Blog Trang 516

Sản phẩm thuốc phá thai

Thuốc phá thai là gì?

Các loại thuốc kích thích kinh nguyệt và ngăn ngừa thai có ưu điểm là phương pháp đơn giản, không cần can thiệp vào buồng tử cung, không gây tổn thương. Trong lâm sàng, thuốc mifepristone được sử dụng kết hợp với prostaglandin để thực hiện phá thai bằng thuốc. Hơn 80% trường hợp sẽ thải thai ra ngoài trong ngày theo dõi, khoảng 70% mô nhau thai sẽ được thải trong vòng 2 tuần, và 1% sẽ kéo dài đến hơn 50-70 ngày.

Chỉ định và chống chỉ định của thuốc phá thai

Những ai cần thực hiện phương pháp phá thai bằng thuốc?

  1. Phụ nữ có thai dưới 49 ngày, đã xác định là thai trong tử cung, và dưới 40 tuổi, tự nguyện yêu cầu chấm dứt thai kỳ.
  2. Những người không có bệnh lý mãn tính hoặc tiền sử hen suyễn dị ứng.
  3. Người đã được chẩn đoán dương tính qua siêu âm và thử thai nước tiểu.
  4. Phụ nữ không điều trị bằng corticosteroid trong vòng 3 tháng gần đây.

Những ai không thể thực hiện phá thai bằng thuốc?

  1. Những người có bệnh nội tiết, chức năng gan hoặc thận bất thường, các khối u lành tính hoặc ác tính ở các cơ quan, bệnh máu hoặc bệnh huyết khối, huyết áp cao.
  2. Người mắc bệnh tim, glaucoma, hen suyễn, rối loạn chức năng tiêu hóa và cơ địa dị ứng.
  3. Những người có thai khi đang dùng vòng tránh thai trong tử cung.
  4. Những người nghi ngờ có thai ngoài tử cung.

Chuẩn bị trước và sau khi phá thai bằng thuốc

  • Chuẩn bị trước và sau phẫu thuật:
    Sau khi phá thai bằng thuốc, cần chú ý đến vệ sinh cá nhân, giữ vệ sinh vùng kín sạch sẽ để phòng ngừa nhiễm trùng. Sử dụng băng vệ sinh, giấy vệ sinh đạt tiêu chuẩn và thay quần lót thường xuyên.
  • Thời gian hồi phục sau phẫu thuật:
    Trong vòng 1 tháng.

Biến chứng hoặc rủi ro:

  1. Các thuốc lâm sàng chủ yếu hiện nay là mifepristone, carboprost methyl ester, và seprone, có tác dụng kích thích kinh nguyệt và ngăn ngừa thai. Sau khi dùng, ngoài các phản ứng đường tiêu hóa như buồn nôn, nôn, đau bụng, tiêu chảy, còn có một số tác động xấu đến gan và thận. Nếu phụ nữ có chức năng gan và thận kém, việc sử dụng các loại thuốc này có thể làm nặng thêm gánh nặng cho gan và thận, gây ra các bệnh về gan và thận, hoặc làm nặng thêm các bệnh đã có.
  2. Sau khi phá thai bằng thuốc, thường có hiện tượng chảy máu âm đạo trong 5-10 ngày, một số trường hợp kéo dài 2-3 tuần, rất dễ dẫn đến thiếu máu. Một số thai phụ sau khi phá thai bằng thuốc chỉ thải ra một phần phôi thai, thậm chí không thể thải ra, dẫn đến chảy máu âm đạo kéo dài hàng tháng. Nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến chảy máu ồ ạt nguy hiểm. Nếu không kịp thời xử lý các tình huống này, chảy máu âm đạo có thể kéo dài liên tục, gây viêm vùng chậu, dẫn đến tắc ống dẫn trứng, gây vô sinh thứ phát; một số người còn có thể để lại triệu chứng đau lưng, đau bụng.

Quy trình thực hiện phá thai bằng thuốc

  1. Khi thai dưới 49 ngày: Ngày đầu dùng mifepristone 50mg vào buổi sáng và 25mg vào buổi tối, ngày thứ hai 25mg vào buổi sáng và tối, ngày thứ ba 25mg vào buổi sáng. 1 giờ sau dùng misoprostol 600μg, sau 3 giờ nếu không thấy thai ra ngoài, tăng thêm 200μg mỗi giờ cho đến khi thai ra, tổng lượng trong ngày có thể đạt 1200μg.
  2. Khi thai từ 10 đến 16 tuần: Dùng mifepristone 500mg 2 lần/ngày trong 2 ngày. Ngày thứ ba đặt thuốc vào âm đạo mỗi 2 giờ 1mg cho đến khi thai được thải ra, liều tối đa 5mg. Hoặc có thể đặt misoprostol 600μg, mỗi 3 giờ một lần, liều tối đa 1800μg.

Thông tin liên quan đến phá thai bằng thuốc

Các thủ thuật tương tự

Hút nạo, nạo thai, phá thai bằng thuốc, kích thích sinh lý trong khoang ối, kích thích sinh lý ngoài khoang ối, nạo phá thai, dẫn lưu tử cung, phẫu thuật phá thai nhân tạo, phá thai không đau, nạo tử cung.

Phác đồ ngộ độc thuốc diệt chuột

I/ NGỘ ĐỘC THUỐC DIỆT CHUỘT PHOSPHURE KẼM

1.1. Chẩn đoán

_Bệnh sử, lời khai của BN, thân nhân, tên nhãn gói thuốc (thường gọi là FOKEBA).

_Lâm sàng

+ Tiêu hóa: đau bụng, nôn, bỏng rát thực quản, có thể nôn ra máu, tiêu chảy

+ Hô hấp: khó thở, phù phổi cấp

+ Tim mạch: mạch nhanh, HA tụt, rối lọan nhịp tim

+ Thần kinh: tri giác thay đổi từ kích thích,vật vã đến co giật, hôn mê

+ Trường hợp nặng: choáng, tím tái, hôn mê, tử vong

+ 3-4 ngày sau: có thể bị viêm gan, suy thận cấp

_Độc chất: PHOSPHURE KẼM

_XN độc chất trong nước tiểu, máu (chưa thực hiện được).

1.2 Xử trí

1.2.1 Rửa dạ dày

1/ Đặt sond dạ dày, bơm qua sond 500 ml dung dịch CuSO4 1% (phèn xanh)

2/ Bơm tiếp 1000 ml dung dịch KMnO4 (thuốc tím)

3/ Rút hỗn hợp trên qua sond dạ dày

4/ Bơm tiếp dung dịch 50g MgSO4 pha trong 100ml dầu Paraphine

5/ Sau đó, rút sond dạ dày

1.2.1 Các biện pháp can thiệp khác:

1.             Truyền dịch, cân bằng nước điện giải bằng dung dịch NaCl 90/00, Glucose 5%, Glucolyte.

2.             Lợi tiểu: Furosemide 20mg 1-2 ống TB.

3.             Kháng thụ thể H2: Ranitidine 50mg TB mỗi 8 giờ.

4.             Có choáng: chống choáng bằng bù dịch, thuốc vận mạch như trong phác đồ chống choáng nhiễm trùng.

5.             Có viêm gan: truyền dịch, Hydrocortisone 100mg mỗi 4 giờ. Có thể thay thế bằng Methylprednisolone 40mg mỗi 4 giờ. Lọc máu liên tục. 6.Có suy thận: lọc thận nhân tạo hoặc lọc máu liên tục.

II/ NGỘ ĐỘC THUỐC DIỆT CHUỘT ANTIVITAMINE K

2.1  Chẩn đoán

_Bệnh sử: lời khai BN, thân nhân, tên,    nhãn gói thuốc (thường gọi là RAT-K)

_Lâm sàng: HC xuất huyết da niêm và hoặc xuất huyết tạng (XHTH, tiểu máu, XH trong khớp, XH não…)

_CLS: TQ (PT), INR kéo dài

_Độc chất: Warfarine (antivitamine K)

2.2  Xử trí

_Không cần rửa dạ dày. Có thể rửa dạ dày nếu BN uống nhiều.

_Uống than họat : 20 g / lần ,mổi 2_4 giờ,sorbitol 1_2 g / kg

_Vitamine K1 20mg tiêm dưới da/lần, ngày 3-4 lần trong những ngày đầu, Duy trì 10-100mg/ ngày chia 3-4 lần đến khi INR về bình thường, uống hoặc tiêm dưới da.

Theo dõi INR mỗi 12 -24 giờ.

_Huyết tương tươi đông lạnh: khi có rối loạn đông máu nhiều, PT<40%, có chảy máu tự nhiên.

III/ NGỘ ĐỘC THUỐC DIỆT CHUỘT TRUNG QUỐC

3.1  Chẩn đoán

Bệnh sử: lời khai BN thân nhân, thuốc có dạng hạt gạo hoặc dạng ống nước sirop có màu hồng nhạt, tên nhãn bằng tiếng Trung Quốc

Lâm sàng:

+ Tiêu hóa: buồn nôn, đau bụng,tiêu chảy…

+ Thần kinh cơ: cứng cơ, co giật, rối lọan tri giác như lơ mơ, hôn mê

+ Hô hấp: khó thở, phù phổi cấp, ARDS

+ Tim mạch: rối lọan nhịp, viêm cơ tim …

+ Thận: có thể suy thận cấp

+ Triệu chứng khác: sốt, hạ calci máu

Độc chất: natri_fluoroacetate , fluoroacetamide

CLS:

+ Tìm trong dịch dạ dày ,nước tiểu độc chất thuốc chuột Trung quốc

+ CTM, Hct, Ion đồ, urea, creatinin, men CPK, glycemia

+ ECG, EEG

3.2  Xử trí

A/ Chưa có co giật

Tiêm bắp 1 ống Diazepam 10mg, nếu phản xa gân xưong tăng

Rửa dạ dày: 3_5 lít nước cho đến khi nước sạch, mỗi lít nước cho thêm 5g muối ăn (1 muỗng café), sau rửa cho uống 20g than hoạt 2 giờ / lần (tổng liều 120 g ), thêm Sorbitol 40_60 g /ngày

Truyền dịch, lợi tiểu, bù điện giải theo ion đồ, chú ý calci máu

B/ Có co giật

Tiêm Diazepam TM 10mg / lần, lập lại mỗi 5 _ 10 phút đến 30 mg Dùng Thiopental (phối hợp với phòng mổ) nếu không khống chế co giật

Đặt nội khí quản, sond dạ dày. Tiến hành rửa dạ dày qua sond dạ dày bằng dung dịch NaCl 9‰ 3 _ 5lít, sau đó dùng than hoạt liều như trên Calci gluconate 10% 1 ống tiêm mạch chậm

Suy thận cấp: lọc thân nhân tạo

Loạn nhịp tim: thuốc chống loạn nhịp

ARDS (acute respiratory disstres syndrom): thở máy

C/ Antidote

ACETAMIDE 10% hoặc GLYCEROL MONOACETATE

Thuốc chữa hen

THUỐC KÍCH THÍCH BETA

Salbutamol

Eolène ® (Fisons) [khí dung] Salbutmol ® (Glaxo Wellcome) Spréor ® 100pg (Inava) [khí dung]

Ventoline ® (Glaxo Wellcome) [khí dung]

Ventodisks ® (Glaxo Wellcome) [bột hít qua miệng].

Tên khác: albuterol.

Tính chất: Kích thích thụ cảm beta tiết adrrenalin nhất là beta 2 ở phế quản và tử cung. Sau khi hút, tác dụng giãn phế quản kéo dài 3-4 giờ.

Chỉ định và liều lượng

Điều trị cơn hen (trừ hen ác tính và hen tim): hít ngay thuốc khi bắt đầu có triệu chứng đầu tiên, nếu cần thì sau 5 phút lại hít thêm liều nữa. Đợi 4 giờ sau mới hít thêm (tối đa là 15 lần trong 24 giờ), cần huấn luyện bênh nhân cách sử dụng dụng cụ hít vì lượng thuốc được hấp thụ phụ thuộc rất nhiều vào cách hít thuốc.

Các thuốc kích thích beta không đủ để điều trị cơn hen nặng. Khi các liều thường dùng không còn tác dụng nữa thì rất có thể là do nhờn thuốc hoặc do bệnh nhân hen nặng lên.

Điều trị nền trong bệnh hen: có thể dùng theo đường uống (2mg 2 lần/ngày uống cùng bữa ăn, uống kèm nhiều nước); nên dùng theo đường hít vì có thể dùng được các liều có tác dụng lại ít gây tác dụng phụ. Nên hít 4-5 lần / ngày cách đều nhau.

Điều trị hen ác tính: truyền tĩnh mạch 0,1-0,2/ig/kg

Thận trọng (khí dung)

Điều trị trước các viêm nhiễm phế quản, dòm.

Người già.

Bệnh nhân và người nhà cần được biết về nguy cơ do quá liều.

Dùng lâu dài có thể gây nhòn thuốc.

Chống chỉ định (uống)

Suy mạch vành.

Huyết áp cao, xơ vữa mạch máu (nhất là mạch não).

Cường năng tuyến giáp (Bệnh Basedow).

Bệnh tiểu đường không ổn định.

Trẻ dưới 5 tuổi.

Tác dụng phụ

Run cơ ở ngọn chi.

Nhức đầu, trông ngực, tim nhanh, dễ hưng phấn, lo âu.

Tăng đường huyết.

Hạ kali huyết nhất là nếu có dùng các dẫn xuất xanthin, thuốc lợi tiểu hoặc corticoid.

Quá liều: run, tim nhanh, huyết áp hạ, chóng mặt, mồ hôi, vật vã. Điều trị: rửa dạ dầy, thuốc chẹn Beta (ở bệnh viện) để tránh co thắt phế quản.

Tương tác thuốc: Với các thuốc kích thích giao cảm (làm tăng tác dụng); với thuốc chẹn beta (ức chế tương hỗ); với các thuốc chống trầm cảm IMAO không chọn lọc (nguy cơ bị cơn huyết áp cao, phải ngừng IMAO từ 2 tuần trước) với digitalin (nguy cơ tâm thất dễ bị kích thích); với thuốc chống tiểu đường uống (tác dụng gây tiểu đường của các thuốc kích thích beta)

CÁC THUỐC KHÁC KÍCH THÍCH BETA DẠNG HÍT

Fenoterol

Berotec ® (Bochringer Ingelhein) Formoterol (tác dụng kéo dài) Foradil ® (Ciba-Geigy) Pirbuterol

Maxair ® (3M Santé)

Salmeterol (tác dụng kéo dài).

Servent ® (Glaxo Wellcome) Terbutalin

Bricanyl ® (Astra)

THUỐC KÍCH THÍCH BETA KHÔNG CHỌN LỌC

Epinephrin hay adrenalin

Dyspné • Inhal ® (Augot) [khí dung] Orciprenaline

Alupent ® (Boehringer Ingelkeim) [khí dung]

Corticoid dạng hít

Beclometason

Bécotide ® (Glaxo Wellcome) [hít theo đường miệng].

Prolair ® (3M Pharma) [hít theo đường miệng].

Spir ® (Inava) [hít theo đường miệng].

Nhũ tương để hít theo đường miệng (50pg hoặc 250pg mỗi lần hít).

Chỉ định

Điều trị duy trì hen: các trường hợp mà các thuốc gây giãn phế quản không có tác dụng, thiếu corticoid ở người hen phụ thuộc corticoid, hen nặng ở trẻ em. Không dùng để điều trị cơn hen nặng hoặc cơn hen ác tính.

Corticoid dùng theo đường hít rất có hiệu quả với viêm phế quản và đặc biệt hữu ích trong điều trị hen mạn tính.

Corticoid hít có ít tác dụng phụ hơn nhiều so với uống (chỉ ức chế tuyến thượng thận với liều rất cao), chỉ có tác dụng khi các đường dẫn khí thông suốt để thuốc đi sâu vào phế quản.

Trước khi dùng corticoid theo đường toàn thân phải thử dùng theo đường hít trước.

Liều dùng

Hít 2-4 lần/ngày (tối đa 1000/ig/ngày)

Thận trọng

Chuyển từ dùng corticoid toàn thân dài ngày sang điều trị bằng corticoid hít: phải từ từ (nguy cơ bị suy vỏ thượng thận cấp)

Phải điều trị viêm nhiễm phế quản trước (nếu có)

Phải đảm bảo bệnh nhân sử dụng đúng máy khí dung; rửa sạch miệng – họng có tác dụng tránh biến chứng tại chỗ.

Khuyên bệnh nhân: bệnh nhân ngưng dùng corticoid đường toàn thân cần nhớ khi bị stress hoặc bị cơn hen nặng thì phải sử dụng trở lại corticoid theo đường toàn thân và tới bác sĩ.

Chống chỉ dịnh

Cơn hen ác tính.

Nhiễm khuẩn, nhiễm nấm (lao) đường hô hấp: thuốc làm bệnh nhiễm candida tăng lên.

Lao phổi tiến triển.

Có thai (3 tháng đầu) và cho con bú

Tác dụng phụ

Tại chỗ: nhiễm candida ở miệng họng, giọng khàn.

Tác dụng phụ của cổrticoid hít là hiếm, chỉ với liều rất cao mới ức chế vỏ thượng thận.

CÁC CORTICOOD KHÁC HÍT QUA MIỆNG

Betamethason

Beclojet ® (Promedica) Budesonid

Pulmicort ® (Astra) Dexamethason

Auxisone ® (Bochringer Ingelheim) Flunisolid

Bronilide ® (Cassenne)

CORTICOID HÍT QUA MŨI

Dùng trong viêm mũi dị ứng Beclometason

Béconase ® (Glaxo Wellcome) Flunisolid

Nasalide ® (Cassenne) Prednisolon

Solucort ® ÒRL (MS&D – Chibret) Tixocortol

Pivalone ® (Jouveinal)

Thuốc kháng tiết cholin

Ipratropium bromur

Atrovent ® (Boehringer Ingelheim)

Tính chất: Kháng tiết cholin, dẫn xuất bậc 4 của N-isopropylatropin, được dùng dưới dạng khí dung do có tác dụng tại chỗ lên các thụ thể muscarin ở phế quản.

Chỉ định

Điều trị cơn hen (thường dùng kết hợp với một thuốc kích thích beta hoặc một dẫn xuất của theophyllin).

Điều trị nền cho bệnh hen và viêm phế quản mạn tính gây tắc nghẽn.

Điều trị triệu chứng chảy nước mũi thanh – niêm dịch do tắc đường dẫn khí (không bị nhiễm khuẩn).

Liều lượng: 1-2 lần hít (20-40 pg) 3- 4 lần /ngày

Thận trọng

Điều trị viêm nhiễm phế quản hay phế quản đa tiết (gây giảm hiệu quả của thuốc).

Khó đạt được đúng liều ở trẻ nhỏ do sử dụng không đúng dụng cụ.

Dặn bệnh nhân: Nếu bị khó thỏ đột ngột hoặc bệnh tăng nhanh mà hít thêm thuốc vẫn thấy khó thở thì phải đến ngay bác sỹ hay đến bệnh viện gần nhất.

Chống chỉ định

Dị ứng với thuốc kháng tiết cholin.

Khi có thai (3 tháng đầu) và cho con bú.

Trẻ <15 tuổi.

Tác dụng phụ: khô miệng, họng bị kích thích.

CÁC THUỐC TƯƠNG TỰ

Oxitropium bromur Tersigat ® (3M Sante)

Tác dụng như ipratropium bronune Ipratropium + fenoterol

Bronchodual ® (Boehringer Ingelheim)

Ipratropium + salbutamol

Combivent ® (Boehringer Ingelheim)

CÁC THUỐC CHỐNG HEN KHÁC

Theophyllin

Dilatrane ® (Labomed) Euphylline L.p ® (Byk)

Théolair L.p® (3M Santé) Théostat ® (Inava)

Xanthium ® (Galephar).

Thuốc giãn phế quản, dẫn xuất của xanthin, cũng có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương và tim (làm tăng lực co và nhịp tim), tác dụng lợi tiểu yếu; liều cao có tác dụng kích thích các trung tâm hô hấp.

Tính chất: thuốc kinh điển; các chỉ định hạn chế do khó dùng, nhiều tác dụng phụ và có chỉ số điều trị hẹp. Dược động học của thuốc tuỳ thuộc từng cá thể nên phải theo dõi về lâm sàng và nồng độ thuốc trong máu.

Chỉ định

Cơn hen phế quản: các thuốc kích thích beta dạng khí dụng và hoặc uống là điều trị hàng đầu.

Điều trị căn bản hen mạn tính có cơn dày hoặc khó thở liên tục, thường kết hợp với một thuốc kích thích beta (khí dụng).

Viêm phế quản mạn tính, bệnh phổi mạn tính gây tắc nghẽn .

Bổ trợ cho điều trị suy tim trái, phù phổi cấp có co thắt phế quản.

Điều trị triệu chứng hô hấp kiểu Cheyne — Stockes.

Bổ trợ cho điều trị ngừng thở ở trẻ sơ sinh, nhất là trẻ đẻ non.

Liều ỉưựng

Cần chú ý đến liều lượng dùng, nhất là uống. Chuyển hoá

theophyllin và các muối của nó thay đổi rất nhiều tuỳ theo từng người và tuỳ theo biệt dược. Giờ uống thuốc có ảnh hưởng đến sự hấp thụ thuốc: xa bữa ăn thì hấp thụ chậm và đều; bữa ăn làm hấp thụ nhanh và có thể gây ra các đỉnh cao trong máu (có thể gây độc). Hơn nữa, giới hạn giữa liều có tác dụng và liều gây tác dụng phụ rất hẹp.

Hấp thụ theo đường trực tràng cũng gần như hấp thụ theo đường uống.

Cách xác định liều và giờ uống: tốt nhất là bệnh nhân tự theo dõi cẩn thận và đều đặn về lưu lượng đỉnh của mình.

Trẻ <2 tuổi: chỉ sử dụng cho trẻ nằm nội trú ở bệnh viện chuyên khoa.

Đường uống: Người lớn bắt đầu với liều 7-8 mg/kg/ngày (khoảng 400 mg/ngày); liều duy trì trung bình là 10mg/kg/ngày chia 2 lần (tối đa 800mg/ngày). Trẻ dưới 30 tháng đến 10 tuổi: liều tấn công là 10 – 15 mg/kg/ngày.

Dạng thuốc được giải phóng kéo dài: liều trung bình là 10mg/kg/ ngày, chia 2 lần. Các chế phẩm này có ưu điểm là duy trì được nồng độ thuốc có hiệu quả lâu hơn và làm giảm số lần uống trong ngày nhưng đòi hỏi phải theo dõi chặt chẽ để tránh quá liều. Chỉ được chỉ định dùng trong hen nặng với điều kiện là có thể kiểm tra được nồng độ thuốc trong máu (tốt nhất là vào lúc 8 giờ sáng để kiểm tra hiệu quả cuối đêm và trong ngày, 4 giờ sau khi uống lần đầu).

Dạng theo đường trực tràng: người lớn 200-400 mg/ngày, trẻ trên 30 tháng: 12mg/kg/ngày (hấp thu không đều).

Truyền tĩnh mạch (cơn hen ác tính): 5 – 6mg/kg trong 30 phút; sau đó 0,5 mg/kg/giờ (0,2mg/kg/ giờ với người già).

Thận trọng

Để có kết quả tốt cần theo dõi nồng độ thuốc trong máu: 5 – 15mg/l hoặc //g/ml [28-80 pmol/1]; nồng độ độc là từ 20mg/l [106/anol/l].

Nồng độ thuốc trong máu tăng khi mắc bệnh do virus, suy tim, loạn nhịp tim, bệnh tim gây tắc nghẽn, bệnh gan (nghiện rượu), loét dạ dày-tá tràng, suy gan. Thận trọng với trẻ dưới 5 tuổi.

Có thai từ tháng thứ 6 trở đi, cho con bú: dùng liều tối thiểu.

Chống chỉ định

Dung nạp theophyllin kém.

Trẻ dưới 30 tháng (gan chưa hoàn thiện).

Tác dụng phụ

Nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, tiêu chẩy, tim nhanh, loạn nhịp tim.

Trẻ nhỏ: run, sốt, tả ra máu, nôn ra máu, đái nhiều, rối loạn hô hấp, cơn co giật, lú lẫn.

Truyền tĩnh mạch quá nhanh có thể gây loạn nhịp tim, tụt huyết áp nặng và ngừng tim.

Quá liều: vật vã, hưng phấn, lú lẫn tâm thần, nôn, thân nhiệt tăng, hạ huyết áp, tim nhanh, đôi khi bị rung thất, tăng hô hấp rồi suy hô hấp, cơn co giật có thể dẫn đến tử vong. Điều trị: bằng rửa dạ dày và hồi sức.

Tương tác thuốc: với troleandomycin, erythromycin, clindamycin, fluoroquinolon và lincomycin (làm giảm đào thải theophyllin, nếu cần phải giảm liều); với propanolol (tác dụng trái ngược); với các thuốc tăng cường giao cảm (nguy cơ gây loạn nhịp); với cimetidin (làm tăng nồng độ theophyllin trong máu); với ticlopidin (làm tăng nồng độ theophyllin trong máu).

CÁC DẪN XUẤT XANTHIN KHÁC Aminophyllin

Planphylline ® (Asta)

Liều dùng:           10-15 mg/kg/ngày chia 2 lần.

Bamifyllin

Trentadil ® (Bellon)

Liều dùng: 600 – 900 mg uống vào buổi sáng và chiều.

Acid cromoglicic

MUỐI NATRI

Alérion ® (Fisons) [Thuốc nhỏ mũi]

Cromoglycat natri ® [Thuốc nhỏ mũi]

Cromoptic ® (Chauvin) [Thuốc nhỏ mắt]

Intercron ® (Laphal) [Thuốc uống]

Lomudal ® (Fisons) [Thuốc hít qua miệng]

Lomusol ® (Fisons) [Thuốc nhỏ mũi] Nalcron ® (Fisons) [Thuốc uống]

Opticron ® (Fisons) [Thuốc nhỏ mắt].

Tính chất: thuốc (cùng với nedocromil) thuộc nhóm cromon hay chất ổn định dưỡng bào (ức chế dưỡng bào và bạch cầu ưa kiềm giải phóng các hạt). Tác dụng chống viêm yếu hơn corticoid.

Chỉ định

Hít qua miệng đề phòng cơn hen nếu hen do di ứng hoặc xuất hiện khi lạnh, khi gắng sức. Không có tác dụng lên cơn hen.

Phun vào lỗ mũi để phòng viêm mũi dị ứng.

Uống: dị ứng thức ăn (không loại bỏ được dị nguyên trong thức ăn) được khuyên dùng trong điều trị thận hư không rõ nguyên nhân mà điều trị bằng corticoid không có kết quả.

Nhỏ mắt: Viêm kết mạc dị ứng. Liều lượng

Lấy 1 viên nang hoặc 1 ống để làm sương mù 20 mg; ngày 3-4 lần cách đểu nhau. Sau đó giảm số lần hít.

Ngưng thuốc nếu sau 4 tuần không thấy cải thiện.

Thận trọng

Với người bị dị ứng với sữa và sản phẩm từ sữa (chế phẩm có chứa lactose) người bị bệnh gan.

Hướng dẫn bệnh nhân dùng bơm khí dụng.

Chống chỉ dịnh

Suy thận nặng.

Trẻ dưới 5 tuổi.

Khi có thai (chưa rõ độc tính) và cho con bú.

Tác dụng phụ

Kích thích phế quản, ho, co thắt phế quản tạm thời.

Nhức đầu, buồn nôn, chóng mặt.

Nổi ban dạng sởi.

Hiếm khi bị viêm phổi, tăng bạch cầu ưa acid.

CÁC THUỐC TƯƠNG TỰ

Nedocromil

Tilade ® (Fisons)

THUỐC KHÁNG HISTAMIN HI

Ketotifen

Zaditen ® (Sandoz)

Liều dùng: Người lớn: 1-2 mg/ngày

Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố (hct)

Đặc điểm lâm sàng

Trong một số vụ dịch chúng tôi đã gặp một số bệnh nhân Sốt xuất huyết bị vàng da tan máu dữ dội và đái ra huyết cầu tố từ những ngày đầu của bệnh. Đặc điểm Lâm sàng bao gồm: sốt cao điển hình của Sốt xuất huyết, thiếu máu cấp tính và nặng (hồng cầu có khi chỉ 1-2 triệu, da và niêm mạc vàng ngay từ mấy ngày đầu), bilirubin máu rất cao trung bình 10-30 mg% đa phần là bilirubin tự do, nước tiểu màu nâu sẫm như nước cà phê, nước vôi, có huyết cầu tố niệu; những bệnh nhân này lúc đầu khi huyết tán cấp tính, thường vật vã, hốt hoảng, mạch nhanh, thở nhanh do thiếu oxy cấp, huyết áp thất thường khi thấp, khi cao (do thiếu máu, thiếu oxy cấp); bạch cầu ở một số trường hợp tăng cao có khi tới 30.000-50.000/1mm3, chuyên trái, được xem như một phản ứng giả bạch cầu. Nếu không được can thiệp sớm và có hiệu lực, bệnh sẽ diễn biến xấụ với những triệu chứng: da và niêm mạc thường xám lại trên nền vàng xạm, suy thận cấp do thiếu oxy và hoại tử tế bào ống thận, thiểu vô niệu, urê máu và kali máu tăng dần, mạch nhanh nhỏ, huyết áp tụt dần, bạch cầu và bilirubin máu tiếp tục cao, hồng cầu ngày càng giảm. Bệnh nhân dễ tử vong, hoặc từ sớm (từ ngày thứ 5-9) do ngừng tim (vì tăng kali máu, thiểu dưỡng cơ tim, cơn suy vành..,) hoặc muộn hơn (tuần thứ 3) trong hôn mê đạm huyết cao hoặc do thiếu oxy não. Đáng lưu ý là hội chứng xuất huyết ở những trường hợp này thường không nồi, trừ một số ít bệnh nhân có xuất huyết tiêu hoá muộn. Chúng tôi tạm gọi là Sốt xuất huyết có đái huyết cầu tố. Tỷ lệ tử vong từ 19% đến 34,3% (Chín Khả 1975; Nguyễn Thiện Thìn, 1975). Những trường hợp có đái ra huyết cầu tố, đôi khi phối hợp với sốc, hôn mê hoặc xuất huyết tiêu hoá.

Tình hình Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố

Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố đã được thông báo ở nhiều bệnh viện như Bệnh viện B, Viện 175, Bệnh viện 200 thuộc QĐc, Bệnh viện K43 thuộc QĐB, Viện QK9, Bệnh viện Hải quân, Bệnh viện phòng không không quân. Bệnh xá E10, v.v… Trong vụ dịch Sốt xuất huyết năm 1975 tại miền Nam, Viện 175 đã thu dung 154 bệnh nhân Sốt xuất huyết nặng, trong đó có 35 trường hợp đái ra huyết cầu tố chiếm 22,7% tổng số bệnh nhân nặng, những bệnh nhân này thường có nhiệt độ kéo dài, rối loạn tiêu hoá (đau bụng, ỉa lỏng), gan to, cô máu rõ, bạch cầu cao, Coombs âm tính và men G6PD giảm (Nguyễn Thiện Thìn 1975). Tại bệnh viện quân khu 9, từ đầu vụ dịch đến cuối tháng 6-1975 đã tiếp nhận 37 trường hợp Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố, lúc đầu chẩn đoán nhầm là xoắn khuẩn vàng da xuất huyết (Chín Khả, 1975) vì thấy có vàng da, huyết tán, xuất huyết dưới da, nước tiểu sẫm màu, bạch cầu cao; nhưng về sau với sự cộng tác của đoàn nghiên cứu Cục quân y, Học viện quân y và Đội vệ sinh phòng dịch 20 (Bùi Đại và cs) đã kiểm tra thấy: nước tiểu có huyết cầu tố, phản ứng Martin Pettit âm tính, ký sinh trùng sốt rét âm tính, ngược lại phản ứng ngăn ngưng kết hồng cầu với kháng nguyên dengue dương tính, trên cơ sở đó đã loại trừ xoắn khuẩn, sốt rét và xác định chẩn đoán là dengue xuất huyết.

Bệnh viện Z200 gặp 5 ca Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố trong số 328 bệnh nhân Sốt xuất huyết (1,5%), trong 5 ca này có 2 trường hợp không có bạch cầu tăng và cũng không rõ xuất huyết dưới da (Phan Chúc Lâm và cs, 1975) Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố cũng đã được thông báo ở Bệnh viện K43, với tỷ lệ 3% (10 bệnh nhân trong tổng số 412 bệnh nhân Sốt xuất huyết; Bs Phi và cs. 1975), ở Bệnh viện 5-8 với tỷ lệ 1,6% (2 trên 123 bệnh nhân), ở đội điều trị 16 với tỷ lệ 0,4% (Bs Trường, 1975)

Bệnh viện B trong vụ dịch Sốt xuất huyết năm 1969 cũng gặp một số bệnh nhi Sốt xuất huyết rất nặng có tan huyết đái ra huyết cầu tố, thiếu máu nặng, trụy tim mạch kéo dài, trong đó có một số vô niệu (Bùi Xuân Bách 1970).

Bàn về nguyên nhân gây đái huyết cầu tố ở Sốt xuất huyết.

Như trên vừa trình bày, đái ra huyết cầu tố đã được ghi nhận ở bệnh nhân Sốt xuất huyết trong một số vụ dịch, chiếm tỷ lệ từ 0,4% đến 3% trong các bệnh nhân Sốt xuất huyết điều trị tại bệnh xá, bệnh viện (Z200, K43, Bệnh viện 5-8, ĐĐT 16…); ở nhóm Sốt xuất huyết nặng, tỷ lệ này đã tới 22,7% (Viện 175, Nguyễn Thiện Thìn, 1975). Lâm sàng bệnh nhân có đủ tiêu chuẩn của Sốt xuất huyết: sốt, có xuất huyết, có sốc, tiểu cầu thấp, hematocrit cao, dây thắt dương tính, bạch cầu thấp trừ những trường hợp có tan huyết mạnh với thiếu máu và đái ra huyết cầu tố nặng thì bạch cầu tăng cao. Xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét và phản ứng ngưng kết tan Martin Pettit với xoắn khuẩn đều âm tính: phản ứng ngăn ngưng kết hồng cầu với kháng nguyên virut dengue dương tính rõ rệt. Tỷ lệ bị đái ra huyết cầu tố trong số bệnh nhân Sốt xuất huyết nặng tạị vụ dịch ở Viên Chăn đặc biệt cao 58%. Nhiều bệnh nhân có dùng những loại thuốc oxy hoá như thuốc sốt rét (quinin, primaquin) do nghi là bị sốt rét.

Có thể nêu 2 giả thuyết về cơ chế phát sinh chủng đái ra huyết cầu tố ở bệnh nhân Sốt xuất huyết.

  • Tan huyết dữ dội và đái ra huyết cầu tố là một biến chứrig của Sốt xuất huyết, xuất hiện thứ phát sau một quá trình dính kết mạnh hồng cầu trong lòng mạch ở những bệnh nhân có sốc, có đỏng máu rải rác nội mạch và rối loạn vì tuần hoàn.
  • Tan huyết dữ dội và đái ra huyết cầu tố chỉ là một tai biến sau khi dùng thuốc oxy hoá, nhất là thuốc sốt rét (như quinin, primaquin…) ở những người thể địa thiếu men G6PD; công trình của Tạ Ánh Hoa trên những bệnh nhân Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố tại vụ dịch ở Viêng Chăn (1977) và Nguyễn Thiện Thìn ở Viện 175 (1975) đều thấy men G6PD giảm ở nhiều bệnh nhân loại này. Qua điều tra bệnh sử, nhiều bệnh nhân Sốt xuất huyết do tưởng mình bị sốt rét đã dùng quinin, primaquin bừa bãi (điều tra ở D7E10. Cqy E10 và ở Viện 175, Bùi Đại 1975). Qua thông báo của giáo sư Vannareht ở Trường đại học y khoa Viêng Chăn, tỷ lệ có hụt men G6PD trong nhân dân Lào tương đối cao, khoảng 20%; điều này giải thích tỷ lệ có đái ra huyết cầu tố ở nhóm bệnh nhân Sốt xuất huyết nặng ở Viện quân y Viêng Chăn là 58%, cao hơn hẳn so với tỷ lệ có đái ra huyết cầu tố trong nhóm Sốt xuất huyết nặng ở Viện 175 là 22,7%. Theo chúng tôi khả năng thứ hai này có nhiều hơn. Tuy nhiên cũng cần lưu ý những nhận xét của Nguyễn Thiện Thìn (1975): trong 23 trường hợp Sốt xuất huyết nặng có đái ra huyết cầu tố ở Viện 175, chỉ có 13 trường hợp thiếu men G6PD (số còn lại là đủ men), và chỉ có 10 trường hợp đã dùng 1-2 loại thuốc sốt rét còn 13 trường hợp chưa dùng một loại thuốc nào trước khi bị đái ra huyết cầu tố. Quá trình tan huyết và đái ra huyết cầu tố xuất hiện ở một số không ít bệnh nhân Sốt xuất huyết chưa kịp dùng thuốc gì gợi ý nhiễm virut có khả năng làm tích tụ các chất có tác dụng oxy hoá mạnh, không những phá huỷ nhiều men hồng cầu (trong đó có G6PD), mà còn gây ra tan huyết (Nguyễn Thiện Thìn và cs, 1975). Trong thông báo TCTTG 1997 về Sốt xuất huyết cũng đề cập tới 1 số biểu hiện lẻ tẻ của Sốt xuất huyết như: suy thận cấp, hội chứng tan huyết ure cao ở những bệnh nhân giảm men G6PD hoặc có bệnh huyết cầu tố.

Xem tiếp:

  1. Chẩn đoán, điều trị sốt dengue và sốt xuất huyết dengue
  2. Sốt xuất huyết thể không điển hình và điển hình
  3. Phân loại thể bệnh sốt xuất huyết
  4. Sốt xuất huyết thể sốc ( Dengue độ 3 và 4 )
  5. Sốt xuất huyết thể xuất huyết phủ tạng (độ 2b)
  6. Sốt xuất huyết thể não
  7. Sốt xuất huyết thể suy gan cấp
  8. Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố (hct)
  9. Những biến chứng của Sốt xuất huyết xuất
  10. Tiên lượng bệnh sốt xuất huyết
  11. Chẩn đoán bệnh sốt xuất huyết
  12. Nguyên tắc điều trị sốt xuất huyết
  13. Điều trị sốt xuất huyết độ 1 -2 (không có sốc)
  14. Điều trị sốt xuất huyết độ 1-2 bằng thuốc nam y học cổ truyền
  15. Triệu chứng hô hấp trong bệnh sốt xuất huyết
  16. Những biến đổi thể dịch của bệnh sốt xuất huyết
  17. Biện pháp phòng dịch sốt xuất huyết
  18. Đường lây truyền bệnh sốt xuất huyết dengue
  19. Cơ chế lây truyền bệnh sốt xuất huyết
  20. Triệu chứng dengue xuất huyết thể điển hình (độ II)
  21. Triệu chứng thần kinh trong sốt xuất huyết
  22. Hội chứng tim mạch trong sốt xuất huyết
  23. Triệu chứng tiêu hoá trong sốt xuất huyết

Bệnh Tăng calci máu

I. ĐẠI CƯƠNG

Calci rất cần để hình thành xương và hoạt động chức năng thần kinh cơ. Gần 99% calci của cơ thể ở trong xương, chỉ 1% duy trì trong huyết tương và dịch ngoại bào. Khoảng 50% calci huyết tương ở dạng ion tự do (Ca2+), còn lại ở dạng kết hợp, chủ yếu kết kợp với albumin (40%), với các anion khác như phosphat và citrat (10%). Sự thay đổi của albumin huyết tương, đặc biệt sự giảm albumin, làm thay đổi calci huyết tương toàn phần, nhưng không làm thay đổi calci ion. Nếu albumin huyết tương không bình thường, thì quyết định lâm sàng phải dựa vào nồng độ calci ion, cần khoảng 4,6 đến 5,1mg/dl cho hoạt động bình thường chức năng thần kinh cơ.

Chuyển hóa calci được điều chỉnh bởi hormon cận giáp (Parathyroid hormone – PTH) và chuyển hóa vitamin D. PTH làm tăng calci huyết tương do kích thích tiêu xương, tăng tái hấp thu calci tại thận, tăng cường chuyển dạng vitamin D và các hoạt động chuyển hóa của vitamin D. PTH cũng làm tăng tiết phosphate ở thận. Chỉ có calci ion có vai trò điều chỉnh tiết PTH qua cơ chế feedback: giảm calci kích thích tiết PTH và tăng calci ức chế tiết PTH.

Vitamin D được hấp thu từ thức ăn và tổng hợp trong da sau khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Gan chuyển hóa nó thành 25-hydroxyvitamin D3 [25(OH)], quay trở lại chuyển dạng bởi thận thành 1,25(OH)2D3. Sự tổng hợp 1,25(OH)2D3 được kích thích bởi PTH và giảm phosphate huyết tương, và bị ức chế bởi tăng phosphat huyết tương. Khâu cuối cùng chuyển hóa làm tăng calci là tăng hấp thu calci, tăng hấp thu phosphat tại ruột.

Calci trong tế bào ở dạng calci ion tự do (Ca2+), nồng độ calci trong tế bào là 0,1μmol/l, nhỏ hơn 10.000 lần so với ngoài tế bào. Để duy trì độ chênh của calci trong và ngoài tế bào, sự vận chuyển calci qua màng tế bào phụ thuộc vào bơm calci và sự thay đổi của ion Na+, Ca2+.

Bảng 1. Hàm lượng calci bình thường ở huyết tương và trong tế bào

Calci toàn phần ở huyết tương 8,5 – 10,5 mg/dl 2,1 – 2,6 mmol/l
Calci ion ở huyết tương 4,4 – 5,2 mg/dl 1,1 – 1,3 mmol/l
Calci liên kết protein ở huyết tương 4,0 – 4,6 mg/dl 0,9 – 1,1 mmol/l
Phức hợp calci ở huyết tương 0,7 mg/dl 0,18 mmol/l
Calci ion trong tế bào 0,00018 mmol/l 180 nmol/l

II. NGUYÊN NHÂN

Tăng calci máu luôn là nguyên nhân của tăng calci vào dịch ngoại bào (từ tiêu xương hoặc tăng hấp thu tại ruột) và giảm bài tiết tại thận. Hơn 90% các trường hợp do bệnh của tuyến cận giáp hoặc bệnh ác tính.

1. Tăng calci máu do cường tuyến cận giáp

Cường cận giáp nguyên phát gây ra phần lớn những trường hợp tăng calci máu ở người bệnh cấp cứu. Đây là bệnh thường gặp, đặc biệt là ở phụ nữ lớn tuổi, chiếm khoảng 2/1000 trường hợp tai nạn hàng năm. Gần 85% là do u một tuyến, 15% do phì đại mô của cả bốn tuyến và 1% do ung thư tuyến cận giáp.

2. Tăng calci máu trong các bệnh ác tính

Thường thấy tăng calci máu phản ứng, gặp ở đa số các trường hợp người bệnh nội trú. Tăng calci máu theo hai cơ chế chủ yếu:

  • Tăng calci máu do tiêu xương tại chỗ, phát triển tế bào u, các cytokine vùng hoạt động kích thích hủy xương. Dạng tăng calci máu ác tính chỉ xảy ra với các xương dẹt liên quan đến các khối u, thường do u vú, u tủy xương và u
  • Tăng calci máu thể dịch (humoral hypercalcimia) ở những bệnh ác tính, các dịch tiết từ khối u ảnh hưởng tới toàn thân kích thích tiêu xương, trong nhiều trường hợp làm giảm thải Các peptide liên quan đến PTH là marker rất quan trọng trong hội chứng này (nhưng hoạt động theo con đường receptor thì không phát hiện được bằng phản ứng miễn dịch PTH); có thể các yếu tố phát triển (growth factors) cũng tham gia vào quá trình phát triển u. Tăng calci máu thể dịch phần lớn trong bệnh ác tính như ung thư biểu mô vảy của phổi, vùng đầu, cổ, thanh quản, hoặc ung thư thận, bàng quang, buồng trứng.

Người bệnh có bệnh ác tính thường có tăng calci máu trước khi bệnh có triệu chứng lâm sàng rõ rệt.

3. Tăng calci máu do những nguyên nhân khác

  • Bệnh Sarcoid, ngộ độc vitamin D, cường giáp trạng, sử dụng lithium, hội chứng nhiễm kiềm và giữ bất động. Dùng lợi tiểu thiazid làm tăng calci máu kéo dài.
  • Bệnh tăng calci máu giảm calci niệu gia đình rất ít gặp, bệnh tự nhiễm sắc định hình gen trội, đặc trưng bởi hội chứng tăng calci máu không triệu chứng từ nhỏ và có tiền sử gia đình tăng calci máu.

III. CHẨN ĐOÁN

1. Lâm sàng

Triệu chứng lâm sàng thường xuất hiện khi calci máu vượt quá 12mg/dl và có xu hướng nặng hơn khi tăng calci máu tiến triển nhanh.

  • Triệu chứng ở thận bao gồm đa niệu (polyuria) và sỏi thận.
  • Hội chứng GI bao gồm suy nhược, nôn, thiếu máu, mệt mỏi, lơ mơ, trạng thái sững sờ, hôn mê.
  • Đa niệu, nôn có thể là nguyên nhân gây ra mất nước, làm giảm thải calci và làm xấu đi nhanh tình trạng tăng calci máu.

2. Cận lâm sàng

  • Calci máu trên 12 mg/dl.
  • PTH huyết tương trên 72 pg/ml, trong 90% trường hợp cường cận giáp, cần xét nghiệm PTH huyết tương riêng, độc lập với chức năng thận.
  • Nồng độ 1,25(OH)2D3tăng trong bệnh Sarcoid.
  • Điện tim thấy khoảng PQ ngắn.

3. Chẩn đoán xác định

Dựa vào (1) tăng calci máu, (2) tiền sử sỏi thận, (3) triệu chứng lâm sàng của bất cứ nguyên nhân nào gây tăng calci máu, (4) hội chứng và các dấu hiệu lâm sàng của bệnh.

4. Chẩn đoán phân biệt

Trường hợp tăng albumin huyết tương có thể làm tăng nhẹ calci toàn phần, không ảnh hưởng đến calci ion. Bởi thế cần xét nghiệm calci ion để xác định tăng calci máu thật sự.

IV. ĐIỀU TRỊ

1. Nguyên tắc chung

Nguyên tắc điều trị tăng calci máu là tăng thải calci và giảm tiêu xương.

Mục đích điều trị là giảm triệu chứng, hơn là đưa calci huyết tương về mức gần bình thường.

Bước đầu tiên là bù thể tích tuần hoàn, tiếp theo là lợi tiểu muối (saline diuresis). Thuốc ức chế tiêu xương cần được sử dụng sớm.

2.  Điều trị cấp cứu tăng calci máu

Khi nồng độ calci máu trên 12 mg/dl

  • Phục hồi thể tích tuần hoàn

Truyền dung dịch Natriclorua 0,9% ngay từ đầu cho những người bệnh có tăng calci máu nặng, những người này thường có giảm khối lượng tuần hoàn. Mục đích nhằm phục hồi mức lọc cầu thận về bình thường.

Tốc độ truyền lúc đầu có thể tới 300- 500ml/giờ. Khi thể tích tuần hoàn đã được đáp ứng một phần thì giảm tốc độ truyền. Ít nhất trong ngày đầu phải truyền được 3-4lít dịch, những ngày sau lượng dịch giảm dần, cho tới khi lượng dịch cân bằng 2l/ ngày.

  • Lợi tiểu muối

Sau khi thể tích tuần hoàn được phục hồi, truyền dung dịch Natriclorua 0,9% với tốc độ 100-200 ml/giờ. Furocemid 20-40 mg, tiêm tĩnh mạch mỗi 2 giờ. Không dùng lợi tiểu thiazid vì nó làm giảm thải calci.

Cần theo dõi các dấu hiệu của suy tim đề phòng suy tim tiến triển. Theo dõi điện giải đồ, calci, magie mỗi 6-12 giờ, bảo đảm đủ kali và magie.

  • Thuốc ức chế tiêu xương

Pamidronat là một bisphosphonat ức chế quá trình hủy xương.

  • Liều đơn: 60mg + 500ml Naclorua 0,9% hoặc Dextro 5% truyền trong 2-4 giờ.
  • Trường hợp tăng calci nặng (> 13,5 mg/dl): 90 mg + 1000ml dịch đẳng trương truyền trong 2-4 giờ.
  • Phản ứng hạ calci có thể thấy trong vòng 2 ngày và đỉnh cao là khoảng 7 ngày, có thể kéo dài vài tuần hoặc lâu hơn.
  • Điều trị có thể nhắc lại nếu tăng calci tái diễn. Tác dụng không mong muốn bao gồm: hạ calci, hạ magie, hạ phosphat, sốt nhẹ thoáng

Zonedronat là thuốc có khả năng ảnh hưởng tới bisphosphonat nhiều hơn, được chỉ định trong trường hợp tăng calci máu ở người có bệnh ác tính.

  • Liều đơn: 4mg + 100ml dung dịch Nacl 0,9% hoặc Dextro 5% được truyền tối thiểu trong 15phút. Điều trị nhắc lại không được dưới 7 ngày.
  • Trong thời gian điều trị bằng bisphosphonate có thể gây giảm chức năng thận do sự kết tủa bisphosphonat Bồi phụ nước phải được tiến hành trước khi sử dụng bisphosphonat, những người bệnh có thiểu năng chức năng thận chống chỉ định sử dụng những thuốc này.

Calcitonin: ức chế sự tiêu xương và tăng thải calci ở thận.

  • Calcitonin cá hồi 4-8 UI/kg tiêm bắp hoặc dưới da mỗi 6-12 giờ, 60-70% người bệnh có calci huyết tương thấp hơn 1- 2mg/dl trong vòng vài giờ.
  • Hạ calci máu có thể xảy ra sau vài ngày do tác dụng của thuốc.
  • Calcitonin có tác dụng kém hơn những thuốc ức chế tiêu xương khác nhưng không gây ngộ độc nặng, an toàn cho người suy thận, có thể có tác dụng giảm đau ở những người bệnh có di căn cơ. Nên sử dụng thuốc sớm trong điều trị tăng calci máu nặng để có đáp ứng Sử dụng đồng thời với bisphosphonat sẽ mang lại tác dụng kéo dài.
  • Tác dụng không mong muốn: đỏ bừng mặt, buồn nôn, hiếm gặp phản ứng dị ứng.

Glucocorticoid

  • Làm giảm calci máu bởi ức chế giải phóng cytokine, ảnh hưởng trực tiếp lên một số tế bào u, ức chế hấp thu calci ở ruột và tăng thải calci qua nước tiểu.
  • Chỉ định cho người bệnh tăng calci do u tủy, các bệnh máu ác tính, ung thư hạch (bệnh Sarcoidosis), và nhiễm độc vitamin D. Rất hiếm có đáp ứng của các u khác.
  • Liều bắt đầu của prednisolon uống là 20-50mg/ngày. Calci huyết tương giảm sau 5- 10 ngày. Sau khi nồng độ calci huyết tương ổn định, giảm dần liều tới liều tối thiểu cần để kiểm soát hội chứng tăng calci máu và hạn chế ngộ độc do lạm dụng (sử dụng thuốc không đúng trong thời gian sử dụng kéo dài).

Phosphat uống

  • Ức chế hấp thu calci, và tăng chuyển calci vào xương và tổ chức mềm.
  • Có thể sử dụng đơn thuần nếu nồng độ phosphoras < 3mg/dl và chức năng thận bình thường, để nguy cơ calci hóa tổ chức mềm ở mức tối thiểu. Phosphate 0,5 -1,0 mg/lần, uống ngày 2-3 lần.
  • Thường xuyên theo dõi calci, phosphorus, creatinin máu, giảm liều khi phosphorus > 4,5 mg/dl hoặc các phức hợp calci và phosphorus > 60 mg/dl.
  • Tác dụng không mong muốn: ỉa chảy, nôn, calci hóa tổ chức mềm.
  • Phosphate không bao giờ được chỉ định tiêm tĩnh mạch.

Thẩm phân

Lọc máu và lọc màng bụng có hiệu quả trong điều trị tăng calci máu. Những phương pháp này được sử dụng giúp cho người bệnh suy tim cấp hoặc suy thận không thể dung nạp được nước.

3.  Điều trị tăng calci máu mạn tính

  • Điều trị cường cận giáp nguyên phát
    • Phẫu thuật cắt tuyến cận giáp:
  • Là phương pháp duy nhất điều trị hiệu quả bệnh cường cận giáp nguyên phát. Bệnh sử tự nhiên của hội chứng cường cận giáp chưa được biết đầy đủ, nhưng nhiều người bệnh có rối loạn lành tính thể dịch (course), với rất ít thay đổi tìm thấy trên lâm sàng hoặc nồng độ calci máu tăng trong nhiều năm. Có thể quá trình mất khối lượng xương và tăng nguy cơ gẫy xương là những liên quan chính, nhưng khả năng xuất hiện biến chứng này thấp. Có thể thấy tổn thương chức năng thận, nhưng không phân biệt được với giảm chức năng do sỏi thận.
  • Chỉ định phẫu thuật tuyến cận giáp bao gồm:

Hội chứng tăng calci máu;

Sỏi thận;

Giảm khối lượng xương > 2SD dưới mức trung bình so với tuổi;

Calci huyết tương > 12mg/dl;

Tuổi < 50;

Không có khả năng điều trị theo thời gian dài.

  • Phẫu thuật là một lựa chọn phù hợp ở những người bệnh khỏe nên thường thành công cao, tỷ lệ tái mắc và tỷ lệ tử vong thấp. Những người bệnh không có triệu chứng phải theo dõi bằng sàng lọc đánh giá lâm sàng và calci, creatinin máu trong khoảng 6- 12 tháng. Đánh giá khối lượng xương hông hàng năm. Phẫu thuật lại nên được cân nhắc nếu có bất cứ một trong các tiêu chuẩn trên tiến triển, hoặc mất khối lượng xương và giảm chức năng thận tiến triển.
  • Phẫu thuật thành công 90- 95%. Sau phẫu thuật thường có một giai đoạn ngắn bình an (từ 1-2 ngày), hạ calci máu không triệu chứng. Một số trường hợp bệnh xương rõ, hạ calci máu có thể xảy ra nặng và kéo dài (gọi là hội chứng xương đói), đòi hỏi điều trị tấn công bằng calci và vitamin Những biến chứng khác bao gồm: hạ calci máu vĩnh viễn và tổn thương dây thần kinh thanh quản cấp. Những trường hợp phẫu thuật lại có tỷ lệ thành công thấp và nguy cơ biến chứng cao, cần thực hiện ở những trung tâm có uy tín.
    • Điều trị nội khoa không có hiệu quả đối với cường cận giáp nguyên phát.

Tuy nhiên, ở phụ nữ thời kỳ mãn kinh, điều trị thay thế bằng estrogen có tác dụng bảo vệ khối lượng xương, với ảnh hưởng ít nhất tới calci ion huyết tương hoặc lượng PTH. Những người bệnh cường tuyến cận giáp từ chối phẫu thuật hoặc không thể chấp nhận được phẫu thuật thì khuyến khích hoạt động thể lực, đồng thời với chế độ ăn nhiều muối, đủ dịch (2-3lít dịch và 8-10 g muối mỗi ngày). Hạn chế thức ăn có nhiều calci, không được dùng lợi tiểu thiazid. Uống phosphat có thể sử dụng khi người bệnh có hội chứng tăng calci máu không phẫu thuật được, nhưng lợi ích và nguy cơ tương đương nhau.

  • Điều trị tăng calci máu do các bệnh ác tính

Khó có kết quả trong một thời gian dài, chỉ kiểm soát được hội chứng tăng calci máu khi điều trị ung thư có hiệu quả.

Điều trị tăng calci máu có thể làm dịu đi hội chứng chán ăn, buồn nôn, khó chịu.

Sau giai đoạn tăng calci máu cấp, nên duy trì chế độ luyện tập thể lực và cân bằng thể dịch, với lượng dịch 2-3lít/ngày. Chế độ ăn bảo đảm 8-10g muối, bữa ăn hạn chế calci không có lợi. Có thể sử dụng thuốc như sau:

  • Nhắc lại liều Pamidronat tiêm tĩnh mạch nếu có tăng calci máu tái diễn.
  • Plicamycin là một thuốc ức chế tiêu xương, có thể được sử dụng điều trị như dòng thứ hai nếu Pamidronat không hiệu quả, thuốc có ảnh hưởng không tốt tới máu, thận,
  • Prednisolon 20-50 mg/lần, uống 2-3 lần/ngày, thường xuyên kiểm tra calci máu trong bệnh đa u tủy xương và các bệnh máu ác tính khác.
  • Uống phosphat có thể được áp dụng nếu phospho huyết tương thấp và chức năng thận bình thường.
  • Tăng calci máu do các bệnh lý khác
  • Nên điều trị bằng prednisolon và bữa ăn giảm calci (< 400mg/ngày). Tăng calci máu do Sarcoidosis thường đáp ứng với prednisolon, liều 10-20mg/ngày có thể đủ để kiểm soát lâu dài.
  • Vitamin D có thể làm giảm đau trong thời gian 2 tháng từ khi sử dụng, nhưng ngộ độc vitamin D sẽ làm giảm thời gian sống.

V.  TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG

  • Những trường hợp tăng calci máu do cường tuyến cận giáp nguyên phát không có triệu chứng tăng calci máu lâm sàng, được phát hiện ngẫu nhiên thấy nồng độ PTH tăng thì có diễn biến nhẹ, an toàn cho người bệnh.
  • Tăng calci máu do bệnh ác tính hoặc những bệnh hiếm gặp khác thì luôn có những bằng chứng về tiền sử, khám thực thể, xét nghiệm thông thường thấy nồng độ PTH không tăng. Ở những người bệnh này thường có hội chứng tăng calci máu nặng và phát triển

Tăng calci máu, giảm calci niệu gia đình rất hiếm gặp, PTH không tăng, bệnh diễn biến nhẹ, nhiều trường hợp không có triệu chứng lâm sàng.

Khi tăng calci và phosphat huyết tương dễ lắng đọng muối phosphate calci gây sỏi thận, đặc xương (osteopenia), hoặc có thể gặp viêm xương xơ hóa.

Cây sữa

cây sữa
cây sữa

CÂY SỮA

Tên khác: Vỏ sữa, Mùi cua, Mò cua.

Tên khoa học: Alstonia scholaris (L.) R.Br., họ Trúc đào (Apocynaceae).

Mô tả: Cây sữa là một loại cây to, có thể cao từ 15-30m. Cành mọc vòng, lá cũng mọc vòng, phiến lá hình bầu dục dài, đầu tù hoặc hơi nhọn, đáy lá hình nêm, mặt trên bóng, mặt dưới mờ, phiến cứng dài 8-22cm, rộng 5,5-6,5cm. Gân song song và mau. Hoa nhỏ, màu trắng xám, mọc thành xim tán. Quả gồm hai đại dài 25- 50cm, gầy, mọc thõng xuống, màu nâu, có gân dọc. Hạt nhiều, nhỏ dẹt, hai đầu tròn hoặc cụt, dài 7mm, rộng 2,5mm, trên mặt có lông màu nâu nhạt.

Mùa hoa nở từ tháng 8 đến tháng 12.

Toàn cây có chất nhựa mủ trắng, khi khô giống như chất cao su.

Bộ phận dùng: Vỏ thân đã cạo bỏ lớp bần phơi hay sấy khô của cây Sữa (Alstonia scholaris (L.) R.Br.)

Phân bố: Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi trong nước ta.

Thu hái: Vỏ hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa xuân, hạ. Hái về phơi hoặc sấy khô để dành. Hiệu suất thấp. Một cây 25 năm cho chừng 19kg vỏ khô.

Tác dụng dược lý:

Năm 1906, Bacon đã nghiên cứu tác dụng dược lý của những alcaloid chiết từ vỏ cây sữa và kết luận rằng tác dụng gần giống như chất quinin.

Năm 1926, Jos K. Santos (Philipin) có nghiên cứu kỹ hơn và công bố kết quả nghiên cứu trong báo khoa học ở Philippin (Philipin J Sci., 3:31).

Thành phần hoá học: Alcaloid.

Công năng: Thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng, chỉ thống, bình suyễn, chỉ khái, phát hãn, dùng ngoài cầm máu.

Công dụng: Làm thuốc bổ, chữa sốt, điều kinh, chữa lỵ.

Cách dùng, liều lượng: Ngày uống 1-3g bột vỏ phơi khô dạng thuốc sắc hoặc cao lỏng. Có thể dùng dưới dạng rượu thuốc.

Bài thuốc:

  1. Bột vỏ cây sữa phơi khô hoặc sấy khô rồi tán nhỏ, ngày uống 0,2-0,3g. Có thể ngâm rượu uống như sau:
  2. Rượu vỏ cây sữa: Vỏ cây sữa tán nhỏ 75g, rượu uống (35-400) 500ml, đậy kỹ, ngâm trong 7 ngày, thỉnh thoảng lắc đều. Sau đó lọc và thêm rượu vào cho đủ

Ngày uống 4-8g rượu này. Uống 15 phút trước 2 bữa ăn chính.

  1. Cao lỏng vỏ cây sữa: Chế bằng cồn 600 theo phương pháp chế cao lỏ Hoặc có thể ngâm bột vỏ sữa với cồn 600 trong 7 ngày. Thỉnh thoảng lắc, lọc và thêm cồn 600 cho bằng trọng lượng của vỏ. Ví dụ ngâm 1kg vỏ thì sẽ được 1 lít cao lỏng. Cao lỏng này dùng với liều 0,5-1,5g mỗi ngày. Nhiều nhất chỉ uống 2g/lần và 6g trong 1 ngày.

Bệnh sỏi thận và điều trị

Sỏi thận thường gặp, ảnh hưởng đến ~1% dân số, và tái phát ở hơn nửa số bệnh nhân. Sỏi bắt đầu hình thành khi nước tiểu trở nên bão hòa với các thành phần không hòa tan do (1) lượng nước tiểu thấp, (2) tiết quá mức hoặc không đầy đủ các hợp chất cần thiết, hoặc (3) các yếu tố khác (ví dụ pH nước tiểu) làm giảm tính hòa tan. Xấp xỉ 75% là sỏi canxi (phần lớn là canxi oxalat, tiếp là canxi phosphat và các loại sỏi hỗn hợp khác), 15% là sỏi nhiễm trùng (magie-ammoni-phosphat), 5% là sỏi axit uric, và 1% là sỏi cystin, phản ánh rối loạn chuyển hóa mà từ đó sinh ra sỏi.

Sỏi bể thận có thể không có triệu chứng hoặc gây đái máu đơn thuần, tắc nghẽn có thể xảy ra ở bất cứ vị trí nào dọc theo đường tiết niệu. Tắc nghẽn liên quan đến sự đi qua của sỏi dẫn đến đau nặng, thường lan tới háng, đôi khi kết hợp với các triệu chứng nội tạng dữ dội (buồn nôn, nôn, toát mồ hôi, lảo đảo), đái máu, đái mủ, nhiễm trùng tiết niệu, và ứ nước thận (hiếm). Ngược lại, sỏi san hô, liên quan đến nhiễm trùng tiết niệu tái phát do nhóm vi khuẩn tách urê tạo amoni (Proteus, Klebsiella, Providencia, Morganella, và một số vi khuẩn khác), có thể hoàn toàn không có triệu chứng, biểu hiện mất chức năng thận.

THÀNH PHẦN CỦA SỎI

Phần lớn sỏi là canxi oxalat. Có thể liên quan đến sự tăng canxi niệu và/hoặc tăng oxalat niệu. Tăng canxi niệu có thể thấy khi có chế độ ăn nhiều natri, Hypercalciuria can be seen in association with a very high-Na diet, dùng thuốc lợi tiểu quai, nhiễm toan ống lượn xa (typ I), bệnh Sarcoid, hội chứng Cushing, thừa aldosteron, hoặc các bệnh cảnh liên quan đến tăng canxi máu (cường cận giáp nguyên phát, thừa vitamin D, hội chứng sữa-kiềm), hoặc có thể tự phát.

Tăng oxalat niệu có thể thấy ở hội chứng kém hấp thu đường ruột (đặc biệt ở hồi tràng), ví dụ bệnh viêm ruột, viêm tụy, do giảm tiết oxalat ở ruột và/ hoặc gắn canxi ở ruột bằng axit béo trong lòng ruột, với tăng hấp thu oxalat tự do và tăng oxalat niệu. Sỏi canxi oxalat hình thành do (1) thiếu citrat trong nước tiểu, một chất ức chế hình thành sỏi đó là không bài tiết với nhiễm toan chuyển hóa; và (2) tăng uric niệu (xem bên dưới). Sỏi canxi phosphat ít gặp hơn nhiều và có xu hướng xảy ra khi pH nước tiểu cao (7-8), thường kết hợp với một nhiễm toan chuyển hóa ống lượn xa một phần hoặc hoàn toàn.

Sỏi nhiễm trùng hình thành trong hệ thống tiết niệu khi nhiễm trùng do nhóm vi khuẩn tách urê tạo amoni xuất hiện. Sỏi nhiễm trùng là thành phần chủ yếu của sỏi san hô và tắc nghẽn. Yếu tố nguy cơ bao gồm tiền sử nhiễm trùng tiết niệu, bệnh sỏi không phải sỏi nhiễm trùng, đặt catheter đường niệu, bàng quang thần kinh (với đái tháo đường hay đa xơ cứng), và làm thủ thuật.

Sỏi axit uric phát triển khi nước tiểu bão hòa với axit uric với pH nước tiểu toan hóa; bệnh nhân thường có bệnh chuyển hóa và kháng insulin tiềm ẩn, thường trên lâm sàng có bệnh gout, kết hợp với một thiếu sót tương đối trong sự tạo nên amoni huyết và pH nước tiểu <5.4 và thường <5.0. Bệnh nhân với rối loạn tăng sinh tủy xương và những nguyên nhân khác của tăng axit uric máu và tăng axit uric niệu thứ phát do tăng sinh tổng hợp purin và/hoặc tổng hợp urat có nguy cơ tạo sỏi nếu lượng nước tiểu giảm. Tăng axit uric niệu không kèm tăng axit uric máu có thể thấy khi sử dụng một số thuốc nhất định (Probenecid, liều cao Salicylat).

Sỏi cystin là kết quả của một di truyền hiếm gặp trong vận chuyển một số axit amin có hai nguyên tử hydrogen có thể thay thế ở thận và đường tiêu hóa; bài tiết quá mức cystin (cystein disulfua), là chất tương đối không hòa tan, dẫn đến sỏi thận. Sỏi bắt đầu từ khi còn nhỏ và hiếm khi là sỏi san hô; đôi khi dẫn đến bệnh thận giai đoạn cuối. Sỏi cystin nhiều khả năng hình thành trong nước tiểu có pH axit.

XÂM LẤN

Mặc dù một số đã ủng hộ việc xâm lấn hoàn chỉnh sau lần đầu tiên bị sỏi, một số khác trì hoãn việc này lại đến khi có bằng chứng tái phát hoặc không có nguyên nhân rõ ràng (lượng dịch đưa vào ít trong những tháng mùa hè và mất nước rõ ràng). Bảng 156-1 vạch ra một xâm lấn hợp lý cho bệnh nhân ngoại trú bị sỏi thận không biến chứng. Thỉnh thoảng, một viên sỏi được thu thập và có thể được phân tích thành phần, đầu mối quan trọng của bệnh sinh và điều trị. Ví dụ, sỏi canxi phosphat chiếm ưu thế gợi ý toan hóa ống lượn xa hoặc cường cận giáp tiềm ẩn.

ĐIỀU TRỊ Bệnh sỏi thận

Điều trị sỏi thận thường theo kinh nghiệm, dựa vào tỉ lệ (sỏi canxi oxalat là phổ biến), bệnh sử lâm sàng, và/hoặc xâm lấn chẩn đoán. Tăng lượng dịch đưa vào ít nhất 2.5–3 l/ngày lẽ là sự can thiệp có hiệu quả nhất, bất kể loại sỏi. Khuyến nghị bảo tồn cho bệnh nhân với sỏi canxi oxalat (ít muối, ít chất béo, chế độ ăn vừa protein) được cho là có lợi cho sức khỏe nói chung và do đó phù hợp với bệnh nhân trong tình trạng không có biến chứng. Trái với giả định, chế độ ăn có canxi không góp phần vào nguy cơ tạo sỏi; hơn thế, chế độ ăn có canxi có thể giúp giảm hấp thu oxalat và giảm nguy cơ tạo sỏi. Bảng 156-2 chỉ rau điều trị đặc hiệu cho sỏi phức tạp hoặc tái phát.

BẢNG 156-1 CHẨN ĐOÁN XÂM LẤN CHO BỆNH NHÂN NGOẠI TRÚ VỚI SỎI THẬN
1. Chế độ ăn và dịch đưa vào cơ thể
2. Hỏi cẩn thận bệnh sử và thăm khám, tập trung vào các bệnh hệ thống
3. Chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc không cản quang, lớp cắt 5 mm
4. Xét nghiệm nước tiểu thường quy; xuất hiện các tinh thể, đái máu, đo pH nước tiểu
5. Hóa sinh huyết tha h: BUN, Cr, axit uric, canxi, phosphat, chlorid, bicarbonat, hormon cận giáp
6. Nước tiểu ở các thời điểm (ít nhất 1 ngày trong tuần, 1 ngày cuối tuần): Cr, Na, K, nitơ niệu, uric acid, calcium, phosphate, oxalate, citrate, pH


BẢNG 156-2 ĐIỀU TRỊ CỤ THỂ BỆNH SỎI THẬN

Loại sỏi  Thay đổi chế độ ăn  Khác
Canxi oxalat Tăng dịch đưa vào
Ăn muối mức độ vừa
Ăn oxalat mức độ vừa
Ăn protein mức độ vừa
Ăn chất béo mức độ vừa
Bổ sung citrat (muối canxi hoặc kali > natri)
Cholestyramin pháp khác cho kém hấp thu hoặc liệu chất béo
Thiazid nếu tăng canxi niệu
Allopurinol nếu tăng axit uric niệu
Canxi phosphat Tăng dịch đưa vào
Ăn muối mức độ vừa
Thiazid nếu tăng canxi niệu
Điều trị cường cận giáp nếu có
Kiềm cho toan hóa ống lượn xa
Sỏi nhiễm trùng Tăng dịch đưa vào; giống như sỏi canxi oxalat nếu có bằng chứng đó là ổ nhiễm trùng Methenamin và vitamin C hoặc điều trị kháng sinh hàng ngày (Trimethoprim sulfamethoxazol)
Axit uric Tăng dịch đưa vào
Ăn vừa phải protein
Allopurinol
Thêm kiềm (K+ citrat) để nâng pH lên đến 6.0–6.5
Sỏi cystin Tăng dịch đưa vào Thêm kiềm
Penicillamin

Chú ý: Sự đào thải natri tương quan với thải canxi.

Lưỡi cuốn (rụt) – Triệu chứng bệnh Đông y

Khái niệm

Đầu lưỡi cuốn gấp khúc, chuyển động khó nói năng cũng khó gọi là “Thiệt quyển” (Lưỡi cuốn). Chứng này là hiện tượng cùng xuất hiện với tinh thần hôn mê, âm nang teo quắt.

Chứng Lưỡi cuốn xuất hiện lần đầu ở sách Nội kinh, cho rằng bệnh biến ở hai kinh Tâm và Can gây nên. Tố vấn – Chẩn yếu kinh trung luận có viêt: “Quyêt âm bệnh ở giai đoạn cuối thì nóng bên trong và khô họng, hay đi tiểu, Tâm phiền thậm chí lưỡi cuốn, cao hoàn rụt vào bên trong”. Tố vấn – Mạch yếu tinh vi luận viết: “Tâm mạch đập cứng mà dài là chứng bệnh lưỡi cuốn không nói được”.

Lưỡi cuốn với chứng “ Thiệt cường” đều là chứng trạng bề mặt lưỡi cứng không linh hoạt nhưng loại sau thì lưỡi cứng thẳng không gấp khúc có thể thè ra ngoài miệng chút ít, còn loại trên thì lưỡi cuốn gấp khúc vào trong nên không thè được ra khỏi miệng. Chứng Lưỡi cuốn thường gặp ở bệnh nguy hiểm cấp tính, còn chứng “Lưỡi cứng” thì tương đôi nhẹ hơn.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Lưỡi cuốn do Can kinh khí tuyệt: Có chứng lưỡi cuốn, chất lưỡi tía khô, âm nang thụt lên trên (cao hoàn thụt lên, âm nang teo lại) Tâm phiền, ngực đầy môi xanh tái, tinh thần hôn mê, mạch Huyền Sác.
  • Lưỡi cuốn do ôn tà nội hãm Tâm bao: Có chứng lưỡi cuốn mà ngắn, sắc lưỡi đỏ tía, gò má đỏ, sốt cao hôn mê, tứ chi quyết nghịch, đại tiện bí kết, mạch Hồng Sác hoặc Huyền Hoạt mà Sác.

Phân tích

  • Chứng Lưỡi cuốn do Can kinh khí tuyệt: Đặc điểm chủ yếu là lưỡi cuốn cùng xuất hiện với chứng âm nang teo quắt thụt lên trên có thể phân biệt với chứng Lưỡi cuốn của Tâm bệnh. Sách Ôn bệnh điều biện cho là lưỡi cuốn và âm nang teo quắt thụt lên trên tuy đều thuộc Quyết âm nhưng chỉ ra: “Lưỡi là thuộc Thủ (Quyết âm), âm nàng là thuộc Túc (Quyết âm) bởi vì lưỡi là khiếu của Tâm, Bao lạc thầy Tâm gánh vác mọi việc. Trước và sau Thận nàng đều là thuộc Cần kính đi qua dứt khoát không được lẫn lộn coi hai cái Quyết của âm dương”. Chứng này thường do lý nhiệt cực thịnh, Cần âm cạn kiệt dẫn đến Cân kinh khí tuyệt. Can chủ Cân, nên kình khí tuyệt thì cân cũng tuyệt cho nên lưỡi cuốn. Chất lưỡi tía mà khô, âm nàng thụt lên, môi tái xanh, chuột rút, tinh thần hôn mê đồng thời xuất hiện có thể dùng Linh dương câu đằng thang gia Sinh Thạch Quyết minh, Sinh Miết giáp, Đại mạo mà điều trị .
  • Chứng Lưỡi cuốn do ôn tà nội hãm Tâm bao: Bao lạc thay Tâm gánh vác công việc, mạch lạc của Tiểu trường qua gò má mà biểu lý với Tam cho nên đặc điểm chứng Lưỡi cuốn của Tam bệnh là lưỡi cuốn mà ngắn, gò má đỏ có thể gặp ở Ôn tà nội hãm Tâm bao. Tựu trung từ Thượng tiêu Phế mà nghịch truyền Tâm bao thì khởi bệnh gấp, tiến triển nhanh thường là giai đoạn cuối phát bệnh rất nhanh chóng, xuất hiện các chứng sốt cao, tinh thần hôn mê, gò má đỏ và cấm khẩu, nên dùng phép phương hương khai khiếu, thanh nhiệt giải độc cho uống An cung ngưu hoàng hoàn hoặc Tử tuyết đan, Tà vào Trung tiêu nhiệt uất trệ xông lên Tâm bao thường gặp chứng táo bón, mặt mắt đều đỏ, lưỡi tía, rêu lưỡi vàng, thậm chí tay chân phát quyết nên dùng Ngưu hoàng thừa khí thang để khai khiếu tiết nhiệt. Nếu lưỡi khô ráo và nổi gai là nhiệt nặng tổn thương tân dịch nên dùng Tầng dịch Thừa khí thang để dưỡng âm nhuận hạ. Đồng thời có thể châm vào các huyệt Phục lưu, Dịch môn và Nhị gian,

Tóm lại chứng Lưỡi cuốn phần nhiều gặp ở bệnh nguy kịch, nhất là Can kinh khí tuyệt với ôn tà nội hãm Tâm bao thì gặp khá nhiều, loại trên thường kèm đặc điểm là âm nang thụt lên trên, loại sau thường kèm chứng trạng chủ yếu là sốt cao, tinh thần hôn mê, lâm sàng phân biệt không khó. Ngoài ra chứng đờm nhiệt vít lấp Tâm khiếu do đờm nhiệt xông lên nghẽn tắc Tâm khiếu ngoài chứng trạng chủ yếu như tinh thần hôn mê, nói năng lẫn lộn cũng có thể xuất hiện triệu chứng lưỡi cuốn, có thể dựa vào chẩn đoán phân biệt mà tham khảo.

Trích dẫn y văn

Phong trúng Quyết âm thì lưỡi cuốn mà khó nói… mạch tả quan Huyền Khẩn… dùng Bổ Can tán (Chứng nhân mạch trị – Ngoại cảm thiệt âm bất thanh).

Các chứng Hầu tý, Thiệt quyển, miệng khô, phiền Tâm, Tam thông bên trong cánh tay đau không với tay lên đầu được… đó là tà khí ẩn náu ở đường lạc của Thủ Thiếu dương (Vọng chẩn tuân kinh – Chẩn thiệt hình dung điều mục).

Tiếng nói sợ sệt gốc lưỡi rụt vào, cười vô cớ và hôn mê hoảng hốt trướng đầy là do Tỳ gặp lạnh lại nhiễm phong.

Đề phòng bệnh ung thư cần phải bắt đầu từ những việc nhỏ vặt hàng ngày

Các nhà khoa học trong lĩnh vực y học qua nghiên cứu đã chứng minh có những bệnh ung thư hoàn toàn có thể đề phòng được. Muốn phòng bệnh từ khi nó chưa xảy ra, cần phải bắt đầu tiến hành từ những việc nhỏ vặt hàng ngày, làm tốt việc tự bảo vệ sức khỏe cho mình.

Tập luyện đúng cách rất cần thiết với người tăng huyết áp

Tinh thần lạc quan yêu đời, tâm tư tình cảm không quá căng thẳng, tránh lo nghĩ buồn phiền.

Thường xuyên tham gia luyện tập thể thao thể dục, tăng cường thể chất.

Chú ý vệ sinh cá nhân, tập thành thói quen tốt đánh răng buổi tối trước khi đi ngủ và buổi sáng lúc ngủ dậy, sau khi ăn cơm súc miệng sạch, mỗi ngày định giờ đại tiện.

Sinh hoạt phải có qui luật, nề nếp, kết hợp giữa lao động, học tập và nghỉ ngơi, tránh lao động quá độ gây mệt mỏi nhiều.

Không ăn thiên lệch, không chọn ăn một món ăn nào đó, hấp thu dinh dưỡng cần phải cân đối, tận sức thực hiện ăn phối hợp nhiều các loại lương thực chính, lương thực phụ trong các loại ngũ cốc, ít ăn các loại mỡ động vật.

Ăn nhiều các loại rau xanh tươi mới, các loại trái cây, hấp thu nhiều loại vitamin, nhất là lượng lớn vitamin

Ăn chậm, nhai kĩ, không ăn nhiều, uống lắm một lúc.

Chú ý vệ sinh trong uống nước, uống nhiều nước trà xanh.

Không hút thuốc lá, không uống nhiều bia, rượu.

Ăn uống cần thanh đạm, ăn ít các loại thức ăn quay rán nướng, các loại thức ăn ướp muối, hun khói, không ăn các loại thức ăn quá nóng, quá lạnh, quá cứng, đã mốc, ôi thiu, biến chất.

Không lạm dụng thuốc, tận lượng giảm thiểu chiếu chụp điện và tiếp xúc với các tia phóng xạ, tia X-quang.

Tránh phơi nắng mặt trời gay gắt, quá độ.

Trong nhà bếp phải chú ý thông gió, ngăn chặn thường xuyên hít phải các khói dầu, khói than v.v…

Kịp thời điều trị các loại bệnh mạn tính, tích cực tham gia kiểm tra sức khỏe phòng bệnh ung thư. Nắm vững các tín hiệu ban đầu của bệnh ung thư, nếu thấy xuất hiện các tín hiệu đó phải kịp thời đến bệnh viện khám chữa.

Các loại khối u và những trạng thái sưng không có tính u

Bạn thử dùng tay sờ vào đầu, có sờ thấy những khối hoặc nhiều khối lồi lên hay không ? Các khối đó trước đây chưa từng có ư ? Đừng lo, đó chẳng qua là miếng xương thừa (Exostoses)- một hiện tượng tăng sinh xương vô hại. Thế nhưng nếu bạn sờ thấy một khối cưng cứng ở nách nhưng không đau, thì có lẽ khá nghiêm trọng đó ! Nhất là nó xuất hiện trên những chị em đã lâu không đi chụp X quang kiểm tra vú.

Bất cứ phần nào trên cơ thể xuất hiện khối u, mọi người đều giật mình lo sợ, thậm chí hơi hốt hoảng. Thật ra, bạn không cần phải lo lắng thái quá. Chương này sẽ giúp các bạn tìm hiểu một số khối u thường gặp, cho bạn biết khi nào nên lo, khi nào không cần bận tâm. Tuy nhiên nếu phát hiện khối u thực sự, vì để xác định cuối cùng đang xảy ra chuyện gì, thì cũng nên tới bệnh viện kiểm tra cho yên tâm.

Dưới đây xin giới thiệu một số khối u và hiện tượng sưng cần chú ý :

Khối u mỡ (Lipomas) là khối do tích luỹ mỡ dưới da, thường xuất hiện ở những người béo phì, dùng tay sờ vào thấy mềm mềm, có thể xê dịch chỗ, thì bạn không cần phải bận tâm trừ phi khối u bắt đầu thấy đau vì nó to quá hoặc khó coi quá mới nghĩ tới việc xử lý nó.

Khối u xơ (Fibromas) cũng là một thứ u lành khác, thông thường cứng hơn u nêu ở phần trên, đôi khi ở chỗ khác trên cơ thể hình thành tế bào ung thư, di căn tới một nơi nào đó, tích dưới làn da nơi đó một khối u. Trong tình hình này, da nơi đó sẽ có một màu khác. So với các u lành tính khác, khối u ung thư sờ thấy cứng hơn, không dễ xê dịch như u lành tính.

Nếu phát hiện bị xuất huyết dưới da (Supficial Bleeding), vị trí xuất hụyết sẽ có một khối sưng khác màu, đó là do tụ máu mà ra. Hiện tượng này thường xuất hiện sau một lần tai nạn, dù bị thương hết sức nhẹ cũng có khối sưng và xuất huyết dưới da. Nhưng còn một trạng thái thường gặp, đó là khi lấy mẫu máu để xét nghiệm, thường phải chọc cây kim vào da, chích một lỗ nhỏ vào tĩnh mạch, sau khi rút kim ra, lỗ đó không thể tự lành lập tức, máu vẫn còn tiếp tục chảy ra, chảy tới tổ chức dưới da ở xung quanh, tuỳ lớn nhỏ của lỗ, máu đông kết sẽ trở thành một huyết khối, vài ngày sau khi sờ trúng, cứ như một khối u. Tình trạng này thường xuất hiện trên những người dễ bị chảy máu như người đang dùng thuốc aspirin, hoặc thuốc chống đông máu. Hoặc mũi kim sử dụng bị hư khiến động mạch bị một lỗ to, cùng có thể do y sĩ không tìm thấy tĩnh mạch, chích hơn một lỗ, mới có thể lấy được máu. Dù sao, những khối sưng này cuối cùng cũng sẽ tự biến mất.

Cách kiểm tra tia Xquang mạch máu (Angiogram) cũng có thể gây nên tình trạng tương tự. Vì phải chích thuốc cản quang vào trong hệ tuần hoàn, để có thể nhìn thấy rõ mạch máu dưới tia X quang, do mũi kim chích vào động mạch, – thông thường là động mạch ở bẹn, chớ không phải tĩnh mạch – cho nên, sẽ gây chảy rỉ máu dưới da, tất nhiên sẽ nghiêm trọng hơn trường hợp lấy mẫu máu nêu trên, vì máu trong động mạch mạnh hơn nhiều. Sau khi ống chích máu rút ra, máu sẽ chảy ra, đi vào tổ chức đùi và bụng dưới, khiến cả khu này trở nên màu đỏ, đen, xanh và vàng (màu sẽ thay đổi theo thời gian), và có hiện tuợng sưng. Số máu rỉ ra này thường được hấp thụ trở lại, nhưng khối u cứng sẽ ở lại khoảng vài tuần thậm chí vài tháng. Nếu gặp trường hợp này các bạn chớ nên lo lắng, vì cuối cùng nó cùng sẽ biến mất. Nhưng nếu chỗ đó có hiện tượng mạch đập, cho thấy động mạch nơi đó đang bị chảy máu, phải lập tức tìm tới bác sĩ để chữa trị kịp thời.

Trong cơ quan bị thương hoặc nhiễm bệnh, cũng có thể xảy ra hiện tượng xuất huyết, khiến cơ quan bị sưng, sờ cứ như là bị khối u. Ví dụ cụ thể là : khi lách bị biến chứng gì đó đang xuất huyết, khi người bệnh sờ bụng cứ như đang bị khối u.

Nếu chất dịch bị tích tụ trong một khung kín, không thể thoát ra ngoài, đồng thời lại bị viêm nhiễm, cũng có thể gây sưng, con người khó tránh khỏi có lần bị triệu chứng sưng, có cái ở bên ngoài dễ nhìn thấy, như trong lợi hoặc mao mạch da. Cũng có khi xuất hiện ở cơ quan bên trong như gan, phổi, mật chẳng hạn. Khi sờ vào chỗ sưng này cứ như khối u, đè nó thì lõm xuống, vì trong đó chứa nhiều mủ.

Những hạch ở cổ, háng, nách hoặc sau khuỷu tay, thông thường chúng ta khó có thể sờ thấy, trừ phi chúng vì một lý do gì đó bị sưng. Chức năng của các tuyến này là một máy lọc, bất cứ những gì bị chúng lọc vào tích tụ ở lại như virus, vi khuẩn, tế bào ung thư… đều có thể khiến hạch bị sưng. Để biết rõ tính chất của hạch, chúng tôi xin chia ra 2 nguyên tắc sau :

  • Hạch to không đau coi chừng hạch ác tính.
  • Hạch to đau : là viêm nhiễm, muốn chắc chắn nên xét nghiệm thêm.

Đôi khi khối u chỉ là một cơ quan nào đó rời vị trí của mình đi tới một nơi khác. Ví dụ : thận không có ở vùng lưng thắt, mà rơi vào một vị trí thấp hơn, cho nên bạn sờ thấy nó ở bụng. Có nhiều lần tôi chẩn đoán cho những người bệnh mà thậm chí bác sĩ khám đã rất lo âu vì trong bụng có khối u, sau đó mới phát hiện hoá ra là quả thận xuống “phía nam” mà thôi. Có khi lại là một số tế bào ung thư di căn tới một cơ quan đáng lẽ rất khoẻ mạnh, nhưng lại bị chẩn đoán thành một khối u mới mọc, như gan rất dễ bị các tế bào ung thư khác di căn. Khi bị tế bào ung thư xâm nhập, di căn, trèn bụng phải xuất hiện một khối u cứng và hình dạng không đều (lồi lõm không trơn), không có cảm giác đau, đây là một tin xấu.

Có vài cơ quan trong cơ thể là dạng nang dịch, chất tiết bên trong phải nhờ ống thải ra ngoài. Khi các ống bị tắc nghẽn, chất dịch quay về bên trong cơ quan, khiến nó bị trướng to lên, cứ như một khối u. Ví dụ : như tuyến nước bọt, biết tiết ra nước bọt nhờ đường ống thông tới khoang miệng, nếu đường ông có sỏi, hoặc bị tắc nghẽn do viêm nhiễm (như bị quai bị chẳng hạn), tuyến nước bọt cứ tiết ra nước bọt, nhưng lại không thể đi vào khoang miệng, còn quay lại tuyến nước bọt, khiến cả bên má đều sưng lên.

Một trường hợp tương tự cũng xuất hiện trên tuyến nhờn nhỏ dưới da, tuy nhiên không gây chú ý lớn. Nếu như mao mạch bề mặt da bị viêm nhiễm, chất nhờn tiết ra bị quay về tuyến nhờn, cuối cùng hình thành một khối sưng nho nhỏ đau đớn, chính là mụn, nếu tiếp tục to lên sẽ là mụn mủ.

Túi mật phụ trách cất trữ mật được tiết ra từ gan, sau đó đưa mật qua đường ống tới ruột, giả sử ống mật bị tắc nghẽn – thông thường do khối u gần bụng gây nên, thường gặp nhất là khối u tụy tạng – khiến mật quay lại túi mật và sưng to, thông thường chúng ta không thể sờ thấy, chỉ khi nhờ bác sĩ kiểm tra mới phát hiện. Hiện tượng sưng túi mật này không gây đau, nhưng lại là triệu chứng điển hình về ung thư tụy tạng, vì nếu sỏi tắc nghẽn túi mật, thông thường không to đến nỗi có thể sờ thấy, thường sau một thời gian số sỏi này được di chuyển sang chỗ khác.

Khối u không do bệnh

Một ví dụ khác là trong bụng có một khối u như ung thư, thật ra nó có thể chỉ là một bàng quang đầy nước tiểu. Khi bàng quang tích lũy tới một mức độ nào đó, bàng quang sẽ thông báo cần phải đi tiểu.

Trên cơ thể nam giới, đường tiểu nằm sát với tiền liệt tuyến, nếu tiền liệt tuyến bị phì đại (người lớn tuổi thường có tình trạng này), sẽ có hiện tượng bị tắc nghẽn trong đường tiểu. Nước tiểu quay về bàng quang, tích tụ tại đó, sau một khoảng thời gian, bàng quang sưng to, và thành bàng quang to lên để chứa hết số nước tiểu đó, khiến người ta dễ ngộ nhận đó là một khối ung thư. Thật ra đó có thể chỉ là một tiền liệt tuyến sưng to, chỉ cần cắt bỏ chúng đi, khối nghi là ung thư kia sẽ biến mất.

Trường hợp tắc nghẽn quay ngược chất dịch và sưng to cũng có thể xuất hiện ở động mạch và tĩnh mạch. Giả sử trong tĩnh mạch giãn có một huyết khối, dù xảy ra trong chỗ nào trên cơ thể, cũng khiến máu trong mạch máu bị tắc nghẽn và quay ngược, hình thành hiện tượng sưng.

Nếu phát sinh ở tĩnh mạch của tinh hoàn, sẽ hình thành giãn tĩnh mạch thừng tinh ; nếu xảy ra ở trực tràng, sẽ hình thành trĩ ; nếu trên đùi, sẽ khiến chân bị sưng.

Đa số khối cứng hoặc hiện tượng sưng đều là lành tính, chỉ có một số’ ít là triệu chứng ung thư, hoặc do viêm nhiễm, do máu hoặc các chất dịch khác bị tắc nghẽn mà ra.

Khi chúng ta kiểm tra kỹ một khối u hoặc hiện tượng sưng đặc biệt, xin ghi nhớ một nguyên tắc, nếu khối đó sưng một cách đột ngột lại bị đau, đa số do phần đó bị viêm hoặc bị thương, nhưng nếu hiện tượng sưng phát sinh dần dần mà không có cảm giác đau, thì có thể là khối u rồi.

Ngoài ra, xin chia sẻ với các bạn một định luật số 7 : nếu khối u xuất hiện duy trì khoảng 7 ngày, rất có thể do viêm nhiễm ; trong 7 tháng có thể là Ung thư ; trong 7 năm, chỉ có thể là bẩm sinh mà thôi. Thứ nào có thể do bẩm sinh nhỉ ? Ví dụ : sưng nang trên một chỗ nào đó trên cơ thể, cần phải phân biệt sưng nang như thế nào ? Nặn cho mủ chảy ra, nó sẽ nhỏ hơn, nhưng một khoảng thời gian sau nó, được nhồi đầy lại sưng trở lai.

Định hướng biện pháp xử lý

Triệu chứng : KHỐI U KHÔNG DO BỆNH

Khả năng mắc bệnh Biện pháp xử lý
(Dù bạn suy đoán như thế nào cũng phải tìm tới bác sĩ)
1. Cục xương thừa (xương tăng sinh trên đầu) Không tác hại.
2. Khối u mỡ (nằm dưới da được cấu thành bởi mỡ.) Nếu vì không đẹp có thể dùng phẫu thuật cắt bỏ.
3. u xơ (nằm trong tổ chức tăng sinh trơn dưới da) Lành tính.
4. Tế bào ung thư dưới da. Thuốc chống ung thư.
5. Khối nhỏ biến màu dưới da do bị thương hoặc xét nghiệm máu.  Vô hại, sẽ tự biến mất.
6. Cơ quan do xuất huyết và sưng to. Chẩn đoán và điều trị.
7. Làm mủ. Kháng sinh và nặn bỏ mủ.
8. Sưng hạch bạch huyết (có thể do viêm nhiễm, cũng có thể do chứng bệnh ác tính.) Nếu bị viêm, dùng thuốc kháng sinh ; nếu là ác tính, phải nhanh chóng điều trị.
9. Cơ quan di chuyển chỗ. Không cần xử lý.
10. Tắc nghẽn đường ống cơ quan như túi mật, tuyến nước bọt … Có thể phải mổ để thông chỗ bị tắc.
11. Đường tiểu bị tắc, tạo nên nước tiểu quay ngược. Tìm ra nguyên nhân căn bệnh như sưng tiền liệt tuyến, để tiến hành điều trị.
12. Động mạch hoặc tĩnh mạch bị tắc, khiến máu quay ngược. Thuốc men hoặc phẫu thuật.

Tác dụng chữa bệnh của hạt đậu tương (đậu nành)

Cây đậu tương thân thảo, sống hàng năm, mọc thẳng đứng, cao 40-80cm. Thân, cành mảnh, có nhiều cành, toàn thân, cành có nhiều lông, lông màu trắng. Lá kép mọc so le, gồm ba lá chét hình bầu dục hoặc trái xoan, gốc lá tròn, đầu nhọn, dài 3-12cm rộng 2-8cm, lá chét tròn lệch, hai mặt có lông rải rác, cuống chung dài 7-10cm.

Cụm hoa mọc thành chùm ngắn ở kẽ lá, hoa nhỏ màu tím hoặc trắng, đài hình chuông phủ lông mềm, trắng có cánh cờ rộng, không có tai, nhị một bó, bầu có lông.

Quả đậu tương rất nhiều lông mềm màu vàng
Quả đậu tương rất nhiều lông mềm màu vàng

Quả đậu tương rất nhiều lông mềm màu vàng, mọc thõng xuống, dài khoảng 3-4cm, hơi thắt lại giữa các hạt, mỗi quả có 2-3 hạt màu vàng hơi trắng.

Đậu tương là một trong những thực phẩm không chứa gluten và ít calo nên rất có lợi cho những người muốn giảm cân hoặc duy trì trọng lượng. Đỗ tương rất có lợi cho những người muốn giảm cân hoặc duy trì trọng lượng. Ngoài ra, đậu tương còn không chứa cholesterol và là một nguồn tuyệt vời của protein, sắt, canxi nên rất tốt cho sức khỏe. Nếu bạn đang theo chế độ ăn chay, đây sẽ là nguồn thực phẩm cung cấp protein rất quan trọng cho bạn. Nguồn protein trong đậu tương sẽ cung cấp các axit amin thiết yếu giống như ở thịt và sữa.

Về mặt dinh dưỡng, đậu tương còn chứa nhiều chất béo không bão hòa lành mạnh, đặc biệt là omega-3 axit alpha-linolenic.

Theo cơ sở dữ liệu dinh dưỡng quốc gia Mỹ thì một chén (155 gram) đậu tương đông lạnh sẽ chứa 189 calo, 1 gram bão hòa, 16 gram carbohydrate tổng số, 8 gram chất xơ, 3 gam đường và 17 gram protein. Một khẩu phần ăn như vậy cung cấp 10% nhu cầu canxi, 16% vitamin C, 20% sắt, 52% vitamin K và 121% nhu cầu folate hàng ngày của bạn. Đậu tương cũng chứa nhiều vitamin E, thiamin, riboflavin, niacin, B-6, acid pantothenic, choline, magiê, phốt pho, kali, kẽm, đồng và mangan.

Theo Đông y, quả đậu tương có vị ngọt tính bình, vào kinh tỳ và thận. Tác dụng giải biểu, lợi thấp, hoạt huyết khu phong giải độc, hoàng đản, bổ dưỡng. Đậu tương có tác dụng tích cực đối với một số bệnh như: tăng cholestorol, vữa xơ động mạch, huyết áp cao, bị suy gan, thấp khớp, bệnh gút, đái tháo đường, phụ nữ tuổi mãn kinh, người có nguy cơ cao ung thư vú, ung thư tiền liệt tuyến, ung thư dạ dày, khó ngủ, người làm việc trí óc, trẻ em còi xương suy dinh dưỡng, người mới ốm dậy, người làm việc quá sức. Liều dùng từ 10-30g cho một ngày. Chế bột, viên, đậu phụ v.v… để dùng.

Quả đậu tương tác dụng giải biểu, lợi thấp
Quả đậu tương tác dụng giải biểu, lợi thấp

Thuốc ứng dụng từ đậu tương:

Bài 1. Thuốc chữa đổ mổ hôi trộm

+ Đậu tương                         100g

+ Hạt tiểu mạch                   50g
Các vị thuốc cho vào nồi, thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ. Khi còn 300ml nước thuốc chắt lấy nước, bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, sau khi ăn. Cần uống liền 11 ngày.

+ Đậu tương 20g

+ Long nhãn 20g

+ Bách hợp 15g

+ Hạt sen 20g

+ Ngũ vị tử 10g

Sắc và dùng thuốc như bài trên.

Bài 3. Thuốc chữa rụng tóc

+ Đậu tương 30g

+ Vừng đen 30g

+ Nhân lạc 30g

+ Đậu xanh 30g

+ Đậu đỏ nhỏ hạt 30g

+ Đậu đen 30g

+ Đường trắng 50g

Đường trắng cho vào nồi thêm nước đun sôi cho tan hết đường. Các vị thuốc còn lại sao thơm tán nhỏ mịn, dùng nước đường luyện viên bằng hạt ngô phơi khô đem dùng. Người bệnh ngày uống 3 lần, mỗi lần 10 viên với nước sôi để nguội, sau khi ăn.

Bài 4. Thuốc chữa bệnh thiếu máu do thiếu sắt

+ Đậu tương 150g

+ Ngô tẻ 200g

+ Bột mì 100g

+ Trứng gà 4 quả

+ Đường đỏ 150g

+ Sữa bò tươi 150g

Đậu tương và ngô rang thơm, tán nhỏ mịn, cho vào bột mì trộn đều; đường đỏ thêm chút nước quấy tan, đập trứng gà và sữa bò tươi vào bột đã chuẩn bị trộn đều, sau đó cho nước đường vừa đủ trộn đều bột, đổ thành khuôn bánh có kích thước rộng 3cm, dài 4cra, cao lcm, sau đó đem nướng chín. Người bệnh ngày ăn 3 lần, mỗi lần hai tấm bánh với nước sôi để nguội vào lúc đói.

Bài 5. Thuốc chữa bệnh viêm gan mạn tính

Đậu tương, đan sâm sấy khô tán nhỏ mịn. Mật ong, đường phèn thêm nước đun nhỏ lửa cho đường phèn tan hết, dùng nước mật ong, đường phèn cùng bột đậu tương, đan sâm luyện viên bằng hạt ngô, phơi khô. Người bệnh dùng 3 lần, mỗi lần 10 viên với nước sôi để nguội, lúc đói.

Xem tiếp

Sữa Đậu nành có tác dụng gì, có tốt cho sức khỏe không?

Zerocid

Thuốc Zerocid
Thuốc Zerocid (Omeprazole 20mg)

ZEROCID

SUN PHARMA

Viên nang 20 mg: vỉ 10 viên, hộp 10 vỉ.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Oméprazole 20 mg
Tá dược: Hạt omeprazol IH.

DƯỢC LỰC

Omeprazole thuộc nhóm mới những hợp chất chống sự tiết dịch – những dẫn xuất benzimidazoly – không biểu hiện tính kháng tiết acetylcholine và kháng H2 Histamine, nhưng ngăn chặn sự tiết Acid ở dạ dày bằng tính chất ức chế đặc thù của hệ Enzyme H+K+Atpase ở bề mặt tiết dịch của những tế bào thành dạ dày. Hệ enzym này được xem như một bơm acid (proton) trong màng nhầy dạ dày, nên Omeprazole là chất ức chế bơm acid, mà ở dạ dày nó ngăn chặn bước cuối cùng trong quá trình sản xuất Acid, tác dụng này liên quan đến liều lượng và dẫn đến ức chế cả sự tiết Acid cơ bản lẫn kích thích mà không quan tâm đến tác nhân kích thích.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Các nghiên cứu chỉ ra Omeprazole đào thải nhanh khỏi huyết tương và có thể tìm thấy trong màng nhầy ở dạ dày trong vòng 1 ngày thậm chí hơn.

Sau khi uống thuốc, Omeprazole bắt đầu có tác dụng chống tiết dịch trong vòng một giờ và tác dụng tối đa đạt được trong khoảng hai giờ.Sau 24 giờ, tác dụng ức chế tiết dịch còn khoảng 50% mức tối đa và thời ức chế có thể kéo dài hơn mong đợi trong khi thời gian bán hủy ở huyết tương rất ngắn (chưa đến một giờ ), rõ ràng gây bởi thời gian liên kết lâu dài giữa Enzyme H+/K+/ATPASE với vách dạ dày. Khi ngừng thuốc, hoạt tính tiết dịch trở lại bình thường sau 3  đến 5 ngày. Tác dụng ức chế tiết acid của Omeprazole tăng dần khi bắt đầu uống liều đơn mỗi ngày, đạt mức ổn định sau 4 ngày. Viên nén Omeprazole được bọc nang và hấp thụ nhanh, mức cao điểm trong huyết tương tăng trong vòng từ 0.5 đến 3.5 giờ. Nồng độ cao điểm trong huyết tương là diện tích dưới đường cong xấp xỉ tỷ lệ với liều lượng cho tới 40mg, nhưng do tác dụng vòng chuyển thứ nhất (first pass) bão hòa nên nồng độ cao điểm ở huyết tương và AUC cao hơn đáp ứng tuyến tính trong vùng liều lượng từ 20 – 40 mg phần lớn gây bởi chuyển hóa tiền hệ thống. Ở những cơ thể khỏe mạnh, thời gian bán hủy huyết tương từ 0,5-1 giờ, thanh thải trên toàn cơ thể là 500 – 600 ml/phút. Liên kết protein xấp xỉ 95%. Khả dụng sinh học của Omeprazole tăng nhẹ khi liều lượng tăng nhanh. Phần lớn liều lượng (khoảng 77%) bài tiết qua nước tiểu. Omeprazole có ít nhất 6 dạng chuyển hóa. Hai dạng được biết là hydroxy-omeprazole và acid carboxylic tương ứng. Phần còn lại của liều thuốc có thể thu hồi từ phần. Như vậy có sự thải mật đáng kể của các chuyển hóa trong huyết tương- dẫn chất Sulphide, Sulphone của Omeprazole và Hydroxy-omeprazole. Những dạng chuyển hóa này không có hoặc hoạt tính rất thấp.

Ở những bệnh nhân gan mãn tính, khả dụng sinh học có thể tăng tới 100% phản ánh suy giảm tác dụng vòng chuyển thứ nhất (first pass) và thời gian bán hủy ở huyết tương tăng tới gần 3 giờ so với người bình thường chỉ từ 0,5-1giờ. Tốc độ thanh thải huyết tương trung bình 70 ml/phút trong khi ở người bình thường là 500-600 ml/phút. Với bệnh nhân suy năng thận mãn tính mà thanh thải Creatinine từ 10-62 ml/phút /1,73m2. Omeprazole có khuynh hướng tương tự như những người tình nguyện khỏe mạnh tuy nhiên khả dụng sinh học có tăng chút ít.

Do bài tiết qua nước tiểu là con đường đào thải cơ bản các chuyển hóa của Omeprazole nên sự đào thải Omeprazole tỷ lệ với tốc độ thanh thải creatinine. Đối với người già, tốc độ đào thải Omeprazole giảm chút ít trong khi tác dụng sinh học tăng.

ĐỘC TÍNH

Các trường hợp gây ung thư, biến đổi gen di truyền và suy giảm khả năng sinh sản:

Trong 2 thí nghiệm 24 tháng về khả năng gây ung thư trên chuột, liều lượng Omeprazole uống hàng ngày là 1.7, 3.4, 12.8, 44.0 và 140.8 mg/kg/ngày sinh ra những tế bào Calciroid ECL ở dạ dày phụ thuộc vào liều lượng ở cả chuột đực lẫn chuột cái, tỷ lệ mắc phải là cao hơn đáng kể ở chuột cái, là giới có mức trong máu cao hơn Calciroid ECL dạ dày hiếm khi xảy ra ở chuột không điều trị Omeprazole xảy ra sự tăng sản lượng tế bào ECL ở tất cả các nhóm điều trị của 2 giới tính.

Omeprazole không gây đột biến ở thí nghiệm Ames Salmoella Typhimurium trong ống nghiệm, thí nghiệm tế bào u lympho trong ống nghiệm, thí nghiệm sai lạc nhiễm sắc thể tủy xương trên cơ thể sống. Kết quả nghiên cứu vi nhân ở mức 2000 lần liều lượng cho người với những lần lấy mẫu khác nhau (trong điều kiện tốt nhất) vẫn cho kết quả âm tính.

Ở thí nghiệm về khả năng và quá trình sinh sản ở chuột, Omeprazole trong vùng liều lượng từ 13,8-138 mg/kg/ngày là không độc và không có hại đến quá trình sinh sản của bố mẹ.

CHỈ ĐỊNH

Điều trị ngắn hạn với loét tá tràng hoạt động.

Viên nang Omeprazole được chỉ định điều trị ngắn hạn cho loét tá tràng hoạt động. Đa số các bệnh nhân điều trị trong 4 tuần. Một số bệnh nhân đòi hỏi điều trị thêm khoảng 4 tuần.

Không nên sử dụng Omeprazole như một trị liệu thường xuyên để điều trị bệnh nhân loét tá tràng.

Bệnh viêm thực quản dạ dày trào ngược (GERD) và viêm loét thực quản nặng.

Viên nang Omeprazole chỉ định điều trị ngắn hạn (từ 4 -8 tuần). Bệnh viêm thực quản dạ dày trào ngược hiện tượng (GERD) mà những điều trị y tế thông thường kém hiệu quả thường gồm 1 quá trình tích hợp điều trị kháng histamine thụ cảm H2.

Chưa xác định tính hiệu quả của việc điều trị Omeprazole lâu hơn 8 tuần ở những bệnh nhân này, trong số ít trường hợp mà sau 8 tuần điều trị bệnh nhân không đáp ứng thuốc thì có thể điều trị thêm 4 tuần. Nếu lại xảy ra hiện tượng GERD hoặc năng mà điều trị y tế thông thường kém hiệu quả thì nên cân nhắc điều trị phụ thêm từ 4 -8 tuần.Thuốc này không được sử dụng như một điều trị thường xuyên tình trạng tăng tiết bệnh lý. Viên nang Omeprazole được chỉ định cho điều trị dài hạn tình trạng tăng tiết bệnh học (hội chứng Zollinger – Ellison, u tuyến đa nội tiết và u tế bào bón hệ thống (Systemic Mastocytosis).

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Chống chỉ định Omeprazole cho những bệnh nhân được biết và quá nhạy cảm với bất kỳ thành phần nào của công thức này.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Trong nghiên cứu dài hạn (2 năm) trên chuột chỉ ra liều lượng Omeprazole sử dụng làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày. Với những đánh giá nội soi có thể và kiểm tra mô ở những mẫu sinh thiết từ dạ dày người thì không thấy sự nguy hiểm nào khi tiếp xúc ngắn hạn với Omeprazole. Cần thêm những số liệu về con người liên quan đến tác dụng giảm acid hydrocloric dịch vị và tăng tiết dịch vị để loại bỏ khả năng tăng nguy cơ ung thư ở người điều trị dài hạn với Omeprazole.

Đối với trẻ em: Chưa xác lập được tính an toàn và hiệu quả của Omeprazole đối với trẻ em.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Lúc thai:

Chưa có những nghiên cứu đầy đủ ở phụ nữ có thai. Chỉ sử dụng Omeprazole trong thời kỳ mang thai khi mà tác dụng của việc điều trị lớn hơn những nguy hiểm tiềm tàng cho thai nhi.

Lúc nuôi con bú:

Chưa có kết luận Omeprazole được thải qua sữa mẹ hay không. Song do nhiều loại thuốc được thải qua sữa mẹ và do khả năng gây ung thư qua thí nghiệm của Omeprazole trên chuột, nên phải quyết định hoặc là uống thuốc hoặc là cho con bú. Có quan tâm đến tầm quan trọng của thuốc đối với người mẹ.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Omeprazole kéo dài quá trình đào thải Diazepam Warfarin và Phenytoin là những thuốc chuyển hóa bằng con đường oxy hóa ở gan. Thông thường không thấy có tương tác với Theophylline hay Propranaolol, nhưng cũng có một số báo cáo về tương tác với những thuốc mà chuyển hóathông qua hệ sắc tố tế bào P-450 (Cyclosporin, Disulfiram). Nên theo dõi bệnh nhân để xác định có cần thiết phải điều chỉnh liều lượng của những loại thuốc này khi uống cùng với Omeprazole. Do tính chất ức chế sâu và kéo dài sự tiết acid ở dạ dày nên Omeprazole có thể  gây nhiễu cho sự hấp thụ những thuốc mà pH dạ dày là một thông số quan trọng trong khả dụng sinh học của chúng (ví dụ như Ketoconazole, Ampicillin Ester và những muối sắt).

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Nói chung, Omeprazole được dung nạp tốt. Có xảy ra những tác dụng không mong muốn sau ở khoảng 1% bệnh nhân điều trị với Omeprazole: nhức đầu, tiêu chảy, đau bụng, buồn nôn, chóng mặt, ói mửa, nổi ban, bón uất, ho, suy nhược, đau lưng, đầy hơi.

Một số tác dụng phụ khác:

Một số tác dụng phụ khác xảy ra đối với 1% bệnh nhân và đối tượng dùng thuốc trong và ngoài nước, hoặc xảy ra từ khi thuốc được đem ra thị trường, được trình bày dưới đây theo từng hệ. Trong nhiều trường hợp, mối liên hệ với Omeprazole là không rõ ràng.

Toàn thân: Sốt, đau nhức, mệt mỏi, khó chịu, trương bụng.

Tim mạch: Đau ngực hoặc đau thắt, tăng giảm nhịp tim, đánh trống ngực, tăng huyết áp, phù ngoại biên.

Tiêu hóa: Những bệnh về gan bao gồm viêm gan, suy gan (hiếm gặp), tăng ALT (SGPT), tăng lượng AST (SGOT), tăng lượng các chất như g-Glutamyl Transpeptidase, Alkaline Phosphate, chứng vàng da, biếng ăn, kích thích đại tràng (ruột kết), đầy hơi, biến màu phân, bệnh nấm Candidia thực quản, teo màng nhầy lưỡi, khô miệng.

Chuyển hóa chất / dinh dưỡng: Hạ đường huyết, tăng trọng. Cơ bắp: Chuột rút, đau cơ đau khớp, đau chân.

Hệ thần kinh: Rối loạn tâm lý bao gồm trầm uất, nóng nảy, ảo giác, lẩn thẩn, mất ngủ, bồn chồn, run rẩy, mơ màng, lo lắng, mộng mị bất thường, dị cảm, loạn cảm.

Hô hấp: chảy máu cam, đau họng.

Da: Viêm da, nổi ban, phù mạch mề đai, ngứa ngáy, rụng lông tóc, da khô, loạn tăng tiết mồ hôi.

Những cảm giác khác: ù tai, lạ miệng.

Tiết niệu – sinh dục: nhiễm đường tiết niệu, mủ niệu vi mô, tiểu thường xuyên, huyết thanh Creatinine tăng, Protein niệu, tiểu đường, đau tinh hoàn, vú to nơi bệnh nhân nam.

Huyết học: Quan sát thấy chứng giảm bạch cầu hạt ở nam bệnh nhân trên 65 tuổi bị bệnh tiểu đường dùng nhiều thứ thuốc cùng Omeprazole. Mối quan hệ giữa Omeprazole và chứng mất bạch cầu hạt là chưa rõ ràng. Giảm toàn thể huyết cầu, giảm lượng tiểu cầu, giảm bạch cầu trung tính, chứng tăng bạch cầu, thiếu máu do tan máu.

Tỷ lệ mắc hiện tượng y tế ngoại ý ở bệnh nhân trên 60 tuổi là tương tự như ở bệnh nhân 65 tuổi và ít hơn.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Dùng uống

Điều trị ngắn hạn với loét tá tràng hoạt động: Uống 20 mg một lần mỗi ngày. Hầu hết các bệnh nhân lành bệnh sau 4 tuần. Một số bệnh nhân có thể cần thêm 4 tuần trị liệu.

Điều trị viêm thực quản dạ dày trào ngược (GERD) và viêm loét thực quản nặng: Uống hàng ngày từ 4-8 tuần, 20 mg/ ngày.

Tình trạng tăng tiết bệnh học: Liều lượng Omeprazole cho những bệnh nhân tăng tiết bệnh học thay đổi theo từng người. Liều khởi đầu đề nghị là 60 mg một lần một ngày. Điều chỉnh liều lượng theo nhu cầu của từng bệnh nhân và nên tiếp tục như chỉ định y tế. Liều tới 120 mg 3 lần/ngày đã được kê. Với những liều hơn 80 mg một ngày nên chia ra để uống. Đã điều trị Omeprazole với một số bệnh nhân có hội chứng Zollinger-Ellison liên tục hơn 5 năm. Không cần thiết điều chỉnh liều dùng với bệnh nhân suy thận, suy gan hoặc người lớn tuổi.

Omeprazole nên uống trước khi ăn.

QUÁ LIỀU

Cho tới nay, chưa xảy ra quá liều do cố ý. Liều lượng đến 360 mg / ngày vẫn chấp nhận được. Chưa có thuốc giải độc đặc trị. Omeprazole liên kết với Protein một cách phổ biến do đó không thể thẩm lọc. Trường hợp dùng quá liều, nên sử dụng những điều trị triệu chứng và hỗ trợ.

BẢO QUẢN

Bảo quản nơi khô mát, tránh ánh sáng

Đảng sâm

Đảng sâm ( 党参 )

Tên khoa học

Codonopsis javanica (Blume) Hook.f. Họ Hoa chuông (Campanulaceae).

Tên khác: Cây đùi gà, ngân đằng, mằn ráy cáy (Tày), co nhả dòi (Thái), cang hô (H’Mông), chi phớ (Dao)

Tên và nguồn gốc

+ Tên thuốc: Đảng sâm (Xuất xứ: Bản thảo tòng tân)

+ Tên khác: Thượng đảng nhân sâm (上党人参), Hòang sâm (黄参),Sư đầu sâm (狮头参),Trung linh thảo (中灵草).

+ Tên Trung văn: 党参 DANGSHEN

+ Tên Anh Văn: 1.Codonopsis pilosula (Franch.) Nannf. [Campanumoea pilosula Franch.]2.Codonopsis pilosula (Frach.) Nannf. Var .modesta (Nannf.) L. T.Shen3.Codonopsis tangshen Oliv.4.Codonopsis tubulosa Kom.5.Codonopsis subglobosa W. W. Smith6.Codonopsis canescens Nannf.+ Tên La tinh: Dược liệu Radix Codonopsis; Đảng sâm Codonopsis pilosula(Franch.)Nannf. nguồn gốc thực vật .

+ Nguồn gốc: Là rể của Đảng sâm thực vật họ Kết cánh (Campanulaceae)

Mô tả

Cây thảo leo có rễ củ hình trụ dài, phân nhánh.

Thân màu lục hoặc pha tím đỏ. Lá mọc đối, hình tim, mép nguyên uốh lượn hoặc hơi khía răng, mặt trên màu lục, mặt dưới màu trắng xám, nhẵn hoặc có ít lông.

Hoa mọc đơn độc ở kẽ lá, màu trắng hoặc hơi vàng, có vân tím ở họng, đài hình đấu, tràng hình chuông mẫu 5, nhị hơi dẹt, bầu tròn, 5 ô.

Quả nang, hình cầu, đầu bẹt, có khía mờ và đài tồn tại, màu tím khi chín; hạt nhiều màu vàng nhạt. Toàn cây có nhựa mủ trắng.

Mùa hoa quả: tháng 10 – 12.

Cây khá đa dạng trong tự nhiên.

Hình ảnh Cây đẳng sâm
Cây đẳng sâm

Phân bố

Trên thế giới, đảng sâm phân bố ở vùng cận nhiệt đới và ôn đới ấm thuộc châu Á và châu Âu, chủ yếu ở châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, các nước Đông Nam Á.

ở Việt Nam, đảng sâm mọc hoang ở các tỉnh miền núi, nhưng tập trung ở Lai Châu, Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Giang, ở miền Nam, cây có ở núi Ngọc Linh và vùng Đà Lạt. Thường gặp ở nương rẫy, ven rừng, bãi bằng ở thung lũng ẩm.

Ở Trung Quốc:

Các vùng đông bắc và Hà bắc, Hà Nam, Sơn Tây, Thiểm Tây, Cam Túc, Nội Mông Cổ, Thanh Hải v.v…

Đảng sâm do vùng sản xuất không giống nhau, có 3 lọai Tây đảng, Đông đảng, Lộ đảng v.v…

Thu hoạch

Mùa thu đào lên, bỏ đi bộ phận trên mặt đất, rửa sạch đất, phơi đến khô 1 nửa, dùng tay hoặc tấm ván gổ xát uốn, làm cho phần vỏ và chất gổ dính chặt, chắc nẩy mềm lướt, sau đó lại phơi khô rồi vò nửa, qua lại 3 ~4 lần, cuối cùng phơi khô là thành.

Bào chế

– Đảng sâm: Sau khi rửa sạch đất cát thấm ướt bỏ mầm, cắt phiến hoặc cắt khúc, phơi khô.

– Sao Đảng sâm: Lấy vỏ trấu bỏ vào trong nồi đun nóng, đến lúc trên nồi bốc khói, cho vào Đảng sâm phiến, trộn sao đến sắc vàng sẩm, lấy ra sàng bỏ vỏ trấu, để nguội. (Mỗi 100 cân Đảng sâm dùng 20 cân vỏ trấu)

Vị thuốc Đảng sâm
Vị thuốc Đảng sâm

Tính vị

– Trung dược học: Ngọt, bình.

– Bản thảo phùng nguyên: Ngọt, bình.

– Bản thảo tái tân: Ngọt, bình, không độc.

Qui kinh

– Trung dược học: Vào kinh Tỳ, Phế.

– Đắc phối bản thảo: Vào khí phận kinh Thủ túc thái âm.

Công dụng và chủ trị

Bổ trung, ích khí, sanh tân.

Trị Tỳ, Vị hư nhược khí huyết đều kém, cơ thể mệt mỏi không có sức, ăn ít, miệng khát, tiêu chảy lâu ngày, thóat giang.

– Bản thảo phùng nguyên: Thanh Phế.

– Bản thảo tòng tân: Bổ trung ích khí, hòa Tỳ Vị, trừ phiền khát.

– Cương mục thập di: Trị Phế hư, ích phế khí

– Thảo dược dân gian khoa học: Thuốc bổ huyết. Thích hợp dùng vào bệnh thiếu máu mạn tính, bệnh nuy hòang, ung thư máu, bệnh bướu giáp, bệnh còi xương.

– Trung dược tài thủ sách: Trị hư lao nội thương, trong trường vị lạnh, họat tả cửu lỵ, khí suyển phiền khát, phát sốt ra mồ hôi, phụ nữ huyết băng, các bệnh thai sản.

Liều dùng và cách dùng

Sắc uống 9 ~ 30g.

Kiêng kỵ

– Trung dược học: Theo “ Dược điển” ghi. Bổn phẩm không nên cùng dùng với Lê Lô.

– Đắc phối bản thảo: Người khí trệ, nộ hỏa thịnh cấm dùng.

Dùng thuốc phân biệt

Nhân sâm và Đảng sâm đều có công bổ Tỳ khí, bổ Phế khí, ích khí sanh tân, ích khí sanh huyết và phù chính trừ tà, đều có thể dùng vào chứng Tỳ khí hư, Phế khí hư, tân dịch thương tổn miệng khát, tiêu khát, huyết hư và khí hư tà thực. Nhưng Đảng sâm tính vị ngọt bình, tác dụng hõan hòa, sức thuốc bạc nhược, cổ phương trị tật bệnh mạn tính và chứng nhẹ ở trên, có thể dùng Đảng sâm gia liều lớn thế Nhân sâm, mà chứng cấp, chứng nặng vẫn nên dùng Nhân sâm. Nhưng Đảng sâm không có công ích khí cứu thóat như Nhân sâm, phàm chứng nguyên khí hư thóat, nên dùng Nhân sâm cấp cứu hư thóat, không thể dùng Đảng sâm thay thế. Ngòai ra Nhân sâm còn giỏi về ích khí trợ dương, an thần tăng trí, mà Đảng sâm tác dụng tương tự không rõ rệt, nhưng kiêm có công bổ huyết.

Đẳng sâm
Đẳng sâm

Nghiên cứu hiện đại

  1. Thành phần hóa học:

– Bổn phẩm hàm chứa sterol, tangshenoside, amylose, codonolactone, alkaloid, nguyên tố vô cơ, amino acid, nguyên tố vi lượng v.v…(Trung dược học).

  1. Tác dụng dược lý:

Đảng sâm có thể điều tiết vận động bao tử, ruột, chống lóet, tăng cường công năng miễn dịch; Đối với 2 lọai quá trình thần kinh ức chế và hưng phấn đều có ảnh hưởng; Saponin(e) Đảng sâm còn có thể hưng phấn trung khu hô hấp; Có tác dụng giáng áp ngắn tạm đối với động vật, nhưng lại có thể làm cho huyết áp thỏ nuôi chóang do mất máu thời kỳ cuối trở lại cao; Có thể làm tăng cao đường huyết thỏ rõ rệt, tác dụng tăng đường huyết của nó với phần đường mà nó chứa có quan hệ; Có thể tăng cao hồng cầu, huyết sắc tố, tế bào lưới động vật; Còn có tác dụng kéo dài và làm chậm suy lão, chống thiếu ô – xy, chống tia v.v…(Trung dược học).

  1. Phản ứng không tốt:

Độc tính Đảng sâm rất thấp, nhưng có báo cáo liều dùng Đảng sâm quá lớn (mỗi tể vượt quá 60 g), có thể gây vùng trước tim của bệnh nhân khó chịu và mạch đập không đều, sau khi ngừng thuốc tự động khôi phục. Lâm sàng từng có báo cáo 1 ca trúng độc Đảng sâm gây tinh thần thất thường và mất tiếng (Trung dược học).

Bài thuốc cổ kim tham khảo

+ Phương thuốc 1:Trị tả lỵ và sinh đẻ khí hư thóat giang: Đảng sâm (bỏ mầm, sao gạo) 2 chỉ, Chích kỳ, Bạch truật (sao), Nhục khấu sương, Phục linh đều 1,5 chỉ, Hòai sơn dược (sao) 2 chỉ, Thăng ma (chích mật) 6 phân, Chích cam thảo 7 phân. Thêm gừng tươi 2 lát sắc, hoặc gia Chế phụ tử 5 phân.

(Bất tri y tất yếu – Sâm Kỳ Bạch truật thang)

+ Phương thuốc 2:

Trị trẻ con nhọt miệng: Đảng sâm 1 lượng, Hòang bá 5 chỉ, tất cả nghiền bột mịn, thổi rắc vào chổ đau.

(Sưu tập nghiệm phương Trung y tỉnh Thanh Hải).

+ Phương thuốc 3:

Sau khi uống 4 tuần dịch Đảng sâm có thể làm cho 60% bệnh nhân bệnh tim mạch vành thể tâm khí hư giảm bớt số lần phát tác đau thắt ngực, giảm nhẹ triệu chứng, rút ngắn thời gian duy trì lâu dài, hoặc cải thiện tâm điện đồ.

(Dược lý và lâm sàng Trung dược, 1994, 1 : 32)

+ Phương thuốc 4:

Dùng Đảng sâm 30 ~ 60g sắc nước, phân 2 lần uống sáng tối, uống liền 5 ngày trong thời kỳ kinh nguyệt, có hiệu quả nhất định đối với xuất huyết tử cung công năng.

(Tạp chí Trung y Triết Giang, 1986, 5: 207)

+ Phương thuốc 5: Lộ Đảng Sâm trị ung thư trực tràng.

– Thành phần: Lộ đảng sâm, Hoàng kỳ mỗi vị 30g; Bạch truật, Phục linh, Hoàng cầm, Sài hồ mỗi vị 9g: Đan sâm, Thục địa, Bạch thược, Đỗ trọng, Câu kỉ tử mỗi vị 15g; Thăng ma 6g.

– Cách dùng: Mỗi ngày 1 thang, sắc nước uống.

– Công hiệu: Điều trị ung thư trực tràng, công năng bổ trung ích khí.

+ Phương thuốc 6: Bướu Limphô dùng Đảng sâm, Liên kiều, Bán chi liên Đảng sâm 30g, Mạch môn 60g, Chích Tỳ bà diệp, Tuyền phúc hoa (gói riêng), Thạch hộc, Cốc mạch nha mỗi vị 10g, Trúc nhự, Trần bì, Ngũ vị tử, Cam thảo mỗi vị 6g, sắc uống.

Tham khảo thêm:

ĐẲNG SÂM

Rễ đảng sâm, thu hái vào mùa thu đông, rửa sạch đất, cắt bỏ đầu rễ và những rễ con, phân loại rễ to và nhỏ để riêng. Phơi nắng hoặc sấy nhẹ cho se vỏ ngoài, lăn cho rễ mềm, rồi phơi hoặc sấy lại cho thật khô.

Dược liệu có mặt ngoài màu nâu nhạt, mặt cắt màu trắng ngà, ở giữa màu vàng, chất cứng chắc, thể nhẹ, có mùi thơm đặc biệt là loại tốt.

Khi dùng, đồ cho rễ mềm, thái mỏng, tẩm nước gừng, sao qua.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Rễ đảng sâm có đường, chất béo, vitamin, các poly- saccharid.

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Đảng sâm có tác dụng bổ toàn thân, hạ huyết áp, kích thích miễn dịch

CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DỪNG

Trong các cây thuốc mang tên “Sâm”, chỉ có đảng sâm có rễ giống hình người và tác dụng như nhân sâm, được y học cổ truyền công nhận dùng thay thế, lại rẻ tiền, dễ kiếm, nên được mệnh danh là “Nhân sâm của người nghèo”.

Theo kinh nghiệm dân gian, nhân dân ở các địa phương có đảng sâm mọc hoang thường đào rễ về, rửa sạch, thái mỏng, hầm với thịt gà ăn cho khỏe, nhất là đối với phụ nữ mới đẻ. Hằng ngày, họ lấy 10 – 30g rễ đã chê biến, sắc hoặc hãm với nước đun sôi như pha trà trong 15-30 phút, để nguội, uống. Nước này có vị ngọt, thơm như thuốc bắc, uống vào thấy dễ chịu, tỉnh táo, sảng khoái, bốt khát, đõ mệt. Chính vì vậy, đồng bào Thái ở Lào Cai và Yên Bái thường dùng nước đảng sâm khi lên rừng, làm nương rẫy, đi đường xa hoặc lao động mệt nhọc.

Trong y học cổ truyền, rễ đảng sâm được dùng chữa suy nhược cơ thể, gầy yếu, kém ăn, háo khát, mệt mỏi, đại tiện lỏng, ho, đau dạ dày, thiếu máu, hoa mắt, miệng lưỡi khô đắng, khí hư, băng huyết, phù nề.

Liều dùng hàng ngày: 20 – 40g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hoặc viên hoàn.

Nhiều dạng thuốc bổ dưỡng cho mọi lứa tuổi, có

thành phần là đảng sâm như Quy tỳ hoàn (thuốc dùng cho người cao tuổi, có 20% đảng sâm), phì nhi hoàn (thuốc cho trẻ em, có 23% đảng sâm)…

Uống đảng sâm lâu ngày không thấy có hiện tượng độc hại.

BÀI THUỐC

  • Chữa cơ thể suy nhược, mệt mỏi, ăn không ngon, đại tiện lỏng: Đảng sâm (125g), thục địa (125g), thái nhỏ, nấu với nước nhiều lần cho kiệt hết hoạt chất. Lọc. Cô thành cao lỏng, thêm 125g mật ong hoặc đường đã nấu thành sirô. Ngày uống 2 – 3 lần, mỗi lần 6 – 10g.

Hoặc đảng sâm (10g), thục địa (20g), thiên môn (30g). Đảng sâm và thục địa thái nhỏ, ngâm với 100ml rượu 35° trong 10-15 ngày. Lọc. Thiên môn thái mỏng, phơi khô, nấu với nước vài lần, lọc, thêm 100g đường kính, rồi cô thành 400ml cao lỏng. Trộn đều cao với rượu. Ngày uống 2 lần, mỗi lần một chén nhỏ trước bữa ăn nửa giờ (Cao rượu tam tài).

  • Chữa bệnh suy yếu ở người cao tuổi, người ốm lâu ngày: Đảng sâm (40g), đương quy, long nhãn, ngưu tất, mạch môn (mỗi vị 12g). Tất cả thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm hai lần trong ngày.
  • Bổ trung ích khí: Đảng sâm (16g), bạch truật (12g), phục linh (8g), cam thảo (4g). Hoặc đảng sâm (16g), bạch truật, hoàng kỳ, đương quy, thăng ma, sài hồ (mỗi vị 12g), cam thảo (6g), trần bì (6g). Phơi khô, sắc uông trong ngày.
  • Thập hoàn đại bổ: Đảng sâm, thục địa, hoàng kỳ, bạch truật, đương quy, nhục quế, bạch thược, xuyên khung, phục linh, cam thảo (mỗi vị 15g).

Các dược liệu tán nhỏ, rây bột mịn trừ thục địa (giã nhuyễn). Trộn đều và luyện với mật ong làm tễ nặng 10g. Ngày uống hai lần, mỗi lần một tễ.

  • Thuốc bổ khí huyết: Đảng sâm (50g), lá dâu (40g), hoài sơn (40g), ý dĩ (30g, sao vàng), thục địa (30g), hương phụ tứ chế (12g), cam thảo nướng (12g), xuyên khung (10g, sao khô), nghệ vàng (10g, sao). Tất cả tán bột, rây mịn, trộn với thục địa đã giã nhuyễn và mật ong lượng vừa đủ để làm tễ 12g.

Ngày uống hai lần. Người lớn: mỗi lần 1 tễ: trẻ em: 3 – 5 tuổi: 1/4 tễ; 6 – 10 tuổi: 1/2 tễ.

  • Cốm bổ tỳ (chữa rối loạn tiêu hóa kéo dài): Đảng sâm, ý dĩ, hoài sơn, liên nhục, bạch biển đậu (mỗi thứ 100g), cốc nha (30g), tán, rây bột mịn.

Sa nhân, nhục đậu khấu, trần bì (mỗi thứ 20g), sắc lấy nước đặc. Trộn nước này với bột thuốc trên và mật ong lượng vừa đủ để làm côm.

Trẻ em từ 1 đến 3 tuổi, mỗi ngày uống 12 – 16g, chia làm 2 lần. Trẻ em lớn hơn, tăng liều tùy theo tuổi.

Chữa ho đờm nhiều, sắc mặt vàng mệt mỏi: Đảng sâm, ý dĩ, hoài sơn (mỗi vị 16g); bạch truật (12g), trần bì, bán hạ chế (mỗi vị 8g); xuyên tiêu (6g). sắc uống ngày một thang.

Huyệt Linh Đạo

Linh Đạo

Tên Huyệt Linh Đạo:

Linh ở đây chỉ công năng của Tâm, Đạo = thông đạo. Huyệt có tác dụng thông khí vào Tâm vì vậy gọi là Linh Đạo (Trung Y Cương Mục).

Xuất Xứ:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính:

Huyệt thứ 4 của kinh Tâm.

Huyệt Kinh, thuộc hành Kim.

Vị Trí huyệt Linh Đạo:

ở mặt trước trong cẳng tay, trên nếp gấp cổ tay 1, 5 thốn.

Giải Phẫu:

Dưới da là khe giữa cơ trụ trước – trong và các gân cơ gấp chung nông các ngón tay ở ngoài, bờ trong gân cơ gấp chung sâu các ngón tay, cơ sấp vuông, xương trụ.

Thần kinh vận động cơ là các nhánh của dây thần kinh giữa và dây trụ.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D1.

Chủ Trị huyệt Linh Đạo:

Khớp cổ tay đau, thần kinh trụ đau, vùng tim đau, hysteria.

Phối Huyệt:

1. Phối Thiên Dung (Tiểu trường.17) + Thiên Đột (Nh.22) trị mất tiếng đột ngột (Tư Sinh Kinh).

2. Phối Thiếu Hải (Tm.5) + Xích Trạch (Phế 5) trị khủy tay sưng (Tư Sinh Kinh).

3. Phối Điều Khẩu (Vị 38) cứu 14 tráng + Hạ Cự Hư (Vị 39) cứu 14 tráng + Kiên Ngung (Đại trường.15) [ cứu 15 tráng] + Ôn Lưu (Đại trường.7) [cứu 14 tráng] + Túc Tam Lý (Vị 36) [cứu 14 tráng], trị vú sưng (Loại Kinh Đồ Dực).

4. Phối Âm Lăng Tuyền (Tỳ 9) + Công Tôn (Tỳ 4) + Gian Sử (Tâm bào.7) + Thái Xung (C.3) + Túc Tam Lý (Vị 36) trị tâm thống (Y Học Cương Mục).

Cách châm Cứu:

Châm thẳng 0, 5 – 0, 8 thốn. Cứu 1 – 3 tráng, Ôn cứu 5 – 10 phút.

Ghi Chú: “Nóng lạnh ở trong xương do hỏa nung nấu, dùng Linh Đạo rất hay”(Trữu Hậu Ca)

Bệnh bạch huyết chữa theo đông y

Bệnh bạch huyết là một bệnh mà khả năng chữa bệnh của y học cổ truyền còn gặp nhiều khó khăn. Tài liệu này giới thiệu phương pháp chữa bệnh của y học cổ truyền có tác dụng hạn chế những biến chứng để kéo dài đời sống của bệnh nhân.

  1. ĐIỀU TRỊ THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN

Căn cứ vào các giai đoạn và thể bệnh trên lâm sàng, bệnh bạch huyết được phân loại và chữa như sau:

Giai đoạn bệnh bạch huyết cấp

Nổi bật có các triệu chứng nhiễm trùng, chảy máu và lách to, các hạch lâm ba nhiều.

  • Thể sốt nhiễm trùng và xuất huyết nhiệt đốc và huyết nhiệt

Triệu chứng: sốt cao, mệt mỏi, ly bì, họng khô đau, phiền táo, đái đỏ, loét miệng, chảy máu chân răng và dưới da đau đầu và đau nhức các khớp, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sắc.

Phương pháp chữa: Thanh nhiệt giải độc và thanh nhiệt lương huyết.

Bài thuốc:

Sinh địa 20 gam Kim ngân hoa 20 gam
Huyền sâm 20 gam Bồ công anh 20 gam
Địa cốt bì 10 gam Xích thược 12 gam
Sơn đậu căn 16 gam Hồ hoàng liên 12 gam
Thăng ma 16 gam Cam thảo 8 gam

Nếu loét miệng, loét họng, loét chân răng, thêm hoàng liên 12 gam, hoàng cầm 12 gam. Nếu chảy máu dùng rễ cỏ tranh 20 gam, đại hoàng sao đen 12 gam. Nếu đau các khớp xương: Thêm địa long 10g. Nếu khát nước nhiều thêm thiên môn 20 gam, sa sâm 20 gam.

Vị thuốc Sinh địa
Vị thuốc Sinh địa
  • Thể gan lách to và nhiều hạch lâm ba huyết ứ và đàm kết

Phương pháp chữa: hoạt huyết hóa đàm, tiêu kết.

Bài thuốc:

Đương quy 12 gam Hạ khô thảo 16 gam
Bạch thược 12 gam Liên kiều 12 gam
Tam lăng 12 gam Bối mẫu 8 gam
Nga truật 12 gam Huyền sâm 16 gam
Đan sâm 6 gam Xạ can 6 gam
Vị thuốc bạch thược
Vị thuốc bạch thược

Nếu trên người bệnh có các triệu chứng: Nhiễm trùng chảy máu, lách to, nhiều hạch lâm ba, cùng xuất hiện một lúc thì sẽ phối hợp haí phương pháp trên lựa các vị thuốc tạo thành bài thuốc để chữa.

Giai đoạn bệnh bạch huyết kéo dài (mạn tính)

Giai đoạn này công năng các tạng tỳ thận bị suy yếu. Tinh khí huyết đều bị tiêu hao biểu hiện hội chứng khí hư và âm hư rõ rệt trên bệnh cảnh lâm sàng.

  • Khí hư

Triệu chứng: sắc mặt trắng bệch, đầu choáng mệt mỏi tự ra mồ hôi hồi hộp, thở gấp, lưng gối mỏi đau, chất lưỡi mạch tế.

Phương pháp chữa: bổ khí

Bài thuốc. Dùng các vị thuốc bổ khí là chính, có thể kèm thêm thuốc ho huyết, các bài thuốc cổ phương như Quy tỳ hoàn, Tứ quân tử thang, Bổ trung ích khí.

  • Âm hư (tinh huyết hư)

Triệu chứng: chóng mặt hoa mắt, chiều hơi sốt nhẹ tâm phiền, miệng mũi chảy máu xuất huyết dưới da, miệng khô, ra mồ trộm, chất lưỡi đỏ, mạch tế sác.

Phương pháp chữa: bổ âm hoặc bổ tinh huyết.

Bài thuốc: dùng các thuốc bổ âm bổ huyết là chính với các bài thuốc như Lục vị địa hoàng thang, Tả quy hoàn để chữa.

  • Khí âm lưỡng hư

Triệu chứng: phối hợp hai chứng khí hư và âm hư tạo nên bệnh cảnh lâm sàng.

Phương pháp chữa:

Bài thuốc:

Có thể dùng bài thuốc sau:

Hoàng kỳ 12 gam Mạch môn 12 gam
Đẳng sâm 16 gam Ngũ vị tử 8 gam
Bạch truật 12 gam Hoàng tinh 12 gam
Thục địa 12 gam Sa sâm 12 gam
Hà thủ ô 12 gam Cam thảo 12 gam
Đương quy 12 gam    
  1. ĐIỀU TRỊ THEO Y HỌC HIỆN ĐẠI

Thể cấp tính

Điều trị khó khăn

Thuốc ức chế phân chia tế bào: Antipein (6mecaptomixin) hoặc antipolic (aminopteren). Các Costicoid và ACTH (phối hợp cơ thể làm lui bệnh từng đợt). Chống nhiễm khuẩn kháng sinh

Chữa triệu chứng

Thể mạn tính

Quang tuyến vào vùng lách, thuốc kìm hãm sự phát triển bạch cầu: clotilamin, GMP, Methotrexat, vincristin. Hai chất này độc, ức chế tủy xương Mylenran ít độc, máu trở lại gần như bình thường viên 2mg ngày uống 1 – 5 viên. Hàng tuần theo dõi bạch cầu để điều chỉnh liều lượng cho thích hợp và ngừng thuốc khi đủ liều.

Chữa triệu chứng

Giảm sốt nếu cần

Chống thiếu máu và chảy máu

Chống nhiễm khuẩn

Nội soi phế quản trong điều trị

Nội soi phế quản là một kĩ thuật xem xét bên trong của khí phế quản nhờ một ống soi bằng kim loại (ống cứng) và ống bằng chất dẻo có dây dẫn sáng bằng sợi thuỷ tinh quang học (ống mềm).

Kĩ thuật nội soi phế quản được Gustave Killian thực hiện lần đầu tiên năm 1897 để gắp một mảnh xương lợn ở phế quản gốc phải của một bệnh nhân bị sặc thức ăn.

  • Ngay ngày đầu thế kỉ 20, kĩ thuật này đã được Chevalier – Jackson áp dụng bằng ống cứng.
  • Gần 70 năm sau, IKEDA (Nhật Bản) đã chế tạo ra ống soi mềm (năm 1967).

Nội soi phế quản dù là ống cứng hay ống mềm đều được xem như kĩ thuật quan trọng trong lâm sàng chẩn đoán bệnh lí phổi – phế quản.

Người ta chia ra 2 lĩnh vực trong nội soi:

  • Nội soi chẩn đoán
  • Nội soi điều trị về phương tiện tuy có khác nhau, nhưng chúng được tôn trọng theo từng bước của quá trình soi

CHUẨN BỊ BỆNH NHÂN

  • Giải thích cho bệnh nhân, mục đích của thủ thuật.
  • Tiến hành tiền tê bằng atropin 1/4 mg 2 ống tiêm dưới da: – Seduxen 10 mg 1 ống (nếu không có chống chỉ định) tiêm bắp.
  • Gây lê tại chỗ hầu họng thanh quản bằng Lidocain 5%
  • Gây mê toàn thân nếu phải gắp dị vật vì cuộc soi kéo dài.

PHƯƠNG TIỆN SOI

  1. Ống soi cứng

Dùng ống kim loại kiểu Chevaliei – Jackson, kích thước với người lớn thường là ống có đường kính 8 – 9 – 10 mm, độ dài 45 – 48 cm.

Nguồn sáng được truyền qua dây mềm bằng sợi thuỷ tinh với nguồn sáng lạnh.

Đây là 2 bộ phận cơ bản cần cho một cuộc soi bằng ống cứng.

Ngoài ra còn có:

T Máy hút áp lực âm để hút các dịch tiết phế quản.

  • Hệ thống dẫn khí oxy và dây dẫn.
  • Các phương tiện để lấy bệnh phẩm (kìm sinh thiết, kim chọc hút, chổi chải phế quản, dung dịch rửa phế quản và các lam kính).
  • Các thuốc và phương tiện chống choáng.
  1. Ống soi mềm

  • Là ống soi được cấu tạo bởi các sợi thuỷ tinh mềm dẫn sáng bằng nguồn sáng halogen hay xenon ở một đầu của ống
  • Có ống dài lm2

Đường kính ống soi có nhiều loại tuỳ theo hãng sản xuất, thường từ 3,5mm – 4,5mm – 5,5mm – 6mm

Tuỳ theo đối tượng nam hay nữ, vóc dáng mà chọn ống cho phù hợp.

  • Nguồn sáng lạnh và hệ thống dẫn sáng bằng sợi Ihuỷ tinh.
  • Màn hình, camera.
  • Các phương tiện lấy bệnh phẩm để xét nghiệm tế bào và tổ chức học bao gồm:

+ Kìm sinh thiết mềm các kiểu vằ các cỡ.

+ Kim chọc hút mềm phần kim loại thường là 1 – 1,3 cm.

+ Lam kính, ống đựng dịch làm xét nghiệm

NỘI SOI CHẨN ĐOÁN

  1. Mục đích

Dựa trên sự biến đổi bất thường của niêm mạc khí, phế quản, các tổn thương loét sùi, chảy máu ở trên đại thể quan sát được phối hợp với phân tích các mẫu bệnh phẩm thu được trong quá trình soi như sinh thiết chọc hút tổn thương bằng kim, dịch hút phế quản để đưa ra chẩn đoán xác định về phương diện tế bào học, tổ chức học và vi khuẩn học.

  1. Chỉ định

  • Ở những bệnh nhân trên lâm sàng và X quang nghi ngờ có u phổi – phế quản (kể cả u lành hay u ác)
  • Ho ra máu chưa rõ nguyên nhân
  • Ho kéo dài, ho khan điều trị không kết quả
  • Nghi ngờ có lỗ rò phế quản
  • Hen phế quản và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
  1. Chống chỉ định

  • Bệnh nhân yếu không chịu đựng được cuộc soi
  • Bệnh nhân không hợp tác với thầy thuốc trong soi
  • Có Tối loạn về cầm máu, đông máu
  • Có tổn thương cột sống cổ (với ống soi cứng là chống chỉ định tuyệt đối)
  • Có biểu hiện bệnh lí của hệ thống tim mạch (rối loạn nhịp, rối loạn dẫn truyền, bệnh cơ tim, như nhồi máu cơ tim)

NỘI SOI ĐIỀU TRỊ

  1. Mục đích

Thông qua thủ thuật nội soi để lấy dị vật phế quản, giải phóng các trướng ngại của đường thở do u, sẹo, polyp của khí phế quản, các chất dịch ùn tắc phế quản.

  1. Chỉ định

  • Các bệnh nhân có triệu chứng sặc dị vật khí -phế quản
  • Các bệnh nhân có triệu chứng của u trong lòng phế quản gây bịt tắc đường thở.
  • Các tổn thương sẹo lồi gây hẹp sau đặt nội khí quản, mở khí quản.
  • Ùn tắc máu, mũi do áp xe phổi vỡ vào phế quản, ứ đọng dịch nhầy và máu sau đặt nội khí quản trong gây mê.
  • Đưa kháng sinh vào điều trị tại chỗ các tổn thương viêm nhiễm.
  • Gây tắc phế quản chọn lọc trong trường hợp ho máu nặng, hoặc tràn khí màng phổi tái phát.
  1. Các kĩ thuật được sử dụng trong nội soi điều trị

Lấy dị vật phế quản

Thường dùng ống soi cứng vì có ống soi lớn có thể quan sát và lấy dị vật dễ dàng, đôi khi cũng sử dụng ống mềm với các dị vật nhỏ hơn.

Kĩ thuật laser

Laser là chữ viết tắt của cụm từ tiếng anh: (Light Amplipication by Stimulated emission of Radiation)

Có 2 áp dụng của laser trong điều trị:

Photoradiation (sử dụng ánh sáng do laser phát ra để điều trị)

Phương pháp này có 2 bước:

+ Bước 1: Đưa vào tĩnh mạch của bệnh nhân một lượng hematoporphyrin làm cho tổ chức u dễ nhạy cảm với ánh sáng.

+ Bước 2: Đặt lên trên khối u nguồn laser với bước sóng 630 nanomet.

Các tế bào u, dưới tác dụng của các gốc tự do do laser tạo ra gây độc với tế bào u, khối u sẽ bị huỷ. Phương pháp này được áp dụng cho các khối u nhỏ.

Phương pháp cắt bằng laser

  • Dùng nguồn laser có đầu phát tia hồng ngoại đi kèm để hướng cho nguồn laser đi đúng hướng.
  • Dưới tác dụng của nguồn năng lượng cao do laser tạo ra để cắt các khối u lồi vào trong lòng phế quản. Tổ chức u dưới tác dụng của laser sẽ biến thành khói và hơi nước vì vậy phải có máy hút để dẫn lưu khói và nước cùng các chất dịch nhầy phế quản.

Biến chứng: vào khoảng 5 – 10%: Bỏng, chảy máu, thủng khí phế quản.

Áp lạnh (cryotherapie)

  • Áp dụng lần đầu tiên năm 1975.
  • Nguồn lạnh là nitơ lỏng ở nhiệt độ – 70°
  • Thời gian áp 10 – 15 phút tại khối u
  • Kĩ thuật này được sử dụng đối với các u phế quản ở gần, ở khí quản, làm đông các tế bào u, khối u hoại tử và được thải ra ngoài khi ho.
  • Tia xạ chọn lọc (endobrachioiherapie)
  • Người ta đưa qua ống soi vào tổ chức u một dây dẫn có gắn một nguồn phóng xạ.
  • Liều đầu tiên 50 giây.
  • Nguồn phóng xạ hay sử dụng là irridium 192 và cho áp tại u 10 – 15 phút sau đó rút sonde ra. Kĩ thuật này được áp dụng cho các u ở khí phế quản gần.

ENDOPROTHESE

Đây là phương pháp mới được áp dụng vào những năm 70. Bằng cách đưa vào trong khí phế quản một ống bằng chất dẻo, cứng, giữ cho lòng khí phế quản thông thoáng, tránh sự xâm lấn của tổ chức sùi hay tổ chức u vào lòng khí, phế quản.

  • Chỉ định:
  • Các sẹo lồi khí phế quản sau khi đã được sửa bằng laser hay áp lạnh.
  • Các khối u sùi ác tính đã được loại bỏ và chờ đợi phương pháp điều trị khác (hóa chất hay tia xạ) trong khi thể trạng bệnh nhân còn tốt.

Rửa phế quản (lavage)

  • Kĩ thuật này được Ramirez áp dụng đầu tiên ở những bệnh nhân bị protein phế nang.
  • Thường sử dụng ống mềm
  • Lượng dịch rửa từ 5 đến 10 lít mỗi lần.

Chỉ định:

+ Các nhiễm khuẩn mủ phế quản + Áp xe phổi vỡ vào phế quản + Hội chứng trào ngược Mendenson + Hen phế quản có ùn tắc dịch nhầy các phế quản.

Fortrans

Thuốc-Fortrans
Thuốc-Fortrans

FORTRANS

BEAUFOUR IPSEN

Bột pha dung dịch uống: hộp 4 gói, hộp 50 gói.

THÀNH PHẦN

cho 1 gói
Macrogol 4000 64 g
Sodium sulfate khan 5,7 g
Bicarbonate sodium 1,68 g
Sodium chlorure 1,46 g
Potassium chlorure 0,75 g
Tá dược: saccharine sodium, hương vị trái cây.

DƯỢC LỰC

Thuốc được dùng ở dạng dung dịch uống, pha với một lượng nước nhiều, sẽ gây tiêu chảy đảm bảo tháo rỗng đại tràng.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Chất Macrogol 4000 (Polyethyleneglycol 4000) trong công thức không được hấp thu. Chất điện giải trong công thức làm cho dung dịch uống vào không gây trao đổi điện giải giữa ruột và huyết thanh.

CHỈ ĐỊNH

Rửa đại tràng, chuẩn bị cho :

  • Các thăm dò về nội soi, X
  • Phẫu thuật đại tràng.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

  • Tổng trạng suy yếu như: Tình trạng mất nước hay suy tim nặng.
  • Bệnh đại tràng làm cho niêm mạc ruột suy yếu nặng, ung thư đại tràng tiến triển.
  • Tắc ruột hay liệt ruột.
  • Chống chỉ định ở trẻ em do chưa có kết quả nghiên cứu thích hợp.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Ở người già tổng trạng suy yếu, chỉ nên dùng khi có sự theo dõi của Bác sĩ.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Tiêu chảy do uống Fortrans có thể gây rối loạn hấp thu đáng kể những thuốc uống cùng lúc.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Buồn nôn và nôn có thể xảy ra lúc mới bắt đầu uống thuốc, sẽ giảm đi khi tiếp tục uống thuốc. Đôi khi có cảm giác chướng bụng.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Liều lượng :

Mỗi gói được hòa tan trong 1 lít nước. Số lượng dịch cần thiết để gây tiêu chảy nước trong là 3 đến 4 lít.

Cách dùng :

Dùng đường uống.

Mỗi gói được hòa tan vào một lít nước uống. Nếu phẫu thuật thực hiện vào buổi sáng, thì dung dịch được uống trong buổi chiều ngày hôm trước. Nếu phẫu thuật vào buổi chiều, thì dung dịch được uống trong cùng ngày và phải uống xong trước khi mổ 3 giờ. Cần uống ba đến bốn lít dung dịch để đảm bảo rửa thật sạch ruột. Trong mọi trường hợp, bệnh nhân phải tuân thủ theo đúng toa thuốc của Bác sĩ.

Chụp cắt lớp vi tính (CT) và ghi hình cộng hưởng từ hạt nhân (MRI)

Trong chẩn đoán bệnh ở hệ thần kinh trung ương, có nhiều kỹ thuật ghi hình được sử dụng. Trong đó có hai kỹ thuật đã trở nên quen thuộc: chụp cắt lớp xử lý vi tính (Computed Tomography – CT) và ghi hình cộng hưởng từ hạt nhân (Magnetic Resonance Imaging – MRI). Trong cuôn “Bệnh lý Ngoại khoa thần kinh” chúng tôi biên soạn năm 1988, có một chương ngắn nói về CT nhưng lúc đó trong nước ta chưa có loại máy này [1]. Nay tại nhiều cơ sở y tế nước ta đã có máy CT và MR] , hòn nữa cũng đã có đơn vị được trang bị máy Digital Subtraction Angiography – DSA để làm mạch não đồ theo kỹ thuật khá hiện đại. Vì vậy chúng tôi trình bầy lại một cách ngắn gọn, với mong muốn hệ thống hoá về hai kỹ thuật ghi hình CT và MRI trong lâm sàng, nhất là thuộc lĩnh vực chuyên khoa thần kinh.

CƠ SỞ VẬT LÝ HỌC VÀ TRANG THIẾT BỊ.

Năm 1974, trong một bài đăng trên tờ Radiology, tác giả Ter – Pogossian đã nhận định rằng kỹ thuật chụp quy ước và chụp cắt lớp cổ điển đã không phát hiện nổi một lượng thông tin khá phong phú về Xquang. Tuy là những kỹ thuật tiên tiến, nhưng một sô’ nhà nghiên cứu cho rằng mọi việc trong lĩnh vực ghi hình mới chỉ bắt đầu. Những người lâm sàng như chúng ta dĩ nhiên không thể đứng ngoài cuộc cách mạng đang diễn ra trong lĩnh vực này.

Vì vậy chúng ta cần nắm vững các nguyên lý vật lý học, các công nghệ đã được ứng dụng và cả những mặt còn hạn chế của những kỹ thuật đó, để vận dụng vào việc thuyết minh các kết quả ghi hình càng chính xác càng tốt, để có chẩn đoán phù hợp. Để hiểu biết CT và MRI, thiết nghĩ chúng ta nên điểm lại sơ qua vài nét vê’ Xquang cô điển.

Nguyên lý cơ bản tạo ra hình ảnh khi chụp Xquang cổ điển.

Mục tiêu của chụp Xquang là ghi lại trên một tấm phim (hay biểu hiện trên màn huỳnh quang) những khác biệt về mật độ, về hình thái của các cấu trúc khác nhau bên trong cơ thể bệnh nhân. Để đơn giản hoá, ta xem hình 12 thể hiện một chùm tia X xuyên qua một “mô hình” bệnh nhân, dưới dạng một hình chữ nhật bao bọc chung quanh bởi một cấu trúc khác đồng nhất. Khi tia X xuyên qua bệnh nhân nó bị giảm năng lượng, nghĩa là bị hấp thu và bị tán xạ bên trong cơ thể bệnh nhân. Năng lượng giảm nhiều hay ít, còn tuỳ tính chất của mô nó xuyên qua và cường độ của chùm tia. Sau cùng chùm tia đi tới nơi tiếp nhận nó và ở đó nó sẽ được ghi lại hay được “phát hiện”. Trong hình 12, sơ đồ về cường độ tia X đã được ghi lại, cụ thể là lượng tia phát ra ban đầu và lượng tia đên được nơi tiếp nhận sau khi bị hấp thu.

Mỗi điểm ở nơi tiếp nhận sẽ tương ứng với lượng tia đã hấp thu và tán xạ trên đường đi xuyên qua cơ thể bệnh nhân. Ta cần lưu ý sơ đồ hai chiều đó thực ra là cả một tập hợp các sơ đồ về năng lượng đã bị hấp thu ở những mức độ rất khác nhau khi đi xuyên qua cơ thể bệnh nhân.

CHỤP XQUANG CỔ ĐIỂN

Chụp Xquang cổ điển là ghi lại trực tiếp trên phim sự phân bô’ năng lượng bằng những khu vực mật độ hình ảnh tương ứng. Đó chính là mặt hạn chế chủ yếu của kỹ thuật ghi hình này, vì chúng ta biết cơ thể bệnh nhân được cấu tạo bởi những cấu trúc và mô có mật độ rất khác nhau được phân bố một cách rất phức tạp, chồng chất lên nhau. Mỗi chùm tia xuyên qua cơ thể bệnh nhân, đến tâm phim đã ghi lại hình ảnh nhiều câú trúc chồng chất lên nhau (the superim position effect), nghĩa là chư vi này giao thoa với bóng hình kia. Hậu quả là trên phim chỉ thấy được hình ảnh cấu trúc nào đã hấp thu nhiều tia nhất, ví dụ khi chụp phổi, rõ ràng là nhiều hình ảnh bị hình tim, và hình các xương sườn chẳng hạn che lấp mất. Để khắc phục nhược điểm đó, ta thường chụp tư thế thẳng, nghiêng và có khi chếch 3/4.

Khi chụp Xquang cổ điển, có hiện tượng tán xạ và ta sử dụng các tấm tiếp nhận phi tuyến, và đó lại là thêm một nguyên nhân nữa làm giảm chất lượng hình ảnh. Vì vậy, để khắc phục trở ngại đó, người ta đã dùng các tấm lưới khử tán xạ (scatter eliminating grids). Và như vậy tán xạ đã được loại trừ 95% đến 98% tuỳ theo cơ thể bệnh nhân to béo hay gầy ôm, và tuỳ theo tấm lưới thưa hay dầy đặc. Nhưng trong thực tế các mô trong cơ thể chỉ khác biệt rất ít vể độ cản quang, ví dụ chất xám và chất trắng ở não chỉ khác nhau 0,5%, do đó chỉ một mức độ tán xạ rất nhỏ cũng đủ cản trở việc ghi hình vói những chi tiết chỉ khác biệt ở mức độ tế nhị như vậy. Khi sử dụng các tấm tiếp nhận phi tuyến các cấu trúc có Cs nhỏ sẽ được thể hiện trên tấm tiếp nhận đó với mật độ hình ảnh giảm đi nhiều. Hình 15 mô tả hiện tượng này bằng đường biểu diễn H & D. Độ cản quang trên phim đơn giản chỉ là độ chếch của đường cong H & D mô tả những mức độ cản quang khác nhau trên phim. Ta chú ý độ cản quang tối ưu của phim tương ứng với đoạn giữa của khoảng tuyến tính, hay nói cách khác là độ đen trắng trên phim tỷ lệ thuận với mật độ các cấu trúc trong cơ thể. Trong khi chụp, nếu chọn các yếu tố điện không phù hợp với khoảng tuyến tính của đường cong H & D, ảnh sẽ trắng quá hay đen quá và khó sử dụng cho chẩn đoán. Đường cong H & D biểu hiện bản chất vật lý của quá trình tương tác bức xạ tia X với hình ảnh ghi được trên phim, về mặt toán học, đường cong 3B là kết quả vi phân của đường cong tích phân 3A. về mặt vật lý, đường cong 3B biểu thị sự phân giải, hay sự rõ nét của hai hình ảnh ghi được. Sự phân giải là khả năng tách hai điểm gần nhau của ảnh, ở đây là độ tương phản của ảnh âm bản lưu lại trên phim.

Trong kỹ thuật Xquang cổ điển còn một vấn đề nữa cần lưu ý: dù chúng ta đã chọn các yếu tố điện tối ưu (kilovolts và milliamperes) đối với một cấu trúc trên bệnh nhân, hình ảnh ghi nhận được của cấu trúc đó trên phim hay trên màn huỳnh quang, cũng chỉ ở mức độ thấp. Trong máy CT, nhò sử dụng những bộ máy dò tách sóng tuyến tính (linear detectors) và xử lý bằng vi tính, người ta có thể phát huy đến mức tối đa khả năng thể hiện sự tương phản trắng – đen của các tia ca tốt hiện đại nhò các bộ phận theo dõi (modern cathod ray tube monitor). Đó là kỹ thuật mở cửa sổ (windowing). Ví dụ ta chọn các yếu tố điện để chụp theo các thông Số ở B trong hình 15, ta có thể ghi hình tương phản DB, nhưng cũng có thể ấn định bất kỳ trị sô’ nào trong toàn bộ bậc thang trắng – đen tuỳ theo ý muốn.

Tóm lại, Xquang cổ điển có những nhược điểm chính sau đây:

  1. Sự chồng chất các dữ kiện 3 chiều lên nhau để ghi hình, trở thành các dữ kiện hai chiều, và đã bỏ sót, không thể hiện nổi các cấu trúc giải phẫu có độ tương phản cản quang thấp.
  2. Hiện tượng tán xạ đã làm lu mờ các cấu trúc giải phẫu có độ tương phản cản quang thấp.
  3. Các tấm phim tiếp nhận tia phi tuyến hạn chế khả năng biểu hiện các tương phản cản quang cao và thấp, người vận hành máy không thể điều chỉnh mức độ tương phản cản quang.

CHỤP CẮT LỚP CỔ ĐIỂN

Chụp cắt lớp nhằm hạn chế hiện tượng chồng chất các hình ảnh ba chiều để chuyển thành hai chiều. Nguyên tắc được áp dụng là di chuyển bóng phát tia X và tấm phim, sao cho mối tương quan của chúng khiến hình ảnh các cấu trúc trong cơ thể bệnh nhân bị mờ đi. Tuy nhiên có một mặt phẳng trong cấu trúc giải phẫu của bệnh nhân vân giữ được mối liên quan thích hợp với tấm phim nên hình ảnh ghi được không bị mờ. Như vậy chiều thứ ba trong không gian (tương ứng với bề dầy cơ thể .bệnh nhân) đã bị bỏ qua mà chỉ có một mặt phẳng được ghi hình với đầy đủ độ tương phản và với ranh giới rõ ràng. Tuy nhiên hiện tượng tán xạ vẫn còn đó và vẫn là một hạn chế trong hệ thống phi tuyến. Các mặt hạn chế của kỹ thuật chụp cắt lớp cổ điển có thể tóm tắt như sau:

  1. Các mặt phẳng ta không muốn ghi hình vẫn không bị làm mờ hẳn đi được. Các mặt phang ở gần lớp cắt sẽ ảnh hưởng đến hình ảnh ta muốn ghi nhiều hơn các mặt phẳng xa lớp cắt.
  2. Ngay tại lớp cắt vẫn có một Số chi tiết bị mờ vì theo lý thuyết chỉ một lớp cực kỳ mỏng được xác định làm mục tiêu để ghi hình rõ. Nhược điểm này có thể được khắc phục một phần bằng cách chụp cắt lớp mỏng (thin section tomography). Hình ảnh ngay trong lát cắt có thể bị mờ do máy rung khi vận hành.
  3. Tuy những cấu trúc không muốn ghi hình sẽ mờ đi, nhưng chúng vẫn tạo ra một cái nền như sương mù, vì vậy nó làm giảm độ tương phản cản quang ngay trên lát cắt ta đã chọn để ghi hình.
  4. Do toàn bộ một khu vực của cơ thể bị chiếu tia nên sản sinh ra một lượng tán xạ lớn có hại cho bệnh nhân.

CHỤP CẮT LỚP XỬ LÝ BANG VI TÍNH (CT)

CT là kỹ thuật chụp Xquang cắt lớp mà các kết quả được xử lý bằng vi tính: Computed Tomography.

Các nguyên tắc hoạt động chính của CT như sau:

  1. Dùng một chùm tia X mỏng, xoè như cái quạt, chỉ quét một lớp mỏng để tránh hiện tượng chồng chất hình ảnh.
  2. Hạn chế tán xạ xuống mức tối thiểu bằng cách nắn các tia thành song song trong những khôl tương đối mỏng.
  3. Sử dụng các bộ máy dò, tách sóng tuyến tính, với chức năng mở cửa sổ nhờ máy vi tính.

Thành cồng trong chẩn đoán ở đây, là ghi lại hay truyền đạt thật tốt các thông tin và sự phân bố” các cấu trúc khác nhau trong cơ thể bệnh nhân. Trong Xquang cổ điển, chùm tia sau khi xuyên qua cơ thể bệnh nhân được ghi lại trực tiếp trên phim có kết hợp với tấm tăng quang. Nhưng hình ảnh ghi được không đạt chất lượng do hiện tượng chồng chất hình ảnh như đã đề cập trên đây. Hình ảnh lý tưởng là sự tổng hợp từng điểm một trong cấu trúc cơ thể đã có tia X xuyên qua.

CT là kỹ thuật cố gắng hoàn thiện cách ghi hình theo hướng đó bằng những lát cắt phẳng và mỏng (slices) của bộ phận cần chụp. Lát cắt đó có bề dầy z trong 16, chùm tia X chỉ đi qua một lớp mỏng đó, do đó hiện tượng chồng chất hình ảnh và tán xạ được hạn chế đến mức tối thiểu nhưng vẫn không bị loại trừ hẳn. Đặc tính các cấu trúc trong lát cắt được biểu diễn thành từng ô gọi là yếu tố (elements) có kích thước X và Y như trong hình 16, đó là yếu tố hình ảnh (pixel = picture element).

Pixel có bề dầy z, nên được gọi là yếu tố khối lượng (voxel = volume element). Trong thực tế, một lát cắt là sự thể hiện một ma trận (matrix array) của các pixel. Hãng EMI, một tổ hợp công nghiệp đa quốc gia chuyên về đồ chơi và nhạc cụ điện tử, là nhà sản xuất đi đầu chê tạo máy CT trên thê giới vào đầu thập niên 70, đã chia ma trận một lát cắt thành 80 X 80 ô có diện tích 3×3 mm với z = 13 mm. Đó là máy CT thế hệ đầu tiên. Các máy CT hiện nay có 256 X 256 hay có khi 512 X 512 ô với z < 1 mm. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp Số lượng pixels không phải là điều quyết định chất lượng các thông số’ mà chính là mỗi pixel phản ánh thông tin về bao nhiêu diện tích và khôl lượng trong cơ thể bệnh nhân.

  • Chỉ số suy giảm (attenuation) và algorithm

Đặc tính của các mô phản ảnh trong mỗi pixel chính là khả năng làm suy giảm tia X (attenuation) của mô đó. Có thể hiểu sự suy giảm là lấy bớt photons của chùm tia X. Sự suy giảm là do các mô hấp thu tia X và hiện tượng tán xạ. Khả năng làm suy giảm chùm tia của các mô rất khác nhau và bị chi phối bởi số” lượng nguyên tử và mật độ của mô đó. Chỉ số suy giảm đó (attenuation coefficient) thường được đánh sô’ để thể hiện mức độ cản quang, ví dụ độ cản quang của xương là + 1000 (mầu trắng trên phim), không khí là – 1000 (mầu đen trên phim). Các con số’ trung gian giữa +1000 và – 1000 tạo thành thang Hounsfield. Cách gọi này là nhằm tôn vinh kỹ sư Geoffrey N. Hounsfield làm việc trong tổ hợp EMI, tại Midlesex thuộc nước Anh, người đã phát minh máy CT năm 1972. Thông thường người ta gọi các trị Số trong thang Hounsfield là “trị Số CT” (CT numbers). Để có ý niệm bằng cách nào định được trị Số CT trong mỗi pixel, ta lấy ví dụ trong hình 17. Ma trận 3×3 chứa đựng 9 pixels, mỗi pixel có khả năng làm suy giảm tia X chưa được xác định. Nếu tia X đi theo chiều A, cuối cùng ta xác định được con số’ 12, là trị số có được khi tổng hợp các mức độ suy giảm tia X sau khi đã xuyên qua tất cả các pixels dọc đường đi của nó. Các tia đi theo hướng B và c cho các trị số 7 và 4. Sau đó ta chiếu tia X theo các hướng D, E và F thẳng góc với các hướng trước đó và có được các trị Số 9,8 và 6. Khi tổng hợp các kết quả trên đây ta đã có thể tái tạo các trị Số của các pixels đó. Trong trường hợp một ma trận 512 X 512 khi chùm tia quét đủ một vòng quanh đầu, ta hình dung khối lượng tính toán mà máy vi tính cần thực hiện để có thể tái tạo hình ảnh. Mô hình tính toán đó được gọi là algorithm.

Trong máy CT thế hệ thứ nhất (máy EMI Mark I) chùm tia X phát ra chỉ nhỏ như cái bút chì và mỏng, nó xoay vòng tròn 180° bằng cách nhích đi từng độ một. Vì vậy thực hiện một lát cắt cần đến 5 phút rưỡi – 6 phút, trong thời gian đó đầu bệnh nhân khó lòng mà bất động, nên hình ảnh thường bị mò.

Trong các máy CT thế hệ thứ hai số lượng chùm tia X như cái bút chì tăng lên 3, rồi 10, vê sau lên 20. Nhờ vậy thực hiện một lát cắt chỉ còn kéo dài không đến 20 see. Máy CT thế hệ thứ ba có chùm tia X xoè rộng như cái quạt bao trùm cả đầu bệnh nhân và đổi diện với bộ máy dò, trong các máy hiện đại có tới 600 bộ máy dò được bố trí như vậy, nên một lát cắt chỉ kéo dài vài see.

  1. GHI HÌNH CỘNG HƯỞNG TỪ HẠT NHÂN

Mười năm sau khi máy CT ra đời, kỹ thuật ghi hình dựa trên hiện tượng cộng hưởng từ hạt nhân bắt đầu được dùng để giúp chẩn đoán bệnh năm 1982. Mọi việc bắt nguồn từ giải Nobel vật lý học tặng cho Bloch và Purcell vì đã phát minh hiện tượng cộng hưởng từ hạt nhân năm 1952. Nhưng thực ra còn phải chò thêm 20 năm sau đó, Larturbur (1973) mới chứng minh các thông tin trong không gian có thể mã hoá trong một tín hiệu cộng hưởng từ hạt nhân.

Ghi hình cộng hưởng từ hạt nhân (Magnetic Resonance Imaging – MRI) dựa trên cơ sở vật lý học hoàn toàn khác so với CT. Tuy nhiên CT và MRI hoạt động theo cùng một nguyên tắc: một chùm năng lượng phóng xạ được phát xuyên qua cơ thế bệnh nhân và khi chùm năng lượng đó ra khỏi cơ thể nó được ghi lại bằng bộ máy dò. Trong MRI năng lượng phóng xạ là tần số vô tuyến điện, trái lại trong CT năng lượng đó là tia X. Cũng như trong CT, phần năng lượng máy dò ghi được phụ thuộc vào nhiều thông số khác nhau của các mô. MRI ghi hình được sự khác biệt cản quang rất nhỏ là điều mà CT không làm nổi. So với chụp cắt lớp cô điên CT là một tiến bộ lớn, nhưng MRI còn là một tiến bộ lớn hơn nữa nếu so với CT. Cơ sở vật lý học của MRI là quá trình cộng hưởng từ hạt nhân gồm có 4 giai đoạn:

Sắp hàng hạt nhân, để chuẩn bị (preperatory alignement)

Kích thích hạt (excitation)

Ghi nhận tín hiệu (signal detection)

Tạo hình ảnh   (image generation)

Sơ đồ cấu hình một máy MRI được thể hiện trong hình 19 (Xem ghi chú về các loại nam châm ở cuối bài).

  • Sắp hàng hạt nhân

Mọi vật chất đều cấu tạo bởi phân tử và nguyên tử. Trong nguyên tử có hạt nhân gồm một số protons và neutrons. Do mỗi hạt nhân có đặc tính spin (xoay) nên tạo ra một từ trường quanh nó: mômen từ (magnetic moment). Ngoài chuyển động chung quanh hạt nhân, electron còn tham gia chuyển động riêng, liên quan đến sự vận động nội tại của electron (inherent spin). Trong một hạt nhân, nếu Số lượng protons và neutrons đều chẵn (even – even nucleus), mômen từ spin = 0. Trái lại các hạt nhân có Số lượng protons và neutrons đều lẻ (odd – odd nucleus) có từ trường mạnh hơn nhiều và thích hợp để ghi hình nhất, như hạt nhân hydrogen có nhiều trong cơ thể dưới dạng nước. Ta hiểu ngay MRI nhậy cảm hơn CT nhiều , vì thành phần nước trong các mô khác nhau rất nhiều, trái lại khả năng làm suy giảm tia X của các mô không có độ chênh lệch nhiều như vậy. [2]

Những vấn đề chính trong giai đoạn sắp hàng hạt nhân có thể tóm lược như sau:

  1. Mỗi hạt nhân trong môi trường vật chất đều có một mômen từ tạo ra bởi spin nội tại của hạt nhân đó.
  2. Các hạt nhân đều sắp xếp một cách ngẫu nhiên và từ trường của chúng triệt tiêu lẫn nhau, do đó không có từ trường dư ra để có thể ghi nhận được.
  3. Khi có một từ trường mạnh tác động từ bên ngoài, các mômen từ của hạt nhân sẽ sắp hàng song song với hướng của từ trường (parallel) hoặc song song ngược lại (antiparallel), ngoài ra chúng còn chuyển động dần chung quanh hưống của từ trường bên ngoài đó.
  4. Các vectơ từ hạt nhân sắp hàng song song cùng chiều với hướng từ trường bên ngoài có số lượng lớn hơn các vectơ từ hạt nhân sắp hàng ngược chiều và chúng không thể triệt tiêu nhau hết. Do đó có mạng lưới từ hoá theo hướng của từ trường bên ngoài.
  5. Các vectơ tạo ra hiện tượng từ hoá chủ yếu theo hướng của từ trường bên ngoài. Đó là trạng thái cân bằng (relaxed state) (hình 20)
  6. Trong trạng thái cân bằng không có một tín hiệu nào có thê được ghi nhận. Khi trạng thái cân bằng đó bị xáo trộn sẽ có tín hiệu được hình thành.

Có một hiện tượng cần chú ý. Khi có từ trường tác động từ bên ngoài, không những các vectơ từ hạt nhân xếp hàng song song mà còn chuyển động quanh từ trường đó. Mối tương quan của tần sô’ chuyển động đó với từ trường bên ngoài tác động vào được thể hiện bởi phương trình Larmor:

K=KB0

Trong đó B0 là độ lớn của từ trường bên ngoài, K là hằng Số riêng cho mỗi hạt nhân (gyromagnetic ratio constant). K của hydrogen là 42,56 mHz (megahertz) cho một Tesla. Tesla là đơn vị sức mạnh từ trường, một Tesla = 10.000 gauss. Từ trường tự nhiên quanh trái đất đạt khoảng 0,5 gauss.

  • Kích thích hat nhân

Độ lớn của mạng lưới từ hoá liên quan với Số lượng hạt nhân hydrogen có trong một khối lượng mô (proton density). Hướng của mạng lưới từ hoá có thể bị lệch đi khi ta bổ sung năng lượng bằng một xung tần Số vô tuyến thích hợp (RF = Radiofrequency pulse). Năng lượng bổ sung đó sẽ đẩy các véctơ từ hoá ra khỏi cách sắp hàng tạo ra bởi từ trường ban đầu.

Khi RF kết thúc, các proton hydrogen sẽ trở lại sắp hàng theo hướng của từ trường bên ngoài, đồng thời phóng thích năng lượng đã dùng để đẩy chúng ra khỏi cách sắp hàng ban đầu. Tốc độ các proton trở về cách sắp hàng ban đầu phụ thuộc vào năng lượng được phóng thích. Ta tạm gọi hiện tượng này là khôi phục từ tính theo chiều dọc (longitudinal relaxation). Thời gian cần thiết cho 63% vectơ khôi phục từ tính theo chiều dọc được gọi là Tl (longitudinal relaxation time).

Có một hiện tượng khôi phục từ khác xẩy ra theo mặt phẳng ngang chung quanh trục của từ trường. Vectơ từ hoá theo mặt phẳng ngang là tổng của những hạt nhân chuyển động theo những tần số hơi khác nhau nhưng lại cùng chịu ảnh hưởng của xung RF (hiện tượng cô’ kết = coherence). Độ lớn của vectơ từ trường ngang và tín hiệu nó tạo ra giảm đi khi các hạt nhân xoè ra trong măt phẳng ngang (loose coherence). Thời gian cần để có 63% loose coherence hay khôi phục từ tính theo chiều ngang gọi là T2 (transverse relaxation time).

 

Cần nhấn mạnh tín hiệu ghi nhận trong MR (magnetic resonance) bao giờ cũng phụ thuộc hoàn toàn vào mức độ từ hoá theo chiều ngang. Có thể nói Tl là thời gian để khôi phục 63,2% hiện tượng từ hoá theo chiều dọc, và T2 là thời gian cần để giảm tín hiệu xuống bằng 36,8% trị Số ban đầu của nó. Con Số 36,8% không phải được chọn tuỳ tiện mà đơn giản nó là Số nghịch đảo của cơ số E = 2,718 (1:2,718 = 0,368) và Số bổ túc của nó 63,2% giúp đơn giản hoá các phương trình toán học. Có thể nói trị sô’ T2 bằng xấp xỉ 1/10 trị số Tl trong các mô sinh vật. Tl tính bằng trăm milliseconds, T2 tính bằng chục milliseconds.

Mỗi loại mô có Tl và T2 riêng, nghĩa là từ tính của chúng đủ khác nhau để có thể nhận diện bằng những hình ảnh cộng hưởng từ đặc trưng.

  • Ghi nhận tín hiệu

Khi các proton trở lại sắp hàng như cũ, do ảnh hưởng từ trường bên ngoài, chúng phóng thích năng lượng dưới dạng “tín hiệu” tần Số vô tuyến. Cường’ độ phát ra từ một đơn vị khối lượng mô được thể hiện trên một thang mầu từ trắng đến đen, trên đó mầu trắng là cường độ tín hiệu cao, mầu đen là không có tín hiệu. Cường độ tín hiệu của một loại mô phụ thuộc vào thời gian khôi phục từ tính TI và T2, mật độ protons của nó.

  • Tạo hình ảnh

Hình ảnh cộng hưởng từ hạt nhân được ghi lại nhò thể hiện Tl và T2 của các cấu trúc trong cơ thể. Tl tạo ra tín hiệu MRI mạnh và cho thấy hình ảnh các cấu trúc giải phẫu. Với Tl: dịch não tuỷ, lớp vỏ xương (cortical bone), không khí và máu lưu thông với tốc độ cao, tạo ra những tín hiệu không đáng kể và thể hiện
mầu sẫm. Chất xám và chất trắng thể hiện bằng mầu xám khác nhau, chát xám đậm hơn. Với TI mô mỡ thể hiện bằng mầu rất sáng, đó là lợi thế rất lớn đê ghi hình mô mỡ trong hốc mắt, mô mở ngoài màng cứng tuỷ sống và tuỷ xương của cột sống. Máu tụ mạn tính có cường độ tín hiệu cao và tạo hình ảnh màu trắng. Các chi tiết trong sọ và của cột sống có thể được ghi hình một cách lý tưởng VỚI Tl, cụ thể để khảo sát góc cầu tiểu não và hố yên. Được như vậy là nhò các cấu trúc đó tương phản với dịch não tuỷ thê hiện băng mâu sậm hơn. Tuy nhien neu sự khác biệt hàm lượng nước trong các mô không lớn thì độ nhậy cua hình ảnh Tl cũng không cao. Do đó nó có thể không ghi hình được các thương tổn nhỏ không đủ gây xê dịch các cấu trúc giải phẫu.

Trái lại với các hình ảnh T2 ta thể hiện dễ dàng những khác biệt rất nhỏ về hàm lượng nước trong cấu trúc cần khảo sát. Những khu vực có hàm lượng nước cao (phù nào) được thể hiện bằng cường độ tín hiệu cao (mầu trăng) nôi bật trên một nền mầu sậm hơn. Vì thiếu tín hiệu của mô nền (background tissue), nên T2 không thể hiện được các chi tiết giải phẫu một cách sắc sảo như TI có thê làm. Dù sao T2 vẫn nhậy cảm hơn khi ghi nhận các khác biệt nhỏ về hàm lượng nước trong các mô. Đó là lý do tại sao MRI hơn hẳn CT khi phát hiện các bệnh lý trong não và tuỷ sống. Khi ghi hình với T2, hàm lượng nước trong mô sẽ tạo tín hiệu cường độ cao nhất, do đó dịch não tuỷ là yếu tô nôi bật phát tín hiệu sáng nếu so sánh với chất xám và chất trắng. Lớp vỏ xương, không khí và máu lưu thông với tốc độ cao vẫn tạo ra những tín hiệu không đáng kê (mầu đen). Hình ảnh mô mỡ được ghi với T2 có cường độ tín hiệu thấp hơn so với Tl. Những khu vực huỷ myelin, phù, nhồi máu hoặc có mô u thâm nhiễm có hàm lượng nước cao (nhiều nguyên tử hydrogen), do đó sẽ tạo ra cường độ tín hiệu cao hơn so với các mô chung quanh.

Một ưu thê’ tuyệt đối của MRI so với tất cả các kỹ thuật ghi hình khác là có thể ghi hình theo tất cả các bình diện khác nhau (axial or horizontal, sagittal, coronal or frontal, oblique) mà không cần thay đổi tư thế nằm ngửa của bệnh nhân. Có thể ghi hình các cấu trúc trong sọ và trong ông sống vì xương bao bọc chung quanh không phát ra tín hiệu. Khi khảo sát não ta thường ghi hình theo mặt phẳng axial, sagittal và coronal, trong đó mặt phẳng axial hay được dùng nhất. Ghi hình theo tư thế coronal cung cấp thông tin tốt nhất khi khảo sát vùng hố yên và cạnh hố yên. Các hình ảnh theo tư thế axial và coronal có thể đối chiếu nhau để so sánh và hình dung thương tổn tốt hơn. Các hình ghi theo tư thế sagittal có tác dụng rất tốt để khảo sát các thương tổn đường giữa của não, như u tuyến yên, u tuyến tùng, u thân não, teo thuỳ giun, tràn dịch não thất do lưu thông dịch não tuỷ tắc và các dị tật bẩm sinh khác.

Trong MRI ở hệ thần kinh trung ương chất Gadolinium (Gd) được dùng dưới dạng dung dịch tiêm tĩnh mạch để tăng cường cản quang. Gd là một yếu tố đất hiếm, nặng. Hợp chất tạo chilat của nó có đặc tính thuận từ (paramagnetism) nghĩa là trong từ trường ngoài, chất này bị từ hoá và tạo ra từ trường cùng phương với từ trường ngoài. Gd tự do có độc tính, nhưng với chất tạo chilat như Diethylenetriamine Pentaacetic Acid (DTPA) nó sẽ biểu lộ tính thuận từ. Khi xâm nhập mô, hợp chất này làm thời gian Tl giảm mạnh nên cương độ tín hiệu tăng lên. Gd sẽ di chuyển từ lòng mạch ra ngoài tại những khu vực không có hàng rào máu – não hay hàng rào này bị gián đoạn. Trong u não, các khu vực nhiêm trùng hay nhồi máu não thường thấy tổn thương hàng rào máu – não. Gd DTPA là chất cản quang thông dụng trong MRI và trên 5 triệu lượt sử dụng đến năm 1995 chỉ gặp rất ít trường hợp phản ứng nhẹ kiểu dị ứng. Các chất cản quang thuận từ tăng độ nhậy của MRI để ghi hình một Số quá trình bệnh lý, đặc biệt là các u nhỏ. Tuyến yên, vùng infundibulum (phễu), đám rối mạch mạc, tuyên tùng và các nêp gấp của màng cứng, vì không có hàng rào máu – não, nên bình thường cũng ngấm chất cản quang Gd. Máu trong các tĩnh mạch vỏ não và trong xoang hang vì chảy chậm nên cũng tăng cản quang khi có Gd.

Chống chỉ định ghi hình MRI là khi trong phần mềm cơ thể có sắt từ tính (cobalt, sat, nickel …) ví dụ clips trong não, dị vật kim loại nội nhãn vì chúng có thê di chuyển khi từ trường thăng giáng và gây tổn thương tại các mô đó. Các pacemakers cũng sẽ hoạt động rối loạn trong từ trường, và các miếng ghép kim loại lớn sẽ sinh nhiệt cảm ứng (magnetic induction). Hiện nay người ta không chụp MRI cho phụ nữ có thai, vì chưa biết rõ tác dụng của từ trường và sóng vô tuyến điện đối với thai nhi. Những người mắc chứng claustrophobia (lo sợ khi ở trong một khoảng không gian đóng kín) cũng không chụp MRI được vì muôn có phim MRI tốt bệnh nhân cần bất động trong 10 – 15 phút. Các thiết bị điện tử theo dõi bệnh nhân (monitoring) cũng bị hạn chế bởi từ trường nên việc theo dõi bệnh nhân nặng và có tình trạng bất ổn trở nên khó khăn trong khi chụp MRI.

MRI là kỹ thuật ghi hình nhậy nhất đôi với các thương tổn ở hệ thần kinh trung ương trừ hai trường hợp: chẩy máu cấp tính trong sọ và các đám ngấm vôi. Một ưu thế của MRI là không có hình ảnh giả tạo do các xương bao bọc mô não tạo nên như ở hố sau. MRI còn có khả năng ghi hình theo nhiều bình diện mà không cần thay đổi tư thế đầu bệnh nhân, nên nó giúp khảo sát khu vực hố yên và chung quanh đó rất tốt. Để khảo sát các trường hợp huỷ myelin như xơ cứng rải rác, thiếu máu cục bộ ở não, sa sút trí tuệ, nguyên nhân và vị trí tắc nghẽn lưu thông dịch não tuỷ gây tràn dịch não thất, người ta chụp MRI không có cản quang. Đối với u.não ở trẻ em, MRI cũng trở thành một cách ghi hình thường quy. Đốì với các dị dạng bẩm sinh ở não, MRI tỏ ra đặc biệt chính xác như: khuyết thể trai bẩm sinh (agenesis of the corpus callosum), dị tật Chiari, dị tật trong quá trình hình thành não, tai biến mạch máu não ở trẻ em.

Hai ứng dụng đáng quan tâm của MRI: MRA (Magnetic Resonance Angiography) và MRS (Magnetic Resonance Spectrography).

MRA hay Mạch não đồ cộng hưởng từ.

Máu đang chẩy làm mâ’t tín hiệu cộng hưởng từ và hiện tượng này được dùng để ghi giải phẫu hệ mạch máu. Kỹ thuật này dựa trên hiện tượng MR liên tiếp theo thứ tự khác nhau (sequences) bao gồm GRE (gradient refocused echo) và MUA. Với những tiến bộ về công nghệ MR, nay ta có thể ghi hình hệ tuần hoàn trong não giống như làm mạch não đồ, dù không cần tiêm chất cản quang vào hệ tuần hoàn.

MRS hay Ghi quang phổ cộng hưởng từ.

Kỹ thuật này cho phép đánh giá tình hình chuyển hoá ở những khu vực khác nhau trong não và có thể giúp ích để lượng định tình trạng những bệnh nhân động kinh thái dương, bệnh Alzheimer, các ư não, xác định tình trạng chêt não.

Do những thông tin ta cần thu thập, do thời gian cần thiêt để có những thông tin đó, do thương tổn ta cần xác định để có chẩn đoán, chúng ta sẽ quyết định sử dụng MRI hay CT, hay kết hợp cả hai kỹ thuật đó.

Ngoài ra, hiện nay còn những kỹ thuật ghi hình khác giúp ích rất nhiều trong chuyên khoa Thần kinh cả Nội và Ngoại như:

Mạch não đồ kỹ thuật số khử hình ảnh xương (Digital Subtraction Angiography – DSA) ngoài khả năng ghi hình các mạch máu não rất rõ, tinh vi, theo ba chiều không gian và tái tạo hình ảnh để xoay chuyển theo nhiều góc độ, kỹ thuật này còn loại trừ hình ảnh các khổi xương dầy đặc ở sọ vốn che lấp hình ảnh các mạch trong não, ví dụ xương đá.

Chụp não với đồng vị phóng xạ (Gamma Encephalography). Chất đồng vị phóng xạ thường dùng là Technetium 99mTC (lấy từ Molibden”), mỗi lần uống hoặc tiêm tĩnh mạch 5 – 10 mCi, tuy liều hơi cao nhưng phóng xạ đối với cơ thê chỉ bằng 1% so vói dùng 203Hg hay 131I. Hiện nay kỹ thuật này ít được dùng .

Ghi hình cộng hưởng từ chức năng (fMRI orFunctional MRI)

Là một cách ghi hình bằng kỹ thuật cộng hưởng từ nhằm biểu hiện các chức năng của mô não hơn là hình thái các mô đó: như tình trạng máu lưu thông trong mô não, khối lượng tuần hoàn trong não. Hình ảnh tương phản (contrast) ghi nhận được là các tác động kết hợp sự lưu thông máu, khối lượng máu và oxy hoá hemoglobin. Tác nhân tạo hình ảnh tương phản được goị là BOLD (viết tắt của Blood Oxygenation level Dependence). Đây là một kỹ thuật đang được sử dụng ngày càng nhiều vì nó không xâm phạm (non invasive) và bệnh nhân không bị nhiễm tia ion hoá [3].

PET (Positron Emission Computed Tomography).

PET là kỹ thuật dò các positron gắn vào các chất chuyển hóa, chủ yếu là glucose. Sau khi tiêm chất phóng xạ vào tĩnh mạch ta dò bằng máy nhấp nháy để theo dõi và biết được các chất chuyển hoá có gắn đồng vị phóng xạ tăng hay giảm. Khó khăn lớn nhất là giá trị của máy cyclotron và phí tổn duy trì hoạt động để phát ra positron rất cao (năm 1995: 5 triệu USD), trong khi những chỉ định dùng máy này lại tương đối hẹp.

Ghi chú về các loại nam châm trong cấu hình MRI

Thông thường có ba loại nam châm được lắp đặt trong các máy MRI: nam châm vĩnh cửu (permanent magnet), nam châm điện trở (resistive magnet), nam châm siêu dẫn (superconducting magnet). Ba loại có đặc trưng khác hẳn nhau, do đó khả .năng tạo từ trường mạnh, ổn định, đồng nhất cũng khác nhau dù đó là ba điều kiện cần có để máy MRI hoạt động tốt:

Nam châm vĩnh cửu tương đối an toàn và ít ảnh hưởng đến các vật dụng có sắt, loại cố định, như dầm thép trong nhà, ống nước, pacemaker và loại di động như xe lăn, thang máy. Giá thành nam châm vĩnh cửu tương đối thấp và chi phí bảo trì rẻ, nhưng nó quá nặng (10.000 pounds!!). Tuy có thể tháo ròi để vận chuyển, nhưng đó là một trở ngại khi lắp đặt.

Nam châm điện trở ngày càng thông dung, giá rẻ, chi phí bảo hành thấp và khả năng ghi hình tốt.

Nam châm siêu dẫn hoạt động ở nhiệt độ rất thấp (gần độ không tuyệt đối). Trong điều kiện đó, nhiều kim loại hầu như không còn điện trở, nên có khả năng truyền tải dòng điện lớn để tạo ra từ trường lớn. Các máy MRI ở đây thường hoạt động với từ trường 0,5 đến 0,2 Tesla, nhưng có khi đến 4,0 Tesla. Các cuộn dây cảm điện được ngâm trong helium lỏng, chung quanh có chân không bao bọc và ngoài cùng ngâm trong nitrogen lỏng. Ưu thế của loại cấu hình này là tạo từ trường mạnh, tính ổn định và đồng nhất rất cao.

Giá lắp đặt loại máy này và chi phí bảo trì hệ thống lạnh rất đắt