Blog Trang 583

Cúc hoa

Tên khoa học:

Chrysanthemum morifolium Ramat (Chrysanthemum sinese Sabine). Họ khoa học: Họ Cúc (Asteraceae).

Cúc hoa ( 菊花 )

Tên và nguồn gốc

+ Tên thuốc: Cúc hoa (Xuất xứ: Bản kinh).

+ Tên khác: Tiết hoa (节华), Kim tinh (金精), Cam cúc (甘菊), Chân cúc (真菊), Kim nhị (金蕊), Gia cúc (家菊), Man đầu cúc (馒头菊), Trâm đầu cúc (簪头菊), Điềm cúc hoa (甜菊花), Dược cúc ( 药菊). Bạch cúc hoa, cam cúc hoa.

+ Tên Trung văn: 菊花 JUHUA

+ Tên Anh Văn: Chrysanthemum

+ Tên La tinh:

Dendranthema morifolium (Ramat.) Tzvel. [Chrysanthemum morifolium Ramat.]

+ Nguồn gốc: Là cụm hoa dạng đầu của Cúc Chrysanthemum morifolium Ramat. thực vật họ Cúc (Composite).

Hoa Cúc dại trắng chữa lẹo mắt
Hoa Cúc dại trắng

Phân bố

Trung Quốc đại bộ phận các vùng có nuôi trồng.

Thu hoạch

Trước tiết sương giáng (vào ngày 23 hoặc 24 tháng 10) lúc hoa đang nở rộ thu hái, phương pháp gia công nó do chủng lọai thuốc các nơi sản xuất mà không giống nhau.

– Bạch cúc (白菊): Cắt lấy cành hoa, bó thành bó nhỏ, treo lộn ngược phơi âm can. Sau đó hái lấy cụm hoa.

– Trừ cúc (滁菊): Hái lấy cụm hoa. Xông qua Lưu hòang, lúc phơi khô đến 6 phần, dùng cái dần dần thành hình cầu, phơi khô.

– Cống cúc (贡菊): Hái cụm hoa, sấy khô.

– Hàng cúc (杭菊): Có 2 lọai Hàng bạch cúc, Hàng hòang cúc. Hàng bạch cúc hái cụm hoa, sau khi hấp phơi khô; Hàng hòang cúc thì dùng than lửa sấy khô.

Bào chế

Cúc hoa: Nhặt sạch cọng lá, cuống hoa và tạp chất đất vụn.

Cúc hoa thán: Lấy Cúc hoa đã nhặt sạch, bỏ vào trong nồi sao đến sắc nâu cháy sém, nhưng nên tồn tính, phun nước sạch, lấy ra phơi khô.

Phân biệt tính chất, đặc điểm

Đây là những búp hoa dạng bông, cánh hoa vòng ngoài (hoa hình cái lưỡi) phần nhiều đều ở dạng đơn, phẳng và bịt ở giữa có hoa tâm hình đĩa tròn màu vàng, phần gốc có cuống hoa màu xanh, do 3 – 4 lớp lá đài gộp thành. Mùi thơm mát, vị ngọt hơi đắng. Do từng vùng đất trồng và phương pháp gia công khác nhau mà sản phẩm ở các nơi đều có những nét riêng không giống nhau. Với hoa cúc trắng, đều coi loại có màu trắng, hoa hoàn chỉnh, cánh hoa không toè ra, hương đậm, không có lá đài là loại tốt; hoa cúc vàng thì hoa có màu vàng là tốt.

Bảo quản

Để nơi khô ráo, thoáng gió, phòng mọt

Tính vị

– Trung dược đại từ điển: Ngọt đắng, mát

– Trung dược học: Cay, ngọt, đắng, hơi lạnh.

– Bản kinh: Vị đắng, bình.

– Biệt lục: Ngọt, không độc.

– Thiên bảo đơn phương đồ: Bạch cúc: Vị cay, bình, không độc.

– Tùy tức cư ẩm thực phổ: Ngọt, mát.

Qui kinh

– Trung dược đại từ điển: Vào kinh Phế, Can.

– Trung dược học: Vào kinh Phế, Can.

– Lôi công bào chế dược tính giải: Vào 4 kinh Phế, Tỳ, Can, Thận.

Công dụng và chủ trị

hoa cúc trắng có vị ngọt, hơi đắng, tính hơi hàn
hoa cúc trắng có vị ngọt, hơi đắng, tính hơi hàn

Sơ phong, thanh nhiệt, sáng mắt, giải độc.

Trị đau đầu, hoa mắt chóng mặt, mắt đỏ, tim ngực phiền nhiệt, đinh nhọt, sưng độc.

– Bản kinh: Chủ các chứng phong váng đầu, sưng đau, mắt muốn rơi, ra nước mắt, da dẻ thịt trong da chết, ác phong thấp tý, lợi huyết khí.

– Đào Hoằng Cảnh: Bạch cúc: Chủ phong hoa mắt.

– Dược tính luận: Có thể trị nhiệt đầu phong xoay ngã đất, xương não đau nhức, làm tiêu tan các chứng phong trên người.

– Nhật hoa tử bản thảo: Lợi huyết mạch, trị du phong tay chân, tâm phiền, mạng ngực ngạt nghẽn, và ung nhọt độc, đau đầu, làm gối sáng mắt.

– Trân châu nang: Dưỡng huyết mắt.

– Dược dụng tâm pháp: Trừ màng che mắt, sáng mắt.

– Vương Hảo Cổ: Chủ Can khí không đủ.

– Cương mục thập di: Chuyên vào dương phận. Trị các chứng phong đầu hoa mắt, giải độc rượu đinh nhọt sưng. Hòang trà cúc: Sáng mắt trừ phong, sưu Can khí, trị váng đầu hoa mắt, ích huyết tươi nhuận dung nhan, vào phần huyết; Bạch trà cúc: thông Phế khí, ngừng ho nghịch, thanh hỏa uất tam tiêu, trị thịt trong da nóng, nhập vào phần khí.

Dùng thuốc phân biệt

Tang diệp và Cúc hoa đều có thể sơ tán phong nhiệt, bình ức Can dương, thanh Can sáng mắt, cùng có thể dùng trị chứng cảm mạo phong nhiệt hoặc ôn bệnh mới phát, phát sốt, hơi sợ gió lạnh, đau đầu, Can dương thượng cang, đau đầu, váng đầu phong nhiệt thượng công hoặc Can hỏa thượng viêm gây ra mắt đỏ sưng đau, cùng Can Thận tinh huyết không đủ, mắt lờ mờ, hoa mắt v.v…Nhưng Tang diệp lực sơ tán phong nhiệt mạnh hơn, lại có thể thanh Phế nhuận táo, lương huyết cầm máu. Cúc hoa lực bình Can, thanh Can sáng mắt khá mạnh, lại có thể thanh nhiệt giải độc.

Liều dùng và cách dùng

Sắc uống 5 ~ 9g. Sơ tán phong nhiệt nên dùng Hòang cúc hoa, bình can, thanh can sáng mắt nên dùng Bạch cúc hoa.

Kiêng kỵ

– Bản thảo kinh tập chú: Rễ Truật, Câu kỉ, Tang căn bạch bì làm sứ.

– Bản thảo hối ngôn: Bệnh khí hư vị hàn, ăn ít tiêu chảy, nên dùng ít vậy.

  • Những cấm kỵ khi dùng thuốc:

Người nào khí hư, vị hàn, ăn ít, ỉa lỏng, cần dùng ít thôi.

Nghiên cứu hiện đại

  1. Thành phần hóa học:

– Bổn phẩm hàm chứa dầu bay hơi, trong dầu là borneol, camphor, chrysanthemon v.v…, ngòai ra còn hàm chứa chrysanthemin, adenine, sinkaline, flavone, stachydrine, vitamin A, vitamin B1, vitamin E, amino acid và robinin v.v…(Trung dược học).

– Hoa và thân hàm chứa dầu bay hơi, và adenine, sinkaline, stachydrine v.v…Hoa còn hàm chứa chrysanthemin, amino acid, flavonoid và vi lượng vitamin B1. Dầu bay hơi chủ yếu hàm chứa Camphol, camphor, chrysanthemon v.v…Flavonoid có cyanidenon -7- glycoside, cosmosiin, acaciin (Trung dược đại từ điển).

– Hoa hàm chứa dầu bay hơi, thành phần chủ yếu là borneol, camphor, chrysanthenone, còn hàm chứa luteolin-7-glucoside, cosmosiin, apigenin-7-O-glucoside[1],acacetin-7-Orhamnoglucoside, apigenin, apigenin-7-O-rhamnoglucoside, acacetin-7-O-glucoside, isorhamnetin-3-O-galactoside, luteolin-7-O-galactoside,luteolin-7-O-rhamnogside [2],luteolin, β-elemene, thymol, heneicosane, tricosa-ne, hexacosane[3],cùng với glucide và amino acid[4] (Trung Hoa bản thảo).

  1. Tác dụng dược lý:

Thuốc ngâm nước hoặc thuốc sắc Cúc hoa, đối với khuẩn cầu chùm sắc vàng kim, nhiều lọai trực khuẩn gây bệnh và chân khuẩn ngòai da đều có tác dụng kháng khuẩn nhất định, Bổn phẩm có tác dụng ức chế đối với vi rút cúm PR3 và leptospira. Thuốc chế Cúc hoa có tác dụng giãn động mạch vành, tăng gia lưu lượng máu mạch vành, đề cao lượng ô xy hao hụt cơ tim, và có tác dụng giáng áp, rút ngắm thời gian đông máu, giải nhiệt, chống viêm, trấn tĩnh (Trung dược học).

Theo các nghiên cứu hiện đại, hoa cúc có tác dụng chống viêm, làm giãn động mạch cơ tim và tăng cường lưu lượng máu trong cơ tim, hạ huyết áp, giảm mỡ trong máu, chống xơ cứng động mạch, điều chuyển hóc môn amonia, giải độc chì v.v…

Tác dụng của trà Kỷ tử hoa CúcBài thuốc cổ kim tham khảo

+ Phương thuốc 1:Trị phong nhiệt đau đầu: Cúc hoa, Thạch cao, Xuyên khung đều 3 chỉ. Nghiền bột. Mỗi lần uống 1 chỉ rưỡi, trà điều uống.

(Giản tiện đơn phương)

+ Phương thuốc 2:

Trị Thái âm phong ôn, nhưng ho, thân không nóng lắm, hơi khát: Hạnh nhân 2 chỉ, Liên kiều 1,5 chỉ, Bạc hà 8 phân, Tang diệp 2 chỉ 5 phân, Cúc hoa 1 chỉ, Khổ cát cánh 2 chỉ, Cam thảo 8 phân, Vĩ căn 2 chỉ. Nước 2 chén, sắc lấy 1 chén, ngày uống 3 lần.

(Ôn bệnh điều biện – Tang cúc ẩm)

+ Phương thuốc 3:

Trị Can Thận bất túc, hư hỏa thượng viêm, mắt đỏ sưng đau, nhìn lâu lờ mờ, ra gió chảy chảy nước mắt, sợ mặt trời, sợ ánh sáng, váng đầu, ra mồ hôi trộm, sốt cơn, chân mềm yếu: Câu kỷ tử, Cam cúc hoa, Thục địa hòang, Sơn thù nhục, Hòai sơn dược, Bạch phục linh, Mẫu đơn bị, Trạch tả. Luyện mật làm hòan.

(Y cấp – Kỷ cúc địa hòang hòan)

+ Phương thuốc 4:

Trị Can Thận bất túc, mắt lờ mờ: Cam cúc hoa 4 lượng, Ba kích (bỏ tâm) 1 lượng, Nhục thung dung (tẩm rượu, bỏ vỏ, sao, cắt, sấy) 2 lượng, Câu kỉ tử 3 lượng. Thuốc trên tán bột

mịn, luyện mật hòan, lớn như hạt ngô đồng, uống lúc bụng đói, trước bửa ăn.

(Cục phương – Cúc tình hòan)

+ Phương thuốc 5:

Trị sau khi bệnh sinh màng mắt: Bạch cúc hoa, Thiền thuế lượng bằng nhau. Nghiền nhỏ. Mỗi lần dùng 2, 3 chỉ, cho vào chút ít mật, sắc nước uống.

(Cứu cấp phương)

+ Phương thuốc 6:

Trị đinh nhọt: Bạch cúc hoa 4 lượng, Cam thảo 4 chỉ. Sắc nước uống, uống liền, bã lại sắc uống.

(Ngọai khoa thập pháp – Cúc hoa Cam thảo thang)

+ Phương thuốc 7:

Trị tất phong: Trần ngãi, Cúc hoa.

Làm bảo hộ đầu gối, dùng lâu.

(Phù thọ tinh phương)

+ Phương thuốc 8:

Điều trị bệnh tim mạch vành dùng thuốc sắc Cúc hoa quan sát 61 ca. đối với triệu chứng đau thắt ngực có tổng hiệu suất là 80 %, trong đó hiệu quả rõ là 43,3%, cải thiện 36,7 %, dùng cho bệnh nhân độ nhẹ hiệu quả điều trị khá tốt; đối vợi triệu chứng tức ngực, tim hồi hộp, thở gặt và váng đầu, đau đầu, tay chân phát tê v.v…, cũng có hiệu quả điều trị trình độ không giống nhau; Tâm điện đồ có tổng hiệu suất là 45, 9%, trong đó hiệu quả rõ 18,8 %, chuyển biến tốt 27,1%. Đối với bộ phận bệnh nhân cao huyết áp có tác dụng giáng áp; đối với nhịp tim không có ảnh hưởng rõ; đối với cholesterol huyết thanh, triglyceride chưa thấy thay đổi quy luật rõ. Trong thời gian uống thuốc ngòai 1 ca đau bụng trên, 1 ca tiêu chảy nhẹ, đều không có tác dụng phụ khác. Cho dù bệnh nhân vốn có bệnh lóet, cũng phần nhiều không ảnh hưởng.

Chế thuốc và cách dùng: Bạch cúc hoa 10 lượng, thêm nước nóng ngâm qua đêm, mỗi ngày sắc 2 lần, mỗi lần nửa tiếng đồng hồ; đợi sau khi lắng cặn bỏ bã lắng, lại cô đặc đến 500ml. Mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 25ml. 2 tháng là 1 liệu trình.

(Trung dược đại từ điển)

+ Phương thuốc 9:

Dùng Huyền sâm 2g, Mạch đông 2g, Cát cánh 2g, Cúc hoa 1g, Cam thảo 0,5g v.v…tổ hợp thành Trà Huyền Cúc Cam thảo, điều trị viêm họng mạn tính, pha nước nóng uống mỗi lần 1 gói, mỗi ngày 2 ~3 lần, 10 ngày là 1 liệu trình.

(Quảng Châu y dược, 1998, 6: 47)

+ Phương thuốc 10:

Dùng Cúc hòang thang (Cúc hoa 4g, Hòang liên 2g, Kim ngân hoa 3g, Liên kiều 4g, Chi tử 2g, Kinh giới 3g, Cam thảo 4g) gia giảm điều trị Hòang đản ở trẻ con sơ sinh. Thấp nhiệt nặng gia Nhân trần, Chi tử, Phục linh; Môi miệng khô ráo gia Mạch đông, Sa sâm; Khóc đêm gia Câu đằng, Thiền thuế; Nôn mửa gia Bán hạ chế. Cách dùng: Sắc uống, mỗi ngày 1 thang, 3 thang là 1 liệu trình.

(Chẩn đóan và điều trị hiện đại 1999, 5: 316)

+ Phương thuốc 11:

Dùng Phác tiêu Hòang hoa ngâm nước ngồi rửa điều trị trĩ ngọai viêm. Phương pháp: Phác tiêu, Hòang cúc hoa đều 50g, bỏ vào trong dụng cụ đựng, gia thêm nước sôi 1500ml, ngâm quấy và đậy 10 phút, đem dịch thuốc bỏ vào trong chậu, chờ lúc độ nóng dịch thuốc thích hợp ngồi rửa, mỗi lần 15 phút, mỗi thang quấy ngâm 2 lần, mỗi ngày sáng tối ngồi rửa 1 lần, 5 ngày là 1 liệu trình.

(Trung Quốc giang trường bệnh tạp chí, 2001, 3: 38)

Những bài thuốc bổ dưỡng thường dùng

Cúc hoa trà (trà hoa cúc)

Hoa cúc 6g, hãm nước sôi, uống thay trà.

Dùng cho người khô miệng, đau sưng rát cổ, thuỷ đậu, cao huyết áp.

Tang cúc cẩm (nước lá dâu hoa cúc)

Lá dầu 10g – Đậu xị 10g

Hoa cúc 10g – Ngân hoa 10g

Hãm nước sôi, cho thêm chút đường đỏ cho ngọt, uống thay chè.

Dùng cho người bị bệnh lị cấp tính.

Cúc hoa thanh bì ẩm (trà hoa cúc thanh bì)

Cúc hoa 10g – Thanh bì 10g

Sắc thanh bì lấy nước sôi hãm hoa cúc, uống thay trà.

Dùng cho người đau bụng do khí tụ không lưu thông.

Cúc ngân thang (Thang hoa cúc ngân hoa)

Hoa cúc 10g – Xác ve 5g

Ngân hoa 10g – Cam thảo 6g

Sắc 2 nước, trộn lẫn, lọc sạch. Lấy nước lọc bôi lên chỗ đau.

Dùng cho người bị bệnh phát ban.

Cúc địa thang (thang hoa cúc, địa đinh)

Hoa cúc 10g – Địa đinh 10g

Sắc 2 nước, trộn lẫn, lọc kỹ, lấy nước lọc bôi vào chỗ ngứa.

Dùng cho các loại bệnh ngứa ngoài da.

Tiêu thử ẩm (trà hạ nhiệt)

Hoa cúc 15g – Hoắc hương 10g

Cam thảo 10g

Hãm nước sôi uống thay trà.

Dùng để phòng cảm nắng và trúng độc do bị cảm nắng.

Cúc hoa sơn tra ẩm

Hoa cúc 10g – Ô mai 5g

Sơn tra 10g – Đường trắng vừa phải. Cho ô mai, sơn tra vào nước sắc 20 phút, sau đó cho hoa cúc đường trắng vào (đánh tan đường), đổ hết ra lọc, uống nước lọc đó nhiều lần.

Bài thuốc này thanh nhiệt giải độc, bổ tỳ thông dạ dày, có thể dùng làm trà thanh nhiệt để uống.

Giáng áp ẩm (tra hạ huyết áp)

Hoa cúc 3g – Hoa hoè 3g

Chè xanh 3g

Hãm nước sói uống làm trà, dùng để chữa bệnh cao huyết áp.

Nhị hoa trà (trà nhị hoa)

Hoa cúc 18g – Ngân hoa 18g

Cam thảo 8g

Sắc 2 nươc, trộn lẫn, lọc, uống thay trà.

Dùng cho người ỉa táo, ỉa khó.

Sơn du tứ bội thang (thang sơn du tứ bội)

Sơn thù du 10g

Hoa cúc 10g Thục địa hoàng 10g

Câu kỷ tử 20g.

Sắc 2 nước trột lẫn, chia uống 2 lần vào 2 buổi sớm, tối. Dùng cho người can thận hư, hoa mắt, mờ mắt, chống già lão.

Ô tu minh mục tán (thuốc bột đen râu sáng mắt)

Nữ trinh tử 5g

Sơn thù du 8g

Sinh địa 10g

Hoa cúc 2g

Ngưu tất 5g

Mạch đông 8g

Hà thủ ô 10g

Câu kỷ tử 5g

Phục linh 5g

Nhân sâm 5g

Lá dâu 5g

Thương truật 6g

Hoài giác 10g

Nghiền 13 vị trên thành bột mịn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 3 – 5g.

Dùng cho người sớm suy yếu, sớm bạc tóc, mắt mờ.

Kỷ cúc địa hoàng thang (Thang kỷ cúc địa hoàng)

Câu kỷ tử 4g – Sơn dược 6g

Hoa cúc 4g – Phục linh 6g

Thục địa hoàng 16g – Trạch tả 6g

Sơn thù du 8g – Mẫu đơn bì 6g

Sắc cả tám vị, uống ngày 1 thang, chia 2 lần, sớm, tối.

Dùng cho người can thận hư, sinh ra mắt hoa tai ù, sợ ánh sáng, đi ngược gió chảy nước mắt, nhìn mọi vật như nhảy múa.

Cúc khung tẩy dịch (nước rửa mắt hoa cúc xuyên khung)

Hoa cúc 6g – Xuyên khung 6g

Thạch bì 6g

Sắc hai nước, trộn lẫn, lọc sạch. Dùng nước lọc rửa mắt ngày 3-4 lần.

Dùng cho người bị sưng đau mí mắt, mắt sưng đỏ, đau đớn.

Cải dung tẩy dịch (thuốc dưỡng dung nhan)

Hoa cúc 15g

Địa bối mẫu 15g

Phòng phong 15g

Hoạt thạch 15g

Bạch phụ tử 15g

Sắc hai nước, trộn lẫn, lọc sạch. Dùng làm nước dưỡng da.

Dùng để chữa tàn hương, trứng cá.

Cúc Hoa ! Hoa trung Quân Tử, Dược trung Thánh Hiền.

Nói đến những loài hoa quí, được dân gian ưa chuộng nhiều, người ta thường nói đến bộ ” Tứ Bình “, gồm có bốn loại hoa: Mai, Lan, Trúc, Cúc . Hoặc nói về ” Tứ Quí “, gồm bốn loại cây cảnh: Tùng, Cúc, Trúc, Mai. Có thể nói, mỗi loài hoa đều có những đặc điểm riêng, vẻ đẹp riêng, cốt cách riêng của nó. Trong bài viết này, xin phép được giới thiệu qua tới các bạn một trong số các loài hoa đó: Cúc Hoa – Hoa trung Quân Tử.

Người xưa yêu hoa Cúc vì đó là loài hoa biểu lộ đặc tính: “diệp bất ly chi, hoa vô lạc địa” – lá không rụng khỏi cành, hoa cũng chẳng lìa thân, dù héo rũ tàn khô, vẫn luôn bám lấy cành, như người quân tử đầy chí khí suốt đời theo đuổi lý tưởng chân chính của mình.

Hoa Cúc biểu tượng cho tinh thần thanh cao của những kẻ sĩ muốn lánh xa vòng tục lụy. “Cúc ngạo hàn sương”, Cúc vẫn hiên ngang ngạo nghễ, đâm hoa kết nhánh, mặc cho sương sa tuyết lạnh bao trùm, mặc cho khí thời khắc nghiệt vây quanh, Cúc vẫn mang nét điềm đạm ung dung, Cúc vẫn vươn mình đứng thẳng giữa phong trần, thách thức với bao nỗi đoạn trường gian truân của thế sự nhân tình: ” Tiếu ngạo hàn sương phô cốt cách. Khai nhan diệu sắc kháng thu thâm ” – Cúc Đảm Ngạo Hàn Sương ( Hải Đà ).

Theo “Dược phẩm vựng yếu”

Cam cúc (Cúc hoa)

Loại vàng vào dương phận, loại trắng vào âm phận.

Khí vị:

Vị đắng, ngọt, kiêm cay, khí bình, không độc, có thể thăng, mà cũng có thể giáng, là thuốc dương trong âm, chạy vào kinh Thủ thái âm, Túc thái âm, dùng Câu kỷ, Tang bạch bì làm sứ.

Chủ dụng:

Thanh đầu mắt, chữa đau đầu, chóng mặt, đuổi chứng du phong ở chân tay, lợi khí huyết khắp người, làm sáng mắt, làm hết dử (ghèn), chữa chứng đau lưng, bổ âm khí, chữa các chứng nhiệt, làm đen tóc, sống lâu, trục thai chết, chữa chứng phong đàm tê thấp. Lá xanh nó chữa các chứng đinh độc nguy cấp, lấy lá giã nát, cho Rượu vào, vắt lấy nước cốt mà uống, bã đắp tại chỗ đinh độc, rất hay.

Cách chế:

Hái về phơi dâm, dùng với thuốc bổ thì tẩm Rượu phơi khô, dùng vào thuốc trừ phong nhiệt thì để sống.

Nhận xét:

Cam cúc trải qua 3 mùa Xuân, Hạ, Thu, hấp thụ khí thơm mát của trời đất, nhờ chính khí kim tinh, cho nên có thể bình Can, sinh thủy, giáng hỏa, làm sáng mắt, là vị thuốc làm ráo nước mắt hết dử mắt rất hay, vả lại tính khí nó nhẹ nhàng cho nên phần nhiều dùng chữa bệnh phần trên người, hợp với Câu kỷ thì có thể giúp Thận, có thể uống, có thể ăn, có thể ngâm Rượu, có thể dồn gối. Sách Bản thảo cho nó là thượng phẩm.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Ôn bệnh điều biện”

Bài Tang cúc ẩm Cúc hoa 12g Tang diệp 12g, Hạnh nhân 8-12g, Bạc hà 2-4g, Cát cánh 8-12g, Liên kiều 6-12g, Lô căn 8-12g, Cam thảo 2-4g. sắc uống mỗi ngày 1-2 thang, chia nhiều lần. Có tác dụng sơ phong, thanh nhiệt, tuyên Phế, chỉ khái.

Trị ôn phong giai đoạn đầu, biểu hiện ho, sốt không nhất định, miệng hơi khát, rêu lưỡi vàng nhat, mạch phù sác.

Trên lâm sàng bài thuốc thường được dùng trị bệnh viêm đường hô hấp trên, cảm cúm, viêm Phế quản thuộc chứng phong nhiệt ảnh hưởng tới Phế, gây nên ho, sốt, mề đay, viêm não B, ho gà.

Gia giảm: Ho nhiều mà khí nghịch có thể thêm Tiền hồ, Tô tử, Tượng bối mẫu, Ngưu bàng để tăng thêm tác dụng thông Phế giáng nghịch.

Nếu ho đờm thêm Qua lâu nhân, Bối mẫu để thanh Phế, hóa đờm.

Nếu ho nhiều đờm, rêu lưỡi trắng nhờn có thể thêm Trần bì, Bán hạ, Phục linh, Chỉ xác để thông hóa thấp đờm.

Nếu ho có đờm vàng, rêu lưỡi vàng hoặc lưỡi đỏ có thể thêm Hoàng cầm, Đông qua tử, Tang bạch bì, Trúc lịch, Bán hạ để tiêu nhiệt hóa đờm.

Nếu đờm nhiều, vàng đặc, lưỡi đỏ, rêu vàng có thể thêm Hoàng cầm, Đông qua nhân để thanh nhiệt hóa dòm.

Nếu trong đờm có máu thêm Bạch mao căn, Thiến thảo để lương huyết, chỉ huyết.

Nếu lạnh nhiều mà sốt, tuy không biểu hiện rõ mà đầu đau nhẹ là phong nhiệt quấy ở trên có thể thêm Bạch tật lê, Mạn kinh tử để tán phong nhiệt thì đầu và mắt được thanh thoát. Nếu miệng khát thêm Thiên hoa phấn, Thạch hộc để thanh nhiệt, sinh tân, sốt cao, khó thở thêm sinh Thạch cao, Tri mẫu để thanh Phế,Vị

“Thẩm thị giao hàm”

Bài Minh mục địa hoàng hoàn

Là bài Lục vị địa hoàng hoàn, thêm Sài hồ, Đương quy, Bạch thược, Câu kỷ, Cúc hoa, Bạch tật lê, Thạch quyết minh

(Thạch quyết minh sắc trước). Có tác dụng tư bổ Can Thận, tiêu tán phong nhiệt, làm sáng mắt.

Trị các chứng mắt khô, mắt mờ, quáng gà, huyết áp cao thể âm hư hỏa vượng.

Nếu lạnh bụng, đầy bụng thêm Nhục quế.

“Thiên gia diệu phương”

Bài Tứ tử hòa huyết thang

Thục địa 12g, Sơn dược 16g, Bạch linh 12g, Đương quy 16g, Ngũ vị tử 10g, Câu kỷ tử 10g, Xa tiền tử 10g, Sung úy tử 10g, Xích thược 12g, Cúc hoa 12g, Đan bì 10g.

Sắc, chia uống 3 lần trong ngày.

Có tác dụng dưỡng Can, hoạt huyết, tư âm, sáng Mắt.

Chữa bệnh teo giây thần kinh thị giác.

Gia giảm: Miệng khát thêm Mạch môn 10g, Hoa phấn 10g; Đau đầu thêm Xuyên khung 6g; họng đau thêm Sơn đậu căn 10g, Cát cánh 10g, Cam thảo 5g; tiêu hóa kém thêm Sơn tra 10g; mất ngủ thêm Táo nhân (sao) 10g, Hợp hoan hoa 10g; tiện bí thêm Hỏa ma nhân 20g.

“Thiên gia diệu phương”

Bài Gia vị ích tâm tiềm dương thang

Ngưu tất 9g, Câu đằng 9g, Mạch môn 9g, Cúc hoa 9g, Đại giả thạch 15g, Thuyền thoái 9g, Sinh Long cốt 15g, Huyền sâm 12g, Sinh Mẫu lệ 15g, Bạch linh 9g, Chích Viễn chí 6g.

Sắc, chia uống vài lần trong ngày.

Có tác dụng tư thủy, hàm mộc, tiềm dương, tức phong.

Chữa chứng tăng huyết áp.

Gia giảm: Người Thận âm hư có thể thêm Thục địa, Nữ trinh tử, Quy bản giao. Huyết áp khó giảm có thể thêm Tang ký sinh, Hạ khô thảo, Sinh Đỗ trọng.

Điều trị kháng retrovirus ở trẻ em nhiễm HIV

Đặc điểm của nhiễm HIV ở trẻ em

Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ. Nhiễm HIV ở trẻ em khác với nhiễm HIV ở người lớn về vấn đề lây truyền, diễn biến tự nhiên của động học virus, sự chín mùi của hệ miễn dịch và các biểu hiện lâm sàng. Nên lưu ý đến một số yếu tố khi sử dụng thuốc kháng retrovirus cho trẻ em: trẻ có thể đã tiếp xúc với AZT và các thuốc khác trong bụng mẹ, dược động học của thuốc tùy thuộc vào độ tuổi và trẻ em cần được quan tâm đặc biệt để giúp trẻ thích ứng với thuốc.

Hơn 95% trẻ em bị nhiễm virus trong thời kỳ chu sinh từ mẹ sang con (nhiễm trùng dọc). Lây truyền qua truyền máu, qua đường tình dục và nghiện chích ít gặp hơn rất nhiều. Trong đa số các trường hợp (75-90%) HIV bị lây truyền chu sinh hay trong lúc sinh. Chỉ có rất ít trẻ bị nhiễm trong bụng mẹ (10-25%). Lây truyền qua bú mẹ là quan trọng ở những cơ sở điều kiện nghèo nàn, nhưng lại có vai trò thứ yếu tại các nước đã phát triển, ở đó người ta khuyến cáo mạnh mẽ các bà mẹ nếu đã biết được là nhiễm HIV thì không nên cho con bú. Hiểu biết ngày càng nhiều về lý do vì sao HIV lại lây truyền dọc đã giúp có được các can thiệp dự phòng lây nhiễm đạt hiệu quả cao và làm giảm rõ rệt tỷ lệ lây nhiễm xuống dưới 2%. Tuy nhiên, các ca nhiễm virus mới ở trẻ phơi nhiễm với HIV vẫn tiếp tục xảy ra

  • nếu không biết được tình trạng nhiễm HIV của mẹ
  • nếu việc điều trị dự phòng lây nhiễm không được thực hiện đầy đủ
  • nếu mẹ không tiếp cận được với điều trị dự phòng lây nhiễm trong thời kỳ mang Nếu không được điều trị thuốc kháng retrovirus, sẽ có 2 hình thức của sự lây truyền dọc HIV:

ở 10-25% số trẻ, tiến triển rất nhanh với các triệu chứng của AIDS và các biến chứng chết người xuất hiện ngay trong năm đầu của đời sống. Ở 75-90% thì lại có một diễn tiến chậm hơn nhiều với thời gian trung bình khoảng hơn 8 năm trước khi các triệu chứng AIDS xuất hiện. Hiện nay, diễn tiến của bệnh chủ yếu phụ thuộc vào hiệu quả của điều trị kháng retrovirus.

Ngay khi sinh ra, tải lượng virus thường thấp (<10.000 bản sao/mL) và sau đó tăng dần lên trong vòng 2 tuần đầu của đời sống lên đến trên 100.000 bản sao/mL và chỉ giảm dần trở lại sau 4-5 tuổi. Động học của virus kiểu này rất khác với kiểu tăng và giảm rất nhanh của lượng virus ở những người lớn không được điều trị trong vòng một vài tháng sau khi nhiễm HIV cấp (hình 1).

Ở trẻ em, tải lượng virus cao thường kết hợp với sự sinh trưởng của hệ lympho và sự bất lực của hệ miễn dịch của trẻ không thể có được một đáp ứng đặc hiệu với HIV. Khi đánh giá hệ miễn dịch ở trẻ nhỏ và trẻ lớn, điều quan trọng là so sánh số lượng tế bào T-CD4+ với các trị số thích ứng với tuổi (ví dụ như, số lượng tế bào T-CD4+ trung bình của đứa bé 6 tháng tuổi là 3.0 x 109/l). Số lượng tế bào lympho rất cao ở lứa tuổi trẻ nhỏ và giảm dần đến các trị số của người lớn sau 6 tuổi (bảng 1).tải lượng virus và miễn dịch kháng HIV

Hình1: Các khác biệt về diễn tiến tự nhiên của tải lượng virus và miễn dịch kháng HIV giữa người lớn và trẻ bú mẹ/trẻ mới biết đi

Phổ của các biểu hiện lâm sàng ở trẻ em nhiễm HIV khác với phổ của người lớn. Ở người lớn, các biểu hiện lâm sàng của bệnh HIV cấp đã chuyển đổi huyết thanh là: sốt, đau họng, sưng hạch và một bệnh cảnh giống tăng bạch cầu đơn nhân (mononucleosis). Bệnh HIV giai đoạn chuyển đổi huyết thanh chưa được mô tả ở trẻ nhiễm virus chu sinh. Bệnh có triệu chứng biểu hiện ở trẻ em được phân loại tùy theo mức độ nặng của triệu chứng (bảng 2).

WHO đã đề nghị một phân loại giai đoạn mới vào năm 2006 (http://www.who.int/hiv/pub/guidelines/en/index.html). Nếu điều trị kháng retrovirus ở trẻ em có hiệu quả, nhiễm trùng cơ hội (NTCH) sẽ trở nên rất hiếm. Tuy nhiên, ở trẻ em mới được phát hiện nhiễm HIV (ví dụ nếu tình trạng nhiễm HIV của mẹ không được biết và không có điều trị dự phòng chống lây nhiễm), vẫn có thể gặp NTCH.

Bảng 1. Hệ thống Phân loại HIV ở trẻ em theo WHO 2006: Phân nhóm Miễn dịch trên Cơ sở Số lượng và Tỷ lệ Tế bào T-CD4+ Đặc thù theo Tuổi*
CD4 theo tuổi
Phân loại suy giảm miễn dịch < 11 tháng(%CD4) 12-35 tháng(%CD4) 36-59 tháng(%CD4) > 5 tuổi (số lượng tuyệt đối)
Không suy giảm hoặc không đáng kể >35 >30 >25 > 500
Nhẹ 30–35 25–30 20–25 350−499
Tiến triển 25–29 20–24 15−19 200−349
Nặng <25 <20 <15 <200 hoặc <15%

 

Bảng 2. Hệ thống Phân nhóm lâm sàng ở trẻ đã khẳng định nhiễm HIV theo WHO

Giai đoạn lâm sàng 1
Không triệu chứngBệnh hạch toàn thân dai dẳng
Giai đoạn lâm sàng 2
Gan lách to kéo dài không giải thích được Phát ban sẩn ngứaNhiễm nấm móng Viêm khóe miệng

Đỏ viền lợi (lineal gingival erythema) Nhiễm mụn cóc lan tỏa

U mềm lây lan tỏa Loét miệng tái phát

Tuyến mang tai to kéo dài không giải thích được Herpes zoster

Nhiễm trùng đường hô hấp trên tái phát hoặc mạn tính (viêm tai giữa, viêm xoang hoặc viêm amidan)

Giai đoạn lâm sàng 3
Suy dinh dưỡng mức độ vừa hoặc gầy mòn mà không giải thích được và không đáp ứng với điều trị quy chuẩnỈa chảy kéo dài trên 14 ngày không giải thích được

Sốt kéo dài không giải thích được (trên 37.5°C từng cơn hoặc liên tục, kéo dài trên 1 tháng) Tưa miệng kéo dài (sau 6-8 tuần tuổi)

Bạch sản lông ở miệng

Viêm loét hoại tử cấp tính của lợi hoặc quanh răng Lao hạch

Lao phổiViêm phổi vi khuẩn nặng tái phát

Viêm phổi kẽ thâm nhiễm lympho có triệu chứng Bệnh phổi mạn tính do HIV, bao gồm giãn phế quản

Thiếu máu (< 8 g/dl), giảm bạch cầu trung tính (< 500 tế bào/µl), hoặc giảm tiểu cầu (< 50,000 tế bào/µl) mạn tính

Giai đoạn lâm sàng 4
Suy dinh dưỡng mức độ nặng hoặc gầy mòn mà không giải thích được và không đáp ứng với điều trị quy chuẩnViêm phổi do PCP

Nhiễm trùng nặng do vi khuẩn tái diễn (ví dụ viêm mủ màng phổi, viêm màng não, nhiễm trùng xương khớp, viêm cơ mủ, không tính viêm phổi)

Nhiễm herpes simplex virus mạn tính (gây nên một vết loét da hoặc niêm mạc miệng

> 1 tháng; hoặc tổn thương bất cứ phủ tạng nào)

Nhiễm candida thực quản hay phổi (phế quản, khí quản, nhu mô phổi) Lao ngoài phổi

Kaposi sarcoma

Nhiễm Cytomegalovirus viêm võng mạch hoặc tổn thương cơ quan khác khởi phát khi trẻ > 1 tháng tuổi

Nhiễm toxoplasma thần kinh trung ương (sau 1 tháng tuổi) Nhiễm Cryptococcus ngoài phổi (bao gồm viêm màng não) Bệnh não do HIV

Nhiễm nấm lan tỏa (coccidiomycosis hoặc histoplasmosis) Mycobacteria không phải lao lan tỏa

Nhiễm cryptosporidia mạn tính (biểu hiện ỉa chảy)

Nhiễm isospora mạn tính

non-Hodgkin lymphoma của não hoặc tế bào B Bệnh não chất trắng đa ổ tiến triển

Bệnh thận hoặc bệnh cơ tim do HIV có triệu chứng

Chẩn đoán nhiễm HIV ở trẻ < 18 tháng tuổi

Việc phát hiện các kháng thể kháng HIV không chứng minh được nhiễm virus HIV ở trẻ nhỏ. Những hiệu giá IgG kháng HIV khá cao đã được truyền qua nhau thai từ mẹ sang con. Các kháng thể của mẹ có thể được tìm thấy ở con trẻ cho đến 18 tháng tuổi. Do vậy cần phải có một phương pháp xét nghiệm tìm trực tiếp HIV. Nhận diện bằng HIV DNA PCR là rất nhậy và đặc hiệu. Xét nghiệm có thể phát hiện được HIV ở 38% trẻ bị nhiễm trong vòng 48 giờ sau sinh, và 93% trong vòng 2 tuần đầu (Dunn 1995). Khi có một xét nghiệm HIV PCR dương tính, nên lấy một mẫu máu thứ hai độc lập để làm lại PCR. Do có các subtype HIV  khác nhau, người ta khuyên nên lấy mẫu xét nghiệm kép cả mẹ và con để làm PCR HIV DNA. Nếu virus mẹ không được “mồi” (primer set) nhân lên, thì một mẫu khác hay một xét nghiệm   khác có thể được sử dụng đến để tránh sai lạc gây một kết quả âm tính giả ở trẻ. Máu cuống rốn không thuận tiện cho việc chẩn đoán vì tế bào của mẹ có thể hiện diện trong đó và có thể gây ra kết quả dương tính giả. Nhìn chung, cần phải xác nhận việc biến mất của các kháng thể IgG kháng HIV trước khi loại trừ một cách chắc chắn nhiễm HIV ở những trẻ phơi nhiễm với HIV. Các xét nghiệm với độ nhạy cao hơn để phát hiện kháng thể HIV là không có ích vì chúng có thể phát hiện kháng thể của mẹ trong máu của con cho tới 28 tháng tuổi khiến gia đình thêm hoang mang (Nastouli 2007). Đã có một bản phác thảo mới của WHO về chẩn đoán HIV ở trẻ nhỏ dành cho các nước đang phát triển (http://www.who.int/hiv/paediatric/infantdiagnosis.pdf).

Chẩn đoán nhiễm HIV ở trẻ > 18 tháng tuổi

Nhiễm HIV được chẩn đoán tương tự như ở người lớn (xem chương “Xét nghiệm HIV”).

Khi nào bắt đầu điều trị kháng retrovirus

Nên lưu tâm đến những điều sau đây trước khi bắt đầu điều trị kháng retrovirus ở trẻ em:

  • Điều trị trẻ em nhiễm HIV thường không phải là cấp cứu
  • Nên dành nhiều thời gian cần thiết để quyết định có nên bắt đầu dùng HAART hay không

Bắt đầu ART quá sớm có nguy cơ gây các tác dụng phụ lâu dài và sớm cạn kiệt dự trữ có hạn của các thuốc kháng retrovirus có thể dùng được một cách an toàn ở trẻ em. Do vậy, nhiều chuyên gia trì hoãn điều trị ở trẻ không có triệu chứng với một tải lượng virus thấp và không có suy giảm miễn dịch. Chỉ định điều trị dựa trên số lượng tế bào T-CD4+, tải lượng virus và các tiêu chí lâm sàng. Đã có các hướng dẫn điều trị mới của WHO cho các cơ sở có điều kiện nghèo  nàn  (http://www.who.int/hiv/pub/guidelines/art/en/index.html).

Bảng 3. Các khuyến cáo PENTA về việc khi nào bắt đầu dùng thuốc kháng retrovirus http://www.ctu.mrc.ac.uk/penta/guidelines.htm

Trẻ nhỏ (< 1 tuổi = infants)
1.  Lâm sàngBắt đầu ở tất cả trẻ nhỏ với bệnh ở giai đoạn B hay C (AIDS) của CDC.

2.  Dấu chỉ điểm thay thế

Bắt đầu ở tất cả trẻ nhỏ với % tế bào T-CD4+ < 25–35 %.

Rất nên bắt đầu dùng thuốc với tải lượng virus > 1 triệu bản sao/mL.

Rất nhiều chuyên gia điều trị tất cả các trẻ nhỏ, dù có hay không có triệu chứng (với mục

đích phòng ngừa bệnh não HIV và các dạng tiến triển nặng khác của bệnh).

Trẻ em 1–3 tuổi
1.  Lâm sàngBắt đầu ở tất cả trẻ nhỏ với bệnh ở giai đoạn C.

2.  Dấu chỉ điểm thay thế

Bắt đầu ở tất cả trẻ nhỏ với % tế bào CD4 < 20%.

Rất nên bắt đầu dùng thuốc với tải lượng virus > 250.000 bản sao/mL.

Trẻ em 4–8 tuổi
1. Lâm sàng
Bắt đầu ở tất cả trẻ nhỏ với bệnh ở giai đoạn C.2. Dấu chỉ điểm thay thế

Bắt đầu ở tất cả trẻ nhỏ với % tế bào CD4 < 15%.

Rất nên bắt đầu dùng thuốc với tải lượng virus > 250.000 bản sao/mL.

Trẻ em 9–12 tuổi
1.  Lâm sàngBắt đầu ở tất cả trẻ nhỏ với bệnh ở giai đoạn C.

2.  Dấu chỉ điểm thay thế

Bắt đầu ở tất cả trẻ nhỏ với % tế bào CD4 < 15%, nhưng không quá cấp cứu như ở trẻ nhỏ hơn.

Rất nên bắt đầu dùng thuốc với tải lượng virus > 250.000 bản sao/mL.

Thiếu niên 13–17 tuổi
1.  Lâm sàngBắt đầu ở tất cả thiếu niên với bệnh ở giai đoạn C.

2.  Dấu chỉ điểm thay thế

Bắt đầu ở tất cả thiếu niên với số lượng tuyệt đối tế bào CD4  giữa 200 và 350 tế bào/mm3.

Trong một phân tích meta của 17 nghiên cứu (Dunn D; HIV Paediatric Prognostic Markers Collaborative Study Group; HPPMC cohort) với 3.941 trẻ em không được điều trị hay chỉ đơn trị AZT, người ta đã chứng minh được tải lượng virus và số lượng tế bào CD4 là những dấu chỉ điểm giai đoạn cuối của bệnh, AIDS hay là tử vong (Dunn 2003). Từ nghiên cứu quần tập lớn trên trẻ em này, người ta đã cho ra đời một chương trình vi tính dùng để dự báo nguy cơ tiến triển của bệnh đến giai đoạn AIDS hay tử vong trong vòng 6/12 tháng tùy theo lứa tuổi và hoặc là số lượng tế bào T-CD4+ hoặc là tải lượng virus của trẻ (“Bảng tính PENTA” http://www.ctu.mrc.ac.uk/penta/hppmcs/calcProb.htm). Các hướng dẫn điều trị cập nhật từ Châu Âu và Mỹ được xuất bản năm 2004 (PENTA 2004  http://www.ctu.mrc.ac.uk/penta/; http://aidsinfo.nih.gov/guidelines/). Các hướng dẫn của PENTA sử dụng các số liệu của nghiên cứu quần tập HPPMC để tối ưu hóa thời gian bắt đầu điều trị ở các lứa tuổi khác nhau, dựa vào số lượng tế bào CD4/tải lượng virus, với mục tiêu duy trì nguy cơ tiến triển trong 1 năm đến AIDS ở mức < 10% và tử vong ở mức < 5% (bảng 3 và 4).

Bảng 4.Phác đồ của Mỹ về Sử dụng Thuốc kháng Retrovirus trong Nhiễm trùng HIV ở

Trẻ em (http://aidsinfo.nih.gov/guidelines);

A. Chỉ định bắt đầu điều trị thuốc kháng retrovirus ở trẻ em < 12 tháng tuổi
Phân nhóm lâm sàng Tỷ lệ % CD4 Số lượng bản sao HIV RNA huyết tương 1 Khuyến cáo
Có triệu chứng (Nhóm lâm sàng A, B, hay C) HAY < 25 %(Nhóm miễn dịch 2 hay 3) Trị số bất kỳ Điều trị
Không có triệu chứng(Nhóm lâm sàng N)  

> 25 %

(Nhóm miễn dịch 1)

 

Trị số bất kỳ

Đặt vấn đề điều trị 2

1 Nồng độ HIV RNA huyết tương cao hơn ở những trẻ nhỏ nhiễm HIV so với các trẻ lớn và người lớn. Do nồng độ HIV RNA nói chung thường cao và chồng chéo nhau giữa các trẻ nhỏ có và không có bệnh tiến triển nhanh, nồng độ HIV RNA có thể là khó diễn giải được ở trẻ nhỏ < 12 tháng tuổi.

2   Vì nhiễm HIV tiến triển nhanh hơn ở trẻ nhỏ so với trẻ lớn hơn và người lớn, một vài chuyên gia muốn điều trị tất cả các trẻ nhỏ nhiễm HIV < 6 tháng hay < 12 tháng tuổi, không kể các thông số lâm sàng, miễn dịch hay virus học.

B. Chỉ định bắt đầu điều trị thuốc kháng retrovirus ở trẻ em > 1 tuổi
Phân nhóm lâm sàng Tỷ lệ % CD4 Số lượng bản sao HIV RNA huyết tương Khuyến cáo
AIDS (C) HAY < 15 %(Nhóm miễn dịch 3) Trị số bất kỳ Điều trị
Triệu chứng nhẹ- trung bình (A hay B) HAY 15-25 % 1(Nhóm miễn dịch 2) HAY > 100.000 bảnsao/ml 2 Đặt vấn đề điều trị
Không triệu chứng (N) > 25 %(Nhóm miễn dịch 1) < 100.000 bảnsao/ml 2 Nhiều chuyên gia trì hoãn điều trị và theo dõi sát các thông số lâm sàng, miễn dịch, và virus học

1 Nhiều chuyên gia sẽ bắt đầu điều trị nếu tỷ lệ tế bào CD4 khoảng từ 15 đến 20 %, và trì hoãn điều trị cùng với tăng tần số theo dõi ở trẻ em có tỷ lệ này từ 21 % đến 25 %.

2 Có nhiều mâu thuẫn giữa các chuyên gia HIV trẻ em về ngưỡng HIV RNA huyết tương cho phép đặt vấn đề điều trị ở trẻ em khi không có bất thường lâm sàng và miễn dịch; vài chuyên gia sẽ đặt vấn đề bắt đầu điều trị ở trẻ em không có triệu chứng nếu nồng độ HIV RNA huyết tương từ 50.000 đến100.000 bản sao/mL.

Những quan điểm chung về điều trị trẻ em nhiễm HIV

Điều trị thuốc kháng retrovirus ở trẻ em ngày càng trở nên phức tạp. Điều trị thành công cần đến một tiếp cận đa lĩnh vực đối với trẻ và gia đình của chúng.

Điều trị thuốc kháng retrovirus không thể thành công nếu không có tuân thủ điều trị. Trong thử nghiệm tiến cứu PACTG 377, tuân thủ điều trị được định nghĩa là không bỏ mất một liều thuốc đơn lẻ nào trong 3 ngày sau cùng. Theo định nghĩa này, chỉ có 70% trẻ em được xem là tuân thủ (125 trẻ trong một khoảng thời gian giám sát 48 tuần; Van Dyke 2002). Những số liệu cho thấy rằng động viên trẻ và các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế trong việc điều trị là rất quan trọng. Các phương thức uống thuốc hàng ngày cần được bàn luận một cách chi tiết và hiệu chỉnh hàng ngày và hàng tuần cho phù hợp với các hoạt động thường quy của gia đình. Cần đặt ra các mục tiêu điều trị rõ ràng, ví dụ như là 90% liều được kê ra. Rất cần có sự giáo dục cho bệnh nhân và người nhà các thông tin về thuốc kháng retrovirus. Đôi lúc cũng cần đưa bệnh nhân vào nhập viện trong một thời gian ngắn ngay khi bắt đầu điều trị để giáo dục người bệnh và đánh giá mức chịu đựng đối với chế độ điều trị. Tuân thủ điều trị là vấn đề đặc biệt cần lưu ý ở các thiếu niên. Ở nhóm tuổi này, tuân thủ đôi lúc cần đến một sự theo dõi chặt chẽ bao gồm những ngành nghề chăm sóc sức khỏe khác như là các nhà tâm lý học và các nhà hoạt động xã hội. Hổ trợ nhóm cũng rất có lợi đối với người trẻ tuổi. Đôi lúc người ta phải chấp nhận những thời kỳ ngưng thuốc, dù có nguy cơ xấu đối với diễn biến bệnh, ở  nhóm bệnh nhân này cho đến khi bản thân các người trẻ tuổi sẳn sàng tự nguyện bắt đầu điều trị lại. Một cách tiếp cận có triển vọng để tăng cường tuân thủ ở trẻ và thiếu niên là viên  thuốc ngày 1 lần: trong nghiên cứu PACTG P1021, phác đồ ngày 1 lần gồm Emtricitabine, Didanosine và Efavirenz đã được nghiên cứu > 96 tuần ở 37 trẻ (3-21 tuổi) chưa từng điều trị ARV (McKinney 2007). Phác đồ này đạt tỷ lệ khá cao trẻ có VL dưới ngưỡng phát hiện (70% sau 2 năm), đáng tiếc là không có nhóm chứng, ví dụ nhóm uống ngày 2 lần. Uống thuốc không đủ liều đã được xem là một vấn đề trong thực hành hàng ngày (Menson 2006). Tính liều bằng cân nặng thay vì bằng diện tích bề mặt da (được một số hướng dẫn cũ dùng như cách tính thay thế) có thể dẫn đến thiếu liều thuốc và đơn giản hơn là không hiệu chỉnh liều theo đà phát triển của cơ thể. Điều này nhấn mạnh việc phải theo dõi chặt trẻ nhỏ và trẻ ở tuổi mới biết đi vì chúng lớn rất nhanh, và có thể phải tính lại liều sau mỗi 4-6 tuần. Một số kiểu gen có biểu hiện tăng chuyển hóa NNRTI và PI. Những nồng độ NNRTIs và PIs huyết tương có thể được đo để phát hiện những khác biệt giữa các cá thể về chuyển hóa thuốc, về việc không tuân thủ điều trị nhằm mục đích loại bỏ việc dùng liều quá thấp và ngăn ngừa độc tính.

BS phụ khoa Cơ sở CSSKBĐ
BS Sản/PhụTrung Tâm chữa trị HIV
BS nội trúTrung Tâm chữa trị HIV
BS Nhi khoa Trung Tâm chữa trị HIV
BS virut học BS Miễn dịch họcDược sỹ
Điều dưỡngNhà hoạt động xã hội Nhà tâm lý học
BS Nhi khoa BS đa khoa
BS Nhi khoa Trung Tâm chữa trị HIV

Hình 2: Chăm sóc đa lĩnh vực đối với trẻ và gia đình bị HIV gây nhiễmHình 2: Chăm sóc đa lĩnh vực đối với trẻ và gia đình bị HIV gây nhiễm

Hiển nhiên là, khám lâm sàng và xét nghiệm đều đặn rất cần để theo dõi điều trị kháng retrovirus ở trẻ bị nhiễm HIV. Chỉ có thầy thuốc nhiều kinh nghiệm chăm sóc trẻ em nhiễm HIV và sử dụng ART (thuốc kháng retrovirus) mới có thể chăm sóc tốt được. Trước khi bắt đầu dùng thuốc hay đổi thuốc, quyết định luôn cần được dựa trên ít nhất 2 mẫu máu xét nghiệm độc lập. Các nhiễm trùng và tiêm phòng có thể ảnh hưởng đến tải lượng virus và số lượng tế bào CD4. Do vậy, người ta khuyến cáo không nên quyết định dựa trên các số liệu thu thập được trong vòng 14 ngày sau nhiễm trùng hay tiêm phòng.

Chiến lược

Hiện nay, không thể điều trị tiệt căn HIV với các thuốc hiện có. Ở một vài trẻ, tải lượng virus vẫn duy trì ở dưới mức phát hiện được trong nhiều năm và từ đó không còn tìm được các kháng thể đặc hiệu kháng HIV ở những đứa trẻ này. Ngay cả ở những trẻ này, các thử nghiệm siêu nhậy vẫn có thể tìm thấy HIV (Persaud 2004). Do vậy lợi và hại của điều trị kháng retrovirus cần được cân nhắc ở mỗi đứa trẻ. Ngưng thuốc đột ngột hay tuân thủ điều trị không đầy đủ có thể gây nhiều tác hại hơn là trì hoãn điều trị. Quyết định bắt đầu điều trị kháng retrovirus có những hậu quả cơ bản đối với trẻ và gia đình. Từ thời điểm này trở đi, trẻ cần dùng thuốc suốt đời. Trong những thử nghiệm có đối chứng người ta chưa thử ứng dụng các thiết kế nghiên cứu gián đoạn điều trị ở lứa tuổi trẻ nhỏ và thiếu niên. Một phân tích hồi cứu của những ca gián đoạn điều trị không định trước ở trẻ em đã cho thấy một sự giảm rõ tỷ lệ tế bào CD4 khoảng 6,6% mỗi năm (Gibb 2004). PENTA (Pediatric European Network for Treatment of AIDS = Mạng lưới Điều trị AIDS Trẻ em ở Châu Âu) hiện nay đang có một nghiên cứu ngẫu nhiên về gián đoạn ở trẻ theo CD4 (PENTA 11).

Bảng 5 cho thấy quan điểm điều trị hiện nay trong việc chọn phối hợp thuốc kháng retrovirus. Trong nghiên cứu PACTG 338 của Mỹ ở 297 trẻ em, người ta đã chứng minh rằng một phối hợp có PI có hiệu quả hơn một phối hợp 2 thuốc NRTIs. Có vẻ sẽ có ích nếu bắt đầu với một phối hợp bao gồm 2 nhóm thuốc (2 NRTIs + PI hoặc 2 NRTIs + NNRTI), để dành một hoặc hai nhóm thuốc còn lại cho việc đổi thuốc kháng retrovirus trong tương lai. Nếu không đạt được sự ức chế virus hoàn toàn trong điều trị, có lẽ là đang có đề kháng chéo với NNRTIs và PIs. Do vậy, để dành lại các nhóm thuốc có thể sẽ có lợi cho một hiệu quả lâu dài tốt hơn.

Người ta vẫn còn tranh cãi liệu có nên điều trị HAART cho mọi trẻ em hay không. Trong nghiên cứu PACTG 256, một tiếp cận điều trị tích cực bao gồm 3 nhóm thuốc (NRTI + NNRTI + PI) dẫn đến một sự giảm tải lượng virus hiệu quả cao và hiệu lực kéo dài (72% bệnh nhân trong 4 năm), nhất là khi bắt đầu điều trị sớm (< 3 tháng) (Luzuriaga 2004). Hơn nữa, trong nghiên cứu CHER của Nam Phi, khi so sánh tác động của điều trị HAART sớm và điều trị muộn ở trẻ nhỏ, người ta thấy tỷ lệ tử vong cao hơn ở nhóm điều trị muộn (chưa công bố). Đặc biệt trong bệnh não HIV và tỷ lệ tử vong cao, những kết quả này đều gợi ý nên điều trị HAART cho mọi trẻ em bất kể CD4 là bao nhiêu và bệnh nhi có triệu chứng hay không.

Nghiên cứu CHER này cũng đánh giá liệu điều trị sớm như vậy có nên được duy trì kéo dài liên tục cho tới quá 1-2 tuổi hay không.

Do ở châu Âu có quá ít bệnh nhân ở lứa tuổi thơ ấu và thiếu niên, người ta khuyến cáo nên đưa mọi trẻ em được điều trị thuốc kháng retrovirus vào những thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm (ví dụ như PENTA, http://www.pentatrials.org, Tel. Dr. Diana Gibb ++ 44 20 7670 4709; Lynda Harper ++ 44 20 7670 4791). Thử nghiệm PENPACT1 với sự tham gia của cả 2   nhóm PENTA và PACTG đã hoàn thành tuyển chọn bệnh nhân và sẽ hoàn thành vào năm 2009  và sẽ trả lời câu hỏi bắt đầu điều trị ở trẻ em với 2 NRTIs + PI hay với 2 NRTIs + NNRTI, cái nào hiệu quả hơn.

Bảng 5. Quan điểm điều trị nhiễm HIV ở trẻ em
Phác đồ Khuyến cáo
NRTI* 1 + NRTI 2 + PI**  hay NRTI 1 + NRTI 2 + NNRTI*** Tính cả trẻ em vào các thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm (ví dụ, PENPACT 1)
* Nucleoside Reverse Transcriptase Inhibitors: AZT, ddI, 3TC, d4T, ABC, FTC, TDF.** Protease Inhibitors: NFV, LPV/RTV, ATV, IDV, APV. Ritonavir là thuốc tăng cường thêm.

*** Non-nucleoside Reverse Transcriptase Inhibitors: NVP, EFV.

Trong thử nghiệm có đối chứng với giả dược CNAA3006 ở Mỹ trên trẻ em đã được điều trị thuốc kháng retrovirus, một phối hợp điều trị 3 NRTIs được chứng minh là có hiệu quả hơn 2 NRTIs (Saez-Llorens 2001). Tuy nhiên, thử nghiệm này được thực hiện trên trẻ em đã được dùng thuốc ART và không phải là chưa bao giờ được điều trị. Các số liệu trên người lớn gợi ý rằng một chiến lược 3 thuốc NRTI kém hiệu quả hơn một trị liệu có một PI hay NNRTI.    Cho đến nay chưa có số liệu về trị liệu 3 thuốc NRTI để điều trị ban đầu ở trẻ em

Các nhóm thuốc kháng retrovirus

Trong những chương tiếp sau đây các nhóm thuốc kháng retrovirus khác nhau hiện đang được dùng ở trẻ em được giới thiệu với phần nhấn mạnh cách dùng cho trẻ em và đặc biệt là liều dùng hàng ngày, mối liên quan với thức ăn (trừ phi thuốc được uống không phụ thuộc thức ăn) và các tác dụng phụ. Tất cả các thuốc đều có thể gây buồn nôn, nôn mửa, sốt, đau đầu, tiêu chảy, ban và chán ăn.

Các chất ức chế sao chép ngược dạng nucleos(t)ide (NRTIs)

NRTIs đã được sử dụng trong điều trị nhiễm HIV ở trẻ em đã hơn 15 năm nay. Phối hợp 2 NRTIs trong thành phần của HAART có hiệu quả và được dung nạp tốt. Các tác dụng nặng thường hiếm nhưng có khả năng gây chết người, như là nhiễm toan lactic và thoái hóa mở gan. Những tác dụng phụ khác là rối loạn chức năng thần kinh cơ, bệnh cơ tim, giảm 3 dòng (tế bào máu), viêm tụy và bệnh lý dây thần kinh. Tất cả các tác dụng phụ này có lẽ là có liên quan đến độc tính ty thể gây nên bởi NRTIs. Người ta khuyên không nên dùng các phối hợp sau đây do tính đối kháng dược lý và virus học cũng như tính cộng hưởng gây độc thần kinh: AZT+d4T, ddI+d4T (không phải phối hợp ưu tiên), FTC+3TC. NRTIs ít gây độc ty lạp thể bao gồm 3TC, ABC, FTC và TDF.

Zidovudine (ZDV, AZT, Retrovir™) có thể được dùng dưới dạng xirô, viên nhộng, viên nén và dung dịch tiêm hay truyền tĩnh mạch. Liều dùng là 180 mg/m² da uống mỗi 12 giờ. Liều tối đa là 300 mg mỗi 12 giờ.

Lamivudine (3TC, Epivir™) có thể được dùng dưới dạng dung dịch và viên nén uống. Liều dùng là 4 mg/kg mỗi 12 giờ, liều tối đa là 150 mg mỗi 12 giờ. Ở trẻ lớn hơn và thiếu niên (> 35 kg thể trọng) phối hợp với AZT (Combivir™) hoặc abacavir (KivexaTM/US: Epzicom™) có thể được sử dụng và nhờ đó giảm bớt lượng viên thuốc hàng ngày. Ở người lớn, 3TC có hoạt tính chống lại virus viêm gan B. Ở trẻ không nhiễm HIV và mắc viêm gan B mạn tính, điều trị lamivudine sớm có thể đạt được chuyển đảo huyết thanh HBe và HBs cao (Choe 2007). Hiện chưa có dữ liệu ở trẻ đồng nhiễm HIV/HBV. Một phác đồ dùng một lần/ngày phối hợp với abacavir đã được chứng minh là cũng hiệu quả tương đương như dùng hai lần/ngày (Bergshoeff, 2005) (Thử nghiệm PENTA 13).

Didanosine (ddI, Videx™) có thể được dùng dưới dạng dung dịch và viên nén uống. Liều dùng là 200 mg/m2 da mỗi 12 giờ, liều tối đa là 400 mg (thể trọng ≥ 60kg) hoặc 250 mg (thể trọng < 60 kg). Thuốc nên được dùng khi đói. Cần chỉnh liều khi phối hợp với TDF.

Abacavir (ABC, Ziagen™) có thể được dùng dưới dạng dung dịch và viên nén uống. Liều dùng là 8 mg/kg mỗi 12 giờ, liều tối đa là 300 mg x 2 lần/ngày hoặc 600 mg một lần/ngày. Trong thử nghiệm PENTA 5, phác đồ có ABC+3TC cho thấy có hiệu quả giảm tải lượng virus tốt hơn những phối hợp ABC+AZT hay AZT+3TC. Khả năng có nguy cơ phản ứng quá     mẫn chết người. Nếu quá mẫn ABC xảy ra và thuốc được ngưng dùng, thì không nên dùng thuốc trở lại bởi vì, dù là hiếm, tử vong có thể xảy ra ở người lớn nếu tiếp xúc lại với thuốc. HLA B57 có vẻ phối hợp với quá mẫn thuốc và xét nghiệm HLA trước khi bắt đầu dùng ABC có thể có ích, vì đôi lúc ta cần đặt vấn đề dùng một NRTI thay thế ở trẻ HLA B5701       dương tính. Trong thử nghiệm PENTA 15, dược động học, khả năng dùng và chấp nhận được liều thuốc ABC hay ABC phối hợp với 3TC ngày một lần ở trẻ em từ 3 tháng đến 36 tháng tuổi sẽ được lượng giá.

Emtricitabine (FTC, Emtriva™) có thể được dùng dưới dạng dung dịch và viên nhộng uống. Liều dùng là 6 mg/kg mỗi ngày. Dùng viên con nhộng thì nồng độ thuốc huyết tương cao hơn 20%. FTC có thể được dùng ngày một lần. Liều tối đa là 200 mg ngày một lần.

Tenofovir (TDF, Viread™) chỉ có thuốc viên nén (300 mg). Ở 18 trẻ em và thiếu niên từ 6 đến 16 tuổi, một liều 200 mg/m² da ngày ngày một lần được dung nạp tốt (Hazra 2004). TDF nên được uống với thức ăn. Không có thử nghiệm có đối chứng về hiệu quả của thuốc ở trẻ em. TDF được chứng minh là có tác dụng phụ ở thận và xương có thể là rất đáng kể và cần được theo dõi sát. TDF cũng hiệu quả trong điều trị viêm gan B. Ở trẻ đồng nhiễm  HIV/HBV, nếu cần điều trị HIV thì nên cân nhắc phác đồ TDF+3TC (Truvada) do cả 2 thuốc này đều có tác dụng với viêm gan B.

Stavudine (d4T, Zerit™) có thể được dùng dưới dạng dung dịch và viên nhộng uống. Liều dùng là 1mg/kg mỗi 12 giờ. Liều tối đa là 40 mg mỗi 12 giờ. D4T không được khuyến cáo là thuốc đầu tay do có nguy cơ cao gây teo mỡ (xem bên dưới).

Các chất ức chế sao chép ngược non nucleoside (NNRTIs)

Các thuốc này có rào cản gen học thấp đối với kháng thuốc. Trong vòng một ít tuần lễ sử dụng liều dưới chuẩn hay tuân thủ dùng thuốc kém sẽ có thể dẫn đến các đột biến đề kháng chéo giữa các thuốc cùng nhóm ảnh hưởng đến tất cả các NNRTIs hiện có. NNRTIs có được dưới dạng các chế phẩm dung dịch dễ uống giúp cho trẻ dùng thuốc dễ chịu hơn là các dung dịch PI. Cần lưu ý rằng một liều đơn nevirapine lúc sinh (dùng điều trị dự phòng lây truyền mẹ con) có thể ảnh hưởng tới đáp ứng điều trị sau này nếu NNRTI được dùng trong phác đồ ban đầu cho trẻ (Lockman 2007).

Efavirenz (EFV, Sustiva™) có thể được dùng dưới dạng dung dịch và viên nhộng uống. Liều dùng là 200 mg/kg (thể trọng 10-15 kg), 250 mg (15-20 kg), 300 mg (20-25 kg), 350 mg (25- 33 kg), 400 mg (33-40 kg), 600 mg (> 40 kg) ngày một lần. Liều tối đa là 600 mg ngày một lần. Nên uống thuốc lúc đói và tránh các bữa ăn nhiều béo. Khi sử dụng dung dịch uống, cần dùng một liều cao hơn liều đối với thuốc con nhộng 20%. Các triệu chứng thần kinh trung ương (ngủ gà, mất ngủ, những giấc mơ bất thường, lú lẫn, suy tư bất thường, mất tập trung, chứng hay quên, kích động, rối loạn nhân cách, ảo giác, sảng khoái) có vẻ hay gặp ở người  lớn hơn trẻ em. Ban ngoài da được quan sát thấy < 10% bệnh nhân. Nó thường hiếm khi nghiêm trọng và thường biến mất sau vài ngày dù vẫn tiếp tục dùng efavirenz. Efavirenz làm tăng lipid máu ở vài bệnh nhân.

Nevirapine (NVP, Viramune™) có thể được dùng dưới dạng viên và dung dịch treo. Liều là 150 mg/m2  da ngày một lần trong 14 ngày, sau đó dùng 150 mg/m2 mỗi 12 giờ, nếu các xét nghiệm chức năng gan bình thường. Trong một phân tích hồi cứu, cách dùng ngày một lần – 300 mg/m2 sau tuần thứ 2 – cũng có hiệu quả tương đương với dùng hai lần/ngày (Verweel 2003). Tác dụng phụ hay gặp nhất của nevirepine là ban ngoài da. Ban xuất hiện đến trên 16 % trẻ em ngay trong tuần lễ điều trị đầu tiên và có thể rất nghiêm trọng (8%) và cần phải  nhập viện. Các biến chứng chết người (Hội chứng Steven Johnson, hoại tử nhiễm độc thượng bì) thường hiếm gặp. Độc tính gan cũng có thể xảy ra, và các ca chết người cũng đã được báo cáo ở người lớn, nhưng có vẻ là hiếm gặp ở trẻ em.

Các chất ức chế Protease (PIs)

Tất cả các PIs có thể được dùng phối hợp với 2 NRTIs. PIs khác biệt lẫn nhau trong nhóm là do tính chịu đựng thuốc và các tác dụng phụ. Cũng như ở người lớn, rối loạn mỡ máu thường phối hợp với việc sử dụng PIs (Lainka 2002); bao gồm tăng cholesterol toàn phần, tăng triglycerid (TG), và tăng LDL-c và giảm HDL-c. Trong rối loạn phân bố mỡ, có sự mất đi  của chất mỡ dưới da (thiểu sản mỡ) và/hoặc là một sự lắng đọng mô mỡ dưới da hay trong  các nơi dự trữ nội tạng (quá sản mỡ) bao gồm cả sự tích tụ mỡ vùng sau gáy (“bướu trâu”) và tăng tỷ số vòng eo/hông. Thiểu sản mỡ được thấy rõ khi mô mỡ dưới da mỏng đi ở mặt, mông, và các chi, thường kết hợp với sự nổi lộ lên của các tĩnh mạch nông. Vóc dáng của cơ thể biến đổi từ từ qua nhiều tháng, năm. Người ta không biết chính xác tỷ lệ loạn sản mỡ của trẻ em và không có tiêu chuẩn chẩn đoán rõ ràng nào cả. Rối loạn phân bố mỡ  (lipodystrophy) và rối loạn mỡ máu (dyslipidemia) cùng tồn tại, song mối liên kết giữa chúng không rõ ràng. Những nhóm thuốc khác như NRTIs (ví dụ, d4T) và NNRTIs (efavirenz, không phải nevirapine) cũng có thể có vai trò trong bệnh sinh loạn sản mỡ. Đề kháng insulin là một tác dụng phụ khác, có thể biểu hiện với tăng hay không tăng đường máu khi đói, cùng bệnh đái tháo đường mới biểu hiện hay những đợt bộc phát của bệnh đái đường có trước đó. Thêm vào đó, PIs có thể ảnh hưởng đến mật độ và chuyển hóa các chất khoáng của xương (Mora 2004). Nhìn chung lại, các di chứng của ART chứa PIs đối với sự tăng trưởng và phát triển của trẻ đến nay chưa được biết hết.

Lopinavir/Ritonavir (LPV/r, Kaletra™) là một công thức phối hợp lopinavir với ritonavir, trong đó ritonavir giữ vai trò tăng cường dược động học (booster). Có dạng thuốc viên nhộng, viên nén và dung dịch uống. Ở trẻ em đã được hay chưa được điều trị, phối hợp LPV/r và NRTI hay NNRTI có hiệu quả cao (Saez-Llorens 2003, Fraaij 2004). Liều dùng là 230-300 mg/m2 (đa số các bệnh viện dùng liều cao hơn) hoặc 13 mg/kg lopinavir cộng với 3.25 mg/kg ritonavir hai lần/ngày (thể trọng 7 – < 15 kg), 11 mg/2.75 mg (15-50 kg), 533 mg/133 mg (> 50 kg). Thuốc nên được uống cùng với thức ăn. Liều của LPV/r có thể cần được tăng lên đến 30% khi dùng phối hợp với một NNRTI. Lúc này cần nên có một sự theo dõi nồng độ thuốc điều trị.

Nelfinavir (NFV, Viracept™) được dùng dưới dạng viên nén và thuốc bột. Nó được dung  nạp tốt ở hầu hết các trẻ em. Liều dùng là 55 mg/kg mỗi 12 giờ, nhưng ở trẻ nhỏ < 3 tháng thì cần đến 75 mg/kg mỗi 12 giờ. Liều tối đa là 1.250 mg mỗi 12 giờ. Một vài trẻ lớn hơn lại cần đến 1.500 mg mỗi 12 giờ, nhiều hơn cả liều người lớn. Trong thử nghiệm PENTA 7 ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi, phối hợp nelfinavir với d4T và ddI được hấp thu rất kém, nồng độ thuốc trong huyết tương thấp và do đó tác dụng làm giảm tải lượng virus rất kém (Aboulker 2004). Thuốc nên được uống với thức ăn. Tác dụng phụ thường gặp nhất là tiêu chảy, nhưng hiếm khi gây ngưng thuốc. Để giúp sử dụng thuốc dễ hơn, viên thuốc có thể được nghiền ra hay hòa tan dễ dàng trong nước. Trong nghiên cứu PENTA 5, nelfinavir dạng bột chỉ được dung nạp kém.

Vào tháng 5/2007, đã xảy ra hiện tượng nhiễm bẩn NFV với một chất gây ung thư là ethyl mesylate (còn gọi là methane sulfonic acid ethylester) và chất này đã được tìm thấy trong một số lô sản phẩm nelfinavir được sản xuất ở châu Âu. Bệnh nhi đã được chuyển sang thuốc  khác hoặc dùng NFV nhập từ Mỹ. Các hệ thống quản lý ca bệnh ở châu Âu đã tiến hành theo dõi những trẻ được điều trị NFV hoặc phơi nhiễm với NFV từ khi là bào thai để xem liệu có tác dụng phụ nào xảy ra hay không.

Amprenavir (APV, Agenerase™) được khuyến cáo không dùng cho trẻ em< 4 tuổi. Có dạng thuốc viên nhộng và dung dịch uống. Liều thuốc viên nhộng là 22 mg/kg mỗi 12 giờ, với dung dịch uống là 22,5 mg/kg mỗi12 giờ. Liều tối đa là 1.200 mg mỗi 12 giờ. Liều amprenavir nên được tăng 30% khi phối hợp với NNRTI. Ở 5 trẻ được điều tri trước đó rất tích cực, amprenavir phối hợp với delavirdine tỏ ra rất có hiệu quả (Engelhorn 2004). Những tác dụng phụ thường gặp nhất là buồn nôn, nôn mữa, tiêu chảy và đau đầu. Thuốc tiền thân của amprenavir là fosamprenavir, hiện đang được dùng trong điều trị kháng retrovirus ở người lớn với liều 1.400 mg hai lần/ngày (không có ritonavir) hay 1.400 mg + ritonavir 200 mg ngày một lần. Thuốc nên được uống với thức ăn. Không có liều riêng cho trẻ em. Thuốc hiện đang được nghiên cứu sử dụng cho trẻ em nhiễm HIV. Hiện nay fosamprenavir thường được dùng với ritonavir để tăng nồng độ thuốc trong máu.

Ritonavir (RTV, Norvir™) có dạng dung dịch uống hay viên nhộng. Tuy nhiên, đa số trẻ không chịu được vị của dung dịch uống. Liều dùng là 350-400 mg/m² mỗi 12 giờ, liều tối đa là 600 mg mỗi 12giờ. Nên dùng thuốc với thức ăn. Ngày nay, ritonavir hầu như chỉ được dùng làm thuốc tăng cường cho các thuốc ức chế protease khác, và trong mục đích này, liều dùng là 75 mg/m² mỗi 12 giờ.

Indinavir (IDV, Crixivan™) có dạng thuốc viên nhộng. Liều dùng là 500 mg/m² mỗi 12 giờ phối hợp với ritonavir 750 mg/m² mỗi12 giờ. Nên dùng thuốc lúc đói bụng. Tác dụng phụ bao gồm sỏi thận, nhất là khi có nồng độ thuốc cao trong huyết tương.

Saquinavir (SQV, Invirase™) viên nang cứng hoặc Fortovase™ viên nang mềm). Không biết liều ở trẻ em. Có rất ít kinh nghiệm với liều 50 mg/kg mỗi 12 giờ. Saqinavir chỉ nên được dùng phối hợp với ritonavir do sinh khả dụng của thuốc kém. Nên uống thuốc với thức ăn.

Atazanavir (ATV, Reyataz™) có dạng thuốc viên nhộng. Nên dùng thuốc với thức ăn. Atazanavir có khả năng là một thuốc rất quan trọng dùng cho trẻ em trong tương lai, do chỉ cần dùng ngày một lần và tần suất gây rối loạn mỡ máu thấp. Hiện nay, chưa có liều cho trẻ em được chứng nhận. Các nghiên cứu pha I và pha II đang được tiến hành. Một vài bệnh nhân bị vàng da. Với sự tăng cường bởi ritonavir người ta thường đạt được những nồng độ thuốc ATV cao hơn.

Tipranavir (TPV, Aptivus™) có dạng viên nang mềm 250 mg. Thuốc nên được uống với thức ăn. Hiện nay, chưa có liều cho trẻ em được chứng nhận và thuốc thường có độc tính gan đáng kể ở người lớn. Các nghiên cứu pha I và pha II đang được tiến hành ở trẻ em.

Các chất ức chế gắn kết (Fusion inhibitors = FIs)

Các chất ức chế gắn kết ngăn cản virus gắn vào màng tế bào. Ở người lớn, các nghiên cứu ngẫu nhiên đã chứng minh tác dụng của T-20 (thuốc đầu tiên của nhóm này) trong các phác đồ điều trị được để dành phòng kháng thuốc.

Enfuvirtide (T-20, Fuzeon™) có thể được sử dụng ở trẻ em > 6 tuổi. Thuốc được tiêm dưới da với liều 2 mg/kg mỗi 12 giờ. Một nghiên cứu với 14 trẻ em cho thấy không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào, nhưng sau thời gian điều trị 2 năm chỉ còn 6 trên 14 trẻ còn duy trì việc điều trị này(Church 2004). Lý do bỏ điều trị là không thích tiêm thuốc, các phản ứng tại chỗ tiêm, giảm tải lượng virus không tốt, giảm tiểu cầu và phù. Không có các thử nghiệm có đối chứng về việc sử dụng T-20 ở trẻ em.

Tương tác thuốc

Có rất nhiều tương tác, có thể khiến việc điều trị kháng retrovirus thêm rắc rối khi dùng  chung với các thuốc khác. Đặc biệt là điều trị bệnh lao và nhiễm mycobacterium không điển hình có thể tương tác với ART, do đó cần phải tính đến việc theo dõi sát và hỏi ý kiến chuyên gia.

Theo dõi hiệu quả điều trị và thất bại điều trị

Một đáp ứng điều trị tốt được ghi nhận bằng một sự ức chế lâu dài tải lượng virus dưới mức phát hiện. Không phải tất cả trẻ em đều đạt được sự ức chế virus hoàn toàn, và kháng thuốc là không hiếm do áp lực chọn lọc của đáp ứng miễn dịch kháng HIV cũng như trị liệu kháng retrovirus. Hiện nay chưa có định nghĩa thường dùng cho thất bại điều trị ở trẻ em điều trị với thuốc kháng retrovirus. Do vậy, người ta cũng không chắc chắn được khi nào cần thay đổi điều trị kháng retrovirus. Trong nghiên cứu PENPACT 1, câu hỏi quan trọng này được hướng tới: trẻ em được chọn ngẫu nhiên để thay đổi một điều trị đang bị thất bại ở những mức tải lượng virus thấp hay cao (> 1.000 hay > 3.000 bản sao/ml). Bằng một cách khác, thất bại điều trị có thể được định nghĩa bằng một sự giảm số lượng tế bào CD4, ví dụ như một số lượng tuyệt đối tế bào CD4 giảm ít nhất là một phần ba trong vòng ít hơn 6 tháng. Ở trẻ em có các  tỷ lệ tế bào CD4 tương đối thấp khoảng < 15%, thì giảm > 5% cũng đã có thể là đáng kể để định ra thất bại điều trị. Việc sử dụng các tiêu chuẩn lâm sàng, như là độc tính của thuốc, một sự tiến triển của bệnh trong phân nhóm CDC, một sự gia tăng tính nhậy cảm với bệnh nhiễm trùng, bệnh não và chậm lớn, tất cả đều có thể chỉ điểm về thất bại điều trị.

Nhiều trẻ em với sự hỗ trợ đa ngành hiện có thể duy trì được sự ức chế virus lâu dài (> 5 năm) với phác đồ bậc 1, và kéo dài việc điều trị với thuốc hàng đầu này càng lâu càng tốt. Thật vậy là qua ít năm gần đây khi mà nhiều phương án điều trị cho trẻ em được đưa ra thì việc điều trị thành công ngày càng nhiều. Nguyên nhân hay gặp nhất của thất bại điều trị là tuân thủ điều trị kém, có thể lên 25- 30% số trẻ. Lượng giá sự tuân thủ điều trị thường là khó vì các bảng câu hỏi có thể là không thích hợp. Xác định nồng độ thuốc trong huyết tương và các xét nghiệm kháng thuốc (ví dụ như tái xuất hiện týp hoang dại) là những phương án khác giúp đánh giá tuân thủ điều trị và theo dõi điều trị thuốc kháng retrovirus tốt hơn.

Thay đổi điều trị 

Không có các số liệu chính thống về thay đổi điều trị ở trẻ nhiễm HIV khi nào và như thế nào. Mức ức chế tải lượng virus có thể đạt đến bằng phác đồ bậc hai hay bậc ba tùy thuộc vào trị liệu trước đó và tình trạng kháng thuốc. Điều trị trước càng tích cực và càng dài thì càng  dễ dàng có được tải lượng virus giảm thấp. Khi bắt đầu sử dụng một phối hợp thuốc kháng retrovirus mới, tuổi của đứa trẻ, tính thích hợp của các chế phẩm có được (ví dụ, dung dịch uống cho trẻ em), các tác dụng phụ và tương tác với thuốc khác, tất cả đều phải được tính  đến. Hiện nay, chưa rõ là rối loạn mỡ máu và loạn sản mỡ có thể bị ảnh hưởng bởi sự thay  đổi từ một phác đồ có PI thành một phác đồ HAART có NNRTI hay không (McComsey 3003). Ở người lớn, các thử nghiệm ngẫu nhiên và tiến cứu đã chứng minh rằng một sự thay đổi điều trị kháng retrovirus được hướng dẫn bởi các xét nghiệm kháng thuốc thường có một đáp ứng tốt hơn. Có một nghiên cứu tiến cứu nhỏ hơn ở trẻ em (Englund 2004). Thông thường, phác đồ điều trị ban đầu có một trụ cột là 2 NRTI (ví dụ, AZT+3TC hay ABC+3TC).

Khi thay đổi điều trị, đưa vào sử dụng một trụ cột với 2 NRTIs mới và một nhóm thuốc mới vào trong phối hợp điều trị sẽ rất là hữu ích. Một trị liệu HAART “siêu lớn” (mega-HAART) phối hợp 5 đến 6 thuốc kháng retrovirus chưa được chính thức nghiên cứu trên trẻ em. Ở những ca bệnh đơn lẻ, có thể có ích khi đưa vào sử dụng đến 5 thuốc nếu bị thất bại điều trị dù đã dùng nhiều loại phác đồ thuốc khác nhau.

Điều trị hỗ trợ và dự phòng

Các bệnh nhiễm trùng cơ hội đã trở nên hiếm gặp ở những trẻ bị nhiễm HIV chu sinh đã trải nghiệm qua hội chứng phục hồi miễn dịch với HAART. Ở đa số các trẻ nhiễm HIV này  nhiễm trùng hô hấp và nhiễm trùng khác không nhiều hơn so với trẻ khỏe mạnh. Thậm chí trẻ nhiễm HIV được điều trị với HAART và ổn định về mặt lâm sàng còn có thể được tiêm vaccin thủy đậu dạng virus sống và cho một đáp ứng đặc hiệu rõ rệt, và đây là một dấu hiệu đầy ấn tượng về phục hồi miễn dịch thành công (Armeninan, 2006). Ở phần lớn những trẻ này, người ta không còn cần điều trị globulin miễn dịch tĩnh mạch và dự phòng PCP nữa (Nachman 2005b).

Tuy nhiên, vẫn còn đó những bệnh nhiễm trùng nguy hiểm và tử vong do HIV, nếu nhiễm trùng HIV chu sinh không được nhận biết hoặc HAART chưa đem lại sự phục hồi miễn dịch. Các nhiễm trùng đó ở người lớn được mô tả ở những chương khác trong cuốn sách này. Một hướng dẫn chi tiết và rất tốt về điều trị trẻ em có bệnh nhiễm trùng cơ hội được tìm thấy ở  http://www.cdc.gov/mmwr/preview/mmwrhtml/rr5314a1.htm.

Kết luận

Về nhiều mặt, nhiễm HIV ở trẻ em khác với nhiễm HIV ở người lớn. Sự tăng trưởng và phát triển liên tục ở trẻ em, động học của virus ở trẻ và hệ thống miễn dịch chưa trưởng thành của chúng đem lại một đáp ứng đối với HIV khác biệt so với người lớn. Điều này có những hệ quả quan trọng đối với việc chẩn đoán và điều trị HIV ở trẻ em. Mục đích của điều trị là đạt đến hiệu quả tối đa và tránh được các tác dụng phụ lâu dài. Thành công lâu bền của điều trị nhiễm trùng HIV ở trẻ em có thể đạt được với:

  • một sự tiếp cận đa ngành;
  • các phác đồ điều trị chuẩn;
  • sự tham gia trong các thử nghiệm đa trung tâm;
  • phát triển các thuốc mới và chiến lược mới cho trẻ

Ở những nước đã phát triển, bệnh cảnh lâm sàng hiện nay của nhiễm HIV ở trẻ em đã thay đổi từ một bệnh mạn tính thường gây chết người thành một bệnh có thể chữa được. Hình ảnh này hoàn toàn trái ngược ở các nước đang phát triển, ở đó đa số trẻ em không tiếp cận được với HAART (Prendergast 2007). Theo WHO, 380.000 trẻ em chết vì nhiễm HIV hay các di chứng của bệnh trong năm 2006, dù đây là một bệnh có thể điều trị và quan trọng hơn là dự phòng được.

Suy tim mạn tính

Định nghĩa

Hội chứng phức tạp xảy ra khi cơ tim không còn khả năng đảm bảo được lưu lượng tim đủ để đáp ứng nhu cầu của cơ thể.

Những nguyên nhân hay gặp

  • Suy mạch vành
  • Tăng huyết áp động mạch không kiểm soát được.
  • Dị tật van tim.
  • Bệnh cơ tim.
  • Bệnh tim bẩm sinh.
  • Dính ngoại tâm mạc (dính màng ngoài tim).
  • Ưu năng tuyến giáp với nhịp tim nhanh
  • Bệnh AIDS: bệnh tác động tối cơ tim gây ra suy tim không hồi phục.
  • Viêm cơ tim do bệnh thấp: còn gặp trong những nước đang phát triển.
  • Bệnh Chagas: ở châu Mỹ Latinh.

Những yếu tố tố bẩm

  • Lão suy (xơ hoá cơ tim)
  • Hoạt động thể lực vượt quá mức dự trữ của cơ tim.
  • Tăng mức hấp thu natri hoặc giữ natri (giảm bài tiết natri): chế độ ăn quá mặn, sử dụng những thuốc chứa nhiều natri, sử dụng corticoid hoặc hormon sinh dục.
  • Nhồi máu cơ tim (có thể không triệu chứng).
  • Tăng huyết áp trở nên nặng.
  • Thiếu máu do lên độ cao.
  • Viêm cơ tim, bệnh Chagas, viêm nội tâm mạc.
  • Có thai.
  • Truyền dịch vào tĩnh mạch quá nhiều, nhất là những dịch giàu natri.
  • Nhiệt độ môi trường quá cao.
  • Nghẽn mạch phổi (thường không có triệu chứng).
  • Loạn nhịp tim cấp tĩnh.

Sinh lý bệnh

CÁC THAM SỐ VỀ LƯU LƯỢNG TIM

  • Tiền gánh hoặc độ dài sợi cơ tim cuối tâm trương: lực dãn dài ra của những sợi cơ tim khi nghỉ co phụ thuộc vào tổng khối lượng máu, vào lượng máu trở về tim, vào tư thế của thân thể (nằm hoặc đứng), vào lực co của tâm nhĩ, vào áp suất trong lồng ngực, và vào tình trạng của cơ tim (lành mạnh, phì đại, xơ hoá). Tăng tiền gánh hoặc quá tải thể tích máu sẽ gây ra giãn buồng tim.
  • Hậu gánh hoặc lực cản đối với tông máu: là lực đôi lập lại với sự co ngắn lại của các sợi cơ tim, bình thường tương ứng với áp suất trung bình trong động mạch chủ. Tim chịu đựng tăng hậu gánh kém hơn so với chịu đựng quá tải thể tích.
  • Khả năng co bóp: là khả năng co toàn phần, tăng lên dưới tác dụng của catecholamin và Khả năng co bóp giảm dưới tác dụng của một số thuôc (thuốc chẹn beta, thuốc chống loạn nhịp), và bởi tất cả các quá trình bệnh lý của cơ tim.
  • Tần số tỉm và tính co bóp đồng bộ: những rối loạn nhịp tim và dẫn truyền, loạn động tính tâm thất đều làm giảm hiệu suất của tim.

CƠ CHẾ BÙ: rất khó xác định thời điểm khi nào thì bệnh tim có thêm biến chứng suy tim. Thật vậy, trong quá trình diễn biến, những cơ chế khác nhau sẽ cố tìm cách duy trì lưu lượng tim ở mức bình thường hoặc hơi không bình thường, những cơ chế này gồm có:

  • Tim giãn rộng ra: là cách đáp ứng với quá tải thể tích. Những sợi cơ dài nhất có lực co lớn nhất.
  • Phì đại tim: là đáp ứng với tăng hậu gánh.
  • Tăng tiết catecholamin: để kích thích cơ tim co.
  • Kích thích hệ thống renin- angiotensin-aldosteron: khi lưu lượng máu qua thận giảm thì gây ra giữ natri và nước, mà hiệu quả là làm tăng thêm hậu quả của tình trạng ứ máu ở hệ thống tĩnh mạch.
  • Tăng peptid. bài natri niệu tâm nhĩ: xem hội chứng này.
  • Tăng khả năng các mô tách oxy từ máu (tăng chênh lệch nồng độ oxy giữa máu động mạch và máu tĩnh mạch): có tác dụng bù lại mức giảm cấp máu ở các mô.

Mất bù (không bù) xảy ra khi những cơ chế vừa kể trên không còn khả năng giúp cho tim tránh được tình trạng tăng áp suất nội-tâm thất (ỏ trong tâm thất) ở cuối thì tâm trương.

Trong trường hợp suy tim sung huyết, dp suất tĩnh mạch ở phía nguồn (ở những tĩnh mạch đổ máu và tim) tăng lên, kéo theo tất cả hậu quả của nó (sung huyết tĩnh mạch, ứ trệ và phù phổi, phù mô kẽ).

Dự trữ tim là khả năng của tim được sử dụng trong lúc nghỉ để đem oxy tới các mô.

Căn nguyên

QUÁ TẢI THỂ TÍCH HOẶC TĂNG TIỀN – GÁNH, ở

  • Tâm thất trái: xảy ra trong các trường hợp hở van động mạch chủ, hở van hai lá, tật thông liên thất, tật còn ống thông động mạch.
  • Tâm thất phải: xảy ra trong trường hợp hở van ba lá, hở van động mạch phổi, tật thông liên nhĩ.
  • Quá tải cả hai tâm thất: gắng sức thể lực, có thai, rò động-tĩnh mạch (bệnh Paget), bệnh tê phù (thiếu vitamin Bl), thiếu máu, ưu năng tuyến giáp. Người ta gọi những trường hợp suy tim này là suy tim với lưu lượng cao.

QUÁ TẢI ÁP SUẤT HOẶC TĂNG HẬU GÁNH, ở:

  • Tâm thất trái: xảy ra trong trường hợp hẹp van động mạch chủ, và những trỏ ngại khác trên đường tông máu, tăng huyết áp động mạch, giảm tính đàn hồi động mạch (bệnh xơ cứng động mạch).
  • Tâm thất phải: xảy ra trong trường hợp hẹp van động mạch phổi, tăng huyết áp động mạch phổi nguyên phát hoặc thứ phát (tâm phế mạn), nghẽn mạch phổi, ứ trệ ở phổi (suy tim trái, tật van hai lá, u nhày trong tâm nhĩ trái).

GIẢM KHẢ NĂNG CO BÓP

  • Xơ hoá cơ tim: do lão hoá, hoặc thiếu máu cục bộ và giảm khối lượng cơ tim.
  • Bệnh cơ tim, viêm cơ tim, bệnh tạo keo, bệnh sarcoid, thâm nhiễm cơ tim (thoái hoá dạng tinh bột, nhiễm sắc tố sắt).
  • Quá tải thể tích và quá tải áp suất kéo dài.
  • Rối loạn chuyển hoá: nhược năng tuyến giáp, urê huyết, giảm oxy mô.
  • Rối loạn thăng bằng kiềm toan và rối loạn chất điện giải: nhiễm toan chuyển hoá hoặc hô hấp, giảm kali huyết, tăng kali huyết.
  • Thuốc: thuốc chẹn beta, thuốc chống phân bào (nhất là nếu phối hợp với doxorubicin), quá liều digital hoặc thuốc chống loạn nhịp.

TÍNH CO CƠ BÓP ĐỔNG BỘ CỦA CO TIM BỊ TÁC ĐỘNG

  • Về cơ học (cản trở vận động của cơ tim): loạn động tính tâm thất trong những bệnh động mạch vành. Hoặc bệnh cơ tim, phình thành tim, viêm ngoại tâm mạc, chứng ép tim, xơ hoá nội tâm mạc.
  • Rối loạn nhịp và dẫn truyền: nhịp tim nhanh với tần số cao, rung nhĩ và cuồng nhĩ, ngoại tâm thu xảy ra nhiều, bloc nhĩ- thất, rối loạn dẫn truyền trong tâm thất (nội-tâm thất).

Những rối loạn nói trên góp phần làm cho hoạt động của các buồng tim không còn đồng bộ với nhau, và làm giảm hiệu suất của tim.

Phân loại theo chức năng

Của Hội tim học New York (New York Heart Association – NYHA)

Độ I: chưa có triệu chứng.

Độ II: triệu chứng xuất hiện trong lúc hoạt động hàng ngày.

Độ III: triệu chứng xuất hiện khi hơi gắng sức.

Độ IV: triệu chứng xuất hiện lúc nghỉ ngơi.

Các dấu hiệu suy tim trái

Bệnh nguyên nhân gây ra suy tim trái (tật van tim, tăng huyết áp động mạch, bệnh động mạch vành) có những dấu hiệu riêng, ngoài ra còn thấy những dấu hiệu riêng của suy tim trái ở dưới đây:

NHỮNG DẤU HIỆU CƠ NĂNG

  • Mệt nhanh khi gắng sức, suy nhược.
  • Nhịp tim nhanh.
  • Thở nhanh:tần sốhô hấp vượt quá 20 lần/phút
  • Khó thờ khi gắng sức:bệnh nhân cảm thấy như phải thở hổn hến khi gắng sức. Thường kèm theo mệt nhanh, ho, thiểu niệu (đái ít) ban ngày và đái nhiều ban đêm, he-rư máu.
  • Khó thở lúc nghỉ ngơi, khó thở khi nằm:cảm giác thở hổn hển xuất hiện cả khi bệnh nhân nằm và giảm khi ngồi hoặc đứng dậy. Dấu hiện này biểu hiện suy tim nặng hơn, so với khó thở đơn thuần khi gắng sức, có thể tiến triển tới nhịp thở chu kỳ Cheyne-Stockes.
  • Khó thở kịch phát ban đêm:xuất hiện vào ban đêm ở những bệnh nhân suy tim trái nặng (hẹp van hai lá, tật van động mạch chủ, tăng huyết áp động mạch), thường kèm theo ho, khạc đờm màu hồng, và có thể là dấu hiệu báo trước cơn phù phổi cấp(xem hội chứng này), là biến chứng nguy kịch nhất của suy tim trái cấp tính. Nếu khó thở ban đêm kịch phát kết hợp với co thắt phế quản, gọi là hen tim, đôi khi về lâm sàng khó chẩn đoán phân biệt với cơn hen phế quản.

NHỮNG DẤU HIỆU THỰC THỂ: mỏm tim đập lệch chỗ sang phía trái và xuống dưới. Nghe tim có thể thấy tiếng ngựa phi tiền tâm thu, tiếng thứ hai của van động mạch phổi mạnh ở đáy tim. Khoảng cách giữa huyết áp động mạch tâm thu và tâm trương thu hẹp lại và đôi khi mạch đập luân phiên. Nghe phổi thấy thấy có ran ẩm nhỏ và ran bọt nước trung bình, không đồng đều ở hai đáy phổi, phía ngoài và phía sau. Những dấu hiệu tràn dịch màng phổi phải hoặc cả hai bên không hiếm. Thiểu niệu (đái ít), đôi khi có protein niệu.

Xét nghiệm bổ sung

X QUANG: chụp X quang lồng ngực thấy tim rất to do phì đại và/hoặc giãn thất trái, những dấu hiệu ứ trệ ở phổi (những đường Kerley B, tái phân bố thể tích máu về phía đỉnh phổi, hình ảnh bóng mờ trước rốn phổi). Đôi khi thấy tràn dịch màng phổi phải, hoặc cả hai bên.

ĐIỆN TÂM ĐỔ: phì đại thất trái, bloc nhánh hoặc dấu hiệu suy mạch vành hoặc nhồi máu cơ tim cũ. Hay có loạn nhịp. Sóng T thường biến dạng vì ảnh hưởng của digital hoặc do giảm kali huyết. Ghi điện tim liên tục kiểu Holter cho phép nhận định những rối loạn nhịp mà tiên lượng có thể là nặng (ngoại tâm thu thất xuất hiện phức hợp từng loạt, nhịp nhanh thất).

SIÊU ÂM TIM: cho phép phát hiện thấy giãn và giảm khả năng co bóp của thất trái, những rối loạn về chức năng tâm thu hoặc tâm trương (rối loạn độ giãn nồ khi làm siêu âm Doppler), phát hiện bệnh van tim (hẹp van hai lá không triệu chứng) hoặc những rối loạn khả năng co bóp khu trú (giảm động tính khu trú trong các bệnh mạch vành), phát hiện bệnh cơ tim phì đại hoặc sung huyết, hoặc tràn dịch ngoại tâm mạc.

NHỮNG XÉT NGHIỆM ĐẶC BIỆT: thông tim trái, chụp tâm thất và chụp nhấp nháy tâm thất với đồng vị phóng xạ cho phép đánh giá mức độ trầm trọng của suy thất trái. Những dấu hiệu đầu tiên bao gồm: tăng áp suất nội-tâm thất cuối tâm trương (hơn 11 mm Hg) và giảm phân số tông máu của thất trái xuống dưới 45%. Trong những trường hợp suy tim trái rõ ràng, phân số tông máu chỉ còn dưới 30%.

Những dấu hiệu suy tim phải

Suy tim phải thường là thứ phát sau suy tim trái, mà những triệu chứng nổi trội trong bệnh cảnh lâm sàng.

NHỮNG DẤU HIỆU CƠ NĂNG

  • Suy nhược.
  • Rối loạn tiêu hoá: đầy bụng, buồn nôn, sôi bụng, ỉa chảy, đau hạ sườn phải (đau gan) hoặc tự phát hoặc khi gắng sức.
  • Ở phụ nữ: rối loạn kinh nguyệt, sẩy thai, vô sinh.
  • Thiểu niệu (đái ít) ban ngày, và đái nhiều ban đêm.

NHỮNG DẤU HIỆU THỰC THỂ

  • Tím tái, vàng da nhẹ.
  • Giãn các tĩnh mạch cảnh: những tĩnh mạch cảnh ứ máu, khi lấy bàn tay ép vào gan có thể thấy hiện tượng trào ngược gan-tĩnh mạch cảnh.
  • Gan to:gan to, đau, bờ nhẵn và đều đặn.
  • Phù ngoại vi và tràn dịch màng phổi:phù có thể chỉ giới hạn ở chi dưới (phù mắt cá chân) hoặc toàn thân (chứng phù toàn thân), với tràn dịch màng phổi một bên hoặc cả hai bên, cổ chướng (dịch thấm trong ổ phúc mạc).
  • Khám tim:trong trường hợp suy tim phải đơn độc, có thể nhìn thấy phần dưới thành ngực ở gần bờ phải xương ức phồng lên độc lập với nhịp đập của mỏm tim. Các dấu hiệu nghe tim phụ thuộc vào bệnh nguyên nhân. Trong trường hợp tăng huyết áp động mạch phổi, tiếng thứ hai của van động mạch phổi mạnh. Đôi khi nghe thấy tiếng ngựa phi đầu thì tâm trương ở bên phải, và tiếng thổi tâm thu do hở van ba lá, tiếng thổi này tăng lên khi bệnh nhân thở vào. Rung nhĩ hay xảy ra.
  • Khám phổi: nếu suy tim phải thứ phát do bệnh phổi (xem: tâm phế mạn), thì nghe phổi sẽ có thể phát hiện thấy những bất thường khác nhau (dấu hiệu giãn phế nang, tiếng gõ đục, ran rít, ran ẩm).

Xét nghiệm bổ sung

X QUANG: rất thay đổi, tuỳ theo suy tim phải là do thứ phát từ suy tim trái hoặc từ bệnh phổi mạn tính, hoặc bệnh tim chỉ gây quá tải ở tim phải (tật van tim hoặc dị tật bẩm sinh). Thường khó làm rõ những dấu hiệu thất hoặc nhĩ phải giãn to (ví dụ trong trường hợp tâm phế mạn). Nhưng thường thấy phần trên của trung thất rộng ra vì tĩnh mạch chủ trên giãn rộng.

ĐIỆN TÂM ĐỒ: hay có dấu hiệu rung nhĩ. Nếu nhịp tim vẫn giữ là nhịp xoang và trong trường hợp tâm phế mạn thì có thể thấy những dấu hiệu phì đại thất phải. Nếu suy tim phải thứ phát do suy tim trái, thì những dấu hiệu điện tâm đồ chủ yếu là của phì đại thất trái, đôi khi cũng kết hợp với những dấu hiệu phì đại thất phải (sóng T sâu ở đạo trình I và trục tim lệch sang phải).

XÉT NGHIỆM CẬN LÂM SÀNG: suy tim trái đơn độc không biến chứng thường không gây ra biến đổi ở những xét nghiệm cận lâm sàng thông thường. Nhưng trong suy tim phải thường hay thấy protein niệu, trụ niệu trong như kính và ở dạng hạt khi xét nghiệm cặn nước tiểu. Trong trường hợp tâm phế mạn, thường thấy chứng đa hồng cầu với hematocrit cao. Urê huyết và creatinin tăng nhẹ. Bilirubin, transaminase, phosphatase kiềm, và gamma-GT tăng trong trường hợp gan bị ứ máu nặng. Nếu không cho thuốc lợi niệu, thì các chất điện giải vẫn giữ được trong giới hạn bình thường.

XÉT NGHIỆM ĐẶC BIỆT: xem: suy tim trái ở phần trên. Siêu âm tim có thể phát hiện được tăng huyết áp động mạch phổi và là yếu tố” quyết định trong chẩn đoán phân biệt giữa suy tim phải với viêm ngoại tâm mạc chít hẹp.

Tiên lượng

Tuỳ theo chức năng (xem: phân loại ở phần trên), tỷ lệ tử vong sau một năm như sau:

  • Từ 3-25% đối với độ II.
  • Từ 10-45% đối với độ III.
  • Từ 5% trở lên (đột tử) đối với độ IV.

Tiên lượng dè dặt khi suy tim phải là thứ phát do nhồi máu cơ tim, do bệnh cơ tim và do bệnh phổi mạn tính. Những biến chứng phổ biến nhất là huyết khối tĩnh mạch sâu có hoặc không nghẽn mạch, nghẽn động mạch xuất phát từ các buồng tim bị giãn rộng, nhiễm khuẩn hô hấp, ứ máu ở gan, loạn nhịp thất.

Suy tim phải do tổn thương phẫu thuật hoặc nguyên nhân bên ngoài (thiếu máu, ưu năng tuyến giáp, rò động-tĩnh mạch) có tiên lượng khá hơn, với điều kiện là điều trị nguyên nhân phải được thực hiện trước khi cơ tim bị suy thoái đã quá muộn.

Chẩn đoán phân biệt

  • Khó thở: là triệu chứng gặp trong nhiều bệnh không phải bệnh tim, đặc biệt là bệnh hen và bệnh phế quản phổi tắc nghẽn mạn tính (đo lưu lượng đỉnh), bệnh thiếu máu (định lượng hemoglobin), chứng béo phì, ít hoạt động thể lực, chứng lo âu, suy nhược thần kinh-tuần hoàn, nghẽn mạch phổi, những bệnh phổi cấp tính hoặc mạn tính (chụp X quang lồng ngực). Khám chuyên sâu nếu không thấy bệnh tim và phát hiện được bệnh phổi hoặc bất kỳ bệnh nào có khả năng gây khó thở thì sẽ xác định được nguyên nhân thật sự của triệu chứng này. Tuy nhiên, nếu không làm xét nghiệm về huyết động và đo phế dung thì khó phân biệt được khó thở là do suy hô hấp hay do suy tim.
  • Phù: cũng là triệu chứng của nhiều bệnh khác không phải tim, nhất là phù do tĩnh mạch, giãn tĩnh mạch, xơ gan, hội chứng thận hư. Nếu không tìm thấy bệnh tim, nhưng có những dấu hiệu về gan, protein niệu, và những dấu hiệu khác về thận, thì có thể chẩn đoán phân biệt được. Viêm ngoại tâm mạc nhất là thể chít hẹp có triệu chứng rất giống suy tim phải. Để chẩn đoán phân biệt trong trường hợp này thì phải làm xét nghiệm X quang, và nhất là siêu âm tim.

Điều trị

GIẢM BỚT HOẠT ĐỘNG THE LựC: kể từ việc giảm bớt hoạt động hàng ngày tối nghỉ ngơi tuyệt đối trong phòng, nhưng tránh nằm liên tục tại giường. Bệnh nhân thường cảm thấy dễ chịu hơn khi ngồi trong ghế bành, hơn là nằm trên giường. Có thể thực hiện những động tác thụ động hoặc chủ động ngay trong giai đoạn nặng, để phòng ngừa huyết khối. Nhiệt độ trong phòng giữ đủ mát thì tốt hơn. Thời kỳ nghỉ ngơi tuyệt đối như thế chỉ nên giới hạn ở mức tối thiểu. Ngay khi có thể, thì nên để bệnh nhân tự mình ăn và tắm rửa. Cho bệnh nhân đi dạo hoặc hoạt động thể lực tuỳ theo diễn biến của suy tim. Tăng huyết áp động mạch là một gánh nặng thêm cho tim, nên cần phải được điều trị.

GIẢM BỚT MỨC GIỮ NƯỚC TRONG CƠ THỂ VÀ DÒNG TĨNH MẠCH TRỞ VỂ TIM

  • Hạn chế thức ăn có natri(xem: chế độ ăn nghèo muối): nên giảm lượng muối ăn xuống tối 2-3 g/ngày và lượng nước hạn chế từ 1-1,5 l/ ngày.
  • Thuốc lợi tiểu thỉazid:mới đầu cho uống hàng ngày trong giai đoạn cấp tính, rồi sau đó chỉ uống vào 2-3 buổi sáng trong mỗi tuần. Thuốc thường được cho với liều mạnh gây ra giảm kali huyết cần phải hiệu chỉnh kịp thời (xem: thuốc lợi tiểu). Người ta hay cho uống hydrochlorothiazid với liều 25-50 mg/ ngày.
  • Thuốc lợi tiểu tác động tới quai Henlê:trong trường hợp suy tim cấp tính, nên cho furosemid (20- 120 mg/ ngày) theo đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch trong trường hợp cấp cứu. Ngược với thuốc lợi tiểu thiazid, những thuốc lợi tiểu tác dụng tối quai Henlê vẫn có tác dụng khi bị suy thận (thanh thải creatinin cao hơn 25 ml/phút).
  • Thuốc lợi tiểu không giảm kali huyết: được chỉ định trong trường hợp thất bại với thiazid và furosemid, nếu chức năng thận vẫn đáp ứng. Người ta thường kết hợp những thuốc loại này với dẫn xuất thiazid hoặc furosemid. Chống chỉ định phối hợp với các thuốc ức chế men chuyển (nguy cơ giảm kali huyết). Đáp ứng nói chung chậm và phải chờ đợi hiệu quả từ 4-7 ngày. Phải theo dõi chặt chẽ kali huyết và creatinin huyết. Có thể dùng spironolacton với liều khởi đầu là 100-200 mg/ngày và sau đó tiếp tục với liều duy trì 75- 100 mg/ngày.

GIẢM LỰC CẦN CAO CỦA MẠCH MÁU: nếu những triệu chứng suy tim vẫn dai dẳng mặc dù chế độ ăn giảm muối và cho thuốc lợi tiểu, thì nên dùng thêm thuốc giãn mạch:

  • Thuốc giãn mạch hỗn hợp(giãn cả động mạch và tĩnh mạch): sử dụng thuốc ức chế men chuyển angiotensin (xem thuốc này). Những thuốc này, ngoài tác dụng giãn mạch do đó làm giảm lực cản ngoại vi, còn có tác dụng kìm hãm hiệu quả của aldosteron, do đó có thể làm giảm phù. Những thử nghiệm trên diện rộng đã chứng minh rằng thuốc ức chế men chuyển cải thiện các triệu chứng của suy tim ở mọi giai đoạn và cải thiện mức dung nạp đối với gắng sức trong một thời hạn vài tuần. Sau cơn nhồi máu cơ tim, thuốc ức chế men chuyển làm giảm mức độ giãn tâm thất.

Thường người ta cho uống captopril (100-150 mg/ ngày), hoặc enalapril (2,5-20 mg/ ngày), hoặc lisinopril (2,5-40 mg /ngày), hoặc một thuốc ức chế men chuyển khác. Nên bắt đầu bằng một liều thử nghiệm thấp (ví dụ: captopril 6,25 mg) và theo dõi bệnh nhân trong 2 giờ; nếu không thấy hạ huyết áp triệu chứng thì bắt đầu điều trị chính thức.

  • Thuốc giãn tĩnh mạch: sử dụng những dẫn xuất nitrit, vì có tác dụng làm giảm dòng tĩnh mạch trở về tim, và giảm áp suất máu về đầy cuối tâm trương. Những thuốc này đặc biệt có hiệu quả đối với những trường hợp khó thở kịch phát ban đêm và ứ trệ phổi. Người ta cho thuốc vào buổi chiều ví dụ trinitrin 5 hoặc 10 mg tiêm qua da, hoặc isosorbid trinitrat uống với liều 20-40 mg, 2 lần mỗi ngày. Những thuốc này có thể dùng phối hợp với digital hoặc thuốc lợi tiểu, nhưng không phối hợp được với thuốc ức chế men chuyển.
  • Thuốc giãn động mạch: prazosin và hydralazin đã được sử dụng để điều trị suy tim, nhưng hiệu quả không mong muôn của chúng gây phiền toái.
  • Thuốc giãn mạch cấp cứu:được sử dụng trong bệnh viện dưới sự giám sát bằng theo dõi huyết áp động mạch liên tục (xem: natri nitroprusssiat, diazoxid)

THUỐC CO CƠ (xem thuốc này): digital có vai trò quan trọng trong điều trị suy tim

  • Do rối loạn chức năng tâm thu rõ rệt, với giãn thất trái, phân số tông máu thấp dưới 40% và có tiếng ngựa phi.
  • Kết hợp với rung nhĩ nhịp thất nhanh; khi nhịp tim là nhịp xoang thì mức độ cải thiện kém rõ rệt hơn.

ở những bệnh nhân bị suy tim mạn tính và chức năng tâm thu bị suy kém, nếu phối hợp digoxin với một thuốc ức chế men chuyển mà giữ được tình trạng ổn định thì không nên ngừng digoxin (vì nguy cơ suy tim trầm trọng thêm). Chống chỉ định digital trong những trường hợp bệnh cơ tim phì đại và bloc nhĩ thất. Digoxin cho theo đường uống vôi liều khởi đầu 0,5-1 mg/ ngày chia thành nhiều lần cứ 6 hoặc 8  giờ uống một lần, rồi với liều duy trì 0,125-0,25 mg/ngày uống một lần hoặc chia làm hai lần. Digoxin tiêm tĩnh mạch chỉ dành cho trường hợp suy tim cấp tính với phù phổi, rung nhĩ, hoặc cuồng nhĩ với đáp ứng tâm thất nhanh, trong chừng mực bệnh nhân chưa uống digital vào những ngày trước đó.

Những thuốc loại digital rất khó hiệu chỉnh, và thường người ta rất hay cho liều không thích đáng. Giảm kali huyết làm tăng độc tính của digital. Có tương tác giữa digoxin và quinidin: liều digoxin phải giảm một nửa trong trường hợp phối hợp với quinidin.

THUỐC CHỐNG ĐÔNG MÁU DẠNG UỐNG: được chỉ định trong trường hợp rung nhĩ thường xuyên (duy trì INR giữa 2,0 và 3,0).

DẪN LƯU TRÀN DỊCH: phải chọc hút tràn dịch màng phổi và cổ chướng nếu ảnh hưởng tới hô hấp.

RỐI LOẠN CHẤT ĐIỆN GIẢI

  • Nhiễm kiềm chuyển hoá:xảy ra ở những bệnh nhân suy tim được điều trị bằng thuốc lợi tiểu thiazid và có kèm theo giảm kali huyết. Tình trạng này được điều trị bằng kali chlorur.
  • Giảm kali huyết:xảy ra kèm theo nhiễm kiềm chuyển hoá và thường là thứ phát do điều trị bằng thuốc lợi tiểu thiazid. về chẩn đoán và điều trị, xem: giảm kali huyết.
  • Tăng kali huyết:xảy ra chủ yếu ở những bệnh nhân được điều trị bằng thuốc lợi tiếu không giảm kali huyết (xem thuốc này và tăng kali huyết).
  • Giảm natri huyết:

+ Giảm natri huyết không phù: là do chế độ ăn không muối quá chặt chẽ, bài niệu quá mức, mất natri tăng thêm (do môi trường nóng bức, sốt cao). Điều trị: tăng uống nước và ăn muối tạm thời.

+ Giảm natri huyết do loãng máu có phù: xảy ra ở bệnh nhân suy tim được điều trị kéo dài bằng thuốc lợi tiểu. Natri huyết có thể hạ thấp xuống dưới 120 mmol/1, trong khi lượng natri toàn thân thật sự lại tăng. Không được cho thêm natri, nhưng hạn chế nước xuống tới 500-600 ml/ngày, cho bệnh nhân ăn chế độ không muối hoàn toàn và bằng mọi cách làm tăng bài niệu lại (íurosemid, phối hợp với spironolacton, với thuốc giãn mạch và với thuốc co cơ, nếu thấy cần thiết).

GHÉP TIM: về chỉ định, xem kỹ thuật này.

Những tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của điều trị

  • Trọng lượng cơ thể:cân vào lúc đói, buổi sáng, và những lần cần cách nhau đều đặn. Biện pháp này cho phép đánh giá hiệu quả của các thuốc lợi tiểu.
  • Mạch:về nguyên tắc, điều trị phải làm tần số nhịp tim chậm lại, đếm nhịp bằng nghe tim cho chính xác, nhất là trong trường hợp rung nhĩ.
  • Những dấu hiệu thực thể quan trọng: tĩnh mạch cảnh ứ máu, mức độ phù nề, kích thước gan, có hoặc không có ran và ứ trệ ở phổi, có tiếng ngựa phi hay không.
  • Bài niệu: đo mức độ bài niệu cho những chỉ dẫn có ích về hiệu quả của biện pháp điều trị. Nếu bệnh nhân suy tim bài niệu tăng lên thì có nghĩa là bệnh tim được cải thiện. Tuy nhiên, phải tránh bài niệu quá nhanh và sụt cân quá 1 kg mỗi ngày.
  • X quang lồng ngực: những dấu hiệu giảm độ rộng bóng mờ của tim và hết ứ trệ ở phổi là dấu hiệu bệnh tim được cải thiện.

Suy tim khó chữa

Khi gặp bất kỳ trường hợp bệnh tim nào kháng lại điều trị nội khoa thực hiện đúng cách, thì phải xem xét tới những khía cạnh sau đây:

CHẨN ĐOÁN SAI

  • Chẩn đoán sai nguyên nhân phù: nhầm với phù do xơ gan, do hư thận, do tắc tĩnh mạch.
  • Chẩn đoán sai bản chất bệnh tim: phải xem xét lại toàn bộ chẩn đoán và nếu cần thì làm thông tim, chụp động mạch, để chắc chắn là không bỏ qua bệnh tim có thể phẫu thuật được (tật van tim, bệnh tim bẩm sinh), và đặt lại chẩn đoán đúng trước khi cơ tim bị tổn hại quá mức đến nỗi không thể phẫu thuật hiệu chỉnh lại các tật kể trên.

Không hiếm các hoàn cảnh đã xảy ra là sau khi khám xét tỉ mỉ và chẩn đoán là bệnh tim sung huyết, nhưng thật ra lại là trường hợp hẹp van động mạch chủ hoặc hở van hai lá.

BỆNH NHÂN THIẾU TUÂN THỦ: liệu bệnh nhân có nghỉ ngơi đúng mức chỉ dẫn không? bệnh nhân có giữ chế độ ăn không muối không? liệu bệnh nhân có nhập thêm muối mà họ không biết không (uống thuốc nhuận tràng có natri, uống nước khoáng có bicarbonat, viên đa sinh tố sủi)? bệnh nhân có sử dụng thuốc có khả năng giữ natri không (corticoid, hormon sinh dục, nước cam thảo và những dẫn xuất của thảo dược này)? bệnh nhân có uống thuốc đủ liều và đúng cách không ?

KÊ ĐƠN SAI

  • Liều lượng digital không thích đáng: giới hạn quá nhỏ hẹp của liều điều trị digital đòi hỏi phải theo dõi lâm sàng rất tỉ mỉ nhằm tìm ra được liều lượng tối ưu cho từng bệnh nhân.

Định lượng digoxin trong máu (nồng độ trong huyết tương có hiệu quả là 0,8-2 ng/ml hoặc 1-2,6 nmol/1), hoặc digitoxin trong máu (nồng độ trong huyết tương có hiệu quả là 15-30 ng/ml hoặc 20-40 nmol/1) có thể hướng dẫn điều trị, nhưng vẫn không thể thay thế cho việc theo dõi lâm sàng.

Trong trường hợp rung nhĩ, tần số nhịp thất là chỉ số tốt nhất hướng dẫn việc định liều lượng các thuốc loại digital. Liều lượng này phải hiệu chỉnh tuỳ theo chức năng thận và khả năng tái hấp thu ở niêm mạc ruột.

  • Liều lượng thuốc lợi tiểu không thích đáng: không hiếm trường hợp thày thuốc cho thuốc lợi tiểu thiazid với liều quá mạnh. Điều này gây ra, nhất là ở những trường hợp suy tim trung bình, giảm thể tích máu, với giảm lưu lượng tim, giảm lưu lượng máu đi qua các tiêu cầu thận và do đó lại làm cho suy tim nặng thêm. Phải bồi phụ đủ nước cho những bệnh nhân bị hậu quả sai lầm này.
  • Một sai lầm khác trong việc sử dụng thuốc lợi tiểu là dùng các dẫn xuất thiazid trong trường hợp suy thận đã ở giai đoạn muộn. Trong trường hợp này phải thay bằng íurosemid.

KHÔNG NHẬN RA SUY TIM LƯU LƯỢNG CAO: kiểu suy tim này biểu hiện bằng những triệu chứng thông thường của suy tim nói chung, nhưng có đặc điếm là nhịp nhanh rõ rệt, mạch nảy, tim tăng động tính, các chi nóng ấm. Typ suy tim này xuất hiện ở những bệnh nhân có bệnh tim tiềm tàng hoặc rõ ràng (đã được xác định), nhưng bị biến chứng bởi một trong những điều kiện sau đây: thiếu máu nặng, ưu năng tuyến giáp, rò động-tĩnh mạch, bệnh Paget, bệnh tê phù (thiếu vitamin Bl), xơ gan, có thai. Điều trị: điều trị như các trường hợp suy tim khác nhưng cần đồng thời loại bỏ những nguyên nhân làm cho lưu lượng tim cao như đã kể ở trên.

KHÔNG NHẬN RA DIỄN BIẾN CỦA BỆNH TIM

  • Nhồi máu cơ tim không triệu chứng.
  • Viêm nội tâm mạc.
  • Rối loạn chức năng của van tim giả.
  • Loạn nhịp.
  • Tăng huyết áp động mạch.
  • Tái phát viêm cơ tim do bệnh thấp.
  • Hình thành tràn dịch màng ngoài tim làm cản trở huyết động của tim.

KHÔNG PHÁT HIỆN NGHẼN MẠCH PHỔI KHÔNG TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

KHÔNG PHÁT HIỆN VIÊM NGOẠI TÂM MẠC CHÍT HẸP (dính màng ngoài tim).

Nếu sau khi đánh giá chuyên sâu, mà không thấy phạm phải sai lầm nào về chẩn đoán và điều trị, thì có thể coi suy tim thật sự là khó điều trị khỏi. Trong trường hợp này, phải phối hợp những biện pháp điều trị truyền thông (nghỉ ngơi, chế độ ăn không muối, thuốc lợi niệu, digital) với các thuốc giãn mạch và các thuốc co cơ.

Thận bọt biển

Tên khác: giãn các ống trước đài thận, bệnh Cacchi và Ricci, xốp tủy thận, giãn các ống trong tủy thận, tủy thận bọt biển.

Định nghĩa: rối loạn bẩm sinh, có các chỗ giãn thành nang ở các ống góp nằm ở vùng trước đài thận dẫn đến ứ nước tiểu và thận nhiễm calci.

Triệu chứng: dị tật có thể được biểu hiện bằng đái ra máu, sỏi thận, nhiễm khuẩn đường niệu tái phát hoặc thận nhiễm calci. Hiếm khi có suy thận.

X quang: chẩn đoán xác định bằng chụp đường niệu qua tĩnh mạch; hình ảnh điển hình là “hình ảnh bó hoa” do các nang chứa đầy thuốc cản quang.

Tiên lượng: tốt nếu không có biến chứng, nhất là bị sỏi thận.

Điều trị: không có điều trị đặc hiệu. Nên uống nhiều nước, ăn chế độ ít calci, dùng lợi tiểu thiazidic để làm chậm sự hình thành sỏi.

Biến chứng → xem nhiễm khuẩn đường niệu và sỏi đường niệu.

Chẩn đoán Bệnh thận đa nang tự phát (ADPKD)

Bệnh thận đa nang tự chủ (ADPKD) thường được chẩn đoán ở người lớn trên 30 tuổi vì triệu chứng thường không bắt đầu trước độ tuổi này.

Khi thực hiện chẩn đoán, bác sĩ gia đình của bạn sẽ hỏi về các triệu chứng và tiền sử bệnh của gia đình bạn.

Nếu thận của bạn bị phình to, bác sĩ có thể cảm nhận được chúng qua bụng bạn.

Bác sĩ cũng có thể sắp xếp để bạn thực hiện một số xét nghiệm.

Xét nghiệm nước tiểu và máu

Bác sĩ sẽ đo huyết áp của bạn để xem nó có cao hơn mức bình thường hay không.

Họ cũng có thể thực hiện các xét nghiệm khác, chẳng hạn như:

  • Xét nghiệm nước tiểu để kiểm tra có máu hoặc protein trong nước tiểu hay không
  • Xét nghiệm máu để ước lượng tốc độ lọc máu của thận bạn

Xét nghiệm GFR

Một cách hiệu quả để đánh giá chức năng thận là tính toán tỷ lệ lọc cầu thận (GFR).

GFR là một thước đo cho biết thận của bạn có thể lọc bao nhiêu mililit (ml) máu để loại bỏ các sản phẩm chất thải trong một phút.

Một cặp thận khỏe mạnh nên có khả năng lọc hơn 90ml máu trong một phút.

Siêu âm

Bác sĩ cũng sẽ sắp xếp cho bạn thực hiện siêu âm để tìm các nang trong thận hoặc các cơ quan khác, chẳng hạn như gan.

Siêu âm là một thủ tục không đau, trong đó một đầu dò nhỏ được đưa qua da vùng thận.

Đầu dò phát ra sóng âm tần số cao được sử dụng để tạo ra hình ảnh bên trong cơ thể bạn.

Trong một số trường hợp, bạn có thể cần thực hiện chụp CT hoặc chụp MRI. Những xét nghiệm này sẽ cho thấy thận của bạn chi tiết hơn.

Chụp MRI sẽ được khuyến nghị nếu bạn có tiền sử gia đình về phình động mạch não.

Phình động mạch não là một khối phồng trong mạch máu não do sự yếu ở thành mạch máu.

Tìm hiểu thêm về chẩn đoán phình động mạch não.

Sàng lọc

Việc sàng lọc những người được biết là có nguy cơ phát triển Bệnh thận đa nang tự chủ do có tiền sử gia đình về tình trạng này là một vấn đề gây tranh cãi trong cộng đồng y tế.

Một số người cho rằng việc sàng lọc không đạt được nhiều kết quả vì hiện tại không có phương pháp điều trị để ngăn chặn Bệnh thận đa nang tự chủ phát triển.

Thông báo cho một người rằng họ có Bệnh thận đa nang tự chủ và có khả năng phát triển suy thận sau này có thể gây ra căng thẳng và lo âu cho họ.

Người khác lập luận rằng mặc dù bạn không thể ngăn chặn Bệnh thận đa nang tự chủ, việc sàng lọc có thể giúp phát hiện các nang, và có thể điều trị huyết áp cao (tăng huyết áp) liên quan đến Bệnh thận đa nang tự chủ, điều này có thể giảm nguy cơ phát triển bệnh tim mạch.

Nếu chẩn đoán được biết, các biến chứng sẽ không trở thành điều bất ngờ và có thể được điều trị kịp thời và phù hợp.

Hiện nay cũng có một phương pháp điều trị gọi là tolvaptan, có thể làm chậm sự phát triển của các nang và có thể có lợi trong một số trường hợp.

Nếu bạn đang xem xét việc sàng lọc cho Bệnh thận đa nang tự chủ hoặc muốn cho trẻ em của bạn được sàng lọc, bạn nên thảo luận về những lợi ích và bất lợi của việc sàng lọc với bác sĩ gia đình, bạn đời và gia đình của bạn.

Bạn cũng có thể muốn yêu cầu được giới thiệu để gặp bác sĩ chuyên khoa thận.

Cách thực hiện sàng lọc

Có hai phương pháp có thể được sử dụng để xác nhận chẩn đoán Bệnh thận đa nang tự chủ.

Chúng là:

  • Sử dụng siêu âm, chụp CT hoặc chụp MRI để kiểm tra sự bất thường của thận
  • Trong những trường hợp đặc biệt, sử dụng xét nghiệm gen để xác định liệu bạn có di truyền một trong những khiếm khuyết gen được biết đến gây ra Bệnh thận đa nang tự chủ trong gia đình bạn hay không – nhưng vì những xét nghiệm gen này đắt tiền và có thể khó diễn giải, chúng hiện tại không được thực hiện một cách thường quy.

Điều quan trọng là phải nhận thức rằng không có xét nghiệm nào hoàn toàn chính xác và có thể không phát hiện ra Bệnh thận đa nang tự chủ, ngay cả khi bạn có tình trạng này.

Các xét nghiệm hình ảnh có thể bỏ sót các nang rất nhỏ ở những người trẻ tuổi và sẽ cần được lặp lại sau này trong cuộc sống.

Xét nghiệm gen nhạy cảm và chính xác hơn trong chẩn đoán Bệnh thận đa nang tự chủ, nhưng có thể âm tính ở 10% người mắc Bệnh thận đa nang tự chủ.

Kiểm Tra Mật Độ Khoáng Xương Là Gì?

Kiểm tra mật độ khoáng xương, đôi khi chỉ được gọi là kiểm tra mật độ xương, phát hiện xem bạn có bị loãng xương hay không, một từ có nguồn gốc từ Hy Lạp và có nghĩa đen là “xương xốp”.

Khi bạn bị tình trạng này, xương của bạn trở nên yếu và mỏng hơn. Chúng trở nên dễ gãy hơn. Đây là một tình trạng im lặng, có nghĩa là bạn không cảm thấy triệu chứng nào. Nếu không có kiểm tra mật độ xương, bạn có thể không nhận ra rằng mình bị loãng xương cho đến khi bạn gãy một chiếc xương.

Cách Thức Kiểm Tra

Kiểm tra mật độ xương không đau và nhanh chóng. Nó ước tính mật độ hoặc độ dày của xương bạn bằng cách sử dụng tia X.

Tia X đo lượng canxi và khoáng chất có trong một phần xương của bạn. Càng nhiều khoáng chất thì càng tốt. Điều này có nghĩa là xương của bạn mạnh hơn, dày hơn và ít có khả năng bị gãy hơn. Nếu hàm lượng khoáng chất của bạn thấp, thì nguy cơ gãy xương khi ngã sẽ cao hơn.

Ai Nên Thực Hiện Kiểm Tra

Bất kỳ ai cũng có thể bị loãng xương. Tình trạng này phổ biến hơn ở phụ nữ lớn tuổi, nhưng nam giới cũng có thể mắc phải. Khả năng của bạn sẽ tăng lên khi bạn lớn tuổi.

Bạn nên thảo luận với bác sĩ xem liệu bạn có cần thực hiện kiểm tra hay không. Họ có thể khuyến nghị nếu bạn đáp ứng bất kỳ tiêu chí nào sau đây:

  • Bạn là phụ nữ từ 65 tuổi trở lên
  • Bạn là phụ nữ sau mãn kinh từ 50 tuổi trở lên
  • Bạn là phụ nữ ở độ tuổi mãn kinh và có nguy cơ cao gãy xương
  • Bạn là phụ nữ đã qua mãn kinh, dưới 65 tuổi và có các yếu tố khác làm tăng nguy cơ loãng xương
  • Bạn là nam giới từ 50 tuổi trở lên với các yếu tố nguy cơ khác
  • Bạn bị gãy xương sau 50 tuổi
  • Bạn đã mất hơn 1,5 inch chiều cao của mình
  • Tư thế của bạn đã trở nên gù hơn
  • Bạn đang bị đau lưng mà không có nguyên nhân rõ ràng
  • Chu kỳ kinh nguyệt của bạn đã ngừng hoặc không đều mặc dù bạn không mang thai hoặc mãn kinh
  • Bạn đã nhận được ghép tạng
  • Bạn đã có sự giảm hormone

Một số loại thuốc theo đơn có thể gây mất xương. Điều này bao gồm glucocorticoid, một loại thuốc được sử dụng để giảm viêm. Hãy cho bác sĩ biết nếu bạn đã sử dụng cortisone (Cortone Acetate), dexamethasone (Baycadron, Maxidex, Ozurdex) hoặc prednisone (Deltasone).

Những Gì Mong Đợi

Thường thì kiểm tra sẽ xem xét các xương ở cột sống, hông và cẳng tay của bạn. Đây là những xương có nguy cơ gãy cao khi bạn bị loãng xương.

Có 2 loại kiểm tra mật độ xương mất chưa đầy 15 phút. Chúng là:

  • Central DXA: Kiểm tra này nhìn vào xương cột sống và hông của bạn. Nó thường chính xác hơn. Tuy nhiên, chi phí cũng cao hơn. Central DXA là viết tắt của Dual Energy X-ray Absorptiometry.Trong suốt quá trình kiểm tra, bạn nằm trên một nền tảng đệm, mặc đầy đủ quần áo. Một cánh tay máy sẽ di chuyển phía trên bạn, gửi tia X liều thấp qua cơ thể bạn. Dựa trên mức độ thay đổi của tia X sau khi đi qua xương của bạn, nó sẽ tạo ra hình ảnh của bộ xương của bạn. Kiểm tra này kéo dài khoảng 10 phút.

    Hình ảnh sẽ được gửi cho một chuyên gia để đọc kết quả. Điều này có thể mất vài ngày tùy thuộc vào văn phòng bác sĩ của bạn.

  • Kiểm tra ngoại vi: Kiểm tra này đo mật độ xương ở cổ tay, ngón tay và gót chân của bạn. Kiểm tra này ít tỉ mỉ hơn vì nó không xem xét hông hoặc cột sống của bạn. Nó thường rẻ hơn.Thiết bị này di động, vì vậy nó có thể được mang đến các hội chợ sức khỏe và hiệu thuốc. Điều này giúp kiểm tra trở nên sẵn có hơn cho những người có thể không thể thực hiện kiểm tra Central DXA.

    Kiểm tra ngoại vi cũng là một cách để sàng lọc mọi người, vì vậy những người có nguy cơ cao hơn về loãng xương có thể nhận được nhiều kiểm tra hơn. Chúng cũng được sử dụng cho những người có trọng lượng lớn không thể thực hiện Central DXA do giới hạn trọng lượng.

Cách Chuẩn Bị

  • Không dùng thực phẩm chức năng canxi trong vòng 24 giờ trước khi kiểm tra.
  • Nếu bạn đã tiêm bari hoặc thuốc cản quang cho CT scan hoặc MRI, hãy đợi 7 ngày trước khi thực hiện Central DXA. Thuốc cản quang có thể can thiệp vào kiểm tra mật độ xương của bạn.
  • Tránh mặc quần áo có khóa kim loại, thắt lưng hoặc nút.
  • Có rất ít rủi ro khi thực hiện kiểm tra. Bạn sẽ tiếp xúc với mức độ bức xạ rất thấp, ít hơn so với chụp X-quang ngực hoặc một chuyến bay máy bay.

Kết Quả Của Bạn Nghĩa Là Gì

Bạn sẽ nhận được 2 điểm số sau khi kiểm tra mật độ xương:

  • T Score: Điểm số này so sánh mật độ xương của bạn với một người lớn tuổi khỏe mạnh cùng giới. Điểm số cho biết mật độ xương của bạn là bình thường, dưới bình thường hay ở mức độ chỉ ra loãng xương.Dưới đây là ý nghĩa của T Score:

    ● -1 trở lên: Mật độ xương của bạn là bình thường

    ● -1 đến -2.5: Mật độ xương của bạn thấp và có thể dẫn đến loãng xương

    ● -2.5 trở lên: Bạn có loãng xương

  • Z Score: Điểm số này cho phép bạn so sánh khối lượng xương của mình với những người khác cùng độ tuổi, giới tính và kích thước.Điểm Z dưới -2.0 có nghĩa là bạn có khối lượng xương ít hơn người cùng tuổi và điều này có thể do một nguyên nhân khác ngoài lão hóa.

Tôi Nên Kiểm Tra Bao Nhiêu Lần?

Nếu bạn đang sử dụng thuốc điều trị loãng xương, hãy chuẩn bị để thực hiện kiểm tra mật độ xương mỗi 1 đến 2 năm.

Ngay cả khi bạn không bị loãng xương, bác sĩ của bạn có thể đề xuất bạn thực hiện kiểm tra mật độ xương mỗi 2 năm, đặc biệt là đối với phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh hoặc sau mãn kinh.

Microlax và Microlax Bébé

Thuốc microlax
Thuốc microlax

MICROLAX – MICROLAX BÉBÉ

SANOFI SYNTHELABO VIETNAM

Gel bơm vào trực tràng : ống canule 5 ml, hộp 6 ống. Gel bơm vào trực tràng : ống canule 3 ml, hộp 6 ống.

THÀNH PHẦN

cho 1 ống Microlax
Sorbitol 70%, dạng tinh thể 4,465 g
Sodium dưới dạng citrate 450 mg
Sodium dưới dạng laurylsulfoacétate 45 mg
cho 1 ống Microlax Bébé
Sorbitol 70%, dạng tinh thể 2,679 g
Sodium dưới dạng citrate 270 mg
Sodium dưới dạng laurylsulfoacétate 27 mg

DƯỢC LỰC

Thuốc xổ kích thích.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Thời gian bắt đầu có tác dụng : 5-20 phút.

CHỈ ĐỊNH

Điều trị triệu chứng táo bón do các nguyên nhân ở vùng trực tràng và hậu môn.

Chuẩn bị nội soi trực tràng.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG

Không nên điều trị kéo dài.

Điều trị táo bón bằng thuốc chỉ là một điều trị hỗ trợ cho một điều trị gồm chế độ ăn và vệ sinh.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Tránh dùng Microlax và Microlax Bébé   trong đợt cấp của trĩ, dò hậu môn hay viêm đại tràng xuất huyết.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Dùng kéo dài có thể gây cảm giác rát bỏng tại chỗ và hạn hữu gây viêm đại trực tràng sung huyết.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Liều lượng :

Một ống / ngày, dùng trước thời điểm dự định đi cầu 5-20 phút.

Cách dùng :

Mở nắp ống canule. Đưa toàn bộ canule vào trực tràng, bóp đẩy hết thuốc trong ống vào trực tràng, trong khi rút canule ra vẫn bóp giữ ống.

Hội Chứng Prader-Willi Là Gì?

Hội chứng Prader-Willi (PWS) là một tình trạng hiếm gặp và phức tạp, ảnh hưởng đến nhiều bộ phận trong cơ thể. Nó xuất phát từ vấn đề về một trong những nhiễm sắc thể của bạn (một chuỗi DNA mang các gen của bạn). Hội chứng này có thể gây ra các vấn đề về thể chất, như cảm giác đói liên tục và yếu cơ, cũng như các vấn đề về học tập và hành vi.

Chỉ có khoảng 1 trong 10.000 đến 30.000 người trên thế giới mắc PWS.

Nguyên Nhân

PWS thường xảy ra do những thay đổi di truyền ở một vùng của nhiễm sắc thể 15.

Không có cách nào để ngăn ngừa hội chứng này. Nhưng nếu bạn dự định có con, bạn và bạn đời có thể được kiểm tra nguy cơ mắc PWS.

Một chấn thương ở đầu hoặc não cũng có thể gây ra hội chứng này.

Dấu Hiệu và Triệu Chứng

Trẻ sơ sinh có thể biểu hiện các dấu hiệu của PWS từ sớm. Chúng có thể có đôi mắt hình quả hạnh nhân, đầu thon dần ở thái dương, khóe miệng chảy xệ và môi trên mỏng.

Ngoài ra, trẻ cũng có thể có những triệu chứng sau:

  • Trương lực cơ kém hoặc các chi lỏng lẻo khi bạn bế chúng
  • Không có khả năng bú hoặc ăn tốt, khiến trẻ tăng cân chậm
  • Mắt lác hoặc mắt nhìn chệch hướng
  • Có vẻ như luôn mệt mỏi
  • Tiếng khóc yếu hoặc nhỏ
  • Phản ứng kém với bạn

Trong thời thơ ấu, trẻ mắc PWS bắt đầu biểu hiện các dấu hiệu khác. Nó ảnh hưởng đến một phần của não gọi là vùng dưới đồi, nơi giúp nhận biết khi bạn đã ăn đủ. Người mắc PWS không có cảm giác no, vì vậy dấu hiệu phổ biến nhất là cảm giác đói liên tục và tăng cân.

Trẻ mắc PWS có thể luôn muốn ăn nhiều hơn, ăn khẩu phần lớn hoặc cố gắng giấu hoặc tích trữ thức ăn để ăn sau. Một số trẻ thậm chí ăn thức ăn còn đông lạnh hoặc từ trong thùng rác.

Con bạn cũng có thể:

  • Thấp so với tuổi
  • Có bàn tay hoặc bàn chân nhỏ
  • Tích tụ mỡ trong cơ thể và thiếu khối lượng cơ
  • Bộ phận sinh dục không phát triển
  • Có vấn đề về học tập từ nhẹ đến trung bình
  • Học nói, ngồi, đứng hoặc đi chậm hơn
  • Có những cơn tức giận thất thường
  • Gãi da liên tục
  • Có vấn đề về giấc ngủ
  • Có các vấn đề về tâm trạng và ngôn ngữ
  • Mắc chứng cong cột sống (scoliosis)
  • Thiếu hormone tuyến giáp hoặc hormone tăng trưởng

Các triệu chứng ít gặp hơn của PWS bao gồm:

  • Các vấn đề về thị lực, như cận thị
  • Da và tóc nhạt màu hơn so với gia đình
  • Khả năng chịu đau cao
  • Không thể điều chỉnh nhiệt độ cơ thể khi bị sốt hoặc trong môi trường nóng hay lạnh
  • Nước bọt đặc, có thể gây sâu răng hoặc các vấn đề khác
  • Loãng xương (osteoporosis), hay xương mỏng, yếu và dễ gãy

Do bộ phận sinh dục không phát triển, phụ nữ mắc PWS có thể không bao giờ có kinh nguyệt hoặc có thể bắt đầu rất muộn so với những người khác. Nam giới mắc PWS có thể không có râu mặt, cơ quan sinh dục nhỏ và giọng nói không thay đổi trong giai đoạn dậy thì. Những người mắc PWS thường không thể có con.

Chẩn Đoán

Bác sĩ có thể chẩn đoán PWS thông qua xét nghiệm máu gọi là phân tích nhiễm sắc thể. Xét nghiệm này cho thấy có vấn đề gì với gen gây ra PWS hay không.

Phương Pháp Điều Trị

Hiện không có cách chữa khỏi, nhưng nếu bạn có con mắc PWS, bạn có thể giúp con duy trì cân nặng hợp lý, có chất lượng cuộc sống tốt và ngăn ngừa các vấn đề sức khỏe về sau. Phương pháp điều trị sẽ phụ thuộc vào các triệu chứng cụ thể.

  • Trẻ sơ sinh: Sữa công thức giàu calo có thể giúp trẻ duy trì cân nặng nếu trẻ không thể ăn uống tốt do trương lực cơ kém. Bạn cũng có thể sử dụng các núm vú đặc biệt hoặc ống dẫn thức ăn (Gavage) để đưa sữa mẹ hoặc sữa công thức trực tiếp vào dạ dày của trẻ, đảm bảo rằng trẻ nhận đủ thức ăn.
  • Trẻ lớn và thiếu niên: Đặt ra các giới hạn rõ ràng về thời gian và cách trẻ ăn để tránh tăng cân quá mức. Chế độ ăn ít calo, cân bằng và tập thể dục thường xuyên có thể giúp trẻ duy trì cân nặng hợp lý. Một số trẻ mắc PWS có thể cần bổ sung thêm vitamin D hoặc canxi.

Nếu con bạn cố gắng lấy trộm hoặc giấu thức ăn, bạn có thể phải khóa tủ, nhà bếp hoặc tủ lạnh.

  • Đối với thiếu niên mắc PWS, các hormone như testosterone, estrogen hoặc hormone tăng trưởng người (HGH) có thể giúp cải thiện chiều cao nhỏ, trương lực cơ kém hoặc tích tụ mỡ thừa. Liệu pháp thay thế hormone có thể giúp xương chắc khỏe hơn và ngăn ngừa loãng xương về sau.
  • Thuốc chống trầm cảm, như các chất ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRIs), có thể giúp giảm bớt các vấn đề về hành vi do PWS gây ra.
  • Các liệu pháp chuyên biệt có thể giúp trẻ xử lý các triệu chứng phổ biến của hội chứng này như ngưng thở khi ngủ, vấn đề về tuyến giáp và các vấn đề khác.

Trẻ em mắc PWS nên kiểm tra mắt định kỳ để phát hiện các vấn đề về thị lực. Bác sĩ của trẻ cũng nên sàng lọc các vấn đề như cong cột sống, loạn sản xương hông hoặc vấn đề về tuyến giáp.

Hiệp Hội Hội Chứng Prader-Willi có các nhóm hỗ trợ trực tuyến và các mẹo hữu ích cho phụ huynh.

Bệnh viêm đốt sống nhiễm khuẩn (viêm đốt sống – đĩa đệm)

Tên khác: viêm đốt sống-đĩa đệm.

Định nghĩa

Bệnh nhiễm khuẩn toàn thân khu trú ở cột sống.

Căn nguyên

Những mầm bệnh hay gặp nhất là tụ cầu vàng, brucella, salmonella, trực khuẩn coli, và liên cầu khuẩn. Hiện nay lao đốt sống đã ít gặp. Viêm đốt sống đĩa đệm do màng não cầu khuẩn và phế cầu khuẩn hiếm thấy, nguyên nhân do ecchinococcus và gôm giang mai là hãn hữu.

Nhiễm khuẩn đốt sống thường theo đường máu, có thể theo đường bạch huyết tuy hiếm hơn (từ các hạch cạnh cột sống), cũng có thể vi khuẩn xâm nhập trực tiếp bằng đường tiêm tĩnh mạch ở những người nghiện ma tuý, hoặc qua các vết thương hở ở vùng lưng.

Người ta đã thấy trường hợp viêm đốt sống diễn biến như lao xảy ra sau khi nhiễm Mycobacterium xenopi trong một can thiệp ngoại khoa ố cột sống. Quá trình viêm thường khởi đầu ở phần trước của thân đốt sống và tiến dần về phía sau và về phía đĩa gian đốt sống (đĩa đệm).

Có thể hình thành các apxe và thân đốt sống bị apxe lún vỡ. Trong trường hợp này thì có những nguy cơ: chèn ép rễ các dây thần kinh sống, chèn ép tuỷ sống, hình thành lỗ rò, và apxe thứ phát ở vị trí xa.

Triệu chứng

Đau vùng thắt lưng không đỡ khi nghỉ ngơi, hoặc nặng hơn về ban đêm, cột sống bị cứng khu trú ở một đoạn nhất định, gõ vào cột sống thắt lưng làm cho bệnh nhân đau, đôi khi có sốt, tình trạng toàn thân suy giảm.

Xét nghiệm cận lâm sàng: cấy máu dương tính trong một nửa số trường hợp. Xét nghiệm vi khuẩn ở dịch hút được bằng chọc hút đĩa đệm.

Xét nghiệm bổ sung: đĩa đệm hẹp lại với hình ảnh X quang mờ, bị trợt (hoặc bị ăn mòn), có hốc rỗng ở những thân đốt sống liền kề. Chụp cắt lớp vi tính và nhất là ghi hình cộng hưởng từ cho phép phát hiện hình ảnh nhiễm khuẩn sớm hơn so với chụp X quang truyền thông. Chụp nhấp nháy xương phát hiện thấy tăng gắn chất phóng xạ ở ổ nhiễm khuẩn.

VIÊM ĐỐT SỐNG LAO (bệnh Pott)

Ngày nay chủ yếu chỉ thấy ở người già. Triệu chứng chính là đau và cứng cột sống khu trú ở một đoạn nhất định. Khám thần kinh có thể phát hiện thấy liệt nhẹ do rễ dây thần kinh sống bị tác động và thường là dấu hiệu sớm. Test nội bì với tuberculin dương tính. Khám X quang trên toàn bộ chiều dài cột sống sẽ phát hiện thấy một hoặc nhiều khoảng gian đốt sống bị kẹt (hẹp nhỏ lại), và thân đốt sống bị mất chất khoáng với hình ảnh bờ viền bị mờ. Xương bị phá huỷ rộng và gù chỉ xuất hiện ở giai đoạn muộn. Vị trí hay bị lao đốt sống nhất là ở đoạn từ đốt ngực 9 (D9) đến đốt thắt lưng 4 (L4) đôi khi L5. Những khớp khác bị lao là khớp chẩm-đội (gây tổn thương tới dây thần kinh đại hạ thiệt), các đốt sống thắt lưng, khớp cùng chậu. Xét nghiệm vi khuẩn ở bệnh phẩm lấy được bằng chọc dò đĩa đệm xác định chẩn đoán trong 60% trường hợp.

Đôi khi có lao thận kết hợp.

Điều trị: bất động bằng bột thạch cao, điều trị bằng 3 hoặc 4 thuốc chống lao phối hợp trong vòng 3 đến 4 tháng.

VIÊM ĐỐT SỐNG DO BRUCELLA

Viêm đốt sống do brucella làm cho bệnh nhân rất đau và gây ra co cứng cơ phản xạ rất mạnh. Có thể có viêm những khớp ngoại vi kết hợp. Thông thường bệnh thuyên giảm trong 2-4 tuần.

Những biến đổi hình ảnh X quang, nhất là hình ảnh khoảng gian đốt sống bị kẹt (hẹp nhỏ lại) xuất hiện muộn và có thể kèm theo với hình ảnh gai xương.

Điều trị: nằm nghỉ tuyệt đối trên phản cứng. Cho cotrimazol và rifampicin trong 3 tháng, hoặc doxycyclin và rifampicin.

VIÊM ĐỐT SỐNG DO SALMONELLA

Trong 2% số trường hợp, bệnh sốt thương hàn và phó thương hàn có khu trú kết hợp ở cột sống. Viêm đốt sống thương hàn có thể xảy ra ngay trong thời kỳ đang sốt, hoặc sau một giai đoạn tiềm tàng khoảng vài tháng tới vài năm. Viêm đốt sống do salmonella thường gây ra đau vùng thắt lưng dữ dội kèm theo co cứng cơ phản xạ và hội chứng dây thần kinh toạ (thần kinh hông to).

Khám X quang thường thấy những tổn thương nằm ở phần sau của hai thân đốt sống liền kề.

Điều trị: bất động và điều trị bệnh thương hàn.

VIÊM ĐỐT SỐNG DO TỤ CẦU VÀ LIÊN CẦU KHUẨN

Những trường hợp viêm đốt sống do hai loại vi khuẩn này ngày càng gia tăng và hay xảy ra ở những đối tượng trẻ tuổi hoặc sau những can thiệp ngoại khoa ở cột sống (ví dụ: phẫu thuật thoát vị đĩa đệm). Bệnh biểu hiện bởi đau dữ dội tự phát hoặc /và khi gõ vào đoạn cột sống vị nhiễm khuẩn.

Điều trị: (xem: bệnh viêm tuỷ xương).

Ung thư bàng quang

Ung thư bàng quang chủ yếu là ung thư tế bào chuyển tiếp  ở biểu mô niệu, rất hay gặp trong các loại ung thư tiết niệu, ung thư bàng quang chỉ đứng sau ung thư tuyến tiền liệt. Đặc điểm của ung thư bàng quang là dễ tái phát và tiến triển xâm lấn vào lớp cơ bàng quang để di căn xa.

Việc chẩn đoán sớm đã có nhiều tiến bộ, nhờ siêu âm, soi bàng quang, xét nghiệm tế bào trong nước tiểu. Nhưng việc đánh giá tiên lượng còn nhiều khó khăn khi cần quyết định đưa ra một phương pháp điều trị thích hợp.

Ung thư bàng quang
Ung thư bàng quang

NGUYÊN NHÂN BỆNH SINH

Ung thư bàng quang chiếm một tỉ lệ khá cao ở các nước kỹ nghệ phát triển.

ở Pháp, mỗi năm có 10.000 người mới mắc bệnh, nghĩa là tỉ lệ 18/100.000 người dân. Nam giới bị bệnh gấp 3-5 lần so với nữ giới. Đây là bệnh ung thư thứ 4 hay gặp ở nam giới và ung thư thứ 7 gặp ở nữ giới.

Các nguyên nhân: thường được nêu lên là

  • Các bệnh nghề nghiệp (hoá chất, nhuộm, cao su, dầu khí, thuộc da). Các tác nhân gây ung thư bao gồm Benzidine, Beta-naphthylamine, 4-aminopihenyl.
  • Thời gian tiềm tàng của bệnh rất lâu sau 30-40 năm.
  • Hút thuốic lá đã được xác minh là một nguy cơ lớn đặc biệt tập tục hút thuốc kéo dài trên 20 năm.
  • Bệnh sán màng – ký sinh trùng là Schistosomia haemato-bium, gây viêm nhiễm ở bàng quang do trứng của chúng.
  • Thuốc Phenaetine, Saccarin, Cyclamat cũng là những yếu tố nguy cơ.
  • Các yếu tố gây kích thích và viêm nhiễm lâu ngày (sỏi bàng quang, ông thông bàng quang).
  • Về di truyền học, người ta phát hiện mất tính dị hợp tử của nhiễm sắc thể 9 và 11 ở các loại ung thư xâm lấn.

Đặc biệt p 53 ở phần nhiễm sắc thể 17 bị đột biến thường xuyên.

GIẢI PHẪU BỆNH LÝ

Tổ chức học

  • Ung thư tế bào chuyển tiếp chiếm 95% các loại ung thư bàng quang. Ung thư tế bào chuyển tiếp thường có dạng nhú và có cuống, nhưng trong một số trường hợp ung thư bàng quang không có cuống và có xu hướng xâm lấn nhiều hơn.

Các loại ung thư khác ở bàng quang hiếm gặp hơn:

Ung thư biểu mô dạng biểu bì (3%), thường do sán máng.

Ung thư tuyến (1%) xuất phát từ đáy bàng quang (vết tích xoang niệu sinh dục) hay từ vùng đỉnh bàng quang (vết tích ống niệu rốn).

Ưng thư biểu mô không biệt hoá.

Các u lành tính rất hiếm gặp (fibrom, lipom, schwanom, pheochromocytom)

  • Phân loại theo độ xâm lấn (theo qui Tổ chức Y tế Thế giới)

PTA: u khu trú ở niêm mạc

PTis: Ưng thư biểu mô tại chỗ (in situ).

PTl: Ưng thư lan đến màng đáy.

PT2: Ung thư lan đến lớp cơ nông bàng quang.

PT3a: Ung thư lan đến lớp cơ sâu bàng quang.

PT3b: Ung thư lan đến lớp mỡ quanh bàng quang.

PT4b: Ung thư cố định, xâm lấn thành bụng N-, N+: Ung thư chưa, đã di căn vào hạch.

M-, M+: Chưa, đã di căn xa.

Các loại PTA, PTis, PTl được xếp loại ung thư nông, chiếm 70% các trường hợp.

  • Phân loại theo độ biệt hoá (grading)

Ung thư tế bào chuyển tiếp được phân làm 3 loại tuỳ theo độ biệt hoá, dựa vào cấu trúc, số lớp tế bào, sự phân cực tế bào, sự biệt hoá từ màng đáy lên bề mặt, kích thước và dạng tế bào, phân bố chất nhiễm sắc, chỉ số gián phân.

Độ 1: u nhú rất biệt hoá, cuống mạch nhỏ, có trên 7 lớp tế bào chuyển tiếp.

Độ 2: u nhú biệt hoá vừa, cuống mạch to, tế bào đa dạng, nhân to, nhiều gián phân.

Độ 3: u không biệt hoá, cấu trúc hỗn loạn, nhân đa dạng, rất nhiều gián phân.

Loại Papolim là loại u hoá, nông nhưng rất biệt hoá (PTA, độ 0).

Ung thư biểu mô “in situ” là loại ung thư phẳng, khu trú ở lớp biểu mô, nhưng không biệt hoá. 50-80% loại ung thư này sẽ xâm lấn đến lớp cơ bàng quang. Vì vậy cần theo dõi chặt chẽ loại ung thư này.

CHẨN ĐOÁN

Lâm sàng

Các triệu chứng lâm sàng

Đái ra máu là triệu chứng báo hiệu quan trọng và rất hay gặp (95%). Đái ra máu xuất hiện đột ngột và ngừng đột ngột, không đau buốt, dễ tái phát. Thông

thường đái ra máu cuối bãi, nhưng nếu đái ra máu nhiều, thì đái ra máu toàn bãi. Đái ra máu tươi lẫn máu cục, hoặc kèm theo mảnh mô hoại tử, gây tắc đái.

Viêm bàng quang nếu có viêm nhiễm: đái buốt, đái rắt, đái nhiều lần, đái đục.

Đái khó, nếu u to, u sát gần cổ bàng quang ở các giai đoạn sau, có thể gặp.

Cơn đau quặn thận, thận ứ nước do u chèn ép vào lỗ niệu quản.

Phù chân, đau xương do di căn.

Thiếu máu nặng, suy thận.

Suy sụp toàn thân

Khám lâm sàng

Khám trực tràng, khám âm đạo, kết hợp với thăm khám vùng hạ vị: bàng quang mềm mại, hay có khối u di động hay cố định.

Khám vùng thắt lưng, vùng gan và toàn thân.

Cận lâm sàng

  • Xét nghiệm sinh hoá để đánh giá chức năng thận, viêm nhiễm tiết niệu, mức độ thiếu máu.
  • Tìm tế bào ung thư trong nước tiểu theo phương pháp papanico-laou. Độ nhậy của phương pháp này rất cao đặc biệt đối với loại ung thư kém biệt hoá.
  • Siêu âm cho phép phát hiện u bàng quang từ 3 ly trở lên, một u hay nhiều u, sự xâm lấn của u vào thành bàng quang sự chèn ép vào lỗ niệu quản gây ứ thận ứ nước. Siêu âm cũng cho phép phát hiện u ở bể thận, niệu quản.
  • Chụp niệu đồ tiêm tĩnh mạch, để đánh giá hình thái và chức năng hai thận, phát hiện u bàng quang, độ xâm lấn của u vào thành bàng quang.
  • Chụp cắt lớp vi tính để đánh giá sự xâm lấn của ung thư tại chỗ và trong vùng (thành bàng quang, lớp mỡ quanh bàng quang, tuyến tiền liệt các hạch bạch huyết).
  • Soi bàng quang và làm sinh thiết u là chính thủ thuật cơ bản với sự hỗ trợ của gây tê hay gây mê. Với ống soi mềm, có thể quan sát kỹ về đại thể các khối u, hình dạng, kích thước và các vùng có nghi vấn. Sau đó sinh thiết u để gửi đi xét nghiệm tổ chức học.

TIÊN TRIỂN CỦA UNG THƯ BÀNG QUANG – TIÊN LƯỢNG

Ung thư bàng quang thường tiến triển theo hai xu hướng:

  • Tái phát tại chỗ hay ở chỗ khác trong bàng quang nhưng vẫn giữ nguyên độ biệt hoá từ trước trong một thời gian dài. Đây là tình huống hay xảy ra. Tiến tnên làm giảm độ biệt hoá và tăng ác tính xâm lấn vào thành bàng quang và di căn.

Theo thông kê, u bàng quang PTA hay tái phát (50%), nhưng ít tiến triển (5%)

Các u bàng quang PTl tái phát nhiều hơn (50-90%), khả năng tiến triển càng lớn (30-40%). Vì vậy sau cắt nội soi, cần sử dụng thuốc bơm vào bàng quang. Ung thư tại chỗ “in itu”, khả năng xâm lấn rất lớn (80%).

Đối với các ung thư xâm lấn phải cắt bàng quang toàn bộ, sống sau mổ 5 năm là 40%, nếu chưa di căn vào hạch; sống 5 năm chỉ còn là 4%, nếu đã có di căn vào hạch.

CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT

  • Trong trường hợp đái ra máu, phải nghĩ đến ung thư trước khi nghĩ đến viêm bàng quang hay lao tiết niệu.
  • Khi u ở gần cổ bàng quang, cần phân biệt với ung thư tuyến tiền liệt (sinh thiết u, thăm trực tràng, định lượng PSA)
  • Ung thư biểu mô niệu có thể xuất phát từ bể thận, niệu quản lan xuống bàng quang. Vì vậy cần kiểm tra kỹ toàn bộ hệ tiết niệu.

ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BÀNG QUANG

Việc điều trị ung thư bàng quang phụ thuộc vào tính chất u, nông hay xâm lấn, độ biệt hoá, đã hay chưa di căn. Điều trị cũng phụ thuộc vào tuổi, sức khoẻ của bệnh nhân.

Đối với ung thư bàng quang (PTA, PTIS, PT1), bắt đầu điều trị bằng cắt nội soi để lấy hết u, và xét nghiệm tổ chức học.

  • Nếu là ung thư tại chỗ “in situ”, việc điều trị tiếp là phải bơm BCG bàng quang sau khi cắt nội soi 3 tuần.

Lượng BCG được dùng là 150 mg trong 60 ml huyết thanh, giữ trong bàng quang 2 giờ, mỗi tuần một lần, trong 6 tuần.

  • u bàng quang nông (PTA) ít tiến triển nhưng hay tái phát cần theo dõi bằng siêu âm, soi bàng quang và xét nghiệm tế bào trong nước tiểu, 3 tháng, 6 tháng sau cắt nội soi.
  • u bàng quang nông (PTl), mỗi khi có độ biệt hoá kém, kèm theo TIS hoặc có xu hướng tái phát rất nhanh, cần sử dụng thuốc điều trị hỗ trợ như Thiotaepa, Mytomycin, c, BCG, sau khi cắt nội soi.

Thiotepa: 30mg trong 30ml nước cất, bơm vào bàng quang mỗi tuần 2 lần, trong 4 tuần.

Mytomycine C: 20 mg trong 20ml nước cất, bơm vào bàng quang mỗi tuần 3 lần, trong 6 tuần.

BCG: Liều lượng như trong điều trị PTIS. Nếu cần, điều trị thêm một đợt sau nghỉ 6 tuần. Tác dụng của BCG là gây một đáp ứng viêm tại chỗ liên quan tới các tế bào trong hệ thống miễn dịch, kéo theo sự giải phóng nhiều loại cytokine (IFN – 8, TNF – DIL-2,6,8°10,12 và’CG-CSF).

Đối với ung thư xâm lấn nhưng còn khu trú ở bàng quang chỉ định là cắt bàng quang toàn bộ kèm theo các biện pháp dẫn lưu nước tiểu.

Đối với nam giới khi cắt bàng quang cần lấy luôn tuyến tiền liệt, các túi tinh và ống tinh, cắt bỏ niệu đạo chỉ dành cho những trường hợp ung thư xâm lấn vào niệu đạo tuyến tiền liệt.

Đối với nữ giới, cắt bỏ bàng quang còn phải cắt bỏ luôn tử cung, các phần phụ niệu đạo và phần trước của âm đạo.

Trong mọi trường hợp, phải nạo vét hạch chậu và bịt các phương pháp dẫn lưu bao gồm:

  • Dẫn lưu 2 niệu quản ra da: đơn giản, ít gặp biến chứng sau mổ, nhưng ít thuận lợi cho bệnh nhân và không bảo đảm lâu dài chức năng thận.
  • Phương pháp Bricher: cắm 2 niệu quản vào một đoạn ruột được cách ly và đưa một đầu ruột ra da. Phương pháp này bảo vệ tốt chức năng thận và thuận tiện cho bệnh nhân hơn.
  • Phương pháp Coffey: cắm 2 niệu quản vào đại tràng Dễ làm, nhưng bảo vệ kém chức năng thận.
  • Dùng một đoạn ruột tạo thành một túi chứa đựng nước tiểu (túi Kock, túi Mainz). Mỗi khi túi đầy nước tiểu, dùng một ống thông tháo nước tiểu ra. Dùng đoạn ruột tạo thành bàng quang mới và nối vào niệu đạo. Đoạn ruột thường bộ đôi để tạo áp lực thấp, và tránh rỉ nước tiểu mỗi khi vận động.

Khi ung thư đã di căn

  • Dùng tia xạ 5000-7000 rad chia làm nhiều đợt trong 5 đến 8 tuần. Có thể kết hợp tia xạ và cắt bàng quang toàn bộ.
  • Điều trị hoá chất, theo một trong ba công thức sau:

+ Métrotrexat, Vinbilastin, Doxorubicin, Cisplatin (MVAC)

+ Cisplatin, Methotrexat, Vinblastin (CMV).

+ Cisplatin, Doxorubicin, Cyclophosphamid (CiSCA)

Có thể kết hợp điều trị hoá chất và phẫu thuật, hoặc điều trị hoá chất và tia xạ.

Điều trị các biến chứng nặng

  • Đái ra máu: cắt bàng quang cầm máu, làm tắc mạch, dùng formol bơm vào bàng quang (dung dịch formol 4% và giữ trong bàng quang 30 phút).
  • Đau do di căng xương: dùng tia xạ 3000 – 3500 rad chia làm 10 đợt.
  • Suy thận: đưa niệu quản ra da.

KẾT LUẬN

Ung thư bàng quang đứng hàng thứ hai trong các ung thư tiết niệu. Đặc điểm của ung thư bàng quang là hay tái phát và xâm lấn. Đánh giá tiên lương rất khó khăn. Vì vậy cần chẩn đoán sớm, theo dõi định kỳ để đề ra biện pháp điều trị thích hợp.

Trẻ bị mẩn ngứa – Nguyên nhân, hướng xử trí

Khi trẻ bị mẩn ngứa, bé có thể vừa tiếp xúc với một chất kích thích hoặc nhân tố gây dị ứng. Hoặc bé bị nhiễm virus. Những trẻ có phản ứng dị ứng với thuốc cũng có thể bị ngứa nhiều.

Ngứa mà không có vết mẩn xuất hiện vì nhiều lý do, nhất là ở trẻ có da khô và viêm da cơ địa (eczema) và khi lò sưởi cùng không khí mùa đông làm da bị khô. Nhiễm nấm và nấm men cũng có thể gây ngứa, dù không liên quan tới bệnh hắc lào hay hăm tã bỉm do nấm, chúng cũng không phải hiện tượng thường gặp trước tuổi dậy thì.

Một số trẻ em gãi do thói quen, điều đó làm kích ứng da và lại càng khiến trẻ muốn gãi thêm nữa. Những trẻ bị khoang eczema đặc biệt dễ mắc vào vòng luẩn quẩn ngứa-gãi-ngứa. Ở một số trẻ, da có thể bị nứt và đau, có thể bị nhiễm trùng.

Da bị ngứa mà không nổi mẩn có liên quan tới một số bệnh toàn thân, nhưng những bệnh này hiếm gặp ở trẻ em. Các em nữ có thể xấu hổ vì bị ngứa do viêm âm đạo, và các bé trai tuổi thiếu niên dễ bị ngứa do các loại nhiễm nấm được gọi là nấm da ở vùng bẹn và nấm ở bàn chân. Bác sĩ nhi có thể khuyên dùng các sản phẩm không cần kê đơn để điều trị hai bệnh này và bạn nên khuyến khích con trai mình lau khô thật kỹ sau khi tắm.

Gọi bác sĩ nhi nếu con bạn:

  • Bị ngứa kèm theo sưng môi hay mặt
  • Phát mẩn ngứa sau khi bắt đầu uống thuốc
  • Bị một mảng chàm có dấu hiệu nhiễm trùng như sưng, ấm và có mủ
  • Có thói quen gãi gây ra các vấn đề về da hoặc khó khăn về mặt xã hội.

CẢNH BÁO!

Nếu da của con bạn ngứa, hãy sử dụng xà phòng loại nhẹ để giặt, và tránh các chất tẩy có chứa thuốc nhuộm và nước hoa. xả quần áo thật kỹ, và nếu cần, chạy máy thêm một vòng nữa bằng nước sạch để gột sạch số xà phòng còn thừa lại.

Kiểm soát bệnh Eczema

Eczema, còn được gọi là viêm da cơ địa, là một bệnh về da rất phổ biến làm cho da tấy đỏ, ngứa ngáy. Đôi khi da bị bao phủ bởi những vết sưng rỉ nước và cứng. Ở eczema mãn tính, có thể kéo dài nhiều tháng hoặc năm, da bị dày lên, đóng vảy, rạn, nứt và màu sậm lại.

Eczema thường xuất hiện ở các bé mà gia đình có xu hướng bị eczema và dị ứng, dù ở hầu hết các trẻ, mẩn không phải do dị ứng gây ra. Nó có thể xuất hiện ở bất cứ lứa tuổi nào nhưng phần lớn các trường hợp, nó phát sinh ở tuổi thứ năm. Ở trẻ nhỏ giữa 2 và 6 tháng tuổi, eczema xuất hiện dưới dạng ngứa, tấy đỏ và các vết sưng trên mặt và da đầu, có thể lan tới cánh tay và người. Trong nửa số trường hợp, vết mẩn biến mất khi được 2 hay 3 tuổi. Nhiều trẻ em tự khỏi bệnh này khi được 6 tuổi, những trẻ khác thì ở tuổi dậy thì. Ở các trẻ khác, đôi khi nó có thể xuất hiện trở lại ngay cả ở tuổi thanh niên hay tuổi trưởng thành.

Nếu bạn nghi ngờ một số loại thức ăn nhất định đang gây mẩn, hãy tránh chúng ra. Bôi kem dưỡng ẩm khi da bé đang khô. Sử dụng xà phòng có pH trung tính không có mùi. Tắm hàng ngày, không quá nóng và dưỡng ẩm ngay sau đó hoặc bằng chất làm mềm da không cần kê đơn hoặc theo đơn thuốc, có thể giúp giữ ẩm cho da bé. Thuốc antihistamines an thần có thể được các bác sĩ nhi khuyên dùng để giúp bé ngủ khi bị cơn ngứa lên cao nhất vào giờ ngủ. Ở các trẻ bị eczema và dị ứng môi trường, thuốc antihistamines không an thần cũng có thể có tác dụng. Một loại thuốc steroid tại chỗ (bôi trên da) cũng có thể cần trong những giai đoạn ngắn khi bé bị eczema nặng. Không nên sử dụng thuốc này lâu dài. Nhưng một nhóm thuốc tại chỗ không chứa steroid tương đối mới được gọi là thuốc ức chế calcineurin bôi có thể được kê cho các vùng nhạy cảm như mặt và bộ phận sinh dục ở những trẻ lớn hơn 2 tuổi.

MỐI BẬN TÂM CỦA BẠN NGUYÊN NHÂN CÓ THỂ CÓ HÀNH ĐỘNG CẦN THỰC HIỆN
Con bạn bị những mảng da đỏ, ráp. Các thành viên khác trong gia dinh bị eczema và dị ứng. Viêm da cơ địa (eczema). Bác sĩ nhi sẽ khám cho bé và khuyến nghị cách điều trị cho căn bệnh phổ biến này. Không mặc cho bé đồ gây ngứa.
Con bạn bị các mảng đỏ, dễ bong hoặc mẩn ẩm. Những vùng bị ảnh hưởng có tiếp xúc với các yếu tố gây dị ứng như thuốc nhuộm trong quần áo hoặc kiềm ở đồ trang sức. Gần đây bạn đổi loại xà phòng hoặc chất tẩy. Viêm da do tiếp xúc với chất gây dị ứng. Chườm lạnh để giảm cảm giác khó chịu.

Cố gắng xác định và loại bỏ nguồn gây khó chịu. Nếu vết mẩn bị nặng, hãy nói chuyện với bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho bé và khuyên cách điều trị.

Con bạn bị nổi mẩn ngứa sau khi một con ho, sốt và các triệu chứng đường hô hấp trên. Ban do virus. Gọi bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho bé và đưa ra bất cứ biện pháp điều trị nào cẩn thiết.
Con bạn bị phát mẩn rộp sau khi đi ra ngoài. Chỗ mẩn hiện thành vệt. Các loại cây độc

Tẩm ma hoặc các loại thực vật có gai độc khác.

Rửa sạch cả vùng bằng xà phòng và nước, xả nước trong 10 phút. Giặt quần áo bé. Chườm lạnh. Nếu vết mẩn nghiêm trọng, hãy gọi bác sĩ nhi.
Con bạn bị mẩn ngứa ở một vùng da hở. Có những vết sưng với các nốt đỏ ở giữa. Vết cắn của côn trùng, như ấu trùng ve bét, muỗi hoặc bọ chét. Chườm lạnh. Nếu vết mẩn vẫn dai dẳng hoặc vết đốt cho thấy dấu hiệu nhiễm trùng, hãy nói chuyện với bác sĩ nhi.
Con bạn phát mẩn lan rộng, ngứa, đỏ, sưng trong vòng một tuần sau khi bắt đầu sử dụng một loại thuốc mới. Phản ứng dị ứng với thuốc. Dừng thuốc và nói chuyện với bác sĩ nhi sớm nhất có thể.
Con bạn gãi không ngừng. Bạn thấy trứng chấy trong tóc bé hoặc những dấu đỏ nhạt trên da bé. Ký sinh trên da như chấy rận (trên da đầu) hoặc ghẻ (trên thân người). Gọi bác sĩ nhi, họ sẽ khuyến nghị cách điều trị và các biện pháp loại bỏ ký sinh khỏi nhà bạn. Thông báo cho trường hoặc trung tâm chăm sóc trẻ của bé.
Con bạn bị những mảng ngứa hình tròn trên da và mảng hói trên da đầu Hắc lào. Gọi bác sĩ nhi, họ sẽ đưa ra phương pháp điều trị và khuyên cách ngăn chỗ nhiễm lan rộng.
Con bạn phát mẩn trong khi uống một loại thuốc, ví dụ như một loại kháng sinh. Tác dụng phụ của thuốc. Gọi cho bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho bé và kê một loại kháng sinh khác, nếu cần, cũng như chữa trị vấn đề về da.
Con bạn bị ngứa quanh hậu môn, về đêm càng ngứa nhiều. Giun kim. Bác sĩ nhi sẽ khám cho bé và đưa ra cách điều trị thích hợp. Hãy hỏi bác sĩ nhi về cách ngăn ngừa sự lan rộng của vùng bị nhiễm.
Con trai bạn ở tuổi thiếu niên, bé kêu ngứa quanh vùng bẹn. Nấm da vùng bẹn (nhiễm nấm).

Hăm da (viêm ở vùng da gấp nếp).

Bác sĩ nhi sẽ khuyến nghị cách điều trị. Hãy khuyến khích bé tắm xà phòng và lau khô thật kỹ trước khi mặc đồ.
Con gái bạn ở tuổi thiếu niên, bé gặp rắc rối do ngứa vùng âm đạo. Đồng thời, bé có dịch và mùi bất thường. Viêm âm đạo. Nói chuyện với bác sĩ nhi, họ sẽ đưa ra phương án điều trị thích hợp.

Bệnh Ung Thư Miệng Là Gì?

Bệnh ung thư miệng thường xuất hiện dưới dạng một khối u hoặc vết thương trong miệng không tự lành. Đây là một loại ung thư vùng đầu và cổ. Bạn có thể nghe nói đến bệnh này với các tên gọi như ung thư miệng hoặc ung thư khoang miệng. Nếu nó xuất hiện ở phía sau miệng hoặc cổ họng trên, đó là ung thư hầu họng.

Hơn 50,000 người ở Mỹ mắc ung thư miệng mỗi năm. Nếu không được chẩn đoán và điều trị sớm, nó có thể đe dọa đến tính mạng.

Biểu Hiện Của Ung Thư Miệng

Hầu hết các loại ung thư miệng bắt đầu từ các tế bào biểu mô (squamous cells) trong lớp mô lót miệng và họng của bạn. Một điều gì đó thay đổi DNA bên trong các tế bào, khiến chúng phát triển mất kiểm soát thành khối u.

Ung thư miệng có thể xuất hiện ở nhiều vị trí khác nhau, bao gồm:

  • Môi
  • Mặt trong của môi và má
  • Nướu
  • Lưỡi
  • Đáy miệng
  • Vòm miệng
  • Họng
  • Amidan

Khi được phát hiện sớm, ung thư miệng dễ điều trị hơn, vì vậy điều quan trọng là bạn cần biết cách nhận diện những thay đổi đáng ngờ trong miệng của mình.

Triệu Chứng Của Ung Thư Miệng

Các triệu chứng phổ biến nhất của ung thư miệng bao gồm:

  • Vết thương trên môi hoặc trong miệng không tự lành
  • Khối u hoặc vết dày bên trong miệng hoặc họng
  • Vết trắng, đỏ hoặc có đốm (trắng và đỏ) trong miệng hoặc họng
  • Chảy máu không rõ nguyên nhân trong miệng
  • Đau hoặc tê không rõ nguyên nhân trong miệng hoặc họng
  • Viêm họng mãn tính hoặc cảm giác có vật gì mắc ở phía sau họng
  • Khó khăn khi nhai hoặc nuốt, nói chuyện, hoặc cử động hàm hoặc lưỡi
  • Khàn giọng hoặc thay đổi giọng nói
  • Đau tai
  • Sưng, đau, hoặc cứng hàm
  • Khối u ở cổ
  • Thay đổi cách răng khít lại với nhau hoặc răng lỏng (nếu bạn sử dụng hàm giả, chúng có thể không thoải mái hoặc khó đeo vào)
  • Giảm cân đột ngột
  • Hơi thở hôi mãn tính

Nếu bạn nhận thấy bất kỳ sự thay đổi nào trong số này và chúng kéo dài hơn 2 tuần, hãy thông báo cho nha sĩ hoặc bác sĩ của bạn.

Ung Thư Miệng Trông Như Thế Nào?

Ung thư môi có thể trông giống như một vết thương không tự lành.

Trên môi, ung thư miệng thường giống như một vết lạnh. Bạn có thể nhận thấy một vết trắng hoặc đỏ nếu bạn có làn da sáng màu. Vết thương có thể có màu nâu đậm hoặc xám trên làn da tối màu. Nó có thể có máu hoặc vết khô.

Bên trong miệng, ung thư miệng có thể xuất hiện dưới dạng một vết trắng hoặc đỏ trên nướu, lưỡi, mặt trong của môi hoặc má, vòm miệng, hoặc dưới lưỡi. Nó giống như vết loét miệng nhưng không đau nhiều.

Ung thư miệng có thể xuất hiện như một khối u trên nướu hoặc các phần khác trong miệng.

Các Yếu Tố Nguy Cơ Của Ung Thư Miệng

Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, những người được phân loại là nam khi sinh có nguy cơ mắc ung thư miệng gấp đôi so với những người được phân loại là nữ. Ước tính hơn 54,000 người ở Mỹ sẽ được chẩn đoán mắc ung thư miệng vào năm 2023.

Các yếu tố nguy cơ phát triển ung thư miệng bao gồm:

  • Hút thuốc: Phần lớn các trường hợp ung thư miệng có thể được truy nguyên về việc hút thuốc lá, xì gà, hoặc thuốc ống. Thuốc lá điện tử có thể không an toàn hơn. Việc hút thuốc đã không được nghiên cứu nhiều như thuốc lá, nhưng một số nghiên cứu cho thấy nó có thể gây ra tổn thương tế bào tương tự dẫn đến ung thư miệng.
  • Sử dụng thuốc lá không khói: Việc sử dụng thuốc lá nhai, thuốc hít, hoặc các sản phẩm thuốc lá khác làm tăng nguy cơ phát triển ung thư của má, nướu, và niêm mạc môi.
  • Uống quá nhiều rượu: Ung thư miệng phổ biến hơn khoảng năm lần ở những người uống rượu so với những người không uống. Việc sử dụng rượu và thuốc lá cùng nhau càng làm tăng thêm nguy cơ.
  • Tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư.
  • Tiếp xúc quá nhiều với ánh nắng, đặc biệt là ở độ tuổi trẻ: Tia cực tím từ ánh nắng có thể gây ra ung thư môi.
  • Virus HPV: Một loại HPV nhất định có liên quan đến hơn hai phần ba các trường hợp ung thư hầu họng, ảnh hưởng đến các khu vực như phía sau lưỡi, họng, và amidan. Nó ngày càng phổ biến hơn ở những người trẻ tuổi và những người có nhiều bạn tình.
  • Tuổi tác: Ung thư miệng có thể mất nhiều năm để phát triển. Hầu hết mọi người phát hiện ra mình mắc bệnh sau tuổi 55. Tuy nhiên, các loại ung thư do HPV gây ra đang xuất hiện ở những người trẻ tuổi.
  • Giới tính: Những người được phân loại là nam khi sinh có nguy cơ mắc ung thư miệng hơn hai lần so với những người được phân loại là nữ khi sinh. Điều này có thể do sự khác biệt về giới tính trong mức độ uống rượu và hút thuốc.
  • Chế độ ăn uống kém: Các nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa ung thư miệng và việc không ăn đủ rau củ và trái cây.
  • Hệ thống miễn dịch yếu: Khi các hàng rào tự nhiên của cơ thể chống lại nhiễm trùng bị giảm sút do một căn bệnh (như nhiễm HIV) hoặc thuốc men (như hóa trị), bạn dễ bị tổn thương hơn với HPV.

Tỷ Lệ Sống Sót Của Ung Thư Miệng

Khả năng ung thư miệng đáp ứng với điều trị phụ thuộc một phần vào mức độ phát triển của nó khi bạn phát hiện. Đối với bệnh nhân được chẩn đoán sớm ung thư khoang miệng và họng, tỷ lệ sống 5 năm tổng quát là 86%. Nếu ung thư đã lan ra các mô, cơ quan, hoặc hạch bạch huyết gần đó, tỷ lệ sống 5 năm giảm xuống còn 69%.

Chẩn Đoán Ung Thư Miệng

Trong quá trình kiểm tra răng miệng định kỳ, nha sĩ của bạn sẽ sàng lọc ung thư miệng. Nha sĩ biết miệng khỏe mạnh trông như thế nào và có khả năng phát hiện ung thư tốt nhất. Các chuyên gia khuyến nghị nên kiểm tra hàng năm bắt đầu từ 18 tuổi, và sớm hơn nếu bạn bắt đầu hút thuốc hoặc quan hệ tình dục.

Cụ thể hơn, nha sĩ sẽ cảm nhận bất kỳ khối u hoặc sự thay đổi mô bất thường nào ở cổ, đầu, mặt và khoang miệng của bạn. Trong miệng, nha sĩ sẽ tìm các vết loét hoặc mô có màu sắc bất thường.

Nếu họ phát hiện điều gì đó đáng ngờ, bước tiếp theo là lấy mẫu mô để kiểm tra dưới kính hiển vi. Quá trình này được gọi là sinh thiết. Họ có thể giới thiệu bạn đến bác sĩ chuyên khoa hoặc thực hiện xét nghiệm đó.

Có nhiều loại sinh thiết khác nhau, và bác sĩ của bạn có thể quyết định loại nào là tốt nhất.

  • Sinh thiết bằng bàn chải miệng: Các tế bào được thu thập bằng cách cạo nhẹ khu vực bằng một bàn chải đặc biệt.
  • Sinh thiết cắt: Bác sĩ cắt một mẫu mô nhỏ. Tùy thuộc vào cách mà điểm đáng ngờ trông như thế nào với họ, họ có thể cắt bỏ hoàn toàn cùng với một số mô xung quanh.
  • Chọc hút bằng kim mảnh: Thủ tục này được sử dụng để kiểm tra một khối u ở cổ hoặc hạch bạch huyết. Bác sĩ sẽ đưa một cây kim mỏng, rỗng vào và rút ra một mẫu tế bào bằng một loại ống tiêm đặc biệt.

Phân Giai Ung Thư Miệng

Nếu sinh thiết cho thấy bạn bị ung thư miệng, bạn sẽ được thực hiện các xét nghiệm khác để tìm hiểu xem liệu ung thư có ở nơi nào khác không. Sau đó, khối u sẽ được gán một giai đoạn dựa trên kích thước của nó và mức độ lan rộng. Không phải ai cũng cần thực hiện tất cả các xét nghiệm, nhưng chúng có thể bao gồm:

  • Nội soi: Bác sĩ sẽ nhìn xuống họng của bạn bằng một camera đặc biệt gắn vào một ống linh hoạt. Họ có thể lấy mẫu từ bất kỳ điểm nào trông có vẻ đáng ngờ.
  • Xét nghiệm hình ảnh, bao gồm MRI và CT scan: MRI và CT scan là một trong những xét nghiệm giúp bác sĩ xác định kích thước và vị trí của khối u. Chúng cũng có thể cho thấy liệu ung thư đã lan đến hạch bạch huyết hoặc các phần khác của cơ thể bạn hay chưa.
  • Xét nghiệm HPV: Nếu bạn có ung thư ở họng hoặc mặt sau của lưỡi, tế bào khối u có khả năng được kiểm tra để phát hiện HPV. Sự hiện diện hoặc vắng mặt của virus này có vai trò trong việc phân giai.

Phân giai ung thư giúp bác sĩ quyết định phác đồ điều trị tốt nhất cho bạn và cho bạn biết khả năng hồi phục của mình.

Đối với ung thư miệng và ung thư hầu họng, phân giai bắt đầu bằng cách mô tả khối u bằng một hệ thống gọi là TNM, viết tắt cho khối u, hạch, và di căn. Đây là một loạt các chữ cái và số là một loại mã cho biết kích thước của khối u, liệu có liên quan đến hạch bạch huyết hay không, và liệu ung thư đã lan rộng (di căn) đến các phần khác của cơ thể bạn hay chưa.

Mã đó được dịch thành một số từ không đến bốn, cho bạn biết mức độ nghiêm trọng của ung thư. Các nhóm giai đoạn khác nhau tùy thuộc vào việc HPV có liên quan hay không.

Ung thư miệng hoặc hầu họng không có HPV

  • Giai đoạn 0 (Tis, N0, M0): Khối u chỉ ở lớp tế bào bề mặt (carcinoma in situ) và chưa lan đến hạch bạch huyết hoặc các phần khác của cơ thể.
  • Giai đoạn I (T1, N0, M0): Khối u ở lớp tế bào sâu hơn, nhưng nó có kích thước 2 cm hoặc nhỏ hơn và chưa lan đến đâu khác.
  • Giai đoạn II (T2, N0, M0): Khối u có kích thước từ 2 đến 4 cm nhưng chưa lan rộng.
  • Giai đoạn III (T3, N0, M0 hoặc T1 đến T3, N1, M0): Khối u lớn hơn 4 cm, hoặc nó có kích thước 3 cm hoặc nhỏ hơn, và bạn có ung thư ở một hạch bạch huyết, hoặc ung thư đã lan đến epiglottis.
  • Giai đoạn IVA (T4a, N0 hoặc N1, M0 hoặc T1 đến T4a, N2, M0): Ung thư đã lan đến các phần khác của miệng hoặc mặt và có thể liên quan đến nhiều hạch bạch huyết.
  • Giai đoạn IVB (bất kỳ T, N3, M0 hoặc T4b, bất kỳ N, M0): Ung thư có thể đã lan đến mô xung quanh một hạch bạch huyết hoặc đến nhiều phần khác của đầu và cổ.
  • Giai đoạn IVC (bất kỳ T, bất kỳ N, M1): Ung thư đã lan đến các phần khác của cơ thể.

Ung thư hầu họng có HPV

  • Giai đoạn I (T0 đến T2, N0 hoặc N1, M0): Khối u có kích thước 4 cm hoặc nhỏ hơn và có thể đã lan đến một vài hạch bạch huyết, nhưng không ở bất kỳ đâu khác trong cơ thể bạn.
  • Giai đoạn II (T0 đến T2, N2, M0 hoặc T3 hoặc T4, N0 đến N2, M0): Khối u có thể lớn hơn 4 cm, đã lan đến nhiều hạch bạch huyết, hoặc đã lan đến epiglottis của bạn.
  • Giai đoạn III (bất kỳ T, N3, M0 hoặc T4, bất kỳ N, M0): Khối u lớn hơn, hoặc ung thư đã lan đến các phần khác của miệng hoặc mặt.
  • Giai đoạn IV (bất kỳ T, bất kỳ N, M1): Ung thư đã lan đến các phần khác của cơ thể.

Các khối u miệng và hầu họng cũng có thể được gán một cấp độ từ một đến bốn. Điều này cho biết mức độ mà các tế bào khối u trông giống như các tế bào khỏe mạnh. Cấp độ càng thấp, khả năng khối u sẽ lan rộng càng ít.

Điều Trị Ung Thư Miệng

Ung thư miệng được điều trị giống như nhiều loại ung thư khác, sử dụng các phương pháp như phẫu thuật để loại bỏ khối u ung thư, xạ trị và các liệu pháp thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư, hoặc kết hợp giữa các phương pháp này.

Người ta khuyến nghị bạn nên gặp nha sĩ ít nhất một tháng trước khi bắt đầu điều trị để giải quyết bất kỳ vấn đề nào về răng hoặc nướu có thể làm khó khăn việc hồi phục của bạn. Điều này cũng sẽ cho bạn thời gian để hồi phục sau các công việc nha khoa.

Phẫu Thuật

Đây thường là lựa chọn đầu tiên cho các loại ung thư trong khoang miệng.

Một bác sĩ phẫu thuật sẽ loại bỏ khối u và bất kỳ mô xung quanh nào chứa tế bào ung thư. Tùy thuộc vào vị trí của nó, họ có thể thực hiện việc này qua miệng của bạn hoặc một vết cắt ở cổ. Bác sĩ của bạn cũng có thể muốn loại bỏ các hạch bạch huyết để đảm bảo ung thư không lan rộng.

Bạn có thể phải cắt bỏ một phần lớn của lưỡi, xương hàm, hoặc nóc miệng. Nếu điều đó xảy ra, bạn cũng có thể được phẫu thuật tái tạo để giúp bạn ăn và nói.

Sau phẫu thuật, bạn có thể cần xạ trị hoặc liệu pháp thuốc để tiêu diệt bất kỳ tế bào ung thư còn lại nào.

Xạ Trị

Đây có thể là một phương pháp điều trị bổ sung sau phẫu thuật, hoặc là phương pháp điều trị chính nếu phẫu thuật không phải là một lựa chọn. Nó cũng là phương pháp điều trị chính cho ung thư họng.

Các tia X mạnh mẽ được tập trung vào vị trí nơi ung thư nằm trong vài phút tại một thời điểm. Đối với ung thư miệng, thông thường, điều trị được thực hiện hàng ngày trong vài tuần. Xạ trị cũng thường được kết hợp với hóa trị, đặc biệt là với ung thư họng.

Liệu Pháp Thuốc

Nhiều loại thuốc chống ung thư có thể được sử dụng như một liệu pháp bổ sung sau phẫu thuật, hoặc cho ung thư miệng hoặc hầu họng đã lan rộng hoặc tái phát sau điều trị.

  • Hóa trị: Điều này liên quan đến các loại thuốc tiêu diệt tế bào ung thư cũng như các tế bào khác. Bạn có thể nhận hóa trị để làm nhỏ khối u trước phẫu thuật, hoặc sau phẫu thuật để tiêu diệt bất kỳ tế bào ung thư còn lại nào. Nó có thể là phương pháp điều trị chính nếu phẫu thuật không phải là một lựa chọn.
  • Liệu pháp miễn dịch: Những loại thuốc này giúp hệ thống phòng thủ tự nhiên của cơ thể bạn nhận diện và tấn công tế bào ung thư. Loại điều trị này được phê duyệt cho ung thư miệng không đáp ứng với hóa trị.

Liệu Pháp Nhắm Đích

Liệu pháp này sử dụng các loại thuốc được thiết kế để chỉ tác động vào tế bào ung thư. Bác sĩ của bạn sẽ kiểm tra các tế bào khối u của bạn để tìm thông tin di truyền nhất định nhằm quyết định loại thuốc nào sẽ hiệu quả nhất. Bạn có thể nhận được liệu pháp này kết hợp với xạ trị hoặc hóa trị.

Hồi Phục Sau Ung Thư Miệng

Điều trị ung thư miệng có thể làm thay đổi diện mạo của bạn và ảnh hưởng đến khả năng ăn uống và nói chuyện của bạn. Trong quá trình hồi phục, bạn sẽ cần sự trợ giúp để quản lý cơn đau và các tác dụng phụ khác, cùng với hỗ trợ dinh dưỡng và tâm lý. Bạn có thể nghe thấy điều này được gọi là chăm sóc giảm nhẹ.

Bạn sẽ có các cuộc hẹn tái khám với bác sĩ và thực hiện các xét nghiệm mỗi vài tháng trong 3 năm đầu tiên để kiểm tra quá trình hồi phục và đảm bảo rằng ung thư không tái phát.

Tác Dụng Phụ Của Điều Trị

Các phương pháp điều trị ung thư miệng có thể làm hư hại mô khỏe mạnh và gây ra các vấn đề sức khỏe mới. Hãy hỏi bác sĩ của bạn về các tác dụng phụ mà bạn có thể mong đợi. Không phải ai cũng gặp phải tất cả các tác dụng phụ, nhưng bạn có thể trải qua:

  • Đau và viêm trong miệng
  • Khó khăn trong việc nhai, nuốt hoặc mở miệng
  • Sưng phù khiến việc thở trở nên khó khăn
  • Thay đổi về phát âm
  • Thay đổi về vị giác
  • Khô miệng, nước bọt đặc, loét miệng và sâu răng do việc cắt bỏ hoặc làm tổn thương các tuyến nước bọt
  • Vấn đề về tuyến giáp
  • Tê tai hoặc vấn đề về thính giác
  • Đỏ hoặc kích ứng da ở các khu vực đang được điều trị bằng xạ trị
  • Vấn đề tiêu hóa bao gồm buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy và táo bón
  • Mệt mỏi
  • Rụng tóc
  • Hệ miễn dịch yếu, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng

Một số tác dụng phụ sẽ biến mất khi bạn hoàn thành điều trị, nhưng những tác dụng phụ khác có thể kéo dài lâu hơn hoặc thậm chí là vĩnh viễn. Hãy cho bác sĩ biết về bất kỳ vấn đề nào bạn đang gặp phải để họ có thể giúp bạn quản lý chúng.

Hỗ Trợ Dinh Dưỡng

Ung thư miệng và các phương pháp điều trị có thể làm cho việc ăn uống trở thành một thách thức. Ngoài cơn đau trong miệng và khó khăn trong việc nhai và nuốt, thực phẩm có thể có vị khác, và bạn có thể không có cảm giác muốn ăn. Điều này có thể dẫn đến giảm cân, yếu ớt và suy dinh dưỡng. Bạn có thể cần một ống ăn trong một thời gian. Bạn cũng có thể làm việc với một chuyên gia dinh dưỡng để tìm ra cách tốt nhất để nhận đủ calo và các chất dinh dưỡng khác trong quá trình hồi phục.

Liệu Pháp Ngôn Ngữ

Một nhà trị liệu ngôn ngữ có thể giúp bạn quản lý cả vấn đề phát âm và khó khăn trong việc nuốt. Nếu điều trị đã gây ra mất thính lực, một nhà thính học có thể giúp bạn tìm ra giải pháp.

Hỗ Trợ Tâm Lý

Thường thì sẽ có lo âu và trầm cảm trong quá trình bạn trải qua điều trị ung thư. Kết nối với người khác qua một nhóm hỗ trợ, dù là trực tiếp hay trực tuyến, có thể rất hữu ích. Bác sĩ của bạn cũng có thể giới thiệu bạn đến một nhân viên xã hội, tư vấn viên hoặc nhà trị liệu có thể giúp bạn đối phó với quá trình này.

Phòng Ngừa Ung Thư Miệng

Các nhà khoa học nghĩ rằng ung thư miệng bắt đầu khi DNA trong các tế bào trong miệng bị hư hại. Nhưng một số yếu tố, bao gồm thói quen sức khỏe của bạn, có thể làm tăng khả năng mắc bệnh. Để giảm nguy cơ ung thư miệng:

  • Tiêm phòng HPV.
  • Không hút thuốc hoặc sử dụng bất kỳ sản phẩm thuốc lá nào. Nếu bạn uống rượu, hãy làm như vậy một cách có chừng mực.
  • Ăn một chế độ ăn uống cân bằng. Việc không ăn đủ trái cây và rau quả đã được liên kết với nguy cơ tăng ung thư miệng.
  • Giới hạn sự tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Việc tiếp xúc lặp đi lặp lại làm tăng nguy cơ ung thư môi. Khi ở ngoài trời, hãy sử dụng kem chống nắng có khả năng chặn UV-A/B trên da và đừng quên môi của bạn.

Sàng lọc định kỳ không thể ngăn ngừa ung thư miệng nhưng có thể phát hiện ung thư sớm khi việc điều trị dễ dàng hơn. Sàng lọc định kỳ có thể bao gồm:

  • Tiến hành tự kiểm tra ít nhất một lần mỗi tháng. Bác sĩ có thể đề nghị điều này nếu bạn hút thuốc hoặc uống nhiều. Đây là những gì bạn có thể làm:
    • Sử dụng ánh sáng sáng và một chiếc gương, nhìn và cảm nhận môi và phần trước của nướu.
    • Ngửa đầu ra phía sau và nhìn và cảm nhận nóc miệng.
    • Kéo má của bạn ra để xem bên trong miệng, niêm mạc má và nướu sau.
    • Kéo lưỡi ra và nhìn vào tất cả các bề mặt; kiểm tra đáy miệng.
    • Nhìn vào phía sau họng.
    • Cảm nhận các khối u hoặc hạch bạch huyết sưng ở cả hai bên cổ và dưới hàm dưới của bạn.
  • Hẹn lịch gặp bác sĩ nha khoa càng sớm càng tốt nếu bạn nhận thấy bất kỳ sự thay đổi nào trong diện mạo của miệng, chẳng hạn như các điểm trắng hoặc loét.

Khám Răng Định Kỳ

Ngay cả khi bạn thực hiện các kiểm tra tự kiểm tra, bạn có thể không phát hiện mọi điểm nguy hiểm. Bạn nên có một cuộc sàng lọc ung thư miệng ít nhất một lần mỗi năm khi bạn đến nha sĩ để làm sạch.

Tóm Tắt

Ung thư miệng thường xuất hiện dưới dạng một vết trắng hoặc loét trong miệng. Mặc dù bất kỳ ai cũng có thể mắc phải, nó chủ yếu liên quan đến việc hút thuốc, uống rượu nặng và nhiễm virus papilloma ở người (HPV). Các phương pháp điều trị bao gồm phẫu thuật, xạ trị và các phương pháp điều trị bằng thuốc như hóa trị. Điều trị dễ hơn nếu được phát hiện sớm, vì vậy hãy đến bác sĩ nha khoa kiểm tra ít nhất mỗi năm một lần.

Câu Hỏi Thường Gặp Về Ung Thư Miệng

Ung thư miệng có thể được chữa khỏi không?

Có, đặc biệt nếu được phát hiện ở giai đoạn sớm khi nó vẫn còn nhỏ và chưa lan rộng.

Tuổi thọ của một người mắc ung thư miệng là bao nhiêu?

Tỷ lệ sống sót rất khác nhau tùy thuộc vào vị trí của ung thư và mức độ tiến triển của nó khi bạn được chẩn đoán. Nếu được phát hiện sớm, 86% người mắc ung thư khoang miệng hoặc họng sẽ sống ít nhất 5 năm. Nếu ung thư đã lan sang các mô, cơ quan hoặc hạch bạch huyết gần đó, tỷ lệ sống sót 5 năm giảm xuống còn 69%.

Xử trí Ong đốt

Ong đốt là một tai nạn trẻ em ở tuổi đi học thường do chọc phá tổ ong và gặp nhiều vào mùa hè. Phần lớn ong đốt là nhẹ ngoại trừ ong vò vẽ.

Biến chứng nguy hiểm có thể gây tử vong ở tất cả loại ong là sốc phản vệ. Riêng ở ong vò vẽ: suy thận cấp, tán huyết, tiểu Myoglobin do tiêu cơ vân, hội chứng suy hô hấp cấp (ARDS), suy đa cơ quan.

CHẨN ĐOÁN

  1. Lâm sàng
    • Hỏi bệnh:
      • Đặc điểm ong:

+  Do người nhà mang con ong đến hay mô tả tổ ong và hình dạng con ong.

+ Ong vò vẽ: thân dài, bụng thon, mình vàng có vạch đen, thường làm tổ trên cây và mái nhà.

  • Thời điểm ong đốt.
  • Tiền sử dị ứng.
  • Khám lâm sàng:
    • Lấy dấu hiệu sinh tồn: nhiệt độ, mạch, huyết áp, nhịp thở. Sốc phản vệ gặp ở tất cả các loại ong, thường xảy ra trong vòng 1-2 giờ đầu. Vì thế cần theo dõi sát trong 6 giờ đầu để phát hiện và xử trí kịp thời sốc phản vệ.
    • Đặc điểm vết đốt và đếm số lượng nốt ong đốt. Tại vết đốt có mẩn đỏ, ngứa, đau. Trong trường hợp:

+ Ong vò vẽ vết đốt có dấu hoại tử trung tâm và thường biến chứng xảy ra khi > 10 vết đốt hoặc tỷ lệ vết đốt/cân nặng > 1,5. Trên 20 vết đốt thường là nặng.

+  Ong mật thường để lại ngòi đốt kèm túi nọc độc.

  • Toàn thân: phù, đỏ da, ngứa toàn thân khi trẻ bị dị ứng nọc ong.
  • Lượng nước tiểu, màu nước tiểu: tiểu ít khi có biến chứng suy thận, nước tiểu màu đen (tiểu Hemoglobin), tiểu đỏ (tiểu máu, tiểu Myoglobin).
  1. Cận lâm sàng

Trường hợp ong vò vẽ đốt > 10 vết đốt:

  • TPTNT, chức năng gan, thận, ion đồ.
  • CPK, myoglobin niệu, hemoglobin niệu.
  1. Chẩn đoán ong vò vẽ đốt
  • Vết đốt: đỏ và có hoại tử trung tâm.
  • Bệnh sử: ong vò ve đốt: ong màu vàng có khoang đen, thường làm tổ trên cây.

ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc điều trị:

  • Phát hiện và điều trị ngay sốc phản vệ.
  • Chăm sóc tại chỗ vết đốt.
  • Điều trị biến chứng.
  1. Tuyến cơ sở
    • Cấp cứu ngừng thở ngừng tim nếu có.
    • Điều trị sốc phản vệ: Adrenalin 1‰ liều 0,3ml (TDD).
    • Sơ cứu vết ong đốt:
      • Dùng kẹp rút ngòi đốt kèm túi nọc ong trên da (ong mật).
      • Rửa sạch, sát trùng da nơi vết ong đốt bằng Alcool Povidin 10%.
    • Điều trị ngoại trú: trong trường hợp không có phản ứng sốc phản vệ, ong mật đốt, ong vò vẽ < 10 vết đốt.
      • Thuốc giảm đau Paracetamol.
      • Hướng dẫn thân nhân cách chăm sóc và theo dõi tại nhà: lượng nước tiểu, dấu hiệu nặng cần tái khám ngay: tiểu ít, thay đổi màu nước tiểu, khó thở.
  • Tiêu chuẩn chuyển viện:
    • Sốc phản vệ sau khi cấp cứu.
    • Ong vò vẽ đốt > 10 vết đốt.
    • Tiều ít, tiểu đỏ hoặc màu đen.
  1. Tuyến huyện, tuyến tỉnh, tuyến trung ương
    • Tiểu Hemoglobine và Myoglobine: thường xuất hiện sau 24-72 giờ do tán huyết (tiểu hemoglobine), hủy cơ (tiểu myoglobine).
      • Thiếu máu cần bù máu (tán huyết, tiểu hemoglobine).
      • Truyền dịch:

+  Tất cả trường hợp có số mũi ong vò vẽ đốt nhiều (> 10 mũi) hoặc có tiểu ít, tiểu đỏ hoặc màu đen.    

+  Lượng dịch tăng hơn nhu cầu (khoảng gấp rưỡi nhu cầu) để tăng thải độc tố ong vò vẽ phòng ngừa suy thận do tiểu Hemoglobin, Myoglobin.

  • Điều chỉnh rối loạn điện giải, đặc biệt chú ý tăng kali máu.
  • Tiểu Myoglobin: kiềm hóa nước tiểu để tăng thải myoglobin qua thận. Dung dịch Dextrose 5% trong 0,45% saline 500ml (Dextrose 10% 250 ml

+ Normalsalin 250 ml), pha thêm 50 ml Natri Bicarbonate 4,2%. Truyền tốc độ 7 ml/kg/giờ đến khi không còn tiểu myoglobine, thường ở ngày thứ 3. Có thể xem xét kết hợp với truyền dung dịch Manitol 20% trong 1-2 ngày đầu, liều 0,5g/kg/lần, chống chỉ định trong trường hợp suy thận, quá tải. Giữ pH nước tiểu > 6,5.

  • Suy thận cấp: suy thận cấp là biến chứng muộn (3-5 ngày) thường gặp ở ong vò vẽ đốt trên 20 mũi. Suy thận là do tổn thương trực tiếp của độc tố trên thận hay do hậu quả tiểu myoglobin hoặc Vì vậy các trường hợp ong vò vẽ đốt trong những ngày đầu phải theo dõi sát lượng dịch nhập, nước tiểu và xét nghiệm TPTNT, chức năng thận mỗi ngày nhất là các trường hợp có tiểu Hemoglobin và myoglobin.
    • Hạn chế dịch, điều trị rối loạn điện giải. Thường suy thận cấp do ong đốt tự hồi phục không di chứng sau 14-21 ngày.

–   Chỉ định lọc thận hay thẩm phân phúc mạc:

+  Phù phổi cấp.

+  Tăng kali máu nặng không đáp ứng điều trị nội khoa.

+  Toan máu không đáp ứng Bicarbonate.

+  Hội chứng urê huyết cao.

  • Suy hô hấp:
    • Suy hô hấp do ARDS xuất hiện sớm trong 24-48 giờ đầu kèm hình ảnh phù phổi trên X-quang nhưng CVP bình thường.
    • Điều trị: thở áp lực dương liên tục qua mũi (NCPAP) hay thở máy với PEEP cao 6 – 10 cm H2O
  • Suy đa cơ quan:
    • Lọc máu liên tục có tác dụng lấy bớt độc tố ong và các cytokine.
    • Hiệu quả, cứu sống nhiều bệnh nhân bị ong vò vẽ đốt kèm tổn thương đa cơ quan.
    • Cần xem xét chỉ định lọc máu sớm ngay khi bệnh nhân có biểu hiện tổn thương ≥ 2 cơ quan.
  • Điều trị rối loạn điện giải, đặc biệt tăng kali máu do tán huyết hủy cơ, suy thận
  • Kháng sinh:
    • Nếu có nhiễm trùng vết đốt hay do ong vò vẽ đốt > 10 mũi: kháng sinh Cephalosporin thế hệ 1: Cephalexin 25 – 50 mg/kg/ngày (U), chia 3 – 4 lần.
    • Nếu có bằng chứng nhiễm trùng toàn thân như sốt, bạch cầu tăng chuyển trái hoặc tổn thương đa cơ quan: Cefazolin 50 – 100 mg/kg/ngày TM, cần giảm liều khi suy thận.
  • Corticoid: không chỉ định thường qui, chỉ dùng khi có phản ứng phản vệ.
  • Lọc máu liên tục:
    • Chỉ định:

+  Suy thận kèm huyết động học không ổn định.

+  Tổn thương ≥ 2 cơ quan.

  • Theo dõi:
    • Dấu hiệu sinh tồn, lượng nước tiểu, màu sắc nước tiểu.
    • Lượng xuất nhập, cân nặng mỗi ngày khi biểu hiện thiểu niệu.
    • Ion đồ, TPTNT

PHÒNG NGỪA

  • Phá bỏ tổ ong ngay khi phát hiện.
  • Không cho trẻ đến gần hoặc chọc phá tổ ong.

Chẩn đoán đau thắt ngực

Bạn có thể cần thực hiện một số xét nghiệm để chẩn đoán đau thắt ngực.

Gặp bác sĩ

Nếu bạn gặp bác sĩ sau một cơn đau ngực, họ có thể hỏi về:

  • các triệu chứng bạn đã gặp
  • bạn đã làm gì khi các triệu chứng bắt đầu
  • lối sống của bạn – ví dụ, chế độ ăn uống của bạn như thế nào và bạn có hút thuốc hoặc uống rượu không
  • tiền sử y tế của gia đình bạn – các vấn đề về tim có thể xuất hiện trong gia đình

Họ cũng có thể thực hiện một số kiểm tra để đánh giá khả năng bạn có vấn đề về tim, chẳng hạn như:

  • đo huyết áp của bạn
  • tính chỉ số khối cơ thể (BMI) của bạn – điều này bao gồm việc đo cân nặng và chiều cao của bạn
  • đo kích thước vòng eo của bạn
  • xét nghiệm máu để kiểm tra mức cholesterol (chất béo trong máu) của bạn

Nếu họ nghĩ bạn có thể bị đau thắt ngực hoặc một vấn đề về tim khác, họ có thể chuyển bạn đến bệnh viện để làm một số xét nghiệm.

Xét nghiệm tại bệnh viện

Bạn có thể thực hiện các xét nghiệm để kiểm tra xem bạn có bị đau thắt ngực hay không và đánh giá nguy cơ gặp phải các vấn đề nghiêm trọng hơn như nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ.

Bạn có thể thực hiện:

  • điện tâm đồ (ECG) – một xét nghiệm để kiểm tra nhịp tim và hoạt động điện của tim
  • chụp động mạch vành – một xét nghiệm chụp được thực hiện sau khi tiêm thuốc nhuộm để làm nổi bật tim và mạch máu của bạn
  • điện tâm đồ trong khi tập thể dục – một ECG được thực hiện trong khi bạn đang đi bộ trên máy chạy bộ hoặc sử dụng xe đạp tập
  • xét nghiệm máu

Điều gì xảy ra nếu bạn bị đau thắt ngực

Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo phụ thuộc vào loại đau thắt ngực mà bạn được chẩn đoán.

Có 2 loại chính:

  • Đau thắt ngực ổn định (loại phổ biến nhất) – các cơn đau có một yếu tố kích thích (chẳng hạn như tập thể dục) và cải thiện với thuốc và nghỉ ngơi.
  • Đau thắt ngực không ổn định (loại nghiêm trọng hơn) – các cơn đau không thể đoán trước và có thể tiếp tục mặc dù đã nghỉ ngơi.

Nếu bạn có đau thắt ngực ổn định, bạn sẽ được kê đơn thuốc để điều trị các cơn đau khi chúng xảy ra và giảm nguy cơ xảy ra các cơn đau tiếp theo.

Nếu bạn có đau thắt ngực không ổn định, bạn có thể cần phải ở lại bệnh viện lúc đầu. Một số kiểm tra sẽ được thực hiện để đánh giá khả năng bạn có thể gặp phải cơn đau khác và giúp quyết định phương pháp điều trị tốt nhất.

3TC – Lamivudine (Epivir™) – thuốc điều trị HIV

3TC – Lamivudine (Epivir) là thuốc nhóm NRTI thứ 5 được cấp phép ở châu Âu vào tháng 8/2006.  Nó là một dẫn xuất của cytidine có khả năng dung nạp rất tốt nhưng nhược điểm chính của thuốc là khả năng bị kháng nhanh, chỉ cần đột biến ở một vị trí (M184V) là đủ để thuốc mất hiệu lực. Đột biến này dẫn tới kháng thuốc sau chỉ một vài tuần nếu dùng đơn trị (Eron 1995). Tác dụng đầy đủ của 3TC chỉ thể hiện rõ khi nó được phối hợp với các NRTI khác. Nằm trong thành phần của Combivir™ và Trizivir™ nên 3TC trở thành thuốc kháng virus được dùng nhiều nhất. Thực vậy, một số nghiên cứu lớn như NUCB 3002 hoặc CAESAR đã chứng tỏ tác động làm chậm diễn biến bệnh và cải thiện tiên lượng tử vong khi phối hợp thêm 3TC vào liệu trình điều trị chứa NRTI (Staszewski 1997).

Đột biến ở vị trí M184V thậm chí có thể làm  tăng tính nhạy cảm của một số chủng virus kháng AZT và còn làm suy yếu virus (Miller 2002). Duy trì 3TC đơn trị ở những bệnh nhân đã điều trị nhiều loại thuốc và có đột biến M184V dẫn đến làm giảm mức tăng tải lượng virus và làm chậm quá trình giảm số lượng CD4 so với việc dừng hoàn toàn HAART (xem mục “Phác đồ cứu  cánh”).  Để 3TC trong thành phần của thuốc phối hợp cho dù đã biết nó đã bị kháng giúp bảo tồn đột biến ở vị trí M184V và do vậy làm giảm khả năng nhân bản của HIV.

Trong nghiên cứu Atlantic, 3TC phối hợp cùng với d4T+ddI tỏ ra kém hiệu quả về mặt virus so với indinavir hoặc nevirapine (Van Leeuwen 2003). Phối hợp với abacavir và tenofovir nay cũng không còn được khuyến cáo (xem mục “Triple Nuke”). Độ mạnh kháng virus của thuốc tương đương với “đối thủ chính” FTC (Rousseau 2003, Benson 2004).

Cho dù thời gian bán hủy ngắn hơn so với FTC, liều dùng một lần mỗi ngày cũng đã được cấp phép (DeJesus 2004). Một tác dụng có lợi khác nữa là 3TC có hiệu lực kháng virus viêm gan B dù rằng tác dụng này cũng bị hạn chế vì thuốc dễ bị kháng nhanh.

Khi nào cần sử dụng kháng sinh và cách sử dụng

Kháng sinh là các loại thuốc dùng để điều trị hoặc ngăn ngừa một số loại nhiễm trùng do vi khuẩn. Chúng hoạt động bằng cách tiêu diệt vi khuẩn hoặc ngăn chúng lan rộng. Tuy nhiên, kháng sinh không có tác dụng với mọi bệnh.

Nhiều bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn nhẹ có thể tự khỏi mà không cần sử dụng kháng sinh.

Kháng sinh không có tác dụng với các bệnh do virus như cảm lạnh, cúm và hầu hết các trường hợp ho.

Kháng sinh hiện nay không được sử dụng thường xuyên để điều trị:

  • Nhiễm trùng đường hô hấp
  • Nhiễm trùng tai ở trẻ em
  • Viêm họng

Khi sử dụng kháng sinh, hãy làm theo lời khuyên của bác sĩ để biết bạn có cần dùng hay không. Kháng sinh kháng thuốc là một vấn đề lớn – việc dùng kháng sinh khi không cần thiết có thể khiến thuốc không còn hiệu quả với bạn trong tương lai.

Khi nào cần sử dụng kháng sinh

Kháng sinh có thể được sử dụng để điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn nếu:

  • Không thể tự khỏi mà không cần kháng sinh
  • Cần quá lâu để khỏi nếu không điều trị
  • Có nguy cơ gây ra biến chứng nghiêm trọng
  • Có khả năng lây nhiễm cho người khác

Bạn vẫn có thể lây nhiễm sau khi bắt đầu dùng kháng sinh. Tùy thuộc vào loại nhiễm trùng và cách điều trị, có thể mất từ 48 giờ đến 14 ngày để ngừng lây nhiễm. Hãy hỏi ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ để được tư vấn.

Những người có nguy cơ cao bị nhiễm trùng cũng có thể được dùng kháng sinh để phòng ngừa, được gọi là kháng sinh dự phòng.

Cách sử dụng kháng sinh

Dùng kháng sinh theo chỉ dẫn trên bao bì hoặc tờ hướng dẫn sử dụng đi kèm với thuốc, hoặc theo chỉ dẫn của bác sĩ hoặc dược sĩ.

Kháng sinh có thể được sử dụng dưới dạng:

  • Viên nén, viên nang hoặc dung dịch uống – thường được dùng để điều trị hầu hết các loại nhiễm trùng nhẹ đến trung bình trong cơ thể
  • Kem, lotion, xịt và nhỏ giọt – thường được sử dụng để điều trị nhiễm trùng da và nhiễm trùng mắt hoặc tai
  • Tiêm – có thể tiêm hoặc truyền trực tiếp vào máu hoặc cơ, được dùng cho các nhiễm trùng nghiêm trọng hơn

Nếu bỏ lỡ một liều kháng sinh

Nếu bạn quên uống một liều kháng sinh, hãy kiểm tra tờ hướng dẫn sử dụng đi kèm với thuốc để biết cần làm gì. Nếu bạn không chắc chắn, hãy hỏi dược sĩ hoặc bác sĩ.

Trong hầu hết các trường hợp, bạn có thể uống liều đã quên ngay khi nhớ ra, sau đó tiếp tục liệu trình dùng kháng sinh như bình thường.

Nhưng nếu gần đến giờ uống liều tiếp theo, hãy bỏ qua liều đã quên và tiếp tục theo lịch dùng thuốc bình thường. Không nên uống liều gấp đôi để bù cho liều đã quên.

Nếu uống nhầm một liều

Nguy cơ gặp phải tác dụng phụ sẽ tăng lên nếu bạn uống 2 liều gần nhau hơn thời gian khuyến cáo.

Việc uống nhầm một liều kháng sinh thường không gây hại nghiêm trọng.

Tuy nhiên, điều này có thể làm tăng khả năng xuất hiện các tác dụng phụ, chẳng hạn như đau bụng, tiêu chảy và buồn nôn hoặc nôn.

Nếu bạn uống nhầm nhiều hơn 1 liều kháng sinh, lo lắng hoặc gặp phải tác dụng phụ nghiêm trọng, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc gọi NHS 115 ngay lập tức.

Tác dụng phụ của kháng sinh

Như bất kỳ loại thuốc nào, kháng sinh có thể gây ra tác dụng phụ. Hầu hết các loại kháng sinh không gây ra vấn đề nếu được sử dụng đúng cách và tác dụng phụ nghiêm trọng hiếm khi xảy ra.

Các tác dụng phụ phổ biến bao gồm:

  • Buồn nôn
  • Cảm giác buồn nôn
  • Đầy bụng và khó tiêu
  • Tiêu chảy

Một số người có thể bị dị ứng với kháng sinh, đặc biệt là penicillin và một loại kháng sinh khác gọi là cephalosporin.

Trong những trường hợp rất hiếm, điều này có thể dẫn đến phản ứng dị ứng nghiêm trọng (sốc phản vệ), đây là một tình huống cấp cứu y tế.

Những lưu ý và tương tác

Một số loại kháng sinh không phù hợp với những người có vấn đề về sức khỏe nhất định, hoặc phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú.

Hãy thông báo cho nhân viên y tế biết nếu bạn đang mang thai hoặc cho con bú để họ có thể kê đơn loại kháng sinh phù hợp nhất cho bạn.

Chỉ nên uống kháng sinh được kê cho bạn – không bao giờ “mượn” từ người khác.

Một số kháng sinh không tương hợp tốt với các loại thuốc khác, chẳng hạn như thuốc tránh thai và rượu.

Các loại kháng sinh

Có hàng trăm loại kháng sinh khác nhau, nhưng hầu hết có thể được phân loại thành 6 nhóm chính.

Nga bất thực thảo

Nga bất thực thảo
Nga bất thực thảo

Nga bất thực thảo (鹅不食草)

Tên và nguồn gốc

+ Tên thuốc: Nga bất thực thảo

+ Tên khác: Thực hồ tuy (食胡荽), Dã viên tuy (野园荽), Kê trường thảo (鸡肠草), Nga bất thực (鹅不食), Địa nguyên tuy (地芫荽), Mãn thiên tinh (满天星), Sa phi thảo (沙飞草), Địa hồ tiêu (地胡椒), Đại cứu giá (大救驾) v.v…

+ Tên Trung văn: 鹅不食草 EBUSHICAO

+ Tên Anh Văn: SmallCentipedaHerb

+ Tên La tinh:

Dươc liệu HerbaCentipedae; Centipedaminima(L.)A.Br.EtAschers.nguồn gốc thực vật.

+ Nguồn gốc: Là tòan thảo kèm hoa của Thạch hồ tuy, thực vật họ Cúc (Composite.)

Nga bất thực thảo Centipeda minima

Dược liệu Nga bất thực thảo HERBA CENTIPEDAE

 Phân bố

Các vùng Chiết Giang, Hồ Bắc, Giang Tô, Quảng Đông v.v…của Trung Quốc.

Bào chế

Rửa sạch tạp chất, cắt khúc, phơi khô.

Tính vị

– Trung dược học: Cay, ấm.

– Lý sàm nham bản thảo: Âm, không độc.

– Y lâm tỏan yếu: Cay đắng. Ấm.

Qui kinh

– Trung dược học: Vào kinh Phế, Can.

– Đắc phối bản thảo: Vào khí phận kinh Thủ thái âm.

Công dụng và chủ trị

– Công dụng và chủ trị: Phát tán phong hàn, thông tỵ khiếu, cầm ho, giải độc.

Trị cảm mạo, hen lạnh, hấu tý, ho gà, sa khí bụng đau, lỵ Amip, sốt trét, cam tả, tỵ uyên, tỵ tức nhục, mắt màng sáp ngứa, nhọt ống chân, ghẻ lở, té đánh.

– Bản thảo thập di: Trừ màng mắt, ấn nhét trong mũi, mây màng tự rụng.

– Tứ thanh bản thảo: Thông tỵ khí, lợi cửu khiếu, nôn phong đờm.

– Cương mục: Giải độc, sáng mắt, tán sưng đỏ mắt, mây màng mắt, ù tai, đầu đau não nhức, trị đờm ngược kêu ngáy, mũi nghẹt không thông, nhét mũi polip tự rụng, còn tán nhọt sưng.

– Y lâm tỏan yếu: Thông uất, trừ hàn, hết sốt rét, cầm lỵ. Dùng bột co giật mũi, có thể phát hắt hơi trừ hàn uất.

– Sinh thảo dược tính bị yếu: Trị té đánh gảy xương, ngừng đau tiêu sưng.

– Thực vật danh thực đồ khảo: Trị sa chứng.

– Quảng Tây dược thực đồ chí: Trị cam tích.

– Quảng Tây Trung dược vật: Trị hầu độc.

– Quảng Đông Trung dược II: Trị ho gà.

– Thường dùng Trung thảo dược thủ sách – Quảng Châu bộ đội: Trị lưng chân đau phong thấp.

 Cách dùng và liều dùng

Sắc uống 6 ~10g. Dùng ngòai lượng thích hợp.

 Nghiên cứu hiện đại

  1. Thành phần hóa học:Trong tòan thảo hàm chứa nhiều lọai thành phần triterpene, taraxerol, taraxasterol, arnidiol và 1 lọai chưa biết C30H5002, còn hàm chứa stigmasterol, sitosterol, flavonoid, dầu bay hơi, organic acid v.v…(Trung dược đại từ điển).
  2. Tác dụng dược lý:

Thành phần dầu bay hơi và dịch chiết cồn của nó có tác dụng trừ đờm, cầm ho, bình suyễn. Thuốc sắc nước 50% có thể ức chế sinh trưởng trực khuẩn lao, và đối với gốc khuẩn thực nghiệm trực khuẩn bạch hầu, khuẩn cầu chùm sắc vàng kim, khuẩn cầu chùm sắc trắng, khuẩn liên cầu thể A B, khuẩn song cầu viêm phổi, khuẩn cầu catarrh, trực khuẩn thương hàn, trực khuẩn bệnh lỵ họ Phúc và họ Tống, trực khuẩn đại trường, trực khuẩn mủ xanh v.v…đều có mẫn cảm cao độ. Dịch chưng cất của nó ở nồng độ 1: 8400 có tác dụng ức chế virut cúm (Trung dược học).

Bài thuốc cổ kim tham khảo

+ Phương thuốc 1:

Trị thương phong đau đầu, nghẹt mũi, màng mắt: Nga bất thực thảo (tươi hoặc khô đều được) vò xát, ngửi mùi của nó, sẽ hắt hơi, mỗi ngày 2 lần.

(Qúi Dương dân gian dược thảo)

+ Phương thuốc 2:

Trị hàn đờm ngáy suyễn: Dã viên tuy nghiền lấy nước hòa rượu uống.

(Tần hồ tập giản phương)

+ Phương thuốc 3:

Tị não lậu: Thạch hồ tuy tươi giã nát, nhét trong lổ mũi.

(Chiết Giang dân gian thảo dược)

+ Phương thuốc 4:

Trị bệnh mắt sưng trướng đỏ, mắt mờ không rõ, đau nhức rít bên trong. Phong ngứa, mũi nghẹt, đau đầu, nhức não, mây màng kéo che mắt, ghèn nứơc mắt đặc dính: Nga bất thực thảo 2 chỉ, Thanh đại 1 chỉ, Xuyên khung 1 chỉ, Xuyên khung 1 chỉ nghiền nhỏ, trước ngậm nước đầy miệng, mỗi lần dùng bột chút ít hít vào trong mũi, để nước mắt chảy ra là độ. Bất kễ lúc nào.

(Nguyên cơ khải vi – Súc tị bích vân tán)

+ Phương thuốc 5:

Trị Tỳ hàn sốt rét: Thạch hồ tuy 1 nắm, chày giã nước nửa chén, thêm vào rượu nửa chén, hòa uống.

(Tần hồ tập giản phương)

+ Phương thuốc 6:

Trị tiêu chảy cam tích: Thạch hồ tuy 3 chỉ. Sắc nước uống.

(Hồ Nam dược vật chí)

+ Phương thuốc 7:

Trị trĩ sang sưng đau: Thạch hồ tuy giã dán vậy.

(Tần Hồ tập giản phương)

+ Phương thuốc 8:

Trị ngưu bì tiển: Nga bất thực thảo giã thoa.

(Qúy Dương dân gian dược thảo)

+ Phương thuốc 9:

Trị sưng đau té đánh: Nga bất thực thảo lượng vừa phải, giã nát, sao nóng, đắp vào nơi đau.

(Quảng Châu dân gian thường dùng Trung thảo dược)

+ Phương thuốc 10:

Trị chai chân: Trước gọt bằng lớp da dày chai chân, dùng Thạch hồ tuy tươi giã nát đắp vào chổ bệnh, 3 ~ 5 ngày lấy ra.

(Triết Giang dân gian thường dùng thảo dược)

+ Phương thuốc 11:

Trị chấn thương sái lưng cấp tính, Nga bấ thực thảo 15g (tươi 30g), rượu gao 50ml. Trước lấy Nga bất thực thảo thêm nước độ 400ml, sắc còn 200ml, cho vào rượu gạo 1 lần uống, mỗi ngày 1lần, thường 1 ~ 3 lần là có thể trị khỏi, dùng liên tục dùng 3 lần vô hiệu thì đổi dùng phương pháp khác.

(Phép điều trị dân gian Trung Quốc, 2000, 10: 31)

+ Phương thuốc 12:

Trị đục thủy tinh thể ở người già thời kỳ chưa chín, Nga bất thực thảo 5 phần, Băng phiến 1 phần, tất cả nghiền bột, đóng vào chai để sẳn dùng. Lúc dùng lấy tăm bông sạch chấm thuốc chút ít nhét vào trong mũi, nhẹ nhành chuyển động cây bông tăm, bột thuốc sẽ lưu trong xoang mũi, lấy cây bông tăm ra. 1 ngày 3 ~ 5 lần, 30 ngày là 1 liệu trình, sau 3 liệu trình đánh giá hiệu quả điều trị. Trong điều trị phối hợp uống Kỉ Cúc Địa hòang hòan, kỵ ăn đồ cay nóng kích thích, giữ tâm trạng thỏai mái..

(Tạp chí Trung y Sơn Đông, 1996, 8: 359)

Đởm khí hư

Chứng Đởm khí hư là chỉ Đởm khí hư có những chứng hậu chủ yếu như Đảm khiếp, kinh hãi; Bệnh phần nhiều do thất tình nội thương, hoặc khí hư liên lụy đến Đởm phủ gây nên.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là đởm khiếp, sợ sệt, dễ bị hãi sợ gặp công việc thì thiếu quyết đoán, đêm ngủ không yên, hay mê, đoản hơi yếu sức hoặc kiêm chứng đầu mắt choáng váng, mắt nhìn lờ mờ, mạch Huyền Tế, chất lưỡi đỏ nhạt.

Chứng Đởm khí hư thường gặp trong các bệnh Kinh quý, Bất mị, Điên cuồng, Uất chứng, Quyết chứng.

Cần chẩn đoán phân biệt với các chứng Tâm Đởm bất ninh, chứng Can khí hư.

Phân tích

– Chứng Đởm khí hư có thể gặp trong nhiều tật bệnh, như bệnh Kính Quý xuất hiện chứng này, biểu hiện là choáng váng buồn nôn, đởm khiếp dễ sợ, nằm ngồi không yên, hư phiền không ngủ được, hay thở dài, mắt nhìn lờ mờ, phiền táo, nhiều đờm, kém ăn, lợm giọng, mạch Huyền Tế, rêu lưỡi nhớt, bệnh do thất tình nội thương, khí cơ nghịch loạn, đàm nhiệt quấy nhiễu ở trên gây nên, điều trị theo phép hoá đàm giáng trọc, ôn Đởm yên thần, cho uống bài Ôn đởm thang (Thiên kim phương) gia giảm.

– Chứng Đởm khí hư gặp trong bệnh Bất mị biểu hiện chứng trạng mất ngủ hay mê, dễ sợ hãi, đởm khiếp hồi hộp, đoản hơi mệt mỏi, tiểu tiện trong dài, chất lưỡi đỏ nhạt, mạch Huyền Tế. Mục Bất mị sách Thẩm thị tôn sinh thư viết: “Tâm Đởm đều khiếp hãi, động đến việc là sợ, mê lắm điều không lành, hư phiền mất ngủ”; Đây là do thể chất hư yếu. Đởm khí vốn hư, hoặc do đột ngột sợ hãi gây nên; Điều trị nên ích khí trấn kinh, An thần định trí, cho uống bài An thần định trí hoàn (7 học tâm ngộ) hoặc Toan tảo nhân thang (Kim Quỹ yếu lược). Trong bệnh Điên cuồng gặp chứng Đởm khí hư, biểu hiện chứng trạng tinh thần thất thường, trầm mặc si ngốc, sợ sệt dễ kinh, nói năng lộn xộn, hoặc phiền táo mất ngủ, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch Hoạt Sác; Đây là do tư lự thái quá. Đởm khí hư khiếp, tâm thần không yên; đờm khí uất mà hoá nhiệt gây nên; Điều trị nên thanh nhiệt quét đàm, yên thần định trí, cho uống bài Ôn đởm thang, linh hoạt gia các vị trọng trấn an thần như Từ thạch, Đại giả thạch sống, Chu sa v.v…

– Trong Uất chứng Đởm khí hư, thường có biểu hiện tâm tình ức uất, tinh thần hoảng hốt, động làm việc thì sợ sệt, hay buồn khóc, chất lưỡi đỏ nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Huyền Tế, Mỗi khi do tình chí bất toại, Can khí uất kết, liên luỵ đến Đởm phủ thì gây nên chứng này; Điều trị nên giải uất lý khí, dưỡng tâm an thần, cho uống Việt cúc hoàn(Đan Khê tâm pháp) hợp với Cam mạch Đại táo thang (Kim Quỹ yếu lược) gia giảm.

Chứng đởm khí hư lâu ngày chữa không đúng phép, thường ảnh hưỏng đến Tâm khí, dẫn đến chứng Tâm Đởm khí hư, có chứng trạng kinh quí chính xung; Đởm với Can cùng biểu lý; Đởm khí hư thường dễ phát triển thành Can Đởm khí hư, có những chứng trạng dưới sườn đau âm ỉ, gân mạch co rút, tai ù tai điếc v.v…

Chẩn đoán phân biệt

– Chứng Can khí hư và chứng Đởm khí hư: Can chủ sơ tiết, cùng biểu lý với Đởm. Chứng Đởm khí hư phần nhiều do Can mặt sự điều đạt sơ tiết gây nên; vả lại cả hai đều thuộc khí hư, rất dễ lẫn lộn. Nhưng Can khí hư thường do thất tình uất kết, hoặc là từ cơ sở Can huyết hư phát triển nên; Cho nên có các chứng trạng ưu uất ít nói, mệt mỏi lười biếng, đau đầu đau sườn, mắt nhìn không tỏ. Còn Đởm khí hư chủ yếu là tình chí nội thương cho nên có các chứng trạng dễ sợ hãi, mất ngủ hay mê, hoặc kiêm chứng choáng đầu, hoa mắt nhưng không nghiêm trọng lắm, nên phân biệt:

– Chứng Tâm Đởm không yên với chứng Đởm khí hư: Cả hai chứng đều có thể có chứng trạng tình chí không điều hoà, giấc ngủ không yên. Chứng Tâm Đởm không yên có thuộc thực thuộc Hư khác nhau: Có thể do Tâm khí hư yếu liên lụy đến Đởm; Hoặc do Đởm khí hư dẫn đến Tâm khí cũng hư, hình thành Hư chứng Tâm Đởm bất ninh, có chứng trạng sợ sệt hoảng hốt, đêm ngủ không thành giấc; Cũng có khi do đờm nhiệt nghẽn ở trong, Đởm khí bị uất mà hoá hoả, quấy rối tâm thần dẫn đến Thực chứng Tâm Đởm không yên, có chứng trạng tâm phiền miệng khát, có lúc nóng nẩy cáu giận, đầu lưỡi đỏ. Chứng Đởm khí hư là do Đởm khí bất túc hình thành, đơn thuần thuộc Hư chứng, có chứng trạng Đởm khiếp, hồi hộp, mắt hoá đầu choáng, mất ngủ hay mê… Đó là những căn cứ để phân biệt.

Trích dẫn y văn

– Đầu choáng mà sơ, mạch Huyễn vô lực, thuộc Đởm hư, cho uống Lục quân tử thang ?ia Sài hồ, Phòng phong, Đương qui, đồng thời cho uống thêm Gia giảm Bát vị hoàn, Đởm hư mắt mờ, họng đau hay nhổ nước bọt, mắt hoa, choáng váng, mặt kém tươi, nằm mê hay tranh cãi, sợ sệt thì mặt biến sắc cho uống Bổ Đởm phòng phong thang (Khủng – Trương thị y thông).

– Nằm ngủ có nhiều mộng mị sợ hãi và đái dầm, uống Bổ Đởm phòng phong thang gia Khương hoạt, Quế chi; Đây là do Hạ tiêu nhiễm phong hàn, nên dùng thuốc trị phong để lưu thông kinh mạch (Kinh – Trương thị Y thông).