Blog Trang 582

Rắn hổ mèo cắn – triệu chứng, xử trí cấp cứu

1. ĐẠI CƯƠNG

Rắn hổ mèo có tên khoa học là Naja siamensis (tiếng Anh là Indochinese spitting cobra), thuộc họ rắn Hổ (Elapidae family). Rắn có màu vàng xanh nhạt, dài khoảng 0,2 – 1,5 m, nặng 100 – 3000g, có thể phình mang (có hình hai mắt kính nhưng không có gọng kính), dựng đầu cao và phun được nọc rắn. Rắn thường sống vùng cao, khô ráo như các ụ mối, hang hốc hoặc xung quanh nhà như dưới các đóng củi, dưới chuồng gà hay chuồng heo, các hang hốc quanh nhà để tìm kiếm mồi dễ dàng và gây tai nạn.

2.  NGUYÊN NHÂN – DỊCH TỄ HỌC

Đây là loại rắn độc rất nguy hiểm thường xảy ra tai nạn ở các nước vùng nhiệt đới ở Đông Nam Á: Mi An Ma, Thái Lan, Lào, Cam Pu Chia và Việt Nam. Ở nước ta, rắn hổ mèo thường gặp ở các tỉnh vùng Đông Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Rắn hổ mèo cắn chiếm tỉ lệ 10% các trường hợp rắn độc cắn nhập bệnh viện Chợ Rẫy, gây tử vong hoặc để lại nhiều di chứng gây nên tàn phế vì chưa có HTKN. Nọc rắn hổ mèo có nhiều độc tố trong đó độc tố tế bào chiếm tỉ lệ cao nhất gây ra các triệu chứng toàn thân trên lâm sàng khi bị rắn cắn nhưng không gây nhiễm độc thần kinh.

3. CHẨN ĐOÁN

Lâm sàng

  • Hỏi bệnh sử bệnh nhân bị rắn cắn, vùng dịch tễ và dựa trên con rắn đã cắn được mang đến bệnh viện xác định là rắn hổ mèo
  • Các triệu chứng lâm sàng tại chỗ: Bệnh nhân sau bị rắn hổ mèo cắn rất đau (chiếm tỉ lệ 100% các trường hợp). Sưng nề chi bị cắn (100%) và lan nhanh gây hoại tử vết cắn (88,2%). Bóng nước (17,6%) thường xuất hiện muộn hơn do sưng nề nhanh, thường gặp tại vết hoại tử hay quanh các nếp gấp tự nhiên như cổ tay, khuỷu Các bóng nước đa dạng, có màu đen và rất hôi. Hoại tử thường lan rộng theo dẫn lưu của bạch mạch lên toàn bộ chi bị cắn nên thường phải cắt lọc vết thương rộng sau đó ghép da hay xoay vạt da. Ngoài ra, bệnh nhân có thể gặp tình huống viêm kết -giác mạc do nọc rắn phun vào mắt (11,8%).
  • Các triệu chứng toàn thân: Sau khi bị rắn hổ mèo cắn, bệnh nhân thường có cảm giác mệt, yếu (70,6%), nôn ói (52,9%), đau bụng (52,9%), tiêu chảy (47,1%), mờ mắt (17,6%), chóng mặt (17,6%), nhức đầu (23,5%) và đau cơ (82,4%). Các triệu chứng shock (5,9%), nhịp tim nhanh (17,6%) và suy thận cấp (11,8%) xuất hiện chậm hơn sau nhiều giờ đến nhiều ngày sau. Các triệu chứng này xuất hiện càng nhanh mức độ nhiễm độc toàn thân càng nặng. Không ghi nhận được triệu chứng nhiễm độc thần kinh (liệt cơ). Bệnh nhân có cảm giác khó thở (23,5%) nhưng không có suy hô hấp. Các trường hợp suy hô hấp thường xảy ra ở giai đoạn cuối rất nặng do suy đa cơ quan.

Cận lâm sàng

  • Xét nghiệm đông máu toàn bộ xác định có tình trạng rối loạn đông cầm máu trong trường hợp nặng: TC (Lee White), PT và aPTT kéo dài. Tiểu cầu không giảm. Định lượng fibrinogen/máu bình thường và co cục máu không
  • Xét nghiệm công thức máu bình thường. Số lượng bạch cầu máu tăng cao trong giai đoạn sớm sau cắn phản ánh mức độ nặng của bệnh.
  • Các xét nghiệm về sinh hoá: BUN, creatinin, AST, ALT, ion đồ trong giới hạn bình thường. CPK, LDH, CKMB tăng rất cao nhưng Troponin I không tăng hoặc tăng nhẹ. Suy thận cấp với BUN, creatinine tăng hay gặp trong giai đoạn nôn ói, tiêu chảy kéo dài. Myoglobine máu và niệu tăng
  • Các xét nghiệm vi sinh: Cấy dịch vết thương và bóng nước thường gặp các vi khuẩn Morganella morganii morganii, Proteus vulgaris, Providencia sp đề kháng với các kháng sinh colistin, amoxicillin+acid clavulanic, doxycyclin và cefuroxim.

Chẩn đoán xác định:

Dựa vào các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng, dịch tễ rắn hổ mèo và con rắn bệnh nhân mang đến bệnh viện xác định là rắn hổ mèo.

Phân độ lâm sàng:

Dựa trên các dấu hiệu tại chỗ, toàn thân và xét nghiệm:

  • Không nhiễm độc: Có dấu răng, không có triệu chứng tại chỗ và toàn thân. Xét nghiệm bình thường
  • Nhiễm độc nhẹ (5,9%): Có dấu răng, có triệu chứng tại chỗ (đau nhẹ, sưng không quá 01 khớp, vòng chi nơi lớn nhất không quá 2cm và không hoại tử) và không có dấu hiệu toàn thân. Xét nghiệm trong giới hạn bình thường.
  • Nhiễm độc trung bình (58,8%): có dấu răng, có triệu chứng tại chỗ (đau, sưng quá 02 khớp, vòng chi nơi lớn nhất 2-4cm và hoại tử < 2cm2) và không có dấu hiệu toàn thân. Xét nghiệm CPK, LDH, myoglobine máu và nước tiểu tăng nhẹ.
  • Nhiễm độc nặng (35,3%): dấu răng, có triệu chứng tại chỗ (đau, sưng quá 02 khớp hoặc sưng nề lan đến thân mình, vòng chi nơi lớn nhất >4cm và hoại tử lan rộng >2cm2) và dấu hiệu toàn thân rầm rộ. Xét nghiệm đông máu có rối loạn; CPK, LDH, myoglobine máu và niệu tăng

Chẩn đoán phân biệt:

Các loài rắn độc khác trong họ rắn hổ như:

  • Rắn hổ đất (Naja kaouthia, monocelate cobra): thường gặp ở miền Tây Nam Bộ. Hình dạng rắn: mặt cổ lưng có một vòng tròn (một mắt kính, không gọng kính), mặt cổ bụng có 3 khoang đen (hoặc nâu) nên còn được gọi là rắn ba Lâm sàng có tình trạng nhiễm độc thần kinh gây suy hô hấp nổi bật.
  • Rắn hổ mang bành (Naja atra), thường gặp miền Bắc, Hình dạng rắn: Có một vòng tròn ở mặt cổ lưng nhưng có vạch 2 bên như 2 gọng kính (một mắt kính, 2 gọng kính). Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng như rắn hổ mèo nhưng nhiễm độc thần kinh nổi bật.
  • Rắn hổ chúa (Ophiophagus hannah, King cobra) thường gặp ở cả nước. Hình dạng rắn: rắn lớn nhất trong các loài rắn trên thế giới, có thể dài đến 10m và nặng Rắn có màu vàng hoặc đen. Vẩy đầu có 2 vẩy cổ lớn. Khi rắn dựng đầu lên, phình mang dài nhưng hẹp. Các triệu chứng lâm sàng và xét nghiệm tương tự rắn Hổ mèo nên khó phân biệt nhưng diễn tiến lâm sàng rất nhanh và nặng. Triệu chứng tại chỗ thường bị cắn bởi nhiều lần nên có nhiều dấu răng thường gặp. Lâm sàng có hội chứng nhiễm độc thần kinh gây suy hô hấp.
  • Rắn cạp Hình dạng rắn: khoang đen khoang trắng. Bungarus candidus, Malayan krait: ít hơn 32 khoang thường gặp ở miền Trung và miền Nam. Bungarus multicinctus, Chinese krait: trên 32 khoang là rắn cạp nia miền Bắc. Rắn cạp nong (Bungarus fasciatus, banded krait): khoang đen khoang vàng. Rắn cạp nia đầu đỏ (Bungarus flaviceps, red- headed krait): khoang đen khoang trắng và đầu đỏ. Tình huống bị rắn cắn thường là bệnh nhân ngủ lúc nữa đêm bị cắn; hoặc lội ruộng, ao vào ban đêm… Triệu chứng tại chỗ không ghi nhận bất thường (không sưng, hai dấu răng nhỏ không hoại tử, đau hay tê nhẹ, không bóng nước) nhưng triệu chứng lâm sàng suy hô hấp và nhiễm độc thần kinh nặng.
  • Rắn biển (sea snakes): thường bị cắn trên biển hoặc dưới nước. Triệu chứng lâm sàng nổi bật là suy hô hấp và tiểu đen (do hoại tử cơ).

4. ĐIỀU TRỊ

a. Nguyên tắc điều trị

– Sơ cứu:

Trấn an bệnh nhân. Đặt bệnh nhân trên mặt bằng phẳng và hạn chế di chuyển. Có thể đặt chi bị cắn ở vị trí thấp hơn vị trí

Rữa sạch vết cắn và băng ép bằng băng thun từ vị trí bị cắn đến gốc chi (có thể băng ép toàn bộ chi). Phương pháp băng ép bất động chỉ áp dụng cho các trường hợp rắn cắn thuộc họ rắn hổ vì gây nhiễm độc thần kinh nên tử vong nhanh, không khuyến cáo áp dụng với họ rắn lục. Tuy nhiên khi bị cắn, bệnh nhân khó xác định rắn loại gì nên có thể ứng dụng được cho tất cả các trường hợp bị rắn cắn để đảm bảo cứu mạng trước mắt.

Nẹp bất động chi bị cắn nhằm hạn chế phát tán nọc rắn vào cơ thể.

Không tháo nẹp và băng ép cho đến khi bệnh nhân được chuyển đến bệnh viện có huyết thanh kháng nọc rắn đặc hiệu để điều trị. Trong trường hợp bệnh nhân được garô cả động và tĩnh mạch chi bị cắn, tiến hành băng ép bất động đúng cách phần trên và dưới garô chi bị cắn. Sau đó nới dần garô về gốc chi và băng ép phần còn lại rồi tháo bỏ Nếu biết chắc chắn là rắn hổ mèo cắn, không cần garo. Theo dõi sát triệu chứng lâm sàng toàn thân.

Không được cắt hoặc rạch vết cắn vì gây chảy máu và nhiễm trùng.

Không mất thời gian đi tìm thầy lang, thuốc lá làm chậm quá trình chuyển viện.

Nhanh chóng chuyển bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất đảm bảo hô hấp và sinh tồn trên đường di chuyển (hồi sức được hô hấp, tim mạch).

Nếu cần và có thể nên nhờ sự giúp đỡ của tuyến trên từ các chuyên gia có kinh nghiệm qua điện thoại, hội chẩn telemedicine,…

Nếu bị nọc rắn phun vào mắt, rữa mắt bằng nước sạch chảy thành dòng qua mắt trong ít nhất 15 phút. Không được nặn chanh hay các dung dịch khác vào mắt vì có thể gây mù vĩnh viễn. Nhanh chóng đến cơ sở y tế để được điều trị.

– Tại bệnh viện:

Lập đường truyền tĩnh mạch bằng kim luồn để truyền dịch.

Tháo garo bằng cách di chuyển lên phía gốc chi hoặc nới garo vài lần trước khi thảo bỏ hẳn để tránh “sốc nhiễm độc do garo”

Lấy máu và nước tiểu làm xét nghiệm: Công thức máu, đông máu toàn bộ: (PT, aPTT, tiểu cầu, fibrinogen, co cục máu), BUN, creatinin, AST, ALT, ion đồ, LDH, CPK, myoglobine, tổng phân tích nước tiểu và myoglobine/niệu, ECG, khí máu động mạch.

Theo dõi bệnh nhân sát: Các dấu hiệu và triệu chứng nhiễm độc diễn tiến.

Điều trị triệu chứng- hỗ trợ

b. Điều trị đặc hiệu

Hiện nay, chưa có huyết thanh kháng nọc rắn hổ mèo đơn đặc hiệu trên thế giới. Huyết thanh kháng nọc rắn hổ mèo đã được nghiên cứu chế tạo thành công tại Việt Nam và cần có thử nghiệm lâm sàng trước khi đưa vào sử dụng trong thời gian sắp tới. Huyết thanh kháng nọc rắn hổ đất không hiệu quả trên lâm sàng khi dùng để điều trị cho BN bị rắn hổ mèo cắn.

c.   Điều trị hỗ trợ

Vì không có HTKN rắn hổ mèo, điều trị triệu chứng là biện pháp duy nhất trong khi chờ đợi nọc rắn được thải trừ: Thở máy, hồi sức tim mạch, truyền máu, tiêm phòng uốn ván, kháng sinh, truyền dịch, thăng bằng kiềm toan- điện giải, phẫu thuật cắt lọc và ghép

Sử dụng corticoid liều 1-2 mg/kg cân nặng trong 5 ngày, thường dùng dạng chích methyl prednisolone (solumedron) trong giai đoạn bệnh nhân nôn ói nhiều.

Khi xét nghiệm có tình trạng tăng CPK, LDH, myoglobine máu và niệu, bài niệu tích cực và kiềm hóa nước tiểu để dự phòng suy thận cấp, chống toan và tăng kali máu.

Khi có shock xảy ra, đặt catheter tĩnh mạch trung tâm. Bù dịch khi CVP thấp. Sử dụng các thuốc vận mạch như noradrenalin, dopamin sau khi bù dịch và CVP >10 cm nước nhưng huyết áp vẫn thấp, nước tiểu ít. Phối hợp dobutamin liều 5-25 µg/kg/phút vì có tình trạng viêm cơ tim, suy tim cấp do hoại tử cơ tim, cải thiện tỉ lệ tử

Kháng sinh sử dụng nhóm cephalosporin thế hệ 3: ceftriaxon 2g/ngày phối hợp metronidazol 1,5 g/ngày hoặc nhóm quinolon phối hợp

Tiêm phòng uốn ván.

Khi bị nọc rắn phun vào mắt, rửa mắt liên tục bằng nước muối sinh lý (natri clorua 0,9% 500ml). Nhỏ mắt bằng các thuốc nhỏ mắt kháng viêm nonsteroid và kháng sinh ngày 6 lần trong 3-5 ngày. Khám chuyên khoa mắt để có điều trị phù hợp.

Cắt lọc hoại tử nên thực hiện sớm. Những bệnh nhân này rất nhạy cảm với các thuốc gây mê và an thần dẫn đến suy hô hấp phải thở máy. Các biện pháp gây tê vùng thường được khuyến cáo sử dụng hơn là gây mê.

Có thể sử dụng oxy cao áp trong điều trị hoại tử nhưng kết quả còn hạn chế.

5. TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG

  1. Tiến triển: Cần theo dõi trong 24 giờ sau khi bị rắn hổ mèo cắn. Nếu không có triệu chứng nhiễm độc: cho xuất viện. Trong trường hợp có dấu nhiễm độc: nhập viện điều trị. Tỉ lệ tử vong cao kể cả người lớn và trẻ
  2. Biến chứng hoại tử: Phẩu thuật tạo hình và ghép da các trường hợp mất da rộng và có sẹo co rút.

6. PHÒNG BỆNH

  1. Tránh bị rắn hổ mèo cắn lúc làm việc hay sinh hoạt: Tránh bắt rắn hay vui đùa với rắn bằng tay kể cả khi rắn đã chết (Có thể bị cắn sau khi chết 2 giờ do phản xạ). Khi xem rắn, đứng xa các chuồng rắn trên 2m để tránh rắn phun nọc vào mắt.
  2. Mang ủng khi đi ra ngoài vườn hoặc rẫy để làm việc.
  3. Dùng gậy khua các cây, bụi rậm để rắn bỏ đi trước khi bước vào.
  4. Phát quang bụi rậm quanh nhà.
  5. Ngủ giường, không nên nằm dưới nền nhà.
  6. Xây chuồng heo, gà xa nhà và tránh để các đống cây khô quanh nhà tạo điều kiện cho rắn ẩn nấp và bò ra gây tai nạn.

Các Bệnh mạch máu ngoại vi và điều trị

Bệnh lý tắc nghẽn hoặc viêm ở động mạch, tĩnh mạch, hoặc bạch mạch ngoại vi.

XƠ VỮA ĐỘNG MẠCH NGOẠI VI

Bệnh sử

Đau cách hồi là cơn đau cơ khi vận động; nhanh chóng giảm khi nghỉ. Đau ở mông và đùi gợi ý bệnh ĐM chủ chậu; đau cơ ở bắp chân thường do bệnh bệnh động mạch đùi và khoeo. Tắc nghẽn do xơ vữa động mạch nặng có thể dẫn đến đau khi nghỉ ngơi; vết loét đau bàn chân (đôi khi không đau ở bệnh nhân tiểu đường) có thể xảy ra.

Thăm khám lâm sàng

Giảm mạch ngoại vi (ABI <1.0; <0.5 với thiếu máu trầm trọng), trắng nhợt chi khi nâng cao. Loét do thiếu máu hoặc hoại thư ngón chân có thể xảy ra.

Cận lâm sàng

Đo áp lực và siêu âm Doppler mạch ngoại vi trước và trong khi hoạt động nhằm định vị chỗ hẹp; chụp cộng hưởng từ mạch máu, chụp CT mạch máu (CTA), hoặc chụp mạch máu thường quy được thực hiện nếu có chỉ định tái thông mạch (phẫu thuật hoặc qua da)

ĐIỀU TRỊ Xơ hóa mạch máu

Hầu hết Bệnh nhân có thể được điều trị nội khoa cùng với chương trình thể dục mỗi ngày, chăm sóc bàn chân cẩn thận (đặc biệt trong Bệnh nhân tiểu đường), điều trị tăng cholesterol máu, và vết loét khu trú. Dừng hút thuốc là bắt buộc. Liệu pháp chống ngưng tập kết tiểu cầu được chỉ định nhằm giảm các biến cố tim mạch trong tương lai. Một số, không phải tất cả, Bệnh nhân cải thiện triệu chứng với điều thị bằng thuốc (cilostazol hoặc pentoxifylline). Bệnh nhân với đau cách hồi nặng, đau khi nghỉ ngơi, hoặc hoại tử cần tái thông mạch máu( phẫu thuật tái cấu trúc động mạch hoặc nong mạch máu qua nội mạch dưới da/đặt stent).

NHỮNG BỆNH LÝ KHÁC LÀM GIẢM LƯU LƯỢNG ĐỘNG MẠCH NGOẠI VI

Thuyên tắc động mạch

Hậu quả của huyết khối hoặc sùi trong tim hoặc ĐMC, hoặc do huyết khối tĩnh mạch thông qua shunt phải trái trong tim.

Bệnh sử

Cơn đau đột ngột hoặc tê ở chi mà không có tiền sử đau cách hồi.

Thăm khám lâm sàng

Mất mạch, tái nhợt, và giảm nhiệt độ đầu chi vì tắc nghẽn. Tổn thương được xác định bằng chụp mạch máu.

ĐIỀU TRỊ Thuyên tắc động mạch

Heparin truyền TM được sử dụng nhằm ngăn ngừa lan tràn huyết khối. Trong trường hợp nhồi máu nặng, cấp tính, lấy huyết khối nội mạch hoặc phẫu thuật được chỉ định. Liệu pháp tiêu huyết khối (VD, chất tpa, reteplase, hoặc tenecteplase) có thể có hiệu quả cho huyết khối trong lòng mạch máu xơ vữa hoặc bắc cầu động mạch.

Thuyên tắc do xơ vữa

Tắc nghẽn động mạch cấp tính xảy ra do thuyên tác do fibrin, tiểu cầu, và mảng vỡ cholesterol từ mảng xơ vữa động mạch hoặc phình mạch; thường xảy ra sau can thiệp nội mạch. Tùy vào vị trí, mà có thể dẫn đến đột quỵ, suy thận, hoặc đau và căng cứng ở mô thuyên tắc. Thuyên tắc xơ vữa chi dưới dẫn đến hội chứng ngón chân xanh, có thể tiến triển đến hoại tử và hoại thư. Điều trị hỗ trợ; đối với các cơn tái lại, cần can thiệp ngoại khoa tại vị trí xơ vữa hoặc phình mạch.

Rối loạn co thắt mạch

Điển hình bởi hiện tượng Raynaud xảy ra khi nhiễm lạnh, biểu hiện: trắng nhat các ngón , theo sau đó là xanh tím, sau đó hồng trở lại.

BẢNG 135-1 PHÂN LOẠI HIỆN TƯỢNG RAYNAUD’S

Raynaud nguyên phát hoặc vô căn: bệnh Raynaud’s

Raynaud thứ phát

Bệnh lý mô liên kết : xơ cứng bì, lupus ban đỏ hệ thống, VKDT, viêm da cơ, viêm đa cơ.
Bệnh lý tắc nghẽn động mạch: xơ vữa mạch máu chi, viêm thuyên tắc mạch máu, tắc động mạch cấp , hội chứng lối thoát lồng ngực
Tăng áp phổi
Rối loạn thần kinh : bệnh lý đĩa đệm, bệnh rỗng tủy sống, u tủy sống, đột quỵ, viêm tủy xám, hội chứng ống cổ tay
Các bệnh lý rối loạn tạo máu : bệnh agglutinin lạnh, cryoglobulin máu, cryofibrinogen máu, các rối loạn tăng sinh tủy, Waldenström’smacroglobulin máu
Chấn thương : chấn thương rung, bàn tay lạnh, sốc điện, tổn thương do lạnh, đánh máy, chơi piano
Thuốc : các dẫn xuất của ergot , methysergide, chẹn thụ thể β-adrenergic, bleomycin, vinblastine, cisplatin


Thường là 1 rối loạn lành tính. Tuy nhiên, cần tìm nguyên nhân (Bảng 135-1) nếu hoại tử mô xảy ra, nếu bệnh chỉ xảy ra 1 bên, hoặc nếu bệnh xảy ra sau 50 tuổi.

ĐIỀU TRỊ Rối loạn co thắt mạch

Giữ ấm chi. Cấm hút thuốc lá. Thuốc chẹn kênh calci loại dihydropyridine (VD, nifedipine XL 30–90 mg PO qd) hoặc đối vận thụ thể α1-adrenergic (VD, prazosin 1–5 mg tid) có thể có hiệu quả.

Viêm thuyên tắc mạch máu (Bệnh Buerger)

Thường xảy ra ở nam giới trẻ tuổi có hút thuốc nhiều và xảy ra ở chi trên lẫn chi dưới; phản ứng viêm không xơ vữa xảy ra ở tĩnh mạch và động mạch nhỏ, dẫn đến viêm tắc tĩnh mạch nông và tắc động mạch với loét hoặc hoại tử các ngón. Chụp động mạch cho thấy các tổn thương dạng nón mềm mại ở các mạch máu ngoại vi, thường không kèm bệnh xơ vữa
động mạch. Kiêng không hút thuốc là cần thiết.

BỆNH LÝ TĨNH MẠCH

Viêm tắc tĩnh mạch máu nông

Một rối loạn lành tính đặc trưng bởi các hồng ban, đau, và phù dọc theo tĩnh mạch tổn thương. Liệu pháp bảo tồn bao gồm giữ nhiệt tại chỗ, thuốc chống viêm như aspirin. Các tình trạng trầm trọng hơn như viêm tế bào, hoặc viêm mạch bạch huyết có thể biểu hiện tương tự, nhưng thường kèm theo sốt, rét run, hạch to, và các đường sọc đỏ nông trên bề mặt dọc theo
mạch bạch huyết viêm.

BẢNG 135-2 CÁC BỆNH LÝ TĂNG NGUY CƠ HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH

Phẫu thuật : chỉnh hình, lồng ngực, bụng và niệu dục
Ung thư : Tụy, phổi, buồng trứng, tinh hoàn, đường niệu, vú, dạ dày
Chấn thương : gãy cột sống, xương chậu, xương đùi, xương chày
Bất động : NMCT cấp, suy tim sung huyết, đột quỵ, hậu phẫu
Mang thai : sử dụng Estrogen (nhằm thay thế hoặc ngừa thai) )
Tình trạng tăng đông máu: kháng protein C hoạt hóa ; đột biến prothrombin 20210A ; Thiếu antithrombin III, protein C, hoặc protein S; kháng thể chống phospholipid ; bệnh tăng sinh tủy; rối loạn fibrinogen máu, hội chứng đông máu rải rác nội mạch
Viêm tĩnh mạch: viêm thuyên tắc mạch, bệnh Behçet’s, homocystin niệu
Huyết khối tĩnh mạch sâu trước đó


Huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT)

Đây là bệnh lý nghiêm trọng có thể dẫn đến thuyên tắc phổi (Chương. 142). Đặc biệt phổ biến ở bn nằm lâu ngày, bn với bệnh suy nhược mãn tính, và bn với bệnh lý ác tính. (Bảng135-2).

Bệnh sử

Đau hoặc căng cứng bắp chân hoặc bắp đùi, thường xảy ra 1 bên; có thể không triệu chứng, kèm theo thuyên tắc phổi là các biểu hiện chính.

Thăm khám lâm sàng

Thường bình thường; phù khu trú hoặc đau khi sờ có thể xảy ra tại tĩnh mạch bị ảnh hưởng.

Cận lâm sàng

Xét nghiệm d-Dimer nhạy nhưng không đặc hiệu để chẩn đoán. Xét nghiệm không xâm lấn hữu hiệu nhất là siêu âm tĩnh mạch sâu với Doppler [nhạy nhất cho DVT phần gần (phần trên chân), ít nhạy hơn cho DVT vùng bắp chân]. Chụp tĩnh mạch xâm lấn hiếm khi được chỉ định. MRI có thể hữu hiệu nhằm chẩn đoán DVT đoạn gần và DVT trong tĩnh mạch chậu hoặc
trong tĩnh mạch chủ trên/dưới.

ĐIỀU TRỊ Bệnh tĩnh mạch

Chống đông đường toàn thân với heparin[5000- to 10,000-U bolus, sau đó truyền IV liên tục nhằm giữ aPTT ở mức 2 × bình thường (hoặc sử dụng nomogram: 80-U/kg bolus sau đó truyền 18 (U/kg)/h)] hoặc heparin trọng lượng phân tử thấp (LMWH) (VD, enoxaparin 1 mg/kg tiêm dưới da 2 lần/ ngày), sau đó dùng warfarin uống (dùng heparin trong ít nhất 4–5 ngày và tiếp tục trong ít nhất 3 tháng nếu tĩnh mạch sâu đoạn gần bị ảnh hưởng). Điều chỉnh liều warfarin nhằm giữ prothrombin time INR 2.0–3.0.

DVT có thể phòng bằng cách đi lại sớm sau phẫu thuật hoặc heparin khối lượng phân tử liều thấp trong quá trình nằm giường bệnh kéo dài (5000 U tiêm dưới da 2-3 lần/ngày) hoặc heparin phân tử thấp (VD, enoxaparin 40 mg SC hàng ngày), hỗ trợ bằng băng áp lực. Sau phẫu thuật gối hoặc hông, wafarin (INR 2.0–3.0) là chỉ định có hiệu quả. LMWHs đều hiệu quả trong phòng chống DVT sau phẫu thuật tổng quát hoặc chỉnh hình

Suy tĩnh mạch mạn tính

Là hậu quả của huyết khối TM sâu trước đó hoặc suy van tĩnh mạch và biểu hiện đau âm ỉ mạn tính nặng dần khi đứng lâu, phù, và suy tĩnh mạch nông. Có thể dẫn đến hồng ban, tăng sắc tố, và viêm tế bào tái phát; vết loét có thể xuất hiện ở mắt cá trong và ngoài. Điều trị bao gồm băng áp lực và nâng cao chân.

PHÙ BẠCH HUYẾT

Phù mạn tính, phù không đau, thường ở chi dưới; có thể nguyên phát (di truyền) hoặc thứ phát do tổn thương hoặc tắc nghẽn mạch bạch huyết (VD, viêm bạch mạch tái phát, khối u, bệnh giun chỉ bạch huyết).

Thăm khám lâm sàng

Phù ấn lõm ở các giai đoạn đầu; chi trở nên cứng dần với phù ấn không lõm. Phân biệt với suy tĩnh mạch mạn tính, bệnh có tăng sắc tố, viêm da , và suy tĩnh mạch nông.

Cận lâm sàng

Siêu âm bụng và hố chậu hoặc CT hoặc MRI nhằm xác định tổn thương tắc nghẽn. Chụp mạch bạch huyết hoặc xạ hình bạch mạch (hiếm khi làm) nhằm khẳng định chẩn đoán.Nếu phù 1 bên, phân biệt với DVT nhờ các xét nghiệm tĩnh mạch không xâm lấn (như trên).

ĐIỀU TRỊ Phù bạch huyết

(1) Vệ sinh chân sạch sẽ nhằm ngăn ngừa nhiễm trùng, (2) nâng cao chân, (3) vớ nén và/hoặc giày nén bằng khí. Nên tránh dùng lợi tiểu nhằm phòng tránh suy giảm thể tích trong lòng mạch.

Rối loạn tuần hoàn tủy sống

Đại cương.

  • Lịch sử:

Những nghiên cứu trên thực nghiệm vào khoảng 1667 cho thấy rằng chèn ép động mạch chủ có thể gây liệt hai chân.

Khoảng giữa thế kỷ XVIII chứng hạ liệt do tắc động mạch chủ cũng đã được mô tả trên lâm sàng.

Đầu thế kỷ XX người ta biết rằng nguyên nhân gây thiếu máu tủy sống có thể do cục nghẽn tắc từ tim và do xơ vữa động mạch.

Cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật việc chẩn đoán bệnh lý mạch máu tủy sống ngày ngay đã không phải là vấn đề nan giải như ngày xưa. Với những phương pháp chụp động mạch, chụp mạch cộng hưởng từ bệnh lý mạch máu tủy sống đã có thể được phát hiện và điều trị kịp thời.

  • Phân loại:

Theo bảng phân loại của D.G. German và A. A. Skoromes (1985).

  • Các bệnh và trạng thái bệnh lý gây ra rối loạn tuần hoàn tủy:

+ Tổn thương mạch máu tủy tiên phát:

  • Dị tật bẩm sinh (phình động mạch, động – tĩnh mạch), thiểu sản (hypoplasia), u mao mạch giãn (telangioma ectasia).
  • Vữa xơ động mạch và những biến chứng của nó, viêm mạch nhiễm khuẩn, dị ứng, lao, giang mai,…

+ Tổn thương các mạch máu tủy do đè ép:

  • ở cột sống: bệnh hư xương sụn (osteochondrosis), bệnh cột sống do rối loạn nội tiết, dị tật bẩm sinh, gãy xương, trật khớp, viêm đốt sống (spondilitis).
  • ở ngoài cột sống: đè ép do thai nhi, u ngoài cột sống.
  • ở trong ống sống: u ngoại tủy, các quá trình gây giày dính màng tủy.

+ Tổn thương mạch máu tủy do phẫu thuật ngoại khoa: cắt cung sau, mổ lồng ngực (thoracotomia), mở bụng (laparotomia), các phẫu thuật ở động mạch chủ, các phong bế ngoài màng cứng.

+ Tổn thương tủy trong rối loạn tuần hoàn chung và khu vực: nhồi máu cơ tim, cao huyết áp, thiểu năng tim mạch cấp…

+ Tổn thương mạch máu tủy do ngộ độc:

  • Ngoại độc tố
  • Nội độc tố (kể cả do nội tiết).

+ Các bệnh máu và những biến đổi tính chất lý – hoá học của máu.

  • Các thể lâm sàng rối loạn tuần hoàn tủy:

+ Rối loạn tuần hoàn tủy cấp:

  • Thiếu máu tạm thời
  • Nhồi máu tủy sống (có ổ hoại tử, phù thuyên giảm rõ, không để lại triệu chứng).
  • Chảy máu tủy, chảy máu dưới nhện, máu tụ ngoài và dưới màng cứng (kể cả máu tụ thành lập từ từ).

+ Thiếu máu tủy tiến triển chậm, tuần tiến.

  • Thiếu máu tủy thoảng qua (giai đoạn I của bệnh khập khiễng cách hồi claudicatio intermittens spinalis medullaris).
  • Thiếu máu tủy còn bù (giai đoạn II).
  • Thiếu máu tủy mất bù (giai đoạn III).
  • Thiếu máu tủy hình thành chậm tuần tiến (giai đoạn IV).

+ Rối loạn tuần hoàn tủy không xác định được đặc điểm lâm sàng.

  • Khu trú tổn thương tủy sống:
  • Khu trú theo chiều dài của tủy: hành tủy, tủy cổ trên, phình tủy cổ, tủy ngực trên, tủy ngực dưới, phình tủy thắt lưng, trên chóp tủy và chóp tủy.
    • Tính chất và khu trú tổn thương mạch máu tủy sống:
  • Tính chất tổn thương mạch: bị tắc hẹp lòng mạch (stenosis), tổn thương hay bị đè ép, dị dạng bẩm sinh, phình mạch (kể cả mắc phải), vỡ thành mạch, tăng tính thẩm thấu thành mạch…
  • Khu trú tổn thương mạch:

. Động mạch chủ và các nhánh của nó (dưới đòn, đốt sống, liên sườn, chậu).

. Động mạch rễ – tủy (trước và sau, kể cả động mạch Adamkiewicz và Desproges – Gotteron).

. Động mạch nối động mạch tủy trước với động mạch tủy sau: vòng cung mạch (Vasa corona).

. Các động mạch nội tủy.

. Hệ thống tĩnh mạch tủy trên, dưới, tĩnh mạch rễ và tĩnh mạch quanh tủy.

. Tổn thương mạch máu lan rộng không xác định được khu trú.

  • Đặc điểm hội chứng lâm sàng:

+ Hội chứng vận động:

  • Liệt (hoặc liệt nhẹ), teo cơ tay hoặc chân.
  • Liệt cứng tay và chân.
  • Liệt hỗn hợp (cứng – nhẽo).

+ Các hội chứng rối loạn cảm giác:

  • Đau (kiểu rễ, khoanh đoạn, dẫn truyền), dị cảm (paresthesia).
  • Vô cảm (kiểu rễ, khoanh đoạn, dẫn truyền), giảm cảm giác (hypesthesia).
  • Rối loạn cảm giác hỗn hợp kiểu rễ và dẫn truyền.

+ Các rối loạn thần kinh thực vật.

  • Rối loạn cơ thắt: bí đái và bí tiểu tiện, đái dầm thực sự, đái dầm cách hồi.
  • Rối loạn vận mạch – dinh dưỡng: loét, dị cảm đầu chi, nhược mạch các chi (xanh, tím…), tăng thoái hoá sừng.

+ Phối hợp rối loạn vận động, cảm giác, thực vật, dinh dưỡng.

  • Tình trạng khả năng lao động:

Còn khả năng lao động.

Mất khả năng lao động tạm thời.

Hạn chế khả năng lao động (tàn phế loại 3).

Không còn khả năng lao động (tàn phế loại 2).

Cần phải trông nom, chăm sóc (tàn phế loại 1).

  • Dịch tễ:

Cho tới nay những số liệu chính xác về tỷ lệ rối loạn tuần hoàn tủy sống chưa có. Hầu hết các tác giả thống nhất chung một ý kiến rằng tỷ lệ bệnh lý mạch máu tủy sống ít hơn nhiều so với bệnh mạch máu não.

Blackwood khảo cứu 3.737 ca giải phẫu bệnh trong thời gian từ 1903 – 1958 chỉ thấy có 9 ca rối loạn tuần hoàn tủy.

Sandson và Friedman (1989) thống kê hồi cứu về nhồi máu tủy sống chiếm khoảng 1% các ca đột quỵ ở bệnh viện được nghiên cứu.

Bots và cộng sự lại thấy khoảng 3 ca rối loạn tuần hoàn tủy mỗi năm.

ở Việt Nam chưa thấy có thông báo về tỷ lệ của mặt bệnh này.

Bệnh căn bệnh

Bệnh căn:

Bệnh căn của thiếu máu tủy sống:

Viêm động mạch (viêm nút quanh động mạch bệnh Behget, viêm động mạch tế bào khổng lồ).

Các nguyên nhân do tắc mạch (myxoma tâm nhĩ, bệnh van tim, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, tồn tại lỗ bầu dục, tắc do sợi sụn trong thoát vị đĩa đệm).

Do tưới máu kém (ngừng tim và hô hấp, vỡ động mạch chủ do chấn thương, vỡ phình động mạch chủ).

Nguyên nhân do thầy thuốc (mổ giao cảm ngực – thắt lưng, mổ chữa gù vẹo cột sống; thông tim; chụp động mạch chủ; tắc động mạch thận; thông động mạch rốn Lumbidical; chụp động mạch đốt sống; mổ động mạch chủ; lấy hạch sau phúc mạc…).

Nguyên nhân nhiễm khuẩn (viêm động mạch do giang mai, viêm màng não mủ).

Các nguyên nhân khác (hồng cầu lưỡi liềm, lạm dụng cocain, bệnh thợ lặn, hội chứng kháng thể kháng phospholipid, hội chứng Cohn, bán sai khớp cột sống cổ, xơ vữa và huyết khối động mạch chủ).

Nguyên nhân của chảy máu tủy sống:

Vỡ các dị dạng mạch máu tủy

Bệnh ưa cháy máu.

Dùng thuốc chống đông.

Cơ chế bệnh sinh:

Theo tư liệu của nhiều tác giả rối loạn tuần hoàn tủy hay gặp và nặng nề khi tổn thương ở vùng tủy mà trong điều kiện bình thường được cung cấp máu nhiều hơn những vùng khác như: đoạn phình tủy cổ và phình tủy thắt lưng; còn đoạn tủy cổ trên, tủy lưng giữa sẽ ít gặp hơn. Điều này được giải thích rằng dòng máu tới các phình tủy bị hạn chế do các quá trình bệnh lý khác nhau, không thể thích ứng được bằng cách nhờ tuần hoàn bàng hệ từ những vùng lân cận, vì ngay bản thân các vùng lân cận này trong điều kiện bình thường cung cấp máu đã ít (tủy cổ trên, tủy ngực và tủy lưng giữa).

Cũng có quan điểm khác cho rằng vùng đặc biệt hay bị tổn thương là nơi hơi xa vùng động mạch chịu trách nhiệm nuôi dưỡng bởi hai hệ thống động mạch hoặc hai động mạch rễ – tủy (vùng giáp ranh). Theo quan niệm trên khoanh đoạn tủy C3 – C4, tủy ngực giữa, đặc biệt là D4 là những nơi được nuôi dưỡng bởi hai hệ thống động mạch: động mạch dưới đòn và động mạch chủ. Nhưng thực tế trên lâm sàng những vùng vừa nhắc tới ở trên bị tổn thương rất ít.

Có lẽ cả hai quan điểm trên đều có lý, song cần lưu ý đến các điều kiện khi bắt đầu xuất hiện rối loạn tuần hoàn tủy sống. Trường hợp bị huyết khối, nơi tủy bị tổn thương nhiều hơn cả là vùng thuộc phạm vi động mạch đó phải nuôi dưỡng mà tuần hoàn bàng hệ không thể đảm bảo bù máu được.

Khi động mạch bị hẹp (stenosis), vùng tổn thương nhiều hơn là vùng thuộc đầu nhánh tận cùng (vùng rìa ngoại vi). Vùng rìa ngoại vi này cũng sẽ bị tổn thương khi có rối loạn chung toàn cơ thể (giảm huyết áp động mạch, mất máu cấp…) và đặc biệt chú ý khi mà động mạch cung cấp máu cho tủy sống đã có tổn thương từ trước.

Hệ thống mạch máu cung cấp máu cho tủy sống được chia ra làm 4 mức liên hệ bàng hệ:

+ Mức thứ nhất: bàng hệ ngoài cột sống: giữa động mạch dưới đòn, động mạch đốt sống, động mạch liên sườn, động mạch thắt lưng và động mạch cùng.

+ Mức thứ hai: bàng hệ giữa các nhánh động mạch tủy (ramispinalis) nơi chúng chia ra các động mạch rễ – tủy trong ống sống.

+ Mức thứ ba: hệ thống mạch bao quanh tủy tạo ra do các động mạch tủy trước và sau với một số lượng khá lớn các nhánh dọc và xiên chếch.

+ Mức thứ tư: bàng hệ trong nội tủy mà đa số các trường hợp chức năng hoạt động còn rất hạn chế.

Có ý nghĩa lớn trong lâm sàng là hệ mạch bàng hệ ngoài tủy và quanh tủy. Nhờ có những hệ thống tuần hoàn bàng hệ này nên khi các động mạch ở xa tủy (động mạch liên sườn) bị bít tắc mà không gây ra triệu chứng lâm sàng nào. Nếu như điều kiện tuần hoàn chung của cơ thể và tuần hoàn bàng hệ tốt thì bệnh lý nói trên có thể thích nghi được.

Nhồi máu tủy thường xảy ra ở một vài khoanh đoạn tủy. Trong đa số các trường hợp hay xảy ra tổn thương các nhánh mạch máu thuộc động mạch tủy trước như các nhánh trung tâm (a.a.Centralis) cung cấp máu cho phần lớn mặt cắt ngang của tủy.

Bệnh nguyên của tổn thương tủy do mạch máu có thể rất khác nhau nhưng hay gặp nhất là:

  • Vữa xơ động mạch.
  • Viêm nội mạc động mạch (do giang mai, do dị ứng…), viêm nội mạc động mạch tắc (endarteriitis obiiterans).
  • Viêm nút quanh động mạch (periarteritis nodosa).
  • Có nhiều tác giả nói tới tắc động mạch tủy sống do cục tắc từ tim, do các tế bào ung thư, do ký sinh trùng (ấu trùng – echinococcus).

Đa số các trường hợp gây ra bệnh lý mạch máu tủy không phải do bệnh lý tổn thương của bản thân động mạch tủy sống mà phụ thuộc vào sự biến đổi bệnh lý ở động mạch chủ và vào vị trí tách của động mạch liên sườn ra khỏi động mạch chủ. Thông thường vị trí này hay bị hẹp do quá trình vữa xơ động mạch, dẫn tới hạn chế cung cấp máu cho tủy sống. Ngoài ra, các mảnh vữa xơ bị thoái hoá có thể trở thành nguồn gốc gây tắc động mạch tủy. Các bệnh lý khác của động mạch chủ như phình động mạch (aneuryma) đã đè vào những chỗ tách của động mạch liên sườn, gây ra hội chứng tổn thương cắt ngang tủy sống mà vẫn thường chẩn đoán nhầm là viêm tủy ngang (myelitis transversa).

Tắc phần dưới động mạch chủ, trên đoạn L3 – L4 gây thiếu máu tủy kèm theo tổn thương đám rối thần kinh ở chậu hông nhỏ, nếu tắc thấp hơn nữa sẽ thấy có cả tổn thương hệ thống thần kinh ngoại vi.

Triệu chứng tổn thương tủy sống còn thấy trong tật hẹp động mạch (coarctatio), mặc dù gặp rất hiếm. Trong trường hợp này các động mạch bàng hệ ở phía trên đoạn hẹp bị giãn to và đè vào tủy sống, còn đoạn động mạch dưới vị trí hẹp thường gây triệu chứng thiếu máu tủy sống biểu hiện trên lâm sàng như liệt nhẹ (parese), giảm trương lực cơ và giảm phản xạ, hoặc liệt theo kiểu trung ương (phụ thuộc vào tổn thương hệ thống tháp hay sừng trước tủy sống).

Thiếu máu tủy có thể bị do chấn thương các mạch máu đi tới nuôi dưỡng tủy khi phẫu thuật trên động mạch chủ hay vùng lân cận gần đó.

Người ta cũng đã mô tả những trường hợp thiếu máu tủy khi có thai và được giải thích là do thai đè ép vào hệ thống động mạch ngoài tủy, mà những động mạch này có tham gia nuôi dưỡng tủy.

Theo D.G. Ferman (1973), các quá trình bệnh lý ở màng tủy (viêm màng mềm – pachyleptomeningitis), viêm ngoài màng cứng (epiduralitis), do u ngoại tủy, chấn thương cột sống, gù vẹo… cũng gây bệnh lý động mạch tủy.

Một trong những nguyên nhân cần đặc biệt chú ý tới là bệnh hư xương sụn (osteochondrosis) đoạn cột sống cổ, đoạn thắt lưng. Khi đĩa đệm bị lồi hoặc bị thoát vị dẫn tới đè ép các động mạch tủy trước và đặc biệt là đè ép vào các động mạch rễ tủy trước ở vùng các lỗ ghép. Sự lắng đọng vôi tạo thành các mỏm xương và những phản ứng viêm thứ phát của các tổ chức xung quanh là một trong những yếu tố quan trọng đưa tới hẹp các lỗ ghép gây đè ép động mạch rễ – tủy và các tĩnh mạch. Rối loạn tuần hoàn tủy trong trường hợp này không những do các mạch máu bị đè ép (làm hẹp) mà còn do co thắt dưới ảnh hưởng của các loại kích thích khác nhau vào thành mạch của chúng, vấn đề này có thể đưa tới thiếu máu tủy từng cơn.

Những thay đổi tư thế của cổ, cong người, duỗi thẳng chân… cũng gây ra tăng đè ép tạm thời các rễ thần kinh và các mạch máu. Trong bệnh hư xương sụn thì dây chằng vàng đóng vai trò bệnh sinh và có thể dẫn tới đè ép gây thiếu máu tủy sống.

Lâm sàng

Rối loạn tuần hoàn tủy cấp tính:

  • Rối loạn tuần hoàn tủy lâm thời:

Thể này hay gặp trên lâm sàng, đa số các tác giả đều gọi là bệnh khập khiễng cách hồi (claudicatio intermittens spinalis) do Sottas (1894), Dejerine (1906), Borodinski D.K, Skoromes A.A (1973) mô tả và chia nó ra làm hai thể. Thể thứ nhất có đặc điểm là đột ngột xuất hiện yếu hai chi dưới khi đi, khi chạy hoặc thậm chí khi đứng tại chỗ, tình trạng này kéo dài vài phút, thường lúc này có cảm giác nặng ở cơ sinh ba cẳng chân, có cảm giác tê mỏi chân, không có rối loạn cơ thắt. Người bệnh khẳng định rằng khi ở tư thế nằm thì hoàn toàn không có triệu chứng gì đặc biệt. Do đó mà người ta gọi là hội chứng giống như viêm tắc nội mạc tĩnh mạch. Thể thứ hai giống như kiểu đột quị tủy, biểu hiện các triệu chứng tổn thương tủy khu trú và hồi phục nhanh chóng trong vòng 1 – 2 ngày.

Theo kết quả nghiên cứu của một số tác giả thấy rối loạn tuần hoàn tủy kết hợp với viêm tắc nội mạc động mạch hai chi dưới, rối loạn tuần hoàn tủy xảy ra trên cơ sở tăng áp lực tĩnh mạch khoảng cửa. Đặc biệt rối loạn tuần hoàn tủy lâm thời trên cơ sở viêm rễ thắt lưng cùng mạn tính, có từng đợt tái phát do thoái hoá cột sống. Chúng xuất hiện do sau khi gắng sức quá mức về thể lực, sau phơi nắng lâu, sau uống rượu, sau xúc động mạnh và một số yếu tố kích thích khác, đã tạo điều kiện thuận lợi xuất hiện tăng áp lực nội tủy ở chỗ tĩnh mạch tủy rễ bị đè ép và gây đè ép tủy ở chỗ tương ứng. Mức độ tăng áp lực nội tủy có thể thay đổi do có sự liên hệ với một số lượng tĩnh mạch bàng hệ rất lớn. Điều này là nguyên nhân làm nhanh chóng xuất hiện hoặc nhanh chóng mất đi không chỉ hội chứng rễ mà ngay cả một vài rối loạn khoanh đoạn của tủy sống.

Các tác giả đều công nhận rằng phù tủy do thiếu oxy, do hậu quả ứ trệ tuần hoàn tĩnh mạch mà trong đó có cơ chế chính là rối loạn vận mạch.

Theo Vershchagin N.V. (1980) rối loạn tuần hoàn tủy trên cơ sở biến đổi thoái hoá loạn dưỡng cột sống, hoặc hư xương sụn thoái hoá biến dạng cột sống. Nguyên nhân đĩa đệm trong rối loạn tuần hoàn tủy lâm thời cần được đặc biệt lưu ý. Tác giả cho rằng sự phát triển xung đột đĩa đệm – mạch máu dưới dạng lồi đĩa đệm sang bên hoặc ra sau bên gây đè ép tạm thời hoặc đè ép không hoàn toàn động mạch rễ và tĩnh mạch rễ. Điều này có thể đưa tới thiếu máu tủy sống hoặc làm tăng phù và ứ trệ tĩnh mạch tủy sống.

Olives và cộng sự gặp rối loạn tuần hoàn tủy lâm thời ở bệnh nhân thông động – tĩnh mạch nhỏ ở tủy sống. Những bệnh nhân này xuất hiện liệt hai chi dưới tạm thời sau khi ăn súp nóng, tác giả cho rằng do hậu quả máu được lưu thông với hệ mạch máu của ruột mà hệ mạch lúc này đã bị giãn.

A.M. Livovski nhận thấy xuất hiện triệu chứng thiếu máu tủy lâm thời, trên lâm sàng thấy: giảm phản xạ da bụng, tăng phản xạ gân xương hai chi dưới, có phản xạ bệnh lý bó tháp và có rối loạn cơ thắt ở những bệnh nhân sau phẫu thuật tật hẹp động mạch chủ.

Rối loạn tuần hoàn tủy lâm thời chưa được nghiên cứu đầy đủ, các quan niệm chưa thống nhất, nên cần có những tìm kiếm kịp thời hữu hiệu phát hiện các quá trình bệnh lý giúp cho chẩn đoán và điều trị ngăn ngừa sự phát triển thiếu máu tủy không hồi phục.

  • Chảy máu tủy sống:

Chảy máu tủy sống trên lâm sàng gặp ít hơn so với nhồi máu tủy, thực tế hay gặp trong chấn thương tủy, chấn thương cột sống, các bệnh máu giai đoạn toàn phát, nhiễm độc cấp tính các chất nội và ngoại sinh. Các bệnh của mạch thường gặp do vữa xơ động mạch và u mạch (agioma medulaires).

Các thể bệnh trên có bệnh cảnh lâm sàng riêng.

Ví dụ: nguyên nhân u mạch tủy. Theo U. Djindjian (1975), nghiên cứu trên chụp động mạch tủy 1000 trường hợp và thấy có 100 trường hợp u mạch máu, nam 73%, nữ 27%, dưới 40 tuổi chỉ chiếm 2/3 (nhỏ nhất 1 tuổi), 40 – 60 tuổi chiếm 1/3 trường hợp (cao nhất 68 tuổi).

Xác định chẩn đoán trong vòng 1 năm có 26%, trong vòng 10 năm mới chẩn đoán ra 60%, hơn 10 năm là 14%, tác giả nêu lên rằng việc chẩn đoán khó khăn đã ảnh hưởng tới tiên lượng của bệnh.

Triệu chứng lâm sàng đa dạng, phụ thuộc vào vị trí của dị dạng mạch (trong tủy hay ngoài tủy, ở cao hay thấp, dị dạng ở một đoạn dài ở tủy,…). Phụ thuộc vào cơ chế mất bù máu như: do vỡ gây chảy máu, do chèn ép gây nhũn tủy, do mất cân bằng huyết động. Phụ thuộc vào lứa tuổi. Theo tác giả bệnh cảnh lâm sàng của u mạch tủy được biểu hiện dưới hai thể chính là chảy máu dưới màng nhện tủy và nhồi máu tủy sống:

+ Chảy máu dưới màng nhện tủy.

  • Gặp ở mọi lứa tuổi, đặc biệt hay gặp ở lứa tuổi trẻ.
  • Hay tái phát (có bệnh nhân gặp tái phát 16 lần), những trường hợp bệnh tái phát xuất hiện các triệu chứng rễ – tủy phối hợp.
  • Vị trí chảy máu thường tương ứng với các nơi có phình mạch trong tủy, nhưng đó không phải là một nguyên tắc tuyệt đối.
  • Về mặt chức năng thương tổn ít khi nặng và vĩnh viễn.
  • Lâm sàng: phụ thuộc vào khu trú ở khu vực nào của tủy và có tiền triệu đau ở cột sống, sau đó có thể có hội chứng rễ – tủy. U mạch tủy sau một thời gian tiến triển kéo dài rồi dần dần dẫn đến hạ liệt hoàn toà Có thể gặp 3 thể:

. Hội chứng rễ – tủy cục bộ:

Tiến triển từng cơn, có tần xuất cao, các cơn thường xuất hiện khi có các yếu tố thuận lợi (gắng sức, có thai, phơi nắng).

Cơn đầu tiên có thể kèm theo với chảy máu dưới màng nhện tủy. Trên cùng một bệnh nhân các triệu chứng xảy ra ở các cơn đều khu trú ở cùng một vị trí.

Điều này làm cơ sở vững chắc để chẩn đoán phân biệt với xơ rải rác, những cơn qua đi thường để lại những tổn thương tủy nặng dần lên.

. Hội chứng rễ – tủy tuần tiến:

Hội chứng này thường khu trú ở phía sau tủy vùng lưng – thắt lưng. Cũng có trường hợp ở tủy cổ. Nếu tuổi người bệnh càng cao, thường có kết hợp với vữa xơ động mạch và làm cho chẩn đoán càng khó khăn và chẩn đoán được thường rất muộn.

. Hội chứng rễ – tủy có khởi đầu dữ dội:

Bệnh cảnh lâm sàng gây nhũn tủy trong vài giờ và hay gặp do u mạch nội tủy, không có chảy máu kèm theo.

+ Nhồi máu tủy sống:

Triệu chứng lâm sàng phát triển nhanh chóng một vài giờ, rất ít khi thấy tiến triển trong một vài ngày.

Nhiều trường hợp trước khi xảy ra đột quị tủy thường có tiền triệu dưới dạng như: đau lưng, đôi khi co giật các cơ, hoặc liệt thoảng qua hai chi dưới, có trường hợp xuất hiện rối loạn cơ thắt. Những tiền triệu này thường tiếp diễn trong một vài ngày hoặc hàng tuần, đôi khi hàng tháng.

Sau đó lệ thuộc vào vị trí và sự lan rộng của quá trình bệnh lý mà xuất hiện các hội chứng tủy sống khác nhau, thường có hình ảnh lâm sàng tổn thương bề mặt cắt ngang tủy như: liệt mềm sau đó ít lâu chuyển sang liệt cứng, rối loạn cảm giác theo kiểu đường dẫn truyền ở dưới nơi tổn thương, rối loạn cơ thắt và thần kinh thực vật.

Một số trường hợp nhất là tổn thương tủy cổ cao hoặc phình tủy cổ có thể thấy rét run, rùng mình, có trạng thái ngây ngất, thậm chí ý thức bị u ám. Hội chứng nhồi máu thuộc động mạch tủy sống trước ở đoạn tủy cổ được P.A. Preobrazenski (1904) mô tả. Trong hội chứng này ít thấy tổn thương cảm giác sâu và xúc giác (do cột sau của tủy ít khi bị tổn thương).

Có khi thấy xuất hiện một hội chứng Brown – Sequard, sự xuất hiện hội chứng này được giải thích do tổn thương các nhánh động mạch trung tam tủy sống (a.a. centralis) vì các nhánh này cung cấp máu cho nửa tủy, khi bên phải, khi bên trái.

Cảm giác sâu có thể bị tổn thương đơn độc. Gặp trong tổn thương động mạch rễ – tủy sau hoặc động mạch tủy sau. Tất nhiên hội chứng tủy giả giang mai do căn nguyên mạch máu này rất ít gặp. Ngoài rối loạn cảm giác sâu đôi khi người ta còn thấy biểu hiện rất nhẹ các triệu chứng tháp (do hệ động mạch tủy sau nuôi dưỡng một phần hệ thống bó tháp).

Trong những tổn thương phình tủy cổ, xuất hiện liệt nhẽo hai chi trên, liệt cứng hai chi dưới và rối loạn cảm giác mang tính chất hỗn hợp vừa theo kiểu đường dẫn truyền vừa theo kiểu khoanh đoạn.

Nhồi máu tủy do bệnh lý động mạch Adamkiewicz (vữa xơ động mạch, chèn ép do đĩa đệm, phẫu thuật động mạch chủ bụng…) gây bệnh cảnh lâm sàng liệt nhẽo hai chi dưới, rối loạn cảm giác và cơ thắt rất nặng, loét ở các điểm tỳ phát triển rất nhanh. Nhiều trường hợp bị viêm đường tiết niệu cấp tính đe doạ tới tính mạng người bệnh.

Tắc hoặc nghẽn động mạch Desproges – Gotteron gây liệt mềm hai chi dưới, chủ yếu là liệt ngọn chi, teo cơ tứ đầu đùi và cơ mông, rối loạn cảm giác nông vùng L5 – S5, rối loạn cơ thắt.

Người ta cũng mô tả bệnh thiếu máu do bệnh lý đĩa đệm đè ép vào các động mạch rễ – tủy nhỏ bé này gây tổn thương đoạn tủy L4 – S2 (epiconus) hoặc đoạn tủy chóp nón S3 – S5 (conus). Tổn thương đoạn tủy L4 – S2 có biểu hiện bảng lâm sàng là liệt dây thần kinh hông to, liệt teo các cơ cẳng chân (các nhóm cơ mác và chầy trước), đau ở các cơ của chi dưới. Đôi khi có thể thấy triệu chứng liệt trung ương, tăng phản xạ gân xương, có phản xạ bệnh lý bó tháp.

Theo D.A. Bogorodinski (1975), những triệu chứng này thường xuất hiện ngay sau khi thấy đau ở các cơ ở chân. Tổn thương chóp tủy chỉ thấy mất hoặc giảm cảm giác nông vùng tầng sinh môn, rối loạn cơ thắt, không có triệu chứng liệt.

Đôi khi, ở tủy sống xuất hiện những ổ nhồi máu đa dạng, khu trú trong chất tủy, ở vùng ranh giới cung cấp máu thuộc động mạch tủy trước và động mạch tủy sau, vùng vành tia (vasa coroca). Vùng này được cung cấp máu bởi những nhánh tận của các động mạch liên kết trên và là những nhánh dễ bị tổn thương hơn cả. Trên giải phẫu bệnh lý thường thấy tổn thương phần gốc của sừng sau và phần bên của cột bên ở một vài khoanh đoạn tủy, làm cho ổ nhồi máu có hình “bút chì”. Đường kính ổ nhồi máu phụ thuộc vào mức độ thiếu máu, triệu chứng lâm sàng cơ bản là rối loạn cảm giác kiểu phân ly giống như bệnh rỗng tủy (syringomyelia). Nhồi máu kiểu tương tự như vậy cũng được mô tả trong những trường hợp ngừng tim tạm thời (khi phẫu thuật tim) và trong hội chứng Morgagni – Adams – Stokes.

Những năm gần đây nhiều tác giả nhấn mạnh đến rối loạn tuần hoàn tĩnh mạch song những biểu hiện lâm sàng chưa được nghiên cứu kỹ. Người ta nhấn mạnh rằng nhồi máu tủy nguyên nhân do tĩnh mạch thường khu trú ở vùng chất xám (vùng giữa của hệ thống tĩnh mạch trước và tĩnh mạch sau), ổ lan rộng và mang tính chất chảy máu. Nguyên nhân nhồi máu tủy do tĩnh mạch thường gặp như bị đè ép tĩnh mạch rễ, viêm tắc tĩnh mạch, do nhiễm khuẩn, u mạch máu và các bệnh u khác của tủy sống. Hình ảnh vi thể của vùng thiếu máu chủ yếu là bị phù nề và là nguyên nhân chủ yếu đưa tới phù gian bào, đặc biệt thấy rõ ở các chất trắng.

Về mặt lâm sàng nhồi máu do tĩnh mạch hoặc do động mạch là rất giống nhau.

  • Rối loạn tuần hoàn tủy mạn tính:

Năm 1967 Neumayer viết chuyên đề về rối loạn tuần hoàn tủy mạn tính. Bệnh lý tiến triển chậm nhưng triệu chứng lâm sàng tiến triển tăng dần lên. Nguyên nhân chủ yếu là do động mạch chủ bị xơ vữa nặng dần dẫn đến tình trạng các lỗ, nơi các động mạch liên sườn và thắt lưng cùng tác ra từ động mạch chủ bị nhỏ lại. Mặt khác, chính bản thân động mạch tủy sống có hiện tượng loạn dưỡng mờ đục, thành động mạch trở nên dày và lòng động mạch hẹp lại. Hậu quả này gây thiếu oxy trường diễn, đặc biệt ở chất xám, các ổ thoái hoá thiểu dưỡng gây teo và chết các tế bào sừng trước tủy, có các ổ hoại tử nhỏ, sau đó trở thành các nang, phản ứng tăng sinh thần kinh đệm, không có các tổ chức hạt. Những biến đổi ở chất trắng ít gặp hơn nhưng ở đây cũng thấy hình thành các nang nhỏ, các ổ thoái hoá myelin, phù gian bào ở vùng rìa bên ngoài ổ hoại tử. Khi cắt tủy thấy có màu xám nhạt, ranh giới giữa chất xám và chất trắng không rõ ràng. Trong cơ chế bệnh sinh cũng cần nhấn mạnh rằng, ngoài nguyên nhân của bản thân động mạch tủy hoặc những động mạch đi tới tủy thì rối loạn tuần hoàn chung toàn cơ thể cũng đóng một vai trò quan trọng.

Những biểu hiện lâm sàng rối loạn tuần hoàn tủy sống mạn tính rất khác nhau. Vì thiểu dưỡng oxy kinh điển, gây tổn thương các tế bào sừng trước tủy sống là điều chủ yếu, nên lâm sàng và tiến triển của nó rất giống thể viêm tủy xám và bệnh xơ cột bên teo cơ. Đặc điểm lâm sàng nổi bật là liệt nhẽo chi, teo cơ, có rung giật bó sợi cơ và sợi cơ. Xuất hiện triệu chứng tháp ở mức độ rất nhẹ. ở giai đoạn muộn có thể thấy thêm hội chứng hành não. Đôi khi gặp thể lâm sàng kiểu liệt cứng hai chi dưới, tiến triển chậm, tăng dần có từng đợt bại (liệt) hai chân và rối loạn cơ thắt, thể này thường gặp ở người đứng tuổi và người cao tuổi.

Cũng có thể gặp những hội chứng khác do phụ thuộc vào khu trú ổ tổn thương mạch máu tủy gây ra.

* Hội chứng động mạch tủy trước

  • Định khu tổn thương các động mạch tủy:
  • Đau cổ – gáy hoặc đau lưng đột ngột.
  • Hạ liệt tiến triển
  • Hạ liệt mềm và nhanh chóng thành liệt cứng.
  • Mất phản xạ lúc khởi đầu sau đó là tăng phản xạ.
  • Có mức rối loạn cảm giác đau.
  • Còn cảm giác bản thể, xúc giác nhẹ và cảm giác.
  • Bí tiểu.
  • Dị cảm kiểu đau, bỏng dưới mức tủy bị tổn thương (trong giai đoạn mạn).

* Hội chứng động mạch tủy sau:

  • Mất cảm giác bản thể, rung; rối loạn xúc giác nhẹ và có mức rối loạn cảm giác.
  • Còn cảm giác đau và nhiệt độ, trừ mức rối loạn cảm giác do khoanh tủy bị tổn thương.
  • Không có rối loạn vận động.
  • Mất phản xạ gân xương và phản xạ da ở mức khoanh đoạn tủy bị tổn thương.

Cận lâm sàng.

Tuy bệnh lý tuần hoàn tủy hiếm gặp nhưng khi có những tổn thương đột ngột, các chức năng của tủy sống thì các phương pháp chẩn đoán về mạch máu tủy sống càng cần được chỉ định.

Quan trọng nhất là chụp cắt lớp vi tính đơn độc hoặc kết hợp với MRI hoặc chụp tủy cản quang.

Trên phim chụp CT có thể thấy phù nề tủy sống. Nhưng do khó xác định được ranh giới không gian trên hình ảnh hẹp nên ít được ứng dụng trong thiếu máu tủy, chảy máu tủy sống có thể được quan sát rõ trên phim CT.

+ MRI cho phép quan sát được nhiều chi tiết của tủy vì vậy nó là phương pháp đặc hiệu trong nhồi máu tủy. Nó có thể giúp ích trong chẩn đoán loại trừ các nguyên nhân khác của bệnh lý tủy sống như các tổn thương chèn ép, u nội tủy hoặc rỗng tủy.

Trên phim MRI vùng tủy bị nhồi máu có đường kính lớn hơn bình thường, ở giai đoạn cấp trên các hình ảnh T2 có thể thấy các tổn thương tăng tín hiệu. Tuy nhiên trong những giờ đầu hình ảnh T2 có thể bình thường. Khi hàng rào máu – tủy bị tổn thương có thể thấy ngấm thuốc cản quang ở ổ nhồi máu. ở giai đoạn bán cấp ổ nhồi máu thường tăng tín hiệu trên phim T2, ở giai đoạn muộn tăng tín hiệu trên ảnh T2 thấy rõ nhất với độ nhậy khoảng 86%.

Trong MRI có độ nhậy cao trong chẩn đoán nhồi máu tủy sống nhưng không phải trường hợp nào cũng xác định được.

  • Xét nghiệm dịch não tủy

Trong chảy máu tủy sống thấy nhiều hồng cầu trong dịch não tủy.

Chẩn đoán.

Chẩn đoán rối loạn tuần hoàn tủy cấp tính, cơ bản dựa trên: bệnh cảnh tiến triển cấp tính, đôi khi tiến tới cấp tính. Trong tiền sử có những đợt xuất hiện hoặc tái diễn nhiều lần (cách hồi) triệu chứng tổn thương tủy, có triệu chứng vữa xơ động mạch và bệnh lý ở các cơ quan khác (phẫu thuật trên động mạch chủ, u đè ép động mạch,…). Trên lâm sàng có hội chứng thần kinh khu trú như hội chứng tổn thương cắt ngang hoàn toàn tủy hoặc nửa tủy (hội chứng Browwn – Sequard), hội chứng P. A. Preobrazenski, không có hội chứng nhiễm khuẩn, có bệnh lý khác như vữa xơ động mạch, hoặc các bệnh lý gây tổn thương đè ép động mạch.

Song ở nhiều trường hợp sự phân biệt khác nhau giữa nhồi máu tủy sống do vữa xơ động mạch với viêm tủy ngang hoặc tổn thương mạch máu tủy thứ phát trong bệnh lý cột sống là rất khó khăn. Đặc biệt khó khăn trong các trường hợp bệnh tiến triển cấp tính mà có kèm theo sốt nhẹ. Xét nghiệm dịch não tủy có ý nghĩa chẩn đoán quyết định.

Trong những năm gần đây bắt đầu tiến hành chụp động mạch tủy chọn lọc. Nhờ có những kết quả này mà phát hiện được vị trí hẹp hoặc tắc động mạch. Chụp động mạch được tiến hành theo phương pháp Sheldinger (luồn cateter qua động mạch bẹn rồi đưa tới chỗ tách của động mạch liên sườn hoặc động mạch thắt lưng để chụp).

Nhồi máu tủy nguyên nhân do đè ép các động mạch đi vào tủy (các động mạch ngoài tủy) mà bệnh lý chủ yếu của cột sống (hư xương sụn). Cần chú ý rằng ở bệnh nhân đã tồn tại một thời kỳ đau theo kiểu rễ, trên phim X quang thấy những biến đổi cột sống phù hợp. Nếu ghi ngờ do chèn ép của thoát vị đĩa đệm lúc này cần chụp tủy cản quang (chụp đĩa đệm, chụp bao rễ thần kinh, chụp màng cứng phía trước, chụp tĩnh mạch gai sống,…).

Trường hợp trong tiền sử có những triệu chứng tủy sống xảy ra cách hồi, lâm thời, thoảng qua nhanh chóng, lúc này cần khai thác bệnh sử kỹ càng và làm các xét nghiệm về vữa xơ động mạch để xác định chẩn đoán.

Chẩn đoán phân biệt giữa rối loạn tuần hoàn tủy sống mạn tính với xơ cột bên teo cơ là rất khó khăn. Những điểm nói lên quá trình bệnh lý tủy do mạch máu như: người bệnh tuổi cao, xơ vữa động mạch lan rộng, liệt không đồng đều, có sự phân ly giữa khu trú liệt với loạn trương lực cơ, ngoài ra còn thấy dấu hiệu Babinski và giảm phản xạ cơ cắn. điều này ít gặp trong xơ cột bên teo cơ. Mặt khác vữa xơ động mạch ở bệnh nhân xơ cột bên teo cơ, qua kết quả của khá nhiều tác giả đã làm thuận lợi, tăng nhanh tiến triển của bệnh, xuất hiện sớm các triệu chứng hành não.

Chẩn đoán phân biệt tương đối khó là chẩn đoán bệnh lý tủy cổ gây ra do bệnh lý cột sống cổ (thoái hoá và hư xương sụn) cũng có trường hợp lâm sàng giống như xơ cột bên teo cơ. Chẩn đoán dựa trên người bệnh có triệu chứng đau rễ, có biến đổi của xương cột sống cổ trên phim X quang (X quang thường cũng như chụp tủy cản quang). Còn nếu là xơ cột bên teo cơ ta thường thấy sự không phù hợp giữa biến đổi cột sống với những tônr thương tủy sống nặng nề trên bệnh nhân.

Tóm lại, cho đến nay, tất cả những vấn đề trong thiếu máu tủy sống còn phải bàn cãi, thực ra khái niệm này đã có những biến đổi cơ bản. Còn những vấn đề gì thuộc chảy máu (xuất huyết) tủy sống, nói chung không có gì thay đổi lắm. Tuy vậy việc chẩn đoán giữa chảy máu tủy và nhồi máu tủy chưa được tốt lắm, do lâm sàng của nhồi máu tủy rất đa dạng. Trong thời bình, chảy máu tủy sống ít gặp hơn là nhồi máu tủy sống. Chảy máu tủy có đặc điểm nổi bật là phát triển rất tối cấp, nguyên nhân là do chấn thương hoặc do các bệnh máu gây ra. Tổn thương hay gặp nhất ở phình tủy cổ và thường hay chảy máu ở hệ mạch phong phú nhất, cung cấp máu cho chất xám và thường là ở sừng sau. Do đó trên lâm sàng nổi lên hàng đầu là những rối loạn khoanh đoạn tủy ở một bên, đôi khi thấy có rối loạn cảm giác đau và nhiệt độ cả hai bên trên một đoạn dài vài khoanh đoạn tủy. Cũng có khi quá trình bệnh lý lan sang cả hệ động mạch của sừng trước, ổ máu tụ đè cả vào cột sống nên xuất hiện những triệu chứng điển hình của hội chứng Brown – Sequard. Cũng có thể gặp trường hợp tổn thương toàn bộ mặt cắt ngang tủy sống. Song trong trường hợp này, những triệu chứng tổn thương chất xám thường nhanh chóng hồi phục, còn những triệu chứng tổn thương chất trắng trở nên cố định và tồn tại bền vững.

Điều trị và dự phòng.

Điều trị:

Điều chủ yếu trong điều trị rối loạn tuần hoàn tủy sống là điều trị bệnh chính như điều trị chống xơ vữa động mạch. Dùng các thuốc giãn mạch, giảm trương lực mạch, vitamin nhóm B và vitamin C, điều trị bằng các phương pháp nhiệt. Nếu có thoái hoá cột sống hoặc hư xương sụn thì tiến hành điều trị phù hợp (kéo giãn, chỉnh hình, thuốc và bằng các phương pháp vật lý trị liệu). Cũng có thể điều trị bằng phương pháp ngoại khoa (cắt bỏ cung sau, mở rộng lỗ tiếp hợp, cắt mỏ xương, loại bỏ các thoát vị đĩa đệm) nhằm loại bỏ các nguyên nhân gây đè ép vào tủy sống và hệ thống mạch máu.

Điều trị nhồi máu tủy sống trong giai đoạn cấp nhằm tăng cường tuần hoàn bàng hệ (cho thuốc giãn mạch, duy trì huyết áp ổn định, tăng cường hoạt động của tim), đề phòng tạo cục nghẽn tắc mới (thrombus), chống phù ở tế bào.

Các thuốc trợ tim mạch như: cordiamin, strophantin, có chỉ định dùng các thuốc chống đông: heparin, trong 2 – 3 ngày, sau đó cho các thuốc chống đông gián tiếp (neuodicunmarini, syncumar) với sự kiểm soát chặt chẽ của các xét nghiệm về đông máu, tỷ lệ prothrombin không được dưới 70%.

Nếu rối loạn tuần hoàn tủy do thoát vị đĩa đệm, chấn thương cột sống… thì phải kịp thời phẫu thuật.

Sau khi các triệu chứng cấp tính đã hết, để lại những triệu chứng tổn thương tủy như: yếu, liệt ngoại vi có chỉ định dùng các loại thuốc chống men cholinestelaza (proserin, galantamin, nivalin…). Trong những trường hợp liệt cứng kiểu trung ương có tăng trương lực cơ nên dùng các loại thuốc là giảm trương lực cơ như: mydocalm, mellictini, liorezan, elatini. Cũng cần cho các loại thuốc kích thích sinh vật, tạo điều kiện tiêu tan các tổ chức hoại tử và sẹo.

Chống loét, chống nhiễm khuẩn đường tiết niệu.

Cần chỉ định sớm xoa bóp, thể dục trị liệu và điều trị bằng các phương pháp vật lý ở các chi liệt (điện phân các ion kali, các phương pháp nhiệt…). Cũng có thể điều trị tại các an dưỡng đường, các biện pháp phục hồi chức năng khác.

Trong điều trị chảy máu tủy cần bất động tuyệt đối và điều trị bệnh chính.

Trong giai đoạn di chứng điều trị giống như điều trị nhồi máu tủy.

Điều trị dự phòng:

Điều trị các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, bệnh tim, đái tháo đường. Điều trị chống đông trong các bệnh rối loạn nhịp tim có nguy cơ gây cục nghẽn tắc.

Với sự hoàn thiện của phương pháp chụp động mạch tủy sống chọn lọc, những năm tới đây người ta có thể tiến hành phẫu thuật các chỗ hẹp của động mạch nuôi tủy, đặc biệt động mạch nuôi phình tủy thắt lưng. Những phẫu thuật này cũng giống như những phẫu thuật trên các động mạch lớn của não sẽ thành công trong các trường hợp chức năng của tủy chưa có gì rối loạn nghiêm trọng. Có chỉ định phẫu thuật trong các trường hợp rối loạn tuần hoàn tủy lâm thời.

Tiên lượng:

Tiên lượng phụ thuộc vào mức độ tổn thương mô của tủy sống và phụ thuộc vào bệnh căn.

Khoảng 24% bệnh nhân không có sự thuyên giảm.

20% còn di chứng rất ít ỏi, số còn lại thuyên giảm ở các mức độ khác nhau. Triệu chứng đau còn tồn tại một thời gian dài sau rối loạn tuần hoàn tủy.

Đa u tủy xương (bệnh Kahler) – Triệu chứng, điều trị

Tên khác: bệnh Kahler, u tương bào đa ổ của xương, bệnh u tủy xương tương bào, đa u tương bào ở xương.

Định nghĩa

Bệnh có những đặc điểm sau: sinh sản ác tính dòng tương bào ngay ở trong tủy xương, với biểu hiện lâm sàng là có nhiều ổ khu trú trong tủy xương, gây ra đau và gãy xương bệnh lý.Đa u tủy xương

Tỷ lệ mắc bệnh

5 trường hợp mới mắc hàng năm trong số 10.000 dân.

Căn nguyên

Không biết. Sự tổng hợp bình thường những immunoglobulin bị cản trở, khi những tương bào bất thường (bệnh lý, ác tính) tổng hợp quá mức một typ (lớp) thuần nhất immunoglobulin (đơn clôn, hoặc đơn dòng), thường là typ IgG (55% số trường hợp), IgA (20% số trường hợp), hiếm gặp các typ IgD và IgE. Sự tổng hợp những chuỗi nặng và chuỗi nhẹ của những immunoglobin này * không còn cân bằng nữa. Những chuỗi nhẹ (kappa, lambda) được tổng hợp quá mức và được bài tiết ra nước tiểu tạo thành chứng protein niệu Bence-Jones.

Triệu chứng

Bệnh thường xuất hiện sau tuổi 40 và nam giới mắc bệnh nhiều gấp hai lần so với nữ giới.

ĐAU XƯƠNG: đau thường xuyên, thường khu trú ở xương sườn, xương ức, cột sống, xương đòn, xương sọ, và các xương chi.

GÃY XƯƠNG BỆNH LÝ: do tiêu xương gây ra, đặc biệt là lún hoặc gãy vỡ đốt sống, đôi khi gây chèn ép tủy sống hoặc gãy xương sườn.

NHIỄM KHUẨN MẮC ĐI MAC LẠI

TỔN THƯƠNG THẬN: do các chuỗi nhẹ của immunoglobulin kết tủa ở pH 5. Diễn biến tới suy thận (xem: viêm tiểu cầu thận do đa u tủy xương).

U TƯƠNG BÀO: Hình thành các khối u cấu tạo bởi tương bào.

NHỮNG TRIỆU CHỨNG KHÁC: có thể thấy các khối u ngoài tủy xương, nhất là ở da, vùng miệng- họng, hoặc khối u chèn ép vào các
dây thần kinh ngoại vi (bệnh thần kinh ngoại vi). Lách và gan không to. Đôi khi, có hội chứng Raynaud.

BIẾN CHỨNG: thiếu máu tan máu, suy tủy xương với giảm bạch cầu hạt trung tính, giảm tiểu cầu và hội chứng chảy máu. Thoái hoá dạng tinh bột. Tăng độ nhớt của máu có thể gây ra suy nhược, nhức đầu, rối loạn thị giác, bệnh võng mạc, và bệnh não.

Xét nghiệm cận lâm sàng

  • Tốc độ lắng máu: tăng nhiều (> 100 mm trong giờ đầu tiên).
  • Huyết đồ: thiếu máu hồng cầu bình thường, đẳng sắc vừa phải, hồng cầu hình “trục lăn” (làm cho đếm hồng cầu trở nên khó khăn).
  • Protein huyết tương: tăng protein huyết. Điện di cho thấy trong huyết tương có immunoglobulin đơn clôn (đơn dòng) IgG, IgA và hiếm khi là IgD hoặc IgE. Hàm lượng IgG cao hơn 30 g/1 và hàm lượng IgA vượt trên 20 g/1. Miễn dịch điện di cho phép xác định những loại chuỗi nhẹ khác nhau.
  • Nước tiểu:protein niệu Bence- Jones thấy trong một nửa số trường hợp bệnh đa u tủy xương (và macroglobulin huyết Waldenstrom). Thực chất đây là những trùng phân của những chuỗi nhẹ kappa, những chất này được bài tiết ra nước tiểu quá 1 g/24 giờ. Những protein này nhạy cảm với nhiệt: chúng kết tủa ở 60°c và lại hoà tan ở 90°c.
  • Tủy đồ: tăng tương bào trong tủy xương tối hơn 30% (đặc hiệu) hoặc ở giữa 10% và 30%. Các tương bào bình thường về hình thái.
  • Sinh thiết tủy xương: xét nghiệm mô học cho thấy thâm nhiễm tương bào ở các giai đoạn biệt hoá khác nhau, với thể hiện bất đồng bộ nhân-bào tương (nhân và bào tương của tế bào không ở cùng giai đoạn biệt hoá như nhau). Bệnh tác động đến tủy xương từng phần.
  • Tăng độ nhớt của máu: do tăng protein huyết.
  • Tăng calci huyết, tăng acid uric huyết và hay thấy những dấu hiệu hoá sinh của suy thận.

Những xét nghiệm bổ sung: xét nghiệm X quang bộ xương có thể thấy loãng xương tràn lan hoặc những vùng tiêu xương điển hình, những lỗ hổng mất mảnh xương ở sọ, ở xương chậu, và ở những xương dài, hoặc thấy loãng xương lan rộng.

Chẩn đoán căn cứ vào

  • Bệnh nhân yếu ớt, gầy, thiếu máu, nhiễm khuẩn mắc đi mắc lại.
  • Đau ở xương thường xuyên, đau tăng khi vận động.
  • Tốc độ máu lắng tăng, tăng globulin huyết.
  • Tăng tương bào trong tủy xương và có immunoglobulin đơn clôn.

Chẩn đoán phân biệt: với các bệnh: bệnh gammaglobulin đơn clôn lành tính, di căn ung thư vào tủy xương, bệnh macroglobulin-huyết Waldens­trom, bệnh xương Paget, u lympho nốt (cục) ác tính với khu trú xương, tăng tương bào do phản ứng (trong bệnh nhiễm khuẩn, trong bệnh dị ứng, bệnh lupus ban đỏ). Trong những bệnh này không thấy xuất hiện đồng thời tăng tương bào ở tủy xương với immunoglobulin đơn clôn, là đặc tính riêng của bệnh đa u tủy xương.

Bảng 3.23. Đa u tủy xương

Lâm sàng Bệnh sinh
Thiếu máu Suy tủy xương, loãng máu, thời gian sống của hồng cầu giảm, suy thận.
Tiêu xương Tăng tiêu xương huỷ cốt bào
Bệnh thận Kết tủa chuỗi nhẹ ở pH 5
Nhiễm khuẩn Suy giảm tổng hợp những ¡mmunoglobulin bình thương.
  Giảm chức năng kháng khuẩn của những bạch cầu hạt và bạch cầu đơn nhân, nhiễm khuẩn càng năng thêm do giảm bạch cầu hạt trung tính từ hậu quả suy tủy xương.
Tăng độ nhởt của máu do tăng protein huyết

Những tiêu chuẩn chính để chẩn đoán

SINH THIẾT: Quan sát mô học cho thấy một khối u tương bào ngoài tủy xương TỦY Đổ: Tăng tương bào trong tủy xương cao hơn 30%

MÁU: điện di huyết thanh có đỉnh đơn clôn trong vùng alpha 2, bêta, hoặc gamma.

Cận protein huyết IgG > 35 g/l. Cận protein huyết IgA > 20 g/l Nước tiểu: bài tiết chuỗi nhẹ > 1 g/24 giờ (protein niệu Bence-Jones).

Những tiêu chuẩn phụ dế chẩn đoán:

TỦY Đổ: tăng tương bào trong tủy xương ở giữa 10% và 30%

MÁU: giảm immunoglobulin huyết thanh

Những dấu hiệu không dặc hiệu: thiếu máu, tăng calci huyết, tăng nitơ huyết, giảm albumin huyết, xương mất muối khoáng, và gãy xương tự phát.

Giai đoạn I CÓ TẤT CẢ CÁC TIÊU CHUẨN DƯỚI ĐÂY:

(Khối lượng u – Hemoglobin cao hơn 10 g % thấp)

  • Calci huyết bình thường.
  • Không có bất kỳ tổn thương tiêu xương nào hoăc chỉ có một tổn thương đơn độc
  • Immunoglobulin đơn clôn huyết thanh: IgG < 5 g% và IgA < 3 g%.
  • Nước tiểu: protein Bence-Jones dưới 4 g/24 giờ.

Giai đoạn II  KHÔNG CÓ NHỮNG TIÊU CHUẨN CỦA GIAI ĐOẠN I VÀ CỦA GIAI ĐOẠN III

Giai đoạn III CÓ MỘT HOẶC NHIỂU NHỮNG TIÊU CHUẨN DƯỚI ĐÂY:

(khối lượng u cao) – Hemoglobin thấp hơn 8,5 g%.

  • Calci-huyết cao hơn 12 mg%.
  • Có các tổn thương tiêu xương rải rác.
  • Immunoglobulin đơn clôn huyết thanh: IgG > 7 g% và IgA > 5 g%.
  • Nước tiểu: protein Bence-Jones cao hơn 12 g/24 giờ.

Tiên lượng

Thời gian sống thêm trung bình của những bệnh nhân được điều trị là 3 đến 4 năm. Tiên lượng tốt hơn đối với những thể khu trú mà biện pháp điều trị triệt để có thể áp dụng được.

Điều trị

  • Các biện pháp toàn thân: đảm bảo cơ thể đủ nước để tránh protein kết tủa ở ống thận. Động viên bệnh nhân hoạt động vừa phải để cân bằng âm về calci không bị nặng thêm (tránh để bệnh nhân nằm kéo dài).
  • Liệu pháp hoá chất: không có liệu pháp đa hoá chất nào tỏ ra hơn so với điều trị bằng một chất akyl-hoá đơn thuần (melphalan, cyclophosphamid), tuỳ tình hình có thể kết hợp thêm với liệu pháp corticoid cách quãng. Trong trường hợp kháng thuốc, đôi khi người ta phối hợp với vincristin và doxorubicin (adriamycin). Liệu pháp hoá chất có cải thiện chất lượng của thời gian sống thêm nhưng không kéo dài thời gian này thêm được nhiều.
  • Liệu pháp bức xạ: có ích để làm giảm đau ở xương cho bệnh nhân, và có ích đối với những thể khu trú nhưng không phẫu thuật được.
  • Phẫu thuật: cắt mảnh đốt sống trong trường hợp chèn ép tủy sống. Đôi khi cắt bỏ khối u tương bào nếu có thể.
  • Thay huyết tương: có thể có ích trong trường hợp tăng độ nhớt của máu.
  • Ghép tự thân tế bào nguồn tạo huyết: có thể được xem xét ở những đối tượng dưới 60 tuổi, sau đó cho interferon alfa.

Bệnh Viêm hoại tử ruột non ở trẻ

Viêm hoại tử ruột non là bệnh nhiễm trùng đường tiêu hoá do vi khuẩn kỵ khí Clostridium perfringens type C. Trước đây, hàng năm có vào khoảng 100 trường hợp. Viêm hoại tử ruột non nhập viện; nhưng từ năm 1990 trở lại đây bệnh lý này rất ít gặp. Ngoại độc tố β của vi trùng gây viêm, phù nề, hoại tử, xuất huyết từng mảng ở ruột non, chủ yếu là vùng hỗng tràng. Biến chứng nặng là sốc và tắc ruột hoặc thủng ruột. Tại Papua New Guinea từ khi áp dụng chủng ngừa đã làm giảm đáng kể tỉ lệ bệnh này.

CHẨN ĐOÁN

Công việc chẩn đoán

  1. Hỏi bệnh
    • Yếu tố dịch tễ và địa phương: ngoại thành, các tỉnh miền đông Nam bộ. Tháng cao điểm là tháng 4 – 5.
    • Ngày bệnh: thường cấp tính ngày thứ 2 – 4.
    • Khởi phát: đau bụng, nôn ói, sốt nhẹ, tiêu chảy phân hôi, tiêu máu.
  2. Khám lâm sàng
    • Dấu hiệu sinh tồn.
    • Dấu hiệu sốc: thường xảy ra trong 4 ngày đầu tiên.
    • Bụng chướng, đo vòng bụng, khối u vùng hạ sườn phải.
    • Màu da: da nổi bông trong sốc nặng.
    • Thăm trực tràng, sonde trực tràng: phân nâu đỏ hoặc như nước rửa thịt, hôi.
  3. Đề nghị cận lâm sàng
    • CTM, tiểu cầu.
    • X-quang bụng:

Dấu hiệu phù nề thành ruột, liệt ruột, bán tắc ruột, dịch ổ bụng. Trong trường hợp nghi ngờ chẩn đoán có thể lặp lại sau 12 – 24 giờ.

Trong trường hợp có biến chứng ngoại khoa: mức khí dịch phân tầng (tắc ruột), liềm hơi dưới cơ hoành (thủng ruột).

  • Ion đồ, đường huyết.
  • Siêu âm bụng: phù nề thành ruột, hạch mạc treo, dịch ổ bụng. Ngoài ra siêu âm còn giúp chẩn đoán phân biệt lồng ruột.

Chẩn đoán xác định

  • X-quang bụng không sửa soạn: dấu dày thành ruột.
  • CTM: bạch cầu tăng, chuyển trái.
  • Lâm sàng: đau bụng, sốt, tiêu máu nâu đỏ hoặc như nước rửa thịt. Sốc vào ngày ngày 2 – 3 kèm da nổi bông.
  • Dịch tễ: ngoại thành, miền Đông Nam bộ.

Chẩn đoán phân biệt

  • Sốt xuất huyết: bầm máu da, tiểu cầu giảm, tiêu phân đen, gan to.
  • Lỵ trực trùng: hội chứng lỵ, tiêu đờm máu.
  • Lồng ruột: trẻ 6 – 12 tháng, tiêu máu đỏ.

Phân loại dạng lâm sàng Viêm hoại tử ruột non trẻ emPhân loại dạng lâm sàng Viêm hoại tử ruột non trẻ em

ĐIỀU TR

  1. Nguyên tắc điều trị
    • Bù dịch chống sốc.
    • Kháng sinh chống vi khuẩn kỵ khí.
    • Phẫu thuật cắt bỏ đoạn ruột hoại tử trong trường hợp sốc hoặc có biến chứng ngoại khoa.
    • Điều trị biến chứng.
  1. Viêm hoại tử ruột non có sốc
  • Bù dịch và chống sốc

Điều trị sốc: Lactated Ringer hoặc Normal saline: 20 ml/kg TTM nhanh trong vòng 15 phút hoặc bơm trực tiếp, sau đó TTM Dextran 70 trong NaCl 0,9% 20 ml/kg/15 – 60 phút:

+  Nếu đáp ứng tốt truyền tiếp tục Dextran 70, 10 ml/kg/giờ trong 2 – 3 giờ.

+ Nếu vẫn chưa ra sốc đo CVP: nếu CVP thấp, truyền Dextran. Trong những trường hợp sốc nặng, lượng dịch truyền khoảng 60 ml/kg trong 1 – 2 giờ đầu. Nếu CVP bình thường có thể phối hợp Dopamin.

– Trong trường hợp sốc kèm nổi bông nên có chỉ định sớm Dopamin ngay sau khi đã truyền liều đầu đại phân từ. Khi ra sốc truyền dịch duy trì Dextrose saline 10 ml/kg/giờ, sau đó giảm dần tùy đáp ứng lâm sàng.

  • Kháng sinh: Cefotaxim 200 mg/kg/ngày, TM mỗi 6 giờ.
  • Đặt sonde dạ dày dẫn lưu.
  • Điều trị triệu chứng:

Hạ đường huyết Dextrose 30% 1-2 ml/kg

Rối loạn điện giải (xem phác đồ rối loạn điện giải).

Sốt: Prodafalgan 25 mg/kg/lần TMC (xem phác đồ điều trị sốt).

  • Phẫu thuật cắt bỏ đoạn ruột hoại tử:

Mục đích phẫu thuật là loại bỏ đoạn ruột chứa đầy vi khuẩn và độc tố vì thế cần phải phẫu thuật sớm ngay khi bệnh nhân ổn định hoặc ra sốc: tỉnh táo, huyết áp tâm thu > 80 mmHg, mạch < 160 lần/phút, thở < 60 lần/phút, nước tiểu > 1 ml/kg/giờ, giảm da nổi bông.

Trong và sau khi phẫu thuật bệnh nhân phải được tiếp tục hồi sức sốc.

  1. Viêm hoại tử ruột non không sốc

Điều trị ban đầu

  • Bù dịch: lượng dịch cần bù bằng lượng dịch mất qua sonde dạ dày, tiêu lỏng và nhu cầu căn bản. Dung dịch được chọn là Dextrose 5% in Lactate Ringer hay Dextrose 5% trong Natri clorua 4,5‰, chú ý pha thêm Kali clorua 1-2 mEq/100 mL dịch ngay khi có nước tiểu.
  • Kháng sinh: Cefotaxim: 100 mg/kg/ngày, TM mỗi 6 giờ.
  • Nhịn ăn, đặt sonde dạ dày dẫn lưu trong 24 – 48 giờ đầu.

Điều trị tiếp theo

  • Chỉ định phẫu thuật: sau 6 – 24 giờ điều trị nội khoa, tình trạng bệnh nhân xấu hơn: sốc, bụng chướng tăng dần kèm lượng dịch qua sonde dạ dày nhiều > 100 ml/6 giờ, xuất huyết tiêu hóa ồ ạt phải bù máu, hoặc có biến chứng ngoại khoa.
  • Dinh dưỡng: khi lâm sàng đáp ứng tốt: hết sốt, tiêu phân vàng, dịch dạ dày lượng ít và trắng trong, bụng hết chướng thì bắt đầu cho ăn đường miệng, bắt đầu với nước đường, sữa, sau đó cháo hoặc cơm.
  • Truyền máu: khi Hct < 30%, truyền máu tươi toàn phần 10 – 20ml/kg.
  • Kháng sinh: duy trì kháng sinh trong thời gian 7 – 10 ngày.
  • Sổ giun: Mebendazol hay Pyrantel palmoate.
  1. Viêm ruột hoại tử có biến chứng ngoại khoa

Các trường hợp có biến chứng ngoại khoa tắc ruột, thủng ruột sẽ phẫu thuật cắt nối ruột sau khi điều chỉnh xong tình trạng mất nước và rối loạn điện giải.

  1. Săn sóc và theo dõi
    • Có sốc: dấu hiệu sinh tồn mỗi 30 phút trong lúc sốc, lượng nước tiểu, lượng và tính chất phân, vòng bụng.
    • Không sốc: dấu hiệu sinh tồn mỗi 1 – 2 giờ, lượng nước tiểu, lượng và tính chất dịch dạ dày, phân, vòng bụng.
    • Theo dõi bụng ngoại khoa: dấu hiệu tắc ruột, thủng ruột.
    • Cận lâm sàng:

Hct, ion đồ, đường huyết.

X-quang bụng đứng, siêu âm bụng nếu nghi ngờ biến chứng ngoại khoa.

  1. Tái khám

Tất cả bệnh nhân, nhất là các trường hợp có phẫu thuật cắt nối ruột phải được tái khám hàng tháng ít nhất trong 6 tháng đầu để theo dõi cân nặng, các triệu chứng về tiêu hóa và kém hấp thu như đau bụng, nôn ói, tiêu chảy, chướng bụng.

Những bệnh cơ nguyên phát tiến triển (loạn dưỡng cơ tiến triển)

Tên khác: loạn dưỡng cơ tiến triển, loạn dưỡng cơ nguyên phát tiến triển, teo cơ tiến triển, bệnh cơ teo tuần tiến.

Định nghĩa

Nhóm những bệnh cơ thoái hoá, thường khởi phát ở tuổi trẻ em, đặc hiệu bởi yếu cơ và đôi khi bởi teo cơ hoặc giả teo cơ xảy ra ở một nhóm cơ nhất định. Yếu hoặc teo cơ biểu hiện ở cả hai bên, đối xứng. Những cơ ở gốc các chi bị yếu hoặc teo đầu tiên.

Căn nguyên

Có khả năng là một bất thường di truyền về chuyển hoá của các sợi (tế bào) cơ vân. Bệnh hay mang tính chất gia đình, di truyền theo những kiểu khác nhau đối với mỗi typ.

Các thể lâm sàng

LOẠN DƯỜNG DUCHENNE HOẶC BỆNH Cơ GIẢ PHÌ ĐẠI: là thể hay gặp nhất, do sai lệch gen DMD nằm trên ngành ngắn của nhiễm sắc thể X (vị trí Xp21), chỉ trẻ em trai mới mắc thể bệnh này. Trẻ em gái là những người lành mang gen bệnh, có thể phát hiện được bằng cách định lượng creatin phosphokinase (CPK) thấy hàm lượng enzym này cao trong máu, và nhất là bằng phân tích ADN. Bất thường về gen là nguyên nhân gây ra rối loạn tổng hợp chất dystrophin, một protein nằm trong thành phần của màng tế bào cơ vân và cần thiết để tế bào cơ (sợi cơ) hoạt động tốt.

Rối loạn bắt đầu biểu hiện ở trẻ em khoảng 3 năm tuổi, bởi suy giảm các cơ ở gần gốc chi và đi bộ khó khăn, rồi dáng đi trở nên đung đưa và hay bị ngã. Mới đầu teo cơ bị mô mỡ phát triển che lấp làm cho không nhận ra được (do đó gọi là giả phì đại).

Đến giai đoạn muộn, teo cơ nhìn thấy rõ cả ở chi trên, những biến dạng khớp trở nên cố định. Bệnh nhi hay bị gù-vẹo cột sống. Tới khoảng 12 tuổi thì bệnh nhi không thể đi được nữa và phải tỳ vào đùi mình để đứng lên. Thường có thêm rối loạn ở tim với thay đổi điện tâm đồ (sóng RS cao ở chuyển đạo Vl và sóng Q cao trong những chuyển đạo trước tim), bệnh nhi có thể bị suy hô hấp và nhiễm khuẩn, đôi khi có chậm phát triển tâm thần không tiến triển kết hợp.

Đa số bệnh nhi chết ở tuổi 15 do nhiễm khuẩn hô hấp. Hiện nay nhờ có kháng sinh nên thời gian sống thêm có thể kéo dài hơn, tuy nhiên hiếm trường hợp sống quá 25 tuổi.

Chẩn đoán được xác định bởi tăng phân đoạn MM của enzym creatin phosphokinase (CPK-MM) phát hiện được ngay từ những tháng đầu sau khi sinh, bởi điện tâm đồ, và tuỳ theo tình hình bằng sinh thiết cơ.

Phát hiện trước sinh có thể thực hiện được bằng cách lấy bệnh phẩm ở phôi thai và phân tích ADN. Yêu cầu phải có tư vấn di truyền.

BỆNH Cơ BECKER: bệnh tương tự như bệnh kể trên, nhưng khởi phát muộn hơn, vào khoảng từ 5-10 tuổi, và tiến triển rất chậm. Trẻ có thể đi được tới tuổi trưởng thành. Các bắp chân phì đại khá to và có thể có biến chứng tim. Bệnh nhân có thể sống tới tuổi già. Chẩn đoán trước sinh có thể thực hiện được bằng cách lấy bệnh phẩm ở phôi thai và phân tích ADN.

BỆNH Cơ MẶT-VAI-CÁNH TAY LANDOƯZY-DEJERINE: bệnh di truyền nhiễm sắc thể thân kiểu trội. Thường là do biến dị nhiễm sắc thể 4q35. Cả hai giới đều có thể mắc bệnh như nhau. Bệnh khởi phát từ trước tuổi 20, nhưng diễn biến chậm và tuổi thọ trung bình là bình thường. Mới đầu bệnh biểu hiện ở các cơ nét mặt (cơ bám da mặt) (bệnh nhân không thể thổi phồng một quả bóng hoặc không thổi sáo được), về sau bệnh nhân có nét mặt nhược cơ, với da nhẵn, nét mặt bất động, mắt mở to, miệng rộng. Những cơ của đai vai, cơ ngửa dài và những cơ của đai hông bị nhược cơ muộn hơn. Bệnh nhân không thể nhấc cao cánh tay lên khởi đầu; lực của các cơ ở cẳng tay và bàn tay vẫn không bị ảnh hưởng. Có thể có tăng huyết áp động mạch và điếc kết hợp Chẩn đoán trước sinh và phát hiện người lành mang gen di truyền có thể thực hiện được bằng phân tích ADN.

BỆNH CƠ VAI-CÁNH TAY ERB: khác với thể kể trên ở điểm thể này khởi phát ở tuổi vị thành niên và các cơ ở mặt không nhất thiết bị tác hại, và trong mọi trường hợp bị tác động thì đều muộn. Diễn biến thường chậm.

BỆNH CƠ LEYDEN-MOEBIUS (kiểu hoặc typ đùi-cẳng chân): teo cơ bắt đầu ở đai hông rồi lan tới thân người và gốc của chi trên; không tác hại tối các cơ ở mặt trong một thời gian dài. Diễn biến thường rất chậm, nhưng cũng có những thể dẫn tới tàn phế 20 năm sau khi khỏi phát.

BỆNH CƠ ở ĐOẠN XA KHỞỊ PHÁT MUỘN: bệnh di truyền nhiễm sắc thể thân kiểu trội, những rối loạn khởi phát vào khoảng từ 40-50 tuổi, thấy chủ yếu ở vùng Scandinavi.

BỆNH CƠ NHÃN CẦU: sụp mí, song thị (nhìn đôi), đôi khi liệt vận động nhãn cầu bên ngoài hoàn toàn. Chẩn đoán phân biệt với liệt mắt do liệt nhân thần kinh trung ương.

BỆNH CƠ VỚI LOẠN TRƯƠNG LỰC CƠ: (xem: loạn trương lực cơ bẩm sinh ở phần dưới).

Xét nghiệm cận lâm sàng

tăng creatin phosphokinase (CPK) trong máu. Trong nước tiểu creatin tăng hoặc giảm.

Sinh thiết cơ

Trong những thể kinh điển của bệnh cơ Duchenne không thấy có dystrophin. Hàm lượng dystrophin giảm mạnh ở những thể gần nhau (giống nhau). Trong thể Becker thì dystrophin hầu như bình thường về hàm lượng nhưng lại bất thường vì trọng lượng phân tử cao. Xét nghiệm mô học cho thấy có hoại tử những sợi cơ vân và mô cơ bị thay thế bằng mô mỡ hoặc mô liên kết.

Chẩn đoán

Căn cứ vào tính nổi trội của suy giảm vận động ở phần gốc các chi, các phản xạ gân cơ mất muộn, và vào tính chất di truyền của nhóm bệnh này.

Bệnh của các Cơ (bệnh cơ)

BỆNH CƠ NGUYÊN PHÁT TIẾN TRIỂN

Bệnh cơ Duchenne (di truyền liên kết giới tính)

Bệnh Becker (thể lành tính)

Bệnh cơ măt-vai-cánh tay, hoặc bệnh Landouzy-Dejerine. Bệnh cơ vai-cánh tay (bệnh Erb).

Bệnh cơ đoạn xa (typ Welander)

Bệnh cơ Leyden-Moebius (typ đùi-cẳng chân).

Bệnh cơ nhãn cẩu và nhãn cầu-họng.

Loạn trương lực cơ bẩm sinh (bệnh Thomsen).

Loạn trương lực cơ teo (bệnh steinet).

BỆNH CƠ TRONG NHỮNG RỐI LOẠN CHUYỂN HOÁ BẨM SINH

Các bệnh glycogen

  • Bệnh Pompe
  • Bệnh McArdle
  • Bệnh Taurui.

Thiếu hụt carnitin hoặc carnitin-palmityl-transferase. Các bệnh cơ ty thể (tiểu vật)

Bệnh cơ thể hình que

Bệnh cơ vi Ống hoặc trung tâm-nhân

Myoglobulin niệu bẩm sinh

Hội chứng tăng chuyển hoá Luft.

Hội chúng Keams-Sayre (bệnh cơ và liệt nhãn cấu)

Tăng thân nhiệt ác tính

CÁC BỆNH CƠ DO CHUYỂN HOÁ

Rối loạn chuyển hoá ion:

  • Liệt theo chu kỳ mang tính chất gia đinh (giảm kall huyết, tâng kali huyết).
  • Mất trương lực cơ theo chu kỳ hoặc bệnh Gamstorp. Loạn trương lực cơ bẩm sinh bệnh Myoglobulin niệu

Bệnh cơ do rượu Giảm kali huyết thứ phát.

Sử dụng những thuốc corticoid, chloroquin, vincristin, halothan, Clofibrat, acid aminocaproic, penicillamin, amphotericin B, zidovuin.

CÁC BỆNH CƠ DO NỘI TIẾT

Nhược năng tuyến giáp hoặc ưu năng tuyến giáp

Ưu năng truyến cặn giáp.

Hội chứng Cushing.

CÁC BỆNH CƠ DO VIÊM

Viêm đa cơ và viêm da cơ.

Già viêm đa khớp gốc chi

Xo cứng bì, hội chứng Shulman Bệnh u hạt Wegener.

Bệnh sarcoid.

Nhiễm tác nhân sinh vật (virus Coxsackie, toxoplasma, sán máng, giun xoắn, bênh ấu trùng sán lợn)

Các bệnh co do thoái hoá thần kinh

TỔN THƯƠNG SỪNG TRƯỚC TUỲ SỐNG (nơron vận động ngoại vi)

Xơ cứng cột bên teo cơ hoặc bệnh Charcot.

Teo cơ tiến triển do tuỳ sống:

-Teo các cơ mác hoặc bệnh Charcot-Marie-Tooth.

-Teo cơ do bệnh tủy sống hoặc bệnh Aran-Duchenne.

  • Teo cơ tủy sống trẻ em, hoâc bệnh Werdnig-Hoffmann, hội chứng Kugelberg-Welander.
  • Teo cơ tủy sống vai-mác hoặc hội chứng Stark-Kaeser.
  • Chứng khó đứng mất phản xạ di truyền hoặc hội chứng Roussy-Levy.
  • Hội chứng val-cánh tay Davidenkovv.

-Thất điếu tủy sống di truyền hoặc bệnh Friedreich.

-Liệt hành não tiến triển ở thiếu niên hoặc hội chứng Fazio-Londe.

-Di chứng bệnh bại liệt.

TỔN THƯƠNG RỄ TRƯỚC VÀ CÂC DÂY THÁN KINH NGOẠI VI

Những bệnh mạn tính:

Bệnh da dày thắn kinh phi đại

  • Viêm dây thắn kinh mô kẽ phl đại hoặc bệnh Dejerine-Sottas
  • Hội chứng Roussy-Comil.
  • Bệnh Refsum

Bệnh đa dây thần kinh mạn tính: loạn dưỡng porphyrin, bệnh tê phù (thiếu vitamin B1), bệnh phong, ngộ độc.

Những bệnh cấp tính:

  • Hội chứng Guillain-Barré
  • Bệnh viêm đa dây thần kinh cấp tính nhiễm khuẩn, nhiễm độc, chuyển hoá

Các bệnh khác

Bệnh nhược cơ nâng

Ngộ độc do độc tố của botulinum

Hội chứng Eaton-Lambert.

Hội chứng người cứng đơ (“stiff-man”), ức chế cholinesterase: do thuốc (neostigmln và các thuốc tương tự) và thuốc diệt côn trùng có phospho hữu cơ.

Chẩn đoán phân biệt: với những trường hợp teo cơ tủy sống có khởi phát muộn, ở những trường hợp này phân bố các cơ bị teo là ở phần xa (phần dưới, hoặc xa gốc) của các chi, thường có rung cơ và có phản ứng điện thoái hoá là những dấu hiệu không thấy có trong các bệnh cơ nguyên phát.

Điều trị: là điều trị triệu chứng, lý liệu pháp, phục hồi chức năng. Prednison (0,75 mg/kg/ngày) có thể làm giảm sự tiến triển của bệnh cơ Duchenne.

Ghi chú: Trong bệnh McArdle, sự thiếu hụt creatin phosphokinase của cơ vân cản trở glycogen thuỷ phân thành glucose và gây ra yếu cơ, gây ra co cứng đau cơ khi gắng sức, và gây ra myoglobulin-niệu. Những triệu chứng cũng như vậy thấy cả trong bệnh Tarui do thiếu hụt phosphofructokinase (xem bệnh tích glycogen).

Chứng nhồi máu cơ tim và cách xử trí

Đó là hiện tượng mạch máu nuôi tim (động mạch vành) bị tắc nghẽn khiến cơ tim chết đi và không thể hồi phục. Nếu không điều trị kịp thời, vùng cơ tim bị tổn thương sẽ lan rộng và dẫn đến tử vong. Nếu tổn thương nhỏ, bệnh nhân sẽ bị suy tim hoặc tăng nguy cơ đột tử.

Các yếu tố nguy cơ

Nhồi máu cơ tim thường xảy ra ở nam giới trên 45 tuổi và phụ nữ đã mãn kinh (sau 50 tuổi). Tuy nhiên, những người trẻ hơn cũng có thể bị tai biến này. Ngoài yếu tố tuổi tác, các yếu tố sau cũng làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim:

– Từng bị nhồi máu cơ tim hoặc thực hiện các thủ thuật cạn thiệp mạch vành.

– Bố hoặc anh được chẩn đoán bệnh mạch vành trước 55 tuổi; mẹ hoặc chị được chẩn đoán bệnh này trước 65 tuổi.

– Có một trong các bệnh tiểu đường, tăng cholesterol máu, tăng huyết áp, béo phì.

  • Hút thuốc lá.
  • ít hoạt động thể lực.

Về triệu chứng nhồi máu cơ tim, người ta thường nghĩ đến hình ảnh một người đột ngột ôm ngực kêu đau dữ dội và ngã xuống. Nhưng thực ra, nhiều bệnh nhân chỉ bị một cơn đau ngực nhẹ ở giữa xương ức và triệu chứng này có thể nhanh chóng qua đi, khiến người bệnh cho là bình thường. Những dấu hiệu sau đây có thể báo hiệu nhồi máu cơ tim:

  • Đau ngực: Phần lớn các cơn đau ngực xuất hiện ở giữa xương ức, kéo dài vài phút, sau đó hết rồi lại đau lại. Bệnh nhân có cảm giác như bị đè nặng, bóp nghẹt ở ngực.
  • Có cơn đau ở các vị trí khác như tay, lưng, cổ, hàm, thượng vị.
  • Khó thở: Thường đi kèm với đau ngực, nhưng có thể xuất hiện trước đó.
  • Các triệu chứng khác: Toát mồ hôi lạnh, nôn, choáng váng. Một số bệnh nhân có cảm giác như “trời sắp sụp”.

Tuy chứng nhồi máu cơ tim rất nguy hiểm nhưng nếu nhận biết sớm để điều trị kịp thời (dùng thuốc làm tan huyết khôi hoặc phẫu thuật nong động mạch vành), bệnh nhân sẽ. tránh được tử vong và những biến chứng sau đó.

Các biện pháp trên có thể hạn chế tối đa vùng cơ tim bị chết, hồi phục một số vùng mới tổn thương. Càng vào viện sớm, khả năng hồi phục hoàn toàn càng cao. Hiệu quả điều trị sẽ tốt nhất nếu bệnh nhân được xử trí trong vòng 1 giờ đầu.

Vì vậy, khi có những dấu hiệu báo trước cơn nhồi máu cơ tim kể trên, hãy đến ngay bệnh viện hoặc gọi ngay cấp cứu.

Tại cơ sở y tế, bác sĩ sẽ xác định xem có đúng bạn bị nhồi máu cơ tim hay không bằng cách hỏi các câu như: Cơn đau ngực bắt đầu từ lúc nào, đột ngột hay từ từ? Bạn đang làm gì khi đó? Mức độ đau như thế nào? Cơn đau kéo dài bao lâu? Có triệu chứng gì đi kèm (nôn, toát mồ hôi, choáng váng, cảm giác hồi hộp đánh trống ngực)?

Để xác định chẩn đoán, bác sĩ sẽ làm một số xét nghiệm như điện tâm đồ, chụp động mạch vành. Những biện pháp này cũng giúp bác sĩ lựa chọn phương pháp điều trị. Cách điều trị tốt nhất hiện nay cho chứng nhồi máu cơ tim là can thiệp mạch vành, và phẫu thuật này chỉ có tác dụng trong 12 giờ đầu.

Chẩn đoán và điều trị tăng sản thượng thận bẩm sinh ở trẻ em

Tăng sản thượng thận bẩm sinh (CAH) là một bệnh lý gia đình có yếu tố di truyền, do rối loạn tổng hợp hormon vỏ thượng thận, vì thiếu hụt các enzym, chủ yếu trong CAH là 21 – hydroxylase nên không sản xuất được cortisol. Sự thiếu hụt cortisol trong cơ thể dẫn tới sự tăng tiết ACTH từ tuyến yên, kích thích vỏ thượng thận tăng sinh và quá sản ra các chất trung gian, trong đó có androgen gây nam hoá với trẻ gái và dậy thì sớm ở trai và gái.

CHẨN ĐOÁN

Lâm sàng

Bệnh có thể gặp ở trai hay gái.

Bệnh được phân chia làm 4 thể.

Thể nam hoá đơn thuần (Không có mất muối)

  • Với trẻ trai

Khi mới sinh phát triển cơ thể và bộ phận sinh dục ngoài hoàn toàn bình thường.

Trong 6 tháng đầu lớn nhanh. Từ 2-3 tuổi phát triển cơ thể mạnh, cao to hơn so với tuổi, dương vật to lên nhanh, có sẫm màu phần sinh dục ngoài.

Từ 4-5 tuổi lớn bằng trẻ 8-10 tuổi, các dấu hiệu dạy thì: dương vật to, có lông mu, lông nách, mọc râu và lông cơ thể, mụn trứng cá ở mặt, giọng trầm, mặt già so với tuổi, cơ bắp rất phát triển, vạm vỡ dáng đàn ông. Riêng tinh hoàn vẫn ấu trĩ tương ứng với tuổi thực.

Phát triển trí tuệ bình thường, có thể có một số bất thường hành vi.

  • Với trẻ gái

Ngay lúc mới đẻ đã có bộ phận sinh dục ngoài bất thường – lưỡng giới giả.

  • Âm vật to, dài như dương vật.
  • Các môi lớn và bé dính liền nhau, hình dáng nhăn nheo giống bìu của trẻ trai, nhưng bên trong không sờ thấy tinh hoàn.
  • Niệu đạo và âm đạo thông nhau đổ vào một xoang ở gốc âm vật (dễ nhầm với tật lỗ đái thấp của trẻ trai).
  • Kiểu hình biến dạng của bộ phận sinh dục ngoài tuỳ mức độ thiếu hụt các enzym được quy định theo 5 thể của Prader, tật lưỡng giới giả (Pseudohermaphrodites).

Trẻ ngày càng lớn nhanh, nam hoá dần toàn cơ thể và bộ phận sinh dục ngoài. Sự chuyển giới hoàn toàn khi trẻ được 4-5 tuổi triệu chứng dậy thì sinh dục sớm.

Cả hai thể đều ngừng lớn hoàn toàn lúc 8-10 tuổi nên chiều cao vĩnh viễn không quá 140 – 145cm.

Thể mất muối

Có thể gặp ở trai hay gái. Xuất hiện ngay tuần đầu sau khi đẻ, dấu hiệu chủ yếu nôn nhiều, ỉa chảy mất nước và giảm sút cân.

Có thể: Tím tái, loạn nhịp tim, cơn ngừng thở apnea, suy tuần hoàn ngoại vi.

Với trẻ gái có thể thấy dấu hiệu chuyển giới nhẹ như phì đại âm vật, bộ phận sinh dục ngoài sẫm màu.

Với trẻ trai không có gì khác thường, dễ nhầm với hẹp môn vị, tắc ruột sơ sinh, tim bẩm sinh, hoặc dị ứng sữa bò, ỉa chảy mất nước cấp.

Nếu không xử lý kịp thời dễ nhanh chóng tử vong trong vài tuần.

Thể không cổ điển

Hầu hết đều có bộ phận sinh dục ngoài bình thường cả gái và trai khi sinh ra.

Phát triển cơ thể bình thường cho đến tuổi dậy thì (10 – 12 tuổi). Khởi phát muộn.

Có thể mọc lông sinh dục sốm, rậm lông tóc, nhiều lông tơ ở lưng, ngực, chân, mụn trứng cá ở mặt.

Với trẻ gái xuất hiện kinh nguyệt thất thường, mất kinh, không phát triển tuyến vú.

Thể cao huyết áp

Do thiếu hụt 11 ß-OH (11-deoxycortison). Hay gặp ở trẻ trai, tuổi thiếu niên, hiếm thấy trước 1-12 tuổi.

Huyết áp tăng cao không hằng định, có thể liên tục hay từng đợt.

Nam hoá có thể từ trong bào thai hay ngay sau đẻ. Trẻ gái có biểu hiện lưỡng tính bộ phận sinh dục ngoài.

Trẻ trai bộ phận sinh dục ngoài bình thường, có tinh hoàn trong bìu. Có thể có biểu hiện mất muối thoáng qua. Rất nhạy cảm với điều trị hormon liệu pháp.

  • Đặc điểm lăm sàng dựa vào để chẩn đoán là:
  • Dấu hiệu lưỡng giới với trẻ gái ngay mới đẻ.
  • Triệu chứng chuyển giới khi lên 2-3 tuổi.
  • Dậy thì sinh dục sớm cả 2 thể.
  • Nôn, ỉa chảy mất nước, sút cân trẻ sơ sinh.
  • Cao huyết áp thất thường tuổi thiếu niên.
  • Ngừng phát triển các dấu hiệu dậy thì sau 10-12 tuổi.
  • Vô kinh, không phát triển tuyến vú, mọc râu, rậm lông tóc với trẻ gái.
  • Tiền sử gia đình có người mắc bệnh tương tự, có trẻ chết sau sinh không rõ nguyên nhân, có mẹ hay sẩy thai.

Xét nghiệm cần làm

  • 17 – cs (Cetosteroid) trong nước tiểu 24 giờ tăng cao từ 10 – 80mg/24giờ.
  • Testosteron máu tăng cao.
  • Progesteron máu tăng cao.
  • Điện giải đồ natri giảm, kali tăng cao trên 5mEq/l.
  • Tuổi xương phát triển nhanh hơn tuổi đối.
  • Nhiễm sắc thể là XX với trẻ gái, XY với trẻ trai.
  • Siêu âm có tử cung, buồng trứng với trẻ gái, không có khối u vỏ thượng thận.
  • 17 – OHP (17 hydroxy progesteron) tăng cao, tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định.
  • Điện não đồ, IQ để phân biệt với dậy thì thực.
  • Làm PCR xác định đột biến gen CYP21.

ĐIỀU TRỊ

  • Corticoid thay thế suốt đời
  • Hydrocortison: 10 – 20mg/m2/24 giờ uống làm 3 lần.
  • Dưới 1 tuổi: 2,5 – 5mg/24 giờ chia làm 2-3 lần
  • Dưới 6 tuổi 5 – 10mg/24 giờ chia 2-3 lần.
  • Trên 10 tuổi 10 – 20mg/24 giờ chia 2-3 lần.
  • 9 a Fluorohydrocortison (Florinef) viên 0,lmg 0,05 = 0,3mg/ngày, cho thể mất muối.
  • Tăng liều corticoid lên 2 – 3 lần trường hợp có yếu tố stress như nhiễm khuẩn, can thiệp phẫu thuật.
  • Prednisolon chỉ định khi không có hydrocortison, liều duy trì từ 4,8 – 5mg/m2 cơ thể/24 giờ.
  • Bù thêm natri với thể mất muối

Sodium chlorid 1-3 g/ngày.

  • Xử lý cơn suy thượng thận cấp thể mất muối
  • Hydrocortison 25mg/l mũi tiêm bắp hay tĩnh mạch ngay khi có chẩn đoán.
  • Tiếp tục tiêm hàng ngày từ 25-30mg coticoid chia đều 3-4 lần trong 24 giờ, trong 3-4 ngày.
  • Tiếp tục liều duy trì bằng Florinef uống từ 0,05 – 0,3mg/24 giờ.
  • Bù dịch bằng natriclorua 9 %0+ glucose 5% truyền tĩnh mạch với liều lượng và tốc độ theo tình trạng mất nước cụ thể.
  • Không được cho kali.
  • Phẫu thuật chỉnh hình hộ phận sinh dục ngoài

Cần tiến hành sớm 6 ->12 tháng tuổi.

  • Theo dõi quản lý bệnh nhân
  • Cần được bác sĩ chuyên khoa theo dõi lâu dài.
  • Cần có sự hợp tác của bố mẹ, gia đình và bệnh nhân chặt chẽ đề phòng sử dụng thuốc không đều, các biến chứng bất thường.

DỰ PHÒNG

  • Trường hợp mẹ có thai tiếp cần có lòi khuyên di truyền, nếu có điều kiện sẽ tiến hành chẩn đoán và điều trị trước sinh, bằng dexamethason vào thai tuần thứ 5.
  • Làm sàng lọc sơ sinh (CAH) ngay khi trẻ mới đẻ trong 5 ngày đầu.

Viêm Màng Bồ Đào (Uveitis)

Viêm Màng Bồ Đào là gì?

Viêm màng bồ đào là thuật ngữ chung cho nhiều vấn đề liên quan đến mắt. Những vấn đề này có điểm chung là tình trạng viêm và sưng ở mắt, có thể phá hủy các mô mắt. Sự phá hủy này có thể dẫn đến thị lực kém hoặc mù lòa.

Thuật ngữ “viêm màng bồ đào” được sử dụng vì tình trạng sưng thường ảnh hưởng đến phần mắt gọi là uvea.

Mắt của bạn được cấu tạo từ nhiều lớp. Uvea là lớp giữa, nằm giữa phần trắng của mắt (gọi là sclera) và các lớp bên trong của mắt.

Uvea chứa ba cấu trúc quan trọng:

  • Mống mắt (Iris): Đây là vòng tròn có màu ở phía trước của mắt bạn.
  • Thân mi (Ciliary body): Chức năng của nó là giúp thấu kính của bạn lấy nét và tạo ra dịch nuôi dưỡng bên trong mắt.
  • Mạch máu (Choroid): Đây là một nhóm mạch máu cung cấp dinh dưỡng cho võng mạc.

Có những loại viêm màng bồ đào nào?

Có, loại viêm màng bồ đào mà bạn mắc phải phụ thuộc vào vị trí của tình trạng sưng.

  • Viêm màng bồ đào trước (Anterior uveitis): Đây là loại phổ biến nhất, ảnh hưởng đến phía trước của mắt bạn.
  • Viêm màng bồ đào giữa (Intermediate uveitis): Ảnh hưởng đến thân mi.
  • Viêm màng bồ đào sau (Posterior uveitis): Ảnh hưởng đến phía sau của mắt.
  • Viêm màng bồ đào toàn phần (Panuveitis): Nếu toàn bộ uvea bị viêm.

Nguyên nhân gây viêm màng bồ đào là gì?

Có nhiều nguyên nhân gây viêm màng bồ đào, và tất cả đều liên quan đến tình trạng viêm.

  • Một chất độc có thể xâm nhập vào mắt và gây viêm. Một vết bầm ở mắt cũng có thể gây ra tình trạng này.
  • Viêm màng bồ đào cũng có thể do bệnh tự miễn, nghĩa là cơ thể của bạn đang tấn công chính nó. Cuộc tấn công này gây ra viêm, cùng với nhiễm trùng và khối u trong mắt hoặc các bộ phận khác của cơ thể.

Ai có nguy cơ cao hơn?

Những người có một số tổ hợp gen nhất định và những người hút thuốc có vẻ có nguy cơ cao hơn.

Một số bệnh lý cũng làm tăng khả năng mắc bệnh, bao gồm:

  • AIDS
  • Bệnh viêm khớp cột sống dính (Ankylosing spondylitis)
  • Bệnh Behcet
  • Viêm võng mạc do CMV
  • Nhiễm virus herpes zoster
  • Nhiễm Histoplasmosis
  • Bệnh Kawasaki
  • Bệnh đa xơ cứng (Multiple sclerosis)
  • Bệnh vẩy nến và viêm khớp vẩy nến
  • Viêm khớp phản ứng
  • Viêm khớp dạng thấp
  • Sarcoidosis
  • Giang mai
  • Nhiễm Toxoplasmosis
  • Lao phổi
  • Viêm đại tràng loét
  • Bệnh Vogt-Koyanagi-Harada

Triệu chứng

Viêm màng bồ đào có thể ảnh hưởng đến một hoặc cả hai mắt, và triệu chứng có thể xuất hiện nhanh chóng. Trong một số trường hợp, triệu chứng xuất hiện từ từ hơn.

Các dấu hiệu cảnh báo bao gồm:

  • Đỏ mắt
  • Đau
  • Thị lực mờ hoặc giảm và nhạy cảm với ánh sáng
  • Các điểm hoặc chấm nhỏ trong tầm nhìn (floaters)

Nếu bạn gặp phải bất kỳ triệu chứng nào trong số này, điều quan trọng là phải đến gặp bác sĩ mắt. Chẩn đoán và điều trị kịp thời có thể giúp bảo vệ thị lực của bạn.

Chẩn đoán

Bác sĩ mắt sẽ muốn biết về tiền sử bệnh và tình trạng sức khỏe tổng quát của bạn, vì viêm màng bồ đào có thể là kết quả của các bệnh khác. Họ có thể yêu cầu xét nghiệm máu, xét nghiệm da hoặc chụp X-quang. Họ cũng sẽ tiến hành một cuộc khám mắt kỹ lưỡng.

Điều trị

Bước đầu tiên có thể là thuốc nhỏ mắt có chứa thuốc (thường là corticosteroid) để chống viêm. Bạn có thể nhận được thuốc nhỏ mắt giãn đồng tử để ngăn ngừa sẹo và làm thư giãn cơ mắt nhằm giảm co thắt mắt. Nếu các thuốc nhỏ không hiệu quả, bác sĩ có thể bổ sung viên thuốc hoặc tiêm.

Nếu nhiễm trùng là nguyên nhân gây ra viêm màng bồ đào của bạn, bạn cũng sẽ nhận được các loại thuốc khác. Những thuốc chống nhiễm trùng này bao gồm kháng sinh và thuốc kháng virus.

Nếu bạn không cải thiện với những phương pháp điều trị đó, hoặc nếu viêm màng bồ đào của bạn nghiêm trọng, bác sĩ có thể kê đơn thuốc mạnh hơn. Những thuốc này có thể bao gồm thuốc ức chế miễn dịch, làm giảm hoạt động của hệ miễn dịch. Bạn sẽ sử dụng chúng cùng với corticosteroids.

Nếu bạn bị viêm màng bồ đào trước, bác sĩ có thể sẽ kê đơn thuốc nhỏ mắt trước tiên. Nếu bạn bị viêm màng bồ đào giữa, sau hoặc toàn phần, họ có thể tiêm, kê thuốc uống hoặc thuốc ức chế miễn dịch. Họ cũng có thể đề nghị một thiết bị cấy ghép giúp giải phóng thuốc từ từ.

Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể khuyên bạn thực hiện thủ thuật để loại bỏ một phần chất giống như gel trong mắt của bạn, thường được gọi là dịch kính (vitreous).

Điều trị là rất quan trọng và có thể ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng. Hãy chắc chắn báo cáo bất kỳ triệu chứng mới nào cho bác sĩ của bạn và tham gia các cuộc hẹn theo dõi theo hướng dẫn của bác sĩ.

Bệnh bại liệt (Poliomyelitis)

Đại cương

  • Định nghĩa:

Bại liệt là bệnh truyền nhiễm cấp tính do virut bại liệt gây ra, bệnh lây theo đường hô hấp và đường tiêu hoá. Đặc điểm lâm sàng chủ yếu là những biểu hiện liệt mềm ngoại vi, không có rối loạn cảm giác kèm theo.

Bệnh do Heine mô tả lần đầu tiên vào năm 1840, sau đó là Medin (1887) nên còn được gọi là bệnh Heine – Medin.

  • Mầm bệnh :

Virut bại liệt (Polio virut) do Landsteiner và Popper tìm ra năm 1909; là một virut hình cầu, kích thước nhỏ, đường kính 8 – 27 nm, có cấu tạo là ARN và protein, không có chất béo.

Virut bại liệt có 3 typ kháng nguyên khác nhau và không gây miễn dịch chéo:

Typ I: điển hình là chủng Brunhilde.

Typ II: điển hình là chủng Lansing.

Typ III: điển hình là chủng Leon.

Trong đó typ I chủ yếu gây bệnh cho người ở thể điển hình, typ II gây bệnh thể ẩn và typ III ít gây bệnh hơn.

Virut có tính chịu đựng cao với ngoại cảnh: trong phân người chúng sống được vài ngày đến vài tuần, trong nước có thể tới 14 ngày. Dễ bị diệt bằng các thuốc khử trùng thông thường như: chloramin B, nước oxy già, thuốc tím và tia cực tím… ở 60oC, virut bị diệt trong 30 phút.

  • Nguồn bệnh:

Là những bệnh nhân bị bệnh bại liệt. Virut có ở họng và ở phân người bệnh trước và sau khi khởi phát có thể đến 2 tuần hoặc hơn.

Ngoài ra, người mang virut không có triệu chứng lâm sàng (người lành mang virut) cũng là một nguồn lây quan trọng.

  • Đường lây:

Bằng việc phân lập được virut ở họng, người ta đã xác định được virut bại liệt lây theo đường hô hấp trong thời kỳ đầu của bệnh.

Nhưng bệnh lây chủ yếu bằng đường tiêu hoá thông qua tay và dụng cụ nhiễm bẩn với vật chủ trung gian truyền bệnh là ruồi. Virut được thải ra theo phân của người bệnh trong thời gian dài (tới vài tháng) và xâm nhập vào đường tiêu hoá (miệng) của người lành.

  • Sức cảm thụ và miễn dịch:

Người có sức thụ bệnh cao với virut bại liệt. Tuổi hay gặp là trẻ em từ 2 – 8 tuổi, đặc biệt là trẻ 2 – 4 tuổi chiếm tới 60 – 80%; trẻ sơ sinh và người lớn có thể bị nhưng ít hơn và thường là không điển hình.

Sau khi bị bệnh bại liệt, bệnh nhân thường có miễn dịch bền vững, hiếm khi mắc lại.

  • Tính chất dịch:

Bệnh thường tản phát, đôi khi thành dịch ở những tập thể nhỏ như nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường phổ thông cơ sở. Bệnh gặp ở thành phố nhiều hơn nông thôn và hay xảy ra vào cuối mùa xuân, đầu mùa hè hàng năm.

Nhờ có văcxin Sabin, nhiều nước trên thế giới đã đẩy lùi và thanh toán tận gốc bệnh bại liệt. ở Việt Nam, bệnh được xếp vào một trong các bệnh nằm trong chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em và nước ta đã tuyên bố thanh toán bệnh bại liệt vào năm 2000.

Cơ chế bệnh sinh và giải phẫu bệnh lý

  • Cơ chế bệnh sinh:

Từ khi xâm nhập vào cơ thể đến khi vào hệ thần kinh trung ương gây bệnh cảnh lâm sàng điển hình (liệt), virut bại liệt phải hai lần vào máu và khu trú ở một số phủ tạng. Quá trình diễn biến qua 3 giai đoạn:

  • Giai đoạn xâm nhập và tăng sinh ở đường tiêu hoá: virut vào cơ thể qua hầu, họng trong 24 giờ đầu đã đến các hạch bạch huyết quanh họng, vào niêm mạc tiểu tràng và tăng sinh ở đó (có thể phân lập được virut ở nhầy họng và phân trong giai đoạn này).
  • Giai đoạn nội tạng: từ niêm mạc đường tiêu hoá, virut vào máu (lần 1) sau đó đến các nội tạng (tim, gan, tuỵ, thượng thận, hô hấp…). Tại đây, chúng tiếp tục tăng sinh và gây ra các biểu hiện lâm sàng của thời kỳ tiền liệt.
  • Giai đoạn xâm nhập và tăng sinh ở thần kinh trung ương: virut từ các nội tạng vào máu (lần 2) và vào hệ thần kinh trung ương, chủ yếu là các neuron vận động ở sừng trước tủy sống.

Đối với thể không điển hình (không có liệt), virut chỉ xâm nhập tới các hạch bạch huyết, niêm mạc đường tiêu hoá hoặc tới máu mà không vào hệ thần kinh trung ương, sau đó bị đào thải ra ngoài theo phân.

  • Giải phẫu bệnh lý:

Tổn thương chủ yếu là ở sừng trước tủy sống; ngoài ra sừng bên, sừng sau cũng có thể bị viêm nhưng thường là tổn thương nhẹ và không điển hình. Đoạn tủy cổ và thắt lưng là những nơi tổn thương hay gặp nhất; tiếp theo là vùng thân não, các nhân vận động, tiền đình, hệ lưới, tiểu não và các dây thần kinh sọ não.

  • Về đại thể: màng não – tủy phù nề xung huyết, chất xám ở sừng trước tủy sống có màu hồng hoặc màu vàng xám, chất trắng xung huyết và có những đám xuất huyết rải rác.
  • Về vi thể: tổn thương sớm nhất ở tế bào thần kinh là hiện tượng tiêu huỷ thể Nissl trong nguyên sinh chất dẫn tới tình trạng các neuron bị thoái hoá và phản ứng viêm quanh các neuron, các mạch máu và tổ chức đệm. Đồng thời có hiện tượng xâm lấn các bạch cầu đa nhân, lympho bào, đại thực bà Hậu quả của sự thoái hoá các neuron, phản ứng viêm và sự xâm lấn tế bào làm teo sừng trước tủy sống, xơ hoá tổ chức đệm và thành mạch. Tuy nhiên, đa số các tổn thương được phục hồi và các chức năng thần kinh cũng có thể được phục hồi sau 1 – 2 tháng. Một số neuron bị tổn thương nặng không hồi phục (trên lâm sàng thể hiện bằng các di chứng).

Các cơ quan ngoài hệ thần kinh cũng có thể bị virut tấn công như hô hấp, tim, gan, thận, tiêu hoá v.v.. nhưng các tổn thương thường nhẹ và nhanh hồi phục.

Lâm sàng

  • Thể thông thường điển hình (hay thể liệt – paralytic poliomyelitis):

chiếm 1% trong số các thể bệnh.

  • Thời kỳ nung bệnh:

Khoảng 5 – 35 ngày, trung bình 6 – 20 ngày.

  • Thời kỳ khởi phát (hay giai đoạn tiền liệt): 3 – 7 ngày với nhiều biểu hiện phong phú:
  • Sốt: khởi phát đột ngột, đa số có sốt nhẹ, một số trường hợp sốt cao 390C – 40C trong 3 – 4 ngày
  • Viêm long đường hô hấp trên: ho khan, hắt hơi, chảy nước mắt nước mũi, giọng nói khàn
  • Rối loạn tiêu hoá: nôn, buồn nôn, đi ngoài phân táo hoặc lỏng.
  • Rối loạn thần kinh thực vật: trẻ vã nhiều mồ hôi, nét mặt lúc tái lúc hồng, mạch chậm (ngược lại với mạch nhanh khi sốt cao).
  • Trạng thái tâm-thần kinh: li bì hoặc vật vã, hay kêu khóc.
  • Đau và co cứng các cơ là dấu hiệu rất sớm và phổ biến. Đây là những dấu hiệu rất có giá trị để chẩn đoán sớm vì những cơ nào đau sẽ phát triển liệt, thường đau và co cứng các cơ vùng cổ, thân mình và sau đùi làm trẻ mệt mỏi, sức cơ yếu, trương lực cơ giảm, đôi khi có hiện tượng co giật nhẹ ở những cơ sau này sẽ bị liệt. Kèm theo có biểu hiện giảm hoặc mất phản xạ (khi mất phản xạ da bụng tới 80% có liệt chi dưới).
  • Hội chứng màng não: nhức đầu nhiều (kèm theo nôn, buồn nôn). Khám các dấu hiệu thực thể: cứng gáy (+), Kernig (+), Brudzinski (+). ở trẻ nhỏ dưới 18 tháng có thể thấy thóp phồng hoặc dấu hiệu Hoyne (+): để trẻ nằm ngửa, dùng 2 tay thầy thuốc nâng nhẹ 2 vai trẻ, đầu trẻ không ngóc lên được theo.

Xét nghiệm dịch não tủy có thể thấy tế bào tăng nhẹ, protein bình thường hoặc tăng ít, glucose và NaCl bình thường.

  • Đặc điểm của liệt:
  • Liệt nhẽo ngoại vi, không đối xứng.
  • Liệt không theo một thứ tự nhất định.
  • Thời kỳ toàn phát (hay giai đoạn liệt):
  • Liệt xảy ra đột ngột và nhanh, thường xuất hiện vào ngày thứ 4 – 7 của bệnh, khi nhiệt độ đã về bình thường hoặc hết sốt trước đó 1 – 2 ngà Từ khi bắt đầu có liệt đến khi liệt không tiến triển nữa chỉ trong vòng 48 – 72 giờ.
  • Các cơ bị liệt thường yếu, trương lực cơ giảm, mất hoặc giảm phản xạ gân xương và phản xạ da, cơ teo Điểm đáng chú ý là ở các cơ này không có những rối loạn cảm giác kèm theo.
  • Định khu của liệt:

Tuỳ theo vị trí tổn thương có các thể sau:

  • Thể tủy sống: chiếm 60 – 70% thể có liệt.

Tổn thương tủy cổ: liệt cơ cổ, vai, gáy, chi trên (cơ vai) và cơ hoành. Tổn thương tủy thắt lưng: liệt các cơ bụng dưới và chi dưới.

Tổn thương tủy thắt lưng: liệt các cơ bụng dưới và chi dưới.

  • Thể hành tủy: tổn thương hành tủy đơn thuần hiếm gặp mà thường kết hợp với tổn thương tủy sống. Các biểu hiện tổn thương hành tủy:

Rối loạn hô hấp: nấc nhiều, khó thở, rối loạn nhịp thở.

Rối loạn tuần hoàn: mạch không đều hoặc truỵ mạch, rối loạn nhịp tim, huyết áp dao động và có xu hướng giảm.

Rối loạn thần kinh thực vật: sốt cao, vã nhiều mồ hôi, da tím tái.

Đây là thể rất nặng, tử vong cao (50 – 90%).

  • Thể tủy sống – hành tủy: là tổn thương phối hợp 2 thể trên, chiếm 15 – 25% các thể có liệt.
  • Thể não: có thể đơn thuần hoặc phối hợp với tổn thương hành tủy – tủy sống. Nếu là thể não lan toả đơn thuần thường rất khó phân biệt với viêm não do các loại virut khác. Đây là thể hiếm gặp, tiến triển kéo dài và để lại nhiều di chứng.
  • Các triệu chứng khác:
  • Dấu hiệu đau cơ: tăng lên khi bắt đầu liệt, kéo dài vài ngày sau đó giảm dần. Kèm theo đỡ đau đầu, tỉnh táo hơn, ăn ngủ khá hơn, đỡ mệt mỏi.
  • Xét nghiệm:

Bạch cầu máu ngoại vi bình thường hoặc có thể tăng trong một vài ngày, sau đó về bình thường.

Xét nghiệm dịch não tủy: tế bào tăng (thường tăng vài chục đến vài trăm bạch cầu, nhưng hiếm khi tới 1000 bạch cầu/mm3), tăng cao nhất vào tuần 2 – 3 của bệnh.

Công thức tế bào: lúc đầu chủ yếu là bạch cầu đa nhân trung tính, sau vài ngày bạch cầu lympho chiếm ưu thế dần và trở về bình thường từ tuần thứ 4 của bệnh. Protein trong dịch não tủy có thể tới 1 – 2 g/l, cao nhất vào tuần thứ 3 và trở về bình thường sau 1 – 2 tháng. Khoảng 10% số trường hợp có dịch não tủy bình thường.

Tuy nhiên, tế bào tăng và protein tăng không liên quan đến mức độ bệnh.

Phân lập virut: từ máu (trước khởi phát 2 – 3 ngày và sau khởi phát 1 – 2 ngày), từ nhầy họng (trước khởi phát và kéo dài 10 ngày sau khởi phát), từ phân (trước khởi phát và kéo dài tới khi hồi phục).

Huyết thanh chẩn đoán: phản ứng kết hợp bổ thể và phản ứng trung hoà.

  • Thời kỳ hồi phục và di chứng:
  • Hồi phục sớm: trong 6 tuần đầu của bệnh, các cơ bị liệt phục hồi nhanh, giảm và hết đau, chỉ để lại một số ít cơ và nhóm cơ bị liệt hoàn toà Đó là do đa số các neuron thần kinh chi phối các cơ liệt lúc đầu chỉ bị phù nề và rối loạn chức năng, sau đó hồi phục.
  • Hồi phục muộn: sau 6 tuần tới 2 – 3 năm, có cơ bị liệt giảm chậm và không rõ ràng, nhiều cơ bị liệt hoàn toà
  • Di chứng: là những tổn thương không hồi phục sau 3 năm.
    • Một số thể lâm sàng khác:
      • Thể không triệu chứng lâm sàng:

Chiếm tới 80 – 85% các thể bệnh. Chẩn đoán xác định dựa vào việc phân lập virut từ phân bệnh nhân và sự có mặt của kháng thể trong huyết thanh.

  • Thể nhẹ (abortive poliomyelitis):

Chiếm 4 – 8%, biểu hiện bằng triệu chứng viêm long đường hô hấp trên, rối loạn tiêu hoá và một số triệu chứng giống cúm (sốt, đau khớp). Chẩn đoán cũng phải dựa vào phân lập virut và phản ứng huyết thanh.

  • Thể không liệt (non paralytic poliomyelitis):

Chiếm 10%. Bệnh nhân có các triệu chứng của thời kỳ tiền liệt (ở thể liệt), nổi bật là hội chứng màng não và các dấu hiệu kích thích màng não nhưng không có liệt.

Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định dựa vào:

  • Lâm sàng: sốt cao, đau cơ.
  • Liệt nhẽo ngoại vi, không đối xứng, xảy ra đột ngột, giảm phản xạ gân xương và không có rối loạn cảm giác kèm theo.
  • Xét nghiệm: phân lập virut từ máu, nhầy họng, phân theo từng thời kỳ bệnh.

Phản ứng trung hoà hoặc phản ứng kết hợp bổ thể với hiệu giá kháng thể lần hai tăng cao hơn lần thứ nhất.

  • Dịch tễ: tuổi dễ mắc bệnh (2 – 8 tuổi) và có nhiều trẻ trong một tập thể cùng bị tương tự.

Chẩn đoán phân biệt:

  • Thời kỳ tiền liệt:

Cần phân biệt với:

  • Bệnh cúm và nhiễm virut đường hô hấp do virut khác: sốt cao liên tục tới 4 – 7 ngày, thường có rét, nhiễm độc nặng hơn, đau đầu dữ dội, bệnh diễn biến nhanh trong vòng 7 – 10 ngày.
  • Viêm màng não mủ: hội chứng màng não xuất hiện sớm và rầm rộ hơn, dịch não tủy đục, tế bào tăng rất cao chủ yếu là bạch cầu đa nhân trung tính, protein cao, glucose giảm. Bạch cầu máu ngoại vi tăng, chủ yếu là bạch cầu đa nhân.
  • Viêm màng não do virut khác: chủ yếu dựa vào tiến triển nhanh của bệnh sau 1- 2 tuần.
    • Thời kỳ liệt:

Cần phân biệt với hội chứng viêm đa rễ – dây thần kinh (Guillain – Barre) hay gặp ở người lớn, liệt có tính chất đối xứng ở đầu chi, bệnh ít để lại di chứng.

Điều trị và dự phòng

Điều trị bại liệt thể liệt:

  • Nguyên tắc điều trị:
  • Điều trị toàn diện, kết hợp chặt chẽ điều trị triệu chứng (chống viêm, giảm đau, hồi sức hô hấp, tuần hoà..) với việc nâng cao sức đề kháng của cơ thể.
  • Tích cực đề phòng biến chứng và di chứng, tạo mọi điều kiện để bệnh nhân phục hồi chức năng và tâm lý.
  • Bất động bệnh nhân trong 1 – 2 tuần.
  • Giai đoạn tiền liệt:
  • Nếu có sốt cao phải hạ nhiệt, đề phòng co giật bằng cách chườm lạnh hoặc dùng thuốc (paracetamol, efferangan, aspegic).
  • Giảm đau, an thần: analgin, aspirin, dimedrol (tiêm bắp hoặc uống),
  • Nếu có phù não: glucose 30% tiêm, truyền tĩnh mạch kết hợp magiesulfat, lợi tiểu.
  • Tiêm bắp thịt canxi gluconat trong 7 – 10 ngày.
  • Đặt bệnh nhân ở tư thế phòng dị dạng.
  • Giai đoạn liệt:
  • Tích cực hồi sức tuần hoàn, hô hấp nếu do tổn thương nặng ở thể hành tủy: đặt nằm nghiêng theo tư thế dẫn lưu, hút đờm dãi, thở oxy, hô hấp nhân tạo. Bồi phụ nước, điện giải, trợ tim mạch (spartein, coramin) nâng huyết áp (dopamin…), chống phù não.
  • Thuốc phục hồi vận động ở các cơ bị liệt:

Proserin tiêm bắp dung dịch 0,05% 0,1 – 0,2 ml/ngày trong 10 – 15 ngày. Dibasol 1 – 5 mg/ngày uống liên tục 20 ngày, kết hợp với vitamin nhóm B.

  • Kháng sinh bội nhiễm đường hô hấp và tiết niệu.
  • Gamma globulin trong 7 – 10 ngày đầu.
  • Lý liệu pháp sớm (từ tuần thứ hai của bệnh) ngay sau khi hết sốt vài ngày, không nên để đến khi hết đau vì những bệnh nhân đau nhiều thường teo cơ.

Có thể áp dụng các biện pháp: bó paraphin, điện phân, xung điện tần số cao… chia làm nhiều đợt, mỗi đợt 10 – 15 ngày, kéo dài trong 1 – 2 năm.

  • Kết hợp thể dục liệu pháp (xoa bóp, vận động tại chỗ…) với tâm lý liệu pháp.
    • Giai đoạn hồi phục và di chứng:
  • Tích cực nâng cao sức đề kháng của cơ thể.
  • Tiếp tục các biện pháp lý liệu và thể dục liệu pháp. Cho bệnh nhân tập thể dục nhẹ nhàng, tập đi lại và các cử động khác.
  • Nếu có di chứng có thể dùng phẫu thuật chỉnh hình để can thiệp.

Điều trị bại liệt thể nhẹ:

  • Giảm đau, an thần, hạ nhiệt.
  • Điều trị các rối loạn tiêu hoá.
  • Tăng cường dinh dưỡng, nâng cao sức đề kháng.
  • Theo dõi sát để phát hiện tình trạng liệt.

Điều trị bại liệt thể không liệt:

  • Chủ yếu là an thần, giảm đau, chống phù nề não.
  • Có thể áp dụng lý liệu pháp nếu có biểu hiện co thắt kéo dài ở các bắp cơ và theo dõi trong vòng hai tháng.

Dự phòng

  • Những trẻ tiếp xúc và làm nhiệm vụ chăm sóc bệnh nhi phải được theo dõi sát. Nếu có triệu chứng nghi ngờ: dấu hiệu màng não, đau dọc sống lưng và cổ, giảm trương lực ở một số cơ v.. phải xét nghiệm dịch não tủy và cách ly.
  • Những trẻ có sốt, viêm xuất tiết đường hô hấp, rối loạn tiêu hoá chưa rõ nguyên nhân phải được giữ tại nhà và theo dõi hàng ngày.
  • Trong thời gian dịch xảy ra phải cách ly bệnh nhân ít nhất 2 – 4 tuần.
  • Dự phòng chung:
  • Cân nhắc việc cắt amydan hoặc nạo VA cho trẻ ở vùng dịch.
  • Đối với những bệnh nhân thể nhẹ hoặc thể không có liệt cần hạn chế vận động, tránh kích thích đau cho đến khi hết triệu chứng lâm sàng
  • Dùng vắcxin:
  • Vắcxin bất hoạt Salk là loại vắcxin được chế tạo từ chủng virut bại liệt bị bất hoại bằng Loại này dùng đường tiêm, do đó chỉ tạo được kháng thể mà không gây được miễn dịch tại ruột. Hiện nay, vắcxin Salk chỉ được sử dụng khi vắcxin đường uống không có kết quả.
  • Vắcxin sống độc lực Sabin có nhiều ưu điểm hơn: dùng đường uống, gây được miễn dịch lâu bền, chống lại được sự xâm nhập của virut hoang dại (do tạo được miễn dịch tại ruột), đạt hiệu quả 90 – 100%, giá thành rẻ.

Tất cả trẻ em (nhất là trẻ từ sơ sinh đến 60 tháng) được uống 2 giọt vắcxin Sabin 1 lần và hàng năm uống lại. Nhờ có vắcxin này mà nhiều nước đã đẩy lùi và thanh toán được bệnh bại liệt.

Những thói quen không tốt ở trẻ

Sau bữa cơm trẻ em không nên đi bơi

Trẻ em sau bữa ăn mà đi bơi chỉ có hại cho thân thể chứ không có lợi. Sau khi ăn cơm, do nhu cầu tiêu hoá và dinh dưỡng, sức làm việc của các cơ quan tiêu hoá tăng lên, lúc này các cơ quan tiêu hoá cũng đòi hỏi một lượng máu tương đối lớn, nếu ăn cơm xong mà đi bơi ngay, khiến cho một lượng lớn máu tập trung vào tứ chi, máu ít chảy vào đường tiêu hoá, do đó mà ảnh hưởng đến việc tiêu hoá và hấp thu thức ăn. Ngoài ra, sau khi ăn cơm, dạ dày phải làm việc nhiều, nếu nhảy xuống nước, dạ dày lại chịu áp lực của nước và các bộ phận khác đè ép sẽ làm cho nhu động khó khăn, không những thức ăn khó tiêu hoá, có khi còn gây nên chứng đau dạ dày.

Trẻ thơ không nên tắm nắng qua cửa kính

Có một số người thường hay để cho trẻ thơ nằm dưới ánh nắng sau cửa kính ở trong phòng, tựa hồ như đang tắm nắng, nhưng thực tế thì lại chẳng được tia tử ngoại chiếu vào.

Như mọi người đều biết, trong ánh nắng mặt trời có 60% tia hồng ngoại, nó đem lại cho người ta nhiệt lượng, thúc đẩy tuần hoàn máu và các chất thay thế mới; trong ánh nắng mặt trời có tia tử ngoại,có tác dụng diệt khuẩn và tăng cường sức đề kháng, còn có thể làm cho chất egôttêrôn ở trong lớp da biến thành vitamin D, mà vitamin D thì thúc đẩy việc hấp thu các chất phôtpho canxi. Vì tia tử ngoại ở trong ánh nắng không thể thông qua lớp kính được, mà phải để cho ánh nắng mặt trời trực tiếp chiếu lên lớp da mới thực sự có hiệu quả.

Cho trẻ thơ tắm nắng thì phải từ từ, tiến dần từng bước. Bình thường thì trẻ sơ sinh sau 1 tháng có thể bắt đầu cho ra ngoài trời tắm nắng, nếu là mùa hè, mùa thu thì đến tháng thứ ba có thể cho ra hoạt động ngoài trời, thời kỳ đầu, mỗi lần cho ra ngoài trời từ 5 đến 10 phút là thích hợp. Sau khi trẻ đã thích ứng với thời tiết bên ngoài thì có thể tăng dần thời gian này lên, đại khái là cứ sau 3 – 5 ngày lại tăng lên 5 phút, sau đó có thể kéo dài đến 1 tiếng đồng hồ hoặc lâu hơn nữa..Cũng có thể tăng lên bằng cách cho ra ngoài trời 2 lần trong 1 ngày. Đầu mùa xuân, cuối mùa thu và mùa đông, cho trẻ ra tắm nắng ngoài trời thì phải chú ý mặc quần áo ấm cho trẻ, chỉ để hở mặt và bàn tay, phải chọn nơi kín gió, đề phòng trẻ cảm lạnh.

Trẻ em không nên chơi trò kéo co

Kéo co tuy là một trong những loại thi đấu được phát triển rộng rãi trong hoạt động thể dục quần chúng , song đối với trẻ em thì không nên tham gia loại thi đấu này.

Bởi vì kéo co thì trẻ em phải ưỡn người về phía sau hoặc cong người về phía trước hoặc phải nghiêng người, phải dùng hết sức của hai chân hai tay để duy trì ở một vị trí cố định và phải giữ vững một thời gian nhất định. Xương, các khớp xương của trẻ còn non yếu, rất dễ xảy ra sai khớp hoặc chệch khớp xương. Nếu chơi nhiều có thể làm cho xương cốt bị biến dạng, cột sống bị cong. Trong khi kéo co, tất cả cơ bắp toàn thân trẻ em đòi hỏi một lượng máu rất lớn để cung cấp dưỡng khí và chất dinh dưỡng. Do số lượng vi ti huyết quản ở trong cơ bắp của trẻ em còn ít, do đó mà lượng máu cung không đủ cầu, dễ sinh ra thiếu ôxy, rất có hại cho việc phát triển lớn lên của cơ bắp. Trong khi kéo co, trung khu tương ứng của vỏ đại não xảy ra quá trình hưng phấn mạnh và tập trung, hệ thống thần kinh dễ mệt mỏi, việc đó rất không có lợi cho sự phát triển của hệ thống thần kinh. Trong khi kéo co, trẻ thơ phải miễn cưỡng chịu sự ngột ngạt quá nhiều và thời gian quá dài, tất nhiên sẽ dẫn đến máu tĩnh mạch chảy về tim giảm sút. Lượng vận chuyển máu của tim giảm đi, tim phải gánh vác nặng hơn, buồng tim và đại não xuất hiện hiện tượng thiếu máu tạm thời, nếu nghiêm trọng thì có thể bị ngất xỉu. Khi bị ngột ngạt trong lúc kéo co, thanh môn căng thẳng, việc dùng lực của cơ bụng và hô hấp giảm đi, làm cho ngực thót lại, nội áp trong ngực tăng lên, việc hô hấp không thể tiến hành bình thường, khí thể ở trong phổi không thể đẩy ra được, dưỡng khí thì lại không hít vào được, mà trong lúc kéo co thì dưỡng khí lại đòi hỏi một khối lượng vượt qúa lượng dưỡng khí lớn nhất mà người ta thở vào. Như vậy là cơ thể trẻ em sẽ bị thiếu dưỡng khí, rất có hại cho sức khoẻ.

Trước khi thi đấu không nên ăn cơm

Trước khi thi đấu thể dục 3 tiếng đồng hồ không nên ăn cơm.

Bởi vì vận động có thể làm cho công năng tiêu hoá bị trở ngại rất lớn, còn có thể làm cho dạ dày co giật, ảnh hưởng đến việc thi đấu. Ngoài ra , sau khi thi đấu, một số lượng lớn máu ở trong cơ thể chảy vào hệ thống tiêu hoá, do đó mà cơ bắp và não bị thiếu máu. Khi vận động, cơ bắp cần phải có đủ máu mới có thể làm được những động tác mà môn thể dục đòi hỏi. Lúc đó, nếu vận động viên dùng lực mà cơ bắp lại ở vào điều kiện bất lợi thì khó mà có thành tích cao được.

Học sinh trung, tiểu học không nên sấy tóc

Yêu cái đẹp là nét đẹp của con người. Nhưng trang điểm, chải chuốt như thế nào phải tuỳ người mà làm. Ví dụ như học sinh trung, tiểu học thì không nên sấy tóc.

Bởi vì tóc là do các chất sừng, chất da, chất tủy hợp thành, trong đó chất da ước chiếm 90%. Tóc của học sinh trung, tiểu học nhỏ và mềm mại, sau khi bị sấy nóng hoặc phản ứng hoá học, chất sừng và chất da của tóc đều bị tổn thương, khiến cho tóc đang đen tuyền biến thành màu đỏ quạch và giòn, chất dầu giảm đi, mất đi vẻ bóng mượt, rất dễ rụng. Cho nên học sinh trung, tiểu học không nên sấy tóc.

Học sinh cận thị không nên ngồi bàn đầu

Ngồi bàn đầu có thể làm cho mức cận thị nặng hơn. Bởi vì ánh sáng của vật thể phản xạ ra trước mắt ngoài 5 – 6 mét, thì mắt người ta không cần điều tiết cũng có thể hình thành hình dáng rõ ràng ở trên võng mạc của mắt, lúc đó việc điều tiết cơ bắp của mắt là thư giãn. Nhưng nếu ánh sáng của vật thể phản xạ ra trong vòng 5 mét, nếu mắt không điều tiết thì trên võng mạc của mắt không thể hiện lên hình dáng vật thể rõ ràng được, muốn nhìn rõ vật thể ở trong vòng 5 mét, việc điều tiết cơ bắp của mắt cần phải co hẹp lại ở những mức độ khác nhau, cự li vật thể nhìn thấy càng gần thì mức co hẹp càng mạnh. Những học sinh ngồi ở cuối lớp, điều tiết cơ mắt không căng thẳng như học sinh ngồi ở bàn đầu, có lợi cho việc bảo vệ đôi mắt. Để những học sinh cận thị ngồi ở bàn đầu, vì cự li của bảng đen gần quá, khiến cho cả tiết học việc điều tiết cơ mắt đều ở trạng thái căng thẳng, mắt càng dễ mỏi mệt, có thể làm tăng thêm độ cận thị của học sinh, dẫn đến tuần hoàn ác tính. Cho nên, học sinh cận thị không nên ngồi ở bàn đầu.

Không nên cho trẻ thơ nắm áo nhau đi dạo

Có một số nhà trẻ mẫu giáo hay tổchức cho trẻ thơ đi dạo chơi tập thể, thường hay tổ chức các em thành hàng , người sau nắm đuôi áo người trước đi sát vào nhau, đối với trẻ nhỏ thì cách làm như vậy thật không có lợi cho việc phát triển lớn lên của các em.

Nên nhớ rằng, khi một em chìa tay ra nắm chặt lấy đuôi áo của em đi trước, sẽ giữ một cự ly cố định giữa hai người, mà cự ly đó lại rất gần, ảnh hưởng đến bước đi, như vậy các em đành phải nghiêng người mà đi, nếu cứ kéo dài , dễ hình hành kiểu đi chân chữ bát, cũng có em phải nhón chân mà đi, như vậy cũng ảnh hưởng đến tư thế đi laị đúng đắn của các em. Cho nên để tiện việc quản lý các em, có thể dùng biện pháp căng dây cho các em đi hoặc để cho các em dắt tay nhau xếp hàng đôi đi một cách tự nhiên. Như vậy sẽ không ảnh hưởng xấu đến tư thế đi lại của các em.

Cây Bưởi bung-Bưởi chùm

Bưởi bung

Loài phân bố ở Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Nam Trung Quốc, Philippin. Ở nước ta, cây mọc trong các savan cây gỗ ở Hoà Bình và nhiều nơi khác. Có thể thu hái rễ, lá quanh năm, rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô.

Bưởi bung, Cơm rượu – Glycosmis Citrifolia (Willd) Lindl., thuộc họ Cam – Rutaceae.

Bưởi bung
Bưởi bung

Mô tả: Cây nhỡ cao tới 6,5m. Thân to 2-3cm; cành non có lông màu sét. Lá đa dạng, thường do một lá chét, ít khi 4-5, thon dài đến 7-20cm, rộng 1,5-6cm, không lông, màu lục ôliu lúc khô, gân phụ 14-15 cặp. Chuỳ hẹp ở nách lá, ít nhánh, dài 3-4m, có khi hoa xếp nhóm 2-3 cái, màu trắng, xanh hay vàng vàng, thơm; cánh hoa không lông; nhị 10. Quả dạng trứng cao đến 1cm, màu trắng, hồng, vàng hay da cam. Hoa tháng 6 và mùa thu.

Bộ phận dùng: Rễ và lá – Radix et Folium Glycosmis.

Nơi sống và thu hái: Loài phân bố ở Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Nam Trung Quốc, Philippin. Ở nước ta, cây mọc trong các savan cây gỗ ở Hoà Bình và nhiều nơi khác. Có thể thu hái rễ, lá quanh năm, rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô.

Tính vị, tác dụng: Rễ có vị cay, lá có vị hơi ngọt, tính ấm, có tác dụng giải cảm, trừ đờm, chống ho, kích thích tiêu hoá, tán huyết ứ.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Quả ăn được. Lá phối hợp với lá Cơm rượu làm men tăng hiệu suất rượu. Rễ và lá thường được dùng trị: 1. Cảm lạnh và ho; 2. Khó tiêu hoá, đau dạ dày; 3. Đau thoát vị. Liều dùng 15-30g, dạng thuốc sắc. Không dùng cho người có thai. Dùng ngoài giã cây lá tươi trộn với rượu đắp trị đòn ngã tổn thương. Khi bị phát cước, tê cứng vì sương giá, dùng lá nấu nước và rửa phần đau.

Bưởi chùm

Bưởi chùm, Bưởi đắng – Citrus paradisi Macf. (C. grandis (L.) Osb. var. racemosa (Roem) B.C. Stone), thuộc họ Cam – Rutaceae.

Mô tả: Cây cũng có dạng như Bưởi, là một loài lai giữa Bưởi và Cam chua – Citrus aurantium L., phân biệt bởi các nhánh non nhẵn, quả nhỏ hơn (thường 10-14cm) và nhóm thành từng chùm, với vỏ mỏng hơn (5-7mm), múi không lóc, và cơm nhiều hơn, nhưng chua và đắng.

Bộ phận dùng: Dịch quả – Succus fructtus Citri

Nơi sống và thu hái: Cây của vùng Đông Á, cũng có nhiều giống trồng, được trồng nhiều ở Hoa Kỳ và Địa trung hải. Ở nước ta, có trồng ở Đà Lạt.

Thành phần hoá học: Quả là nguồn chiết xuất vitamin C và B1; vỏ giầu pectin, naringin. Dầu từ vỏ chứa limonen, sesquiterpen, aldehyl; geraniol, cadinen, citral.

Tính vị, tác dụng: Quả có vị đắng.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Người xứ lạnh ưa ăn loại Bưởi đắng cùng với đường; ở nước ta ít dùng ăn. Ở Ấn Độ, người ta dùng dịch quả như chất đề kháng chống cảm sốt và vết thương

 

Xử trí và chăm sóc người bệnh sốc phản vệ

NGUYÊN NHÂN GÂY SỐC PHẢN VỆ

Có rất nhiều nguyên nhân gây sốc phản vệ

  • Do dùng thuốc:

+ Kháng sinh: penicillin, cephalosporin, atreptomycin…

+ Các thuốc khác: kháng viêm không steroid, vitamin C, thuốc tê, thuốc mê, thuốc cản quang.

  • Các hormone: insulin, ACTH.
  • Các sản phẩm máu: hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, gamma globulin, axit amin.
  • Các huyết thanh kháng độc: kháng nọc, kháng uốn ván.
  • Nọc của sinh vật và côn trùng: ong, bọ cạp, nhện độc, rắn.
  • Thực phẩm và hoa quả: trứng, sữa, cá, dứa.

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

  • Diễn biến nhẹ

Bệnh nhân biểu hiện lo lắng, sợ hãi, đau đầu, chóng mặt, mẩn ngứa, phù Quink, buồn nôn, ho, khó thở, đau bụng, đại, tiểu tiện không tự chủ, huyết áp tụt, nhịp tim nhanh.

  • Diễn biến trung bình

Bệnh nhân hoảng hốt, choáng váng, nổi mày đay khắp người, khó thở, chảy máu mũi, dạ dày, ruột. Da tái nhợt, mạch không đều. Huyết áp không đo được.

  • Diễn biến nặng

Thường xảy ra ngay trong phút đầu tiên với tốc độ chớp nhoáng, bệnh nhân hôn mê, ngạt thở, da tím tái, co giật, huyết áp không đo được và tử vong trong vài phút.

XỬ TRÍ VÀ CHĂM SÓC

Tại chỗ

  • Ngừng ngay đường tiếp xúc với dị nguyên, nếu do thuốc thì ngừng ngay các thuốc đang dùng.
  • Cho bệnh nhân nằm tại chỗ.
  • Adrenalin là thuốc cơ bản để chống sốc phản vệ:

+ Adrenalin dung dịch 1/1.000 (ống 1ml =1mg)

+ Tiêm ngay dưới da khi có sốc phản vệ với liều: o Người lớn 1/2 – 1 ống

o Trẻ em cần pha loãng 1/10, cụ thể 1 ống 1ml + 9ml nước cất = 10ml, sau đó tiêm 0,1ml/kg nhưng không quá 0,3 mg.

o Hoặc: adrenalin 0,01 mg/kg áp dụng cho cả trẻ em cũng như người lớn.

+ Tiếp tục tiêm adrenalin với liều như trên cứ 10 – 15 phút/lần cho tới khi huyết áp về bình thường.

+ Nếu sốc quá nặng, ngoài đường tiêm dưới da có thể tiêm dung dịch adrenalin 1/10.000 (pha loãng 1/10) qua tĩnh mạch hoặc bơm qua ống nội khí quản hoặc tiêm qua màng nhẫn giáp.

  • Ủ ấm cho bệnh nhân, để bệnh nhân nằm đầu thấp chân cao, nằm nghiêng nếu có nôn.
  • Đo huyết áp 10 – 15 phút/lần.

Tại nơi có điều kiện kỹ thuật

  • Chống suy hô hấp

Thở oxy.

Bóp bóng.

Đặt nội khí quản hoặc mở khí quản.

Truyền tĩnh mạch chậm aminophylin 1mg/ kg/giờ hoặc terbutalin.

  • Truyền tĩnh mạch adrenalin để duy trì huyết áp

Khoảng 2 mg/giờ cho người lớn.

  • Các thuốc khác

Metylprednisolon 1 – 2 mg/kg/4 giờ.

Natriclorua 9 0/00 1 – 2 lít cho người lớn, không quá 20 ml/kg ở trẻ em.

Diphenhydramin 1mg/kg hoặc promethazin 0,5-1 mg/kg tiêm bắp hoặc tĩnh mạch.

  • Điều trị phối hợp

Uống than hoạt nếu nguyên nhân gây sốc qua đường tiêu hoá với liều đầu 5 gam ở trẻ em, 20 gam ở người lớn.

Băng ép phía trên chỗ tiêm hoặc đường vào của nọc độc.

Thuốc Betahistine (oral)

TÊN THUỐC: BETAHISTINE – ĐƯỜNG UỐNG (bay-tuh-HISS-teen)

Công dụng thuốc | Cách sử dụng | Tác dụng phụ | Thận trọng | Tương tác thuốc | Quá liều | Lưu ý | Liều dùng bị bỏ lỡ | Bảo quản

CÔNG DỤNG: Thuốc này được sử dụng để điều trị chứng chóng mặt (hoa mắt) ở những người mắc bệnh Meniere.

CÁCH SỬ DỤNG: Dùng theo chỉ dẫn, thường là ba lần một ngày. Liều lượng sẽ được điều chỉnh theo phản ứng của từng người.

TÁC DỤNG PHỤ: Có thể xảy ra đau bụng và đau đầu. Nếu các triệu chứng này kéo dài hoặc trở nên tồi tệ hơn, hãy thông báo cho bác sĩ. Nếu bạn nhận thấy các tác dụng khác không được liệt kê ở trên, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc dược sĩ.

THẬN TRỌNG: Trước khi dùng thuốc này, hãy cho bác sĩ biết tiền sử bệnh của bạn, đặc biệt là: dị ứng, loét (cấp tính hoặc đã qua), hen suyễn, pheochromocytoma. Thuốc này chỉ nên được sử dụng khi thật sự cần thiết trong thai kỳ. Thảo luận về những rủi ro và lợi ích với bác sĩ của bạn. Chưa rõ thuốc này có được bài tiết vào sữa mẹ hay không. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi cho con bú. Thuốc này không được khuyến cáo sử dụng cho trẻ em.

TƯƠNG TÁC THUỐC: Hãy cho bác sĩ biết tất cả các loại thuốc không kê đơn và thuốc theo đơn mà bạn có thể sử dụng, đặc biệt là: thuốc kháng histamine (ví dụ: diphenhydramine, meclizine), thuốc chẹn histamine-2 (H2) (ví dụ: cimetidine). Không bắt đầu hoặc ngừng bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự chấp thuận của bác sĩ hoặc dược sĩ.

QUÁ LIỀU: Nếu nghi ngờ quá liều, hãy liên hệ với trung tâm kiểm soát độc tố địa phương hoặc phòng cấp cứu ngay lập tức.

LƯU Ý: Không chia sẻ thuốc này với người khác.

LIỀU DÙNG BỊ BỎ LỠ: Nếu bạn quên một liều, hãy dùng ngay khi nhớ ra. Nếu gần đến giờ dùng liều tiếp theo, hãy bỏ qua liều đã quên và tiếp tục lịch trình liều dùng bình thường. Không “gộp” liều để bắt kịp.

BẢO QUẢN: Bảo quản ở nhiệt độ phòng, tránh ánh sáng và độ ẩm. Không bảo quản trong nhà tắm.

Bệnh Virus Ebola là gì?

Bệnh virus Ebola là một tình trạng hiếm nhưng thường gây tử vong, gây ra sốt, đau cơ thể, tiêu chảy và đôi khi chảy máu bên trong và bên ngoài cơ thể. Nó được gây ra bởi một nhóm virus thường được gọi là virus Ebola.

Khi các virus này lan tỏa trong cơ thể, chúng làm tổn thương hệ thống miễn dịch và các cơ quan. Cuối cùng, chúng làm giảm mức độ tế bào đông máu trong máu, dẫn đến chảy máu nặng, không thể kiểm soát.

Bệnh này từng được gọi là sốt xuất huyết Ebola nhưng hiện nay được gọi là bệnh Ebola hoặc bệnh virus Ebola (EVD).

Mặc dù các đợt bùng phát Ebola có tỷ lệ tử vong dao động từ 25% đến 90%, tỷ lệ tử vong trung bình khoảng 50%.

Virus Ebola là gì?

Virus Ebola thực chất là một nhóm các virus, được gọi là orthoebolaviruses.

Các virus này lần đầu tiên xuất hiện ở người trong hai đợt bùng phát vào năm 1976 ở châu Phi, nhưng chúng có thể đã tồn tại từ rất lâu. Ebola có tên gọi từ Sông Ebola, gần một trong những ngôi làng ở Cộng hòa Dân chủ Congo, nơi bệnh này lần đầu tiên xuất hiện.

Các virus chủ yếu được tìm thấy ở châu Phi cận Sahara. Chúng được cho là sống chủ yếu trong dơi ăn trái, loài này dường như sống chung với virus Ebola mà không bị bệnh. Nhưng virus có thể lây sang các động vật khác và con người, những người sẽ bị bệnh từ chúng. Chưa rõ lý do tại sao bệnh Ebola lại xuất hiện ở con người vào thời điểm đó.

Các loại virus Ebola

Có bốn loài orthoebolaviruses gây bệnh Ebola ở người. Chúng được đặt tên theo nơi mà chúng được phát hiện:

  1. Virus Ebola (Orthoebolavirus zairense): nguyên nhân phổ biến nhất gây ra các đợt bùng phát.
  2. Virus Sudan (Orthoebolavirus sudanense).
  3. Virus Taï Forest (Orthoebolavirus taiense).
  4. Virus Bundibugyo (Orthoebolavirus bundibugyoense).

Các nhà khoa học đã tìm thấy hai loài orthoebolaviruses khác:

  • Virus Reston (Orthoebolavirus restonense): có thể gây bệnh ở các loài linh trưởng không phải người và lợn.
  • Virus Bombali (Orthoebolavirus bombaliense): được tìm thấy ở dơi, nhưng không được biết đến là gây bệnh ở động vật hoặc con người.

Làm thế nào bạn bị nhiễm Ebola?

Ebola không lây lan dễ dàng như các virus phổ biến hơn như cảm lạnh, cúm hoặc sởi. Bạn không thể bị nhiễm bằng cách hít không khí. Thay vào đó, các đợt bùng phát bắt đầu khi nó lây nhiễm cho những người tiếp xúc với máu, dịch tiết hoặc cơ quan của động vật nhiễm bệnh, như khỉ, tinh tinh hoặc dơi ăn trái. Điều này có thể xảy ra khi ai đó chuẩn bị hoặc ăn một con vật bị nhiễm bệnh.

Một khi virus Ebola vào trong một người, nó có thể di chuyển từ người này sang người khác thông qua các chất lỏng cơ thể bị nhiễm. Những người chăm sóc cho người bệnh hoặc chôn cất ai đó đã chết vì bệnh có thể bị nhiễm nếu họ tiếp xúc với máu và các chất lỏng cơ thể khác, trực tiếp hoặc qua các vật dụng bị ô nhiễm.

Virus có thể xâm nhập qua các vết thương trên da hoặc qua mắt, mũi hoặc miệng của bạn.

Ebola có thể lây lan qua:

  • Máu
  • Mồ hôi
  • Nước mắt
  • Nước tiểu
  • Phân
  • Nôn
  • Sữa mẹ
  • Dịch ối
  • Tinh trùng
  • Dịch âm đạo
  • Dịch trong thai kỳ

Những người hồi phục sau Ebola có thể vẫn có khả năng truyền virus – thông qua quan hệ tình dục và cho con bú, chẳng hạn – miễn là virus còn tồn tại trong cơ thể họ. Ebola có thể có trong sữa mẹ và tinh trùng, ngay cả sau khi hồi phục.

Các cách khác để bị nhiễm Ebola bao gồm việc chạm vào kim tiêm, quần áo, ga trải giường hoặc thiết bị y tế bị ô nhiễm. Không có bằng chứng cho thấy muỗi hoặc côn trùng khác có thể lây lan virus này.

Ai có nguy cơ?

Bạn có khả năng bị nhiễm Ebola cao nhất nếu bạn tiếp xúc vật lý với máu hoặc chất lỏng cơ thể của ai đó bị nhiễm bệnh. Nói chung, nguy cơ của bạn không cao nếu bạn chỉ đơn giản là đi du lịch đến một quốc gia có đợt bùng phát Ebola. Nhưng bạn nên tránh đến khu vực hoặc khu vực có đợt bùng phát hoạt động trừ khi bạn có vai trò chăm sóc sức khỏe hoặc hỗ trợ quan trọng ở đó.

Hầu hết các ca nhiễm xảy ra trong các cộng đồng có đợt bùng phát hoạt động và trong các cơ sở y tế nơi những người từ các cộng đồng đó đến để được giúp đỡ. Nguy cơ cao nhất nếu bạn là:

  • Người chăm sóc cho người mắc Ebola.
  • Nhân viên y tế, như bác sĩ, y tá hoặc nhân viên tại bệnh viện hoặc phòng khám điều trị người mắc Ebola.
  • Tình nguyện viên hoặc nhân viên hỗ trợ đang phản ứng với một đợt bùng phát.
  • Nhân viên phòng thí nghiệm xử lý các mẫu Ebola.
  • Người thân hoặc bạn bè gần gũi của ai đó mắc Ebola.

Nhiễm trùng có khả năng cao hơn khi người chăm sóc hoặc nhân viên y tế không sử dụng các phương pháp kiểm soát nhiễm trùng nghiêm ngặt, như mặc áo choàng, găng tay, kính bảo hộ và mặt nạ hô hấp, cũng như sử dụng chất tẩy rửa trên các bề mặt bị ô nhiễm.

Triệu chứng Ebola

Trong giai đoạn đầu, Ebola có thể giống như cúm hoặc các bệnh khác. Các triệu chứng xuất hiện từ hai đến 21 ngày sau khi nhiễm bệnh và thường bao gồm:

  • Sốt cao
  • Đau đầu
  • Đau khớp và cơ
  • Đau họng
  • Suy nhược
  • Đau bụng
  • Thiếu cảm giác thèm ăn

Khi bệnh trở nặng, nó có thể gây chảy máu bên trong cơ thể, cũng như từ mắt, tai và mũi. Một số người có thể nôn hoặc ho ra máu, bị tiêu chảy có máu và phát ban.

Làm thế nào Ebola được chẩn đoán?

Đôi khi rất khó để xác định xem một người có mắc Ebola chỉ từ các triệu chứng. Bác sĩ có thể thực hiện xét nghiệm để loại trừ các bệnh khác như tả hoặc sốt rét.

Các xét nghiệm máu và mô là cách tốt nhất để chẩn đoán Ebola. Bác sĩ có thể kiểm tra virus hoặc kháng thể đối với virus.

Nếu bạn mắc Ebola, bạn sẽ được cách ly ngay lập tức để ngăn ngừa lây lan bệnh cho những người khác.

Điều trị Ebola

Hiện chưa có thuốc chữa cho Ebola, mặc dù các nhà nghiên cứu đang làm việc để tìm ra phương pháp điều trị.

Hai loại thuốc đã được phê duyệt để điều trị Ebola do loài Zaire (Orthoebolavirus zairense) gây ra. Cả hai đều là thuốc kháng thể đơn dòng, hoạt động như các kháng thể tự nhiên của cơ thể để nhắm mục tiêu một nhiễm trùng cụ thể. Các thuốc này là Inmazeb, là sự kết hợp của ba kháng thể đơn dòng, và Ebanga, được tạo thành từ một kháng thể đơn dòng. Những thuốc này được tiêm qua đường tĩnh mạch (IV) để thuốc đi trực tiếp vào tĩnh mạch.

Điều trị Ebola cũng bao gồm các biện pháp hỗ trợ có thể giảm triệu chứng và cải thiện khả năng sống sót, bao gồm:

  • Dịch và điện giải
  • Oxy
  • Thuốc huyết áp
  • Truyền máu
  • Thuốc giảm nôn và tiêu chảy
  • Thuốc giảm đau và sốt
  • Điều trị các nhiễm trùng khác

Các phương pháp điều trị này có thể khác nhau, tùy thuộc vào các triệu chứng và tình trạng khác mà một người mắc phải.

Biến chứng của bệnh Ebola

Nghiên cứu cho thấy bạn có nguy cơ gặp phải các biến chứng khi mắc Ebola, chẳng hạn như:

  • Hôn mê
  • Suy đa cơ quan
  • Sốc nhiễm trùng
  • Thiếu oxy (thiếu oxy trong cơ thể)
  • Mất cân bằng điện giải
  • Rối loạn đông máu nội mạch lan tỏa (DIC), một tình trạng hiếm gặp gây đông máu trong các mạch máu
  • Thiếu thể tích, một tình trạng trong đó cơ thể có mức độ máu hoặc dịch thấp
  • Sốc không phản hồi, khi cơ thể liên tục có huyết áp thấp

Các hiệu ứng lâu dài của virus Ebola

Nghiên cứu cũng cho thấy bạn có nguy cơ gặp phải triệu chứng và biến chứng sau khi hồi phục khỏi Ebola, bao gồm:

  • Co giật
  • Mất trí nhớ
  • Đau đầu
  • Vấn đề thần kinh sọ, có thể bao gồm đau, chóng mặt, yếu cơ và mất thính lực
  • Rung tay
  • Viêm màng não (viêm não và màng não trong hộp sọ và cột sống)
  • Đau mắt và các vấn đề về thị lực
  • Tăng cân
  • Đau bụng
  • Thiếu cảm giác thèm ăn
  • Rụng tóc
  • Vấn đề về da
  • Khó ngủ

Vắc xin chống Ebola

Hiện có hai loại vắc xin đã được cấp phép để phòng ngừa Ebola cho những người có nguy cơ:

  1. Ervebo: Vắc xin này đã được FDA Hoa Kỳ và các cơ quan y tế ở một số quốc gia khác phê duyệt để ngăn ngừa bệnh từ chủng virus Zaire. Nó có thể được sử dụng trong thời gian bùng phát để cố gắng hạn chế sự lây lan.Vắc xin này được phê duyệt cho những người từ 1 tuổi trở lên. Ervebo không được khuyến cáo cho bất kỳ ai đang mang thai hoặc cho con bú, nhưng Tổ chức Y tế Thế giới nói rằng những người mang thai hoặc cho con bú có thể xem xét liệu nguy cơ của họ có thể bị lấn át bởi lợi ích tiềm năng trong thời gian bùng phát Ebola.
  2. Zabdeno và Mvabea: Vắc xin này được tiêm thành hai liều. Cơ quan Dược phẩm Châu Âu đã cho phép vào tháng 5 năm 2020. Những người từ 1 tuổi trở lên có thể nhận vắc xin này.Bạn sẽ được tiêm Zabdeno như liều vắc xin đầu tiên. Liều thứ hai Mvabea sẽ được tiêm sau đó lên đến tám tuần. Nhưng các chuyên gia không khuyến nghị kế hoạch tiêm hai liều này trong thời gian bùng phát, vì nó không được thiết kế để cung cấp sự bảo vệ ngay lập tức.Đối với những người có nguy cơ cao như nhân viên y tế hoặc tình nguyện viên sống và làm việc trong các khu vực có đợt bùng phát Ebola, nếu bạn đã hoàn thành hai liều, bạn có thể nhận được mũi tiêm tăng cường Zabdeno bốn tháng sau liều thứ hai của bạn.

Làm thế nào để ngăn ngừa Ebola?

Hãy nhớ rằng Ebola ít có nguy cơ đối với hầu hết mọi người. Những người chăm sóc và nhân viên y tế đáp ứng với một đợt bùng phát có nguy cơ cao nhất. Nếu bạn có nguy cơ, có một số cách bạn có thể bảo vệ mình:

  • Tiêm vắc xin, nếu được khuyến nghị cho bạn – nhưng đừng ngừng các biện pháp phòng ngừa khác sau khi tiêm vắc xin.
  • Nếu ai đó mắc Ebola, hãy tránh tiếp xúc với máu hoặc các dịch cơ thể khác của họ.
  • Tránh tiếp xúc với tinh trùng của người đàn ông đã hồi phục từ Ebola cho đến khi xét nghiệm có thể cho thấy virus đã được loại bỏ.
  • Tránh chạm vào hoặc xử lý những thứ mà một người mắc Ebola có thể đã tiếp xúc, chẳng hạn như ga trải giường, quần áo, kim tiêm và thiết bị y tế, và rửa tay thường xuyên.
  • Tránh tham gia các đám tang trong thời gian bùng phát, đặc biệt là ở những nơi phong tục có thể liên quan đến việc chạm vào thi thể của người chết.
  • Nếu bạn đang ở trong một khu vực có sự hiện diện của Ebola, hãy tránh tiếp xúc với dơi, khỉ, tinh tinh và gorilla, vì những động vật này có thể lây lan Ebola cho con người.
  • Nếu bạn là nhân viên y tế, hãy đeo khẩu trang, găng tay và kính bảo hộ bất cứ khi nào bạn tiếp xúc với những người có thể mắc Ebola, và duy trì các thực hành kiểm soát nhiễm trùng tiêu chuẩn ngay cả khi bạn không biết khả năng chẩn đoán của ai đó.
  • Nếu bạn đã trở về từ một nơi có đợt bùng phát Ebola, hãy chú ý đến các triệu chứng trong vòng 21 ngày. Nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào, hãy báo cho bác sĩ ngay lập tức.

Kết luận

Ebola là một bệnh hiếm nhưng nghiêm trọng đã gây ra các đợt bùng phát ở châu Phi kể từ khi được phát hiện vào năm 1976. Nó chưa bao giờ gây ra một đợt bùng phát bệnh ở người ở Hoa Kỳ. Nguy cơ đối với người Mỹ, bao gồm cả những người đi du lịch, vẫn thấp. Một số thuốc và vắc xin hiện có sẵn để giúp cứu sống và kiểm soát các đợt bùng phát. Các thực hành kiểm soát nhiễm trùng cải thiện và chăm sóc hỗ trợ cho bệnh nhân cũng có thể tạo ra sự khác biệt.

CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐO HUYẾT ÁP

CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐO HUYẾT ÁP

Kỹ thuật đo huyết áp theo khuyến cáo của Hội Tăng huyết áp đã công bố năm 2007. Trong đó kỹ thuật đo huyết áp bằng tại phòng khám là trị số tham khảo nhưng đo huyết áp lưu động 24 giờ có thể cải thiện dự báo nguy cơ tim mạch ở cả hai nhóm có điều trị và không điều trị. Ngoài ra việc đo huyết áp tại nhà là một khuyến cáo được lưu ý và khuyến khích. Ngưỡng chẩn đoán huyết áp thay đổi tùy theo kỹ thuật đo. Kỹ thuật đo cơ bản vẫn sử dụng tại cánh tay, việc đo huyết áp trung tâm cần có những nghiên cứu về sau nhằm xác định vai trò tiên lượng trước khi được đưa vào khuyến cáo như là kỹ thuật thông dụng.
Bảng 1. Các ngưỡng huyết áp áp dụng để chẩn đoán Tăng huyết áp theo cách đo 

Đo huyết áp HATT
(mmHg)
HATTr
(mmHg)
Đo huyết áp tại phòng khám/bệnh viện 140 90
Đo huyết áp lưu động 24 giờ 125 ‒ 130 90
‒ Ban đêm 130‒135 85
‒ Ban ngày 120 70
Đo huyết áp tại nhà (tự do) 135 ‒135 85

Các loại máy đo huyết áp
Trị số huyết áp có thể khác nhau ở các thời điểm trong ngày và giữa các ngày; do vậy phải đo huyết áp nhiều lần và vào các thời điểm khác nhau. Tất cả người lớn nên đo huyết áp ít nhất một lần mỗi 5 năm. Với người có huyết áp bình thường cao hoặc những người có con số huyết áp cao bất kể lúc nào trước đó thì nên đo lại hàng năm. Nếu huyết áp chỉ tăng nhẹ, chúng ta nên đo nhiều lần theo dõi trong nhiều tháng vì có thể chúng sẽ giảm xuống đạt đến ngưỡng bình thường. Nếu các bệnh nhân có huyết áp tăng cao đáng kể, có biểu hiện tổn thương cơ quan đích do Tăng huyết áp hoặc có bằng chứng nguy cơ tim mạch cao hoặc rất cao, nên đo huyết áp lại sau thời gian ngắn ví dụ sau vài tuần hoặc vài ngày. Đo huyết áp có thể được thực hiện bởi bác sĩ hoặc y tá tại văn phòng hoặc tại cơ sở lâm sàng (HA tại phòng khám hoặc tại bệnh viện), hoặc tự đo bởi bệnh nhân tại nhà hoặc được đo bằng huyết áp lưu động 24 giờ.
2.1.1. Huyết áp kế thủy ngân
Thiết kế của huyết áp kế thuỷ ngân ít có thay đổi trong suốt 50 năm qua, ngoại trừ máy huyết áp hiện nay không để chảy thủy ngân ra ngoài. huyết áp kế thủy ngân thường chính xác hơn các phương tiện đo khác và không có sự khác biệt về độ chính xác của các hãng sản xuất khác nhau.
2.1.2. Huyết áp kế bằng hơi
Những thiết bị này, khi áp suất băng quấn tăng sẽ được thể hiện qua hệ thống kim chỉ đồng hồ theo từng mức. Loại thiết bị này thường không duy trì tính ổn định theo thời gian. Vì vậy, loại này thường cần phải chỉnh lại định kỳ, thường là mỗi 6 tháng. Những phát triển gần đây về kỹ thuật của loại máy này là làm giảm sự hư hỏng khi bị đánh rơi.
2.1.3. Huyết áp kế phối hợp
Thiết bị này được phát triển dựa trên sự gắn kết thiết bị điện tử và phương pháp nghe tạo nên huyết áp kế phối hợp. Cột thủy ngân được thay thế bằng thang đo điện tử và huyết áp được đo dựa trên kỹ thuật nghe. Huyết áp kế phối hợp đang dần dần thay thế huyết áp kế thủy ngân.
2.1.4. Dao động kế
Sự dao động của huyết áp ở băng quấn của máy đo huyết áp được ghi nhận trong suốt quá trình xả xẹp băng quấn, điểm dao động cao nhất tương ứng với huyết áp nội mạch trung bình. Sự dao động thường trên HATT và bên dưới HATTr, vì thế HATT và HATTr có thể được lượng giá gián tiếp thông qua thuật toán. Một trong những thuận tiện của phương pháp này là không cần bộ chuyển đổi đặt trên ĐM cánh tay, vì vậy vị trí băng quấn không quan trọng. Tuy nhiên ở người già với khoảng hiệu áp rộng, huyết áp ĐM trung bình có thể đánh giá thấp hơn có ý nghĩa. Kỹ thuật đo dao động được sử dụng thành công khi đo huyết áp lưu động và đo huyết áp ở nhà.
2.2. Phương pháp đo huyết áp (5)
2.2.1. Ảnh hưởng của tư thế
Huyết áp thường được đo ở hai tư thế là ngồi và nằm ngửa, nhưng cả hai tư thế này đều cho sự khác biệt. Khi đo ở tư thế nằm ngửa, cánh tay nên được nâng bởi một cái gối. HATTr đo được ở tư thế ngồi cao hơn so với tư thế nằm khoảng 5 mmHg. Vị trí của cánh tay được điều chỉnh sao cho băng quấn ở mức của nhĩ phải (khoảng ở gian sườn 2) ở cả hai vị trí, HATT ở tư thế nằm cao hơn 8 mmHg so với tư thế ngồi. Nếu không có chỗ dựa lưng, HATTr có thể cao hơn 6 mmHg so với khi có dựa lưng. Bắt chéo chân có thể THATT lên 2‒8 mmHg. Vị trí của cánh tay rất quan trọng khi đo ở tư thế ngồi, nếu cánh tay dưới mức của nhĩ phải, trị số huyết áp đo được rất cao. Tương tự như vậy, nếu cánh tay đặt trên mức của nhĩ phải, trị số huyết áp đo được rất thấp. Sự khác biệt này có thể do sự tác dụng của áp lực thủy tĩnh và khoảng 2 mmHg cho mỗi 2,54 cm trên hoặc dưới mức tim.
2.2.2. Sự khác biệt giữa hai tay
Huyết áp nên được đo cả hai tay trong lần khám đầu tiên. Điều này có thể giúp phát hiện chỗ hẹp của ĐM chủ và ĐM chi trên. Khi sự khác biệt huyết áp giữa hai tay là hằng định, huyết áp ở tay cao hơn sẽ được sử dụng. Đối với người già và bệnh nhân ĐTĐ, nên đo huyết áp sau khi đứng dậy ít nhất 2 phút để phát hiện hạ huyết áp tư thế đứng. Bao cao su của băng quấn huyết áp kế phải ôm vòng ít nhất 80% chu vi cánh tay. Nếu dùng ống nghe để xác định huyết áp nên chọn pha I và pha V Korotkoff để xác định HATT và HATTr; nếu không nghe được pha V chọn pha IV thay thế. Mỗi lần khám đo ít nhất hai lần, cách nhau 1‒2 phút. Nếu bệnh nhân bị rung nhĩ nên đo nhiều lần và dùng phương pháp đo ống nghe.
2.3. Các phương thức đo HA
2.3.1. Đo huyết áp tại phòng khám huyết áp lâm sàng
Huyết áp có thể được đo bằng một huyết áp kế thủy ngân với các bộ phận (ống cao su, van, ống định lượng bằng thủy ngân…) được cất giữ trong các điều kiện thích hợp. Các máy đo huyết áp không xâm nhập khác (dụng cụ đo dựa vào áp lực khí kèm ống nghe hoặc dụng cụ đo dạng sóng bán tự động) có thể sử dụng và sẽ ngày càng phổ biến do huyết áp kế thủy ngân ngày càng bị sử dụng hạn chế do cồng kềnh bất tiện. Tuy nhiên các dụng cụ này phải được chuẩn hóa và độ chính xác phải được kiểm tra thường xuyên bằng cách đối chiếu với giá trị của huyết áp kế thủy ngân.
Tiến trình đo huyết áp chung (1,2,3,4,5,6,7)
‒ Để bệnh nhân ngồi 5 phút trong một phòng yên tĩnh trước khi bắt đầu đo HA.
‒ Tư thế ngồi đo huyết áp là thường quy.
‒ Đối với người già và bệnh nhân ĐTĐ, khi khám lần đầu thì nên đo cả huyết áp tư thế đứng.
‒ Cởi bỏ quần áo chật, cánh tay để tựa trên bàn ở mức ngang tim, thả lỏng tay và không nói chuyện trong khi đo.
‒ Đo ít nhất hai lần cách nhau 1‒2 phút, nếu hai lần đo này quá khác biệt thì tiếp tục đo thêm vài lần nữa.
‒ Dùng băng quấn tay đạt tiêu chuẩn (bảng 1).
‒ Băng quấn đặt ngang mức tim dù bệnh nhân ở tư thế nào. Mép dưới băng quấn trên lằn khuỷu 3 cm.
‒ Sau khi áp lực hơi trong băng quấn làm mất mạch quay, bơm hơi lên tiếp 30 mmHg nữa và sau đó hạ cột thủy ngân từ từ (2 mm/giây).
‒ Sử dụng âm thanh pha I và pha V của Korotkoff để xác định HATT.
‒ Chọn HATTr thời điểm tiếng đập biến mất (pha V).
‒ Đo huyết áp cả hai tay trong lần đo đầu tiên để phát hiện sự khác biệt gây ra do bệnh lý mạch máu ngoại biên. Khi đó giá trị bên cao hơn được theo dõi sử dụng lâu dài sau này.
‒ Tính huyết áp dựa trên số trung bình hai lần đo; nếu giữa hai lần đo đầu tiên chênh lệch nhiều > 5mm thì đo thêm nhiều lần nữa.
‒ Không bao giờ điều trị Tăng huyết áp khi chỉ dựa vào kết quả một lần đo HA.
Bảng 2.Kích thước đề xuất bao quấn dành cho máy đo huyết áp (3)

Chỉ định Bao cao su trong bao quấn: chiều dài x rộng (cm) Chu vi cánh tay (cm)
Người lớn tay nhỏ/trẻ em 12 x 18 <22
Người lớn bình thường 12 x 26 <33
Người lớn quá khổ 12 x 40 <50

3.2. Theo dõi huyết áp tại nhà tự đo HA
Nên dùng máy đo đã chuẩn hóa và đo đúng quy trình. Không dùng loại đo ở cổ tay vì không chính xác. Tiện lợi của việc theo dõi huyết áp tại nhà là ghi được các số đo huyết áp khi thức trong nhiều ngày, giảm được hiệu ứng Tăng huyết áp áo choàng trắng. Điều quan trọng của đo huyết áp tại nhà là giúp bệnh nhân biết con số huyết áp của mình khi điều trị. Con số huyết áp đo tại nhà thường thấp hơn tại phòng khám, cho nên phải giảm bớt ngưỡng và mục tiêu huyết áp (ví dụ 10/5 mmHg) để điều trị khi đo huyết áp tại nhà. Điều bất tiện của đo huyết áp tại nhà là báo cáo sai lệch nên không giám sát được việc thay đổi thuoc. Hiện chưa có thoả ước nào về số lần đo cũng như thời điểm đo huyết áp và ngưỡng huyết áp nào là bất thường nhưng bệnh nhân có huyết áp tại nhà < 130/85 mmHg có thể xem như bình thường. Tự đo huyết áp tại nhà không thể cung cấp thông tin đầy đủ về giá trị huyết áp trong 24 giờ tuy nhiên có thể cung cấp trị số huyết áp trong những ngày khác nhau và gần với hoàn cảnh sống bình thường hơn. Các trị số trung bình thu được vài ngày cũng mang lại một số thông tin, ưu điểm như đo huyết áp 24 giờ, đó là tránh được hiệu quả áo choàng trắng và có thể giúp dự báo nhất định sự hiện diện và tiến triển của tổn thương cơ quan đích so với đo huyết áp tại phòng khám. Do vậy, đo huyết áp tại nhà vào các khoảng thời gian thích hợp trước và suốt quá trình điều trị cũng có thể được khuyến khích bởi vì đây là phương pháp tương đối cũ và có thể cải thiện sự gắn kết bệnh nhân và điều trị. Một số điểm lưu ý khi đo huyết áp tại nhà:
‒ Sử dụng các máy đo chính xác đã chuẩn hóa, không dùng các loại máy quấn ngang cổ tay. Khi đo cánh tay của bệnh nhân phải đặt ngang mức nhĩ phải.
‒ Khuyến khích sử dụng các máy bán tự động và tự động vì huyết áp kế thủy ngân sẽ làm cho bệnh nhân khó khăn trong sử dụng và có thể sai sót với động tác nghe, đặc biệt ở người già.
‒ Nhắc bệnh nhân phải ngồi nghỉ vài phút trước khi đo và cho họ biết rằng các trị số huyết áp có thể khác nhau trong các lần đo khác nhau do sự thay đổi áp lực máu tự động.
‒ Tránh yêu cầu bệnh nhân đo nhiều lần quá mức cần thiết, nhưng cần thiết phải đo vài lần trước khi dùng thuốc và trong suốt quá trình điều trị.
‒ Lưu ý rằng các giá trị bình thường đo ở nhà thấp hơn so với đo ở phòng khám. Giá trị đo ở nhà 135/85 mmHg tương ứng với 140/90mmHg đo ở phòng khám hoặc bệnh viện.
‒ Hướng dẫn rõ ràng cho bệnh nhân về tính cần thiết ghi chép cẩn thận để cung cấp đầy đủ và chính xác các giá trị đo được và tránh tự mình thay đổi các chế độ điều trị.
2.3.3. Theo dõi huyết áp lưu động
Huyết áp lưu động cung cấp thông tin nhiều hơn huyết áp đo tại nhà hoặc phòng khám; ví dụ, huyết áp 24 giờ gồm cả huyết áp trung bình ban ngày (thường từ 7‒22 giờ) và giá trị ban đêm và mức dao động HA. Các nghiên cứu cho thấy đo huyết áp 24 giờ: (1) liên quan với tổn thương cơ quan đích do Tăng huyết áp gần hơn trị số huyết áp phòng khám; (2) dự báo nguy cơ tim mạch toàn dân ở đối tượng Tăng huyết áp cao hơn dự báo của trị số huyết áp phòng khám mang lại; (3) đo chính xác hơn huyết áp phòng khám đặc biệt để đánh giá hiệu quả hạ huyết áp qua điều trị, do không có hiện tượng áo choàng trắng và các yếu tố nhiễu tác động ngày càng nhiều sau mỗi lần đo.
Hầu hết bệnh nhân có thể thích nghi với cách đo huyết áp ban ngày mỗi 15‒30 phút và ban đêm mỗi 30 phút và mỗi 60 phút. Nhờ vậy, huyết áp lưu động cung cấp nhiều số đo huyết áp hơn với khoảng thời gian 24‒26 giờ (để giảm hiệu ứng áo choàng trắng, thường bỏ con số đo đầu và cuối) và do đó, có hơn 70 con số huyết áp qua 24 giờ theo dõi. Giống đo huyết áp tại nhà, con số huyết áp lưu động thấp hơn khi đo tại phòng khám (10/5 mmHg) và chỉ có thể thực hiện trong vài ngày, ngược lại đo huyết áp tại nhà sẽ cho các thông tin về trị số huyết áp liên tục trong nhiều năm tháng. (29,30,31)
Khi đo huyết áp 24 giờ, cần lưu ý:
‒ Sử dụng các dụng cụ được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế.
‒ Sử dụng băng quấn có kích cỡ phù hợp, so sánh các giá trị đo được ban đầu với các giá trị đo được bằng một huyết áp kế để kiểm tra làm sao sự khác biệt không vượt quá +5 mmHg.
‒ Chỉnh hệ thống đọc với các thời khoảng < 30 phút để thu được đầy đủ các giá trị nếu bị tạm ngừng đo do trở ngại của máy.
‒ Hướng dẫn bệnh nhân sinh hoạt bình thường nhưng tránh các hoạt động gắng sức và giữ cánh tay duỗi ra trong thời gian đó. Đề nghị bệnh nhân ghi vào nhật ký các bất thường, thời gian ngủ và chất lượng giấc ngủ.
‒ Đo lại huyết áp 24 giờ khác nếu trong lần đo đầu tiên thu được < 70% các giá trị mong muốn do sự hạn chế của máy đo.
Bình thường, huyết áp vào ban đêm giảm 10%. Ở bệnh nhân không có khoảng trũng sinh lý ban đêm, sẽ liên quan đến các biến chứng của THA. Một số nghiên cứu cho rằng huyết áp ban đêm là một dấu hiệu có giá trị tiên lượng các nguy cơ tim mạch.
2.4. Chỉ định các phương pháp đo HA
√ Huyết áp đo được tại phòng khám hoặc tại trung tâm y tế nên được sử dụng như là thông số tham khảo.
√ Theo dõi huyết áp 24 giờ có thể được xem như bổ trợ lâm sàng khi:
‒ Giá trị huyết áp đo tại phòng khám khác nhau đáng kể khi đo nhiều lần hoặc đo nhiều thời điểm.
‒ Giá trị huyết áp đo tại phòng khám cao ở những đối tượng có nguy cơ tim mạch thấp.
‒ Có sự khác nhau mâu thuẫn giữa huyết áp đo tại phòng khám và đo tại nhà.
‒ Không đáp ứng điều trị.
‒ Áp dụng trong các nghiên cứu.
Huyết áp dao động bất thường
Nghi ngờ “THA áo choàng trắng”
Cần thông tin để quyết định điều trị Đánh giá Tăng huyết áp ban đêm
Xác định hiệu quả của thuốc qua 24 giờ
Chẩn đoán và điều trị Tăng huyết áp thai kỳ
Đánh giá hạ huyết áp triệu chứng
√ Tự đo huyết áp tại nhà được khuyến cáo áp dụng nhằm:
‒ Cung cấp nhiều thông tin cho các quy định của bác sĩ. ‒ Cải thiện sự gắn kết bệnh nhân vào chế độ điều trị.
√ Tự đo huyết áp tại nhà không được khuyến khích bất kỳ khi:
‒ Gây cho bệnh nhân lo lắng.
‒ Tạo thuận lợi làm cho bệnh nhân tự thay đổi chế độ điều trị.
√ Giá trị huyết áp bình thường khác nhau khi đo ở phòng khám, đo 24 giờ và đo tại nhà.
2.5. Đo huyết áp trong các trường hợp đặc biệt
2.5.1. Người lớn tuổi
Người lớn tuổi thường có xu hướng Tăng huyết áp áo choàng trắng, Tăng huyết áp tâm thu đơn độc và giả THA. Huyết áp thường được đo ở tư thế ngồi, một hoặc hai lần đo trong mỗi lần thăm khám và lấy giá trị trung bình. Huyết áp nên được đo một cách thường qui ở tư thế đứng vì người lớn tuổi thường có hạ huyết áp tư thế đứng. Tự đo huyết áp có thể hữu ích để xem sự thay đổi huyết áp khi đang dùng thuốc. Đo huyết áp cấp cứu, thường kèm với Holter điện tim thường làm rõ một số dấu chứng như mệt từng lúc hay khó thở vào ban đêm.
2.5.2. Bệnh nhân béo phì
Băng quấn dài và rộng là cần thiết để tạo lực ép cần thiết lên ĐM cánh tay ở người béo phì. Sai số do áp suất không đủ khi dùng băng quấn quá nhỏ có thể dẫn đến phân loại sai mức độ Tăng huyết áp và dùng thuốc không cần thiết
2.5.3. Phụ nữ có thai
Phát hiện Tăng huyết áp trong thai kỳ là một trong những khía cạnh chính của chăm sóc tiền sản do đó đo huyết áp chính xác là rất cần thiết. Huyết áp kế thủy ngân vẫn được khuyến cáo sử dụng để đo huyết áp ở phụ nữ có thai. Huyết áp thường được đo ở tư thế ngồi, nhưng tư thế nằm nghiêng trái là sự thay thế thích hợp, đặc biệt trong khi sinh. Pha V của Korotkoff nên được sử dụng để đánh giá HATTr nhưng khi âm thanh có thể nghe được ngay cả khi xả xẹp băng quấn thì nên dùng pha IV.

Các thiết bị đo huyết áp thay thế huyết áp kế thủy ngân đang được sử dụng nhiều, và một số lượng nhỏ thiết bị đo huyết áp tự động đang được đánh giá khi sử dụng ở phụ nữ có thai. Tự đo huyết áp có thể có ích trong đánh giá thay đổi huyết áp trong thai kỳ.

TIÊU CHUẨN CHẨN ĐOÁN TĂNG HUYẾT ÁP

Tại phòng khám : Khi bệnh nhân có trị số huyết áp ≥ 140/90 mmHg. Sau khám lọc lâm sàng ít nhất 2 và 3 lần khác nhau. Mỗi lần khám huyết áp được đo ít nhất 2 lần.
Tại nhà: Khi đo nhiều lần đúng phương pháp. Tăng huyết áp khi có trị số huyết áp > 135/85 mmHg.
Đo huyết áp bằng máy đo huyết áp Holter 24 giờ: huyết áp > 125/ 80 mmHg
Bảng 4. Các ngưỡng huyết áp áp dụng để chẩn đoán Tăng huyết áp theo cách đo.(4)

HATT ( mmHg) HATTr (mmHg)
Đo huyết áp tại phòng khám/bệnh viện 140 90
Đo huyết áp lưu động 24 giờ 125 80
Đo huyết áp tại nhà (tự do) 135 85

Chai chân

CHỮA BỆNH CHAI CHÂN

Chai chân (clavus) là tình trạng tăng sinh dày lớp thượng bì, nhất là lớp sừng, thường gặp ở các điểm tì ép nhiều trong lòng bàn chân như gót chân, các điểm đối diện với ngón chân 3 và 5, có khi ở lưng ngón chân. Bệnh không nguy hiểm nhưng gây nhiều phiền toái vì ảnh hưởng đến việc đi lại do đau đớn, đặc biệt là chai ở gót chân.

Trong Đông y, chai chân thuộc phạm vi các chứng bệnh như Nhục chích, Kê nhãn…, được điều trị bằng một số phương pháp như:

– Hồng hoa 3g, địa cốt bì 6g, tán bột trộn với dầu vừng và một chút bột mì thành dạng cao rồi đắp lên tổn thương.

– Ô mai 30g sấy khô, tán vụn, đem ngâm với 250ml giấm chua trong 2 tuần rồi lấy dịch thuốc bôi vào tổn thương mỗi ngày 3 lần.

– Trần bì 15g, cẩu tích 30g, uy linh tiên 30g, địa phu tử 30g, hồng hoa 10g, sắc lấy nước ngâm chân khi còn nóng, mỗi ngày 2 lần. Mỗi thang có thể dùng 3 – 4 lần.

– Bột huyết kiệt 5g, bột đá vôi lượng vừa đủ, hai thứ đem hòa với 100ml nước muối đặc thành dạng cao rồi đắp lên tổn thương, dùng băng y tế cố định trong 24 giờ. Sau đó, tháo băng, gỡ bỏ cao thuốc, bóc hết chai rồi dùng mật quạ bôi một lớp mỏng trong 24 giờ. Một nghiên cứu của Trung Quốc tiến hành trên 100 ca đều đạt kết quả tốt.

– Trước tiên, rửa sạch tổn thương, sát khuẩn bằng cồn y tế rồi dùng dao lam nhẹ nhàng gọt bỏ lớp sừng dày. Sau đó, lấy lá lô hội tươi thái phiến mỏng đắp lên tổn thương và dùng băng cố định, mỗi ngày thay thuốc 2 lần, làm liên tục cho đến khi khỏi.

– Phèn phi 10g, hoàng đan 10g, phác tiêu 10g, ba thứ tán bột, trộn đều. Trước tiên, dùng mũi dao khoét 1 lỗ ở trung tâm tổn thương, sau đó dùng bột thuốc rắc đầy và cố định bằng băng y tế, mỗi ngày thay thuốc 1 lần.

– Tỏi vỏ tím 1 củ, hành tươi 1 củ, giấm chua vừa đủ. Trước tiên, dùng cồn y tế sát trùng rồi lấy dao lam nhẹ nhàng gọt bỏ lớp sừng dày. Tiếp đó, ngâm chân bằng nước muối trong 20 phút (200ml nước chín pha với 5g muối) rồi dùng tỏi và hành giã nát trộn với giấm chua đắp lên tổn thương, cố định bằng băng y tế, mỗi ngày thay thuốc 1 lần, thông thường 5 – 7 ngày là khỏi.

– Ngô công sống (con rết) 1 con rửa sạch, giã nát đem trộn với 1,5g lưu hoàng rồi đắp lên tổn thương, mỗi ngày thay thuốc 1 lần, thường sau 3 – 4 lần là khỏi. Có thể thay lưu hoàng bằng băng phiến 1g.

– Ô mai 30g, muối ăn 3g, giấm lâu năm lượng vừa đủ. Ô mai đem ngâm vào nước muối trong 1 ngày rồi bỏ hạt, giã nát, trộn với giấm thành dạng hồ và đắp lên tổn thương, mỗi ngày thay thuốc 1 lần, thường sau 3 lần là khỏi.

Chẩn đoán điều trị bệnh Papilloma (u nhú) mũi xoang

U nhú mũi xoang là u lành tính xuất phát từ biểu mô niêm mạc mũi xoang.

Là loại u thường gặp nhất trong các khối u lành tính mũi xoang, chiếm tỷ lệ 0,5- 4% u mũi xoang, có thể có xu hướng ác tính hóa.

NGUYÊN NHÂN

Có nhiều giả thuyết về nguyên nhân của u nhú mũi xoang.

  • Do virus: Đây là giả thuyết được nhiều tác giả chấp nhận.

Nhiều tác giả đã tìm thấy ADN của Human Papilloma Virus (HPV) trong mô của u nhú với hai nhóm gây bệnh chính là HPV 6 và HPV 11.

  • Các yếu tố môi trường như ô nhiễm, hoá chất….bị nghi ngờ là nguyên nhân gây u nhú nhưng chưa có thống kê đầy đủ.
  • Do viêm: Giả thuyết này ít được chấp nhận.

Theo nhiều tác giả viêm thường thấy kèm theo u nhú do hậu quả của khối u gây bít tắc lỗ thông mũi xoang cản trở đường vận chuyển niêm dịch từ xoang ra ngoài.

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

Lâm sàng

  • Triệu chứng cơ năng:

+ Ngạt tắc mũi là triệu chứng nổi bật.

+ Chảy nước mũi.

+ Đau nhức vùng mặt.

+ Giảm ngửi hoặc mất ngửi.

+ Có thể xì ra máu mũi.

Các triệu chứng này thường chỉ ở một bên hốc mũi.

  • Triệu chứng thực thể:

+ Soi mũi thấy khối u ở một bên hốc mũi có dạng như chùm nho nhợt màu hoặc như quả dâu sẫm màu.

Cận lâm sàng

  • X quang thường quy (Blondeau, .)

+ Hình ảnh không đặc hiệu.

+ Hình ảnh mờ các xoang và mờ trong hốc mũi.

  • CT Scan:

+ Xác định vị trí khối u.

+ Đánh giá lan rộng của khối u ra các xoang, các vùng lân cận.

+ Tuy nhiên trong nhiều trường hợp khó phân biệt khối u với ứ đọng dịch và niêm mạc dày do bít tắc lỗ thông mũi xoang.

  • MRI:

+ Cho phép phân biệt u với các tổn thương do tắc lỗ thông mũi xoang (dày niêm mạc, polyp, dịch trong xoang).

+ Đánh giá những tổn thương xâm lấn phần mềm và nền sọ tốt hơn CT Scan.

  • Kết quả mô bệnh học

Giúp chẩn đoán xác định u nhú và phân loại u nhú.

Theo mô bệnh học, có hai loại u nhú: u nhú thường và u nhú đảo ngược.

  • Phân giai đoạn u nhú đảo ngược

Theo John H. Krouse (2000), u nhú mũi xoang chia làm bốn giai đoạn:

  • T1: Khối u nằm trong hốc mũi, chưa phát triển vào xoang; không có tổn thương ác tính.
  • T2: Khối u phát triển tới vùng phức hợp lỗ ngách và xoang sàng, hoặc thành trong xoang hàm; không có tổn thương ác tính.
  • T3: Khối u chiếm toàn bộ xoang hàm; hoặc lan vào xoang bướm; hoặc lan vào xoang trán; không có tổn thương ác tính.
  • T4: Khối u vượt khỏi phạm vi mũi xoang (xâm lấn ổ mắt, nội sọ, hố chân bướm hàm) hoặc có tổn thương ác tính.

Chẩn đoán phân biệt

  • Với bệnh polyp mũi:

+ Thường ở hai bên hốc mũi.

+ Soi mũi thấy polyp mềm, nhẵn, mọng trong, màu hồng nhạt.

+ Kết quả mô bệnh học là polyp.

  • Với bệnh ung thư mũi xoang:

+ Thường ở một bên hốc mũi.

+ Thường chảy máu hoặc xì ra máu mũi.

+ Soi mũi thấy tổ chức u sùi, loét dễ chảy máu.

+ Kết quả mô bệnh học là tổn thương ác tính.

ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc điều trị

  • Điều trị bằng phẫu thuật.
  • Phẫu thuật càng sớm càng tốt.
  • Lấy hết bệnh tích u.

Điều trị cụ thể

  • Phẫu thuật nội soi mũi xoang: chỉ định với khối u nhú giai đoạn I, II, III.
  • Phẫu thuật mở cạnh mũi: chỉ định với khối u nhú ở giai đoạn IV.

TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG

Tiên lượng

  • U nhú thường tiên lượng tốt hơn u nhú đảo ngược do ít tái phát và hiếm phát triển thành tổn thương ác tính.
  • U giai đoạn sớm (I, II) tiên lượng tốt hơn giai đoạn muộn (III, IV).

Biến chứng

  • U nhú mũi xoang, đặc biệt là u nhú đảo ngược có khả năng chuyển thành tổn thương ác tính với tỷ lệ từ 7 đến 10%.

PHÒNG BỆNH

  • Thường xuyên rèn luyện sức khoẻ, nâng cao thể lực.
  • Không hút thuốc lá, thuốc lào, hạn chế rượu bia.
  • Tránh tiếp xúc với các yếu tố ô nhiễm môi trường, hoá chất. Trong trường hợp phải tiếp xúc, phải có trang bị lao động đầy đủ.
  • Thường xuyên đi khám sức khoẻ định kỳ.