị lệch vị trí hoặc rơi ra khỏi giường. Gối thai kỳ, ngược lại, dễ giữ nguyên vị trí hơn vì chúng là một khối. Chúng cũng có hình dạng độc đáo thường phù hợp hơn với cơ thể bạn — đặc biệt là bụng của bạn trong thời kỳ mang thai — so với các gối thông thường. Điều này cho phép chúng định hình theo từng phần của cơ thể bạn, cung cấp đúng lượng hỗ trợ cần thiết.

Gối thai kỳ cũng có thể hữu ích cho những người ngủ nghiêng không mang thai, vì chúng phục vụ một chức năng tương tự, ngoại trừ hỗ trợ cho bụng. Nhiều người cảm thấy chúng thoải mái và so sánh với việc được ôm ấp hoặc thì thầm khi ngủ.

Các Loại Gối Thai Kỳ

Gối thai kỳ có nhiều hình dạng và kích cỡ khác nhau, tất cả đều được thiết kế để hỗ trợ bạn theo nhiều cách khác nhau.

  • Gối hình chóp (Wedge pillows): Những loại nhỏ nhất, được gọi là gối hình chóp hoặc gối thai, được thiết kế để sử dụng ở bất cứ nơi nào bạn cần hỗ trợ nhiều nhất. Chúng có kích thước tương đương với một chiếc gối thông thường, nhưng có hình dạng giống như một chiếc chóp tròn hoặc tam giác để cung cấp hỗ trợ bổ sung.
  • Gối toàn thân (Total body pillows): Ngược lại, gối toàn thân là loại lớn nhất và được thiết kế để hỗ trợ mọi phần của cơ thể bạn cùng một lúc. Chúng có hình dạng chữ U hoặc chữ C, tùy thuộc vào việc bạn muốn được bao quanh hoàn toàn bởi gối hay chỉ được che ở một bên. Chúng thường thay thế cho các gối đầu thông thường của bạn, vì đầu và cổ của bạn được hỗ trợ bởi phần trên cùng của gối thai kỳ.
  • Gối dài toàn bộ (Full-length body pillows): Ở giữa những lựa chọn này là gối dài toàn bộ. Loại gối thai kỳ này tương tự như những chiếc gối cơ thể thông thường mà bạn có thể mua ở hầu hết các cửa hàng, nhưng thường được định hình để phù hợp với bụng của bạn, và một số gối có thể linh hoạt hoặc dễ điều chỉnh để cung cấp hỗ trợ tùy chỉnh hơn. Những chiếc gối này có thể được kết hợp với các gối thông thường của bạn vì chúng thường không cung cấp hỗ trợ cho đầu hoặc cổ, mặc dù chúng có thể được định hình để làm điều đó nhưng sẽ ảnh hưởng đến việc hỗ trợ các khu vực khác, nếu bạn thích.

Trong các danh mục này, có nhiều biến thể khác nhau, bao gồm chất liệu vỏ, độ cứng, độ linh hoạt, chất liệu nhồi, và những khác biệt nhỏ trong hình dạng, ngay cả trong số các gối cùng loại.

Làm Thế Nào Để Chọn Gối Thai Kỳ?

Mỗi người là khác nhau, và điều này không kém phần đúng trong thai kỳ. Các gối khác nhau được thiết kế để hỗ trợ bạn theo nhiều cách khác nhau. Một số tính năng quan trọng cần tìm kiếm bao gồm:

  • Hỗ trợ nơi bạn cần nhất
  • Vỏ có thể giặt
  • Hình dạng phù hợp với cơ thể bạn
  • Thiết kế phù hợp với thói quen ngủ của bạn

Hãy suy nghĩ về nhu cầu của bạn khi ngủ. Bạn cảm thấy đau ở đâu? Gối bạn chọn nên hỗ trợ những khu vực đó nhiều hơn. Bạn có thường xuyên thay đổi tư thế không? Có thể chọn gối hình chữ U mà bạn không phải điều chỉnh khi lăn qua.

Bạn đã có một chiếc gối thông thường mà bạn yêu thích để hỗ trợ cổ chưa? Chọn một gối thai kỳ để lại chỗ cho bạn tiếp tục sử dụng nó. Bạn có ra nhiều mồ hôi, như nhiều phụ nữ mang thai? Hãy chắc chắn rằng vỏ gối dễ tháo rời và giặt. Bạn đang mang thai đôi? Một chiếc gối có thể điều chỉnh để phù hợp với sự phát triển thêm ở bụng của bạn có thể là sự lựa chọn hợp lý.

Đừng ngần ngại đi mua sắm hoặc thử nhiều gối khác nhau cho đến khi bạn tìm thấy cái giúp bạn thoải mái nhất. Giấc ngủ đúng cách là rất quan trọng, đặc biệt trong thai kỳ, vì vậy xứng đáng với nỗ lực để tìm ra gối thai kỳ tốt nhất giúp bạn có một đêm nghỉ ngơi tốt nhất có thể.

Cách Sử Dụng Gối Thai Kỳ

Bạn sử dụng gối thai kỳ giống như bạn sẽ sử dụng bất kỳ gối hỗ trợ nào khác. Tùy thuộc vào hình dạng và kiểu bạn chọn, hãy đặt gối để hỗ trợ những khu vực bạn cảm thấy đau nhất.

Với gối hình chữ C hoặc hình chữ U, ví dụ, có thể hữu ích khi đặt đầu của bạn trên phần uốn cong của gối chữ U (hoặc đuôi của gối chữ C), ôm lấy phần giữa, và đặt phần cuối giữa đầu gối của bạn. Với gối hình chữ U, bạn cũng có thể đặt chân còn lại của chữ U vào hoặc dưới lưng của bạn để có thêm hỗ trợ.

Với các gối nhỏ hơn, như gối hình chóp hoặc gối dài toàn bộ, hãy đặt chúng ở nơi bạn cần hỗ trợ nhiều nhất. Bạn có thể kết hợp chúng với các gối bổ sung để đạt được mức độ hỗ trợ mong muốn.

Gối thai kỳ có thể tiếp tục hữu ích sau khi sinh. Chúng có thể được sử dụng để hỗ trợ em bé của bạn trong khi ôm ấp hoặc cho bú. Chúng cũng có thể giúp bạn cảm thấy thoải mái trong khi ngủ khi cơ thể bạn bắt đầu trở lại bình thường. Một số người tiếp tục sử dụng gối thai kỳ lâu sau khi sinh, chỉ vì nó thoải mái hơn.

Viêm Amidan nên ăn gì tốt nhất

Khi sưng Amidan người bệnh thấy đau cổ họng, nuốt vào thấy đau và rất khó khăn. Người khi nóng khi lạnh, nhức đầu, bí ỉa và đau nhức ê ẩm toàn thân.

Món 1: THANH ĐẠI XÀO MƯỚP

Nguyên liệu:

  • 250gr mướp – 3gr thanh đại – 10gr dầu mè
  • 6 tép tỏi.

Cách chế biến:

Mướp gọt vỏ, rửa sạch rồi xắt miếng dày khoảng 2cm. Tỏi sống rửa sạch xắt mỏng. Dùng dầu mè để xào mướp cùng với tỏi và thanh đại. Nhớ thêm một ít muối cho vừa ăn.

Cách ăn: Ăn chung với cơm.

Món 2: CANH CỦ CẢI TRẮNG

Nguyên liệu:

  • 250gr củ cải trắng – 05gr trái ô-liu
  • 20gr ngân hoa.

Cách chế biến:

Củ cải trắng gọt vỏ rửa sạch rồi xắt lát dày. Ô-liu dăm nát trộn với ngân hoa rồi bỏ chung vào một cái túi vải. Đổ nước sạch vào nồi rồi đổ cả củ cải và túi vải (cột kín) vào nấu chín. Khi nào cú cải nhừ cho vào một ít muối trước khi ăn.

Cách ăn: Có thể ăn một mình hoặc ăn với cơm.

Công hiệu: Tản phong, thanh nhiệt, giảm sưng đau.

củ cải trắng
Củ cải trắng

Món 3: CHÁO Ô-LIU

Nguyên liệu:

  • Củ cải trắng 100gr – ô-liu 5 trái
  • Bồ Công Anh 05gr – Gạo trắng 50gr.

    Bồ công anh
    Bồ công anh

Cách chế biến:

Củ cải, ô-liu và bồ công anh cùng giã nhỏ rồi bỏ vào một cái túi vải đặt vào nồi; đổ nước một lượng vừa đủ để lửa lớn nấu khoảng 20 phút rồi vớt túi vải ra. Gạo trắng vo sạch bỏ vào để nấu thành cháo.

Cách ăn: Dùng thay món ăn sáng.

Công hiệu: Thanh nhiệt giải độc; giảm sưng cắt cơn đau.

Món 4:

Nguyên liệu:

  • Dưa chuột 250gr – tôm nõn 5gr
  • nước tương; dấm; dầu mè một lượng vừa phải và một ít rau thơm.

Cách chế biến:

Dưa leo xắt mỏng trụng nước sôi một lượt rồi sắp ra đĩa. Tôm nõn trụng nước sôi rải lên trên. Rau thơm xắt nhỏ rắc lên trên rồi cho các gia vị khác lên.

Cách ăn: Ăn chung với cơm.

Công hiệu: Thanh nhiệt lợi tiểu.

Nguyên tắc:

Thanh đàm, hạ hỏa.

Cách trị hôi nách tại nhà hiệu quả bất ngờ

Bệnh hôi nách y học gọi là “bệnh mồ hôi thối”, nam nữ đều có thể mắc, nhưng nữ giới nhiều hơn, nhất là thiếu nữ đang độ thanh xuân, tuyến mồ hôi bắt đầu phát triển. Chất hữu cơ do tuyến mồ hôi tiết ra, bị vi khuẩn phá hoại phân giải thành loại a-xít béo không bão hoà gây ra mùi hôi thối rất khó chịu. Mùi hôi thối phần lớn toả ra từ nách, có khi ở vú, ở háng và hậu môn cũng toả mùi vị khó chịu này. Đến khi tuổi cao thì giảm đi hoặc mất hoàn toàn. Hôi nách có tính di truyền. Y học Trung Quốc cho rằng do thấp uất làm cho khí huyết bất hoà gây nên.

Nội dung trị hôi nách

  1. Chú ý giữ gìn sạch sẽ, thường xuyên tắm rửa, chịu khó thay quần áo.
  2. Giữ cho da dẻ khô ráo, nách, vú và các bộ phận khác phải luôn sạch sẽ.
  3. Mỗi ngày phải rửa nước xà phòng vài lần, cạo sạch lông nách, không để chỗ cho vi khuẩn ẩn nấp.
  4. Trong quá trình chữa bệnh hôi nách, phải giữ cho tinh thần vui vẻ, không nên hoạt động quá mạnh.
  5. Kiêng hút thuốc, uống rượu, không nên dùng thực phẩm kích thích quá mạnh.
  6. Phương pháp điều trị bệnh hôi nách chủ yếu chữa bệnh bên ngoài.

    Cách trị hôi nách tại nhà hiệu quả
    Cách trị hôi nách tại nhà hiệu quả

Phương pháp trị hôi nách

  1. Lấy một ít sơn dược, thái miếng sát vào chỗ hôi, ngày 1-2 lần.
  2. Lấy mật đà tăng, một ít bột phèn hôi vào chỗ hôi.
  3. Lấy bột tan, bột vôi mỗi thứ 30 gam, nghiền thành bột bôi vào chỗ hôi, ngày 1 lần.
  4. Một ít hương nhu, giã nhỏ bôi vào chỗ hôi, ngày 1 lần.
  5. Bột vôi và dấm quấy đều bôi vào chỗ hôi, ngày 2-3 lần, dùng liên tục trong thời gian dài.
  6. Lấy 0,5 lít nước cà chua đổ vào bồn tắm, ngâm cho chỗ hôi ngập nước khoảng 15 phút, mỗi tuần 2 lần, làm liên tục mấy tuần sẽ có hiệu quả.

    Vị thuốc Hoài sơn chữa hôi nách
    Vị thuốc Hoài sơn chữa hôi nách

Hôi nách cần lưu ý.

Trẻ con có mùi hôi nách, có khả năng là do nước tiểu có a-xít amin hoặc những bệnh tật chuyển hoá khác gây nên, cần phải kiểm tra kỹ để chữa bệnh đúng bệnh.

Một số biện pháp dân gian trị hôi nách

Kem đánh răng: chà xát kem đánh răng lên vùng da nách dưới cánh tay từ 2-3 phút là có thể giảm, khử mùi hôi. Để có hiệu quả tốt nhất, nên áp dụng phương pháp này đều đặn mỗi ngày, sau khi tắm xong.

Gừng tươi: Dùng nước gừng tươi giã nhuyễn bôi vào nách, một ngày vài lượt.

Phèn chua, phèn phi, khô phèn
Phèn chua, phèn phi, khô phèn

Phèn chua: Cho 50 gram phèn chua vào trứng, dùng lửa nhỏ hơ đến khi phèn chảy nước, rồi đợi cứng lại, giã nhuyễn thành bột, bôi vào nách, ngày 2 lần, có tác dụng giảm nhẹ, điều trị kiên trì có thể chữa khỏi bệnh.

Lá trầu không: Giã nát lá trầu không, chắt lấy nước rồi lau qua vùng nách kết hợp các động tác massage xoa đều xung quanh. Thực hiện lúc trước khi đi ngủ, rửa lại thật sạch vào sáng ngày hôm sau. Để đạt kết quả cao, nên thực hiện đều đặn khoảng 2-3 lần/tuần.

Can thiệp động mạch vành qua da

Với sự gia tăng nhanh chóng của bệnh Động mạch vành và các trung tâm Tim mạch can thiệp, khuyến cáo can thiệp Động mạch vành qua da ngày càng trở nên quan trọng giúp cho các nhà lâm sàng có những thông tin cần thiết làm cải thiện kết quả điều trị và chăm sóc bệnh nhân dựa trên các kết quả nghiên cứu của y học. Mục đích của khuyến cáo này nhằm đưa ra các phương hướng thực hành khi nào thì tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da dựa trên các bằng chứng qua các nghiên cứu ngẫu nhiên hay không ngẫu nhiên đã được đăng tải.

Có rất ít nghiên cứu so sánh trực tiếp điều trị nội khoa với can thiệp Động mạch vành qua da ở bệnh nhân đau ngực ổn định và không ổn định. Dựa trên một lượng rất hạn chế nghiên cứu ngẫu nhiên so sánh điều trị nội khoa với nong Động mạch vành bằng bóng qua da (AVERT, RITA‒2) cho thấy các bệnh nhân đau ngực mức độ CCS 1‒2 nên điều trị nội khoa, và để giành phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành hay can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân có triệu chứng thiếu máu cơ tim trầm trọng hơn. Các bệnh nhân có triệu chứng ở bất cứ lứa tuổi nào muốn có một hoạt động thể lực năng động hơn thường phải cần đến can thiệp Động mạch vành qua da. Kết quả nghiên cứu ACIP cho thấy các bệnh nhân bị tổn thương Động mạch vành có ý nghĩa, có nguy cơ cao mà không có triệu chứng thiếu máu cơ tim nếu được tái tạo mạch toàn bộ bằng phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành hay can thiệp Động mạch vành qua da có tiên lượng tốt hơn là điều trị nội khoa đơn thuần.
Ưu điểm chính của can thiệp Động mạch vành qua da là dễ dàng thực hiện hơn, tránh được gây mê toàn thể, mở ngực, tuần hoàn ngoài cơ thể, các biến chứng khác, và sự hồi phục kéo dài. Tái can thiệp Động mạch vành qua da cũng dễ dàng hơn tái phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành rất nhiều, và sự tái tạo mạch có thể thực hiện được một cách nhanh chóng trong các trường hợp cấp cứu. Nhược điểm của can thiệp Động mạch vành qua da là tái hẹp sớm và không giải quyết được các tổn thương tắc hoàn toàn mạn tính và/hoặc các mạch máu bị vữa xơ quá lan tỏa.
Phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành có ưu điểm là kết quả duy trì được lâu dài hơn (cầu nối bằng động mạch còn thông trên 90% sau 10 năm) và tái tạo mạch máu được toàn diện hơn cho dù tổn thương vữa xơ gây tắc nghẽn trầm trọng. Nói chung, Động mạch vành càng bị vữa xơ lan tỏa và tổn thương càng trầm trọng thì càng nên lựa chọn phẫu thuật bắc cầu nối chủvành, đặc biệt là khi có suy giảm chức năng thất trái. Các bệnh nhân bị tổn thương Động mạch vành ít hơn, các tổn thương khu trú thì nên lựa chọn can thiệp Động mạch vành qua da.
Can thiệp Động mạch vành qua da và phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành đã được so sánh qua rất nhiều nghiên cứu ngẫu nhiên và không ngẫu nhiên. Trong nghiên cứu ARTS so sánh đặt stent Động mạch vành với phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong giữa hai nhóm sau 1 năm theo dõi. Nói chung các bệnh nhân được lựa chọn để can thiệp Động mạch vành qua da bởi vì đặc điểm tổn thương của Động mạch vành không cần phải phẫu thuật. Năm 2006, Hội Tim mạch học Quốc gia Việt Nam đã đưa ra “Khuyến cáo can thiệp động mạch vành qua da”. Những nghiên cứu mới được đăng tải trong các tạp chí của Trường môn Tim mạch học Hoa Kỳ, Hội Tim mạch can thiệp Hoa Kỳ và Hội Tim mạch châu Âu trong những năm 2005‒2006 đã đưa ra một số kết quả mới có khác với các nghiên cứu trước đây. Vì vậy việc cập nhật các khuyến cáo mới là điều rất cần thiết để giúp điều chỉnh các phác đồ điều trị phù hợp với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhìn chung các hướng dẫn vẫn theo các khuyến cáo của Hội Tim mạch học Quốc gia Việt Nam 2006, tuy nhiên có một vài thay đổi nhỏ.
Phân loại mức độ khuyến cáo:
Chỉ định nhóm I:Có chỉ định, tức là có các bằng chứng và/hoặc nhất trí chung cho rằng biện pháp áp dụng, thủ thuật hoặc điều trị là có lợi và có hiệu quả.
Chỉ định nhóm II:Chỉ định cần cân nhắc tới hoàn cảnh thực tế, tức là tình trạng trong đó có các bằng chứng đối lập và/hoặc ý kiến phải được thảo luận về lợi ích/hiệu quả của thủ thuật hoặc điều trị.
Chỉ định nhóm IIa: Các bằng chứng/ý kiến cho thấy có lợi ích/hiệu quả.
Chỉ định nhóm IIb:Các bằng chứng/ý kiến cho thấy ít có lợi ích/hiệu quả.
Chỉ định nhóm III:Không có chỉ định, tức là tình huống trong đó có các bằng chứng và/ hoặc ý kiến chung cho rằng thủ thuật/ điều trị không có lợi ích và hiệu quả, thậm chí trong một vài trường hợp có thể có hại.

2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ

Thành công của thủ thuật can thiệp Động mạch vành qua da có thể được chia làm các loại sau:
2.1. Các tiêu chuẩn can thiệp Động mạch vành qua da thành công
2.1.1. Thành công về mặt chụp mạch
Thành công về mặt chụp mạch khi sau thủ thuật làm rộng lòng mạch tại vị trí can thiệp với đường kính hẹp tối thiểu (minimum stenosis diameter) giảm đi còn < 20% và dòng chảy trong Động mạch vành đạt mức độ TIMI‒3 (đánh giá trên hình ảnh chụp Động mạch vành).
2.1.2. Thành công về mặt thủ thuật
Thành công về mặt thủ thuật đạt được khi bệnh nhân thành công về mặt chụp mạch và không bị biến chứng nặng trong thời gian nằm viện (tử vong, Nhồi máu cơ tim, bắc cầu nối chủvành cấp cứu) trong khi nằm viện.
Mặc dù phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành cấp cứu và tử vong dễ xác định trên lâm sàng, việc xác định Nhồi máu cơ tim liên quan đến thủ thuật còn tranh cãi. Sự xuất hiện sóng Q mới và tăng men CK thường được sử dụng. Tuy nhiên tăng men tim một cách đáng kể mà không có sóng Q thì vẫn còn tranh cãi. Một số nghiên cứu cho thấy, Nhồi máu cơ tim không sóng Q với men CK‒MB tăng 3‒5 lần giới hạn cao của bình thường. Do vậy, tăng men CK‒MB một cách đáng kể mà không có sóng Q được cho là có giá trị chẩn đoán cao biến chứng của thủ thuật.
Troponin T và I có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn CK‒MB, hiện nay đã được đưa vào để đánh giá diện cơ tim bị hoại tử. Tuy nhiên tiêu chuẩn tiên lượng sau can thiệp Động mạch vành qua da dựa trên troponin T và I vẫn chưa được đưa ra.
Định lượng CK‒MB nên được tiến hành cho các bệnh nhân có triệu chứng gợi ý MNCT sau thủ thuật hoặc ở bệnh nhân có tắc mạch sau can thiệp, tắc nhánh bên lớn, có dòng chảy chậm trong Động mạch vành sau can thiệp. Các bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng gợi ý Nhồi máu cơ tim, có CK‒MB tăng gấp > 3 lần giới hạn cao của bình thường được coi là Nhồi máu cơ tim trên lâm sàng.
2.1.3. Thành công về mặt lâm sàng
Thành công về mặt lâm sàng sớm bao gồm thành công về mặt chụp mạch và thành công về mặt thủ thuật cùng với giảm triệu chứng và/hoặc dấu hiệu thiếu máu cơ tim khi bệnh nhân hồi phục sau thủ thuật.
Thành công về mặt lâm sàng dài hạn khi kết quả thành công về mặt lâm sàng sớm tiếp tục được duy trì và kéo dài, bệnh nhân không có triệu chứng thiếu máu cơ tim trên 6 tháng sau thủ thuật. Tái hẹp là nguyên nhân chủ yếu làm ảnh hưởng đến thành công về mặt lâm sàng dài hạn.
2.2. Các biến chứng của thủ thuật
Chỉ định nhóm I
Tất cả các bệnh nhân có các dấu hiệu hoặc các triệu chứng gợi ý bị Nhồi máu cơ tim trong hay sau can thiệp Động mạch vành qua da và các bệnh nhân có biến chứng trong thủ thuật nên được làm CK‒MB và Troponin I hay T sau thủ thuật.
Chỉ định nhóm IIa
Kiểm tra các dấu ấn sinh học của tim một cách thường qui (CK‒MB và/hoặc troponin I hay T) cho tất cả các bệnh nhân được can thiệp Động mạch vành qua da trong vòng 8‒12 giờ sau thủ thuật.
Biến chứng của thủ thuật được chia thành 6 loại cơ bản:
‒ Tử vong.
‒ Nhồi máu cơ tim.
‒ Phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành cấp cứu.
‒ Đột quỵ.
‒ Các biến chứng tại vị trí làm đường vào động mạch. ‒ Bệnh thận do thuốc cản quang.
2.2.1. Tử vong trong bệnh viện: bệnh nhân bị tử vong trong quá trình nằm viện.
2.2.2. Nhồi máu cơ tim xung quanh thủ thuật
NMCT mới khi có một trong các tiêu chuẩn sau:
1. Sự tiến triển của đoạn ST chênh lên, xuất hiện sóng Q mới ở ít nhất 2 chuyển đạo liên tục trên điện tâm đồ hoặc xuất hiện blốc nhánh trái hoàn toàn mới.
2. Có bằng chứng hóa sinh của hoại tử cơ tim như: CK‒MB ≥ 3 hoặc CK ≥ 3 lần giới hạn cao của bình thường.
2.2.3. Phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành trong khi nằm viện
Chỉ định phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành theo các loại sau:
1. Phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành có chuẩn bị: thủ thuật trì hoãn mà không làm tăng nguy cơ cho bệnh nhân.
2. Phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành sớm: khi có tất cả các điều kiện sau đây:
‒ Không chuẩn bị
‒ Không cấp cứu
‒ Thủ thuật đòi hỏi phải tiến hành ngay trong thời gian bệnh nhân nằm viện nhằm làm giảm các biến chứng lâm sàng.
3. Phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành cấp cứu: tình trạng lâm sàng của bệnh nhân bao gồm một trong các tiêu chuẩn sau:
‒ Có một trong các tiêu chuẩn rối loạn chức năng do thiếu máu:
+ Đang thiếu máu cơ tim bao gồm đau thắt ngực khi nghỉ ngơi mặc dù đã được điều trị nội khoa tối ưu: dùng thuốc và/hoặc đặt bóng đối xung trong động mạch chủ (IABP).
+ Nhồi máu cơ tim cấp trong vòng 24 giờ trước khi can thiệp.
+ Phù phổi cấp phải đặt nội khí quản.
‒ Có một trong hai rối loạn chức năng cơ học:
+ Sốc tim dưới sự hỗ trợ tuần hoàn.
+ Sốc tim không có hỗ trợ tuần hoàn.
4. Phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành cứu vãn (salvage): bệnh nhân được cấp cứu ngừng tuần hoàn (CPR) trong khi chuyển đến phòng mổ.
2.2.4. Tai biến mạch máu não/đột quỵ
Bệnh nhân bị mất chức năng thần kinh do thiếu máu não với các triệu chứng tồn tại ít nhất sau 24 giờ.
2.2.5. Các biến chứng mạch máu
Chảy máu: mất máu tại vị trí đường vào động mạch hay tĩnh mạch đòi hỏi phải truyền máu và/hoặc kéo dài thời gian nằm viện, và/hoặc làm giảm hemoglobin > 3,0 g/dl. Chảy máu tại vị trí chọc mạch: có thể là tụ máu sau phúc mạc, tụ máu tại chỗ có đường kính > 10 cm hoặc tụ máu ở bên ngoài.
Tắc mạch: tắc hoàn toàn động mạch tại vị trí làm đường vào đòi hỏi phải phẫu thuật sửa chữa. Tắc mạch có thể do huyết khối, bóc tách thành mạch hay các cơ chế khác. Tắc mạch có thể đi kèm theo mất mạch hay tín hiệu Doppler với các dấu hiệu và triệu chứng của thiếu máu chi đòi hỏi phải can thiệp ngoại khoa.
Bóc tách thành mạch: là sự nứt gẫy của thành mạch máu dẫn đến làm trượt và tách lớp áo trong ra khỏi thành mạch, thường xuất hiện tại vị trí làm đường vào qua da.
Giả phình mạch: là sự xuất hiện giãn phình của động mạch tại vị trí làm đường vào phát hiện trên chụp mạch hay siêu âm mạch.
Thông động‒tĩnh mạch: là sự nối thông giữa vị trí làm đường vào động mạch và tĩnh mạch được phát hiện trên chụp mạch hoặc siêu âm mạch, và thường biểu hiện bằng tiếng thổi liên tục.
2.2.6. Suy thận
Bệnh nhân bị suy thận cấp làm tăng creatinin máu thêm hơn 2,0 mg/dl (hoặc tăng ≥ 50% chỉ số bất bình thường trước đó) so với trước khi làm thủ thuật, hay đòi hỏi phải chạy thận nhân tạo.

3. CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG

3.1. Các yếu tố giải phẫu và lâm sàng
3.1.1. Các yếu tố giải phẫu
Các yếu tố giải phẫu của tổn thương đích có liên quan với các biến chứng của thủ thuật đã được nghiên cứu rộng rãi. Hình thái tổn thương và mức độ trầm trọng của tổn thương đã được xác định là yếu tố tiên lượng sớm quan trọng khi nong Động mạch vành bằng bóng đơn thuần trước thời đại stent. Tắc mạch cấp do huyết khối hay bóc tách thành Động mạch vành đã được báo cáo từ 3%‒8% bệnh nhân. Nguy cơ của nong Động mạch vành bằng bóng đơn thuần trước thời đại stent liên quan đến các yếu tố giải phẫu đã được xác định trong nghiên cứu NHLBI PTCA. Ngày nay với việc sử dụng rộng rãi stent đã kiểm soát được hầu hết các biến chứng của nong Động mạch vành bằng bóng đơn thuần. Do vậy, hệ thống phân loại tổn thương của ACC/AHA hiện nay không còn phù hợp. Các nghiên cứu đã khẳng định các tổn thương Động mạch vành phức tạp vẫn có thể dự đoán được các biến chứng sau can thiệp. Tuy vậy, mặc dù nguy cơ tái hẹp và thất bại về mặt kỹ thuật vẫn còn cao khi can thiệp các tổn thương Động mạch vành tắc hoàn toàn mạn tính, nhưng nguy cơ bị các biến chứng cấp không tăng thêm. Hội can thiệp tim mạch Hoa Kỳ (SCAI) đã đưa ra một phân loại tổn thương mới dựa trên 7 đặc điểm của tổn thương. Sự phân loại của Hội tim mạch can thiệp Hoa Kỳ đơn giản hơn và có giá trị tiên lượng sự thành công và biến chứng của thủ thuật tốt hơn phân loại trước đây của Trường môn tim mạch Hoa Kỳ và Hội tim mạch Hoa Kỳ (ACC/AHA).
Hệ thống phân loại tổn thương theo SCAI
Các tổn thương týp I (tỷ lệ thành công cao nhất và biến chứng thấp nhất)
(1) Không có đặc điểm tổn thương týp C (ACC/AHA)
(2) Động mạch vành còn thông
Các tổn thương týp II
(1) Có một trong các đặc điểm tổn thương týp C (ACC/AHA)
Tổn thương lan tỏa (> 2 cm)
Xoắn vặn nhiều ở đoạn gần
Đoạn mạch gập góc nhiều, > 900
Không có khả năng bảo vệ các nhánh bên lớn
Tổn thương ở mảnh ghép tĩnh mạch bị thoái hóa và mủn
(2) Động mạch vành còn thông
Các tổn thương týp III
(1) Không có đặc điểm tổn thương týp C (ACC/AHA)
(2) Động mạch vành bị tắc hoàn toàn
Các tổn thương týp IV
(1) Có một trong các đặc điểm tổn thương týp C (ACC/AHA)
Tổn thương lan tỏa (> 2 cm)
Xoắn vặn nhiều ở đoạn gần
Đoạn mạch gập góc nhiều, > 900
Không có khả năng bảo vệ các nhánh bên lớn
Tổn thương ở mảnh ghép tĩnh mạch bị thoái hóa và mủn Tắc hoàn toàn > 3 tháng
(2) Động mạch vành bị tắc hoàn toàn
3.1.2. Các yếu tố lâm sàng
Các tình trạng lâm sàng phối hợp có thể làm tăng tỷ lệ biến chứng với bất kỳ một yếu tố nguy cơ về giải phẫu nào. Ví dụ tỷ lệ biến chứng 15,4% với bệnh nhân đái tháo đường so với 5,8% bệnh nhân không bị đái tháo đường được nong Động mạch vành bằng bóng. Các yếu tố đặc trưng làm tăng nguy cơ bị biến chứng sau nong Động mạch vành bằng bóng bao gồm: lớn tuổi, nữ giới, đau ngực không ổn định, suy tim ứ huyết, đái tháo đường, bệnh nhiều thân Động mạch vành. Tăng nồng độ protein C phản ứng (CRP) cũng có giá trị tiên lượng tỷ lệ tử vong và Nhồi máu cơ tim trong 30 ngày. Các dấu ấn viêm khác như interleukin‒6 và những cytokine khác cũng có giá trị tiên lượng. Nghiên cứu BARI cho thấy các bệnh nhân bị đái tháo đường và tổn thương nhiều nhánh Động mạch vành có các biến chứng thiếu máu quanh thủ thuật cao hơn và tăng tỷ lệ tử vong sau 5 năm so với các bệnh nhân không bị đái tháo đường hay các bệnh nhân bị đái tháo đường được phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành bằng mảnh ghép động mạch vú trong. Các bệnh nhân bị suy thận, đặc biệt là có kèm theo đái tháo đường có nguy cơ cao bị bệnh thận do thuốc cản quang và tăng nguy cơ tử vong sau 30 ngày và sau 1 năm. Suy thận là một yếu tố tiên lượng quan trong cho cả can thiệp Động mạch vành thì đầu và can thiệp có chuẩn bị. Tăng nguy cơ tử vong hay ảnh hưởng trầm trọng chức năng thất trái có thể xuất hiện khi gây biến chứng tắc nhánh tuần hoàn bàng hệ vào vùng cơ tim còn sống. Có 4 yếu tố có giá trị tiên lượng truỵ tim mạch nếu can thiệp thất bại bao gồm:
(1) Phần trăm cơ tim có nguy cơ (> 50% cơ tim còn sống có nguy cơ và phân số nhát bóp thất trái < 25%).
(2) Phần trăm đường kính hẹp trước can thiệp.
(3) Tổn thương nhiều nhánh Động mạch vành.
(4) Bệnh lan tỏa ở phần Động mạch vành đã nong, hoặc có điểm vùng cơ tim có nguy cơ cao.
3.1.3. Tổn thương thân chung Động mạch vành trái
Phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành từ lâu đã được xem là “tiêu chuẩn vàng” trong tái tạo mạch cho các tổn thương thân chung Động mạch vành trái chưa được bảo vệ. Với những tiến bộ về kỹ thuật và việc sử dụng stent giải phóng thuốc tại chỗ, đã thu được nhiều kinh nghiệm trong can thiệp tổn thương thân chung Động mạch vành trái chưa được bảo vệ. Một số nghiên cứu cho thấy đặt stent thân chung Động mạch vành trái chưa được bảo vệ an toàn và hiệu quả trong một số trường hợp chọn lọc. Cho dù kỹ thuật tiến hành an toàn và tỷ lệ thành công về mặt kỹ thuật cao nhưng các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ biến chứng lâu dài cao không thể chấp nhận được. Các vấn đề khác vẫn cần phải giải quyết là kỹ thuật can thiệp (kích thước stent, can thiệp vị trí phân nhánh tối ưu), mức độ tái tạo mạch cần thiết, hiệu quả và giá thành, và việc lựa chọn bệnh nhân phù hợp nhất với stent giải phóng thuốc tại chỗ.
Tóm lại, phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành bằng mảnh ghép động mạch vú trong vẫn là “tiêu chuẩn vàng” trong điều trị tổn thương thân chung Động mạch vành trái chưa được bảo vệ và cải thiện kết quả lâu dài. Việc sử dụng stent giải phóng thuốc tại chỗ có kết quả ngắn hạn rất khả quan, nhưng cần theo dõi lâu dài. Hơn nữa, can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân bị tổn thương nặng thân chung Động mạch vành trái chưa được bảo vệ nhưng không phù hợp cho phẫu thuật bắc cầu có thể cải thiện tiên lượng bệnh nhân và là chiến lược tái tạo mạch hợp lý ở các bệnh nhân được lựa chọn cẩn thận.
3.2. Nguy cơ tử vong
Hầu hết tử vong do can thiệp Động mạch vành qua da có liên quan trực tiếp với biến chứng tắc Động mạch vành và thường ở bệnh nhân có chức năng thất trái giảm. Các yếu tố lâm sàng và giải phẫu trên chụp mạch làm tăng nguy cơ tử vong bao gồm tuổi cao, nữ giới, đái tháo đường, tiền sử Nhồi máu cơ tim, tổn thương nhiều nhánh Động mạch vành, tổn thương thân chung Động mạch vành trái hay tương đương, một vùng lớn cơ tim có nguy cơ thiếu máu, rối loạn chức năng thất trái hay suy thận có từ trước, và các nhánh tuần hoàn bàng hệ cung cấp máu cho một vùng cơ tim lớn xuất phát ở phía sau tổn thương được can thiệp.
3.3. Nữ giới
So sánh với nam giới, bệnh nhân nữ được can thiệp Động mạch vành qua da thường lớn tuổi hơn và có tỷ lệ bị tăng huyết áp, đái tháo đường, tăng cholestorol máu và các bệnh lý khác đi kèm cao hơn. Các nghiên cứu ban đầu với nong Động mạch vành bằng bóng qua da cho thấy có tỷ lệ thành công của thủ thuật thấp hơn ở bệnh nhân nữ giới, tuy nhiên các nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ thành công của thủ thuật cũng như các biến chứng như Nhồi máu cơ tim, phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành cấp cứu tương tự nhau ở hai giới. Tuy vậy, tỷ lệ tử vong trong bệnh viện cao hơn ở bệnh nhân nữ giới và nguy cơ tử vong sớm sau can thiệp Động mạch vành qua da ở bệnh nhân nữ giới độc lập với các yếu tố nguy cơ khác.
3.4. Bệnh nhân lớn tuổi
Tuổi > 75 là một trong các đặc điểm lâm sàng quan trọng làm tăng nguy cơ bị biến chứng. Bệnh nhân lớn tuổi có tỷ lệ bị các bệnh nặng đi kèm và có nguy cơ bị biến chứng chảy máu cao hơn, do vậy nên được cân nhắc cẩn thận khi xem xét chỉ định can thiệp Động mạch vành qua da. Một nghiên cứu đa trung tâm so sánh chiến lược can thiệp sớm với điều trị nội khoa bảo tồn ở 2.220 bệnh nhân nhập viện vì đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim không có đoạn ST chênh lên. Trong số các bệnh nhân > 65 tuổi, can thiệp sớm làm giảm 4,8% nguy cơ tuyệt đối (giảm nguy cơ tương đối 39%) về tử vong và Nhồi máu cơ tim sau 6 tháng. Các bệnh nhân > 75 tuổi giảm nguy cơ tử vong và Nhồi máu cơ tim tuyệt đối 10,8% (giảm 56% nguy cơ tương đối) sau 6 tháng với can thiệp sớm. Tuy nhiên tỷ lệ chảy máu nặng cao hơn một cách đáng kể ở các bệnh nhân > 75 tuổi được can thiệp so với điều trị nội khoa bảo tồn (16,6% so với 6,5%, P = 0,009). Tỷ lệ bị đột quỵ và chảy máu nặng cũng tăng cao hơn ở bệnh nhân lớn tuổi sau 1 năm.
3.5. Bệnh nhân đái tháo đường
Trong nghiên cứu TIMI‒IIB về Nhồi máu cơ tim, các bệnh nhân bị đái tháo đường có tỷ lệ tử vong trong 6 tuần (11,6% so với 4,7%), sau 1 năm (18,0% so với 6,7%), và sau 3 năm (21,6% so với 9,6%) cao hơn so với các bệnh nhân khônh bị đái tháo đường. Trong nghiên cứu BARI (không đặt stent và không dùng thuốc abciximab) cho thấy tỷ lệ sống còn cao hơn ở nhóm bệnh nhân được phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành so với nong Động mạch vành bằng bóng qua da. Lợi ích của phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành đặc biệt rõ rệt ở bệnh nhân đái tháo đường có tổn thương nhiều nhánh Động mạch vành.
Kể từ khi hoàn thành nghiên cứu BARI, một số nghiên cứu đánh giá hiệu quả của can thiệp với đặt stent so với phẫu thuật bắc cầu ở các bệnh nhân bị tổn thương nhiều nhánh Động mạch vành. Sau 3 năm theo dõi, tỷ lệ tử vong của các bệnh nhân đái tháo đường được phẫu thuật bắc cầu và can thiệp Động mạch vành qua da không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê cả trong nghiên cứu ARTS hay AWESOME. Tỷ lệ tái tạo mạch lại cao hơn ở nhóm can thiệp bị đái tháo đường ở cả 2 nghiên cứu.
Các nghiên cứu ngẫu nhiên, phân tích tổng hợp cho thấy tính ưu việt của stent giải phóng thuốc tại chỗ so với stent thường trong làm giảm tỷ lệ tái can thiệp muộn. Các kết quả ban đầu cho thấy kết quả lâu dài của các bệnh nhân đái tháo đường sau can thiệp Động mạch vành qua da tương tự như các bệnh nhân không đái tháo đường nếu HbA1C duy trì < 7%. Điều trị các nguy cơ tim mạch khác, đặc biệt là rối loạn lipid máu ở các bệnh nhân đái tháo đường cho thấy rất có hiệu quả qua theo dõi lâu dài. Các nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc điều trị đái tháo đường và phòng ngừa thứ phát sau can thiệp Động mạch vành qua da.
3.6. Can thiệp Động mạch vành qua da sau phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành
Can thiệp các nhánh Động mạch vành của bệnh nhân sau khi phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành có kết quả tương tự như ở các bệnh nhân không được phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành trước đó. Can thiệp các cầu nối tĩnh mạch có tỷ lệ thành công 90%, tử vong 1,2%, Nhồi máu cơ tim có sóng Q < 2,5%. Tỷ lệ bị Nhồi máu cơ tim không sóng Q cao hơn khi can thiệp các nhánh Động mạch vành của bệnh nhân. Các bệnh nhân lớn tuổi và/hoặc bị tổn thương trầm trọng các cầu nối tĩnh mạch nên phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành có chuẩn bị lại hơn là can thiệp Động mạch vành qua da.
3.7. Vai trò của các phương tiện hỗ trợ huyết động ở các bệnh nhân có nguy cơ cao
Can thiệp Động mạch vành qua da có chuẩn bị cho các bệnh nhân có nguy cơ cao có thể tiến hành an toàn mà không cần dùng bóng đối xung trong ĐMC (AIBP) hay máy hỗ trợ tim phổi (CPS). Can thiệp Động mạch vành qua da cấp cứu ở bệnh nhân có nguy cơ cao như can thiệp Động mạch vành thì đầu cho bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có thể được tiến hành một cách thường quy không cần đến sự hỗ trợ của AIBP hay CPS. CPS chỉ nên giành các cho bệnh nhân có tình trạng huyết động không ổn định, như rối loạn chức năng thất trái trầm trọng và sốc tim. Tuy nhiên cần nhấn mạnh là đối với các bệnh nhân ở gianh giới của tình trạng không ổn định về huyết động đang bị thiếu máu cơ tim, hay sốc tim đặt bóng đối xung trong ĐMC ngay trước khi can thiệp Động mạch vành qua da sẽ làm cải thiện tiên lượng của bệnh nhân. Do vậy, trước khi can thiệp cho các bệnh nhân có nguy cơ cao nên đặt một đường vào ở động mạch đùi ở bên đối diện để có thể nhanh chóng đặt bóng đối xung trong ĐMC nếu cần thiết.
Khi can thiệp các bệnh nhân có nguy cơ cao nên xem xét các phương pháp điều trị thay thế như phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành, nên có ngoại khoa hỗ trợ, hoặc dùng các phương tiện hỗ trợ huyết động trước khi tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da.

4. TIÊU CHUẨN BỆNH VIỆN ĐƯỢC PHÉP CAN THIỆP ĐỘNG MẠCH VÀNH QUA DA

4.1. Tiêu chuẩn bác sĩ và trung tâm tim mạch được phép can thiệp Động mạch vành qua da
Chỉ định nhóm I
1. Can thiệp Động mạch vành qua da có chuẩn bị nên được tiến hành bởi các bác sĩ thực hiện ≥ 75 thủ thuật/năm ở trung tâm có số lượng bệnh nhân can thiệp nhiều > 150 trường hợp/năm, có phẫu thuật tim mạch hỗ trợ và nên được tiến hành bởi các bác sĩ và trung tâm có tỷ lệ thành công của thủ thuật tương tự như các trung tâm khác trong nước.
2. Can thiệp Động mạch vành thì đầu cho bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên nên được tiến hành bởi các bác sĩ có kinh nghiệm tiến hành ≥ 75 trường hợp can thiệp Động mạch vành có chuẩn bị/năm, và lý tưởng là > 11 trường hợp can thiệp Động mạch vành thì đầu cho bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên/năm. Lý tưởng là các thủ thuật này nên được tiến hành ở các trung tâm can thiệp > 150 trường hợp có chuẩn bị/năm, > 36 trường hợp can thiệp Động mạch vành thì đầu cho các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên/năm và có phẫu thuật tim mạch hỗ trợ.

Can thiệp động mạch vành qua da (Phần 2)

Chỉ định nhóm IIa
1. Can thiệp Động mạch vành qua da có chuẩn bị có thể được tiến hành bởi các bác sĩ thực hiện ≥ 75 thủ thuật/năm ở trung tâm có số lượng bệnh nhân can thiệp ít 100 ‒ 150 trường hợp/năm và có phẫu thuật tim mạch hỗ trợ.
2. Can thiệp Động mạch vành qua da có chuẩn bị có thể được tiến hành bởi các bác sĩ thực hiện < 75 thủ thuật/năm ở trung tâm có số lượng bệnh nhân can thiệp nhiều > 150 trường hợp/năm và có phẫu thuật tim mạch hỗ trợ. Các bác sĩ này cần có sự giám sát của bác sĩ có nhiều kinh nghiệm thực hiện ≥ 150 thủ thuật/năm.
Chỉ định nhóm IIb
Can thiệp Động mạch vành thì đầu cho bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên phù hợp với điều trị thuốc tiêu sợi huyết cần cân nhắc khi được tiến hành bởi các bác sĩ có ít kinh nghiệm, tiến hành < 75 trường hợp can thiệp Động mạch vành có chuẩn bị/năm (hoặc < 11 trường hợp can thiệp Động mạch vành thì đầu cho bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên/năm).
Chỉ định nhóm III
1. Không khuyến cáo can thiệp Động mạch vành có chuẩn bị bởi các bác sĩ ít kinh nghiệm (< 75 thủ thuật/năm) ở trung tâm có số lượng bệnh nhân can thiệp ít (< 100 trường hợp/năm) và không có phẫu thuật tim mạch hỗ trợ.
2. Không khuyến cáo can thiệp Động mạch vành thì đầu ở các bệnh viện không có phẫu thuật tim mạch hỗ trợ hay không thể nhanh chóng chuyển bệnh nhân đến các bệnh viện có khả năng phẫu thuật hay không có đầy đủ các phương tiện hồi sức cấp cứu để vận chuyển.
4.2. Vai trò của phẫu thuật tim mạch hỗ trợ tại chỗ
Chỉ định nhóm I
Can thiệp Động mạch vành qua da có chuẩn bị và can thiệp Động mạch vành thì đầu nên được tiến hành ở các bệnh viện có khả năng phẫu thuật tim mạch cấp cứu tại chỗ hỗ trợ.
Chỉ định nhóm IIb
Can thiệp Động mạch vành thì đầu cần cân nhắc khi tiến hành tại bệnh viện không có khả năng phẫu thuật tim mạch cấp cứu tại chỗ hỗ trợ.
Chỉ định nhóm III
Can thiệp Động mạch vành qua da có chuẩn bị không nên tiến hành ở các bệnh viện không có khả năng phẫu thuật tim mạch cấp cứu tại chỗ hỗ trợ.

5. CHỈ ĐỊNH CAN THIỆP ĐỘNG MẠCH VÀNH QUA DA

5.1. Chỉ định can thiệp Động mạch vành qua da cho bệnh nhân đau ngực ổn định
5.1.1. Can thiệp cho các bệnh nhân không có triệu chứng thiếu máu cơ tim hoặc CCS I‒II
Chỉ định nhóm IIa
(1) Can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân không có triệu chứng thiếu máu cơ tim hoặc CCS I‒II và có ≥ 1 tổn thương có ý nghĩa ở 1 hoặc 2 nhánh Động mạch vành phù hợp để can thiệp Động mạch vành qua da: có tỷ lệ thành công cao và tỷ lệ biến chứng thấp. Nhánh Động mạch vành này cung cấp máu cho một vùng rộng cơ tim còn sống hay có biểu hiện thiếu máu vừa đến nặng trên các thăm dò không xâm lấn.
(2) Can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân không có triệu chứng thiếu máu cơ tim hoặc CCS I‒II bị tái hẹp sau can thiệp Động mạch vành qua da, nhánh Động mạch vành này tưới máu cho một vùng cơ tim rộng còn sống hoặc có nguy cơ cao qua các thăm dò không xâm lấn.
(3) Can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân không có triệu chứng thiếu máu cơ tim hoặc CCS I‒II bị tổn thương có ý nghĩa thân chung Động mạch vành trái (> 50% đường kính lòng mạch) phù hợp với can thiệp Động mạch vành qua da nhưng không phù hợp với phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành.
Chỉ định nhóm IIb
Can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân không có triệu chứng thiếu máu cơ tim hoặc CCS I‒II bị đái tháo đường hay có rối loạn chức năng thất trái có tổn thương 2‒3 nhánh Động mạch vành trong đó có tổn thương có ý nghĩa đoạn gần ĐMLTTr, phù hợp với phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành.
Chỉ định nhóm III: khi bệnh nhân có một trong các tiêu chuẩn sau:
1. Chỉ có một vùng cơ tim nhỏ còn sống có nguy cơ.
2. Không có bằng chứng thiếu máu cơ tim.
3. Tổn thương dự đoán có tỷ lệ thành công thấp.
4. Có các yếu tố làm tăng nguy cơ tử vong và biến chứng.
5. Tổn thương thân chung Động mạch vành trái và phù hợp với phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành.
6. Tổn thương không ý nghĩa (hẹp < 50% đường kính lòng mạch).
5.1.2. Can thiệp cho các bệnh nhân CCS III
Chỉ định nhóm IIa
(1) Can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân CCS III có tổn thương có ý nghĩa ≥ 1 nhánh Động mạch vành phù hợp với can thiệp Động mạch vành qua da được dự đoán có tỷ lệ thành công cao và tỷ lệ biến chứng và tử vong thấp, bệnh nhân đang được điều trị nội khoa.
(2) Can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân CCS III có tổn thương có ý nghĩa ≥ 1 nhánh Động mạch vành có tổn thương khu trú mảnh ghép tĩnh mạch, có nguy cơ cao khi tái phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành, bệnh nhân đang được điều trị nội khoa.
(3) Tổn thương có ý nghĩa thân chung Động mạch vành trái (hẹp > 50% đường kính lòng mạch) phù hợp với can thiệp Động mạch vành qua da nhưng không phù hợp với phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành.
Chỉ định nhóm IIb
1. Can thiệp Động mạch vành qua da cần cân nhắc khi tiến hành cho các bệnh nhân CCS III có tổn thương có ý nghĩa ≥ 1 nhánh Động mạch vành được dự đoán có tỷ lệ thành công thấp, bệnh nhân đang được điều trị nội khoa.
2. Can thiệp Động mạch vành qua da cần cân nhắc khi tiến hành cho các bệnh nhân CCS III và không có bằng chứng thiếu máu cơ tim qua các thăm dò không xâm lấn, bị đái tháo đường hay có rối loạn chức năng thất trái, có tổn thương 2‒3 nhánh Động mạch vành trong đó có tổn thương có ý nghĩa đoạn gần ĐMLTTr đang được điều trị nội khoa.
Chỉ định nhóm III
Không nên can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân CCS III bị tổn thương ≥ 1 nhánh Động mạch vành, không có bằng chứng cơ tim bị tổn thương hay thiếu máu qua các thăm dò không xâm lấn, hay có một trong các tiêu chuẩn sau:
1. Chỉ một vùng cơ tim nhỏ có nguy cơ.
2. Can thiệp tổn thương có tỷ lệ thành công thấp.
3. Thủ thuật có nguy cơ cao bị biến chứng và tử vong.
4. Tổn thương không ý nghĩa (hẹp < 50% đường kính lòng mạch).
5. Tổn thương có ý nghĩa thân chung Động mạch vành trái và phù hợp với phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành.
So sánh can thiệp Động mạch vành qua da với điều trị nội khoa: 3 nghiên cứu ngẫu nhiên so sánh can thiệp Động mạch vành qua da với điều trị nội khoa. Nghiên cứu ACME được thiết kế để đánh giá liệu can thiệp Động mạch vành qua da có tốt hơn điều trị nội khoa tối ưu hay không trong làm giảm triệu chứng đau ngực ở các bệnh nhân có tổn thương 1 hoặc 2 nhánh Động mạch vành. Can thiệp Động mạch vành qua da làm giảm cơn đau ngực nhanh và rõ rệt hơn điều trị nội khoa tối ưu và có khả năng dung nạp với gắng sức tốt hơn và/hoặc ít bị thiếu máu cơ tim khi gắng sức hơn. Một số lợi ích sớm của can thiệp Động mạch vành qua da ở bệnh nhân bị tổn thương 1 nhánh Động mạch vành vẫn được duy trì, và trở thành phương pháp điều trị hấp dẫn cho các bệnh nhân này. Nghiên cứu ACIP tập trung vào các bệnh nhân bị thiếu máu cơ tim nặng. Các bệnh nhân này có cả thiếu máu cơ tim trên trắc nghiệm gắng sức và ít nhất 1 cơn thiếu máu cơ tim thầm lặng trong vòng 48 giờ trên Holter điện tâm đồ. Sau 2 năm nghiên cứu ngẫu nhiên, tỷ lệ tử vong toàn bộ giảm một cách đáng kể từ 6,6% ở nhóm có biểu hiện đau ngực trên lâm sàng xuống 4,4% ở nhóm có thiếu máu cơ tim trên thăm dò và chỉ còn 1,1% ở nhóm được can thiệp Động mạch vành qua da.
Với các bệnh nhân không có triệu chứng hay chỉ có triệu chứng nhẹ chỉ định can thiệp Động mạch vành qua da không được khuyến cáo theo nghiên cứu AVERT. Sau 18 tháng, 13% bệnh nhân được điều trị giảm lipid máu tích cực có biểu hiện thiếu máu cơ tim, so với 21% bệnh nhân trong nhóm can thiệp Động mạch vành qua da. Có 2 hạn chế lớn của nghiên cứu AVERT: (1) không công bằng khi so sánh điều trị nội khoa với can thiệp Động mạch vành qua da vì nhóm điều trị nội khoa được điều trị thuốc giảm lipid máu tích cực hơn; stent chỉ được sử dụng 30% và tỷ lệ tái hẹp đòi hỏi phải tái can thiệp cao hơn ở nhóm can thiệp so với điều trị nội khoa; (2) AVERT không cho thấy hiệu quả chống thiếu máu cơ tim của statin nhưng chứng minh rằng statin có thể phòng ngừa các biến chứng tim mạch. RITA‒2 là nghiên cứu ngẫu nhiên so sánh hiệu quả lâu dài của can thiệp Động mạch vành qua da với điều trị nội khoa bảo tồn ở các bệnh nhân được xem là phù hợp cho cả 2 phương pháp này. Sau thời gian theo dõi 2,7 năm, tử vong và Nhồi máu cơ tim xuất hiện 6,3% ở nhóm can thiệp 3,3% ở nhóm điều trị nội khoa (P = 0,02). Mặt khác, can thiệp Động mạch vành qua da làm cải thiện triệu chứng rõ rệt hơn, đặc biệt ở các bệnh nhân bị đau ngực nhiều. Tuy nhiên RITA‒2 không thể áp dụng cho can thiệp Động mạch vành qua da ngày nay. Chỉ 7,6% bệnh nhân được đặt stent. Ticlopidine, clopidogrel, hay thuốc ức chế GP IIb/IIIa không được đề cập đến trong nghiên cứu này.
Phân tích tổng hợp các nghiên cứu ngẫu nhiên cho thấy can thiệp Động mạch vành qua da làm giảm triệu chứng đau ngực nhiều hơn so với điều trị nội khoa, mặc dù các nghiên cứu này không có đủ số lượng bệnh nhân để có đủ thông tin đánh giá hiệu quả của can thiệp Động mạch vành qua da về Nhồi máu cơ tim, tử vong, hay tái can thiệp. Không phân định điều trị nội khoa hay can thiệp (nghiên cứu TIME) và điều trị ít nhất 2 thuốc chống đau thắt ngực, tỷ lệ sống còn lâu dài tương tự nhau ở các bệnh nhân ≥ 75 tuổi có CCS ≥ II. Lợi ích có được từ cả 2 phương pháp điều trị trong làm giảm triệu chứng đau ngực và cải thiện chất lượng cuộc sống vẫn được duy trì, nhưng các biến chứng không tử vong xuất hiện nhiều hơn ở nhóm điều trị nội khoa. Cho dù các bệnh nhân được can thiệp ngay từ đầu hay chỉ can thiệp khi điều trị nội khoa thất bại, tỷ lệ sống còn cao hơn ở nhóm bệnh nhân được can thiệp trong năm đầu tiên.
So sánh can thiệp Động mạch vành qua da với phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành: Có 13 nghiên cứu ngẫu nhiên so sánh can thiệp Động mạch vành qua da với phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành trên 7.964 bệnh nhân trong thời gian từ 1987 đến 1999. Qua theo dõi 8 năm, không có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong giữa 2 nhóm tại thời điểm 1, 3, hay 8 năm (ngoại trừ tại thời điểm 5 năm). Việc sử dụng stent đóng 1 vai trò quan trọng: các nghiên cứu ban đầu không sử dụng stent cho thấy kết quả tốt hơn ở nhóm phẫu thuật tại thời điểm 3 năm trong khi không thấy có sự khác biệt giữa phẫu thuật với can thiệp trong các nghiên cứu gần đây có sử dụng stent. Đặt stent làm giảm một nửa nguy cơ phải tái can thiệp so với nong bằng bóng đơn thuần và giảm tỷ lệ tử vong từ 5,2% xuống còn 3,5% ở nhóm được đặt stent. Cả 2 phương pháp này đều làm giảm rõ rệt triệu chứng.
Tắc Động mạch vành hoàn toàn mạn tính: tắc Động mạch vành hoàn toàn mạn tính có tỷ lệ thành công về mặt kỹ thuật thấp nhất. Khi có thể can thiệp thành công bằng đặt stent nhưng tỷ lệ tái hẹp rất cao từ 32‒55% tùy theo các nghiên cứu. Vai trò của stent giải phóng thuoc tại chỗ trong tình huống này đang được đánh giá. Trong nghiên cứu PACTO, điều trị tắc Động mạch vành hoàn toàn mạn tính bằng stent Taxus làm giảm các biến chứng tim mạch chính, tỷ lệ tái hẹp và loại trừ hầu hết sự tắc lại đặc biệt hay gặp với stent thông thường. Các kết quả ban đầu với stent Cypher có nhiều triển vọng. Trước khi tiến hành can thiệp tổn thương Động mạch vành tắc hoàn toàn mạn tính cần phải cảnh giác với nguy cơ tắc các nhánh bên hay thủng Động mạch vành.
Can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân có nguy cơ phẫu thuật cao: Nghiên cứu AWESOME kiểm chứng giả thuyết rằng can thiệp Động mạch vành qua da là một phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả thay thế cho phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành ở các bệnh nhân thiếu máu cơ tim kháng trị và có nguy cơ bị biến chứng cao. Phân tích phân nhóm các bệnh nhân đã được phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành, tỷ lệ sống còn ở các bệnh nhân phải tái phẫu thuật hay tái can thiệp theo thứ tự là 73% và 76% sau 3 năm theo dõi. Các bệnh nhân có chức năng thất trái giảm nặng dường như được hưởng lợi nhiều hơn từ can thiệp Động mạch vành qua da, đặc biệt là khi có bằng chứng vùng cơ tim rối loạn chức năng vẫn còn sống. Can thiệp Động mạch vành được ưu tiên lựa chọn hơn phẫu thuật ở hầu hết các bệnh nhân tái thiếu máu cơ tim sau phẫu thuật bắc cầu.
Can thiệp Động mạch vành qua da ở các bệnh nhân bị tổn thương nhiều nhánh Động mạch vành và/hoặc đái tháo đường: Các bệnh nhân bị tổn thương nhiều nhánh Động mạch vành và có nhiều yếu tố nguy cơ, phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành có tỷ lệ sống còn cao hơn can thiệp Động mạch vành qua da sau khi bổ xung các yếu tố nguy cơ. Sự khác biệt sớm về giá thành và chất lượng cuộc sống không còn có ý nghĩa sau 10‒12 năm theo dõi. Việc quyết định tái tưới máu động mạch thủ phạm hay toàn bộ các mạch tuỳ theo từng bệnh nhân.
Mặc dù chưa có các nghiên cứu một cách toàn diện so sánh can thiệp Động mạch vành qua da với phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành, các phân tích phân nhóm nghiên cứu cho thấy can thiệp Động mạch vành qua da ở bệnh nhân đái tháo đường có kết quả kém hơn phẫu thuật bắc cầu.
Trong nghiên cứu ARTS, so sánh can thiệp Động mạch vành qua da với phẫu thuật bắc cầu ở bệnh nhân bị tổn thương nhiều mạch, kết quả của các bệnh nhân bị đái tháo đường đều không tốt ở cả 2 nhóm điều trị, nhưng kém hơn ở nhóm được can thiệp. Sau 3 năm theo dõi, tỷ lệ tử vong là 7,1% ở nhóm can thiệp và 4,2% ở nhóm phẫu thuật, tỷ lệ sống còn không bị biến chứng là 52,7% ở nhóm can thiệp và 81,3% ở nhóm được phẫu thuật. Các bệnh nhân bị tổn thương nhiều nhánh Động mạch vành, can thiệp Động mạch vành qua da cho ≤ 2 tổn thương có kết quả tương tự như phẫu thuật bắc cầu ≥ 3 tổn thương cho dù mức độ tổn thương trên chụp mạch là như nhau. Các nghiên cứu gần đây sử dụng stent giải phóng thuốc tại chỗ cho các bệnh nhân bị tổn thương nhiều nhánh Động mạch vành và/hoặc đái tháo đường có thể làm thay đổi chỉ định này.
Can thiệp Động mạch vành qua da cho tổn thương thân chung Động mạch vành trái chưa được bảo vệ: Tổn thương thân chung Động mạch vành trái vẫn cần phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành. Can thiệp Động mạch vành qua da tổn thương thân chung Động mạch vành trái đã được bảo vệ (đã bắc cầu nối chủ‒vành) có thể được tiến hành, cho dù tỷ lệ bị biến chứng tim mạch chính sau 1 năm là 25% vẫn còn khá cao, điều đó phản ảnh tỷ lệ tử vong tăng cao ở các bệnh nhân bị tổn thương Động mạch vành trầm trọng đã được phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành. Tỷ lệ tử vong xung quanh thủ thuật là 2% và 95% sống còn sau 1 năm đặt stent thân chung Động mạch vành trái đã được bảo vệ tương tự như tái phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành, trong khi tránh được nguy cơ do tái phẫu thuật có thể gặp phải.
Đặt stent thân chung Động mạch vành trái chưa được bảo vệ chỉ nên được tiến hành khi không còn sự lựa chọn nào khác. Do vậy, can thiệp Động mạch vành qua da có thể được khuyến cáo cho các bệnh nhân có nguy cơ phẫu thuật rất cao. Các số liệu ban đầu của việc ở dụng stent giải phóng thuốc tại chỗ trong điều trị các tổn thương thân chung Động mạch vành trái chưa được bảo vệ rất khả quan.
Đặt stent tạm thời hay chọn lọc ở bệnh nhân đau ngực ổn định: Không còn nghi ngờ rằng stent là một dụng cụ rất giá trị trong điều trị bóc tách thành Động mạch vành đe doạ tắc mạch cấp hoặc có kết quả nong Động mạch vành bằng bóng không đạt yêu cầu. Nhìn chung, đặt stent tốt hơn nong bằng bóng đơn thuần và các phương pháp khác vì các lý do sau:
‒ Các mảng xơ vữa bị gẫy và bóc tách gây ra bởi nong bằng bóng thường làm thủ thuật có vẻ thành công và hạn chế sự rộng ra của lòng mạch.
‒ Tắc mạch cấp trong vòng 48 giờ sau nong Động mạch vành bằng bóng khá thường gặp (tới 15% ở các tổn thương có bóc tách thành Động mạch vành nặng sau can thiệp), đặt stent làm ổn định lại tổn thương.
‒ Kết quả trên chụp mạch đạt được sau khi đặt stent có thể dự đoán trước được bất chấp mức độ phức tạp của tổn thương.
‒ Tỷ lệ tắc mạch hay tái tắc mạch ít hơn và tỷ lệ tái hẹp trên lâm sàng thấp hơn ở nhóm được đặt stent qua theo dõi trung hạn và lâu dài.
Phân tích tổng hợp 29 nghiên cứu với 9.918 bệnh nhân, đặt stent so với nong bằng bóng đơn thuần làm giảm tỷ lệ tái hẹp và sự cần thiết phải tái can thiệp tới 50%. Các phân tích tổng hợp gần đây cho thấy đặt stent làm giảm tỷ lệ tử vong và các biến chứng tim mạch chính một cách đáng kể so với nong Động mạch vành bằng bóng đơn thuần. Lợi ích của việc đặt stent một cách thường qui thậm chí còn rõ ràng hơn ở các mạch nhỏ. Các lợi ích thu được tương tự khi can thiệp mảnh ghép tĩnh mạch (SAVED, VENESTENT). Sau khi đặt stent thường, kết quả sau 5 năm theo dõi liên quan đến sự tiến triển của bệnh Động mạch vành hơn là vị trí được đặt stent thường vẫn ổn định.
Tăng troponin sau can thiệp Động mạch vành qua da ở bệnh nhân đau ngực ổn định: Tăng troponin sau can thiệp Động mạch vành ở bệnh nhân đau ngực ổn định thường liên quan đến các biến chứng của thủ thuật, bao gồm tắc nhánh bên, hình thành huyết khối, can thiệp mảnh ghép tĩnh mạch, đặt nhiều stent, và sử dụng GP IIb/IIIa. Ở các bệnh nhân không bị Nhồi máu cơ tim cấp, tăng troponin I sau can thiệp không dự đoán tỷ lệ tử vong và tăng troponin gấp 3 lần giới hạn bình thường sau thủ thuật không làm tăng nguy cơ bị biến chứng sau 8 tháng theo dõi lâm sàng. Phân tích tổng hợp 2.605 bệnh nhân gợi ý rằng tăng nhẹ các dấu ấn sinh học tim mạch sau can thiệp không liên quan đến tăng tỷ lệ các biến chứng gộp (tử vong do tim mạch, Nhồi máu cơ tim, phẫu thuật bắc cầu, hay tái can thiệp mạch đích). Trong nghiên cứu gần đây, thậm trí troponin‒I tăng gấp 5 lần giới hạn cao của bình thường không dự báo các biến chứng sau khi ra viện. Do vậy, tăng các dấu ấn sinh học xung quanh thủ thụât thì chỉ có tăng CK‒MB > 5 lần giới hạn cao của bình thường làm tăng tỷ lệ tử vong qua theo dõi, trong khi tăng CK‒MB nhẹ (1‒5 lần) có liên quan ít đến tiên lượng.
Tóm lại, can thiệp Động mạch vành qua da có thể được xem là phương pháp tái tưới máu ban đầu có giá trị ở tất cả các bệnh nhân đau ngực ổn định và có vùng cơ tim rộng bị thiếu máu với hầu hết các loại tổn thương Động mạch vành, trừ một ngoại lệ: tắc Động mạch vành hoàn toàn mạn tính mà không thể đưa dụng cụ can thiệp qua chỗ tắc được. Trong các nghiên cứu trước đây, phẫu thuật bắc cầu chỉ có một ưu điểm nhỏ về tỷ lệ sống còn so với nong Động mạch vành bằng bóng đơn thuần. Việc sử dụng stent và sự phối hợp các thuốc mới đã làm cải thiện kết quả can thiệp Động mạch vành qua da. Việc quyết định can thiệp Động mạch vành qua da hay phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành tuỳ theo sự tiến bộ về kỹ thuật can thiệp hay phẫu thuật, khả năng của các bác sĩ, và sự ưa thích của bệnh nhân. Tuy nhiên, can thiệp Động mạch vành qua da là lựa chọn cuối cùng của các bệnh nhân đái tháo đường bị tổn thương nhiều nhánh Động mạch vành và các bệnh nhân bị tổn thương thân chung Động mạch vành trái chưa được bảo vệ. Việc sử dụng stent giải phóng thuốc tại chỗ có thể làm thay đổi chỉ định trong các tình huống này.
5.2. Các chỉ định can thiệp Động mạch vành qua da cho bệnh nhân đau ngực không ổn định và
NMCT cấp không có đoạn ST chênh lên
Chỉ định nhóm I
1. Can thiệp Động mạch vành qua da sớm được chỉ định cho các bệnh nhân không có các bệnh lý đi kèm trầm trọng có thể gây tử vong và tổn thương phù hợp với can thiệp Động mạch vành qua da. Bệnh nhân phải có một trong các đặc điểm có nguy cơ cao sau:
‒ Tái thiếu máu cơ tim mặc dù đã được điều trị chống thiếu máu cơ tim tích cực.
‒ Tăng troponin.
‒ Đoạn ST chênh xuống mới xuất hiện.
‒ Có triệu chứng suy tim hay hở van hai lá nặng hơn.
‒ Có rối loạn chức năng thất trái (EF < 40%).
‒ Có tình trạng huyết động không ổn định.
‒ Nhịp nhanh thất bền bỉ.
‒ Mới can thiệp Động mạch vành qua da trong vòng 6 tháng.
‒ Tiền sử phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành.
‒ Có nguy cơ cao qua các thăm dò không chảy máu.
2. Can thiệp Động mạch vành qua da (hay bắc cầu nối chủ‒vành) được khuyến cáo cho các bệnh nhân Đau thắt ngực không ổn định/NMCT không có đoạn ST chênh lên có tổn thương 1‒2 nhánh Động mạch vành có tổn thương hay không đoạn gần ĐMLTTr nhưng có một vùng cơ tim lớn còn sống và có nguy cơ cao qua các thăm dò không chảy máu.
3. Can thiệp Động mạch vành qua da (hay bắc cầu nối chủ‒vành) được khuyến cáo cho các bệnh nhân Đau thắt ngực không ổn định/NMCT không có đoạn ST chênh lên có tổn thương nhiều nhánh Động mạch vành, có giải phẫu Động mạch vành phù hợp, có chức năng thất trái bình thường, và không bị đái tháo đường.
4. Thuốc GP IIb/IIIa đường tĩnh mạch có lợi cho các bệnh nhân đau thắt ngực không ổn định/NMCT không có đoạn ST chênh lên được can thiệp Động mạch vành qua da.
5. Chiến lược can thiệp sớm (chụp Động mạch vành với dự định tái tưới máu) được chỉ định cho ácc bệnh nhân Đau thắt ngực không ổn định/NMCT không có đoạn ST chênh lên đau thắt ngực kháng trị hay có huyết động, điện học không ổn định.
Chỉ định nhóm IIa
1. Can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân có tổn thương khu trú mảnh ghép tĩnh mạch hiển hay hẹp nhiều vị trí ở bệnh nhân đau thắt ngực không ổn định/NMCT không có đoạn ST chênh lên đang được điều trị nội khoa và có nguy cơ cao khi tái phẫu thuật.
2. Can thiệp Động mạch vành qua da (hay bắc cầu nối chủ‒vành) được chỉ định cho các bệnh nhân Đau thắt ngực không ổn định/NMCT không có đoạn ST chênh lên có tổn thương 1‒2 nhánh Động mạch vành có hay không tổn thương đoạn gần ĐMLTTr nhưng có một phần cơ tim vừa phải có nguy cơ và có dấu hiệu thiếu máu cơ tim qua các thăm dò không xâm lấn.
3. Can thiệp Động mạch vành qua da (hay bắc cầu nối chủ‒vành) có thể có lợi khi so sánh với điều trị nội khoa ở các bệnh nhân Đau thắt ngực không ổn định/NMCT không có đoạn ST chênh lên bị tổn thương đoạn gần ĐMLTTr đơn thuần.
4. Can thiệp Động mạch vành qua da được chỉ định cho các bệnh nhân Đau thắt ngực không ổn định/NMCT không có đoạn ST chênh lên bị tổn thương thân chung Động mạch vành trái (hẹp > 50% đường kính lòng mạch) phù hợp với tái tưới máu nhưng không phù hợp với phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành hay người cần phải can thiệp cấp cứu do tình trạng huyết động không ổn định.
Chỉ định nhóm IIb
1. Bệnh nhân không có nguy cơ cao, can thiệp Động mạch vành qua da cần cân nhắc khi tiến hành cho các bệnh nhân có tổn thương ≥ 1 nhánh Động mạch vành, đang được điều trị nội khoa và tổn thương có tỷ lệ can thiệp thành công thấp.
2. Bệnh nhân bị đái tháo đường hay có rối loạn chức năng thất trái đang được điều trị nội khoa, bị tổn thương 2‒3 nhánh Động mạch vành bao gồm cả tổn thương đoạn gần ĐMLTTr có giải phẫu Động mạch vành phù hợp với can thiệp.
Chỉ định nhóm III
1. Can thiệp Động mạch vành qua da (hay bắc cầu nối chủ‒vành) không được chỉ định cho các bệnh nhân bị tổn thương 1‒2 nhánh Động mạch vành, nhưng không bị tổn thương đoạn gần ĐMLTTr không có triệu chứng thiếu máu cơ tim hay những người không có triệu chứng thiếu máu cơ tim qua các thăm dò không xâm.
2. Các bệnh nhân Đau thắt ngực không ổn định/NMCT không có đoạn ST chênh lên không có nguy cơ cao, can thiệp Động mạch vành qua da không được khuyến cáo cho các bệnh nhân bị tổn thương ≥ 1 nhánh và chưa được điều trị nội khoa, hay người có một trong các đặc điểm sau:
a. Chỉ một vùng cơ tim nhỏ có nguy cơ.
b. Tổn thương có tỷ lệ can thiệp thành công thấp.
c. Thủ thuật có nguy cơ tử vong cao.
d. Tổn thương không ý nghĩa (hép < 50%).
e. Tổn thương có ý nghĩa thân chung Động mạch vành trái phù hợp với phẫu thuật.
f. Chiến lược canh thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân ổn định có Động mạch vành liên quan đến vùng Nhồi máu cơ tim bị tắc hoàn toàn sau Nhồi máu cơ tim cấp không được chỉ định.
5.2.1. Phân tầng nguy cơ
Tầm quan trọng của việc phân tầng nguy cơ của bệnh nhân đau ngực không ổn định hay Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên cho thấy lợi ích rõ ràng của việc chụp và can thiệp Động mạch vành chỉ có ở nhóm bệnh nhân nguy cơ cao.
Các dấu hiệu bệnh lý nặng đi kèm giúp ích trong đánh giá nguy cơ:
‒ Tuổi > 65‒70 tuổi
‒ Tiền sử bệnh Động mạch vành, Nhồi máu cơ tim, can thiệp Động mạch vành qua da, hay phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành.
‒ Suy tim ứ huyết, phù phổi, tiếng thổi do hở hai lá mới.
‒ Tăng các dấu ấn viêm (CRP, Fibrinogen, IL6).
‒ Tăng BNP hay NT‒proBNP > 4 lần. ‒ Suy thận.
Nghiên cứu TACTICS‒TIMI 18 chứng minh can thiệp Động mạch vành sớm một cách thường qui làm cải thiện đáng kể tiên lượng các bệnh nhân lớn tuổi bị hội chứng Động mạch vành cấp.
5.2.2. Điều trị bảo tồn, can thiệp sớm, hay can thiệp cấp cứu
Một thăm dò gần đây cho thấy có < 50% bệnh nhân hội chứng Động mạch vành cấp được can thiệp (GRACE và CRUSADE). Khuyến cáo chiến lược điều trị bảo tồn trong điều trị đau ngực không ổn định hay Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên dựa trên các kết quả của nghiên cứu TIMI IIIB, MATE, và VANQWISH. Một số sai lầm về mặt phương pháp học của các nghiên cứu này (tỷ lệ chuyển chéo cao, không dùng hoặc dùng tối thiểu stent, không dùng thuốc ức chế GP IIb/IIIa), đã làm cho kết luận của các nghiên cứu này không cập nhật. Trong nghiên cứu GUSTO IV‒ACS, tái tưới máu trong vòng 30 ngày làm cải thiện tiên lượng của bệnh nhân. Tỷ lệ tử vong tương đối cao trong nhóm các bệnh nhân điều trị nội khoa có thể liên quan một phần đến việc lựa chọn bệnh nhân. Việc ưa thích can thiệp sớm so với bắt đầu điều trị bảo tồn dựa trên kết quả của 3 nghiên cứu lớn với 6.487 bệnh nhân: FRISC II, TACTIC‒TIMI 18, và RITA‒3.

Có khá nhiều nghiên cứu đang tiến hành với các chế độ thuốc chống ngưng tập tiểu cầu có hiệu quả hơn và do vậy thách thức các khuyến cáo can thiệp hiện nay. Nghiên cứu ISAR‒COOL so sánh điều trị nội khoa (làm mát) so với can thiệp Động mạch vành qua da ngay ở các bệnh nhân có nguy cơ cao trong đó 65% có đoạn ST chênh xuống và 67% có tăng troponin T. Thời gian trung bình chụp Động mạch vành là 86 giờ ở nhóm điều trị làm mát và 2,4 giờ ở nhóm can thiệp ngay. Mục tiêu chính bao gồm tử vong do mọi nguyên nhân và Nhồi máu cơ tim không tử vong sau 30 ngày, xuất hiện 11,6% ở nhóm bệnh nhân được làm mát (điều trị chống đông kéo dài trước can thiệp) so với 5,9% ở nhóm can thiệp ngay (P = 0,04). Kết quả này có thể qui cho các biến chứng xuất hiện trước khi can thiệp. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng ở các bệnh nhân hội chứng Động mạch vành cấp có nguy cơ cao trì hoãn việc can thiệp không làm cải thiện kết quả và điều trị chống đông trước can thiệp nên trong thời gian tối thiểu cần thiết để tổ chức phòng thông tim và tiến hành tái tưới máu.
Trong các nghiên cứu sử dụng can thiệp Động mạch vành qua da ở bệnh nhân đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên, hầu hết các bệnh nhân được đặt stent.
Tóm lại, các bệnh nhân có đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên phải được phân tầng nguy cơ trước tiên. Lợi ích rõ ràng từ việc chụp Động mạch vành sớm trong vòng 48 giờ và can thiệp Động mạch vành qua da hay phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành nếu cần thiết chỉ thấy ở các bệnh nhân có nguy cơ cao. Trì hoãn việc can thiệp không làm cải thiện kết quả. Đặt stent một cách thường qui được khuyến cáo dựa trên kết quả tốt có thể dự đoán trước và sự an toàn của thủ thuật.
5.3. Chỉ định can thiệp Động mạch vành qua da ở bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên
5.3.1. Can thiệp Động mạch vành thì đầu
Can thiệp Động mạch vành thì đầu được định nghĩa là can thiệp nhánh Động mạch vành thủ phạm gây Nhồi máu cơ tim trong vòng 12 giờ kể từ khi khởi phát triệu chứng đau ngực hay có các triệu chứng khác, mà không được dùng thuốc tiêu sợi huyết trước đó. Can thiệp Động mạch vành thì đầu lần đầu tiên được thực hiện vào năn 1979, chỉ 2 năm sau khi phương pháp can thiệp Động mạch vành qua da được áp dụng. Từ đó đến nay đã có nhiều nghiên cứu ngẫu nhiên có kiểm soát cho thấy can thiệp Động mạch vành thì đầu tốt hơn dùng thuốc tiêu sợi huyết đường tĩnh mạch trong điều trị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên (có hiệu quả hơn trong khôi phục lại dòng chảy trong Động mạch vành, ít bị tái thiếu máu cơ tim, tắc lại Động mạch vành, tái Nhồi máu cơ tim và đột quỵ hơn, cải thiện chức năng thất trái rõ rệt hơn). Đặc biệt bệnh nhân nữ giới và người lớn tuổi có lợi hơn khi được can thiệp Động mạch vành thì đầu so với dùng thuốc tiêu sợi huyết.
Chỉ định nhóm I
Chỉ định chung
Nên tiến hành can thiệp Động mạch vành thì đầu cho các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên (bao gồm cả Nhồi máu cơ tim thành sau thực sự) hay blốc nhánh trái mới xuất hiện trong vòng 12 giờ kể từ khi khởi phát triệu chứng đau ngực, và được can thiệp trong vòng 90 phút bởi các bác sĩ có kinh nghiệm (làm > 75 trường hợp can thiệp Động mạch vành có chuẩn bị/năm, lý tưởng là > 11 trường hợp can thiệp Động mạch vành thì đầu/năm). Thủ thuật được sự hỗ trợ bởi các kỹ thuật viên có kinh nghiệm ở một trung tâm có lưu lượng bệnh nhân lớn (> 150 ca can thiệp/năm, trong đó > 36 trường hợp can thiệp Động mạch vành thì đầu) và có phẫu thuật tim mạch hỗ trợ. Can thiệp Động mạch vành thì đầu nên được tiến hành càng sớm càng tốt, với mục tiêu thời gian từ khi bệnh nhân tiếp xúc với nhân viên y tế đến khi được can thiệp Động mạch vành trong vòng 90 phút.
Chỉ định đặc biệt
1. Can thiệp Động mạch vành thì đầu được tiến hành cho các bệnh nhân < 75 tuổi bị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên hay mới xuất hiện blốc nhánh trái, bị sốc tim trong vòng 36 giờ kể từ khi bị Nhồi máu cơ tim phù hợp với tái tạo mạch, có thể được tiến hành can thiệp trong vòng 18 giờ sau khi bị sốc.
2. Can thiệp Động mạch vành thì đầu được tiến hành càng sớm càng tốt cho các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim cấp có suy tim ứ huyết nặng và/hoặc phù phổi cấp (Killip 3) trong vòng 12 giờ kể từ khi khởi phát cơn đau ngực.
Chỉ định nhóm IIa
1. Can thiệp Động mạch vành thì đầu có thể tiến hành cho một số bệnh nhân chọn lọc ≥ 75 tuổi bị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên hay blốc nhánh trái hoàn toàn mới xuất hiện trên điện tâm đồ, bị sốc tim trong vòng 36 giờ và phù hợp với tái tạo mạch, có thể tiến hành can thiệp trong vòng 18 giờ sau khi bị sốc.
2. Có thể can thiệp thì đầu cho các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên từ 12‒24 giờ và có ≥ 1 đặc điểm sau:
‒ Suy tim ứ huyết nặng.
‒ Tình trạng huyết động hoặc điện học không ổn định. ‒ Có bằng chứng vẫn còn thiếu máu cơ tim.
Chỉ định nhóm IIb
Cần cân nhắc khi tiến hành can thiệp Động mạch vành thì đầu cho các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên phù hợp với điều trị tiêu sợi huyết bởi các bác sĩ có ít kinh nghiệm thực hiện < 75 trường hợp can thiệp Động mạch vành có chuẩn bị/năm hay can thiệp Động mạch vành thì đầu < 11 trường hợp/năm.
Chỉ định nhóm III
1. Can thiệp nhánh Động mạch vành không liên quan đến vùng nhồi máu trong khi can thiệp Động mạch vành thì đầu ở các bệnh nhân có tình trạng huyết động ổn định.
2. Can thiệp Động mạch vành thì đầu cho các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim > 12 giờ không còn triệu chứng, có tình trạng huyết động và điện học ổn định.
Can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên đòi hỏi một đội ngũ các bác sĩ tim mạch can thiệp có kinh nghiệm với sự giúp đỡ của các kỹ thuật viên lành nghề. Điều đó có nghĩa rằng chỉ các bệnh viện tổ chức tốt chương trình can thiệp mới nên làm can thiệp Động mạch vành cho các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên thay vì sử dụng thuốc tiêu sợi huyết đường tĩnh mạch. Hầu hết các nghiên cứu so sánh sử dụng thuốc tiêu sợi huyết với can thiệp Động mạch vành qua da thì đầu được tiến hành tại các trung tâm có số lượng bệnh nhân can thiệp lớn bởi các bác sĩ có nhiều kinh nghiệm với thời gian chuẩn bị ngắn. Do vậy, các kết quả này không thể áp dụng cho các tình huống khác. Các bằng chứng cho thấy có sự khác biệt rất lớn giữa các trung tâm với nhau. Nhìn chung, để can thiệp Động mạch vành thì đầu, kinh nghiệm của bác sĩ và số lượng bệnh nhân đòi hỏi cao hơn can thiệp cho các bệnh nhân có bệnh Động mạch vành ổn định. Với các bệnh nhân bị tổn thương nhiều nhánh Động mạch vành, can thiệp Động mạch vành thì đầu nên can thiệp nhánh Động mạch vành gây nhồi máu (ĐMV thủ phạm), quyết định can thiệp các nhánh Động mạch vành không liên quan đến vùng nhồi máu được hướng dẫn bởi các bằng chứng thiếu máu tồn lưu qua theo dõi sau đó. Việc áp dụng hướng dẫn can thiệp Động mạch vành cho bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp đã làm cải thiện chất lượng điều trị. Trong một nghiên cứu cho thấy bệnh nhân được can thiệp ngoài giờ hành chính có tỷ lệ thất bại cao hơn và hậu quả là kết quả lâm sàng kém hơn các bệnh nhân được can thiệp trong giờ hành chính.
Phân tích tổng hợp 23 nghiên cứu ngẫu nhiên với 7.739 bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên phù hợp với điều trị tiêu sợi huyết được điều trị ngẫu nhiên tiêu sợi huyết hay can thiệp Động mạch vành thì đầu, cho thấy can thiệp Động mạch vành thì đầu tốt hơn điều trị thuốc tiêu sợi huyết về làm giảm tỷ lệ tử vong sớm (4‒6 tuần) 9,3% so với 7,0% (P = 0,0002), tái Nhồi máu cơ tim không tử vong 6,8% so với 2,5% (P < 0,0001), đột quỵ 2,0% so với 1,0% (P = 0,0004), và các biến chứng tim mạch chính bao gồm tử vong, Nhồi máu cơ tim không tử vong và đột quỵ 14,5% so với 8,2% (P < 0,0001). Trong quá trình theo dõi lâu dài (6‒18 tháng), can thiệp Động mạch vành thì đầu vẫn tốt hơn điều trị bằng thuốc tiêu sợi huyết với tỷ lệ tử vong 12,8% so với 9,6%, Nhồi máu cơ tim không tử vong 10,0% so với 4,8%, và tỷ lệ các biến chứng gộp bao gồm tử vong, Nhồi máu cơ tim không tử vong và đột quỵ là 19,0% so với 12,0%. Sự khác biệt ấn tượng nhất giữa điều trị tiêu sợi huyết và can thiệp Động mạch vành thì đầu là làm giảm đáng kể tỷ lệ tái thiếu máu cơ tim từ 21% với điều trị tiêu sợi huyết xuống 6% với can thiệp Động mạch vành thì đầu qua theo dõi ngắn hạn cũng như dài hạn (39% so với 22%, P < 0,0001).
Chuyển bệnh nhân đến trung tâm có thể can thiệp Động mạch vành thì đầu: Không còn nghi ngờ gì rằng bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên trong vòng 12 giờ đến bệnh viện không có khả năng can thiệp và có chống chỉ định với dùng thuốc tiêu sợi huyết nên được chuyển ngay đi chụp và can thiệp Động mạch vành thì đầu ở bệnh viện khác bởi vì can thiệp Động mạch vành qua da là cơ hội duy nhất để mở thông nhánh Động mạch vành gây Nhồi máu cơ tim nhanh chóng nhất. Các bệnh nhân có chống chỉ định dùng thuốc tiêu sợi huyết có bệnh suất và tử suất cao hơn các bệnh nhân phù hợp với tiêu sợi huyết. Can thiệp Động mạch vành thì đầu chưa được đánh giá một cách chính thức bằng các nghiên cứu ngẫu nhiên ở nhóm các bệnh nhân này, nhưng phần lớn các bệnh nhân đều có kết quả tốt.
Việc quyết định chuyển bệnh nhân đến bệnh viện có khả năng can thiệp Động mạch vành thì đầu cũng phụ thuộc vào sự đánh giá nguy cơ trên lâm sàng của từng bệnh nhân. Các nghiên cứu cho thấy can thiệp Động mạch vành thì đầu tốt hơn cho dù phải chuyển bệnh nhân từ bệnh viện không có khả năng can thiệp tới bệnh viện có khả năng can thiệp. Nghiên cứu DANAMI‒2 lần đầu tiên cho thấy làm giảm đáng kể các biến chứng tim mạch chính bao gồm tử vong, tái Nhồi máu cơ tim và đột quỵ sau 30 ngày với can thiệp Động mạch vành qua da cho dù có bị chậm trễ hơn do phải di chuyển. Nghiên cứu PRAGUE‒2 phải ngừng lại sớm vì tăng tỷ lệ tử vong lên 2,5 lần với điều trị thuốc tiêu sợi huyết sau 3 giờ kể từ khi xuất hiện triệu chứng đau ngực so với can thiệp Động mạch vành thì đầu. Trong số các bệnh nhân được điều trị ngẫu nhiên sau 3 giờ, tỷ lệ tử vong trong nhóm điều trị thuốc tiêu sợi huyết lên tới 15,3% so với 6% ở nhóm can thiệp Động mạch vành qua da (P < 0,02). Các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim trong vòng 3 giờ không có sự khác biệt về tỷ lệ tử vong giữa điều trị tiêu sợi huyết (7,4%) so với can thiệp
ĐMV qua da (7,3%).
Trong vòng 3 giờ kể từ khi khởi phát cơn đau ngực, cả 2 chiến lược tái tưới máu có hiệu quả tương tự như nhau trong làm giảm kích thước vùng nhồi máu và tỷ lệ tử vong. Can thiệp Động mạch vành qua da trong 3 giờ đầu tốt hơn điều trị tiêu sợi huyết được đưa ra bởi phân tích gộp trong nghiên cứu STOPAMI‒1 và 2. Tuy nhiên “chỉ số cứu vãn cơ tim” không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm trong vòng 165 phút đầu tiên, can thiệp Động mạch vành qua da tốt hơn rõ rệt sau 165‒280 phút và sau 280 phút. Kết quả tốt hơn phụ thuộc thời gian của can thiệp Động mạch vành qua da so với dùng thuốc tiêu sợi huyết cũng được ghi nhận qua phân tích tổng hợp PCAT trước đây với 2.635 bệnh nhân
Nguyên nhân chính khiến can thiệp Động mạch vành thì đầu được ưu tiên lựa chọn hơn điều trị tiêu sợi huyết cho các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim cấp trong vòng 3 giờ đầu tiên là phòng ngừa đột quị. Phân tích tổng hợp 23 nghiên cứu cho thấy can thiệp Động mạch vành thì đầu so với thuốc tiêu sợi huyết làm giảm đáng kể tỷ lệ bị đột quỵ toàn bộ (2,0% so với 1,0%). Theo phân tích tổng hợp PCAT, ưu điểm giảm tỷ lệ đột quỵ của can thiệp Động mạch vành thì đầu so với điều trị tiêu sợi huyết là 0,7% đối với bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim trong vòng 2 giờ, 1,2% với bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim từ 2‒4 giờ, và 0,7% đối với bệnh nhân từ 4‒12 giờ. Phân tích tổng hợp các nghiên cứu chuyển bệnh nhân đến bệnh viện có khả năng can thiệp cho thấy làm giảm đáng kể tỷ lệ bị đột quỵ từ 1,88% với thuốc tiêu sợi huyết xuống còn 0,64% với can thiệp Động mạch vành qua da. Do vậy, lý do chủ yếu của việc ưu tiên lựa chọn can thiệp Động mạch vành qua da so với dùng thuốc tiêu sợi huyết cho các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim từ 3‒12 giờ không chỉ cứu vãn cơ tim mà còn phòng ngừa đột quị.
Can thiệp Động mạch vành cho các bệnh nhân có chống chỉ định với điều trị tiêu sợi huyết
Chỉ định nhóm I
Can thiệp Động mạch vành thì đầu nên được tiến hành cho các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên trong vòng 12 giờ có chống chỉ định với điều trị thuốc tiêu sợi huyết.
Chỉ định nhóm IIa
Có thể tiến hành can thiệp Động mạch vành thì đầu cho các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên trong vòng 12‒24 giờ, có chống chỉ định với điều trị thuốc tiêu sợi huyết và có ≥ 1 đặc điểm sau:
‒ Suy tim ứ huyết nặng.
‒ Có tình trạng huyết động hay điện học không ổn định.
‒ Có bằng chứng vẫn còn thiếu máu cơ tim.
5.3.2. Can thiệp Động mạch vành được tạo thuận
Chỉ định nhóm IIb
Can thiệp Động mạch vành được tạo thuận không sử dụng đủ liều thuốc tiêu sợi huyết có thể được tiến hành như là một chiến lược tái tưới máu ở các bệnh nhân có đầy đủ các yếu tố sau:
a. Bệnh nhân có nguy cơ cao.
b. Can thiệp Động mạch vành qua da sẵn sàng trong vòng 90 phút.
c. Nguy cơ chảy máu thấp.
Chỉ định nhóm III
Chiến lược tái tưới máu theo kế hoạch sau khi sử dụng đủ liều thuốc tiêu sợi huyết tiến hành can thiệp Động mạch vành ngay có thể có hại.
Can thiệp Động mạch vành tạo thuận được định nghĩa là có kế hoạch can thiệp trong vòng 12 giờ kể từ khi khởi phát cơn đau ngực, sớm sau khi dùng thuốc tiêu sợi huyết như là cầu nối cho sự chậm chễ kể từ khi tiếp xúc với y tế đầu tiên đến khi được can thiệp Động mạch vành thì đầu. Tuy nhiên, thuật ngữ can thiệp Động mạch vành được tạo thuận “facilitated PCI” không thống nhất sử dụng để xác định: được sử dụng như là kế hoạch can thiệp ban đầu, sau khi dùng thuốc tiêu sợi huyết và/hoặc thuốc ức chế GP IIb/IIIa. Do vậy, trong các nghiên cứu ngẫu nhiên thử nghiệm khái niệm can thiệp Động mạch vành được tạo thuận, tất cả các bệnh nhân (có hoặc không được điều trị trước) đều được tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da thì đầu.
Can thiệp Động mạch vành được tạo thuận với thuốc tiêu sợi huyết: Can thiệp Động mạch vành được tạo thuận được thử nghiệm với số lượng bệnh nhân nhỏ trong nghiên cứu PRAGUE‒1 và SPEED (GUSTO‒4). Các khái niệm mới với việc dùng nửa liều thuốc t‒PA trước khi tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da một cách có hệ thống cho thấy có sự cải thiện mức độ dòng chảy TIMI3 trong Động mạch vành thủ phạm trước khi can thiệp, nhưng kết quả đó không chuyển đổi sang thành các lợi ích trên lâm sàng (nghiên cứu PACT). Trong nghiên cứu BRAVE, các bệnh nhân được phân chia ngẫu nhiên dùng một nửa liều reteplase và thuốc abciximab hoặc abciximab đơn thuần trước khi can thiệp hay chuyển bệnh nhân đi can thiệp Động mạch vành thì đầu với đặt stent, các bệnh nhân được dùng reteplase và abciximab sớm không làm giảm diện tích vùng nhồi máu so với dùng abciximab đơn thuần. Mặc dù khái niệm “liều thuốc tiêu sợi huyết thấp” kết hợp với thuốc ức chế GP IIb/IIIa và clopidogrel một thời gian ngắn trước khi đặt stent trong điều trị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên rất hấp dẫn, các nghiên cứu về can thiệp Động mạch vành được tạo thuận không thấy có lợi và thậm chí còn có hại. Tại thời điểm này, chưa có bằng chứng để khuyến cáo can thiệp Động mạch vành được tạo thuận với thuốc tiêu sợi huyết.
Can thiệp Động mạch vành được tạo thuận với thuốc ức chế GP IIb/IIIa: Trong nghiên cứu ADMIRAL, phân tích các phân nhóm nghiên cứu được sử dụng abciximab tại phòng cấp cứu hay trên xe cứu thương có kết quả tốt hơn nhóm bệnh nhân được dùng thuốc muộn hơn, gợi ý ưu điểm của “sự tạo thuận”. Trong nghiên cứu ONTIME, các bệnh nhân được phân chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm được dùng tirofiban sớm (trước khi đến viện) hoặc muộn (tại phòng chụp mạch). Trước can thiệp, 19% đạt dòng chảy trong Động mạch vành mức độ TIMI‒3 ở nhóm dùng thuốc sớm và 15% ở nhóm dùng thuốc muộn (không có ý nghĩa thống kê). Không thấy có lợi ích gì trên hình ảnh chụp mạch sau can thiệp hay kết quả trên lâm sàng. Tại thời điểm này chưa có các bằng chứng để khuyến cáo can thiệp Động mạch vành được tạo thuận với thuốc ức chế GP IIb/IIIa để cải thiện kết quả của bệnh nhân.
5.3.3. Can thiệp Động mạch vành cứu vãn sau khi điều trị tiêu sợi huyết thất bại
Chỉ định nhóm I
Chiến lược chụp Động mạch vành xét can thiệp Động mạch vành qua da (hay phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành cấp cứu) được chỉ định cho các bệnh nhân sau khi được sử dụng thuốc tiêu sợi huyết và có một trong các đặc điểm sau:
a. Sốc tim ở các bệnh nhân < 75 tuổi phù hợp với tái tứơi máu.
b. Suy tim sung huyết nặng và/hoặc phù phổi cấp (killip III).
c. Huyết động không ổn định gây ra nhịp nhanh thất.
Chỉ định nhóm IIa
1. Chiến lược chụp Động mạch vành xét can thiệp Động mạch vành qua da (hay phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành cấp cứu) được chỉ định cho các bệnh nhân ≥ 75 tuổi, đã được điều trị thuốc tiêu sợi huyết, có sốc tim, phù hợp với tái tưới máu.
2. Tiến hành can thiệp Động mạch vành cứu vãn cho các bệnh nhân có một trong các đặc điểm sau:
a. Tình trạng huyết động và điện học không ổn định.
b. Còn dấu hiệu thiếu máu cơ tim.
3. Chiến lược chụp Động mạch vành xét can thiệp Động mạch vành cứu vãn được chỉ định cho các bệnh nhân sau khi sử dụng thuốc tiêu sợi huyết thất bại (đoạn ST đỡ chênh < 50% sau sử dụng thuốc tiêu sợi huyết 90 phút) và có một vùng cơ tim vừa đến rộng có nguy cơ (NMCT thành trước, Nhồi máu cơ tim thành dưới bao gồm cả thất phải hay đoạn ST ở các chuyển đạo trước tim chênh xuống).
Chỉ định nhóm III
Chiến lược chụp Động mạch vành xét can thiệp Động mạch vành qua da (hay phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành cấp cứu) không được chỉ định cho các bệnh nhân đã được sử dụng thuốc tiêu sợi huyết khi các thủ thuật thăm dò xâm lấn có chống chỉ định hay bệnh nhân không không muốn thăm dò chảy máu.
Can thiệp Động mạch vành cứu vãn được định nghĩa là can thiệp nhánh Động mạch vành vẫn bị tắc sau khi dùng thuốc tiêu sợi huyết. Thất bại sau dùng thuốc tiêu sợi huyết được nghi ngờ khi vẫn còn đau ngực và đoạn ST không đỡ chênh 45‒60 phút sau khi dùng thuốc. Sau đó được khẳng định trên chụp Động mạch vành (tổn thương nặng Động mạch vành thượng tâm mạc có ảnh hưởng đến dòng chảy trong Động mạch vành, TIMI < 3). Nghiên cứu ở Cleveland Clinic đánh giá vai trò của can thiệp Động mạch vành cứu vãn sau khi dùng thuốc tiêu sợi huyết thất bại. Các bệnh nhân được chia ngẫu nhiên dùng ASA, heparin và thuốc giãn Động mạch vành (nhóm điều trị bảo tồn) và nhóm thứ 2 dùng các thuốc tương tự đồng thời được can thiệp Động mạch vành qua da. Tỷ lệ tử vong hoặc suy tim ứ huyết giảm một cách có ý nghĩa từ 17% xuống 6% ở nhóm can thiệp Động mạch vành cứu vãn. Phân tích tổng hợp các nghiên cứu RESCUE I và RESCUE II và các kinh nghiệm lâm sàng khác chứng minh những lợi ích của can thiệp Động mạch vành cứu vãn. REACT, nghiên cứu các bệnh nhân sau 90 phút đoạn ST không đỡ chênh > 50% trên điện tâm đồ, cho thấy rằng can thiệp Động mạch vành cứu vãn tốt hơn dùng lại thuốc tiêu sợi huyết hay điều trị bảo tồn. Sau 6 tháng, tỷ lệ các biến chứng tim mạch giảm xuống gần một nửa ở nhóm can thiệp Động mạch vành cứu vãn so với tiếp tục dùng lại thuốc tiêu sợi huyết hay điều trị bảo tồn (tử vong 18% so với 9%). Cũng tương tự như can thiệp Động mạch vành thì đầu, đặt stent tốt hơn nong bằng bóng đơn thuần.
5.3.4. Can thiệp Động mạch vành qua da cấp cứu ở bệnh nhân bị sốc tim
Chỉ định nhóm I
Can thiệp Động mạch vành thì đầu cho các bệnh nhân < 75 tuổi bị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên hay blốc nhánh trái mới xuất hiện bị sốc tim trong vòng 36 giờ và phù hợp với tái tạo mạch có thể tiến hành can thiệp trong vòng 18 giờ sau khi bị sốc tim.
Chỉ định nhóm IIa
Can thiệp Động mạch vành thì đầu cho một số bệnh nhân được lựa chọn ≥ 75 tuổi bị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên hay blốc nhánh trái hoàn toàn mới xuất hiện, bị sốc tim trong vòng 36 giờ sau khi bị nhồi máu và phù hợp với tái tạo mạch, có thể tiến hành can thiệp trong vòng 18 giờ kể từ khi bị sốc tim.
Sốc tim là một tình trạng lâm sàng huyết áp thấp đặc trưng bởi HA tâm thu < 90 mmHg và áp lực mao mạch phổi bít > 20 mmHg hoặc chỉ số tim < 1,8 l/phút/m2. Can thiệp Động mạch vành qua da hay phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành cấp cứu có thể cứu sống được bệnh nhân và nên xem xét trong giai đoạn sớm. Nếu cả can thiệp Động mạch vành qua da và phẫu thuật đều không sẵn sàng hay chỉ có thể thực hiện được sau một thời gian trì hoãn dài thì nên sử dụng thuốc tiêu sợi huyết. Phụ nữ có tỷ lệ tử vong cao hơn nam giới cho dù được điều trị theo phương pháp nào.
Có 2 nghiên cứu ngẫu nhiên có kiểm soát (SHOCK và SMASH) đánh giá chiến lược tái tưới máu sớm (can thiệp Động mạch vành qua da hay phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành) ở các bệnh nhân sốc tim do rối loạn chức năng thất trái sau Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên. Can thiệp Động mạch vành qua da ở các bệnh nhân sốc tim được đặc trưng bởi 2 sự khác biệt khi so với các bệnh nhân không bị sốc tim khác: thời gian cửa sổ (thông thường là 12 giờ sau khi khởi phát cơn đau ngực) rộng hơn và can thiệp nhiều nhánh Động mạch vành. Tất cả các nghiên cứu về can thiệp Động mạch vành qua da thì đầu đã đánh giá chiến lược tái tưới máu cấp giới hạn ở nhánh Động mạch vành thủ phạm. Chỉ trong tình trạng Nhồi máu cơ tim cấp có sốc tim có sự nhất trí thử tiến hành can thiệp nhiều nhánh Động mạch vành trong các bệnh nhân bị tổn thương nặng nhiều nhánh Động mạch vành. Việc sử dụng bóng đối xung trong ĐMC (AIBP) được khuyến cáo mạnh mẽ. Nếu tổn tương nhiều nhánh Động mạch vành không thể tái tạo mạch một cách khá hoàn thiện, phẫu thuật có thể được xem xét trong những trường hợp này. Trong nghiên cứu Benchmark Counterpulsation Outcomes Registry với 25.136 bệnh nhân, tỷ lệ tử vong trong bệnh viện cao hơn ở các bệnh nhân chỉ được điều trị nội khoa đơn thuần (32,5%) so với các bệnh nhân được can thiệp Động mạch vành qua da (18,8%) và phẫu thuật (19,2%). Cũng cần phải nhớ rằng các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên bị sốc tim có tỷ lệ tử vong trong bệnh viện tương tự như các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên bị sốc tim. Tỷ lệ tử vong trong bệnh viện của các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp bị biến chứng cấp là sốc tim hãy còn cao, cho dù được can thiệp Động mạch vành qua da sớm. Trong số các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp bị sốc tim > 75 tuổi, tỷ lệ sống còn cao hơn người ta nghĩ trước đây khi tái tạo mạch được tiến hành sớm. Trong số các bệnh nhân này, 56% các bệnh nhân sống sót ra viện được, và 75% trong số đó vẫn còn sống sau 1 năm. Trong vòng vài năm gần đây, tỷ lệ các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp bị sốc tim được tái tạo mạch đã tăng lên, có thể là do các bệnh nhân này thường được đưa đến các bệnh viện có khả năng thực hiện các thủ thuật tái tạo mạch.
5.3.5. Can thiệp Động mạch vành qua da sau điều trị thuốc tiêu sợi huyết hay các bệnh nhân không được tái tưới máu thì đầu
Chỉ định nhóm I
1. Các bệnh nhân có giải phẫu Động mạch vành phù hợp với can thiệp và có bằng chứng bị tái Nhồi máu cơ tim.
2. Các bệnh nhân có giải phẫu Động mạch vành phù hợp với can thiệp và có triệu chứng thiếu máu cơ tim từ vừa đến nặng trong giai đoạn hồi phục.
3. Các bệnh nhân có giải phẫu Động mạch vành phù hợp với can thiệp và có triệu chứng sốc tim hay tình trạng huyết động không ổn định.
Chỉ định nhóm IIa
1. Có thể tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da một cách thường qui cho các bệnh nhân có EF < 40%, suy tim, hay có rối loạn nhịp thất trầm trọng.
2. Có thể tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da khi bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng bị suy tim trong giai đoạn cấp cho dù chức năng tâm thu thất trái bảo tồn (EF > 40%).
Chỉ định nhóm IIb
Can thiệp các Động mạch vành thủ phạm gây Nhồi máu cơ tim bị hẹp có ý nghĩa 24 giờ sau Nhồi máu cơ tim cấp có thể là một phần trong chiến lược xâm lấn.
Chỉ định nhóm III
Can thiệp nhánh Động mạch vành thủ phạm gây Nhồi máu cơ tim bị tắc hoàn toàn 24 giờ sau Nhồi máu cơ tim cấp không được khuyến cáo ở các bệnh nhân không có triệu chứng bị tổn thương 1‒2 nhánh Động mạch vành nếu tình trạng huyết động và điện học ổn định và không có bằng chứng thiếu máu cơ tim trầm trọng.
Chụp Động mạch vành thường quy sớm sau khi điều trị tiêu sợi huyết
Chỉ định nhóm IIa
Chụp và can thiệp Động mạch vành qua da thường qui (nếu thích hợp) cho các bệnh nhân được điều trị thuốc tiêu sợi huyết thành công trong vòng 24 giờ đầu.
ALKK, nghiên cứu ngẫu nhiên 300 bệnh nhân (dự kiến ban đầu là 800) được can thiệp Động mạch vành qua da hay điều trị nội khoa. Trước khi phân chia ngẫu nhiên, 63% bệnh nhân trong nhóm can thiệp Động mạch vành qua da và 57% bệnh nhân trong nhóm điều trị nội khoa được dùng thuốc tiêu sợi huyết. Can thiệp Động mạch vành qua được tiến hành trung bình 24 ngày sau khi bị Nhồi máu cơ tim cấp. Tỷ lệ sống còn không bị biến chứng sau 1 năm cao hơn ở nhóm can thiệp Động mạch vành qua da (90% so với 82%). Phân tích nhiều mức độ các bệnh nhân trong nghiên cứu ASSENT‒2 cho thấy tỷ lệ tử vong thấp hơn ở các quốc gia có tỷ lệ can thiệp Động mạch vành qua da sau điều trị tiêu sợi huyết cao hơn. Phân tích tổng hợp 20.101 bệnh nhân từ nghiên cứu TIMI 4, 9 và 10B và InTIME‒II cho thấy can thiệp Động mạch vành qua da trong thời gian nằm viện có tỷ lệ bị tái Nhồi máu cơ tim trong bệnh viện thấp hơn (4,5% so với 1,6%, P < 0,001) và tỷ lệ tử vong sau 2 năm cũng thấp hơn (11,6% so với 5,6%, P < 0,001). Hồi cứu từ nghiên cứu

Swedish National Cause of Death ủng hộ chiến lược can thiệp sớm sau khi bị Nhồi máu cơ tim cấp.
Trong nghiên cứu GUSTO‒I, tỷ lệ bệnh nhân được thông tim can thiệp trong thời gian nằm viện tại Hoa Kỳ cao > 2 lần các bệnh nhân Canada. Tỷ lệ tử vong sau 5 năm là 19,6% trong số các bệnh nhân Hoa Kỳ và 21,4% trong số các bệnh nhân Canada (P = 0,02). Do vậy, tái tạo Động mạch vành sớm có hiệu quả hơn điều trị nội khoa bảo tồn về tỷ lệ sống còn lâu dài.
5.3.6. Can thiệp Động mạch vành qua da ở bệnh nhân thiếu máu cơ tim sau điều trị tiêu sợi huyết
Chỉ định nhóm I
1. Các bệnh nhân có giải phẫu phù hợp, can thiệp Động mạch vành qua da nên tiến hành khi có bằng chứng Nhồi máu cơ tim tái phát.
2. Các bệnh nhân có giải phẫu phù hợp, can thiệp Động mạch vành qua da nên tiến hành khi có bằng chứng thiếu máu cơ tim vừa đến nặng tự phát hay thiếu máu cơ tim qua các thăm dò trong quá trình hồi phục sau Nhồi máu cơ tim.
3. Các bệnh nhân có giải phẫu phù hợp, can thiệp Động mạch vành qua da nên tiến hành khi có sốc tim hay tình trạng huyết động không ổn định.
Chỉ định nhóm IIa
1. Can thiệp cho các bệnh nhân có phân số tống máu thất trái ≤ 40%, suy tim, hay có rối loạn nhịp thất nặng.
2. Có thể tiến hành can thiệp cho các bệnh nhân có biểu hiện suy tim trong giai đoạn cấp mặc dù chức năng tâm thu thất trái còn bảo tồn (EF > 40%).
Chỉ định nhóm IIb
Can thiệp Động mạch vành được xem là một phần của chiến lược xâm lấn sau khi điều trị tiêu sợi huyết.
Nghiên cứu DANAMI‒1 là nghiên cứu tiến cứu ngẫu nhiên đầu tiên và duy nhất so sánh chiến lược xâm lấn can thiệp Động mạch vành qua da/phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành với chiến lược điều trị nội khoa bảo tồn ở các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên lần đầu tiên có biểu hiện thiếu máu cơ tim sau điều trị tiêu sợi huyết trước khi ra viện. Kết quả ban đầu về tỷ lệ tử vong, tái Nhồi máu cơ tim và đòi hỏi phải nhập viện do đau thắt ngực không ổn định giảm đi một cách rõ rệt sau 1 năm (15,4% so với 29,5%), sau 2 năm (23,5% so với 36,6%) và sau 4 năm (31,7% sơ với 44,0%). Do vậy, các bệnh nhân được sử dụng thuốc tiêu sợi huyết trong điều trị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên lần đầu tiên có biểu hiện thiếu máu cơ tim trước khi ra viện nên được chụp và tái tạo Động mạch vành kết hợp với điêu trị nội khoa tối ưu.
5.3.7. Can thiệp Động mạch vành qua da cho bệnh nhân đến viện muộn (> 12 giờ)
Các bệnh nhân thường đến viện quá muộn và không được tái tưới máu hay tái tưới máu thất bại. Điều trị tái tưới máu muộn được định nghĩa là bắt đầu đieu trị thuốc tiêu sợi huyết hay can thiệp Động mạch vành qua da > 12 giờ sau khi khởi phát cơn đau ngực. Điều trị tiêu sợi huyết muộn cho bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên không làm giảm kích thước ổ nhồi máu hay bảo tồn chức năng thất trái, có thể là do không có hiệu quả trong viêc tái thông nhánh Động mạch vành bị tắc.
Phân tích một cách thận trọng nghiên cứu PCAT, PRAGUE‒2 và CAPTIM có thể thấy lợi ích của can thiệp Động mạch vành muộn. Trong nghiên cứu DECOPI, 212 bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim cấp lần đầu tiên và có nhánh Động mạch vành gây nhồi máu bị tắc được phân chia ngẫu nhiên vào nhóm can thiệp Động mạch vành qua da được tiến hành 2‒15 ngày sau nhồi máu hoặc điều trị nội khoa. Tiêu chí đánh giá chính bao gồm tử vong do tim mạch, Nhồi máu cơ tim không tử vong, nhịp nhanh thất. Mặc dù sau 6 tháng, phân số tống máu thất trái cao hơn đáng kể ở nhóm can thiệp (5%) và tỷ lệ bệnh nhân có nhánh Động mạch vành gây nhồi máu còn mở thông cao hơn (82,8% so với 34,2%), tại thời điểm theo dõi trung bình 34 tháng, các biến chứng tim mạch chính tương tự nhau giữa nhóm can thiệp Động mạch vành qua da và nhóm điều trị nội khoa (8,7% so với 7,3%).
Giả thuyết mở động mạch muộn gợi ý rằng việc mở các nhánh Động mạch vành gây Nhồi máu cơ tim muộn làm cải thiện chức năng thất trái, tăng ổn định điện học, chuẩn bị nhánh tuần hoàn bàng hệ cho các giường động mạch khác phòng ngừa khi các biến có khác xảy ra trong tương lai. Nghiên cứu OAT (Occluded Artery Trial) kiểm nghiệm giả thuyết bằng cách tiến hành can thiệp nhánh Động mạch vành thủ phạm bị tắc hoàn toàn từ ngày 3‒28 sau Nhồi máu cơ tim sẽ làm giảm tỷ lệ bị biến chứng gộp bao gồm tử vong, tái Nhồi máu cơ tim hay suy tim độ IV. 2166 bệnh nhân ổn định có Động mạch vành gây Nhồi máu cơ tim tắc hoàn toàn (khoảng 20% sau điều trị thuốc tiêu sợi huyết) được phân chia ngẫu nhiên điều trị nội khoa tối ưu và can thiệp Động mạch vành hay chỉ được điều trị nội khoa tối ưu đơn thuần. Kết quả sau 4 năm, tỷ lệ bị biến chứng gộp là 17,2% ở nhóm can thiệp so với 15,6% ở nhóm điều trị nội khoa đơn thuần (p =0,2). Tỷ lệ tái Nhồi máu cơ tim có xu hướng cao hơn ở nhóm can thiệp, điều này có thể làm mất lợi ích của phương pháp can thiệp trên tái cấu trúc thất trái.
5.3.8. Giảm thiểu thời gian trì hoãn
Với tất cả các thể can thiệp Động mạch vành qua da trong điều trị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên mọi người đều nhất trí là với tất cả cố gắng để làm giảm thiểu sự trì hoãn từ khi khởi phát cơn đau ngực hay các triệu chứng khác đến khi bắt đầu tiến hành chiến lược điều trị tái tưới máu an toàn và hiệu quả cho các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên. Rút ngắn thời gian thiếu máu là điều chủ chốt, không phải chỉ với điều trị tiêu sợi huyết mà còn đối với can thiệp Động mạch vành thì đầu. Giảm thiểu thời gian chậm trễ bắt đầu điều trị làm cải thiện đáng kể kết quả, trong khi kéo dài thời gian từ khi khởi phát triệu chứng đến khi điều trị làm tồi hơn sự tưới máu cơ tim độc lập với dòng chảy của Động mạch vành thượng tâm mạc. Sự cố gắng bắt đầu với việc giáo dục bệnh nhân và cải thiện việc tổ chức vận chuyển cấp cứu cũng như việc tổ chức tối ưu tiến hành thủ thuật trong bệnh viện. Như can thiệp Động mạch vành qua da, mọi sự cố gắng nên giữ thời gian trung bình từ khi bệnh nhân tiếp cận với nhân viên y tế đến khi được can thiệp Động mạch vành qua da < 90 phút. Bỏ qua phòng cấp cứu, chuyển ngay bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên đến phòng chụp mạch sẽ làm giảm thời gian trì hoãn. Tuy nhiên, các bệnh nhân có thời gian trì hoãn kéo dài hơn cũng nên được điều trị bằng can thiệp Động mạch vành thì đầu thậm chí trong vòng 3 giờ đầu kể từ khi xuất hiện triệu chứng. Chỉ khi sự trì hoãn quá lâu (> 2‒3 giờ) mới bắt đầu can thiệp Động mạch vành thì đầu, điều trị tái tưới máu với thuốc tiêu sợi huyết thế hệ thứ 2 hoặc thứ 3 nên được xem xét.
Tóm lại, can thiệp Động mạch vành thì đầu là phương pháp điều trị được lựa chọn cho các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên ở các bệnh viện có khả năng can thiệp và với một đội ngũ bác sĩ can thiệp có kinh nghiệm. Các bệnh nhân có chống chỉ định với điều trị tiêu sợi huyết nên được chuyển ngay đi can thiệp Động mạch vành thì đầu, vì đây là cơ hội cuối cùng để có thể mở thông nhánh Động mạch vành gây nhồi máu. Với các bệnh nhân bị sốc tim, can thiệp Động mạch vành qua da cấp cứu để tái tạo mạch máu toàn bộ có thể cứu sống bệnh nhân và nên xem xét trong giai đoạn sớm. So với điều trị thuốc tiêu sợi huyết, các nghiên cứu ngẫu nhiên cho thấy chuyển bệnh nhân đi can thiệp Động mạch vành thì đầu có tiên lượng tốt hơn cho dù thời gian vận chuyển có làm chậm trễ đáng kể thời gian bắt đầu điều trị. Can thiệp Động mạch vành thì đầu tốt hơn so với điều trị thuốc tiêu sợi huyết đặc biệt ở các bệnh nhân đến viện trong khoảng 3‒12 giờ kể từ khi khởi phát cơn đau ngực. Hơn thế nữa, cùng với thời gian bị Nhồi máu cơ tim tăng lên, các biến chứng tim mạch chính tăng lên với điều trị thuốc tiêu sợi huyết, nhưng vẫn khá ổn định với can thiệp Động mạch vành thì đầu.
Trong vòng 3 giờ đầu tiên sau khi khởi phát cơn đau ngực hay các triệu chứng khác, cả 2 chiến lược điều trị tái tưới máu đều có hiệu quả tương tự nhau trong làm giảm kích thước ổ nhồi máu và tỷ lệ tử vong. Do vậy, thuốc tiêu sợi huyết vẫn là một chiến lược điều trị tái tưới máu thay thế cho can thiệp Động mạch vành thì đầu, nếu có thể được tiến hành trong vòng 3 giờ kể từ khi khởi phát cơn đau ngực hay các triệu chứng khác. Can thiệp Động mạch vành thì đầu so với điều trị tiêu sợi huyết làm giảm tỷ lệ đột quỵ một cách có ý nghĩa. Nhìn chung, chúng ta ưa thích can thiệp Động mạch vành thì đầu hơn điều trị thuốc tiêu sợi huyết trong vòng 3 giờ đầu tiên kể từ khi khởi phát cơn đau ngực hay các triệu chứng khác để phòng ngừa đột quị, và các bệnh nhân khởi phát cơn đau ngực từ 3‒12 giờ để cứu vãn cơ tim đồng thời cũng để phòng ngừa đột quị. Tại thời điểm này, chưa có bằng chứng để khuyến cáo can thiệp Động mạch vành được tạo thuận.
Can thiệp Động mạch vành cứu vãn được khuyến cáo, nếu thuốc tiêu sợi huyết thất bại trong vòng 45‒60 phút sau khi bắt đầu dùng thuốc. Sau khi điều trị thuốc tiêu sợi huyết thành công, việc tiến hành chụp Động mạch vành thường qui trong vòng 24 giờ và can thiệp Động mạch vành qua da nếu phù hợp được khuyến cáo cho dù bệnh nhân không có triệu chứng hay có biểu hiện thiếu máu cơ tim để làm cải thiện tiên lượng của bệnh nhân. Nếu trung tâm can thiệp không sẵn sàng trong vòng 24 giờ, các bệnh nhân được điều trị tiêu sợi huyết thành công có bằng chứng thiếu máu cơ tim tự nhiên hay qua các thăm dò trước khi ra viện nên được chụp và tái tạo Động mạch vành, độc lập với điều trị nội khoa tối đa.
5.4. Can thiệp Động mạch vành qua da ở các bệnh nhân đã phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành
Chỉ định nhóm I
1. Can thiệp Động mạch vành qua da nên tiến hành cho các bệnh nhân có biểu hiện thiếu máu cơ tim sớm (trong vòng 30 ngày) sau phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành nếu kỹ thuật cho phép.
2. Nên sử dụng các dụng cụ bảo vệ đoạn xa khi can thiệp mảnh ghép tĩnh mạch hiển nếu kỹ thuật cho phép.
Chỉ định nhóm IIa
1. Can thiệp Động mạch vành qua da có thể tiến hành cho các bệnh nhân bị thiếu máu cơ tim sau phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành từ 1‒3 năm và có chức năng thất trái bảo tồn với các tổn thương khu trú ở mảnh ghép.
2. Can thiệp Động mạch vành qua da có thể tiến hành cho các bệnh nhân bị đau thắt ngực thứ phát do các tổn thương mới xuất hiện trên hệ Động mạch vành của bệnh nhân sau phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành.
3. Có thể tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân bị tổn thương ở mảnh ghép tĩnh mạch sau phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành > 3 năm.
4. Có thể tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da (nếu kỹ thuật cho phép) ở các bệnh nhân có mảnh ghép động mạch vú trong còn thông và có tổn thương nặng ở những mạch máu khác.
Chỉ định nhóm III
1. Không tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da cho các tổn thương tắc hoàn toàn mạn tĩnh mảnh ghép tĩnh mạch.
2. Không nên tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân bị tổn thương nhiều nhánh động mạch, tổn thương nhiều mảnh ghép tĩnh mạch sau phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành và có rối loạn chức năng thất trái, trừ khi tái phẫu thuật có nguy cơ rất cao do các tình trạng bệnh lý khác đi kèm trầm trọng.

6. CÁC THUỐC DÙNG PHỐI HỢP

Việc tiêm vào Động mạch vành một cách thường quy thuốc nitroglycerin trước khi can thiệp được khuyến cáo nhằm nhóm trừ sự co thắt mạch để đánh giá kích thước thực của mạch máu, và làm giảm nguy cơ bị phản ứng co thắt mạch trong quá trình làm thủ thuật (khuyến cáo dùng thuốc nitroglycerin: chỉ định nhóm I). Việc tiêm nitroglycerin vào Động mạch vành có thể được nhắc lại trong và khi kết thúc thủ thuật, tùy thuộc vào huyết áp của bệnh nhân. Trong một số ít trường hợp có co thắt Động mạch vành kháng với nitroglycerin có thể dùng verapamil thay thế.
Trong trường hợp dòng chảy chậm hoặc không có dòng chảy trong Động mạch vành sau can thiệp “no/slow reflow” có thể tiêm verapamil và adenosine vào trong Động mạch vành với các liều khác nhau. Nitroprusside cũng là một thuốc điều trị dòng chảy chậm hay không có dòng chảy trong Động mạch vành sau can thiệp có hiệu quả và an toàn. Hơn nữa, IABP có thể hữu ích trong trường hợp này. Việc phối hợp adenosine và nitroprusside làm cải thiện dòng chảy trong Động mạch vành tốt hơn là dùng adenosine đơn thuần. (khuyến cáo sử dụng adenosine, verapamil và nitroprusside trong trường hợp dòng chảy hoặc không có dòng chảy trong Động mạch vành: chỉ định nhóm IIa).
6.1. Các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu: aspirin và clopidogrel
Chỉ định nhóm I
1. Các bệnh nhân đã uống thuốc aspirin hàng ngày nên uống 75‒325 mg aspirin trước khi tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da.
2. Các bệnh nhân chưa sử dụng aspirin nên uống 300‒325 mg aspirin ít nhất 2 giờ, tốt nhất là 24 giờ trước khi tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da.
3. Sau can thiệp Động mạch vành qua da, các bệnh nhân không kháng aspirin hay dị ứng với aspirin, hay tăng nguy cơ chảy máu, nên uống 325 mg aspirin hàng ngày ít nhất 1 tháng sau đặt stent thường, 3 tháng sau đặt stent giải phóng thuốc sirolimus, và 6 tháng với stent giải phóng thuốc paclitaxel, sau đó uống 75‒162 mg aspirin mỗi ngày dùng kéo dài.
4. Liều tấn công clopidogrel 600 mg nên uống trước hay khi tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da. Các bệnh nhân được tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da 12‒24 giờ sau sử dụng thuốc tiêu sợi huyết nên sử dụng liều clopidogrel tấn công 300 mg.
5. Với các bệnh nhân được sử dụng stent bọc thuốc phải duy trì clopidogrel 75 mg/ngày ít nhất 12 tháng nếu bệnh nhân không có nguy cơ bị chảy máu cao. Các bệnh nhân sau đặt stent thường phải dùng clopidogrel ít nhất 1 tháng và tối ưu là 12 tháng, trừ khi có nguy cơ chảy máu cao thì nên sử dụng tối thiểu là 2 tuần.
Chỉ định nhóm IIa
1. Nếu clopidogrel được uống khi can thiệp, nên dùng thêm thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa.
2. Với các bệnh nhân có chống chỉ định tuyệt đối với aspirin, nên dùng clopidogrel liều tấn công 300‒600 mg ít nhất 6 giờ trước khi làm thủ thuật, và/hoặc dùng thuốc ức chế thụ thể IIb/IIIa tại thời điểm tiến hành thủ thuật.
3. Các bệnh nhân có nguy cơ chảy máu cao có thể sử dụng liều aspirin thấp hơn (75‒162 mg) trong quá trình sau can thiệp.
Chỉ định nhóm IIb
Sử dụng clopidogrel hơn 1 năm có thể cân nhắc ở các bệnh nhân được đặt stent bọc thuốc.
6.1.1. Acetylsalicylic acid
Các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu là thuốc điều trị phối hợp có vai trò rất quan trọng trong can thiệp Động mạch vành vì can thiệp Động mạch vành có thể gây ra các chấn thương lớp nội mạc và các lớp sâu hơn của thành mạch thường dẫn đến hoạt hóa tiểu cầu.
Cơn đau thắt ngực ổn định
Phân tích tổng hợp các nghiên cứu chống đông máu cho thấy ASA làm giảm tỷ lệ tử vong do mạch máu, Nhồi máu cơ tim, hay đột quỵ trong số tất cả các bệnh nhân có nguy cơ bị biến chứng mạch máu cao là 22% so với giả dược. M‒HEART II là nghiên cứu can thiệp Động mạch vành qua da duy nhất dùng ASA đơn thuần cho thấy sự cải thiện kết quả lâm sàng một cách đáng kể so sánh với giả dược (30% so với 41%). Tỷ lệ Nhồi máu cơ tim giảm xuống một cách đáng kể với ASA từ 5,7% xuống còn 1,2%. Ngày nay, ASA tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong làm giảm các biến chứng thiếu máu liên quan đến can thiệp Động mạch vành qua da. Nếu bệnh nhân không được dùng ASA từ trước hay khi có nghi ngờ về sự tuân thủ việc dùng thuốc, nên uống thuốc ASA liều tấn công 500 mg 3 giờ trước khi làm thủ thuật hoặc ít nhất 300 mg ASA tiêm tĩnh mạch ngay trước khi làm thủ thuật. Không nên dùng thuốc với các bệnh nhân có dị ứng với ASA. Chỉ định dùng ASA kéo dài với liều không cần lớn hơn 100 mg/ngày.
Cơn đau thắt ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên
Phân tích tổng hợp các nghiên cứu chống đông máu cho thấy ASA làm giảm 46% tỷ lệ tử vong do mạch máu, Nhồi máu cơ tim, hay đột quỵ (từ 13,3% xuống còn 8,0%). Mặc dù các nghiên cứu này được tiến hành khi can thiệp Động mạch vành qua da được tiến hành một cách rộng rãi, ASA được khuyến cáo nên dùng như là một điều trị chuẩn cho các bệnh nhân đau thắt ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim không có đoạn ST chênh lên có hay không được can thiệp Động mạch vành qua da.
Trong Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên
Nghiên cứu ISIS‒2 cho thấy ASA hầu như có hiệu quả tương tự như thuốc tiêu sợi huyết Streptokinase. Sự kết hợp cả 2 thuốc cho hiệu quả cao hơn. Mặc dù có những hạn chế và tác dụng phụ, ASA nên sử dụng cho các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên càng sớm càng tốt ngay sau khi chẩn đoán được xác lập.
Gần đây, vấn đề “kháng aspirin” đang được quan tâm. Tuy nhiên, cần có nhiều nghiên cứu tiến cứu thêm nữa để tìm hiểu sự liên quan giữa hiện tượng kháng aspirin với các biến chứng tim mạch trên lâm sàng.
6.1.2. Ticlopidine và Clopidogrel
Cơn đau thắt ngực ổn định
Ticlopidine và clopidogrel là những thuốc chống ngưng tập tiểu cầu có hiệu quả làm giảm huyết khối trong stent cấp và bán cấp sau can thiệp Động mạch vành qua da có đặt stent. Kết hợp thienopyridine với ASA có hiệu quả cao hơn việc dùng ASA đơn thuần hay ASA với thuốc chống đông đường uống khác. Theo các nghiên cứu ngẫu nhiên có kiểm soát (CLASSIC, TOPPS) và một số phân tích tổng hợp cho thấy clopidogrel ít nhất cũng có hiệu quả tương tự như ticlopidine. So sánh với ticlopidine, clopidogrel có ít tác dụng phụ hơn và dung nạp tốt hơn.
Hiện nay, hầu hết các bệnh nhân can thiệp Động mạch vành qua da được đặt stent. Các bệnh nhân chuẩn bị làm thủ thuật can thiệp Động mạch vành qua da nên được điều trị trước với clopidogrel không cần biết bệnh nhân đó có đặt stent hay không. Để đảm bảo đạt được hiệu quả chống ngưng tập tiểu cầu đầy đủ, clopidogrel nên được bắt đầu dùng 6 giờ trước khi làm thủ thuật với liều tấn công 300 mg, tối ưu là dùng 1 ngày trước thủ thuật (nghiên cứu CREDO và phân tích TARGET). Nếu không thể dùng sớm hơn, liều tấn công 600 mg nên dùng trước thủ thuật 2 giờ, tuy nhiên số liệu từ các nghiên cứu ngẫu nhiên chưa được công bố đầy đủ (nghiên cứu ARMYDA‒2). Nếu chụp Động mạch vành bình thường hay bệnh nhân không được đặt stent, hoặc bệnh nhân cần phẫu thuật tim sớm, clopidogrel có thể ngừng lại. Các bệnh nhân chưa được dùng clopidogrel trước thủ thuật nên dùng liều tấn công (có thể dùng liều cao hơn) ngay trong thủ thuật.
Sau khi đặt stent, không cần dùng clopidogrel kéo dài > 4 tuần ở bệnh nhân đau ngực ổn định trừ khi bệnh nhân được đặt stent giải phóng thuốc tại chỗ.
Chỉ định dùng clopidogrel trong can thiệp Động mạch vành Chỉ định
Liều dùng

Điều trị trước can thiệp Động mạch vành qua da ở bệnh nhân đau ngực ổn định Liều tấn công 300 mg ít nhất 6 giờ trước thủ thuật, tối ưu nên dùng trước 1 ngày
Điều trị trước can thiệp Động mạch vành qua da ở bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên hay bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên/đau thắt ngực không ổn định được can thiệp cấp cứu. Liều tấn công 600 mg ngay sau khi chẩn đoán xác định.
Sau khi đặt stent thường 2‒4 tuần
Sau đặt stent giải phóng thuốc 12 tháng
Sau Nhồi máu cơ tim cấp và đau thắt ngực không ổn định Dùng kéo dài 12 tháng

Cơn đau thắt ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên
Thời điểm tối ưu để bắt đầu điều trị clopidogrel ở bệnh nhân đau thắt ngực không ổn định/NMCT cấp không có đoạn ST chênh lên còn đang tranh luận: theo nghiên cứu CURE tỷ lệ biến chứng tim mạch giảm đi một cách có ý nghĩa thống kê trong những giờ đầu tiên của nghiên cứu. Mặt khác, các bệnh nhân đang dùng clopidogrel cần phải phẫu thuật thì biến chứng chảy máu trong quá trình phẫu thuật là vấn đề cần quan tâm. Trong nghiên cứu CURE, tỷ lệ bị biến chứng chảy máu không tăng hơn sau phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành so với nhóm chứng (1,3% so với 1,1%). Đối với các bệnh nhân không thể ngừng thuốc clopidogrel ít nhất 5 ngày trước khi phẫu thuật, tỷ lệ bị biến chứng chảy máu nặng cao hơn (9,6% so với 6,3%). Nhìn chung, lợi ích từ việc bắt đầu dùng clopidogrel ngay khi nhập viện có nhiều lợi ích hơn là nguy cơ bị biến chứng, ngay cả ở các bệnh nhân cần phẫu thụât bắc cầu nối chủ‒vành trong quá trình nằm viện. Một số trường hợp cần phải được thay thế tiểu cầu. Nguy cơ chảy máu tăng lên rõ rệt khi tăng liều ASA từ 100 mg lên 100‒200 mg hoặc ≥ 200 mg ở các bệnh nhân được điều trị bằng ASA đơn thuần (1,9%; 2,8%; 3,7% bị chảy máu nặng) và ASA phối hợp với clopidogrel (3,0%; 3,4%; 4,9%). Như vậy, liều ASA 75‒100/ngày cho các bệnh nhân đau ngực không ổn định hay Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên là tối ưu.
Theo hướng dẫn của ACC/AHA điều trị các bệnh nhân đau ngực không ổn định hay Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên, ở nhiều bệnh viện các bệnh nhân đau ngực không ổn định hay Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên được chụp Động mạch vành chẩn đoán trong vòng 24‒36 giờ sau khi nhập viện, clopidogrel không được dùng cho đến khi xác định rõ ràng bệnh nhân không cần phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành trong vài ngày tới.
Xu hướng hiện nay cho chiến lược can thiệp sớm, sự kết hợp đặt stent và thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa, đã làm giảm nguy cơ phải bắc cầu nối chủ‒vành cấp cứu cho phần lớn các bệnh nhân có nguy cơ cao. Dựa trên cơ sở tác dụng có lợi rất sớm của clopidogrel, nên sử dụng clopidogrel càng sớm càng tốt nếu không có chống chỉ định.
Sau giai đoạn cấp của đau ngực không ổn định hay Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên, tiếp tục sử dụng ASA phối hợp với clopidogrel trong 9‒12 tháng là có lợi (CURE, PCI‒CURE).
Trong Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên.
Mặc dù chưa có nghiên cứu về can thiệp Động mạch vành qua da, CLARITY (liều tấn công 300 mg) và COMMIT/CCS‒2 (không dùng liều tấn công) cho thấy rằng ASA + clopidogrel có hiệu quả cao hơn trong Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên so với ASA đơn độc. Can thiệp Động mạch vành thì đầu và đặt stent trong Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên, clopidogrel với liều tấn công 600 mg được ưa dùng hơn.
Một số kết quả từ các phòng thí nghiệm đã cảnh báo rằng sự phối hợp của clopidogrel với chuyển hóa statin ở gan , đặc biệt là atorvastatin, nhưng sự tương tác thuốc đó dường như không đóng vai trò gì trên lâm sàng. Một vấn đề mới nổi lên là sự kháng clopidogrel cần phải nghiên cứu thêm.
Tóm lại, việc phối hợp thuốc chống ngưng tập tiểu cầu ASA và clopidogrel là điều trị chuẩn trước khi can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân đau thắt ngực ổn định có hoặc không được đặt stent. Sau khi đặt stent thường, clopidogrel phải tiếp tục sử dụng 3‒4 tuần và ASA dùng suốt đời. Với các bệnh nhân đau ngực không ổn định hay Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên, ASA và nếu không có chống chỉ định, sử dụng ngay clopidogrel là một chế độ điều trị chống ngưng tập tiểu cầu chuẩn và cơ bản. Sau giai đoạn cấp, việc tiếp tục sử dụng 100 mg/ngày ASA+clopidogrel 75 mg/ngày trong 9‒12 tháng là có lợi. ASA nên được dùng đường tĩnh mạch cho tất cả các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên càng sớm càng tốt sau khi chẩn đoán xác định nếu không có chống chỉ định. Với khái niệm can thiệp Động mạch vành thì đầu hay đặt stent thì đầu trong Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên, clopidogrel sẽ được sử dụng thêm cho các bệnh nhân này. Sau đặt stent giải phóng thuốc tại chỗ clopidogrel phải được sử dụng 6‒12 tháng để tránh huyết khối muộn trong stent.
6.2. Các thuốc chống đông
Chỉ định nhóm I
Các bệnh nhân được can thiệp Động mạch vành qua da sau khi dùng thuốc chống đông, cần sử dụng các liều thuốc như sau:
a. Các bệnh nhân đã được điều trị trước đó bằng heparin không phân đoạn, cần cho thêm các liều thuốc tiêm tĩnh mạch tuỳ theo bệnh nhân có được sử dụng thuốc ức chế GP IIb/IIIa hay không, Bivalirudin có thể được sử dụng ở các bệnh nhân đã sử dụng heparin không phân đoạn.
b. Các bệnh nhân đã sử dụng enoxaparin, nếu liều tiêm dưới da cuối cùng từ 8‒12 giờ trước đó cần cho thêm 0,3 mg/kg enoxaparin tiêm tĩnh mạch, nếu liều tiêm dưới da cuối cùng trong vòng 8 giờ thì không cần cho thêm.
c. Các bệnh nhân đã sử dụng fondaparinux, cần cho thêm các thuốc ức chế yếu tố IIa tuỳ theo bệnh nhân có được sử dụng thuốc ức chế GP IIb/IIIa hay không.
Chỉ định nhóm III
Vì có nguy cơ bị huyết không trong ống thông, fondaparinux không được sử dụng như là thuốc chống đông trong can thiệp Động mạch vành qua da, cần phải cho thêm các thuốc ức chế yếu tố IIa.
6.2.1. Heparin không phân đoạn
Trong can thiệp Động mạch vành qua da với cơn đau thắt ngực ổn định
Khi bắt đầu can thiệp Động mạch vành qua da, heparin không phân đoạn được sử dụng để phòng ngừa huyết khối hình thành ở các dụng cụ và tại vị trí mảng xơ vữa bị nứt vỡ do thủ thuật gây ra. Heparin không phân đoạn được tiêm tĩnh mạch với liều lượng dựa theo thời gian hoạt hóa cục máu đông (ACT: activated clotting time) trong khoảng 250‒350 giây hay 200250 giây nếu có dùng thuốc ức chế thụ thể GP 2b/3a kết hợp hay điều chỉnh theo trọng lượng của bệnh nhân (thường 100 đơn vị/kg hay 50‒60 đơn vị/kg). Vì sinh khả dụng của heparin không phân đoạn rất thay đổi, do đó cần phải điều chỉnh liều heparin theo ACT, đặc biệt khi thủ thuật kéo dài. Việc đáp ứng với heparin nói chung rất khó dự đoán trước. Việc tiếp tục sử dụng heparin sau thủ thuật không được khuyến cáo.

Trong can thiệp Động mạch vành qua da với cơn đau thắt ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên
Việc sử dụng thêm heparin không phân đoạn như là một chế độ điều trị chuẩn được khuyến cáo dựa trên kết quả phân tích tổng hợp từ 6 nghiên cứu ngẫu nhiên nhỏ cho thấy tỷ lệ tử vong và Nhồi máu cơ tim là 7,9% ở bệnh nhân đau thắt ngực không ổn định được điều trị bằng ASA và heparin so với 10,3% ở những bệnh nhân chỉ được điều trị bằng ASA đơn thuần. Ngừng điều trị heparin ở những bệnh nhân đau thắt ngực không ổn định có thể có nguy cơ gây tăng đông máu (rebound).
Trong Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên
Heparin không phân đoạn là điều trị chuẩn cho các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên, đặc biệt các bệnh nhân được can thiệp Động mạch vành.
6.2.2. Heparin trọng lượng phân tử thấp
Cả heparin không phân đoạn và heparin trọng lượng phân tử thấp đều gắn với antithrombin‒III (AT‒III) và do vậy làm tăng sự ức chế AT‒III của thrombin. Tuy nhiên heparin không phân đoạn có một số nhược điểm: gắn kết mạnh với protein trong huyết thanh, và hiệu quả chống đông của heparin không phân đoạn rất thay đổi, do vậy dẫn đến không thể dự đoán được nồng độ heparin tự do. Mặc dù heparin không phân đoạn ức chế yếu tố Xa và thrombin với cùng mức độ, heparin trọng lượng phân tử thấp ức chế yếu tố Xa mạnh hơn. Vì nồng độ trong huyết thanh ổn định hơn, heparin trọng lượng phân tử thấp được cho là có tác dụng chống đông có thể dự đoán trước được không cần phải theo dõi các xét nghiệm.
Trong cơn đau thắt ngực ổn định.
Các nghiên cứu về heparin trọng lượng phân tử thấp trong can thiệp Động mạch vành qua da ở các bệnh nhân có cơn đau thắt ngực ổn định rất hạn chế. Về mặt an toàn, heparin không phân đoạn nên được sử dụng cho các bệnh nhân đang được điều trị trước bằng heparin trọng lượng phân tử thấp, tùy theo liều heparin trọng lượng phân tử thấp cuối cùng.
Trong cơn đau thắt ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên
Kết quả ban đầu so sánh heparin trọng lượng phân tử thấp và heparin không phân đoạn được tìm hiểu qua 4 nghiên cứu ngẫu nhiên với 12.048 bệnh nhân có cơn đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên. Điều quan trọng cần nhấn mạnh là các nghiên cứu này không áp dụng vào can thiệp Động mạch vành, các bệnh nhân được can thiệp Động mạch vành bị loại trừ khỏi nghiên cứu (dalteparin, FRIC), không khuyến cáo trong vòng 24 giờ (enoxaparin, TIMI‒11B), hay tùy thuộc vào các bác sĩ (enoxaparin, ESSENCE và nadroparin, FRAXIS).
Dalteparin tốt hơn heparin không phân đoạn với các bệnh nhân đau ngực không ổn định (FRICS‒II). Ưu điểm này, tuy nhiên, chỉ thấy ở nhóm không can thiệp; với các bệnh nhân được can thiệp sớm, delteparin không tốt hơn. Nghiên cứu ESSENCE và TIMI‒11B cho thấy enoxaparin tốt hơn heparin không phân đoạn ở các bệnh nhân đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên có nguy cơ cao được điều trị bảo tồn với giá thành cao hơn và biến chứng chảy máu ít hơn. Trong nghiên cứu SYNERGY, 9.978 bệnh nhân đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên được chia ngẫu nhiên sử dụng heparin không phân đoạn hay heparin trọng lượng phân tử thấp (có kết hợp với ASA) được can thiệp Động mạch vành qua da sớm. Tiêu chuẩn lấy vào nghiên cứu (nguy cơ cao) là triệu chứng thiếu máu kéo dài ít nhất 10 phút xuất hiện trong vòng 24 giờ trước khi lấy vào nghiên cứu và có ít nhất 2 trong các tiêu chuẩn sau: tuổi ≥ 60, troponin hay creatine kinase tăng hơn giới hạn cao của bình thường, hoặc đoạn ST thay đổi trên điện tâm đồ. Kết quả gộp tử vong và Nhồi máu cơ tim sau 30 ngày là 14,4% so với 14,0%. Biến chứng chảy máu nặng (tiêu chuẩn TIMI), tuy nhiên, tăng cao hơn một cách có ý nghĩa ở nhóm enoxaparin (7,6% so với 9,1%). Những kết quả này cũng tương tự ở nghiên cứu A to Z, với các bệnh nhân đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên được can thiệp sớm và sử dụng ASA với tirofiban không thấy có lợi ích lâm sàng giữa nhóm enoxaparin so với heparin không phân đoạn, nhưng biến chứng chảy máu cao hơn rõ rệt ở nhóm can thiệp Động mạch vành qua da được dùng enoxaparin (4,4% so với 2,8%).
Nên tránh chuyển từ heparin không phân đoạn sang heparin trọng lượng phân tử thấp và ngược lại. Nếu bệnh nhân đang sử dụng heparin trọng lượng phân tử thấp trước khi can thiệp Động mạch vành qua da, việc cho thêm thuốc chống đông phụ thuộc vào thời gian dùng liều cuối cùng heparin trọng lượng phân tử thấp.
Kết hợp các kết quả của các nghiên cứu ESSENCE, TIMI‒11B, SYNERGY, và A to Z cho thấy heparin không phân đoạn nên được sử dụng cho các bệnh nhân đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên có nguy cơ cao nếu dự kiến sẽ can thiệp sớm. Hơn nữa, mặc dù enoxaparin có thể được sử dụng trước khi can thiệp Động mạch vành cho các bệnh nhân đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên, nhưng nên sử dụng heparin không phân đoạn vì dễ trung hòa bằng protamine. Không có bằng chứng cho thấy enoxaparin có thể được dùng một cách an toàn trong can thiệp, nhưng điều này đang được nghiên cứu.
Nếu cần can thiệp, vì một lý do nào đó, không áp dụng cho các bệnh nhân có nguy cơ cao, enoxaparin có thể được dùng để làm giảm các biến chứng thiếu máu.
Trong Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên
Một vài nghiên cứu trên chụp mạch đánh giá hiệu quả của heparin trọng lượng phân tử thấp trong Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên. Nghiên cứu HART II cho thấy có xu hướng cải thiện kết quả với việc dùng ngay enoxaparin kết hợp với t‒PA so với dùng heparin không phân đoạn để đạt được sự mở thông nhánh Động mạch vành gây nhồi máu (TIMI‒2,3) 90 phút sau khi bắt đầu điều trị. Các bệnh nhân trong nhóm enoxaparin có tỷ lệ tắc lại Động mạch vành sau 57 ngày thấp hơn đáng kể và không làm tăng biến chứng chảy máu nặng. Với các bệnh nhân dùng liều tenecteplase (TNK) đầy đủ và một nửa liều TNK + abciximab, enoxaparin có tỷ lệ TIMI‒3 tương tự như heparin không phân đoạn (nghiên cứu ENTIRE‒TIMI‒23). PENTALYSE nghiên cứu hiệu quả và độ an toàn của fondaparinux ở các bệnh nhân
NMCT cấp có đoạn ST chênh lên. Các bệnh nhân được chụp Động mạch vành tỷ lệ đạt dòng chảy TIMI‒3 tại 90 phút tương tự nhau. Hiện chưa có bằng chứng ủng hộ heparin trọng lượng phân tử thấp tốt hơn heparin không phân đoạn trong can thiệp Động mạch vành qua da ở bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên.
Tóm lại, heparin không phân đoạn được tiêm tĩnh mạch dưới sự hướng dẫn của ACT. Vì những ưu điểm về dược động học, heparin trọng lượng phân tử thấp có thể dự đoán trước khả năng chống đông, không cần theo dõi các xét nghiệm đông máu. Tuy nhiên, các số liệu về thuốc heparin trọng lượng phân tử thấp sử dụng trong can thiệp Động mạch vành qua da ở bệnh nhân đau ngực ổn định còn hạn chế. Heparin trọng lượng phân tử thấp được ưa chuộng sử dụng ở các bệnh nhân đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên có nguy cơ cao được can thiệp Động mạch vành qua da và các bệnh nhân có nguy cơ thấp được điều trị nội khoa bảo tồn. Nếu các bệnh nhân có nguy cơ cao mà chiến lược điều trị can thiệp không phù hợp vì một lý do nào đó, enoxaparin có thể được lựa chọn, tuy nhiên làm tăng nguy cơ chảy máu nhẹ. Với các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên được can thiệp Động mạch vành thì đầu, heparin không phân đoạn vẫn là một điều trị chuẩn mực.
6.2.3. Thuốc ức chế trực tiếp thrombin
Trong cơn đau thắt ngực ổn định
Ngược lại với các chất tương đồng của hirudin (desirudin và lepirudin), sự ức chế thrombin bởi polypeptide bivalirudin có thể phục hồi được vì hiệu quả của nó chỉ kéo dài 25 phút. Tuy nhiên, các nghiên cứu với hirudin đã liên tiếp cho thấy làm tăng nguy cơ chảy máu, nhưng kết quả với bivalirudin trong can thiệp Động mạch vành qua da thì rất đáng khích lệ. CACHET là nghiên cứu ngẫu nhiên đầu tiên thấy rằng với các bệnh nhân đau ngực ổn định chiến lược dùng abciximab tạm thời với bivalirudin như là một thuốc chống thrombin có thể ít nhất tương tự như việc dùng abciximab và heparin cho tất cả các bệnh nhân được can thiệp Động mạch vành qua da. Ngày nay, bivalirudin được gợi ý thay thế cho heparin không phân đoạn vì có biến chứng chảy máu ít hơn một cách đáng kể so với heparin không phân đoạn đơn thuần (nghiên cứu BAT). Hơn nữa, nhóm nghiên cứu với bivalirudin trong nghiên cứu REPLACE‒2 không trực tiếp nhưng so sánh tiến cứu đổ tội cho kiểm soát heparin: liên quan với heparin đơn thuần, tỷ xuất chênh là 0,62, đủ tiêu chuẩn có ý nghĩa thống kê cho thấy bivalirudin tốt hơn heparin đơn thuần. Các bệnh nhân được sử dụng bivalirudin phải kiểm tra ACT ít hơn rõ rệt.
Tại thời điểm này, bivalirudin được thống nhất khuyến cáo sử dụng thay thế cho heparin không phân đoạn (hay heparin trọng lượng phân tử thấp) ở các bệnh nhân bị giảm tiểu cầu do heparin. Trong nghiên cứu ATBAT có 52 bệnh nhân bị giảm tiểu cầu do heparin được can thiệp Động mạch vành qua da với bivalirudin, không có bệnh nhân nào bị giảm tiểu cầu trầm trọng (tiểu cầu < 150.000/100 ml). Bivalirudin chứng tỏ an toàn và có hiệu quả chống đông trong khi can thiệp Động mạch vành qua da trong nhóm các bệnh nhân đặc biệt này.
Trong đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên
Hai nghiên cứu ngẫu nhiên so sánh thuốc ức chế trực tiếp thrombin với heparin không phân đoạn cho các bệnh nhân được can thiệp Động mạch vành qua da. Trong nghiên cứu HELVETICA, tiêu chí đánh giá chính (làm giảm tỷ lệ sống còn không bị biến chứng sau 7 tháng) không đạt được bởi hirudin so với heparin không phân đoạn. Nghiên cứu BAT, tiêu chí chính (tử vong trong bệnh viện, Nhồi máu cơ tim, tắc mạch cấp, hay tình trạng lâm sàng suy sụp có nguyên nhân tim) đã không đạt được. Bivalirudin làm giảm biến chứng chảy máu một cách có ý nghĩa từ 9,8% xuống 3,8%. Kết quả cuối cùng kết hợp các biến chứng như tử vong, Nhồi máu cơ tim, tái can thiệp Động mạch vành sau 7 và 90 ngày. Kết quả ủng hộ giả thuyết bivalirudin làm giảm các biến chứng thiếu máu và chảy máu sau can thiệp Động mạch vành qua da so với heparin không phân đoạn liều cao.
REPLACE‒1 so sánh hiệu quả của bivalirudin và heparin, các bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên tái tạo mạch có chuẩn bị hay cấp cứu. Kết quả các biến chứng bao gồm tử vong, Nhồi máu cơ tim, hay tái can thiệp Động mạch vành trước khi ra viện hoặc trong vòng 48 giờ xuất hiện 6,9% và 5,6% các bệnh nhân trong nhóm heparin và bivalirudin (không có ý nghĩa thống kê). REPLACE‒2 xác định hiệu quả và độ an toàn của đơn trị liệu bivalirudin so với heparin + thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa trong phòng ngừa thiếu máu cơ tim xung quanh thủ thuật và các biến chứng chảy máu ở các bệnh nhân được can thiệp Động mạch vành qua da. Sau 30 ngày, tiêu chí đánh giá chính bao gồm tử vong, Nhồi máu cơ tim, tái can thiệp Động mạch vành cấp cứu hay chảy máu nặng trong bệnh viện xuất hiện 9,2% trong nhóm bivalirudin so với 10,0% ở nhóm heparin + thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa (không có ý nghĩa thống kê). Mặc dù ban đầu có xu hướng hay gặp Nhồi máu cơ tim (xác định bằng men tim) ở nhóm bivalirudin hơn, sau 1 năm tỷ lệ tử vong có xu hướng thấp hơn ở nhóm bivalirudin (1,89%) so với heparin + thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa (2,46%, P = 0,16). Do vậy, kết quả lâu dài với bivalirudin và thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa tạm thời có thể so sánh với heparin + thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa trong can thiệp Động mạch vành qua da hiện thời. Để khuyến cáo cuối cùng về bivalirudin trong Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên, nghiên cứu ACUITY sẽ cung cấp nhiều thông tin hơn.
Trong Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên
Hiện nay, thậm chí khi phân tích phân nhóm can thiệp Động mạch vành qua da, chưa có bằng chứng để khuyến cáo sử dụng thuốc ức chế trực tiếp thrombin trong can thiệp Động mạch vành qua da cho bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên.
Tóm lại, can thiệp Động mạch vành qua da cho bệnh nhân đau ngực ổn định có nguy cơ thấp, khả năng thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa làm tăng nguy cơ biến chứng chảy máu, và lưu ý giá thành của thuốc, thuốc không phải là một thuốc điều trị chuẩn xung quanh thủ thuật. Việc sử dụng thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa cho bệnh nhân đau ngực ổn định nên được xem xét dựa trên các tiêu chuẩn lựa chọn: nguy cơ cao bị biến chứng huyết khối cấp ở các bệnh nhân đau ngực ổn định (can thiệp tổn thương phức tạp, các tổn thương không ổn định, đe doạ tắc mạch cấp, nhìn thấy huyết khối, hay có hiện tượng dòng chảy chậm/không có dòng chảy trong Động mạch vành), thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa rất có lợi.
Trong Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên, thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa chỉ nên được sử dụng ở các bệnh nhân có nguy cơ cao được can thiệp Động mạch vành qua da. sử dụng thuốc ngược dòng (bắt đầu điều trị khi bệnh nhân đến viện và thông tim chưa được đặt ra hay không sẵn sàng trong vòng 2,5 giờ), tirofiban và eptifibatide cho thấy có lợi. Nếu có thể chụp Động mạch vành trong vòng 2,5 giờ, thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa nên tạm dừng và abciximab hoặc eptifibatide bắt đầu sử dụng trong phòng chụp mạch. Nếu vì một lý do nào đó có sự trì hoãn từ khi chụp Động mạch vành đến khi can thiệp Động mạch vành qua da tới 24 giờ, abciximab cũng có thể được sử dụng.
Bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên, thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa tirofiban và eptifibatide ít được nghiên cứu, ngược lại abciximab và đặt stent là chiến lược tái tưới máu có nhiều bằng chứng hơn. Bivaliridin ngày nay được khuyến cáo dùng thay thế cho heparin không phân đoạn (hay heparin trọng lượng phân tử thấp) vì có ít biến chứng chảy máu hơn so với thuốc heparin đơn thuần hay phối hợp với thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa. Bivalirudin được khuyến cáo dùng thay thế cho heparin trong can thiệp Động mạch vành qua da ở bệnh nhân bị giảm tiểu cầu do heparin.
6.3. Thuốc ức chế thụ thể glycoprotein IIb/IIIa
Thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa là thuốc ức chế ngưng tập tiểu cầu rất hiệu quả do ức chế thụ thể fibrinogen.
Chỉ định nhóm I
Nên sử dụng thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa ở các bệnh nhân đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên được can thiệp Động mạch vành qua da mà không được dùng clopidogrel.
Chỉ định nhóm IIa
1. Các bệnh nhân đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên được can thiệp Động mạch vành qua da đã dùng clopidogrel, có thể dùng thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa.
2. Các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên được can thiệp Động mạch vành qua da nên sử dụng thuốc abciximab càng sớm càng tốt
3. Các bệnh nhân được can thiệp Động mạch vành và đặt stent có chuẩn bị có thể được dùng thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa.
Chỉ định nhóm IIb
Các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên được can thiệp Động mạch vành qua da cần cân nhắc khi sử dụng eptifibatide hay tirofiban.
6.3.1. Trong cơn đau thắt ngực ổn định
Nghiên cứu ISAR‒REACT nghiên cứu ngẫu nhiên abciximab so với giả dược ở các bệnh nhân bị bệnh Động mạch vành có nguy cơ thấp, loại trừ bệnh nhân bị hội chứng Động mạch vành cấp, đái tháo đường phụ thuộc insulin, hay có huyết khối tại vị trí Động mạch vành bị tổn thương. Abciximab không làm cải thiện kết quả của các bệnh nhân có nguy cơ thấp được đặt stent có chuẩn bị.
Mặc dù phân tích hồi cứu phân nhóm nghiên cứu đái tháo đường EPISTENT với các bệnh nhân đau ngực ổn định và không ổn định cho thấy lợi ích về tiên lượng của abciximab ở nhóm bệnh nhân được đặt stent. Can thiệp Động mạch vành qua da cho các bệnh nhân đau ngực ổn định có nguy cơ thấp, thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa làm tăng nguy cơ bị biến chứng chảy máu và tăng giá thành. Cho dù một phân tích tổng hợp luỹ tích lớn với 20.186 bệnh nhân thấy việc sử dụng thường qui thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa trong can thiệp Động mạch vành qua da, và cho dù một phân tích tổng hơp gần đây với 8.004 bệnh nhân cho thấy tỷ lệ tử vong giảm đi với thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa cho các bệnh nhân không phải hội chứng Động mạch vành cấp được đặt stent, thì việc dùng thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa nên được cân nhắc trong từng trường hợp. Trong trường hợp có nguy cơ bị biến chứng khi can thiệp bệnh nhân đau ngực ổn định, thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa có lợi với các tổn thương không ổn định, trong trường hợp đe doạ tắc mạch cấp, có huyết khối, hiện tượng dòng chảy chậm hay không có dòng chảy. Thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa cũng có lợi khi can thiệp các tổn thương phức tạp.
6.3.2. Trong cơn đau thắt ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên
Các nghiên cứu riêng lẻ đánh giá việc sử dụng thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa ở các bệnh nhân đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên đã được tranh luận. Nhìn chung, sử dụng bất kỳ một trong 3 thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa được khuyến cáo cho các bệnh nhân hội chứng Động mạch vành cấp được tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da có nguy cơ cao bị biến chứng huyết khối. Abciximab dùng ngay trước khi can thiệp cho kết quả tốt hơn giả dược trong làm giảm các biến chứng thiếu máu (CAPTURE, EPIC, EPILOG, EPISTENT). Các kết quả tương tự cũng ghi nhận được qua nghiên cứu hồi cứu phân tích các phân nhóm được tiến hành với eptifibatide (ESPRIT, IMPACT‒II), trong khi các bằng chứng với tirofiban thì ít được khẳng định hơn (RESTORE). Eptifibatide cho hiệu quả chống ngưng tập tiểu cầu tốt hơn ASA và clopidogrel ở các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên (nghiên cứu PEACE). Tuy nhiên, sử dụng thuốc eptifibatide một cách thường qui tại khoa cấp cứu nhưng ít được can thiệp Động mạch vành qua da không có giá trị trong làm giảm kích thước ổ nhồi máu ở bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên (nghiên cứu EARLY).
Trong nghiên cứu TARGET, so sánh trực tiếp abciximab với tirofiban ở các bệnh nhân được can thiệp Động mạch vành qua da cho thấy tirofiban kém hiệu quả hơn ở các bệnh nhân có nguy cơ cao. Kết quả ban đầu bao gồm tử vong, Nhồi máu cơ tim không tử vong, hay tái tạo động mạch đích cấp cứu trong 30 ngày gặp nhiều hơn ở nhóm bệnh nhân tirofiban so với abciximab (7,6% so với 6,0%). Tuy nhiên sau 6 tháng, sự khác biệt giữa 2 nhóm không còn có ý nghĩa thống kê. Kết quả này có thể là do liều tirofiban tiêm tĩnh mạch thấp, cái có thể giải quyết bằng cách tăng liều lên gấp 2‒2,5 lần.
Với can thiệp Động mạch vành qua da hiện thời, nghiên cứu đánh giá lợi ích của việc bắt đầu dùng thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa ngược dòng (trước khi chụp Động mạch vành) hay tại phòng chụp mạch (trước khi tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da), các thiết kế nghiên cứu chỉ nhận các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên có nguy cơ cao được can thiệp Động mạch vành qua da và đặt stent. Vì các nghiên cứu này chưa hoàn thành, các khuyến cáo sau đã được đưa ra tư các nghiên cứu không đương thời: với việc dùng thuốc ngược dòng (bắt đầu điều trị khi bệnh nhân đến bệnh viện, trước khi tiến hành chụp Động mạch vành), tirofiban và eptifibatide cho thấy có lợi ích rõ ràng. Abciximab có hiệu quả ở các bệnh nhân không được đặt stent khi được sử dụng trong vòng 24 giờ giữa chụp Động mạch vành chẩn đoán và can thiệp Động mạch vành qua da. Khi can thiệp Động mạch vành qua da không được tiến hành ở các bệnh nhân đau ngực không ổn định hay Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên, abciximab không có lợi. Thực tế, abciximab không cần thiết cho các bệnh nhân được điều trị bảo tồn. Nếu chụp Động mạch vành không được tiến hành trong vòng 2,5 giờ ở các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên có nguy cơ cao, tirofiban hay eptifibatide nên được sử dụng. Nếu có thể chụp Động mạch vành trong vòng 2,5 giờ, thuốc ức chế GP IIb/IIIa nên trì hoãn và có thể dùng abciximab hay eptifibatide có thể bắt đầu được dùng trong phòng chụp mạch. Nhìn chúng, abciximab được dùng 12 giờ và eptifibatide được dùng 16 giờ sau can thiệp.
6.3.3. Trong Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên
So với Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên, tirofiban và eptifibatide ít được nghiên cứu hơn ở các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên. Abciximab được đánh giá trong 5 nghiên cứu ngẫu nhiên có kiểm soát (RAPPORT, ISAR‒2, CADILLAC, ADMIRAL và ACE) có kèm theo can thiệp Động mạch vành thì đầu. Phân tích tổng hợp gần đây cũng bao gồm các nghiên cứu nhỏ với can thiệp Động mạch vành cứu vãn đã kết luận rằng việc kết hợp điều trị với abciximab khi can thiệp Động mạch vành qua da làm giảm tỷ lệ tử vong, tái can thiệp động mạch gây nhồi máu, và các biến chứng tim mạch chính 6 tháng sau Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên. Lợi ích lâu dài của abciximab trong khi đặt stent Động mạch vành cho bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên cần phải nghiên cứu thêm.

7. CÁC PHƯƠNG PHÁP CAN THIỆP PHỐI HỢP

7.1. Chiếu tia xạ trong lòng Động mạch vành để chống tái hẹp trong stent
Chỉ định nhóm IIa
Chiếu tia xạ để điều trị tái hẹp trong stent Động mạch vành của bệnh nhân và mảnh ghép tĩnh mạch hiển.
Tái hẹp trong stent là do quá sản lớp áo trong và thường ở bờ của stent. Mặc dù nong Động mạch vành bằng bóng an toàn để điều trị tái hẹp trong stent nhưng tỷ lệ tái hẹp lại rất cao tới 80%. Nguy cơ tái hẹp trong stent đã được xác định, chủ yếu là tổn thương dài (> 30 mm), sử dụng stent dài, Động mạch vành có đường kính lòng mạch nhỏ (< 2,5 mm), đường kính lòng mạch sau can thiệp nhỏ, can thiệp nhánh Động mạch vành bị tắc hoàn toàn mạn tính, tổn thương tại chỗ xuất phát hay tại chỗ phân nhánh, bệnh nhân bị đái tháo đường.
Trong một số nghiên cứu ngẫu nhiên cho thấy chiếu tia xạ trong lòng Động mạch vành làm cải thiện kết quả lâm sàng và trên chụp mạch ở các Động mạch vành của bệnh nhân (GAMMA‒1, WRIST) và mảnh ghép tĩnh mạch hiển (SVG‒WRIST). Kết quả phản ảnh tình trạng thực tế. Tái hẹp tại bờ của stent là một nhược điểm lớn ở thời kỳ đầu của kỷ nguyên chiếu tia xạ. Nguy cơ bị hiện tượng bờ có thể được giảm thiểu bằng cách dùng nguồn tia xạ dài giúp chiếu tia xạ có hiệu quả trong toàn bộ đoạn Động mạch vành cần can thiệp. Kết quả lâm sàng lâu dài làm giảm đáng kể các biến chứng tim mạch chính với tia bêta trong nghiên cứu START tương tự như tia gamma trong nghiên cứu GAMMA‒1.
Với tia gamma, kết quả theo dõi lâu dài rất tốt qua theo dõi 3 năm và 5 năm đã được báo cáo. Phòng ngừa tắc Động mạch vành muộn, dùng clopidogrel kéo dài trong 1 năm được chấp nhận rộng rãi.
7.2. Dùng bóng có gắn các lưỡi dao cắt mảng xơ vữa (Cutting balloon)
Chỉ định nhóm IIa
Sử dụng bóng có gắn các lưỡi dao khi can thiệp các tổn thương tái hẹp trong stent để tránh bóng bị trượt đi gây tổn thương thành mạch.
Bóng có cấu tạo đặc biệt gắn 3‒4 lưỡi dao bằng kim loại, giúp cắt mảng xơ vữa dọc theo chiều dài của bóng khi bơm bóng giúp tái phân bố lại mảng xơ vữa với áp lực bơm bóng thấp hơn so với bóng nong thông thường.
Nghiên cứu ngẫu nhiên với bóng có gắn các lưỡi dao để thử nghiệm khái niệm “nong có kiểm soát” với 1.238 bệnh nhân có tổn thương Động mạch vành mới. Tuy nhiên, kết quả sau 6 tháng tỷ lệ tái hẹp là 31,4% ở nhóm dùng bóng có gắn lưỡi dao và 30,4% ở nhóm dùng bóng thông thường. Như vậy, cơ chế nong có kiểm soát không làm giảm tỷ lệ tái hẹp. Theo một số nghiên cứu ngẫu nhiên nhỏ cho thấy bóng có gắn lưỡi dao có hiệu quả trong điều trị tái hẹp trong stent. Tuy nhiên, số liệu từ nghiên cứu ngẫu nhiên RESCUT đã không chứng minh được hiệu quả của bóng có gắn lưỡi dao trong điều trị tái hẹp trong stent. Bóng có gắn lưỡi dao vẫn hữu dụng trong điều trị tái hẹp trong stent vì tránh được tình trạng bóng bị trượt đi gây tổn thương cho thành mạch.
7.3. Khoan cắt mảng xơ vữa trong Động mạch vành
Chỉ định nhóm I
Sử dụng khoan cắt mảng xơ vữa trong các tổn thương xơ hóa hay canxi hóa nặng có thể đưa dây dẫn qua được nhưng không thể đưa bóng qua hay không nong bằng bóng được trước khi đặt stent.
Một đầu khoan có gắn các hạt kim cương rất nhỏ quay với tốc độ rất cao (140.000180.000 vòng/phút) cắt mảng xơ vữa thành những mảnh nhỏ như hạt bụi và trôi theo dòng máu. Vì hay gặp biến chứng co thắt Động mạch vành và hiện tượng không hay có dòng chảy chậm, các thủ thuật viên cần biết cách sử trí các biến chứng này. Nghiên cứu COBRA thiết kế để cải thiện hiệu quả của khoan cắt mảng xơ vữa ở các tổn thương mới phức tạp so sánh với nong Động mạch vành bằng bóng. Tuy nhiên kết quả không cho thấy có bất kỳ một lợi ích nào qua theo dõi lâu dài. Nghiên cứu STRATAS không thấy có lợi ích gì khi khoan cắt tích cực hơn và nghiên cứu CARAT cho thấy khoan cắt tích cực hơn với đầu khoan lớn hơn làm tăng các biến chứng và có kết quả lâm sàng kém hơn so với đầu khoan nhỏ. Khoan cắt mảng xơ vữa cũng được gợi ý sử dụng điều trị tái hẹp trong stent, vì cắt mảng tổ chức có thể hiệu quả hơn là ép và đẩy mảng tổ chức ra bên ngoài stent bằng bóng nong đơn thuần. Nghiên cứu ARIST cho kết quả kém hơn một cách đáng kể với khoan cắt mảng xơ vữa khi so sánh với nong bằng bóng. Bên cạnh đó trong nghiên cứu ROSTER cho thấy các biến chứng tim mạch chính tốt hơn một cách có ý nghĩa ở nhóm khoan cắt mảng xơ vữa sau 1 năm theo dõi. Trong nghiên cứu ROSTER, siêu âm trong lòng mạch được sử dụng để loại trừ bệnh nhân bị tái hẹp trong stent do stent chưa được nở hết. Nhìn chung, với các bằng chứng hiện có không ủng hộ việc sử dụng khoan cắt mảng xơ vữa trong điều trị tái hẹp trong stent.

Với việc stent giải phóng thuốc được sử dụng ngày càng nhiều và yêu cầu cần để thuốc được giải phóng ra đồng đều dựa trên sự áp sát tối ưu của stent vào thành mạch ở các tổn thương bị canxi hóa nặng, khoan cắt mảng xơ vữa có thể lại được sử dụng nhiều hơn. Với ứng dụng lâm sàng trong thực hành, các tổn thương đã đưa dây dẫn qua được nhưng không đưa bóng hoặc không nong được bằng bóng, có thể sử dụng khoan cắt mảng xơ vữa.
7.4. Cắt mảng xơ vữa có định hướng (DCA)
Chỉ định nhóm III
Sử dụng DCA trong điều trị các tổn thương mới tại chỗ xuất phát hay tại chỗ phân nhánh do các bác sĩ có nhiều kinh nghiệm thực hiện.
Khái niệm lấy đi mảng xơ vữa gây bít tắc lòng Động mạch vành bằng dụng cụ cắt mảng xơ vữa có định hướng (DCA) để lòng mạch rộng hơn (hơn là ép mảng xơ vữa bằng bóng hay stent) rất hấp dẫn. Tuy nhiên nghiên cứu CAVEAT‒I cho thấy tỷ lệ biến chứng sớm cao hơn với giá thành đắt hơn mà không hề có lợi ích gì trên lâm sàng. Nghiên cứu CAVEAT‒II so sánh DCA với nong Động mạch vành bằng bóng ở mảnh ghép tĩnh mạch, không có sự khác biệt về tỷ lệ tái hẹp sau 6 tháng. Để nghiên cứu, DCA là phương pháp duy nhất có thể lấy các mảng xơ vữa qua da một cách an toàn từ các mảng xơ vữa gây chít hẹp lòng Động mạch vành hay tổn thương tái hẹp để nghiên cứu mô bệnh học.
7.5. Các dụng cụ bảo vệ chống thuyên tắc mạch
Chỉ định nhóm I
Sử dụng dụng cụ bảo vệ đoạn xa trong can thiệp mảnh ghép tĩnh mạch hiển.
Chỉ định nhóm III
Sử dụng dụng cụ phòng ngừa tắc mạch đoạn xa và đoạn gần khi can thiệp các tổn thương có nhiều huyết khối.
Hầu hết các bệnh nhân được can thiệp Động mạch vành qua da có nguy cơ bị tắc Động mạch vành đoạn xa, đặc biệt khi can thiệp mảnh ghép tĩnh mạch hiển. Can thiệp các tổn thương mới ở mảnh ghép tĩnh mạch hiển là thủ thuật can thiệp có nguy cơ cao. Phân tích từ 5 nghiên cứu cho thấy thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa không làm cải thiện kết quả can thiệp mảnh ghép tĩnh mạch hiển. Việc sử dụng stent được bọc một lớp màng PTFE không làm giảm biến chứng do tắc mạch đoạn xa (nghiên cứu STING, RECOVERS và SYMBIOT‒III).
Hiện tượng không có dòng chảy trong Động mạch vành đặc trưng bởi không đủ dòng chảy tới tổ chức cơ tim cho dù đã mở hoàn toàn nhánh Động mạch vành ở thượng tâm mạc. Hiện tượng không có dòng chảy có thể do sự phá vỡ các vi mạch, rối loạn chức năng nội mạc, phù cơ tim, thuyên tắc mạch do huyết khối hay các mảnh xơ vữa. Điều này có thể gây ra rối loạn huyết động trầm trọng. Do vậy, có nhiều phương pháp khác nhau được đánh giá để phòng ngừa sự tắc mạch đoạn xa. Một số màng lọc hay dụng cụ hút các mảnh gây nghẽn mạch đang được nghiên cứu.
7.5.1. Dụng cụ (gây tắc, lọc) bảo vệ đoạn xa
Hệ thống bảo vệ sử dụng bóng đặt ở phía xa của tổn thương làm tắc Động mạch vành tạm thời và dụng cụ hút các cục nghẽn (GuardWire) đã làm cải thiện đáng kể mức độ tưới máu cơ tim khi can thiệp mảnh ghép tĩnh mạch hiển. Nghiên cứu SAFER tỷ lệ các biến chứng bao gồm tử vong, Nhồi máu cơ tim, phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành cấp cứu hay tái can thiệp tổn thương đích trong 30 ngày giảm một cách đáng kể từ 16,5% xuống 9,6%. Giảm 42% nguy cơ tương đối bị các biến chứng tim mạch chính bao gồm giảm tỷ lệ Nhồi máu cơ tim (14,7 so với 8,6%) và hiện tượng không có dòng chảy trong Động mạch vành (9% so với 3%). Ngược lại với các dụng cụ làm tắc Động mạch vành, các dụng cụ lọc bảo vệ đoạn xa vẫn duy trì dòng chảy trong Động mạch vành khi can thiệp. Nghiên cứu ngẫu nhiên FIRE so sánh 2 khái niệm về dụng cụ bảo vệ ở các tổn thương mảnh ghép tĩnh mạch hiển. Tỷ lệ biến chứng gộp bao gồm tử vong, Nhồi máu cơ tim, hay tái can thiệp mạch đích sau 30 ngày là 9,9% với FilterWire EX và 11,6% với GuardWire. Trong nghiên cứu CAPTIVE, CardioShield không tốt hơn GuardWire trong làm giảm sự tắc nghẽn mạch khi can thiệp mảnh ghép tĩnh mạch hiển. Bóng bảo vệ TriActiv với hệ thống bơm hút trong nghiên cứu PRIDE đã chứng tỏ ưu điểm hơn GuardWire và FilterWire. Tuy nhiên, khá nhiều bệnh nhân tổn thương mảnh ghép tĩnh mạch hiển cần can thiệp có đặc điểm giải phẫu không phù hợp với các dụng cụ bảo vệ có sẵn hiện nay, do vậy vẫn cần những cải tiến mới.
Kết quả tốt với can thiệp mảnh ghép tĩnh mạch hiển, tuy vậy không được chứng minh khi can thiệp Động mạch vành thì đầu nhánh Động mạch vành của bệnh nhân trong điều trị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên. Trong nghiên cứu EMERALD, diện tích vùng nhồi máu giảm 17% ở nhóm sử dụng dụng cụ bảo vệ đoạn xa và 16% ở nhóm chứng.
7.5.2. Dụng cụ bảo vệ đoạn gần (hút, cắt huyết khối)
Một hạn chế của việc sử dụng bóng làm tắc hay dụng cụ lọc là cần phải đưa qua tổn thương mà không cào xước chúng và cần phải có một vị trí đặt dụng cụ bóng hay dụng cụ lọc phù hợp. Dụng cụ thay thế bao gồm hút và /hoặc bóng làm tắc đoạn gần có thể có lợi ích hơn trong tình huống này. Kỹ thuật đơn giản nhất là sử dụng ngay ống thông can thiệp như là dụng cụ hút. Dụng cụ hút AngioJet được nghiên cứu ngẫu nhiên VeGAS‒2 so sánh với truyền thuốc tiêu sợi huyết Urokinase ở các bệnh nhân có huyết khối trong mảnh ghép tĩnh mach hiển không thấy có sự khác biệt trong làm giảm tỷ lệ các biến chứng tim mạch chính. AngioJet thất bại trong làm giảm kích thước ổ nhồi máu ở bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên (AiMI). X‒SIZER là dụng cụ hút huyết khối khác có thể có ích cho bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp. Trong nghiên cứu ngẫu nhiên X‒TRACT, các bệnh nhân bị tổn thương mảnh ghép tĩnh mạch hiển hay có huyết khối trong động mạch của bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm có hay không sử dụng X‒SIZER trước khi đặt stent. Biến chứng chung sau 30 ngày là 15,8% với nhóm sử dụng X‒SIZER và 16,6% ở nhóm chứng (không có ý nghĩa). Tỷ lệ sống còn không bị các biến chứng sớm và lâu dài không cải thiện với việc sử dụng dụng cụ hút huyết khối một cách thường qui. Dụng cụ lọc bảo vệ đoạn xa có thể có lợi ở các tổn thương có nguy cơ tắc mạch do cục nghẽn cao hơn.
7.6. Sử dụng stent được bọc PTFE (covered stent)
Chỉ định nhóm I
Sử dụng stent được bọc PTFE trong xử trí cấp cứu biến chứng thủng, vỡ Động mạch vành.
Tóm lại, chiếu xạ trong Động mạch vành là một phương pháp điều trị không phẫu thuật duy nhất đã được chứng minh có hiệu quả trong điều trị tái hẹp trong stent. Tránh biến chứng huyết khối muộn, cần sử dụng kéo dài clopidogrel 1 năm sau điều trị chiếu xạ.
Khoan cắt mảng xơ vữa trong lòng Động mạch vành được khuyến cáo cho các tổn thương xơ hóa hay bị canxi hóa nặng có thể đưa dây dẫn qua được nhưng không thể đưa bóng hay không thể nong bằng bóng đầy đủ trước khi đặt stent. Cần phải biết sử trí các biến chứng.
Can thiệp mảnh ghép tĩnh mạch hiển hay can thiệp Động mạch vành thì đầu ở những Động mạch vành có nhiều huyết khối làm tăng nguy cơ thuyên tắc Động mạch vành. Hai dụng cụ bảo vệ GuardWire và FilterWire có độ an toàn và hiệu quả khi can thiệp các tổn thương ở mảnh ghép tĩnh mạch hiển. Cần có thêm nghiên cứu để khẳng định vai trò của các dụng cụ bảo vệ trong can thiệp Động mạch vành thì đầu cho bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên. Hiện tại, chưa có khuyến cáo sử dụng các dụng cụ bảo vệ trong Nhồi máu cơ tim cấp.
7.6. Các kỹ thuật chẩn đoán phối hợp
7.6.1. Siêu âm trong lòng Động mạch vành (IVUS)
Chỉ định nhóm IIa
1. Đánh giá kết quả đặt stent bao gồm sự áp sát của stent vào thành mạch và xác định đường kính lòng mạch tối thiểu trong stent.
2. Xác định cơ chế gây tái hẹp trong stent (stent không nở hoàn toàn hay tăng sinh lớp áo trong) và lựa chọn biện pháp điều trị thích hợp (chiếu tia xạ hay nong lại bằng bóng).
3. Đánh giá sự tắc nghẽn Động mạch vành tại ví trí khó đánh giá trên chụp Động mạch vành ở các bệnh nhân có tổn thương nghi ngờ hạn chế dòng chảy.
4. Đánh giá kết quả chưa tối ưu trên chụp mạch sau can thiệp Động mạch vành qua da.
5. Đánh giá mức độ và sự phân bố canxi hóa Động mạch vành ở các bệnh nhân cần dự tính khoan cắt mảng xơ vữa trong lòng Động mạch vành.
6. Đánh giá vị trí và sự phân bố của mảng xơ vữa để hướng dẫn sử dụng cắt mảng xơ vữa có định hướng.
Chỉ định nhóm IIb
1. Xác định sự lan tỏa của vữa xơ động mạch ở các bệnh nhân có triệu chứng đau ngực điển hình và có thăm dò chức năng dương tính với tổn thương lan tỏa hay tổn thương nhẹ Động mạch vành trên chụp mạch.
2. Đánh giá trước can thiệp các đặc điểm của tổn thương và đường kính mạch máu như là một phương tiện để lựa chọn dụng cụ tái tạo mạch tối ưu.
3. Chẩn đoán bệnh Động mạch vành sau thay tim.
Chỉ định nhóm III
Làm IVUS khi chắc chắn không có kế hoạch can thiệp.
Chụp Động mạch vành cho hình ảnh hai bình diện bóng của lòng Động mạch vành, siêu âm trong lòng mạch (IVUS) cho phép đánh giá diện tích lòng mạch, kích thước mảng xơ vữa, sự phân bố và các thành phần trong mảng xơ vữa. Siêu âm trong lòng mạch đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán và can thiệp Động mạch vành. Mặc dù can thiệp Động mạch vành đã học rất nhiều từ IVUS, nhưng rất khó chuyển hiệu quả của nó sang làm giảm các biến chứng tim mạch chính trong quá trình theo dõi. Tiến hành làm IVUS một cách thường qui khi đặt stent không làm cải thiện kết quả lâm sàng qua theo dõi lâu dài.
7.6.2. Phân số dự trữ dòng chảy Động mạch vành
Chỉ định nhóm IIa
Đánh giá các tổn thương trung gian (hẹp 30‒70% đường kính lòng mạch) ở các bệnh nhân có triệu chứng đau ngực, hay sử dụng thay thế các thăm dò chức năng không xâm lấn (khi chưa tiến hành các thăm dò không xâm lấn) để xác định xem có cần thiết phải can thiệp hay không.
Chỉ định nhóm IIb
1. Đánh giá sự thành công của thủ thuật can thiệp Động mạch vành qua da trong khôi phục lại dự trữ dòng chảy Động mạch vành và dự đoán nguy cơ tái hẹp.
2. Đánh giá các bệnh nhân có triệu chứng đau ngực mà không thấy tổn thương Động mạch vành thủ phạm trên chụp mạch.
Chỉ định nhóm III
Đo phân số dự trữ dòng chảy Động mạch vành (FFR) một cách thường qui để đánh giá mức độ trầm trọng của các tổn thương trên hình ảnh chụp mạch ở các bệnh nhân có các thăm dò chức năng dương tính rõ ràng.
Mặc dù các trắc nghiệm hình ảnh gắng sức không xâm có độ nhạy 76‒88% và độ đặc hiệu 80‒88% là tiêu chuẩn vàng trước khi chỉ định chụp Động mạch vành, nhưng trong thực tế có rất nhiều bệnh nhân đến phòng chụp mạch mà chưa được làm các thăm dò chức năng đó. Các thăm dò chức năng phù hợp nên được tiến hành trước khi chụp Động mạch vành. Nếu có chống chỉ định với các trắc nghiệm hình ảnh gắng sức không xâm hay tổn thương trung gian, việc đánh giá phân số dự trữ dòng chảy Động mạch vành là rất hữu ích. Hơn nữa, các bác sĩ tim mạch can thiệp thường không điều trị các tổn thương không ảnh hưởng đến huyết động. Tuy nhiên, nghiên cứu bệnh học và IVUS cho thấy tổn thương Động mạch vành lan toả, đặc biệt động mạch xoắn vặn, biến đổi hình dạng lòng mạch rất khó đánh giá bằng hình ảnh chụp Động mạch vành. Thậm chí với các nhà tim mạch can thiệp có nhiều kinh nghiệm cũng không thể đánh giá chính xác các tổn thương trung gian bằng mắt hay bằng định lượng trên máy.
FFR < 0,75 rất đặc trưng và luôn luôn biểu hiện thiếu máu cơ tim. FFR > 0,80 loại trừ thiếu máu cơ tim trong 90% các trường hợp. Trong cửa sổ đó “dương tính giả” và “âm tính giả” là có thể chấp nhận được. FFR do vậy chứng tỏ là phương pháp lý tưởng để đánh giá các tổn thương trung gian nếu không có các trắc nghiệm hay triệu chứng của thiếu máu cơ tim từ trước. Phân tích hồi cứu cho thấy trì hoãn can thiệp các tổn thương có FFR > 0,75 là an toàn và có kết quả lâm sàng tuyệt vời. Do vậy, FFR là một dụng cụ có giá trị để xác định các tổn thương ở gianh giới, bao gồm cả các tổn thương tái hẹp trong stent từ 40‒70% trên chụp mạch.

8. STENT GIẢI PHÓNG THUỐC TẠI CHỖ

Chỉ định nhóm I
1. Stent giải phóng thuốc tại chỗ được sử dụng thay thế cho stent thường ở các bệnh nhân qua các nghiên cứu cho thấy là có lợi và an toàn.
2. Trước khi đặt stent giải phóng thuốc tại chỗ, bác sĩ cần giải thích cho bệnh nhân việc phải sử dụng 2 thuốc ức chế ngưng tập tiểu cầu kéo dài.
3. Với các bệnh nhân cần phải phẫu thuật hay can thiệp chảy máu trong vòng 12 tháng tới thì nên đặt stent thường.
Chỉ định nhóm IIa
Các bệnh nhân có nguy cơ chảy máu cao thì có thể sử dụng liều aspirin thấp hơn (75‒162 mg/ngày).
Chỉ định nhóm IIb
Đặt stent giải phóng thuốc tại chỗ cần cân nhắc tuỳ theo tình trạng lâm sàng và giải phẫu Động mạch vành khi có hiệu quả và an toàn nhưng chưa được khẳng định qua các nghiên cứu lâm sàng.
Stent giải phóng thuốc tại chỗ đã thu hút được sự chú ý kể từ báo cáo đầu tiên (nghiên cứu RAVEL) được trình bày tại Hội nghị Tim mạch Châu âu tháng 09 năm 2001. Có rất nhiều loại thuốc được gắn với rất nhiều loại stent khác nhau (có hoặc không được phủ lớp polymer) đã được thử nghiệm. Nhiều nghiên cứu đánh giá hiệu quả của các thuốc chống tăng sinh tế bào và chống viêm như sirolimus, paclitaxel và tacrolimus, everolimus, ABT‒578, biolimus cũng như QP2 và những thuốc khác như dexamethasone, 17‒βestradiol, batimastat, actinomycin‒D, methotrexat, angiopeptin, thuốc ức chế tyrosinkinase, vincristin, mitomycin, cyclosporin, và công nghệ C‒mycantisense (Resten‒NG, AVI4126). Statin, carvedilol, abciximab, và trapidil cũng được gợi ý là thuốc có thể được dùng để gắn lên stent. Việc sử dụng của rất nhiều thuốc ức chế tăng sinh tế bào, và chống viêm trong Động mạch vành qua các stent giải phóng thuốc tại chỗ đã bị từ bỏ cho dù những kết quả trên thực nghiệm hay kết quả trên lâm sàng ban đầu rất khả quan, vì các kết quả lâm sàng có hại (QP2 trong nghiên cứu SCORE, actinomycin‒D trong nghiên cứu ACTION) hay quá yếu (dexamethason trong nghiên cứu STRIDE). Kết quả của các nghiên cứu này cho thấy rằng các thuốc chống tăng sinh tế bào không cho cùng một hiệu quả như nhau trong phòng ngừa tái hẹp.
Kết quả ban đầu của các nghiên cứu ngẫu nhiên về stent giải phóng thuốc tại chỗ trên chụp mạch (sự giảm khẩu kính lòng mạch) hay trên lâm sàng (tái can thiệp mạch đích). Đối với bệnh nhân, quá trình diễn biến lâm sàng của họ quan trọng hơn là các chỉ số trên chụp mạch.
8.1. Kích thước Động mạch vành, tổn thương dài, bệnh nhân bị đái tháo đường
Trong nghiên cứu TAXUS‒VI, tỷ lệ tái can thiệp mạch đích giảm xuống một cách đáng kể ở các mạch nhỏ (< 2,5 mm) từ 29,7% xuống còn 5,0%. Trong nghiên cứu RESEARCH, phân tích trong 112 tổn thương ở 91 bệnh nhân được điều trị bằng stent Cypher 2,25 mm (đường kính mạch so sánh là 1,88 ± 0,34 mm) có tỷ lệ tái hẹp là 10,7%.
Đái tháo đường là một yếu tố nguy cơ khác làm tăng tỷ lệ tái hẹp sau đặt stent. Các nghiên cứu với stent Cypher (SIRIUS) và stent Taxus (TAXUS‒IV) trên bệnh nhân đái tháo đường đều cho thấy làm giảm một cách đáng kể tỷ lệ tái hẹp và tái can thiệp tổn thương đích. Mặc dù kết quả của các nghiên cứu này đều rất khả quan nhưng có xu hướng các bệnh nhân bị đái tháo đường có tỷ lệ phải tái can thiệp cao hơn các bệnh nhân không bị đái tháo đường, đặc biệt là các bệnh nhân đái tháo đường phụ thuốc insulin.
8.2. Huyết khối trong stent
Về mặt lý thuyết, phải cần đến 2 năm để nội mạc Động mạch vành phủ một cách hoàn toàn stent giải phóng thuốc tại chỗ. Việc ngừng sớm thuốc clopidogrel làm tăng nguy cơ bị huyết khối trong stent. Đối với các bệnh nhân đặt stent giải phóng thuốc tại chỗ clopidogrel phải được dùng 6‒12 tháng sau can thiệp.
8.3. Chỉ định đặt stent giải phóng thuốc tại chỗ
Theo các bằng chứng qua các nghiên cứu lớn hien nay chỉ có stent Cypher, Taxus và Endeavor được khuyến cáo nên sử dụng. Stent giải phóng thuốc tại chỗ nên dùng cho các bệnh nhân bị bệnh Động mạch vành có triệu chứng, đường kính lòng mạch đích < 3 mm hoặc tổn thương dài > 15 mm. Chỉ định này không bao gồm việc sử dụng stent giải phóng thuốc tại chỗ cho các bệnh nhân mới bị Nhồi máu cơ tim trong vòng 24 giờ, hay có bằng chứng huyết khối trong mạch đích trên chụp mạch. Tuy nhiên, stent giải phóng thuốc đã được sử dụng ở bệnh nhân có cơn đau thắt ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp. Các chỉ định sau đây cần có thêm bằng chứng qua các nghiên cứu lớn:
1. Mạch nhỏ.
2. Tắc Động mạch vành hoàn toàn mạn tính.
3. Tổn thương tại chỗ chia đôi, tại chỗ xuất phát nhánh Động mạch vành.
4. Tái hẹp ở các cầu nối chủ‒vành.
5. Bệnh nhân bị đái tháo đường phụ thuộc insulin.
6. Tổn thương nhiều mạch.
7. Tổn thương thân chung Động mạch vành trái chưa được mổ bắc cầu nối chủ‒vành bảo vệ.
8. Tái hẹp trong stent.
Mặc dù các nghiên cứu ngẫu nhiên chưa được tiến hành, đặt stent trực tiếp (không nong trước bằng bóng) tỏ ra an toàn và hiệu quả đối với stent giải phóng thuốc tại chỗ.
Stent giải phóng thuốc làm giảm số lượng bệnh nhân cần phẫu thuật bắc cầu nối chủvành, đặc biệt là bệnh nhân bị tổn thương nhiều mạch và/hoặc bị đái tháo đường.
Nói tóm lại, cho đến nay chỉ có 3 loại stent giải phóng thuốc cho thấy có hiệu quả qua các nghiên cứu tiến cứu ngẫu nhiên với kết quả lâm sàng qua một thời gian theo dõi đủ dài là stent Cypher (Sirolimus), stent Taxus (Paclitaxel) và Endeavor (ABT‒578). Việc sử dụng clopidogrel kéo dài (ít nhất là 6 tháng, phối hợp với ASA) đóng vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa huyết khối trong stent. Do vậy, đối với các bệnh nhân cần phẫu thuật ngoài tim sớm, stent giải phóng thuốc nên tránh sử dụng. Trong các trường hợp đó, đặt stent thường là một lựa chọn an toàn hơn. Các bác sĩ và bệnh nhân cần nhận thức rõ ràng rằng clopidigrel không nên ngừng quá sớm, ngay cả với các thủ thuật nhỏ như chữa răng.

9. ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN SAU CAN THIỆP ĐỘNG MẠCH VÀNH QUA DA

Sau can thiệp Động mạch vành qua da, quá trình chăm sóc bệnh nhân trong thời gian nằm viện tập trung theo dõi dấu hiệu tái thiếu máu cơ tim, sự cầm máu tại vị trí chọc mạch làm đường vào, phát hiện và ngăn ngừa suy thận do thuốc cản quang. Sự chú ý cần hướng vào sự thực hiện các chương trình phòng ngừa vữa xơ động mạch thứ phát một cách thích hợp. Các bệnh nhân cần hiểu và tôn trọng triệt để phác đồ điều trị nội khoa đã được khuyên dùng và sự thay đổi các thói quen xấu nhằm làm giảm bệnh suất và tử suất do bệnh Động mạch vành.
Hầu hết các bệnh nhân có thể ra viện một cách an toàn trong vòng 24 giờ sau can thiệp Động mạch vành qua da không biến chứng. Các đơn vị chăm sóc bệnh Động mạch vành đã ra đời ở các trung tâm giúp dễ dàng chăm sóc bệnh nhân sau can thiệp. Các phác đồ đặc biệt dùng tiếp tục thuốc chống đông, thuốc ức chế ngưng tập tiểu cầu, và theo dõi sự tái thiếu máu cơ tim/NMCT và suy thận do thuốc cản quang là đặc biệt quan trọng để đảm bảo chắc chắn kết quả của thủ thuật can thiệp trong giai đoạn này. Các bệnh nhân được can thiệp Động mạch vành qua đường động mạch quay có thể ra viện ngay trong ngày sau khi can thiệp.
9.1. Đánh giá thiếu máu cơ tim sau thủ thuật
Sau can thiệp Động mạch vành qua da, đau ngực có thể xuất hiện tới 50% bệnh nhân. Bằng chứng thiếu máu cơ tim trên ĐTĐ gợi ý nguy cơ cao tắc lại nhánh Động mạch vành đã can thiệp. Khi đau ngực hay ĐTĐ thay đổi biểu hiện thiếu máu cơ tim xuất hiện sau can thiệp Động mạch vành qua da cần tiến hành chụp Động mạch vành để xét can thiệp lại nếu cần thiết, phẫu thuật bắc cầu nối chủvành, hay điều trị nội khoa được đưa ra dựa trên tình trạng huyết động, vùng cơ tim bị ảnh hưởng và tỷ lệ thành công của phương pháp điều trị được lựa chọn.
Bệnh nhân bị suy thận và đái tháo đường nên được theo dõi chức năng thận để phát hiện sớm bệnh thận do thuốc cản quang gây ra. Hơn nữa, những bệnh nhân được dùng một lượng thuốc cản quang lớn hay phải dùng thuốc cản quang lần thứ 2 trong vòng 72 giờ nên được kiểm tra chức năng thận. Nếu có thể, các thuốc gây độc cho thận (một số loại kháng sinh, các thuốc chống viêm giảm đau loại nonsteroid, và cyclosporine) và metformin (đặc biệt là ở các bệnh nhân có suy thận từ trước) nên dừng lại 24‒48 giờ trước khi tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da và 48 giờ sau đó.
9.2. Thay đổi các yếu tố nguy cơ
Tất cả các bệnh nhân nên được giáo dục về sự cần thiết phải thay đổi các thói quen xấu, thay đổi các yếu tố nguy cơ và cần duy trì một chế độ thuốc phù hợp nhằm phòng ngừa thứ phát quá trình vữa xơ động mạch trước khi ra viện. Các bác sĩ tim mạch can thiệp cần trao đổi với các bác sĩ điều trị để đảm bảo chắc chắn rằng các phương pháp điều trị phòng ngừa thứ phát cần thiết được bắt đầu và tiếp tục duy trì. Đánh giá sự phòng ngừa thứ phát là một phần quan trọng của quá trình điều trị lâu dài vì giúp làm giảm bệnh suất và tử suất do quá trình vữa xơ động mạch trong tương lai.
Tùy thuộc vào các yếu tố nguy cơ và các chống chỉ định, lời khuyên bao gồm aspirin trị liệu, kiểm soát bệnh tăng huyết áp, kiểm soát đường huyết, kiểm soát lipid máu một cách tích cực với LDL‒C mựuc tiêu < 100 mg/dl (< 2,6 mmol/l) theo hướng dẫn của Hội tim mạch Hoa Kỳ, bỏ hút thuốc lá, kiểm soát trọng lượng cơ thể, tập thể dục đều đặn, và điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển theo hướng dẫn của Hội Tim mạch Hoa Kỳ và Trường môn Tim mạch học Hoa Kỳ như là một phòng ngừa thứ phát.
9.3. Điều trị tái hẹp sau can thiệp Động mạch vành qua da
Mặc dù tái hẹp vẫn là một hạn chế quan trọng của can thiệp Động mạch vành qua da, tình trạng triệu chứng là một chỉ số không đáng tin cậy để làm bộc lộ sự tái hẹp với 25% các bệnh nhân không triệu chứng nhưng có bằng chứng thiếu máu cơ tim trên nghiệm pháp gắng sức.
Vì thiếu máu cơ tim cho dù có triệu chứng đau ngực hay thầm lặng đều làm xấu đi tiên lượng của bệnh nhân. Theo hướng dẫn của Trường môn Tim mạch Hoa Kỳ và Hội Tim mạch học Hoa Kỳ nên làm NPGS cho các bệnh nhân có nguy cơ đặc biệt cao (suy chức năng thất trái, tổn thương nhiều mạch, tổn thương đoạn gần động mạch liên thất trước, tiền sử ngừng tim, đái tháo đường, nghề nghiệp mạo hiểm, kết quả can thiệp không đạt tối ưu). Điện tâm đồ gắng sức có giá trị dự báo tái hẹp, với độ nhạy từ 40‒55% thấp hơn đáng kể so với SPECT hay siêu âm tim gắng sức. Độ nhạy thấp hơn của điện tâm đồ gắng sức và sự hạn chế của nó trong định khu vị trí Động mạch vành bị tổn thương đã hạn chế lợi ích của nó trong đánh giá bệnh nhân trước và sau can thiệp. Do vậy, SPECT và siêu âm tim gắng sức được ưa dùng hơn trong đánh giá các bệnh nhân có triệu chứng sau can thiệp Động mạch vành. Nếu khả năng gắng sức của bệnh nhân bị hạn chế, chụp Động mạch vành chọn lọc là phương pháp hữu hiệu hơn trong đánh giá sự tái hẹp ở các bệnh nhân có triệu chứng đau ngực điển hình. Điện tâm đồ gắng sức sau khi ra viện hữu ích trong việc đánh giá khả năng gắng sức của bệnh nhân và/hoặc đưa ra một chương trình tập luyện thể lực phù hợp với bệnh nhân nhất như là một phần của phục hồi chức năng tim mạch. Cả điện tâm đồ gắng sức và SPECT không nên thực hiện một cách thường qui nhằm theo dõi định kỳ các bệnh nhân không có triệu chứng sau khi can thiệp Động mạch vành qua da mà không có một chỉ định gì đặc biệt.
TÓM TẮT
Với các bệnh nhân ĐNÔĐ có thể xem xét làm can thiệp Động mạch vành cho tất cả các trường hợp có bằng chứng thiếu máu cơ tim rộng ở tất cả các tổn thương trừ trường hợp tổn thương tắc hoàn toàn mạn tính mà không thể đưa dụng cụ (dây dẫn hoặc bóng) qua được. Các nghiên cứu trước đây cho thấy phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành có lợi ích hơn can thiệp Động mạch vành qua da bằng bóng (không dùng stent) một chút về tỷ lệ sống còn. Việc đặt stent và sử dụng phối hợp các thuốc mới đã cải thiện kết quả can thiệp Động mạch vành qua da. Sự lựa chọn chỉ định can thiệp Động mạch vành qua da hay phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành tuỳ thuộc vào sự tiến bộ của kỹ thuật can thiệp Động mạch vành hay phẫu thuật bắc cầu nối, khả năng của các bác sĩ và yêu cầu của bệnh nhân. Tuy nhiên, can thiệp Động mạch vành qua da nên là lựa chọn thứ hai (sau phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành) ở các bệnh nhân đái tháo đường bị tổn thương nhiều mạch hay bệnh nhân bị tổn thương thân chung Động mạch vành trái mà chưa được phẫu thuật bắc cầu nối chủvành bảo vệ. Việc sử dụng stent giải phóng thuốc tại chỗ có thể làm thay đổi chỉ định trong tình huống này.
Các bệnh nhân bị hội chứng Động mạch vành cấp (đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim cấp không có đoạn ST chênh lên) cần được phân tầng nguy cơ. Lợi ích của việc chụp Động mạch vành sớm (< 48 giờ) và tiến hành can thiệp Động mạch vành qua da hay phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành khi cần thiết chỉ rõ ràng ở các bệnh nhân có nguy cơ cao. Can thiệp sớm ở các bệnh nhân khác không làm cải thiện kết quả điều trị. Đặt stent một cách thường qui chỉ được khuyến cáo dựa trên kết quả tốt của thủ thuật được dự đoán trước và sự an toàn tức thời của thủ thuật.

Các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên, can thiệp Động mạch vành thì đầu là phương pháp điều trị được lựa chọn ở các bệnh viện có trang bị máy chụp mạch và có các bác sĩ can thiệp có kinh nghiệm. Các bệnh nhân có chống chỉ định với việc dùng thuốc tiêu sợi huyết nên được chuyển ngay đến các bệnh viện có khả năng can thiệp Động mạch vành thì đầu, bởi vì đó là cơ hội duy nhất cho phép mở thông nhánh Động mạch vành gây Nhồi máu cơ tim cho bệnh nhân. Các bệnh nhân bị sốc tim, can thiệp Động mạch vành cấp cứu để tái tưới máu toàn bộ có thể cứu sống bệnh nhân và nên được xem xét ngay trong giai đoạn sớm. So với dùng thuốc tiêu sợi huyết, các nghiên cứu ngẫu nhiên cho thấy chuyển bệnh nhân đi can thiệp Động mạch vành thì đầu có kết quả lâm sàng tốt hơn, cho dù thời gian vận chuyển có làm chậm chễ đáng kể việc bắt đầu điều trị. Kết quả tốt hơn của can thiệp Động mạch vành thì đầu so với dùng thuốc tiêu sợi huyết dường như chỉ rõ rệt ở các bệnh nhân đến viện muộn (3‒12 giờ kể từ khi khởi phát cơn đau ngực hay các triệu chứng khác) về hạn chế diện tích vùng nhồi máu. Hơn nữa bệnh nhân đến viện muộn làm tăng các bien chứng tim mạch chính sau khi dùng thuốc tiêu sợi huyết, nhưng không thay đổi với can thiệp Động mạch vành qua da. Trong vòng 3 giờ đầu tiên kể từ khi khởi phát cơn đau ngực hay các triệu chứng khác, cả hai phương pháp tái tưới máu đều có hiệu quả tương tự nhau về làm giảm diện tích vùng nhồi máu và giảm tỷ lệ tử vong. Do vậy, thuốc tiêu sợi huyết vẫn là một phương pháp điều trị tái tưới máu thay thế cho can thiệp Động mạch vành thì đầu nếu như có thể dùng thuốc trong vòng 3 giờ kể từ khi khởi phát cơn đau ngực. So với thuốc tiêu sợi huyết, can thiệp Động mạch vành qua da làm giảm đáng kể tỷ lệ bị đột quị. Nhìn chung, can thiệp Động mạch vành thì đầu được ưu tiên lựa chọn hơn dùng thuốc tiêu sợi huyết ở các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên trong vòng 3 giờ đầu để tránh biến chứng đột quị, còn đối với các bệnh nhân đến viện từ 3‒12 giờ sau khi khởi phát cơn đau ngực, thì để cứu vãn cơ tim và cũng để tránh đột quị. Tại thời điểm này, chưa có bằng chứng để khuyến cáo can thiệp Động mạch vành được tạo thuận. Can thiệp Động mạch vành cứu vãn được khuyến cáo nếu điều trị tiêu sợi huyết thất bại trong vòng 45‒60 phút sau khi bắt đầu dùng thuốc. Sau khi dùng thuốc tiêu sợi huyết thành công, tiến hành chụp và can thiệp Động mạch vành thường qui trong vòng 24 giờ, nếu áp dụng, được khuyến cáo thậm chí ở bệnh nhân không có triệu chứng không có biểu hiện thiếu máu cơ tim để làm cải thiện tiên lượng bệnh nhân. Nếu can thiệp Động mạch vành qua da không được tiến hành trong vòng 24 giờ, các bệnh nhân được đieu trị tiêu sợi huyết thành công có biểu hiện thiếu máu cơ tim (tự nhiên hay qua các thăm dò) trước khi ra viện nên được chuyển đi chụp Động mạch vành và tái tưới máu cơ tim.

10 ĐIỂM QUAN TRỌNG CẦN NHỚ

1. Với các bệnh nhân đau ngực ổn định, can thiệp Động mạch vành qua da có thể được xem là một phương pháp tái tạo mạch máu một cách có giá trị ở các bệnh nhân có bằng chứng thiếu máu một vùng cơ tim lớn với hầu hết các tổn thương Động mạch vành, chỉ loại trừ trường hợp Động mạch vành bị tắc hoàn toàn mạn tính mà không thể đưa dây dẫn và/hoặc bóng qua được.
2. Việc quyết định can thiệp Động mạch vành qua da hay mổ bắc cầu nối chủ‒vành phụ thuộc vào khả năng của các bác sĩ tim mạch can thiệp hoặc phẫu thuật viên, cũng như sự yêu cầu của bệnh nhân.
3. Can thiệp Động mạch vành qua da cần thận trọng ở các bệnh nhân bị đái tháo đường có tổn thương nhiều mạch và ở các bệnh nhân bị hẹp thân chung Động mạch vành trái mà chưa được phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành bảo vệ.
4. Các bệnh nhân bị cơn đau ngực không ổn định và Nhồi máu cơ tim không có đoạn ST chênh lên cần phân tầng theo nhóm nguy cơ. Các bệnh nhân có nguy cơ cao cần được chụp Động mạch vành sớm (< 48 giờ) và can thiệp Động mạch vành qua da hay phẫu thuật bắc cầu nối chủ‒vành nếu cần thiết.
5. Các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim cấp có đoạn ST chênh lên, can thiệp Động mạch vành qua da là phương pháp tái tưới máu được lựa chọn hàng đầu ở các trung tâm có đủ trang thiết bị và các bác sĩ tim mạch can thiệp có nhiều kinh nghiệm.
6. Các bệnh nhân có chống chỉ định dùng thuốc tiêu sợi huyết nên được chuyển ngay đến các trung tâm có đủ điều kiện làm can thiệp Động mạch vành qua da, vì đây là cơ hội duy nhất để mở thông nhánh Động mạch vành bị tắc cho bệnh nhân.
7. Với các bệnh nhân bị sốc tim, can thiệp Động mạch vành qua da cấp cứu để tái tạo mạch máu một cách toàn bộ là phương pháp điều trị hiệu quả, và nên chỉ định trong giai đoạn sớm của bệnh.
8. Can thiệp Động mạch vành thì đầu được ưu tiên lựa chọn hơn thuốc tiêu sợi huyết ở các bệnh nhân Nhồi máu cơ tim cấp trong vòng 3 giờ đầu tiên kể từ khi khởi phát cơn đau ngực để phòng ngừa đột quị, và ở các bệnh nhân bị Nhồi máu cơ tim từ 3‒12 giờ kể từ khi khởi phát cơn đau ngực để làm giảm diện Nhồi máu cơ tim và cũng để phòng ngừa đột quị.
9. Can thiệp Động mạch vành cứu vãn được chỉ định sau khi dùng thuốc tiêu sợi huyết thất bại, trong vòng 45‒60 phút sau khi dùng thuốc.
10. Chế độ thuốc chống ngưng tập tiểu cầu phối hợp giữa acetylsalioylic acid (ASA) và clopidogrel được dùng trước cho các bệnh nhân có cơn đau ngực ổn định được can thiệp Động mạch vành qua da có hoặc không được đặt stent. Sau khi đặt stent thường, clopidogrel phải được tiếp tục dùng ít nhất 3‒4 tuần và ASA dùng suốt đời. Với các bệnh nhân có hội chứng Động mạch vành cấp, clopidogrel là thuốc chống ngưng tập tiểu cầu chuẩn và cơ bản được dùng ngay cho bệnh nhân. Sau giai đoạn cấp, clopidogrel 75 mg/ngày trong 9‒12 tháng và ASA 100 mg/ngày dùng kéo dài.

Thường xuyên uống cà phê sẽ gây bệnh về tim?

Năm 1972 – 1973 một số nhà khoa học như Tiến sĩ Hers. Jack ở Trung tâm Y học Trường Đại học Boston ở Mỹ đã từng công bố hai kết quả nghiên cứu về quan hệ giữa cà phê và bệnh tim. Các vị đó cho rằng những người bình quân mỗi ngày uống từ 1 đến 5 tách cà phê, cơ hội bị tắc nghẽn cơ tim cao hơn khoảng 50% so với những người không uống cà phê. Những người bình quân mỗi ngày uống từ 6 tách cà phê trở lên thì nguy cơ này tăng gấp hai lần những người không uống cà phê.

Cà phê
Cà phê

Viện Y học của Trường Đại học John Hobkings đóng tại Baltimore ở Mỹ cũng đã có báo cáo khoa học là những người mỗi ngày uống 5 tách cà phê hoặc trên 5 tách cà phê so với những người về căn bản không uống cà phê có nguy cơ bị bệnh tim lớn gấp hai lần.

Chất caffeine trong cà phê có tác dụng hưng phấn đối với tim và huyết quản, làm cho tim đập tăng nhanh, huyết quản mở rộng, huyết áp tăng cao. Hơn nữa, trong thực nghiệm trên động vật đã chứng tỏ chất caffeine sẽ làm cho acid béo tự do, lipin và nồng độ cholesterol trong huyết dịch động vật tăng cao. Điều này hình như càng cung cấp căn cứ lí luận cho quan điểm “uống cà phê sẽ gây nên bệnh tim”.

Cà phê
Cà phê

Song, có một số” nhà khoa học khác sau khi điều tra nghiên cứu dài ngày về quan hệ giữa cà phê với bệnh tim mạch và những điều tra nghiên cứu có liên quan thì lại đã phủ định quan điểm uống cà phê dài ngày sẽ gây nên bệnh tim. Các nhà khoa học này đã phát hiện một số nghiên cứu và báo cáo cho rằng uống cà phê sẽ gây nên bệnh tim mạch không đồng thời nghĩ đến những người uống lượng lớn cà phê thường cũng là những người hút lượng lớn thuốc lá.

Nhà nghiên cứu Frerminhan ở bang Massachusetts của Mỹ đã từng có công trình nghiên cứu nổi tiếng suốt 20 năm đối với 5209 nam giới và phụ nữ ở tuổi 30 – 62 gọi là “Công trình nghiên cứu Frerminhan”. Công trình nghiên cứu này đã chứng minh khi người nghiện thuốc lá kiên trì cai thuốc thì mới liên hệ giữa lượng dùng cà phê với bệnh mạch vành của tim không còn tồn tại như trước nữa.

Công ty cơ khí Thương nghiệp quốc tế của Mỹ (IBM) là một công ty máy tính siêu quốc gia nổi tiếng thế giới cũng đã từng có cuộc điều tra về sức khỏe. Đối tượng điều tra là những người làm công trên 35 tuổi, điều tra đối với 14 vạn người, trong nội dung điều tra bao gồm quan hệ giữa lượng cà phê uống vào với bệnh tim. Kết quả điều tra lại chưa phát hiện giữa việc này có quan hệ nhân quả gì.

Một Viện nghiên cứu về bệnh tim và các bệnh truyền nhiễm của Mỹ sau khi tiến hành điều tra nghiên cứu dài ngày đối với trên 5000 người, phát hiện những người thường xuyên uống dài ngày cà phê cũng không thấy bị bệnh tim, ngược lại, tỉ lệ mắc bệnh tim của những người thường xuyên uống cà phê so với tỉ lệ mắc bệnh tim của những người không uống cà phê lại thấp hơn. Các nhà khoa học của viện nghiên cứu này cho rằng đây có thể là do chất caffeine có trong cà phê là một chất kích thích ôn hòa, có tác dụng liên tục dài ngày làm cho tim được “rèn luyện”.

Ngoài ra, về kết luận cho rằng chất caffeine thí nghiệm trên động vật sẽ làm cho cholesterol tăng cao, nhưng chưa được chứng minh qua thực nghiệm trên con người. Do đó, hiện nay đa số các nhà khoa học cho rằng uống cà phê không có quan hệ gì với bệnh tim cả, nhưng đối với những người bị bệnh tim thì không nên uống nhiều cà phê, vì khi uống nhiều cà phê sẽ làm cho nhịp đập của tim một số ít người bị bệnh tim (chỉ khoảng mấy phần trăm) bị rối loạn.