Hội chứng xuất hiện chủ yếu ở những phụ nữ giữa 50 và 60 tuổi, có đặc điểm là viêm đa khớp dạng thấp kết hợp với tăng năng lách (lách to, giảm bạch cầu hạt trung tính, đôi khi cả giảm tiểu cầu và thiếu máu), sưng hạch bạch huyết toàn thân và đôi khi tăng sắc tố da.
Căn nguyên
Trong bệnh viêm đa khớp dạng thấp, thường hay thấy sưng hạch bạch huyết địa phương cũng như lách to vừa phải. Tuy nhiên, trong hội chứng Felty người ta lại thấy số lượng bạch cầu hạt trung tính giảm trong máu ngoại vi, và những bất thường khác thể hiện đặc điểm của ưu năng lách (xem hội chứng này).
Huyết đồ:giảm bạch cầu hạt trung tính, đôi khi kèm theo giảm tiểu cầu và thiếu máu.
Phản ứng huyết thanh:hiệu giá yếu tố bệnh thấp tăng, có kháng thể kháng nhân, không có kháng thể kháng ADN mới sinh tương quan với kháng nguyên HLA-DR4.
Điều trị
Trong trường hợp bị nhiễm khuẩn tái phát nhiều lần, khi đã khẳng định tăng năng lách bằng những xét nghiệm thích hợp thì chỉ định cắt bỏ lách (xem: tăng năng lách). Sau khi cắt bỏ lách, công thức máu sẽ trở lại bình thường, nhưng cắt lách không có hiệu quả tới viêm đa khớp dạng thấp, bệnh này phải được điều trị bằng những phương pháp thích hợp.
Ếch chặt đầu, lột da, mổ bỏ nội tạng, bỏ chân (bàn chân), chắt giữ nguyên đùi, thân chặt đôi bỏ xương sống. Da ếch bóp muối, giấm cho sạch trắng, thái miếng bằng ngón tay.
Bày đùi ếch riêng (đã tẩm ướp muối mỳ chính, hạt tiêu) vào một đĩa.
Khế thái chỉ, hoa chuối thái mỏng ngâm nước có pha giấm, hành tây thái mỏng, bày vào đĩa, quả dọc nướng chín, bóc bỏ vỏ, bỏ hạt, luộc sôi, nghiền nát, (hoặc quả me, cạo vỏ, luộc mềm, nghiền nhỏ lọc lấy nước chua).
Mẻ nghiền nhỏ, nghệ giã nhỏ, cả 2 thứ trên lọc lấy nước. Dọc mùng tước xơ, thái vát, bóp muối, rửa sạch, vắt ráo.
Tôm tươi cắt bỏ đầu, đuôi, rửa sạch.
Măng chua rửa sạch, luộc qua, vớt để ráo. Bún chần qua nước sôi, vẩy khô, để ráo, bày vào đĩa.
Hành hoa, mùi tàu, rau mùi sơ chế sạch, rửa vẩy khô nước, cắt nhỏ, bày vào đĩa cùng với ớt thái chỉ, chanh cắt miếng.
Phi thơm hành củ, cho da ếch, thân ếch vào xào nêm nước mắm, nước mẻ, nghệ đảo đều, cho tiếp tôm, tương ớt, đổ nước vào đun sôi nhỏ, cho tiếp nước chua, măng, muối, mắm, mỳ chính, vừa ăn.
Cách làm lẩu ếch
Khi ăn: Đổ canh đã nấu trên và dọc mùng vào lẩu. Bày lẩu trên bàn cùng với các đĩa đùi ếch, hoa chuối, khế, rau gia vị, bún…Người ăn sẽ lần lượt cho ếch, hoa chuối, khế vào lẩu đang sôi; lấy bún và rau gia vị vào bát múc canh trong lẩu đang sôi chan vào, ăn nóng.
Yêu cầu thành phẩm
Ếch, tôm chín, ngọt, thơm không tanh, rau dọc mùng, măng, hoa chuối chín giòn, không nhũn nát, thịt ếch có màu trắng, măng trắng vàng, hoa chuối không thâm đen. Mùi thơm hấp dẫn, vị ngon, ngọt chua dịu, hơi cay. Trình bày đẹp.
Viêm đường ruột cấp tính là chứng viêm đường tiêu hóa xảy ra rất nhanh. Bệnh nhân đau thắt, nôn mửa, đau bụng thổ tả, phát sốt và mất nước nhiều. Nguyên nhân là do ăn uống bội thực, dùng nhiều các món lạnh sống, khó tiêu hoặc những thức ăn thiếu vệ sinh..
Tỏi lột sạch vỏ, giã nhuyễn. Bột gạo pha vào nước thành một thứ hỗn hợp sền sệt. Đô vào nồi 200ml nước, đun lên. Chờ cho nước sôi hắn mới đổ bột vào quậy đều sau đó mới cho tỏi và ít muối vào.
Cách ăn: Ăn vào buổi sáng và tối.
Món 2: CHÁO CAO LƯƠNG
Nguyên liệu:
Gừng cao lương 30gr – nếp 60gr.
Cách chế biến:
Gừng cao lương giã nát, đổ vào 500ml nước nấu cho đến khi nước rút xuống còn khoảng 200ml, sau đó bỏ xác rồi mới cho nếp vào tiếp tục nấu cho đến khi thành cháo.
Cách ăn: Tùy khả năng người bệnh.
Công hiệu: Cắt cơn nôn mửa, ích trung.
Món 3: MÓN CANH CÁ HỐ
Nguyên liệu:
Một con cá hố khoảng 500gr – hoàng kỳ 20gr
chỉ xác sao vàng 10gr
rượu vang, muối ăn, hành, gừng, dầu thực vật mỗi thứ một lượng vừa đủ.
Cách chế biến:
Rửa sạch hoàng kỳ và chỉ xác rồi bỏ vào trong một cái túi vải. Cá hố được làm sạch cắt khúc chiên sơ qua, sau đó đổ thêm nước vào rồi cho cái túi vải nói trên cùng các gia vị như rượu vang, muối, hành, gừng vào nấu cho đến khi chín thì dùng được.
Cách ăn: Uống canh ăn cá.
Món 4:
Nguyên liệu:
Tàu hủ non 300gr
muối ăn, bột tiêu, dầu, hành một lượng vừa đủ.
Cách chế biến:
Chiên tàu hủ với các món gia vị trên theo cách thông thường.
Tình trạng lú lẫn có thể xuất hiện sau phẫu thuật, hoặc sau khi dùng quá liều các loại thuốc chông lo âu như Benzodiazepine, các loại thuốc chống trầm cảm, các thuốc an thần, các thuốc chống lao.
Có thể do phản ứng đối với môi trường: gia đình có chuyện không vui, hay đi đến nơi xa lạ.
Triệu chứng:
Một trạng thái u ám về ý thức, ngây dại, mất định hướng trong thời gian và không gian, do bản thân phân vân, lo âu trước những sự xáo trộn trong nội tâm, nhất là vào buổi tối. Bên cạnh đó còn có hình ảnh ảo tưởng; giấc mơ kinh khủng đầy cảm xúc, là nguồn gốc của sự lo và hốt hoảng, kích động.
Thời gian sau có các rối loạn về phủ tạng như gầy sốt, đau đầu, mất nước.
Điều trị:
Không nên để bệnh nhân căng thẳng trong cuộc sống hàng ngày, gần gũi và chăm sóc bệnh nhân thật tốt.
Dùng thuốc an thần Chlorpromézine chích bắp 25 mg (tránh không nên lạm dụng loại thuốc này).
Điều hòa nước, điện giải cho cơ thể
Xoa bóp và vận động liệu pháp
Chống loét mô hoại tử
Trạng thái này để kéo dài lâu ngày sẽ dẫn đến tình trạng mê sảng kéo dài hay sa sút trí tuệ.
Là loại u lành tính , xuất phát từ bề mặt biểu mô , rất hay gặp .
Phát triển ra ngoài dưới dạng những nhú nhỏ , tạo thành một sang thương dạng cục hoặc dạng mảng , đơn độc hoặc nhiều ổ , có bề mặt gồ ghề không đều dạng mụn cóc hoặc bông cải .
Ở Việt Nam , u nhú tập trung ở lứa tuổi trên 50 ( chiếm 75% trường hợp , thường gặp ở phái nữ , với tỉ lệ nữ /nam la 4/1 .
Yếu tố gây bệnh được ghi nhận rõ rệt ở những bệnh có thói quen nhai trầu , xỉa thuốc hàng chục năm .
II. CHẨN ĐOÁN
Triệu chứng lâm sàng:
Bệnh có thể phát hiện tình cờ có khối u nhỏ, không đau ở môi hay niêm mạc miệng
Niêm mạc phủ hồng, có thể có cuống hoặc không.
Khám không có hạch ngoại vi
Cận lâm sàng:
Xét nghiệm máu tiền phẫu
Các xét nghiệm bệnh nội khoa ( nếu cần ).
Chẩn đoán phân biệt
Nang nhầy ở nông màu nhạt hơn , trong hơn , cứng hơn và bóp không xẹp .
U xơ mềm : di động dễ dàng hơn nang , nhạt màu hơn , mật độ mềm hơn .
Verruca vulgaris ( sần thô , mụn cóc) : bệnh sử tương đối ngắn , kích thướt nhỏ 1-2mm và rắn hơn u nhú . Về vi thể , verruca vulgaris khác u nhú vì các tế bào thượng bì có các hốc bào tương , nhân có thể chứa virus và có vầng sáng bao quanh .
III. ĐIỀU TRỊ
Nguyên tắc:
Phẫu thuật lấy nang nhầy
Điều trị:
Phẫu thuật lấy nang nhầy
Thuốc:
a/ Kháng sinh: một trong các loại thuốc sau
Amoxicilline/ clavulanate K (Klamentine 625 mg, 1g hoặc Augmentin 625 mg, 1g)
Người lớn & trẻ em > 12 tuổi: 1 viên 625mg x 3 lần uống/ ngày hoặc 1 viên 1g x 2 lần uống/ ngày.
Trẻ em < 12 tuổi: 80mg/kg/ngày chia 3 lần uống.
Nhóm Cephalosporins:
Người lớn & trẻ em > 12 tuổi: 500mg x 3 lần uống/ ngày Trẻ em < 12 tuổi: 25 – 50 mg/kg/ngày chia 3 lần uống.
Nhóm macrolide:
Người lớn & trẻ em > 12 tuổi: Spiramycine 3MIU 1 viên x 2-3 lần uống/ ngày.
Trẻ em < 12 tuổi: Spiramycine 1.5 MIU 1 viên x 2-3 lần uống/ ngày. b/ Kháng viêm:
Kháng viêm Steroid: Prednisolon 5 mg: 5 – 20 mg/ ngày hoặc Dexamethasone 0,5mg: 1 – 3 viên/ ngày.
Hoặc kháng viêm non-steroid (Diclofenac 50 mg: 1 viên x 2 – 3 lần uống/ ngày hoặc Celecoxib 200mg: 1 viên x 2 – 3 lần uống/ ngày).
Hoặc alphachymotrypsin 1 – 2 viên x 2 – 3 lần/ ngày (uống hoặc ngậm). c/ Thuốc giảm đau:
Paracetamol (có codein hoặc không có codein): 500mg 1viên x 3-4 lần/ngày hoặc 650mg 1 viên x 2-3 lần/ ngày.
Trong những ngày hè viêm nhiệt, uống vào một cốc bia ướp đá mát lạnh sẽ làm cho sự nóng bức trong con người tiêu tan hết, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Bia lạnh rõ ràng là có tác dụng hạ nhiệt, giải khát, ra mồ hôi, cộng với độ hòa tan tương đối cao của dioxide carbon trong bia dưới nhiệt độ tương đối thấp có thể có càng nhiều carbon dioxide theo với bia vào trong cơ thể, tỏa ra càng nhiều nhiệt lượng, vì thế rất nhiều người cho rằng “bia càng lạnh uống càng tốt”. Ngoài ra, do thời gian bảo quản bia trong điều kiện nhiệt độ bình thường chỉ bảo quản được thời gian tương đối ngắn, để làm cho bia uống càng ngon miệng, càng giải nhiệt và thời gian bảo quản bia được càng lâu hơn, rất nhiều người thường cho bia vào thùng để nước đá hoặc đặt trong tủ lạnh.
Bia tươi
Thực ra thì nhiệt độ bảo quản bia tốt nhất về mùa hè là từ 5 đến 10°c, về mùa đông xuân là từ 9 đến 12°c. Nếu nhiệt độ quá thấp như dưới 0°c chẳng hạn thì không những sẽ làm cho bia ít có bọt mà còn làm cho chất protein trong bia kết hợp với tannic acid thành ra chất lắng đọng, làm cho bia xuất hiện “các vẩn đục lạ”, vì thế mà khẩu vị thơm ngon của bia giảm đi rất nhiều. Nếu thời gian bảo quản bia trong nhiệt độ thấp không quá lâu thì trước khi uống chỉ cần ngâm bia vào trong nước có nhiệt độ 50°c khoảng nửa giờ thôi thì tất cả các chất lắng đọng gọi là “các vẩn đục lạ” kia sẽ mất, hương vị của bia cũng sẽ trở lại bình thường như trước. Nhưng nếu thời gian bảo quản bia trong điều kiện nhiệt độ quá thấp trong thời gian quá dài thì chất lắng đọng này sẽ không thể nào khôi phục trở lại được như cũ nữa, mà hương vị đặc biệt của bia cũng sẽ mất đi hoàn toàn. Ngoài ra, bia quá lạnh sẽ làm cho các tế bào vị giác trong khoang miệng người ta bị tê cóng, làm cho vị giác trở nên thiếu nhạy bén, như vậy cũng sẽ ảnh hưởng đến cảm giác thưởng thức mùi vị bia và các thức ăn khác của miệng lưỡi. Do đó, có thể khẳng định rằng: Nói rằng “bia càng lạnh uống càng tốt” là hoàn toàn sai lầm.
Đứng về góc độ đảm bảo sức khỏe thì cũng không phải “bia càng lạnh uống càng tốt”, vì bia càng lạnh bao nhiêu thì sự chênh lệch giữa nhiệt độ của nó với nhiệt độ cơ thể càng lớn. Đặc biệt là về mùa hè uống bia quá lạnh với lượng lớn tất sẽ làm cho các huyết quản ở dạ dày và ruột co rụt mạnh lại, tạo nên tình trạng thiếu máu trong thời gian ngắn ở đường tiêu hóa; nếu nhẹ thì sẽ làm cho người ta cảm thấy khó chịu ở dạ dày và ruột, đau bụng; còn nếu nặng thì sẽ có thể tạo nên tình trạng hoại tử gây thiếu máu ở đường tiêu hóa, có khi nguy hại cả đến tính mệnh nữa. Đồng thời với tác hại đó, bia để quá lạnh mới đem uống thì lạnh sẽ gây kích thích dạ dày và ruột, làm cho chúng vận động mạnh lên, dẫn tới tình trạng các thức ăn đã ăn vào trong dạ dày và đường ruột vẫn chưa được tiêu hóa và hấp thu đầy đủ đã nhanh chóng thoát qua dạ dày và đường ruột thải loại ra ngoài cơ thể, như vậy rất dễ sinh bệnh tiêu chảy.
Nói tóm lại, bất kể đứng về mặt bảo quản, về mặt khẩu vị cũng như về mặt đảm bảo sức khỏe mà xét thì nếu có ai đó nói hoặc nghĩ rằng “bia càng lạnh uống càng tốt” là hoàn toàn thiếu cơ sở khoa học và rất có hại.
Hội chứng gan thận (HCGT) là tình trạng suy giảm chức năng thận cấp tính xảy ra trên người bệnh bị bệnh gan cấp hoặc đợt cấp ở bệnh gan giai đoạn cuối, chủ yếu gặp ở người bệnh xơ gan cổ trướng tăng áp lực tĩnh mạch cửa, viêm gan do rượu, hoặc hiếm gặp hơn như khối u gan, viêm gan tối cấp do các nguyên nhân khác nhau (viêm gan vi rút, xơ gan mật tiên phát, viêm gan nhiễm độc, tổn thương gan trong sốc ..).
Theo định nghĩa mới theo hội nghị của Câu lạc bộ cổ trướng Quốc tế năm 2007, cũng như của ADQI lần thứ 8, Hội chứng gan thận là một hội chứng đặc trưng bởi tình trạng giảm nặng dòng máu đến thận do co thắt động mạnh thận, dãn động mạch ngoại vi do tổn thương gan nặng tiến triển. Mặc dù suy thận cấp chức năng, nhưng Hội chứng gan thận lại có tiên lượng rất xấu, tỷ lệ tử vong cao và ghép gan là biện pháp duy nhất có hiệu quả tốt.
NGUYÊN NHÂN
Thường gặp ở người bệnh có biểu hiện xơ gan mạn tính.
HCGT ở các người bệnh có tổn thương gan cấp tính:
+ Viêm gan do rượu.
+ Viêm gan nhiễm độc do thuốc, các chất gây độc.
+ Viêm gan do vi rút.
+ Tổn thương gan do sốc (tim, nhiễm khuẩn, phản vệ, giảm thể tích…).
Các yếu tố thúc đẩy:
+ Nhiễm trùng dịch cổ chướng + Mất dịch do nôn, ỉa chảy.
+ Giảm albumin máu.
+ Tăng thể tích tuần hoàn.
TRIỆU CHỨNG
Lâm sàng
Bệnh gan cấp tính hoặc đợt cấp trên nền một bệnh gan mạn tính.
Mệt mỏi, chán ăn, rối loạn tiêu hóa.
Hội chứng vàng da : nước tiểu vàng, da và niêm mạc vàng.
Trên da có thể có xuất huyết do rối loạn đông máu, sao mạch, tuần hoàn bàng hệ.
Thần kinh: ý thức giảm khi có biểu hiện não gan, dấu hiệu ngoại tháp của xơ gan.
Có thể có nhiễm khuẩn toàn thân hoặc nhiễm khuẩn dịch cổ chướng.
Dấu hiệu mất nước, mất dịch, sốc (nếu có nguyên nhân liên quan).
Khai thác tiền sử nguyên nhân và các đợt cấp tính của bệnh gan mạn.
Cận lâm sàng
Xét nghiệm đánh giá chức năng thận: creatinin và ure huyết thanh, protein niệu và các tế bào nước tiểu.
Các xét nghiệm điện giải máu và nước tiểu.
Xét nghiệm đánh giá suy tế bào gan: AST, ALT, protein, albumin máu, GGT, các yếu tố đông máu, tế bào máu ngoại vi.
Chẩn đoán hình ảnh: siêu âm, chụp cắt lớp vi tính đánh giá nhu mô, kích thước của gan, lách và hệ thống tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch trên gan…
Các xét nghiệm tìm nguyên nhân và các yếu tố thúc đẩy xuất hiện Hội chứng gan thận:
+ Nhiễm trùng toàn thân.
+ Nhiễm trùng cổ chướng.
+ Viêm gan do thuốc, ngộ độc gan cấp.
CHẨN ĐOÁN
Chẩn đoán xác định: theo câu lạc bộ cổ chướng IAC 1996 và 2007, ADQI hội nghị thế giới thống nhất lần 8.
Các tiêu chuẩn chính bao gồm
Có bệnh gan cấp hoặc mạn tính với đợt suy gan cấp tiến triển kèm theo có tăng áp lực tĩnh mạch cửa.
Typ 1: tăng creatinin máu trên 2,5 mg/dl (220 µmol/l), triệu chứng không giảm sau 48 giờ điều trị bằng lợi tiểu và bù thể tích dịch với albumin 1g/kg/ngày. Tìm yếu tố thúc đẩy, thường tiến triển vài ngày tới 2 tuần, Hội chứng gan thận typ 1 thường nặng hơn typ 2.
Bắt buộc cần loại trừ các nguyên nhân gây ra suy thận cấp khác như: sốc nhiễm khuẩn, sốc giảm thể tích, sử dụng thuốc độc với thận, sỏi thận tiết niệu, hoại tử ống thận cấp do nhiễm khuẩn, tan máu, ngộ độc thuốc.
Typ 2: cổ chướng không đáp ứng với thuốc lợi tiểu, chức năng thận biến đổi từ từ, creatin máu > 1,5 mg/dl (130 µmol/l), diễn biến nhẹ hơn typ 1.
Tiêu chuẩn phụ
Giảm mức lọc cầu thận: vô niệu ( nước tiểu < 100 ml/12 giờ) hoặc thiểu niệu (nước tiểu < 200 ml/12 giờ).
Protein niệu < 500 mg/ngày.
Hồng cầu niệu < 50/vi trường
Chức năng ống thận còn nguyên vẹn: ALTT niệu > ALTT máu, Natri niệu <10 mEq/L.
Natri máu < 130 mmol/l
Chẩn đoán phân biệt
Suy thận cấp trước thận ở người bệnh xơ gan cổ trướng do: giảm thể tích tuần hoàn thực sự hoặc giảm dòng máu tới thận do các nguyên nhân khác như dùng thuốc hạ huyết áp, rối loạn vận mạch trong thận (sốc, nhiễm khuẩn, phản ứng viêm SIRS quá mức..).
Chẩn đoán nguyên nhân: gây ra Hội chứng gan thận (sàng lọc các nguyên nhân trên).
Phân loại
Hội chứng gan thận typ 1
Tiên lượng của Hội chứng gan thận typ 1 là rất tồi, thời gian sống trung bình 2 tuần, tử vong gần 100% sau 3 tháng.
Xuất hiện tự phát, nhưng thường sau các yếu tố thúc đẩy, đặc biệt là nhiễm trùng dịch cổ trướng, mất dịch, thừa thể tích giảm albumin…
Tình trạng suy thận tiến triển nhanh, tăng nhanh creatinin huyết thanh, ngay từ đầu lên mức trên 220µmol/L.
Hội chứng gan thận typ 2
Tình trạng suy thận tiến triển ở mức độ trung bình, nồng độ creatinin huyết thanh tăng từ 150% tức khoảng 133 đến 226µmol/l.
Thường tiến triển tự phát nhưng cũng có thể xuất hiện sau các yếu tố thúc đẩy.
Tình trạng cổ trướng dai dẳng, không đáp ứng với thuốc lợi tiểu.
Tiên lượng sống thường ngắn hơn người bệnh xơ gan không có suy thận nhưng tốt hơn typ 1, có thể sống tới 6 tháng.
Hội chứng gan thận typ 3 ( ít gặp)
Người bệnh xơ gan có biểu hiện typ 1 hoặc 2 trên nền bệnh thận mạn tính.
Hội chứng gan thận typ 4 (ít gặp).
Người bệnh suy gan cấp tính có suy giảm chức năng thận, gặp ở khoảng 50%.
XỬ TRÍ
Nguyên tắc xử trí:
Nhanh chóng xác định và điều trị yếu tố thúc đẩy: nhiễm trùng, mất nước, giảm albumin máu, nhiễm trùng dich cổ chướng, ngộ độc cấp paracetamol.
Các biện pháp điều trị co mạch hệ thống: Terlipressin dẫn chất của vasopressin.
Các biện pháp thay huyết tương (PEX), lọc gan nhân tạo (MARS), hoặc lọc máu liên tục (CVVH) kết hợp với thận nhân tạo cấp ngắt quãng tùy theo tình trạng lâm sàng.
Điều trị nguyên nhân gây ra Hội chứng gan thận.
Làm cầu nối bên – bên hệ thống tĩnh mạch cửa và tĩnh mạch chủ (TIPS): khi có chỉ định, với mục đích giảm áp lực tĩnh mạch cửa.
Ghép gan.
Xử trí ban đầu và vận chuyển cấp cứu
Xử trí các dấu hiệu nặng:
+ Suy thận cấp: đặt ống thông tĩnh mạch trung tâm để kiểm soát thể tích nước vào-ra, dùng lợi tiểu khi có thiểu niệu, vô niệu.
+Tăng kali máu: nếu kali máu > 6 mmol/l và hoặc có rối loạn nhịp tim cần điều trị cấp cứu (xem bài tăng kali máu).
+ Phù phổi cấp, phù toàn thân: chỉ định thuốc lợi tiểu furosemid tiêm tĩnh mạch 20-40 mg/lần, không đáp ứng cho tới 100-200 mg/lần, tối đa 600-1000mg/ngày.
+ Hội chứng não-gan: cần loại trừ hạ đường huyết, duy trì truyền tĩnh mạch glucosa 10-20%, giải phóng đường hô hấp, đặt canun mayo miệng, tránh ứ đọng đờm, nếu có suy hô hấp, rối loạn ý thức cần đặt ống nội khí quản bảo vệ đường thở, đề phòng thiếu oxy.
+ Phù não, co giật: bảo vệ đường thở, an thần cắt cơn giật bằng diazepam 10 mg tiêm bắp hoặc tĩnh mạch (hoặc midazolam 5 mg, phenobacbital 100 mg).
Khi vận chuyển người bệnh cần chú ý đảm bảo về hô hấp, tuần hoàn, rối loạn ý thức gây mất khả năng tự bảo vệ đường thở, rối loạn nhịp tim.
Xử trí tại bệnh viện
Mục tiêu
Điều trị yếu tố thúc đẩy làm xuất hiện Hội chứng gan thận.
Thuốc điều trị triệu chứng và hỗ trợ các chức năng gan vẫn chỉ định để duy trì các chức năng của gan đặc biệt trong thời gian chờ được ghép gan.
Điều trị tình trạng giãn mạch nội tạng và co động mạch thận.
Điều trị yếu tố thúc đẩy xuất hiện Hội chứng gan thận
Phù và tăng dịch cổ chướng: thường đi kèm với có giảm albumin máu.
+ Kiểm soát cân bằng dịch vào ra.
+ Dùng thuốc lợi tiểu: furosemide, tiêm hoặc uống, và hoặc với spironolacton.
+ Truyền albumin: albumin truyền 5%, 20%, đưa albumin máu về giá trị bình thường.
+ Chọc tháo dịch cổ chướng khi bụng quá căng gây khó thở, ảnh hướng tới các dấu hiệu cơ năng, xét nghệm các thành phần trong dịch cổ chướng.
Nhiễm trùng dịch cổ chướng: dễ xảy ra khi có chọc dịch cổ chướng nhiều lần.
+ Các triệu chứng nhiễm trùng.
+ Đau bụng.
+ Xét nghiệm dịch cổ chướng: bạch cầu đa nhân, protein, soi, cấy tìm vi khuẩn. + Kháng sinh tĩnh mạch: có tác dụng với vi khuẩn Enterobacteriaceae, S.pneumonia, Enterococci như Cephalosporin thế hệ 3, Piperacillin-tazobactam, Ertapenem. Nếu E.Coli có men ESBL (+) dùng nhóm Carbapenem có thể kết hợp với thuốc nhóm quinolon.
Xuất huyết tiêu hóa cao và thấp: do tăng áp lực tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch chủ. Do giảm các yếu tố đông máu, do tiểu cầu giảm.
+ Nội soi chẩn đoán nguyên nhân xuất huyết tiêu hóa, can thiệp cầm máu hoặc giảm áp lực tĩnh mạch cửa tùy theo chỉ định.
+ Điều trị hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa: thông tĩnh mạch cửa- chủ trong gan (TIPS) tùy theo chỉ định và khả năng tiến hành kỹ thuật.
+ Đánh giá các yếu tố đông máu, bổ sung các yếu tố đông máu (tiểu cầu, plasma tươi, sợi huyết).
+ Truyền máu theo mức độ mất máu, đảm bảo Hb 9-11 g/lít.
Các thuốc dãn mạch thận: Prostaglandin, đối kháng Endothelin-1 có vai trò hoạt hóa các ET-1 trong xơ gan. Kết quả chưa rõ ràng.
Các thuốc co mạch hệ thống: sử dụng các thuốc co mạch vasopressin phải luôn kết hợp với bồi phụ thể tích tuần hoàn.
Terlipressin: dẫn chất của vasopressi.
+ Terlipressin: cải thiện chức năng thận tới 65%, chỉ định Hội chứng gan thận typ 1.
+ Cải thiện được tình trạng hạ natri máu do hòa loãng.
+ Thời gian điều trị 7-14 ngày.
+ Liều dùng: Terlipressin 0.5-2mg mỗi 4 giờ tiêm tĩnh mạch hoặc truyền liên tục, nếu nồng độ creatinin huyết thanh không giảm, tăng liều lên 1mg, hoặc 1,5mg, hoặc 2mg mỗi 4 giờ cho tới khi nồng độ creatinin huyết thanh giảm.
+ Kết hợp với truyền albumin liều 1g/kg cân nặng trong ngày đầu và sau đó liều 40g albumin mỗi ngày. Điều trị đơn thuần terlipressin không được khuyến cáo.
+ Dừng thuốc khi nồng độ creatinin huyết thanh không giảm 50% sau 7 ngày sử dụng liều cao Terlipressin, hoặc sau 3 ngày đầu điều trị.
+ Có đáp ứng: điều trị kéo dài đến khi Hội chứng gan thận tốt lên hoặc tối đa 14 ngày.
+ Tác dụng phụ: có thể gây co mạch, gây thiếu máu và rối loạn nhịp tim.
Các điều trị thay thế khác khi Terlipressin không có tác dụng:
+ Midodrine: thuốc kháng chọn lọc thụ thể a1. Khởi liều 2.5 – 7.5mg đường uống chia 3 lần/ngày, tăng dần từ từ tới liều 12.5mg/ ngày, kết hợp với Octreotide khởi liều 100mg tiêm dưới da, tăng dần đến 200mg/ngày, chia 2 lần và truyền Albumin 40g/ngày. Tăng liều sao cho tăng huyết áp động mạch trung bình khoảng 15mmHg hoặc đưa huyết áp động mạch trung bình lên khoảng 90mmHg. Điều trị ít nhất 20 ngày.
+ Octreotide (dẫn chất của somatostatin)
+ Noradrenaline: liều 0.5 – 3mg/giờ, tăng dần cho tới khi nâng huyết áp động mạch trung bình thêm 10-15 mmHg, kết hợp với albumin và furosemide cũng có hiệu quả và an toàn như terlipressin ở người bệnh Hội chứng gan thận.
Với Hội chứng gan thận typ 2: hiện nay chưa có đủ bằng chính về sử dụng các thuốc co mạch.
+ Tái phát: lại suy thận sau khi dừng điều trị, creatinin máu >130µmol/l.
+ Đáp ứng một phần: giảm nồng độ creatinin huyết thanh > 50% giá trị creatinin ban đầu, nhưng không tới mức dưới 130µmol/l.
+ Không đáp ứng: không giảm creatinin hoặc giảm < 50% giá trị creatinin ban đầu nhưng creatinine huyết thanh cuối cùng vẫn trên 130µmol/l.
TIPS (cầu nối bên – bên hệ thống tĩnh mạch cửa và tĩnh mạch chủ): mới có ít nghiên cứu đánh giá vai trò của TIPS
Biến chứng của TIPS: hội chứng não gan, nhiễm trùng, hẹp tại vị trí cầu nối.
Chống chỉ định trên người bệnh Hội chứng gan thận có tiền sử bệnh não gan nặng, có nồng độ bilirbin huyết thanh > 85µmol/L, hoặc Child-Pugh trên 12 điểm.
Tác dụng sau làm TIPS: làm giảm áp lực tĩnh mạch cửa, tăng cung lượng tim và làm tăng thể tích tuần hoàn trung tâm, cải thiện tưới máu thận, tăng mức lọc cầu thận.
Chỉ định: Hội chứng gan thận cấp, dịch cổ chướng kháng trị, chờ ghép gan, có thể cải thiện chức năng thận và cổ trướng dai dẳng ở người bệnh typ 2.
Các biện pháp lọc máu, lọc gan nhân tạo
Lọc máu ngắt quãng hoặc lọc máu liên tục (IHD hay CVVH)
+ Chỉ định khi: thừa dịch, tăng gánh thể tích dẫn đến phù não, co giật, phù phổi cấp, hoặc tăng kali máu cấp >6 mmol/lít hoặc có rối loạn trên điện tim, toan chuyển hóa pH < 7,10.
+ Tai biến khi lọc máu: chảy máu nặng, rối loạn đông máu, tăng huyết áp.
Thay huyết tương (PEX), lọc gan với hấp phụ phân tử liên tục (MARS): ( xem sách quy trình kỹ thuật hồi sức tích cực).
+ Chỉ định: hội chứng não gan giai đoạn II với NH3 máu tăng cao, xét nghiệm bilirubin toàn phần > 250 µmol/l, suy giảm các chức năng của gan.
+ Kỹ thuật được tiến hành hàng ngày, chú ý các rối loạn đông máu và thuốc chống đông dung cho kỹ thuật này.
+ Hiệu quả tạm thời trong giai đoạn chờ ghép gan.
Ghép gan
Ghép gan là điều trị tốt nhất cho Hội chứng gan thận, có tỷ lệ sống sau 3 năm khoảng 70%, cho đến nay vẫn là điều trị có hiệu quả nhất.
Cân nhắc ở người bệnh có các yếu tố nguy cơ, nghi ngờ xuất hiện Hội chứng gan thận typ 1.
Tiên lượng tương đương với người bệnh trước đó không bị Hội chứng gan thận.
TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG
HCGT typ 1: nếu không điều trị 80% có thể tử vong trong hai tuần đầu, 20% tử vong trong 3 tháng, tiên lượng phụ thuộc vào điểm MELD để đánh giá độ nặng.
HCGT typ 2: nếu không điều trị tử vong trong 6 tháng, độ nặng liên quan tới khả năng tử vong phụ thuộc vào điểm MELD (dưới 20 điểm thì tiên lượng sống 50% sau 8 tháng, trên 20 điểm thì tiên lượng sống 50% sau 1 tháng).
PHÒNG BỆNH
Dự phòng xuất hiện Hội chứng gan thận là rất quan trọng trong thực hành lâm sàng.
Ngăn chặn hoặc điều trị tích cực ngay khi có các yếu tố thúc đẩy: nhiễm trùng dịch cổ trướng, xuất huyết tiêu hóa, các nhiễm trùng khác trong cơ thể.
Bệnh nhân xơ gan có dịch cổ trướng: chú ý xét nghiệm albumin máu, luôn duy trì trong giới hạn bình thường. Chú ý truyền bổ xung albumin cho bệnh nhân có nồng độ bilirubin huyết thanh > 68.4µmol/l hoặc creatinin huyết thanh > 88.4µmol/l.
Đề phòng nhiễm trùng : cho kháng sinh Norfloxacine 400 mg/ngày cho người bệnh xơ gan có cổ chướng mà chức năng thận bắt đầu thay đổi.
Chú ý các thuốc có nguy cơ độc với thận như: kháng sinh nhóm aminoglycoside, thuốc chống viêm giảm đau không steroid, thuốc lợi tiểu, thuốc cản quang có iot.
Tên khác: cỏ cú, cỏ gắm, sa thảo, nhả chống mu (Tày), hương phụ, tùng gáy thật mía (dao)
Tên khoa học: Cyperus rotundus L.
Họ Cói (Cyperaceae)
MÔ TẢ
Cây thảo nhỏ, sống dai, có thân rễ phình lên từng đoạn thành củ nhỏ. Thân khí sinh mọc lên từ củ, hình ba cạnh, nhẵn. Lá hẹp, dài, có bẹ ôm thân, gân giữa duy nhất, hai mặt nhẵn.
Cụm hoa có cuống rất dài mọc thành ngù gồm nhiều bông kép không đều, mỗi bông kép có trục nhẵn mang nhiều bông nhỏ; hoa mọc ở kẽ một lá bắc gọi là vảy màu nâu đỏ, không có bao hoa, nhị 3, bầu thượng có 1 ô.
Quả bé có 3 cạnh, màu đen nhạt, có một hạt.
Mùa hoa quả: tháng 3 – 7.
Vị thuốc Hương phụ vị thuốc hàng đầu chữa u uất
PHÂN BỐ, NƠI MỌC
Trên thế giới, củ gấu phân bố rộng rãi khắp nơi, ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc châu Á, châu Đại Dương.
ở Việt Nam, củ gấu mọc hoang và được coi là một loài cỏ dại rất khó trừ diệt. Thường gặp trên các bãi hoang, ven đường đi, đồi núi, nương rẫy, vườn tược.
BỘ PHẬN DÙNG, THU HÁI, CHẾ BIẾN
Thân rễ củ gấu, thu hái vào mùa xuân, nhưng tốt nhất vào mùa thu. Đem về, vun củ thành đống, đốt cho cháy hết lông và rễ con, phơi hoặc sấy khô.
Dùng sống làm thuốc giải cảm, tiêu thực. Dược liệu sao đen có tác dụng cầm máu trong trường hợp rong kinh; tẩm nước muối, sao được dùng chữa bệnh về huyết; tẩm đồng tiện (nước tiểu trẻ em) sao, có tác dụng giáng hỏa chữa chứng bốc nóng; tẩm giấm, sao chữa ứ huyết; tẩm rượu, sao để tiêu dòm.
Có thể chế biến theo lối tứ chế tức là tẩm sao lần lượt như trên, rồi trộn đều. Nước muối thì dùng loại 5%, rượu với nồng độ 35 – 40°. Thời gian tẩm cho mỗi loại là 12 giờ. Loại chế biến này gọi là hương phụ tứ chế được dùng chữa bệnh của phụ nữ.
Chỉ nên chế biến dược liệu đủ dùng trong 15-20 ngày.
THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Củ gấu chứa tinh dầu với hàm lượng 0,3 – 2,8%, tanin, flavonoid, alcaloid, các acid phenol, tinh bột, pectin, chất đắng, vitamin c, các nguyên tố vi lượng.
Cao lỏng củ gấu có tác dụng ức chế co bóp tử cung bình thường cũng như tử cung có chửa. Dịch chiết bằng cồn từ củ gấu có tác dụng giảm đau. Tinh dầu củ gấu có tác dụng ức chế thần kinh trung ương.
CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG
Củ gấu, tên thuốc trong y học cổ truyền là hương phụ, được dùng như một vị thuốc không thể thiếu khi chữa bệnh cho phụ nữ.
Dược liệu có vị cay, hơi đắng, tính bình có tác dụng điều kinh, giảm đau, chữa đau bụng kinh, kinh nguyệt không đều, bạch đói, khí hư. Ngoài ra, còn chữa đau dạ dày, kém ăn, đau bụng, nôn mửa.
Liều dùng hàng ngày: 6 – 12g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột, thuốc viên hoặc cao lỏng. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.
BÀI THUỐC
Chữa đau bụng kinh, kinh nguyệt không đều: Củ gấu (3g), ngải cứu (3g), ích mẫu (3g), bạch đồng nữ (3g). Tất cả phơi khô, sắc với 200ml nước còn 30ml, thêm đường, uống làm hai lần trong ngày. Có thể nấu thành dạng cao lỏng.
Chữa hậu sản: Củ gấu (100g), nga truật (100g), quả quất non (50g), cắn nước tiểu (5g). Các dược liệu phơi khô, tán bột, trộn đều với mật ong làm viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10 viên chia làm hai lần.
Chữa kinh ra nhiều, màu sẫm, mùi hôi: Hương phụ tứ chế (12g), cỏ nhọ nồi (30g), sinh địa (16g), cỏ roi ngựa (25g), ích mẫu (16g), rau má (30g), ngưu tất (12g). sắc uống ngày một thang.
Thuốc chống sẩy thai: Hương phụ tứ chế tán bột, uống mỗi ngày 8g với nước sắc thổ phục linh, mần tưới (mỗi thứ 10g) (Nam dược thần hiệu).
Thuốc tiêu thực: Củ gấu (100g), quả tơ hồng (50g), phèn phi (5g), tán bột. Ngày uống 2 – 4g.
Chữa tiêu chảy: Củ gấu (200g), vỏ hoàng đàn (100g), thái nhỏ, phơi khô, tán bột, rây mịn, luyện với hồ làm viên bằng hạt ngô.
viên nang tan trong ruột 30 mg: vỉ 10 viên, hộp 30 viên.
THÀNH PHẦN
cho 1 viên
Lansoprazole
30 mg
DƯỢC LỰC
Thuốc chống loét.
Lansoprazole là một chất ức chế chuyên biệt bơm proton (H+ K+) ATPase của tế bào thành dạ dày.
Nhờ vào cơ chế tác động trên pha cuối cùng của sự bài tiết, lansoprazole làm giảm sự bài tiết acide cho dù nguồn gốc của sự kích thích bài tiết acide là thế nào đi chăng nữa. Uống liều duy nhất mỗi ngày 30 mg, lansoprazole gây ức chế nhanh và hữu hiệu trên sự bài tiết acide ở dạ dày.
Mức độ lành sẹo nội soi của loét tá tràng là 75% trong 2 tuần lễ và 95% trong 4 tuần lễ ; mức độ này đối với viêm thực quản đường tiêu hóa là 80% sau 4 tuần lễ điều trị và 95% sau 8 tuần lễ.
DƯỢC ĐỘNG HỌC
Hấp thu và phân phối:
Lansoprazole bị phân hủy trong môi trường acide, do đó thuốc được bào chế dưới dạng vi nang tan trong ruột.
Hấp thu nhanh, nồng độ tối đa đạt đến sau khoảng 1 giờ 30.
Dùng đồng thời với thức ăn sẽ làm giảm độ khả dụng sinh học của thuốc, tuy nhiên không làm thay đổi tác dụng của thuốc trên sự ức chế bài tiết acide.
97% lansoprazole liên kết với protéine huyết tương. Chuyển hóa và đào thải:
Thời gian bán hủy trong huyết tương khoảng 1,4 giờ. Thời gian này không bị biến đổi trong thời gian điều trị.
Lansoprazole được đào thải hoàn toàn sau khi được biến đổi sinh học chủ yếu ở gan.
Các sản phẩm chuyển hóa của lansoprazole không có hoạt tính cũng như không có độc tính, được đào thải chủ yếu ở mật. Tác động dược lý của thuốc không thay đổi ở người lớn tuổi, tuy nhiên có thay đổi ở người bị suy gan (xem mục Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng).
CHỈ ĐỊNH
Loét tá tràng tiến triển.
Viêm thực quản do trào ngược dạ dày-thực quản (được xác định qua nội soi với những vết sướt và loét).
Loét dạ dày tiến triển.
Hội chứng Zollinger-Ellison.
Loét dạ dày – tá tràng do nhiễm Helicobacter.
CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG
Cũng như các thuốc chống tiết dạ dày khác, lansoprazole có thể thuận lợi cho sự phát triển vi khuẩn trong dạ dày bởi vì giảm thể tích và tính acide của dịch vị.
THẬN TRỌNG LÚC DÙNG
Ở bệnh nhân suy gan: sau khi dùng liều duy nhất ở bệnh nhân bị xơ gan, phần diện tích dưới đường cong được tăng lên, sự đào thải chậm ; cần phải điều chỉnh liều.
Ở trẻ em: hiệu lực và mức độ dung nạp thuốc chưa được khảo sát.
Ở người già: không cần thiết phải điều chỉnh liều do không ghi nhận thấy có tăng các tác dụng không mong muốn khi dùng lansoprazole.
LÚC CÓ THAI
Tính vô hại chưa được xác định khi dùng cho phụ nữ có thai, tuy nhiên, các khảo sát trên động vật cho thấy thuốc không gây quái thai và độc tính trên phôi thai. Do thận trọng, không nên dùng thuốc trong thời kỳ có thai.
LÚC NUÔI CON BÚ
Chống chỉ định do thiếu khảo sát việc thuốc có đi qua sữa mẹ hay không. Trong trường hợp bắt buộc phải sử dụng thì phải ngưng cho con bú.
TƯƠNG TÁC THUỐC
+ Các thuốc đắp dạ dày-ruột: Thận trọng khi phối hợp vì có thể làm giảm hấp thu. Nếu sử dụng cách khoảng 1 giờ thì không ảnh hưởng đến độ hấp thu của thuốc.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN
Lansoprazole thường được dung nạp tốt.
Hiếm gặp rối loạn nhu động ruột (tiêu chảy, bón) buồn nôn, nhức đầu. Các rối loạn này thường là tạm thời, không nặng và không cần phải ngưng dùng thuốc.
LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG
– Loét tá tràng tiến triển: 1 viên/ngày trong 4 tuần.
– Viêm thực quản do trào ngược dạ dày-thực quản: 1 viên/ngày trong 4 tuần, có thể dùng tiếp trong 4 tuần nếu cần thiết.
– Loét dạ dày tiến triển: 1 viên/ngày trong 4 tuần, có thể dùng tiếp trong 2 đến 4 tuần nếu cần thiết.
– Hội chứng Zollinger-Ellison: 1-2 viên/ngày. Thời gian điều trị tùy thuộc vào đáp ứng bệnh lý.
– Loét dạ dày – tá tràng do nhiễm Helicobacter pylori: 1 viên x 2/ngày phối hợp với 2 kháng sinh khác như amoxicilline 1 g x 2/ngày + clarithromycine 500 mg x 2/ngày hoặc metronidazole.
QUÁ LIỀU
Không có trị liệu chuyên biệt, chỉ giới hạn điều trị triệu chứng.
Bệnh tai mũi họng nói chung hiện nay rất phổ biến ở nước ta. Theo thống kê, bệnh lý này chiếm 30% các bệnh thường gặp và xảy ra ở 3 cơ quan tai, mũi, họng. Riêng các bệnh lý về mũi như: viêm mũi họng cấp, viêm mũi dị ứng, viêm xoang cấp và mạn, do ô nhiễm môi trường và thời tiết thay đổi thất thường, nên bệnh thường xảy ra và số người mắc có huynh hướng tăng cao. Viêm mũi dị ứng còn được gọi là “viêm mũi xoang dị ứng” bởi vì các xoang mặt đều có lỗ thông với hố mũi ở tại các khe mũi và khi đã bị viêm mũi rất dễ dẫn đến viêm xoang. Viêm mũi dị ứng là bệnh có các triệu chứng như nhảy mũi, sổ mũi, nghẹt mũi và có thể kèm ngứa, chảy nước mắt. Còn khi bị viêm xoang, ngoài nghẹt mũi, sổ mũi kéo dài, nước mũi đặc màu vàng đôi khi màu xanh, còn bị nhức đầu, nhức vùng trán, vùng chẩm, ổ mắt, đau mỏi gáy (tùy vào vị trí xoang bị viêm).
Các loại thuốc trị bệnh lý về mũi
Mục tiêu điều trị các bệnh lý về mũi là giảm đến mức tối thiểu các triệu chứng và lựa chọn các thuốc vừa hiệu quả vừa ít có tác dụng phụ độc hại. Có nhiều nhóm thuốc trị bệnh lý về mũi và được phân ra 2 loại thuốc uống và thuốc dùng tại chỗ (nhỏ hoặc phun xịt vào mũi) như sau:
Loại thuốc uống
Nhóm thuốc uống kháng histamin trị dị ứng: như clorpheniramin, loratidin giúp giảm triệu chứng ngứa mũi, nhảy mũi, sổ mũi, chảy nước mắt nhưng không có tác dụng đối với nghẹt (tắc) mũi.
Nhóm thuốc uống cường giao cảm gây co mạch: gồm ephedrin, pseudoephedrin, phenylpropanolamin, giúp thông mũi, trị nghẹt mũi tốt.
Nhóm thuốc uống glucocorticoid: như prednison, dexamethason, chỉ uống khi bị viêm mũi xoang nặng và mạn tính.
Nhóm thuốc uống kháng sinh: dùng khi bệnh lý về mũi có liên quan đến nhiễm khuẩn.
Loại thuốc dùng tại chỗ (nhỏ hoặc phun xịt vào mũi):
Thuốc co mạch nhỏ mũi: chứa dược chất như naphtazolin, oxymetazolin… có tác dụng thông mũi tốt nhưng chỉ nên nhỏ mũi trong thời gian ngắn 7 ngày. Lý do là nếu dùng lâu bị quen thuốc, bị hiệu ứng “dội” phải tăng liều, nếu không tăng liều bị nghẹt mũi nặng hơn, đưa đến vòng lẩn quẩn là bị “viêm mũi do thuốc”. Đối với trẻ nhỏ, không nên dùng thuốc nhỏ mũi loại này vì có thể gây choáng, tím tái.
Thuốc glucocorticoid xịt mũi: thuốc hiệu quả trong trị viêm mũi dị ứng, dùng lâu dài nhằm phòng ngừa viêm mũi dị ứng.
Thuốc nhỏ mũi hoặc phun xịt NaCl 0,9% (chứa dung dịch còn được gọi là nước biển, nước muối sinh lý): có tác dụng rửa mũi, giải tỏa dịch nhầy trong mũi giúp thông thở và giảm sổ mũi. Nên dùng thuốc loại này cho trẻ con giúp thông, sạch mũi.
Phòng ngừa các bệnh liên quan đến mũi
Người dễ bị bệnh liên quan đến mũi thường là người có cơ địa nhạy cảm, dễ bị dị ứng. Vì vậy cần thực hiện các biện pháp sau:
Giữ ấm khi trời trở lạnh, tránh dùng thuốc và thực phẩm gây dị ứng; làm sạch thông thoáng môi trường để không tiếp xúc với bụi nhà, khói thuốc lá; không nuôi hoặc tiếp xúc với vật nuôi (chó, mèo) gây dị ứ
Không nên sử dụng cây hít mũi thường xuyên như một thói quen vì sẽ gây nghẹt mũi do thuố
Không dùng tay ngoáy mũi để tránh tổn thương niêm mạc mũ
Kiên trì rèn luyện thân thể, tránh uống rượu, tránh hít khói thuốc lá để nâng cao mức đề kháng của cơ thể.
Nếu cần, có thể dùng nước ấm hoặc nước muối sinh lý để vệ sinh, rửa mũ
Xin được nhắc lại, trẻ con không nên dùng thuốc nhỏ mũi có tác dụng co mạch mà chỉ nên dùng dung dịch nước muối sinh lý nêu trên giúp thông, sạch mũi mới an toàn.
Semen euryales Ferox. Họ Khoa Học: Họ Súng (Nymphaeaceae).
Tên khác:
Kê đầu thực (Bản Kinh), Kê Đầu, Nhạn Đầu, Ô đầu (Phương Ngôn), Vỉ Tử (Bản Thảo Kinh Tập Chú), Thủy Lưu Hoàng (Đông Ba Tạp Kỷ), Thủy kê đầu (Kinh Nghiệm Phương), Cư Tắc Liên, Đại Khiếm Thực, Hộc Đầu, Hồng Đầu, Kê Đầu Bàn, Kê Đầu Lăng, Kê Đầu Liên, Kê Đầu Thái, Kê Túc, Kê Ung, Kê Vị Nhi, Khiếm Kê Ung, Khuê Khiếm Thực, Lăng Mao, Nam Khiếm Thực, Ngẫu Sao Thái, Ngô Kê, Nhạn Minh, Nhạn Thật, Nhạn Thiện, Nhạn Trác, Nhạn Trác Thực, Noãn Lăng, Phù Đầu, Thủy Trung Đan, Vỉ Quyết, (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển), Khiếm Thực Mễ, Đại Khiếm Thực, Kê Đầu (Đông Dược Học Thiết Yếu), Khiếm Thật (Việt Nam). Khiếm thực mễ, kê đầu mễ, thích liên ngẫu.
Mô Tả:
Hạt chắc, hình cầu, màu đen, thịt trắng ngà là tốt.
Địa Lý:
Chưa thấy trồng ở Việt Nam.
Thu Hái, Sơ Chế:
Tháng 9-10 hái quả chín về, xay cho vỡ ra, xẩy lấy hạt rồi lại xay bỏ vỏ hạt, lấy nhân phơi khô hoặc sấy khô.
Bộ Phận Dùng:
Quả (Semen Euryales). Khiếm thực Trung Quốc dùng quả. Khiếm thực Việt Nam dùng củ Súng thay thế.
Mô tả dược liệu:
Hình tròn, đường kính khoảng 0,6cm. Một đầu mầu trắng, chiếm khoảng 1/3, toàn thể hình tròn lõm xuống, đầu kia mầu đỏ nâu, chiếm 2/3 toàn thể. Ngoài mặt bằng trơn, có sâm hoa. Chất cứng, dòn. Cắt ra thì chỗ cắt không bằng phẳng, mầu trắng bạch, có chất bột.
Phân biệt tính chất, đặc điểm:
Khiếm Thực
Vị thuốc có dạng hình cầu, thường là hạt bị nứt, hạt nào lành, đường kính 5 – 8mm, trên bề mặt có lớp vỏ trong màu đỏ nâu, một đầu mầu trắng vàng, chiếm khoảng 1/3 hạt, có ngấn mắt hạt lõm xuống, bóc lớp vỏ trong sẽ lộ ra nhân mầu trắng. Chất tương đối rắn, mặt cắt mầu trắng, có tinh bột, không mùi, vị nhạt.
Bào Chế:
+ Phơi thật khô, chưng cho chín, bỏ vỏ, lấy nhân, tán bột (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
+ Bỏ tạp chất, mốc mọt và thứ thịt màu đen, sao vàng, tán nhỏ, để dành dùng (Phương Pháp Bào Chế Đông Dược).
+ Sao Khiếm thực: Lấy cám bỏ vào nồi (cứ 50kg Khiếm thực, dùng 5kg cám), rang nóng, đợi khi khói bay lên, cho Khiếm thực vào, sao cho mầu hơi vàng, lấy ra, sàng bỏ cám, để nguội là được (Dược Tài Học).
Bảo Quản:
Rất dễ bị mọt, nên phơi hoặc sấy cho thật khô, sao vàng, bỏ vào thùng đậy thật kín.
Thành phần hóa học:
+ Trong Khiếm thực có nhiều tinh bột và Catalaza (Trung Quốc Thực Vật Học Tạp Chí 1987, 51: 324).
+ Trong Khiếm thực có 4,4% Protid, 0,2% Lipid, 32% Hydrat Carbon, 0,009% Calcium, 0,11% Phosphor, 0,0004% Fe, 0,006% Vitamin C (Trung Quốc Trung Ương Vệ Sinh Sở 1957).
+ Trong Khiếm thực có Calcium, Phosphor, Thiamine, Nicotinic acid, Vitamin C, Carotene (Trung Dược Học).
Tác dụng Dược Lý:
Chưa thấy tài liệu nào nghiên cứu.
Tính vị:
+Vị ngọt, sáp, tính bình, không độc (Bản Kinh).
+Vị ngọt. Thuốc khô thì ấm, thuốc tươi thì mát (Dược Phẩm Hóa Nghĩa).
+Vị ngọt, tính sáp, khí bình, không độc (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
+Vị ngọt, sáp, tính bình (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy Kinh:
+Vào kinh Can, tỳ, Vị (Dược Phẩm Hóa Nghĩa).
+Vào kinh Tâm, Thận, tỳ, Vị (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
+Vào kinh tỳ, Thận (Trung Dược Học).
+Vào kinh Tâm, Thận (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tác dụng, Chủ Trị:
+Bổ trung, ích tinh khí, cường chí, làm sáng mắt, làm tai nghe rõ (Bản Kinh).
+Bổ tỳ, Thận, bền tinh tủy. Trị đái hạ, di tinh, tiểu nhiều, lưng đau, gối mỏi (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Liều Dùng: 12-20g.
Kiêng Kỵ:
+ Ăn nhiều Khiếm thực không bổ cho Tỳ Vị mà làm tiêu hóa khó (Bản Thảo Diễn Nghĩa).
+Táo bón, tiểu không thông : không dùng (Đông Dược Học Thiết Yếu).
* Những cấm kỵ trong khi dùng thuốc:
Khiếm thực thuộc loại thuốc bổ liễm sáp, người nào đại tiểu bất lợi không nên dùng.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị hoạt tinh (di tinh, tiết tinh…): Khiếm thực (chưng) 80g, Liên tu 80g, Liên tử 80g, Long cốt 40g, Mẫu lệ 40g, Sa uyển tật lê 80g, Liên tử tán bột để riêng, nấu làm hồ để trộn với thuốc bột của các vị kia, làm thành hoàn. Ngày uống 16 – 20g (Kim Tỏa Cố Tinh Hoàn – Y Phương Tập Giải).
+ Trị mộng tinh, hoạt tinh: Kê đầu nhục (Khiếm thực) 60g, Liên hoa nhụy 30g, Long cốt 60g, Ô mai nhục 60g. Tán bột. Lấy Sơn dược chưng chín, bỏ vỏ. Nghiền nát như cao, trộn thuốc bột làm viên to bằng hạt đậu nhỏ. Mỗi lần uống 30 viên với nước cơm, lúc đói (Ngọc Tỏa Đơn – Lỗ Phủ Cấm phương).
+Trị di tinh, bạch trọc: Khiếm thực, Kim anh tử. Trước hết lấy Khiếm thực gĩa nát, phơi khô, tán bột, trộn với cao Kim anh làm viên. Ngày uống 8-12g (Thủy Lục Nhị Tiên Đơn -Thông Hành).
+Trị đới hạ do thấp nhiệt: Khiếm thực, Hoàng bá, Xa tiền tử, sắc uống (Trung Dược Học).
+ “Ông Đông Viên nói rằng: Khiếm thực ích tinh, trị bạch trọc, kiêm cả bổ nguyên khí, người bị yếu nhược, hư lao, lưng đau, gối mỏi, mắt mờ, uống được nó nhiều thì mạnh trí khí, tai mắt, tinh thần, thân thể cường tráng, lâu gìa (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
+ “Xét về phần tiêu hóa thì không ưa ẩm ướt quá, về các mạch nước thì không thể khô ráo quá, phần dùng thuốc chữa về tỳ, Thận, thường phản nhau. Chỉ có Khiếm thực lại hợp được cả 2: khí vị ngọt mát, thơm bùi, không ẩm ướt quá, chất dẻo, vị chát mà lại nhuận, không khô ráo quá, vì vậy vững được Thận mà bổ được tỳ. Tuy nhiên, cũng không nên uống Khiếm thực 1 mình, phải thêm những vị thuốc bổ khí thì mới dễ tiêu. Đừng nên ăn Khiếm thực 1 mình nhiều quá sẽ khó tiêu vì Khiếm thực nhiều chất mát, ăn nhiều quá sẽ đầy bụng khó tiêu, nhất là trẻ nhỏ, đừng nên ăn nhiều quá sẽ khó lớn lên được” (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
“Hoàng Cung Tú nói: ‘Khiếm thực bổ Tỳ như thế nào? Là dựa vào vị ngọt của nó. Khiếm thực cố Thận như thế nào? Là dựa vào vị sáp của nó. Công hiệu tương tự như Sơn dược, nhưng vị ngọt của Sơn dược nhiều hơn Khiếm thực, còn vị sáp của Khiếm thực lại hay hơn Sơn dược. Vả lại Sơn dược kiêm bổ Phế âm còn Khiếm thực thì chỉ ở Tỳ Thận mà không đến được Phế. Tuy Khiếm thực có thể bình bổ Tỳ Thận nhưng chậm, vì vậy, phải dùng nhiều và uống lâu mới thấy công hiệu” (Đông Dược Học Thiết Yếu)
Những bài thuốc bổ dưỡng từ khiếm thực:
Khiếm thực trà (trà khiếm thực)
Khiếm thực vừa phải
Hạt sen vừa phải
Hạt ý dĩ vừa phải
Độc cước kim vừa phải
Đăng tâm thảo vừa phải
Cho nước sắc chung, lấy nước uống thay trà.
Dùng cho người can vượng tỳ hư, có biểu hiện của can nhiệt và tự ra mồ hôi.
Khiếm thực chúc (cháo khiếm thực)
Khiếm thực 100g – Gạo nếp 250g
Trước hết ninh khiếm thực cho nhừ, bỏ vỏ, cho gạo nêp vào nấu cháo, ăn tuỳ thích.
Dùng để chữa bệnh tỳ hư ỉa chảy, di tinh, đái dấm, thâp nhiệt, đới hạ v.v. ..
Khiếm thực đại táo chúc (cháo khiếm thực, táo tầu)
Khiếm thực 100g – Cùi hồ đào 20g
Táo tầu 20 quả – Đường trắng vừa phải
Khiếm thực đập nát, hồ đào nghiền nát cả vỏ, táo tầu
ngâm kỹ bỏ vỏ, bỏ hạt, bỏ lẩn với nhau nấu cháo như bình thường. Cho vừa đường, ăn ngày 2 lần, làm món điểm tâm.
Dùng để chữa bệnh viêm phế quản mạn tính, người già hư suyễn v.v…
Khiếm thực bạch quả chúc (cháo khiếm thực, ngân hạnh)
Khiếm thực 30g – Ngân hạnh 10 quả
Gạo nếp 30g
Nấu cháo ngày 1 lần, 10 ngày là 1 liệu trình: Uống từ 2 liệu trình, giữa các liệu trình cần ngừng nghỉ.
Dùng cho người thận hư di tinh, đái không tự chủ, khí hư ra mãi không thôi.
Khiếm thực kim anh chúc (cháo kim anh, khiếm thực)
Khiếm thực 20g – Hạt Kim anh 15g
Gạo lức 100g – Đường trắng 20g
Hạt Kim anh bỏ nhân, cùng khiếm thực sắc trong nồi đất, bỏ bã lấy nước, cho gạo vào nấu cháo, cháo chín pha vừa đường trắng vào ăn. 1 ngày 1 – 2 lần, mỗi lần 1 bát.
Dùng cho người thận hư di tinh, đái dầm, bạch đới quá nhiều, tỳ hư ỉa chảy v.v…
Khiếm thực phục linh chúc (cháo phục linh khiếm thực)
Khiếm thực 15g – Gạo tẻ vừa phải
Phục linh 10g
Khiếm thực, phục linh giã nát, cho nước vào sắc đến mềm nhũn, cho gạo vào nấu cháo. Chia bữa ra ăn hết trong ngày. Ản liền 1 số ngày.
Chữa thận hư khi nhược, tiểu tiện bất lợi, nước giải có kén đục…
Khiếm thực liên tử phạn (cơm khiếm thực hạt sen)
Gạo tẻ 500g – Khiếm thực 50g
Hạt sen 50g
Gạo vo sạch, hạt sen ngâm nước sôi cho nở, bỏ tâm, vỏ, khiếm thực ngâm nước sôi cho nở. Trộn lẫri bỏ nồi, cho nước vào nấu cơm ăn.
Chữa bệnh di tinh, ỉa chảy.
Khiếm thực liên tử an thần thang (thang khiếm thực, hạt sen an thần)
Khiếm thực 10g – Phục thần 20g
Hạt sen 40g – Đường trắng 1 thìa
Hạt sen ngâm nước sôi 1 giờ, bỏ tám; khiếm thực, phục thần rửa nhanh, ninh cùng hạt sen 1 giờ (nhỏ lửa); cho đường vào ninh tiếp 1 giờ nứa cho hạt sen khiêm thực nhừ toi. Làm món ăn điểm tâm. Chọn bỏ bã phục thần, khiếm thực và hạt sen nhai kỹ, nuốt từ từ cho hết.
Dùng để chữa bệnh đêm ngủ không ngon, mộng di nhiều v.v…
Khiếm thực hoàng kỳ báo đại tràng (khiếm thực, hoàng kỳ ninh lòng lợn)
Lòng già lợn 1 bộ – Hoàng Kỳ 30g
Khiếm thực 30g
Rửa sạch nấu chín làm món ăn, ăn lòng, húp thang.
Chữa bệnh ỉa chảy, lòi dom.
Khiếm thực trư vĩ (khiếm thực đuôi lợn)
Đuôi lợn 1 cái – Hạt sen 45g
Khiếm thực 45g – Táo Tầu 5 quả
Đuôi lợn rửa sạch, chặt miếng, hạt sen rửa sạch, bỏ vỏ, tâm, táo tầu rửa sạch, bỏ hạt. Cho cả vào nồi đổ 3 bát nước, đun sôi, hầm nhỏ lửa 2 giờ, cho mắm muối gia vị, ăn vã hoặc ăn với cơm.
Dùng để chữa các chứng: tỳ hư bất vận, ỉa chảy lâu không cầm, ăn ít thiếu lực, tiêu gầy v.v…
Háo là chỉ chứng trạng thường gặp trên lâm sàng có đặc trưng là hô hấp gấp gáp, trong họng có tiếng khò khè như tiếng sáo thổi. Vì Háo tất kiêm cả Suyễn, cho nên gọi chung là Háo Suyễn.
Trong sách vở y học nhiều đời, chứng Háo mang nhiều tên. Trong sách Tố vấn gọi là “Suyễn minh”. Trong mục Phế nuy Phế ung khái thấu thượng khí bệnh mạch chứng tính trị sách Kim quỹ yếu lược có nói “Trong họng có tiếng khò khè như gà”. Sách Chư bệnh nguyên hậu luận thì gọi là “Áp thấu”, mãi đến Chu Đan Khê đời Nguyên mới chính xác gọi là “Háo”, về sau lại có các tên gọi là Háo suyễn, Háo hông, Hông suyễn.v.v…
Tuy nhiên Háo tất kiêm Suyễn, nhưng Suyễn vị tất kiêm Háo, cho nên Háo và Suyễn vẫn cần phân biệt, có thể tham khảo ở chứng Khí suyễn.
Háo suyễn do hàn đờm ngăn trở Phế: Thuộc phạm vi lãnh háo, gặp lạnh thì phát cơn, thường biểu hiện là hô hấp gấp gáp, trong họng có tiếng khò khè, hung cách đầy tức, đờm trắng dính hoặc trong loãng nhiều bọt, sắc mặt tái và tối trệ, không khát hoặc khát thích uống nóng, rêu lưỡi trắng trơn, mạch Phù Khẩn, hoặc kiêm biểu chứng như ố hàn, phát nhiệt, không mồ hôi, đau mình mẩy.v.v…
Háo suyễn do nhiệt đờm ngăn trở Phế: Chứng này thuộc phạm vi nhiệt háo, gặp nóng thì phát cơn; biểu hiện lâm sàng chủ yếu là hô hấp gấp gáp, trong họng có tiếng khò khè, tiếng cao thở thô, phiền muộn không yên, đờm vàng keo dính khó ho, mặt đỏ tự ra mồ hôi, khát muốn uống nước, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch Hoạt Sác hoặc có kiêm biểu chứng như phát nhiệt, hơi ố phong hàn, đau đầu.v.v…
Háo suyễn do hàn nhiệt lẫn lộn: Chứng trạng biểu hiện là hô hấp gấp gáp, trong họng có tiếng khò khè, đờm vàng keo dính hoặc đờm trắng dính khó khạc ra. Tâm phiền ngực khó chịu, kiêm chứng ố hàn phát nhiệt, không mồ hôi,đau đầu đau mình, rêu lưỡi trắng xen vàng, mạch Phù Khẩn mà Sác.
Háo suyễn do dương hư đờm ngăn trở: Cũng thuộc phạm trù lãnh háo, biểu hiện là hô hấp gấp gáp. trong họng có tiếng khò khè, đoản hơi không tiếp nối, động làm bệnh tăng, mặt nhợt vã mồ hôi, cơ thể ớn lạnh tay chân lạnh, chất lưỡi nhợt trắng non bệu hoặc tía nhạt, mạch Trầm Nhược vô lực.
Háo suyễn do Âm hư đàm ngăn trở: Cũng thuộc phạm vi nhiệt háo; biểu hiện chủ yếu là hô hấp gấp gáp, trong họng có tiếng khò khè, đờm dính mà ít, họng khô thể trạng gầy còm, hư phiền mồ hôi trộm, lưỡi đỏ ít tân dịch, rêu lưỡi vàng mỏng, mạch Tế Sác.
Phân tích
Chứng Háo suyễn do hàn đầm ngăn trở Phê với chứng Háo suyễn do nhiệt đờm ngăn trở Phế: Đây là hai chứng rất hay gặp trong Háo suyễn. Mục Háo bệnh sách Chứng trị vâng bổ viết: “Háo là đờm suyễn kéo dài mà thường phát cơn, vì bên trong khí bị úng tắc, bên ngoài lại cảm nhiễm thời tiết trái mùa, vùng cách có đờm kéo dính… ba nguyên nhân này câu kết với nhau, vít lấp khí đạo, quẩn lại thành tiếng phát sinh bệnh Háo”, “vùng cách có đờm keo dính” đó là cơ chế bệnh cộng đồng của hai chứng này, nhưng về tính chất đờm, một thuộc hàn một thuộc nhiệt, khác nhau rất xa, Háo suyễn do hàn đờm ngăn trở Phế thì sắc đờm trắng và dính hoặc trong loãng nhiều bọt, Háo suyễn do nhiệt đờm ngăn trở Phế thì sắc đờm vàng keo dính, ho mửa khó khăn.
Tiếp theo là phải căn cứ vào chứng trạng toàn thân mà chuẩn đoán phân biệt. Háo suyễn do hàn đờm ngăn trở phế xuất hiện các hiện tượng về hàn như sắc mặt tái mà tối trệ, không khát, hoặc khát mà không thích uống nước nóng và có kiêm biểu chứng chủ yếu là ố hàn. Háo suyễn do nhiệt đờm ngăn trở Phế xuất hiện các hiện tượng về nhiệt như mặt đỏ tự ra mồ hôi, miệng khát muốn uống nước, lưỡi đỏ rêu vàng.v.v… và có kiêm biểu chứng chủ yếu là phát nhiệt, lại hơi SỢ phong hàn. Loại trên điều trị nên ôn Phế tán hàn, hóa đờm chỉ háo, chọ dùng phương Tiểu Thanh long thang. Loại sau điều trị nên tuyên Phế thanh nhiệt, hóa đờm chỉ háo, có thể dùng Việt Tỳ gia Bán hạ thang gia giảm.
Chứng Háo suyễn do hàn nhiệt lẫn lộn: Chứng này do nhiệt đờm ẩn náu ở Phế hoặc hàn đờm bị uất hóa nhiệt phục sẩn trong Phế, tà khí phong hàn bó ở ngoài biểu gây nên, tục gọi là “Hàn bao hỏa”. Bên trong có đờm vàng dính hoặc đờm trắng dính khó khạc, trong ngực phiền nhiệt thuộc chứng đờm nhiệt, bên ngoài lại có chứng biểu hàn như các chứng trạng ố hàn phát nhiệt, không mồ hôi, đau đầu đau mình, tức là chứng biểu hàn lý nhiệt. Điều trị nên tán hàn thanh nhiệt, tuyên Phế hóa đờm, cho uống Định suyễn thang gia giảm.
Chứng Háo suyễn do dương hư đờm ngăn trở với chứng Háo suyễn do âm hư đờm ngăn trở: Hai chứng này đều là trong hư kiêm thực, chuẩn đoán phân biệt phải lấy chứng trạng toàn thân làm trọng điểm. Loại trên thuộc chứng dương hư nội hàn, phần nhiều thấy mặt trắng nhợt, ra mồ hôi, cơ thể ớn lạnh chân tay lạnh, miệng nhạt không khát, đoản hơi khó tiếp nối, làm việc bệnh tăng, tiểu tiện trong đại tiện nhão, chất lưỡi trắng nhạt non bệu hoặc tía nhạt, mạch Trầm Nhược vô lực. Loại sau thuộc chứng âm hư, phần nhiều thấy gầy còm họng khô, triều nhiệt mồ hôi trộm, ngũ Tâm phiền nhiệt, về chiều gò má đỏ, lưỡi đỏ ít tân dịch, mạch Tế Sác. Thuộc dương hư thì phần nhiều đờm sắc trắng trong loãng. Thuộc âm hư phần nhiều đờm sắc vàng keo dính. Loại trên, điều trị theo pháp ôn dưỡng ích khí kiêm giáng khí hóa đờm, dùng Kim quỹ Thận khí hoàn hợp với Tam tử dưỡng thân thang gia giảm. Loại sau, điều trị theo phép dưỡng âm thanh nhiệt, giáng khí hóa đờm, chọn dùng phương Mạch môn đông thang gia vị
Chứng Háo suyễn do hàn đờm ngăn trở Phế với chứng Háo suyễn do dương hư đờm ngăn trở: cả hai khạc ra đờm đều thấy sắc trắng trong loãng, hiện tượng hàn ở toàn thân rất rõ. Nhưng một là thực hàn, một là hư hàn, cần lưu ý phân biệt. Háo suyễn do hàn đờm ngăn trở Phế không biểu hiện khí hư rõ rệt, mà Háo suyễn do dương hư đờm ngăn trở thì có những biểu khí hư như đoản hơi không tiếp nối, mệt mỏi vô lực, tự ra mồ hôi, động làm thì bệnh tăng, chất lưỡi nhạt bệu, mạch Trầm Nhược vô lực.
Chứng Háo suyễn do nhiệt đờm ngăn trở Phê với chứng Háo suyễn do âm hư đờm ngăn trở: Cả hai khạc ra đờm đều có sắc vàng keo dính, có hiện tượng nhiệt toàn thân rõ rệt. Nhưng một là nhiệt thực, một là hư thực, cần phải phân biệt.
Háo suyễn do nhiệt đờm ngăn trở Phế, không biểu hiện về âm huyết bất túc; còn Háo suyễn do âm hư đờm ngăn trở có những đặc trưng âm hư nội nhiệt như: gầy còm họng khô, triều nhiệt mồ hôi trộm, ngũ Tâm phiền nhiệt, gò má đỏ, lưỡi đỏ ít tân dịch, mạch tế Sác.
Háo suyễn là loại bệnh phát từng cơn, biện chứng và điều trị khi phát cơn như đã nói ở trên. Sau khi đã hết cơn, chính khí tất yếu, cho nên khi háo suyễn ở thời kỳ qua cơn
nên phù chính, có thể qua hai tạng Tỳ, Thận mà ra tay điều trị, căn cứ vào lý luận “ Tỳ là gốc hậu thiên”, “ Thận là gốc tiên thiên”., để mà kiện Tỳ, bổ Thận và chiếu cố cả tuyên Phế. Ngoài ra, cũng cần chú ý đến việc điều lý thức ngủ ăn uống, qua đó mà giảm bớt cơn, chữa từ gốc bệnh.
Trích dẫn y văn
Chứng Háo hống, nếu tập trung về đờm, nên dùng phép thể. Cũng có trường hợp vì yếu không dùng phép thể được. Bệnh này là “ Hàn bao nhiệt”, phép trị phải dùng vị thuốc tư dưỡng nhẹ nhàng, không được dùng thuốc hàn lương đơn thuần, nên thường kèm thuốc biểu tán (Háo hống – Cổ kim y giám).
Ăn thức chua mặn thái quá, thẩm thấu vào khí quản đờm lấn vào kết tụ, một khi gặp phong hàn, khí uất đờm úng là phát cơn, hay phát vào mùa Đông Xuân (Suyễn háo
Y hiển).
Đại để bệnh mới phát nhiều là thực, bệnh đã lâu phần nhiều là hư, họng như kéo cưa là hư, như thủy kê là thực. Gặp phong là hàn mà phát cơn lãnh háo, là thực. Bị thương thử nhiệt mà phát cơn là nhiệt báo, là hư. Các loại Diêm háo, Tửu háo, Đường háo đề là hư háo (Háo chứng
Phản ứng miễn dịch bệnh lý do ăn thức ăn, thường qua trung gian là các IgE.
Căn nguyên
Dị ứng thức ăn hay gặp ở những người có tiền sử gia đình hoặc bản thân bị dị ứng (như hen, chàm, mày đay), ở châu Âu, các thức ăn thường gây dị ứng là (theo thứ tự giảm dần): trứng, cá và tôm cua, sữa bò, hạt có dầu (hạt dẻ, hạnh nhân lạc), cần tây, anh đào, đào, táo, lê, sôcôla, dâu tây, lúa mì, đậu tương, vừng. 2% trẻ được nuôi bằng sữa bò bị dị ứng với protein có trong sữa bò (xem không dung nạp sữa bò). Những phụ gia thực phẩm cũng có thể là dị nguyên, nhất là tartrazin, natri glutamate (mì chính) và metabisulfit.
Triệu chứng
Rối loạn tiêu hoá: buồn nôn, nôn, khó tiêu sau khi ăn, đau quặn bụng, viêm đại tràng, phù Quincke ở lưỡi và ở niêm mạng miệng, loét miệng
Da: ngứa, nổi mày đay, phù mạch, phù Quincke, chàm nặng lên.
Rối loạn hô hấp: viêm mũi-viêm kết mạc, hen, viêm tai (hanh mạc, viêm phế quản tái phát.
Rối loạn khác: nhức đầu (“nhức đầu do thức ăn”), sốc phản vệ (6% sốc phản vệ là do dị ứng với thức ăn).
Phản vệ sau bữa ăn xuất hiện khi gắng sức: phản ứng liên quan đến một thức ăn đặc hiệu được ăn vào trước khi gắng sức (ví dụ đi bộ nhanh), biểu hiện bởi các rối loạn toàn thân, đôi khi bị truy tim.
Trẻ còn bú: tiêu chảy, chàm, hen và viêm mũi. Nếu không được điều trị, dị ứng với sữa bò có thể dẫn đến rối loạn hấp thu nặng.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Định lượng các IgE toàn phần (người có cơ địa dị ứng).
Định lượng các IgE đặc hiệu.
Định lượng tryptase (enzym được giải phóng từ các hạt của các dưỡng bào) huyết thanh.
Khám bổ sung
Tìm hiểu về thức ăn: ghi chép tất cả mọi thứ đã ăn trong 1 tuần (ghi cả nhãn, các triệu chứng tiêu hoá và toàn thân, ghi rõ cả giờ giấc).
Chế độ ăn nhằm loại trừ: khó phân tích và ít có giá trị
+ Thải dị nguyên nghi ngờ và quan sát các triệu chứng khi đưa lại dị nguyên vào cơ thể.
+ Chế độ ăn ít gây dị ứng: trong 2 – 4 tuần, không ăn trứng, cá, rau quả sống, cần tây, rau dền, cà chua. Chỉ ăn thịt gia cầm, cừu non, thỏ. Nước, cà fê, chè loãng. Không dùng đồ nấu bằng inox (dị ứng với niken). Nếu thuyên giảm rõ rệt thì rất có thể là bị dị ứng thức ăn.
Định lượng toàn bộ các IgE: cơ địa dị ứng
Định lượng IgE đặc hiệu: gây mẫn cảm với một dị nguyên.
Test RAST: có thể khẳng định chẩn đoán bằng việc phát hiện các IgE đặc hiệu khi đã có kháng nguyên nghi ngờ qua chế độ ăn nhằm loại trừ.
Test bì (test Prick, test nội bi): kết quả không chắc chắn.
Chẩn đoán phân biệt: cần phân biệt dị ứng thức ăn với
Ngộ độc thức ăn: (xem viêm dạ dày-ruột cấp).
Không dung nạp thức ăn (không do cơ chế miễn dịch): do các phản ứng hoá-lý mà một số thức ăn gây ra như lactose (thiếu enzym), cà fê (tác dụng dược lý). Nổi mày đay do dâu tây (dưỡng bào giải phóng các chất có tác dụng lên mạch máu) hoặc một số thức ăn chứa nhiều histamin (fomat lên men, rượu, cá hộp) không được coi là dị ứng.
Điều trị
Không ăn thức ăn gây dị ứng. Uống các thuốc kháng histamin hoặc acid cromoglicic không chắc chắn có tác dụng. Để điều trị các rối loạn toàn thân nặng —> xem phù Quincke, hen, sốc phản vệ.
GHI CHÚ – hội chứng dị ứng miệng (tiếng Anh: “Oral Allergy Syndrome”): sau khi ăn một thứ thức ăn (thường là rau hoặc quả) có phản ứng quá mẫn tức khắc ở miệng-họng (ngứa, khó chịu trong họng, phù lưỡi), sau đó là các triệu chứng dị ứng đường tiêu hoá, đôi khi có cả triệu chứng toàn thân (nổi mày đay cấp, phù mạch, co thắt phế quản, sốc phản vệ). Trong phần lớn số trường hợp, hội chứng này xảy ra ở những người bị dị ứng hô hấp, nhất là do phấn hoa (ví dụ: ngứa miệng do ăn táo ở người dị ứng với phấn hoa cây bulô.
1/ Không nên dùng dầu xăng, dầu điêzen, dầu hoả để lau quạt máy. Nó sẽ làm cho quạt bị tróc sơn.
2/ Không nên dùng vải thô, bàn chải để lau chải quạt máy. Nên dùng vải mịn và mềm để lau bụi bẩn ở trên quạt.
3/ Không nên dùng vải ni-lông để bọc quạt máy. Bởi vì vải ni-lông có chất axit benzôic dễ làm cho rộp lớp sơn.
4/ Không nên cất quạt ở nơi ẩm thấp hoặc nơi nhiệt độ quá cao. Để ở chỗ quá nóng thì dễ tróc sơn, để ở chỗ ẩm thấp thì dễ bị han gỉ.
5/ Không nên dùng nước lã để rửa quạt máy. Dùng nước lã để rửa sẽ bị han gỉ, dễ tổn hại đến các bộ phận ở bên trong quạt.
6/ Không nên dùng dầu xăng, dầu hoả, dầu điêzen để bôi trơn. Nên dùng dầu máy khâu để bôi trơn là tốt nhất.
Mở quạt máy không nên bắt đầu bằng số chậm
Quạt máy nào cũng có số nhanh, chậm, khi chuyển động bình thường thì càng quay nhanh, tiêu thụ điện càng nhiều, quạt quay chậm tốn ít điện. Song khi bắt đầu khởi động thì tình hình lại không như vậy.
Bởi vì khi khởi động ở tốc độ chậm, điện áp của nguồn điện sau khi đi qua giảm áp của núm điều chỉnh tốc độ rồi mới đến vòng quay của quạt, do điện áp thấp nên việc khởi động có khó khăn. Như vậy dòng điện lưu lớn phải qua một vòng dài, thời gian lâu mới quay được, lượng phát nhiệt của vòng dây tăng lên. Khi khởi động ,tốc độ càng chậm, quạt máy toả nhiệt càng cao. Toả nhiệt càng cao thì tuổi thọ của quạt máy càng giảm. Cho nên mở quạt máy không nên bắt đầu bằng số chậm. Tốt nhất là khi mở quạt máy nên mở ở số cao, khi quạt chạy bình thường rồi hãy chuyển sang số chậm.
Không nên lau rửa quạt máy bằng nước và dầu xăng trước khi cất giữ
Sang thu, thời tiết dần mát mẻ, không cần dùng đến quạt máy nữa, trước khi cất đi, tuyệt đối không nên dùng nước lã và dầu xăng để lau rửa quạt máy.
Bởi vì dùng nuớc để rửa quạt, dễ làm cho các linh kiện ở bên trong quạt máy bị gỉ; nếu dùng dầu xăng, dầu ma-dút hoặc dầu hoả để lau quạt, tuy dễ lau đi những bụi bậm bám vào quạt, nhung lại làm cho lớp sơn trên quạt bị tróc ra. Cho nên khi cất giữ quạt máy không nên dùng nuớc và dầu xăng để lau rửa. Chỉ cần dùng vải mềm lau kỹ là đuợc. Sau khi lau sạch không nên dùng ni-lông để bọc quạt, bởi vì trong ni lông có một chất hoá học là axit benzôic có thể làm tróc sơn, mà chỉ nên dùng vải để gói, rồi để vào nơi thoáng mát, khô ráo là đuợc.
Bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim là một cấp cứu nội khoa, tiến triển khó lường trước được, nhiều biến chứng rất nguy hiểm có thể đe dọa đến tính mạng bệnh nhân nếu chúng ta không điều trị và chăm sóc kịp thời. Vì vậy người điều dưỡng khi tiếp xúc với bệnh nhân cần phải nhẹ nhàng, ân cần và chăm sóc kịp thời.
Đánh giá bằng cách hỏi bệnh
Có bị đau ngực không và tính chất của cơn đau?
Trước đây có hay bị đau như vậy không?
Khi đau có dùng thuốc hay cơn đau tự hết?
Khi nằm nghỉ cơn đau có giảm không?
Có bị tăng huyết áp không?
Gần đây nhất có dùng thuốc gì không?
Có buồn nôn, nôn và rối loạn tiêu hoá không?
Có bị bệnh tim trước đây không?
Có lo lắng hay bị sang chấn gì không?
Các thuốc đã dùng trước đây như thế nào?
Tình trạng tình trạng tinh thần: lo lắng, sợ hãi?
Tình trạng da và mồ hôi như thế nào?
Tuổi trẻ hay lớn tuổi?
Bệnh nhân mập hay gầy?
Quan sát và đánh giá cơn đau của bệnh nhân.
Các dấu hiệu khác.
Kiểm tra các dấu hiệu sống, chú ý tình trạng mạch và huyết áp.
Dấu hiệu thần kinh.
Vị trí đau, hướng
Số lượng nước tiểu.
Thu thập thông tin qua các xét nghiệm, qua gia đình bệnh nhân.
Các thuốc điều trị, hồ sơ bệnh án cũ nếu có của bệnh nhân.
Đánh giá bằng quan sát
Thu nhận qua thăm khám
Thu nhận thông tin
Chẩnđoánđiềudưỡng
Một số chẩn đoán về điều dưỡng có thể có ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim:
Đau ngực do nhồi máu cơ tim
Da xanh tái, toát mồ hôi, cảm giác sợ sệt do thiếu máu.
Nôn, buồn nôn do đau.
Nguy cơ tử vong do nhồi máu cơ tim có choáng.
Nguy cơ vỡ tim do nhồi máu cơ tim.
Lập kế hoạch chăm sóc
Qua khai thác giai đoạn trên giúp cho người điều dưỡng có được chẩn đoán
điều dưỡng. Người điều dưỡng cần phân tích, tổng hợp và đúc kết các dữ kiện để xác định nhu cầu cần thiết của bệnh nhân, từ đó lập ra kế hoạch chăm sóc cụ thể. Khi lập kế hoạch chăm sóc phải xem xét đến toàn trạng bệnh nhân, vấn đề
ưu tiên, vấn đề nào cần thực hiện trước và vấn đề nào thực hiện sau tuỳ từng trường hợp cụ thể.
Chăm sóc cơ bản
Để bệnh nhân nghỉ ngơi tuyệt đối, nằm ở tư thế đầu
Trấn an để bệnh nhân an tâm.
Giải thích cho bệnh nhân và gia đình về tình trạng bệnh tật.
Ăn thức ăn lỏng và dễ tiêu.
Vệ sinh sạch sẽ hàng ngày.
Cho bệnh nhân thở
Cho bệnh nhân uống thuốc và tiêm thuốc theo chỉ định.
Làm các xét nghiệm cơ bản.
Tình trạng cơn đau của bệnh nhân.
Theo dõi dấu hiệu sinh tồn và một số xét nghiệm như: điện tim, siêu âm, men
Theo dõi tác dụng phụ của thuốc.
Theo dõi biến chứng.
Thực hiện các y lệnh
Theo dõi
Giáo dục sức khoẻ
Bệnh nhân và gia đình cần phải biết các nguyên nhân, các yếu tố thuận lợi gây nhồi máu cơ tim, cũng như cách phát hiện dấu hiệu nhồi máu cơ tim, cách phòng và theo dõi bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim.
Thựchiệnkế hoạch chăm sóc
Nhồi máu cơ tim là một cấp cứu nội khoa, tiến triển khó lường, nhiều trường hợp tử vong do không được xử trí kịp thời và đúng hoặc do vùng nhồi máu cơ tim quá rộng.
Thực hiện chăm sóc cơ bản
Đặt bệnh nhân nằm nghỉ yên tĩnh, thoáng mát, cụ thể:
Trong ngày đầu chỉ cử động nhẹ các ngón tay, chân và cẳng tay.
Ngày thứ 2 có thể ngồi dậy 1 đến 2 lần, mỗi lần khoảng 5 đến 10 phút.
Ngày thứ 3 và thứ 4 có thể đi lại vài bước trong phòng.
Ngày thứ 5 và thứ 6 đi lại nhẹ nhàng trong phòng.
Ngày thứ 7 và thứ 8 có thể đi bộ ra đến hành lang.
Ngày thứ 9 trở đi có thể đi lại xa hơn, nhưng không được làm việc.
Sau 2 đến 3 tháng có thể làm việc bình thường trở lại, nhưng tránh các việc nặng và các xúc động mạnh (tối thiểu phải nghỉ ngơi yên tĩnh trong thời gian 4 tuần).
Động viên, trấn an bệnh nhân để bệnh nhân an tâm điều trị.
Luôn giữ ấm cơ thể bệnh nhân.
Ăn uống đủ năng lượng, thức ăn lỏng và dễ tiêu.
Tránh các yếu tố kích thích cho bệnh nhân.
Thuốc dùng: thực hiện đầy đủ các y lệnh khi dùng thuốc cho bệnh nhân như: các thuốc tiêm, thuốc uống phải thực hiện đầy đủ và chính xác.
Thực hiện các xét nghiệm: điện tim, các men
Dấu hiệu sinh tồn mạch, nhiệt, huyết áp, nhịp thở phải được theo dõi kỹ.
Tình trạng cơn đau.
Số lượng nước tiểu trong ngày.
Các xét nghiệm, chú ý điện tim và men tim.
Tình trạng sử dụng thuốc và các biến chứng do thuốc gây ra.
Tình trạng vận động của bệnh nhân.
Thực hiện các y lệnh
Theo dõi
Đánh giá
Phải đánh giá toàn diện bệnh nhân sau khi đã thực hiện y lệnh, thực hiện kế hoạch chăm sóc so với lúc ban đầu để đánh giá tình hình bệnh tật và từ đó có kế hoạch bổ sung vào chẩn đoán và kế hoạch chăm sóc:
Đánh giá tình trạng cơn đau của bệnh nhân so với lúc ban đầu có được cải thiện không?
Đánh giá các dấu hiệu sinh tồn có dần trở về bình thường không?
Đánh giá tình trạng thực hiện y lệnh.
Đánh giá qua các xét nghiệm, chú ý các men tim.
Đánh giá chăm sóc điều dưỡng cơ bản có được thực hiện và có đáp ứng được với yêu cầu của người bệnh không?
Đánh giá khả năng tự chăm sóc theo dõi và phòng bệnh của bệnh nhân
Những vấn đề sai sót hoặc thiếu cần bổ sung vào kế hoạch chăm sóc để thực hiện.
Tiền đái tháo đường, hay còn gọi là tiểu đường biên giới, là khi mức đường huyết của bạn cao hơn mức bình thường nhưng không đủ cao để bác sĩ chẩn đoán bạn bị tiểu đường.
Người mắc bệnh tiểu đường loại 2 hầu như luôn có tiền đái tháo đường trước đó. Tuy nhiên, nó thường không gây ra triệu chứng.
Điều trị tiền đái tháo đường có thể ngăn ngừa những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng hơn, bao gồm bệnh tiểu đường loại 2 và các vấn đề về tim, mạch máu, mắt và thận của bạn.
Bác sĩ của bạn cũng có thể gọi tình trạng này là:
Giảm dung nạp glucose (IGT)
Giảm glucose lúc đói (IFG)
Giảm điều hòa glucose (IGR)
Tăng glucose không phải tiểu đường
Triệu Chứng Tiền Đái Tháo Đường
Hầu hết mọi người không có dấu hiệu nào của tiền đái tháo đường. Nhưng bạn có thể nhận thấy rằng:
Bạn khát nước nhiều hơn bình thường.
Bạn đi tiểu nhiều.
Thị lực của bạn mờ.
Bạn cảm thấy mệt mỏi hơn bình thường.
Bạn có những vùng da tối màu hơn ở nách hoặc cổ.
Bạn có những khối u da nhỏ ở cùng khu vực.
Triệu chứng tiền đái tháo đường ở phụ nữ
Một số triệu chứng tiểu đường sớm có thể ảnh hưởng đặc biệt đến phụ nữ (và những người được xác định là nữ khi sinh) là:
Nhiễm nấm và nhiễm trùng đường tiết niệu
Chu kỳ kinh nguyệt dài hơn và nặng hơn
Giảm sự quan tâm đến tình dục
Khô âm đạo có thể gây khó chịu khi quan hệ
Khó khăn trong việc mang thai
Nguyên Nhân Tiền Đái Tháo Đường
Bạn bị tiền đái tháo đường vì bạn có hiện tượng kháng insulin. Đó là khi cơ thể bạn sản xuất insulin (một hormone giúp điều chỉnh mức đường trong máu) nhưng không sử dụng đúng cách. Điều này khiến mức đường huyết của bạn cao hơn mức bình thường.
Nguyên nhân kháng insulin
Bác sĩ không chắc chắn chính xác lý do tại sao mọi người phát triển hiện tượng kháng insulin. Nhưng một số yếu tố có thể góp phần vào đó bao gồm:
Gene di truyền
Thừa cân
Căng thẳng kéo dài
Thiếu ngủ
Thiếu vận động
Chế độ ăn nhiều thực phẩm chế biến sẵn
Một số tình trạng hormone, chẳng hạn như hội chứng Cushing và suy giáp
Một số loại thuốc, chẳng hạn như thuốc steroid sử dụng lâu dài
Yếu Tố Nguy Cơ Tiền Đái Tháo Đường
Bạn có nguy cơ cao hơn bị tiền đái tháo đường nếu bạn:
Trên 45 tuổi
Có vòng eo lớn hơn 40 inch nếu bạn là nam (hoặc được xác định là nam khi sinh) và 35 inch nếu bạn là nữ (hoặc được xác định là nữ khi sinh)
Ăn nhiều thịt đỏ và thịt chế biến
Uống nhiều đồ uống có đường
Không ăn đủ trái cây, rau, hạt, ngũ cốc nguyên hạt hoặc dầu ô liu
Là người da đen, người bản địa Mỹ, người Latino hoặc người dân đảo Thái Bình Dương
Bị thừa cân hoặc béo phì, đặc biệt là nếu bạn có xu hướng tích mỡ quanh vùng bụng
Có cholesterol cao, triglyceride cao, HDL thấp (cholesterol tốt) và LDL cao (cholesterol xấu)
Không tập thể dục thường xuyên
Đã từng bị tiểu đường thai kỳ hoặc sinh ra một đứa trẻ nặng hơn 9 pound
Có hội chứng buồng trứng đa nang, một tình trạng phổ biến gây ra chu kỳ kinh nguyệt không đều và các triệu chứng khác
Có vấn đề về giấc ngủ, chẳng hạn như ngưng thở khi ngủ
Làm việc theo ca hoặc ca đêm
Hãy đi xét nghiệm tiền đái tháo đường nếu bạn có những yếu tố này và nếu bạn:
Đã có chỉ số đường huyết bất thường.
Có bệnh tim.
Hiện rõ dấu hiệu kháng insulin, nghĩa là cơ thể bạn sản xuất insulin nhưng không phản ứng đúng cách. Những dấu hiệu này bao gồm các khu vực da tối màu, khó tập trung và cảm giác mệt mỏi hoặc đói hơn bình thường.
Tại sao chủng tộc và dân tộc lại quan trọng trong tiền đái tháo đường
Cũng như tiểu đường, tiền đái tháo đường phổ biến hơn ở những người thuộc một số nhóm chủng tộc và dân tộc nhất định. Người bản địa Mỹ và người Alaska có tỷ lệ tiểu đường cao nhất trong số các quần thể ở Mỹ. Ước tính có khoảng 75.000 người ở khu vực Navajo bị tiền đái tháo đường.
Theo CDC, tiền đái tháo đường ảnh hưởng khoảng:
38.6% người lớn da đen không phải người gốc Tây Ban Nha
36.8% người lớn gốc Á
35.7% người lớn da trắng không phải người gốc Tây Ban Nha
34.6% người lớn gốc Tây Ban Nha (mặc dù họ có khả năng được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường nhiều hơn so với người lớn gốc Á hoặc da trắng)
Có nhiều lý do cho sự chênh lệch này, bao gồm lịch sử sức khỏe gia đình và sự khác biệt trong việc tiếp cận chăm sóc sức khỏe, thực phẩm lành mạnh và những nơi an toàn để tập thể dục.
Tiền Đái Tháo Đường và Giới Tính
CDC cho biết tiền đái tháo đường ảnh hưởng đến nam giới với tỷ lệ hơi cao hơn (41%) so với phụ nữ (32%).
Một số nghiên cứu ban đầu chỉ ra rằng liệu pháp hormone hỗ trợ giới tính có thể làm trầm trọng thêm tình trạng kháng insulin và tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường ở phụ nữ chuyển giới. Tuy nhiên, các nghiên cứu tiếp theo đã cho ra kết quả mâu thuẫn, vì vậy cần có thêm nghiên cứu về vấn đề này.
Xét Nghiệm và Chẩn Đoán Tiền Đái Tháo Đường
Bác sĩ của bạn sẽ thực hiện ít nhất một trong những xét nghiệm sau:
Xét Nghiệm Đường Huyết Lúc Nhịn Ăn Bạn sẽ không ăn trong 8 giờ, sau đó một kỹ thuật viên sẽ lấy máu của bạn để kiểm tra mức đường huyết.
Kết quả cho thấy:
Phạm vi bình thường nếu đường huyết của bạn dưới 100 miligam trên decilit (mg/dL)
Phạm vi tiền đái tháo đường nếu đường huyết của bạn từ 100-125 mg/dL
Phạm vi đái tháo đường nếu đường huyết của bạn từ 126 mg/dL trở lên
Xét Nghiệm Dung Nạp Glucose Đường Uống Đầu tiên, bạn sẽ làm xét nghiệm đường huyết lúc nhịn ăn. Sau đó, bạn sẽ uống một thứ gì đó có đường. Sau 2 giờ, một kỹ thuật viên sẽ lấy máu thêm để xét nghiệm. Kết quả cho thấy:
Phạm vi bình thường nếu đường huyết của bạn dưới 140 mg/dL sau xét nghiệm thứ hai
Phạm vi tiền đái tháo đường nếu đường huyết của bạn từ 140-199 mg/dL sau xét nghiệm thứ hai
Phạm vi đái tháo đường nếu đường huyết của bạn từ 200 mg/dL trở lên sau xét nghiệm thứ hai
Xét Nghiệm Hemoglobin A1c Xét nghiệm máu này cho thấy mức đường huyết trung bình của bạn trong 2-3 tháng qua. Các bác sĩ sử dụng xét nghiệm này cho những người mắc bệnh tiểu đường để xem liệu mức đường huyết của họ có được kiểm soát hay không. Họ cũng có thể dùng nó để chẩn đoán tiền đái tháo đường hoặc tiểu đường. Kết quả cho thấy:
Phạm vi bình thường nếu nó dưới 5.6%
Phạm vi tiền đái tháo đường nếu nó từ 5.7%-6.4%
Phạm vi đái tháo đường nếu nó từ 6.5% trở lên
Bạn có thể cần phải làm lại xét nghiệm để xác nhận kết quả.
Trẻ Em và Xét Nghiệm Tiền Đái Tháo Đường
Các bác sĩ chẩn đoán tiền đái tháo đường dựa trên cùng một mức đường huyết, không phân biệt độ tuổi của người bệnh. Hiệp hội Đái Tháo Đường Hoa Kỳ cho biết trẻ em từ 10 tuổi trở lên nên được xét nghiệm nếu chúng có thừa cân hoặc béo phì cùng với:
Một thành viên trong gia đình có bệnh tiểu đường loại 2
Một người mẹ từng bị tiểu đường thai kỳ khi mang thai đứa trẻ
Di sản người bản địa Mỹ, người da đen, người gốc Tây Ban Nha, người gốc Á hoặc người dân đảo Thái Bình Dương
Dấu hiệu của kháng insulin hoặc các tình trạng liên quan, chẳng hạn như cân nặng khi sinh thấp, huyết áp cao, hoặc hội chứng buồng trứng đa nang
Nếu một đứa trẻ có nguy cơ cao bị tiền đái tháo đường có kết quả xét nghiệm bình thường, Hiệp hội Đái Tháo Đường Hoa Kỳ khuyên nên xét nghiệm lại ít nhất 3 năm một lần.
Biến Chứng của Tiền Đái Tháo Đường
Nếu không được điều trị, tiền đái tháo đường có thể phát triển thành bệnh tiểu đường loại 2. Điều này có thể dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng khác, bao gồm:
Bệnh thận
Mù lòa
Huyết áp cao
Vấn đề về thần kinh (bệnh thần kinh ngoại vi)
Mất chi (cắt cụt)
Ngay cả trước khi phát triển thành tiểu đường, tiền đái tháo đường không được điều trị có thể gây ra tổn thương lâu dài cho mạch máu, thận và tim của bạn. Nó đã được liên kết với những cơn đau tim “im lặng”, mà triệu chứng của chúng quá nhỏ đến mức bạn có thể không nhận thấy.
Tập thể dục thường xuyên.
Điều Trị Tiền Đái Tháo Đường
Phương pháp điều trị chính cho tiền đái tháo đường là một lối sống lành mạnh bao gồm những bước sau:
Ăn một chế độ ăn uống lành mạnh.
Giảm cân nếu bạn cần.
Tập thể dục thường xuyên.
Ngừng hút thuốc.
Kiểm soát huyết áp và cholesterol của bạn.
Nếu bạn có nguy cơ cao mắc bệnh tiểu đường, bác sĩ của bạn cũng có thể đề nghị bạn dùng thuốc như metformin (Glucophage) để giảm mức đường huyết.
Quản Lý và Tự Chăm Sóc Tiền Đái Tháo Đường
Chế độ ăn uống cho tiền đái tháo đường
Không có chế độ ăn uống chính thức, nhưng năm sự thay đổi này có thể giúp đảo ngược tiền đái tháo đường và giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2:
Chọn ngũ cốc nguyên hạt và các sản phẩm ngũ cốc nguyên hạt thay vì carb chế biến như bánh mì trắng, khoai tây và ngũ cốc ăn sáng.
Uống cà phê, nước và trà thay vì soda và nước trái cây.
Chọn chất béo tốt như có trong dầu thực vật, hạt và hạt giống thay vì những chất béo có trong margarin, thực phẩm nướng và thực phẩm chiên.
Thay thế thịt đỏ và thịt chế biến bằng hạt, ngũ cốc nguyên hạt, gia cầm và cá.
Sử dụng dầu ô liu thay vì mỡ hoặc bơ.
Thành Công Với Bệnh Tiểu Đường Loại 2
Để duy trì trên con đường đúng đắn, Dwayne Colyer cho rằng một số điều giúp anh quản lý mức đường huyết của mình.
Nếu việc thay đổi chế độ ăn uống lớn có vẻ khó khăn, hãy bắt đầu với những thay đổi nhỏ như:
Ăn khẩu phần nhỏ hơn.
Thêm một loại rau vào bữa tối của bạn.
Nướng hoặc nướng thực phẩm thay vì chiên ngập dầu.
Ăn một bữa không thịt mỗi tuần.
Một số kế hoạch ăn uống lành mạnh có thể giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường bao gồm:
Chế độ ăn Địa Trung Hải
Chế độ ăn dựa trên thực vật (chay hoặc thuần chay)
Thấp béo
DASH (phương pháp ăn uống để ngăn chặn huyết áp cao)
Nếu bạn không chắc chắn về cách lên kế hoạch bữa ăn, hãy hỏi bác sĩ của bạn. Họ có thể giới thiệu bạn đến một chuyên gia dinh dưỡng đã đăng ký (RDN). Đây là một chuyên gia được đào tạo để giúp bạn tìm ra những cách ăn uống lành mạnh. Quan trọng nhất là họ sẽ muốn đưa ra một kế hoạch mà bạn có thể thực hiện.
Tập Thể Dục Cho Tiền Đái Tháo Đường
Khi bạn tập thể dục, cơ thể bạn sử dụng đường trong máu để cung cấp năng lượng cho hoạt động thể chất. Theo thời gian, hoạt động thể chất thường xuyên có thể làm giảm mức glucose tổng thể của bạn. Bạn cũng sẽ trở nên nhạy cảm hơn với insulin trong cơ thể. Điều này giúp cơ bắp của bạn dễ dàng sử dụng glucose hơn.
Bạn nên tập ít nhất 150 phút mỗi tuần với các bài tập vừa phải. Hãy đặt mục tiêu 30 phút mỗi ngày, 5 ngày một tuần. Bạn không cần phải thực hiện bất kỳ hoạt động nào quá căng thẳng. Bạn có thể:
Đi bộ nhanh (ít nhất 4 km/h)
Thử môn thể dục dưới nước
Tham gia lớp nhảy
Đạp xe (chậm hơn 16 km/h)
Bạn có thể muốn thêm một vài ngày tập luyện sức mạnh hoặc sức đề kháng. Đó là khi bạn sử dụng máy tập tạ, tạ tự do, cơ thể của bạn hoặc dây tập để xây dựng cơ bắp.
Nếu bạn mới bắt đầu tập thể dục, hãy nói chuyện với bác sĩ về những gì an toàn cho bạn.
Tiền Đái Tháo Đường và Giảm Cân
Không phải ai bị tiền đái tháo đường cũng cần giảm cân. Nhưng nếu bạn thừa cân, giảm 5%-10% trọng lượng cơ thể có thể giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường của bạn hơn một nửa.
Bạn có thể tự hỏi liệu việc mang theo trọng lượng dư thừa hoặc béo phì có gây ra bệnh tiểu đường hay không. Đây là điều mà các chuyên gia vẫn đang tìm hiểu. Những gì họ biết là chất béo dư thừa, đặc biệt là ở vùng bụng, sẽ phát ra hormone ảnh hưởng đến sự thèm ăn và gây viêm. Các tế bào giúp bạn sử dụng insulin có thể bị tổn thương trong quá trình này. Một số chuyên gia nghĩ rằng giảm mỡ bụng có thể giúp bạn kiểm soát mức đường huyết tốt hơn.
Tiền Đái Tháo Đường và Giấc Ngủ
Các nghiên cứu cho thấy mất ngủ có thể làm khó khăn hơn trong việc kiểm soát đường huyết và sự thèm ăn của bạn. Đó có thể là lý do tại sao nguy cơ béo phì và tiểu đường loại 2 của bạn tăng lên nếu bạn ngủ ít hơn 5-6 giờ mỗi đêm. Nguy cơ của bạn cũng cao hơn nếu chất lượng giấc ngủ của bạn kém.
Nếu bạn có vấn đề về giấc ngủ kéo dài, hãy tránh caffeine vào buổi chiều. Bạn cũng nên tránh rượu gần giờ đi ngủ. Cả hai đều có thể làm rối loạn giấc ngủ của bạn. Nếu điều đó không giúp ích, hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn. Họ có thể giúp điều trị chứng mất ngủ của bạn.
Bỏ Thuốc Lá
Các nghiên cứu cho thấy những người hút thuốc có nguy cơ cao mắc tiền đái tháo đường hơn những người không hút thuốc. Mức nicotine cao khiến cơ thể bạn khó sử dụng insulin hơn. Hút thuốc lá cũng làm hư hại các tế bào của bạn theo cách mà các chuyên gia nghĩ là dẫn đến bệnh tiểu đường. Điều quan trọng là nói chuyện với bác sĩ của bạn về cách bỏ thuốc.
Phòng Ngừa Tiền Đái Tháo Đường
Những thói quen lối sống lành mạnh tương tự giúp điều trị tiền đái tháo đường cũng có thể giúp ngăn ngừa nó. Một số điều khác có thể giúp:
Không uống nhiều hơn một ly rượu mỗi ngày.
Đi kiểm tra sức khỏe định kỳ để bác sĩ có thể theo dõi mức đường huyết của bạn.
Uống thuốc kiểm soát đường huyết đúng như bác sĩ đã kê đơn.
Đáng tiếc, tiền đái tháo đường không phải lúc nào cũng có thể phòng ngừa được. Một số người có gen đặt họ vào nguy cơ cao mắc bệnh có thể phát triển tình trạng này ngay cả khi họ tuân thủ lối sống lành mạnh. Đó là một trong những lý do quan trọng để duy trì các cuộc hẹn chăm sóc sức khỏe của bạn.
Tóm Tắt
Khi bạn bị tiền đái tháo đường, mức đường huyết của bạn cao hơn mức bình thường nhưng chưa đủ cao để được coi là bệnh tiểu đường. Những người bị tiền đái tháo đường có nguy cơ cao mắc bệnh tiểu đường loại 2 và các vấn đề sức khỏe khác có thể đi kèm. Bạn có thể đảo ngược tình trạng này bằng cách thực hiện những thay đổi lối sống lành mạnh và, trong một số trường hợp, bằng cách dùng thuốc để kiểm soát mức đường huyết của mình.
Các Câu Hỏi Thường Gặp Về Tiền Đái Tháo Đường
Tôi nên kiểm tra mức đường huyết của mình bao lâu một lần cho tiền đái tháo đường?
Nếu bạn khỏe mạnh, bác sĩ của bạn có thể sẽ kiểm tra mức đường huyết của bạn khoảng mỗi 3 năm. Nếu bạn đã bị tiền đái tháo đường, họ có thể sẽ làm điều đó ít nhất một lần mỗi năm. Vì tiền đái tháo đường thường không gây ra triệu chứng, việc kiểm tra sức khỏe định kỳ là rất quan trọng, đặc biệt nếu bạn có tiền sử gia đình về bệnh tiểu đường hoặc các yếu tố nguy cơ khác.
Tiền đái tháo đường có thể gây nguy cơ cho thị lực của tôi không?
Nghiên cứu cho thấy rằng những người bị tiền đái tháo đường có thể mắc bệnh võng mạc do tiểu đường, một tình trạng có thể dẫn đến tổn thương nghiêm trọng cho mắt và đôi khi là mù lòa. Nếu bạn có tiền đái tháo đường, bác sĩ của bạn có thể đề nghị kiểm tra mắt để kiểm tra bệnh võng mạc. Hãy cho bác sĩ biết nếu bạn nhận thấy bất kỳ thay đổi nào trong thị lực của bạn.
Rêu lưỡi bị tróc từng mảng không toàn vẹn, nơi bị tróc sáng bóng không có rêu gọi là: “Thiệt bác“ (tróc rêu lưỡi).
Sâu ăn tróc rêu lưỡi và hình trạng giống như sâu ăn của chứng “Trùng toái thiệt” khác nhau. Loại trên là “ Trong rêu lưỡi tróc đi một mảng như đồng tiền hoặc tróc đi vài mảng hoặc đầy lưỡi vằn vện như bản đồ” (Trung y lâm chứng bị yếu). Loại sau là “Lưỡi có nốt đỏ loét thành hang lồi lên giống như sâu ăn cỏ” (Quốc y thiệt chẩn học) Hình thái khác nhau ý nghĩa lâm sàng cũng không giống nhau. Lưỡi tróc rêu phần nhiều thuộc âm hư còn chứng “Trùng toái thiệt” thì chủ về hỏa độc quá thịnh, vì thế cần chẩn đoán phân biệt hai chứng này.
Căn cứ vào mức độ tróc rêu lưỡi nên có các tên khác như “Hoa bác” “Quang bác” nhưng tất cả đều thuộc phạm vi Thiệt bác (Lưỡi tróc rêu).
Phân biệt
Chứng hậu thường gặp
Lưỡi tróc rêu do Vị âm hư: Có chứng lưỡi đỏ tróc rêu miệng khô ít tân dịch, chán ăn, ăn không biết ngon hoặc sau khi ăn thì đầy trướng hoặc nôn khan gây nấc thậm chí ế cách, phiên vị, đại tiện khô kết khó bài tiết mạch Tế Sác vô lực.
Chứng Lưỡi tróc rêu do Vị âm hư với chứng Lưỡi tróc rêu do khí âm đều hư:Lưỡi tróc rêu do Vị âm hư phần nhiều do ngoại cảm nhiệt bệnh ở thời kỳ cuối, trong Vị có dư nhiệt không hết làm hao thương Vị âm hoặc do bị bệnh ở Vị lâu ngày hoặc do các tật bệnh mạn tính khác lâu ngày âm dịch hao tổn, Vị không có âm dịch để tư dưỡng nhu nhuận cho nên lưỡi tróc rêu, thậm chí bề mặt lưỡi sáng bóng gọi là “Kính diện thiệt” đó là hiện tượng Vị âm bị thương tổn lớn, báo hiệu VỊ âm khô kiệt, tiên lượng không tốt. Chứng lưỡi tróc rêu do khí âm đều hư phần nhiều xuất hiện ở ngoại cảm nhiệt bệnh thời kỳ cuối, nhiệt tà lưu luyên lâu ngày thương âm hao khí đẫn đến khí âm đều hư. Hoặc là mùa hè ra quá nhiều mồ hôi cả tân và khí đều hao thương. Một số bệnh mạn tính ở thời kỳ cuối, cũng có thể do ốm lâu mà khí âm đều tổn thương dẫn đến tróc rêu lưỡi.
Yếu điểm biện chứng: Tróc rêu lưỡi do Vị âm hư thì chất lưỡi đỏ sẫm hoặc sáng tía có vết nứt và kiêm các chứng trạng. Vị mất hoà giáng như kém ăn, Sau khi ăn thì trướng đầy, oẹ khan sinh nấc. Tróc rêu lưỡi do khí âm đều hư thì chất lưỡi đỏ nhạt kiêm các chứng khí hư như đoản hơi biếng nói tinh thần mệt mỏi, tự ra mồ hôi và các chứng trạng âm hư như ngũ tâm phiền nhiệt, ra mồ hôi trộm và miệng khô táo bón…
Tróc rêu lưỡi do Vị âm hư nguyên tắc điều trị là phải tư dưỡng Vị âm thường dùng các phương ích Vị thang, Sa sâm mạch đông thang, Tróc rêu lưỡi do khí âm đều hư nguyên tắc điều trị là bổ khí dưỡng âm thường dùng phương Sinh mạch tán.
Trích dẫn y văn
Lưỡi tróc mảng như sâu ăn, rìa lưỡi có rêu nhớt là do thấp đàm uất tích (Quốc y thiệt chẩn học).
Rêu lưỡi “ Nếu biến đi đột ngột không sinh rêu mới hoặc như tróc mảng lốm đốm loang lở như đậu hủ rải trên mặt lưỡi chỗ này một điểm chỗ kia một điểm tản mạn không liên tục đều là nghịch chứng, Phần nhiều do sai lầm dùng thuốc công phạt tiêu đạo hoặc là sai lầm dùng biểu được dẫn đến Vị khí và Vị dịch bị tàn phá suy kiệt cho nên có chứng hậu ấy (Trung Quốc chẩn đoán học).
Thực quản là đoạn đầu của ống tiêu hoá. Đó là một ống cơ dài 25-30cm đi từ miệng thực quản (cách cung răng khoảng 15cm) đến tâm vị (cách cung răng khoảng 40cm). Miệng thực quản còn được gọi là miệng Kilian được bao bọc bởi các cơ co thắt hầu nên tạo thành một khe, hai đầu khe là những xoang lê của hầu. Phần lớn thực quản nằm trong lồng ngực, còn 2-4cm cuối nằm dưới van Gubaroff, góc His chống lại sự trào ngược của dịch dạ dày lên thực quản.
Thực quản có 4 chỗ hẹp sinh lý tương ứng với: sụn nhẫn, quai động mạch chủ, phế quản trái, cơ hoành.
Người ta chia thực quản thành 4 đoạn:
Đoạn cổ: từ ngang sụn nhẫn đến bờ trên hõm ức, dài 5-6cm.
Đoạn ngực: dài 16-25cm, tiếp theo đoạn trên đến ngang cơ hoành.
Đoạn hoành: dài 1-1,5cm, tiếp theo đoạn trên. Thực quản chui qua lỗ thực quản của cơ hoành, được gắn chặt vào cơ hoành bởi các sợi và mô liên kết.
Đoạn bụng: dài 2-3cm, từ lỗ cơ hoành đến lỗ tâm vị dạ dày.
Thực quản được tưới máu động mạch từ các nhánh nhỏ của động mạch chủ ngực: các nhánh của động mạch hoành dưới, động mạch vành vị, động mạch giáp dưới và động mạch thực quản giữa.
Máu tĩnh mạch của 1/3 thực quản trên đổ vào tĩnh mạch chủ trên, máu của 1/3 thực quản giữa đổ vào tĩnh mạch Azygos, còn máu của 1/3 thực quản dưới đổ vào tĩnh mạch cửa qua các tĩnh mạch dạ dày.
Thần kinh phó giao cảm của thực quản bắt đầu từ dây X và các nhánh của nó, tiếp nối với đám rối thần kinh Auerbach. Thần kinh giao cảm bắt nguồn từ các rễ cổ lưng, có những tiếp nối ở đoạn hạch cổ trên, giữa và hạch sao ngực để tới thực quản, cũng theo các đường như nhánh dây X. Hệ thống giao cảm không tham gia vào chức năng vận động của thực quản, chỉ có tác động dẫn truyền cảm giác.
Trên thực tế người ta chia thực quản làm 3 đoạn tính từ cung răng:
1/3 trên nằm trong khoảng từ 15-25cm.
1/3 giữa nằm trong khoảng từ 26-32cm.
1/3 dưới nằm trong khoảng từ 33cm đến cơ thắt tâm vị.
Cấu trúc mô học của thành thực quản:
Thành thực quản được chia thành 4 lớp tính từ trong ra:
+ Lớp niêm mạc: dày 0,5-0,8mm gồm 2 lớp nhỏ:
Lớp biểu mô phủ: ở trên, là lớp biểu mô lát tầng không sừng hoá, phía dưới là mô liên kết thưa có những vùng lồi lên phía trên tạo thành nhú. Dưới mô liên kết là tổ chức đệm có sợi tạo keo, sợi chun, tế bào sợi, tuyến thực quản, tế bào lympho rải rác, các nang bạch huyết nhỏ vây quanh đường bài xuất tuyến.
Lớp cơ niêm: là những tế bào cơ trơn xếp thành lớp mỏng. Phía trên tâm vị 1,5-2cm biểu mô thực quản hoàn toàn giống với niêm mạc dạ dày, được ngăn cách với biểu mô phía trên của thực quản bằng một đường răng cưa không đều gọi là đường , diềm răng cưa dài <5mm, rộng <3mm, các tuyến nhỏ đôi khi không nhìn thấy. Nói chung nó có vai trò tăng cường cho cơ thắt dưới.
+ Lớp dưới niêm mạc: được tạo bởi mô liên kết thưa, bên trong có các tuyến thực quản chính.
+ Lớp cơ: là lớp dày nhất, khoảng 0,5-2,2mm, gồm có lớp cơ vòng ở trong và lớp cơ dọc ở ngoài. Lớp cơ của thực quản ở 1/3 trên thuộc loại cơ vân, 2/3 dưới thuộc loại cơ trơn.
+ Lớp vỏ bọc: phần thực quản trên cơ hoành được bao bọc bên ngoài bởi tổ chức lên kết tạo thành cân, có tác dụng giữ thực quản tại chỗ và liên kết với các tổ chức lân cận. ở phần dưới cơ hoành, lớp vỏ và lớp thanh mạc giống như ở dạ dày.
+ Lớp cơ của thực quản thuộc loại cơ vân ở 1/3 trên và thuộc loại cơ trơn ở 1/3 dưới. Niêm mạc thực quản chỉ tiết ít chất nhầy để bảo vệ niêm mạc một phần và làm trơn thêm thức ăn.
Sinh lý học:
Hai chức năng chính của thực quản là vận chuyển viên nuốt từ thực quản đến dạ dày và ngăn dòng chảy ngược của các chất chứa trong dạ dày ruột. Chức năng vận chuyển được hoàn thành bởi các cơ nhu động của thực quản. Dòng vhảy được ngăn lại bởi hai cơ thắt của thực quản, vẫn đóng giữa các lần nuốt. Cơ thắt thực quản trên vẫn đóng là nhờ tính đàn hồi của thành của nó và có trương lực của cơ nhẫn hầu và các cơ hầu dưới. Sự cơ thắt trên là do ức chế sự co của cơ nhãn hầu và sự co khít cơ hầu dưới và sự di chuyển ra phía trước của thanh quản do các cơ trên móng. Ngược lại, cơ thắt thực quản dưới vẫn đóng phần lớn là vì trương lực cơ sinh nội tại của nó. Các sự đối giao cảm trước hạch trong dây thần kinh phế vị và các nơron ức chế và kích thích sau hạch trong thành của thực quản đã phân bố vào cơ thắt thực quản dưới và đã gây ra thư giãn và co một cách tương ứng. Chất hoá học trung gian của dây thần kinh ức chế là Peptic ruột hoạt mạch và Oxit nitric. Chức năng chống hồi lưu của cơ thắt thực quản dưới được bổ sung bằng các cột cơ hoành đã bao quanh cơ thắt. áp lực trong cơ thắt dưới giảm một cách phản xạ trong thời gian phản xạ ợ hơi và căng dạ dày. Các bữa ăn nhiều mỡ, uống chè, uống cà phê… cũng làm giảm áp lực của cơ thắt dưới. Các chất chủ vận tiết cholin tác dụng Muscarin, các chất chủ vận tiết Alpha-adrenalin, Gastrin, Polypeptid tuỵ, chất P và Prostaglandin F2x gây co; ngược lại, Nicôtin, chất chủ vận tiết -Adrelanin, Dopamin, Cholecystokinin, Secretin, Peptid liên kết với gen Calcitonin, Adenosin và axit Nitric như nitrat, gây thư giãn cơ thắt. Tác dụng của chúng qua trung gian tác động lên các nơron ức chế nằm trong thành hoặc trực tiếp lên cơ thắt. Tác dụng của nhiều trong số đó có tính chất dược lý hơn là sinh lý.