Blog Trang 517

Ngộ độc thức ăn từ tuyến giáp trạng và thượng thận của động vật

Tuyến giáp trạng của động vật nằm ở trên họng của khí quản. Tuyến giáp trạng của lợn nặng khoảng 10g, của bò khoảng 20 đến 30g. Bị ngộ độc thường là do ăn phải thịt động vật có lẫn tuyến giáp trạng.

Ở tuyến giáp trạng của động vật có chứa chất của tuyến giáp trạng, thường phát bệnh sau khi ăn phải thức ăn từ 12 đến 24 giờ. Triệu chứng có chóng mặt, váng đầu, hưng phấn, phát cuồng, co rút, mệt mỏi, giật mình, mạch nhanh, ăn uống bị nghẹn, buồn nôn, ra nhiều mồ hôi, nóng sốt, v.v… Có những người còn bị rụng tóc từng mảng lớn, tay chân bong da, thậm chí còn bong da toàn thân.

Thông thường phải trải qua 2 đến 3 tuần mới hồi phục. Những phụ nữ mang thai còn xảy ra sảy thai hoặc đẻ non. Những người cho con hú cũng có thể bị ngộ độc.

Chỉ có làm tốt công tác đề phòng thì mới có thể bảo đảm an toàn được. Điểm mấu chốt trong việc đề phòng là trong quá trình giết mổ phải cử người chuyên trách để cắt bỏ tuyến giáp trạng, đồng thời phải tiến hành kiểm tra mối coi là được.

Tuyến thượng thận, có một đôi thận, nằm ở hai vị trí. Tuyến thượng thận lợn có hình tròn dài, nặng 3 đến 5g, ngựa, bò thận có hình tam giác hoặc hình bán nguyệt, nặng khoảng 30g. Khi ăn thận của động vật có thể gây ra ngộ độc. Triệu chứng khi ngộ độc gồm có: chóng mặt, váng đầu, ợ chua, nôn mửa, sắc mặt trắng bệch, con ngươi dãn, huyết áp tăng, tim đập loạn sạ, mặt đỏ, ra nhiều mồ hôi, v.v… Điều quan trọng là phải làm tốt công tác đề phòng.

Tamik

Thuốc Tamik
Thuốc Tamik

TAMIK

LAPHAL

Viên nang mềm 3 mg: hộp 60 viên – Bảng A.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Dihydroergotamine mesilate 3 mg
Tá dược: macrogol 400, nước tinh khiết, glycerol, acide ascorbique, propyleneglycol, gelatine, dioxyde de titane, oxyde sắt III.

DƯỢC LỰC

Thuốc trị chứng đau nửa đầu (N: hệ thần kinh trung ương). Dihydroergotamine có các đặc tính chủ yếu như sau:

  • Trên hệ thống động mạch cảnh ngoài sọ não, thuốc có tác động chủ vận từng phần (kích thích), nhất là trên các thụ thể serotoninergic.
  • Thuốc có tác động chủ vận từng phần trên các thụ thể a-adrenergic của mạch máu, tác động này rất được ghi nhận trên tuần hoàn tĩnh mạch ; người ta đã chứng minh rằng tác dụng gây co mạch có thể có liên quan một phần đến sự tổng hợp một chất được gọi là “prostaglandine-like” Khi dùng liều cao, dihydroergotamine có tác động như một chất gây phong bế các thụ thể a- adrenergic và serotoninergic.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Thuốc được hấp thu nhanh. Thuốc có ái lực cao với mô.

Thuốc được đào thải chủ yếu qua mật và qua phân.

CHỈ ĐỊNH

– Điều trị nền tảng chứng nhức nửa đầu và nhức đầu.
– Cải thiện các triệu chứng có liên quan đến suy tĩnh mạch bạch huyết (chân nặng, đau, khó chịu khi mới bắt đầu nằm).
– Được đề nghị trong điều trị chứng hạ huyết áp tư thế.
– Các rối loạn xảy ra trong điều trị với thuốc an thần và hưng phấn.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Tuyệt đối:

  • Đã biết bị quá mẫn cảm với các dẫn xuất của nấm cựa gà.
  • Nhóm macrolide (ngoại trừ spiramycine), sumatriptan: xem phần Tương tác thuốc

Tương đối:

Bromocriptine (xem phần Tương tác thuốc).

Phụ nữ đang cho con bú (xem phần Lúc có thai và Lúc nuôi con bú).

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Không nên uống thuốc lúc đói.

Thận trọng khi sử dụng trong trường hợp bệnh nhân bị suy gan nặng hay suy thận nặng mà không được làm thẩm tách.

Cần tăng cường theo dõi trong trường hợp bệnh nhân có tiền sử bệnh lý động mạch.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Lúc thai:

Các kết quả nghiên cứu được thực hiện trên động vật không cho thấy thuốc có tác động gây quái thai, do đó thuốc không thể gây dị tật cho bào thai khi sử dụng cho người. Trên thực tế, cho đến nay, các chất gây dị tật bào thai khi dùng cho người đều là những chất gây quái thai khi sử dụng cho động vật trong những công trình nghiên cứu được thực hiện trên cả hai loài.

Hiện nay còn thiếu các số liệu thỏa đáng để đánh giá tác dụng gây dị tật bào thai hay độc tính trên phôi của dihydroergotamine khi sử dụng trong thời gian mang thai. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết nếu dùng liều cao có thể gây tăng co bóp tử cung.

Do đó nên thận trọng tránh sử dụng dihydroergotamine trong thời gian mang thai.

Lúc nuôi con bú:

Do thiếu số liệu về sự bài tiết của thuốc qua sữa mẹ, không sử dụng thuốc này nếu muốn cho con bú mẹ.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Chống chỉ định phối hợp:

  • Nhóm macrolide (tất cả ngoại trừ spiramycine) ; do suy từ érythromycine, josamycine và clarithromycine: có thể gây các triệu chứng ngộ độc ergotine với khả năng gây hoại tử đầu chi (do làm giảm sự đào thải các alcaloide của nấm cựa gà ở gan).
  • Sumatriptan: trên lý thuyết có thể làm tăng nguy cơ gây co thắt mạch vành. Cần phải giữ một thời hạn là 24 giờ từ lúc ngưng dùng dihydroergotamine cho tới lúc dùng Tương tự, chỉ dùng thuốc này cách 6 giờ sau khi dùng sumatriptan.

Không nên phối hợp:

  • Bromocriptine: có thể gây co mạch và/hoặc gây cơn cao huyết áp kịch phát.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Có thể gây buồn nôn, nhất là khi uống thuốc lúc đói.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Uống thuốc với một ly nước trong bữa ăn, mỗi lần một viên, 2 đến 3 lần/ngày.

QUÁ LIỀU

Trong trường hợp đã xác nhận bị ngộ độc ergotine ở mạch máu, cần phải cấp cứu ở bệnh viện: thường cần phải tiến hành truyền héparine phối hợp với một chất gây giãn mạch, và tùy tình hình có thể phối hợp với một corticoide.

Bệnh Sán Lợn – Chẩn đoán và điều trị

Định nghĩa: nhiễm Taenia solium ở người do ăn phải ấu trùng sán có trong thịt lợn.

Căn nguyên

Thể trưởng thành của Taenia soỉium sống trong ruột túc chủ cuối cùng là người. Do thường chỉ có một con sán nên còn được gọi là “sán đơn độc”, dài 3-5 m. Sán có phần đầu hình cầu, cực đỉnh có khoảng 20 cái móc.

Trứng sán ra theo phân cùng với các đốt tận. Các đốt này bị phân rã ở đất và lợn (túc chủ trung gian) ăn phải trứng sán. Trứng trở thành ấu trùng, sống ở các thớ cơ vân. Ấu trùng sán có màu trắng đục, đường kính chứng 1 cm và có phần đầu lớn vào bên trong, ấu trùng có thể sống được 70 ngày ở nhiệt độ 1-4°.

Người bị nhiễm nếu ăn phải thịt lợn có ấu trùng không được nấu chín. Trong ruột non, ấu trùng thành sán trưởng thành trong vòng 2-3 tháng.

Dịch tễ học

Do kiểm tra thú y nên Taenia solium hiếm gặp ở các nước công nghiệp. Tại các nước này, cứ 99 trường hợp bị nhiễm sán bò (Taenia saginatà) mới gặp 1 trường hợp nhiễm sán lợn (Taenia solium). Bệnh vẫn còn được gặp nhiều ở các nước đang phát triển, nơi còn ăn thịt lợn sống hay không được nấu kỹ.

Triệu chứng

Đau bụng, buồn nôn, táo bón xen kẽ với ỉa chảy, đôi khi ăn rất nhiều và sút cân.

Bệnh Sán Lợn

Xét nghiệm cận lâm sàng

Phát hiện trứng trong phân không phân biệt được sán bò với sán lợn vì cần phải quan sát một đốt hay phần đầu (hình cầu, đầu có 2 vòng móc và 4 giác hút). Hay thấy tăng bạch cầu ưa acid.

Điều trị

Praziquantel, liều duy nhất 10mg/kg hoặc niclosamid 2g ở người lớn, uống làm 2 lần lúc đói, cách nhạu 1 giờ (lg cho trẻ 2-6 tuổi và 0,5g cho trẻ dưới 2 tuổi). Nếu bị nhiễm hai loại sán thì dùng mebendazol liều 100 mg, ngày 2 lần trong 2-3 ngày..

Phòng bệnh

Kiểm tra thú y và nấu chín thịt lợn. Điều trị ngay để tránh người mang ấu trùng.

Người mang ấu trùng sán

Rất hãn hữu, người có thể trở thành túc chủ trung gian của Taenia solium; hoặc do ăn phải trứng qua tay bẩn hay do thịt lợn bệnh không được nấu kỹ, hoặc do các đốt lên ngược vào dạ dày. Âu trùng (Cystercus cellulosae) khu trú ở mô dưới da (cục), ở cơ, nhất là cơ mắt, đôi khi ở trong não. Các triệu chứng tuỳ thuộc vào nơi ấu trùng khu trú. Các phản ứng mô yếu khi nào đầu sán còn sống nhưng ấu trùng sán chết lại gây ra các phản ứng mạnh, có sốt. Có thể thấy đau cơ, rối loạn ở nhãn cầu (soi mắt có thể thấy ấu trùng sán) hay các triệu chứng thần kinh rất khác nhau, các cơn co giật, rối loạn dịch não tuỷ do ấu trùng sán ở trong não (não nhiễm sán). Đôi khi có khối u phân nhánh ở đáy não (Cysticercus ramosus).

Khẳng định chẩn đoán bằng việc tìm thấy ấu trùng ở các sinh thiết da hay cơ. Tăng bạch cầu ưa acid trong máu, đôi khi trong dịch não tuỷ có tăng bạch cầu ưa acid và tăng albumin; các phản ứng huyết thanh (ngưng kết hồng cầu, miễn dịch huỳnh quang gián tiếp, ELISA). X quang có thể cho thấy hình ảnh các ấu trùng bị calci hoá. Chụp cắt lớp não. Chẩn đoán chắc chắn thấy có ấu trùng ở mẫu sinh thiết.

Điều trị: albendazol hay praziquantel trong 15-30 ngày; cắt bỏ bằng ngoại khoa nếu có thể được.

Tác dụng chữa bệnh của Hoa Râm Bụt

Cây râm bụt thuộc loại thân gỗ nhỏ, mọc thành bụi, cao 2-3m. Lá to, mép lá có răng cưa nhỏ. Hoa to mọc ở nách lá, tràng 5 cánh, màu đỏ hay hồng nhạt, nhiều nhị tập hợp ở một trụ dài.

hoa râm bụt tác dụng lợi niệu tiêu thũng, chỉ huyết
hoa râm bụt tác dụng lợi niệu tiêu thũng, chỉ huyết

Theo Đông y, hoa râm bụt có vị ngọt, tính bình, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi niệu tiêu thũng, chỉ huyết, có tính sát trùng, an thần, điều kinh, kích dục, chữa kinh nguyệt không đều, khó ngủ, hồi hộp, đái đỏ, khắc phục khả năng tình dục yếu kém.

* Thuốc ứng dụng:

Bài 1. Thuốc chữa bệnh viêm mang tai

+ Hoa râm bụt                       30g

Hoa râm bụt rửa sạch, cho vào nồi cùng 400ml nước đun kỹ. Sắc lấy 150ml nước thuốc đặc, chia 2 lần uống trong ngày, sau khi ăn. cần uống liền 3-5 ngày.

Bên ngoài dùng 20g hoa râm bụt, 20g lá đại, cả hai thứ giã nhỏ đắp vào chỗ đau. cần đắp 2-3 ngày liền.

Bài 2. Thuốc chữa bệnh kinh nguyệt không đều

+ Hoa râm bụt 30g
+ Lá huyết dụ 25g
+ Lá ích mẫu 20g

Các loại lá rửa sạch, cho vào nồi cùng 500ml nước, đun sôi kỹ, chắt 180ml nước đặc. Người bệnh uống ngày 1 thang chia 3 lần, mỗi lần uống 60ml nước thuốc, uống liền 3 ngày trước kỳ kinh 5 ngày.

Bài 3. Thuốc chữa bệnh rong huyết

+ Hoa râm bụt                       30g

+ Ngải cứu (sao đen)              30g

+ Lá huyết dụ (sao đen)         25g

+ Lá ích mẫu                          20g

+ Nghệ vàng                           15g

Các thứ thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 500ml nước, đun sôi kỹ, chắt lấy 200ml nước đặc. Người bệnh chia đều uống ngày 1 thang chia 3 lần, uống trước khi ăn mỗi lần 60ml nước thuốc. Cần uống liền 3 ngày trước kỳ kinh 5 ngày.

HOA RÂM BỤT KÉP

Cây râm bụt kép cao 3-6m. Hoa đơn độc, có màu trắng, vàng tía hay màu tím, đài nhỏ 6 mảnh, nhị nhiều. Thường được trồng làm cảnh, lấy hoa hay làm thuốc chữa bệnh.

Theo Đông y, hoa râm bụt kép có vị ngọt, tính bình. Tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, giải độc, tiêu thũng, chữa bệnh lỵ, tiêu chảy, bạch đới, trị xuất huyết, chữa mụn nhọt, viêm mủ da.

* Thuốc ứng dụng:

Bài 1. Thuốc chữa bệnh kiết ly

+ Hoa râm bụt kép 20g
+ Lá mơ lông 15g
+ Rau cỏ sữa 20g

Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi cùng 400ml nước, đun sôi kỹ, chắt 180ml nước đặc. Người bệnh chia đều 3 lần uống trong ngày, trước bữa ăn. cần uống liền 2-3 ngày.

Bài 2. Thuốc chữa bệnh trĩ xuất huyết

+ Hoa râm bụt kép 30g
+ Lá mồng tơi 30g
+ Ngải cứu (sao đen) 30g

Các loại lá rửa sạch, cho vào nồi cùng 500ml nước, đun sôi kỹ, chắt 200ml nước đặc. Người bệnh uống ngày 3 lần, trước khi ăn, mỗi lần 60ml nước thuốc, uống liền 5-7 ngày.

Bên ngoài dùng lá vông nem rửa sạch, giã nhỏ, vệ sinh chỗ đau và đắp thuốc vào đó, ngày thay thuốc 1 lần.

Bài 3. Thuốc chữa mụn nhọt chưa vỡ

+ Hoa râm bụt kép                30g

+ Lá đại                                 20g

Cả hai thứ giã nhỏ, đắp vào chỗ đau, ngày thay thuốc 1 lần.

Phân biệt Chứng Táo đàm trong Đông y

Khái niệm

Chứng Táo đàm là tên gọi chung cho những chứng trạng do táo tà hun đốt tân dịch, đờm ngăn trở Phế lạc mà gây bệnh. Chứng này nguyên nhân phần nhiều cảm nhiễm tà khí Thu táo lại kiêm cả đàm trọc ngăn trở ở trong, hoặc Phế Thận âm hư, hư hỏa hun đốt tân dịch gây nên.

Biểu hiện lâm sàng chủ yếu của chứng Táo đàm là đàm ít sắc trắng, keo dính khó khạc nhổ, họng ngứa khô ít tân dịch, khái thấu thở suyễn, mũi khô mồi ráo, chất lưỡi đỏ ít rêu, mạch Huyền Tế Sác hoặc Tế sắc.

Chứng Táo đàm chủ yếu thường gặp trong bệnh Khái thấu; Các tật bệnh khác ít

Cần chẩn đoán phân biệt với chứng Nhiệt đàm.

Phân tích

Chứng Táo đàm chủ yếu gặp trong bệnh Khái thấu; điều trị nên nhuận táo hóa đàm, cho uống bài Bối mẫu qua lâu tán (Y học tâm ngộ).

Chứng này thường gặp ở người thể chất âm hư hoặc người cao tuổi. Thể chất âm hư dễ cảm nhiễm táo tà, hun đốt tân dịch gây nên táo đàm. Vì âm tân bất túc nên có thể xuất hiện chứng trạng triều nhiệt, ra mồ hôi trộm, ngũ tâm phiền nhiệt. Người cao tuổi, khí âm bất túc, âm hư thì tân dịch thiếu, khí không hóa sinh tân dịch, dễ sinh ra táo đàm, nên thường có kiêm chứng khái suyễn đoản hơi, mệt mỏi yếu sức thuộc loại khí hư.

Chứng Táo đàm phần nhiều xuất hiện ở mùa thu táo nhiệt, tà khí táo nhiệt dễ làm hao thương tân dịch, hun đốt tân dịch thành đàm. ở mùa Thu táo, táo tà phạm Phế xuất hiện chứng Táo đàm, phần nhiều có chứng trạng táo tà phạm Biểu phận như các chứng trạng phát sốt, hơi sợ phong hàn, đau đầu, ít mồ hôi.

Trong quá trình diễn biến bệnh cơ của chứng Táo đàm dễ xuất hiện chứng Phế âm hư. Phế âm bất túc, Phế mất sự tư dưỡng nên sinh ra táo nhiệt, hư hỏa hun đốt kim,ấu tân dịch thành đàm, cho nên biểu hiện táo đàm ngăn trở Phế, có các chứng đờm ít sắc trắng, keo dính khó khạc nhổ, họng khô ngứa và suyễn khái. Chứng Phế ám hư có chứng trạng biểu hiện chủ yếu là trong đàm có lẫn máu, triều nhiệt mồ hôi trộm, ngũ tâm phiền nhiệt, về chiều gò má đỏ bừng, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế Sác.

Chẩn đoán phân biệt

Chứng Nhiệt đàm với chứng Táo đàm, cả hai đều có chứng trạng cộng đồng như khái thấu đàm dính kết khó khạc ra, miệng khô họng ráo v.v. Cần phải phân biệt cho rõ ràng.

Chứng Táo đàm là do cảm nhiễm tà khí táo nhiệt ngoại cảm, hun đốt Phế tân, hoặc là vì Phế âm bất túc, hư hỏa hun đốt Phế, đốt cạn chất dịch mà thành đàm, đặc điểm là ho khan ít đàm, miệng mũi khô ráo, thậm chí có biểu hiện da dẻ khô ráo do táo thịnh thương tân; cũng có thể khiến cho Phế lạc bị tổn thương mà trong đàm có lẫn máu hoặc đổ máu mũi.

Chứng Nhiệt đàm là do nhiệt tà nung nấu chất dịch mà sinh ra đàm, hoặc là đàm uất sinh nhiệt, đàm nhiệt cấu kết mà thành bệnh, cho nên đàm vàng mà dính, tiểu tiện sẻn đỏ, đại tiện táo kết, mặt đỏ môi hồng đó là những hiện tượng nhiệt thịnh, về phương diện mạch và luỡi, cả hai chứng chất lưỡi đều đỏ, nhưng chứng Táo đàm thì chất lưỡi đỏ ít tân dịch; chứng Nhiệt đàm thì chất lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng nhớt. Chứng Táo đàm mạch phần nhiều Huyền Tế Sác hoặc Tế sắc; Chứng Nhiệt đàm thì mạch đa số Hoạt Sá

Trích dẫn y văn

Chứng Táo đàm, phát nhiệt môi se, phiền khát muốn uống nước, suyễn khái đoản hơi, lúc phát bệnh lúc không, khó khạc nhổ, đây là chứng ngoại cảm táo đàm. Nguyên nhân gầy Táo đàm, hoặc gặp lúc can dương đang mạnh, hoặc gặp lúc hỏa lệnh đang cao, khi táo nhiệt quạt vào tạng Phế gây nên suyễn khái. Làm tổn thương Trường Vị thì gây nên Đàm nên Thấu, đó là ngoại cảm táo đàm gây nên. Mạch của chứng Táo đàm ắt phải Hồng Sác. Phù Sác là tổn thương ở Biểu, Trầm Sác là tổn thương ở Lý. Mạch bên trái Hồng Sác là táo làm thương Can Đởm; mạch bên phải Hoạt Sác là Táo làm thương Phế Vị.

Điều trị Táo đàm, nên thanh nhiệt nhuận táo, giáng hỏa hóa đàm, cho uống các bài Trúc diệp thạch cao thang, Nhị mẫu thạch cao thang, Nhị mẫu nhị trần thang.

Chứng Táo đàm, khái suyễn, suyễn nghịch, đàm hỏa bốc lên, lúc ho lúc ngừng, đàm khó ra, thấu liên tục, mặt đỏ khí nghịch lên đó là chứng táo đàm do nội thương.

Nguyên nhân gây nên Táo đàm, là do ngũ chí hóa hoả, khi quấy động ở trong, hoặc là sắc dục quá độ, chân thủy cạn kiệt, hoặc là ăn cao lương tích nhiệt, Trường Vị hun đốt hun đốt nung nấu tạng Phế, nhào luyện thành đàm thì hình thành chứng Táo đàm.

Mạch của Táo đàm, bộ Thố bên trái Sác Đại, đó là tạng Phế có nhiệt. Bộ Quan bên phải Trầm Sác, đó là Trường Vị có nhiệt. Bộ Quan bên trái mạch Sác, đó là tà khí Mộc Hoả. Hai bộ Xích Trầm Sác là Thận thủy táo kiệt.

Điều trị Táo đàm, cần dưỡng âm tráng thủy, nhuận Phế sinh tân thì hỏa dẹp táo trừ mà Đàm không sinh ra nữa. Nếu dùng thuốc có vị táo để tiêu đàm thì tai hoạ như trở bàn tay. Thận thủy khô cạn, nên chu uống các bài Nhị đông Nhị mẫu thang. Do ăn cao lương mà tích nhiệt, cho uống bài Tiết Trai hóa đàm hoàn. (Đàm chứng luận – Chứng nhân mạch trị).

Mộc hương

Mộc hương
Mộc hương

Tên khoa học:

Saussurea lappa Clarke. Họ khoa học: Họ Cúc (Compositae).

Tên khác:

Ngũ Mộc hương (Đồ Kinh), Nam mộc hương (Bản Thảo Cương Mục), Tây mộc hương, Bắc mộc hương, Thổ mộc hương, Thanh mộc hương, Ngũ hương, Nhất căn thảo, Đại thông lục, Mộc hương thần (Hòa Hán Dược Khảo), Quảng Mộc hương, Vân mộc hương, Xuyên mộc hương, Ổi mộc hương (Đông Dược Học Thiết Yếu).

Mô Tả:

Cây sống lâu năm, rễ to, đường kính có thể đến 5cm, vỏ ngoài mầu nâu nhạt. Phía gốc có lá hình 3 cạnh tròn, dài 12 – 30cm, rộng 6 – 15cm, cuống dài 20 – 30cm, có rìa. Mép lá nguyên và hơi lượn sóng, 2 mặt đều có lông, mặt dưới nhiều hơn. Trên thân cũng có lá hình 3 cạnh, nhưng càng lên trên lá càng nhỏ dần. Mép có răng cưa, cuống lá càng lên cao càng ngắn lại, phía trên cùng lá gần như không cuống hoặc có khi như ôm lấy thân cây. Hoa hình đầu, mầu lam tím. Quả bế, hơi dẹt và cong, mầu nâu nhạt, có những đốm mầu tím.

Mùa hoa vào các tháng 7-9. Mùa quả tháng 8 – 10.

Địa lý:

Đa số trồng ở Vân Nam (Trung Quốc – Vì vậy mới gọi là Vân Mộc hương).

Thu hái, Sơ chế:

Về mùa đông, sau khi đào lên, rửa sạch đất, rễ tơ và thân lá, cắt thành những khúc ngắn 6,6 – 13,3cm. Loại thô to, rỗng ruột thì chẻ dọc thành 2-4 miếng, phơi khô, bỏ vỏ ngoài là được.

Bộ phận dùng:

Rễ khô. Loại cứng chắc, mùi thơm nồng, nhiều dầu là tốt. Loại hơi xốp, ít mùi thơm, ít dầu là loại vừa.

Mô tả dược liệu:

Mộc hương
Mộc hương

Mộc hương hình trụ tròn, hình giống xương khô, dài 5 – 11cm, đường kính 1,6 – 3,3cm. Mặt ngoài mầu vàng nâu, nâu tro, có vằn nhẵn và rãnh dọc rõ rệt, đồng thời có vết của rễ cạnh. Chất chắc, khó bẻ gẫy, vết bẻ không phẳng. Chung quanh méo. Ở giữa mầu trắng tro hoặc mầu vàng. Còn phần khác mầu nâu tro, nâu tối, có tâm hình hoa cúc. Cả thân rễ có thể nhìn thấy điểm dầu mầu nâu phân tán. Có mùi thơm đặc biệt, vị đắng.

Có nhiều loại Mộc Hương:

  • Vân Mộc Hương hoặc Quảng Mộc Hương: tên khoa học: Saussurea lappa Thuộc họ Cúc (Asteraceae). Cây thảo, lá phía gốc hình 3 cạnh tròn, mép nguyên hoặc hơi lượn sóng, 2 mặt đều có lông, mặt dưới nhiều hơn. Lá phía thân cũng hình 3 cạnh, càng lên cao lá càng nhỏ, mép có răng cưa. Cụm hoa hình đầu, màu lam tím. Quả bế.
  • Thổ Mộc Hương hoặc Hoàng Hoa Thái, tên khoa học: Inula helenium thuộc họ Cúc (Asteraceae). Cây thảo. Lá phía gốc to, lá phía thân nhỏ hơn, mọc so le. Mép lá có răng cưa không đều. Cụm hoa hình đầu, màu vàng. Quả bế.
  • Xuyên Mộc Hương hoặc Thiết Bản Mộc Hương, tên khoa học Jurinea aff souliei Thuộc họ Cúc (Asteraceae). Cây thảo. Mép lá chia thùy. Mặt trên có lông thưa, mặt dưới có lông nhung trắng. Cụm hoa hình đầu. Quả dẹt.

Ngoài ra, trong nhân dân còn dùng với tên Mộc hương nam cây Aristolochia balansae Franch. Thuộc họ Mộc hương (Aristolochiaceae). Cây bụi, cành đen. Lá nhẵn hình trái xoan dài. Hoa màu đỏ. Quả nang.

Khí vị:

Vị cay, khí ôn, không độc, tính thăng được mà giáng cũng được, là vị thuốc dương ở trong âm dược.

Chủ dụng:

Bổ cho khí không đầy đủ, thông được khí trướng, khí ủng tắc, điều hòa khí của Vị như thần, hành khí của Can rất mạnh, tan khí trệ ở cách mạc và Phế, phá khí kết ở Trung và Hạ tiêu, khu trừ chín loại đau bụng, đuổi khí lạnh đã lâu năm, chữa hoắc loạn thổ tả, nôn mửa phiên vị, trừ bĩ tích thành cục, bụng rốn trướng đau, an thai, khỏe Tỳ, trừ ung nhọt, mơ thấy ma quỹ, đưa dẫn tinh túy các vị thuốc, uống Mộc hương vào thì trong Tâm thư thái làm cho chính khí cũng thư thái, Can khí không nghịch lên được, chính là Tâm làm cho khí của Can phải hành mà không phải tự Can vận hành được.

Hợp dụng:

Cùng dùng với Hoàng liên trị chứng lỵ độc, nướng lên thì làm chắc Đại trường, làm sứ cho Binh lang thì phá khí, làm tá cho Khương, Quế thì điều hòa Vị, gặp Thảo quả, Thương truật thì chữa các chứng ôn ngược, chướng ngược, dùng Binh lang làm tá thì tiêu độc nhọt sưng và sán khí lạnh đau ở Bàng quang, có Sinh Khương, Nhục đậu khấu làm tá thì công hiệu càng mau, đem Hoàng liên kiềm chế nó thì sức khơi thông không quá lắm, đem Tri mẫu, Hoàng bá kiềm chế nó thì không đưa lên nhiều.

Cấm kỵ:

Phàm chứng âm hư nhất thiết phải kiêng dùng nó vì cay thơm thì chạy tiết ra, đến người khỏe uống lâu cũng không thích hợp.

Cách chế:

Tiêu tích hóa trệ thì mài sống hòa với nước thuốc mà uống, nếu dùng làm tá để điều hòa khí thì nên cho vào thang thuốc mà sắc, nếu muốn chỉ tả và trị chứng hư hàn thì nướng mà dùng. Thứ như cái xương khô mà nhiều dầu thì tốt.

Nhận xét:

Mộc hương là vị thuốc số một của phần khí Tam tiêu, khí và vị của nó thuần dương cho nên trừ được tà, khỏi được đau, vì đi tả và thức ăn ngưng đọng là bệnh của Tỳ, Tỳ thổ ưa ôn táo, gặp được nó thì kiến hiệu ngay, khí uất, khí nghịch là bệnh của Can gặp được Mộc hương khơi thông thì bình ngay, có thai nên thuận khí, cho nên gặp được Mộc hương thì yên thai.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Y phương tập giải”

Bài Mộc hương binh lang hoàn

Mộc hương, Binh lang, Thanh bì, Trần bì, Tam lăng, Nga truật, Hoàng liên-đều 40g, Hoàng bá, Hương phụ (sao), Đại hoàng-đều 20g, Khiên ngưu 60g. Cùng tán nhỏ, thêm Hồ làm hoàn, liều uống 8-12g, ngày vài lần.

Có tác dụng hành khí, đạo trệ, tả nhiệt, thông tiện.

Trị bụng đầy đau, táo bón, xích bạch lỵ, đau bụng mót rặn.

“Cảnh Nhạc toàn thư”

Bài Hương sa chỉ truật hoàn

Chỉ thực (sao với lúa mạch, rồi bỏ lúa mạch đi) 40g, Bạch truật 80g, Sa nhân, Mộc hương 30g.

Cùng tán nhỏ, thêm Hồ làm hoàn, liều uống 8-12g, ngày 2 lần. Có tác dụng tiêu bĩ, lý khí, phá khí trệ, tiêu thức ăn đình trệ, khai Vị, tiến thực.

Trị thức ăn qua đêm không tiêu, khí trệ làm cho Dạ dày đầy tức, không muốn ăn uống.

“Trương thị y thông”

Bài Hương sa lục quân tử thang

Mộc hươrng 3g, Sa nhân 3g, Trần bì 4g, Bạch linh 8g, Sinh khương 4g, Ô mai 2 quả, Bán hạ 8g, Nhân sâm 8g, Bạch truật 8g, Cam thảo 4g, Đại táo 3 quả. Có tác dụng kiện Tỳ, bổ khí, hòa trung, giáng đờm.

Trị Tỳ Vị hư yếu, nhiều đờm, tiêu hóa kém, khí quản viêm.

Trên lâm sàng thường dùng cho người bị bệnh Tỳ Vị hư yếu mà đờm thấp, viêm Dạ dày mạn, loét Tá tràng, viêm Phế quản mạn tính, rối loạn tiêu hóa, nôn mửa, tiêu chảy, đục thủy tinh thể.

“Y phương tập giải”

Bài Ngũ ma ẩm tử

Ô dược 10g, Trầm hương 10g, Chỉ thực 10g, Tân lang 10g, Mộc hương 10g. sắc trước Ô dược, Chỉ thực, Binh lang; Đinh hương cho vào sau; Mộc hương mài với Rượu trắng hòa vào thuốc; chia uống vài lần trong ngày.

Có tác dụng thuận khí giáng nghịch.

Trị chứng khi huyết nghịch lên do uất, cảu giận, ngất xỉu.

”Thế y đắc hiệu phương”

Bài Lục ma thang

Trầm hương 4g, Mộc hương 4g, Tân lang 6g, Ô dược 6g, Chỉ xác 4g, Đại hoàng 4g.

Sắc, chia uống 2 lần trong ngày.

Có tác dụng thông khí, thông tiện, chỉ thống.

Chữa khi trệ, bụng đau, đại tiện bí.

“Nội ngoại thương biện hoắc luận”

Bài Hậu phác ôn trung thang

Hậu phác 10g, Thảo đậu khấu 10g, Quất bì 8g, Bạch linh 10g, Cam thảo 5g, Mộc hương 10g, Can Khương 2g, Sinh Khương 3g. sắc, chia uống 2 lần trong ngày. Có tác dụng ôn Tỳ, trừ hàn thấp.

Chữa Tỳ Vị hàn thấp, bụng trướng đầy, hoặc hàn tà ân náu, xâm phạm Vị, gây đau từng cơn.

Nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn

Định nghĩa

Nhiễm khuẩn huyết: hội chứng gây ra bởi sự lan tràn nhiều lần và với số lượng lớn mầm bệnh vào trong dòng máu từ một 0 nhiễm khuẩn, biểu hiện bởi những dấu hiệu toàn thân (sốt, rét run) và bởi sự xuất hiện những ổ nhiễm khuẩn thứ phát khác, làm cho ổ nhiễm khuẩn nguyên phát lui xuống hàng thứ yếu.

sốc nhiễm khuẩn: tình trạng suy tuần hoàn do các nội độc tố của vi khuẩn gây ra, là biến chứng của nhiễm trực khuẩn Gram âm, biểu hiện bởi những dấu hiệu sau đây xuất hiện ở một bệnh nhân đang sốt: hạ huyết áp, nhịp tim nhanh, nhịp thỏ nhanh, và thiểu niệu (bài tiết ít nước tiểu).

Nhiễm độc huyết: thuật ngữ này dùng để chỉ những hội chứng lâm sàng do độc tố vi khuẩn gây ra, nhưng vi khuẩn không xâm nhập vào dòng máu.

Vãng khuẩn huyết: thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng vi khuẩn xâm nhập tạm thời vào dòng máu, từ một ổ nhiễm khuẩn khu trú, nhưng không gây ra những dấu hiệu lâm sàng.

Căn nguyên: 2/3 của những trường hợp nhiễm khuẩn huyết là do nhiễm vi khuẩn Gram âm, 10-20% trường hợp là do nhiễm vi khuẩn Gram dương, và 2- 5% số trường hợp là do nhiễm nấm. Những yếu tố thuận lợi đối với nhiễm khuẩn huyết là bệnh đái tháo đường, hội chứng tăng sinh lympho bào, xơ gan, và các thủ thuật xâm hại.

Ở đường tiết niệu (bị tắc, làm thủ thuật thông, soi bàng quang, đặt xông để lưu): vi khuẩn thường gặp là: trực khuẩn coli, Klebsiella, vi khuẩn đường ruột, trực khuẩn mủ xanh (Pseudomonas aeruginosa), Serratia.

Ở ruột và đường mật (bị tắc, ung thư, apxe, có túi thừa, bị thủng): vi khuẩn thường gặp là: vi khuẩn đường ruột, cầu khuẩn đường ruột, trực khuẩn coli, Klebsiella, Bacteroides, Enterobacter, Salmonella.

Ở tử cung (đặt dụng cụ, nạo thai, xảy thai, sau đẻ): vi khuẩn thường gặp là: trực khuẩn coli, liên cầu khuẩn, lậu cầu khuẩn, Bacteroides, Klebsiella, Serratia.

Ở khí quản và phổi (mở khí quản, hô hấp hỗ trợ, bị tắc đường hô hấp): vi khuẩn thường gặp là: phế cầu khuẩn, Haemophilus influenzae, trực khuẩn mủ xanh, Klebsiella, Enterobacter, Acinetobacter, Proteus, trực khuẩn coli.

Ớ tim và tĩnh mạch (làm thủ thuật thông cathéter, đặt máy tạo nhịp, thay van tim, truyền dịch bị nhiễm vào tĩnh mạch): vi khuẩn thường gặp là: trực khuẩn mủ xanh, Klebsiella, Acinetobacter.

Ở da và. niêm mạc (chấn thương, bỏng, suy giảm miễn dịch, mất bạch cầu hạt) vi khuẩn thường gặp là: tụ cầu khuẩn, trực khuẩn mủ xanh, Klebsiella, Acinetobacter.

Những vi khuẩn đường ruôt bao gồm những trực khuẩn Gram âm sau đây: trực khuẩn coli, Bacteroides, Klebsiella pneumoniae, Enterobacter, Serratia, Proteus, Providencia, Citrobacter, Salmonella, Shigella, Campilobacter, Yersinia enterocolitica.

Dịch tễ học: trong 2/3 số trường hợp, nhiễm khuẩn huyết xảy ra ở bệnh viện. Bệnh nhân có thê bị nhiễm từ trước hoặc sau khi đã nhập viện. Nhiễm khuẩn huyết thường đặc biệt hay xảy ra và nặng ở những bệnh nhân mà hệ thống phòng vệ miễn dịch bị suy yếu (dễ bị nhiễm khuẩn một cách không bình thường). Tình trạng kê đơn thuốc kháng sinh tràn lan và mù quáng đã góp phần làm phát triển những chủng vi khuẩn kháng thuốc, và do đó tạo thuận lợi cho sự phát triển nhiễm khuẩn huyết vốn rất khó điều trị.

Sinh lý bệnh của sốc nhiễm khuẩn: những nội độc tố là những phân tử lipopolysaccharid. Nội độc tố được giải phóng ra từ vi khuẩn vào lúc chúng bị phân giải, sẽ làm tổn thương nội mô của các mạch máu, và trong thời gian đầu sẽ gây ra giãn mạch, tiếp theo là co thắt các tiểu động mạch, và các tiểu tĩnh mạch; do đó làm ngừng trệ dòng máu ở các mao mạch của phổi, của các cơ quan trong ổ bụng, và cả của não. Hậu quả là mất cân bằng giữa cung và cầu về oxy của các cơ quan này (giảm oxy), đồng thời các chất thải của quá trình chuyển hoá cũng không được loại trừ hết, và tích tụ lại (gây ra nhiễm toan). Trong một số trường hợp, giãn mạch ngoại vi xảy ra vào lúc khởi đầu lại không xảy ra co mạch tiếp theo (hội chứng tăng động hoặc sốc nhiệt). Monoxyd nitơ (NO) được sản sinh ra quá thừa sẽ có tác dụng gây liệt mạch và suy tuần hoàn.

Triệu chứng

SỐT: sốt thường bắt đầu đột ngột, trước đó là cơn rét run ghê gớm. Sốt thuộc kiểu nôi cơn, dai dẳng hoặc liên tục kiểu cao nguyên. Tuy nhiên, có thể bệnh nhân không sồ”t nếu nhiễm khuẩn huyết xảy ra ở những người mà hệ thống phòng vệ miễn dịch đã bị suy yếu, hoặc ở người già, hoặc ở trẻ sơ sinh. Đôi khi da bệnh nhân lạnh, chỉ đo nhiệt độ ở trực tràng mối thấy thân nhiệt tăng cao.

LÁCH TO: là dấu hiệu hay gặp.

CÁC DẤU HIỆU SỐC NHIỄM KHUÂN: hạ huyết áp cấp tính xảy ra ở một bệnh nhân đang bị sốt (đôi khi hạ thân nhiệt). Bệnh nhân có biểu hiện lo lắng, rét run, tím tái, da có màu xám nhợt, các chi lạnh, nhịp tim nhanh, nhịp thở nhanh hoặc thở nhanh sâu, tiểu tiện ít.

Sốc nhiễm khuẩn có thể kèm theo những dấu hiệu nhiễm toan chuyển hoá, đông máu nội mạch rải rác (máu bị đông rải rác trong lòng mạch), giảm tiểu cầu, chấm xuất huyết, ban xuất huyết, suy hô hấp cấp tính (xem thêm về bệnh này), suy thận tiến triển (hoại tử ống thận cấp).

DIỄN BIẾN: tiến triển nặng thêm nếu vẫn tồn tại những dấu hiệu: tiểu tiện ít, suy tuần hoàn, hô hấp, và xuất hiện tình trạng hôn mê sâu dần.

CÁC BIẾN CHỨNG: những ổ viêm mủ thứ phát xuất hiện ở nhiều nởi (ở màng phổi và phổi, ở hệ thần kinh trung ương và màng não, ở nội tâm mạc, ở thận, ở gan, ở xương và khớp xương). Apxe thứ phát có thể hình thành ở phần lớn các cơ quan.

SỐC NHIỄM ĐỘC TỤ CẦU KHUÂN (xem thêm về bệnh này).

BAN XUẤT HUYẾT MÀNG NÃO CẦU KHUẨN (về chi tiết, xem từ này).

Chẩn đoán: dễ, nếu có các triệu chứng và dấu hiệu: rét run, sốt, và phát hiện được một ổ nhiễm khuẩn có sẵn. Nếu bệnh nhân không sốt nhưng có các dấu hiệu hạ huyết áp, thiểu niệu, nhịp tim nhanh hoặc thở nhanh sâu mà không có nguyên nhân rõ ràng thì phải nghĩ tới sốc nhiễm khuẩn, nhất là ở người già và trẻ sơ sinh.

Chẩn đoán phân biệt: với nhồi máu cơ tim có sốc tim, chèn ép tim, tách phồng động mạch, chảy máu trong.

Xét nghiệm cận lâm sàng: tuy kết quả cấy máu dương tính khẳng định chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết, nhưng nếu kết quả cấy máu âm tính thì cũng không được phép loại trừ chẩn đoán này.. Thường có tăng bạch cầu và giảm tiểu cầu. Urê huyết và creatinin huyết thường tăng. Có các dấu hiệu nhiễm toan chuyển hoá và nhiễm kiềm hô hấp.

Tiên lượng: phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là “cửa vào” của vi khuẩn (nhiễm khuẩn huyết xuất phát từ da hoặc từ phổi thường nặng hơn so với nhiễm khuẩn huyết xuất phát từ đường tiết niệu, mật, hoặc ruột). Tiên lượng phải dè dặt khi vãng khuẩn huyết kéo dài ở những đối tượng bị suy giảm miễn dịch.

Điều trị

TÌM ĐƯỜNG VÀO CỦA VI KHUẨN: tìm một ổ nhiễm khuẩn và loại bỏ nó bằng phẫu thuật là điều bắt buộc phải làm.

KHÁNG SINH: nhiễm khuẩn huyết đòi hỏi phải được điều trị ngay tức thời, không chờ đợi kết quả cấy máu và kháng sinh đồ. Việc chọn lựa thuốc kháng sinh lúc này có thể dựa vào nguồn nhiễm khuẩn được dự đoán, dựa vào xét nghiệm phiến đồ những bệnh phẩm lấy một cách thích hợp và nhuộm Gram, và dựa vào những hiểu biết về tính cảm thụ và kháng thuốc của những chủng vi khuẩn thường gặp ở trong vùng bệnh nhân sinh sống và ở trong bệnh viện.

Nếu không biết mầm bệnh, và không tìm thấy ổ nhiễm khuẩn, thì nên sử dụng cephalosporin thế hệ thứ 3 phối hợp với aminosid. Liệu pháp kháng sinh khởi đầu sẽ phải thay đổi cho phù hợp vôi tính cảm thụ của vi khuẩn phân lập được khi cấy máu. Thời gian điều trị phải kéo dài tối thiểu thêm 2 tuần kể từ sau khi bệnh nhân hết sốt.

Đối với những người sử dụng ma tuý bằng cách tiêm chích, thì nên điều trị thêm bằng vancomycin.

ĐIỀU TRỊ SỐC NHIỄM KHUẨN (ở cơ sở chuyên khoa):

Phục hồi thể tích tim-mạch: bằng cách truyền dung dịch nước muôi sinh lý, các dung dịch dạng keo tự nhiên (như albumin) hoặc tổng hợp (như gelatin, dextran).

Duy trì thông khí (cho thở oxy qua xông đặt vào hốc mũi, qua mặt nạ, đặt ống nội khí quản, hô hấp hỗ trợ), duy trì trương lực thành mạch (bằng dopamin, hoặc các catecholamin khác), duy trì liệu pháp kháng sinh tuỳ theo ổ nhiễm khuẩn khởi đầu, điều trị suy thận cấp.

Huyệt Trung Khu

Trung Khu

Tên Huyệt:

Khu chỉ vùng cơ chuyển động. Huyệt ở giữa (trung) cột sống, là chỗ chuyển động của cơ thể, vì vậy gọi là Trung khu.

Tên Khác:

Trung Xu.

Xuất Xứ:

Thiên ‘Khí Phủ Luận’ (Tố Vấn.59).

Đặc Tính:

Huyệt thứ 7 của mạch Đốc.

Vị Trí:

Chỗ lõm dưới đầu mỏm gai đốt sống lưng 10.

Giải Phẫu:

Dưới da là gân cơ thang, cân ngực-thắt lưng của cơ lưng to, cơ gai dài của lưng, cơ ngang gai, dây chằng trên gai, dây chằng gian gai, dây chằng vàng, ống sống.

Thần kinh vận động cơ là nhánh của dây thần kinh sọ não số XI, nhánh đám rối cổ sâu và các nhánh của dây thần kinh sống.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D8.

Chủ Trị:

Trị cột sống đau, dạ dầy đau, mắt nhìn kém.

Phối Huyệt:

Phối Mệnh Môn (Đốc.4) trị trẻ nhỏ 2 chân bị liệt (Châm Cứu Học Thuợng Hải).

Châm Cứu:

Châm kim chếch lên, luồn dưới mỏm gai hướng vào khoảng gian đốt sống lưng 10 – 11, sâu 0, 3 – 1 thốn. Cứu 10 – 15 phút.

Nootropyl

Thuốc nootropyl-800mg
Thuốc nootropyl-800mg

NOOTROPYL

viên nang 400 mg: hộp 60 viên. viên bao 800 mg: hộp 45 viên.

dung dịch uống 200 mg/ml: chai 125 ml + pipette có khắc vạch. dung dịch uống 1,2 g/6 ml: ống 6 ml, hộp 30 ống.

dung dịch tiêm 1 g/5 ml: ống 5 ml, hộp 12 ống. dung dịch tiêm 3 g/15 ml: ống 15 ml, hộp 4 ống. dịch truyền tĩnh mạch 12 g/60 ml: chai 60 ml.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Piracétam 400 mg
(Lactose)
cho 1 viên
Piracétam 800 mg
(Lactose)
cho 1 ml thuốc uống
Piracétam 200 mg
cho 1 ống thuốc uống
Piracétam 1200 mg
cho 1 ống thuốc tiêm 5 ml
Piracétam 1 g
cho 1 ống thuốc tiêm 15 ml
Piracétam 3 g
cho 1 chai truyền tĩnh mạch 60 ml
Piracétam 12 g

DƯỢC LỰC

Thuốc có hoạt tính trên sự chuyển hóa.

Giảm oxy huyết do thiếu máu cục bộ và thiếu oxy:

  • theo kinh nghiệm khảo sát trên động vật, pirac tam làm tăng cường sự chịu đựng của não đối với sự thiếu oxy huyết, chống lại các rối loạn chuyển hóa do thiếu máu cục bộ ;
  • pirac tam làm tăng sự khai thác và tiêu thụ glucose một cách độc lập với nguồn cung cấp oxygène, thuận lợi cho đường chuyển hóa pentose và duy trì sự tổng hợp năng lượng ở não (ATP) ;
  • pirac tam làm tăng tốc độ hồi phục sau chứng giảm oxy huyết bằng cách làm tăng nhanh tốc độ quay của các phosphate vô cơ và bằng cách làm giảm sự tích tụ glucose và acide lactique ;
  • Trên điện não đồ, pirac tam làm tăng nhanh sự bình thường hóa sau chứng giảm oxy huyết thiếu

Giảm oxy huyết do ngộ độc, do thuốc:

  • kinh nghiệm cho thấy rằng piracétam làm giảm các rối loạn trên điện não đồ, tăng khả năng sống sót trên động vật được cho dùng barbiturate với liều gây ngộ độc ;
  • do có tác động chuyên biệt trên sự chuyển hóa ở não, bằng cách làm giảm sự tiêu thụ oxygène, piracétam cho phép duy trì sự tạo thành ATP, hoạt động của G6PD, mà không làm tăng sự hình thành các lactate.

Ngoài ra, pirac tam có tác động trên rất nhiều chất dẫn truyền thần kinh (acétylcholine, noradrénaline, dopamine…), nhờ đó cải thiện các hoạt động có liên quan đến trí nhớ.

Piracetam còn có tác động trên các hoạt động vi tuần hoàn và làm giảm sự kết tập tiểu cầu.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

  • Sau khi uống, thuốc được hấp nhu nhanh và hoàn toàn. Nồng độ tối đa đạt được trong máu sau 45 phút và từ 2 đến 8 giờ trong dịch não tủ Sự hấp thu thuốc vẫn ổn định sau khi uống thuốc nhiều ngày.
  • Thời gian bán hủy từ 4 đến 5 giờ trong máu và từ 6 đến 8 giờ trong dịch não tủy (kéo dài hơn trong trường hợp bị suy thận).
  • Động học của sự phân phối thuốc ở não và tiểu não cho thấy rằng nếu sự hấp thu tại những nơi này chậm lại thì pirac tam lưu lại lâu hơn so với trong máu.
  • Thời gian bán hủy lâu hơn ở người suy thận, do đó cần giảm liều ở những bệnh nhân này. Pirac tam qua được các màng lọc của các máy thẩm tách thậ Ở bệnh nhân bị suy thận hoàn toàn và không hồi phục, thời gian bán hủy từ 48 đến 50 giờ.
  • Thuốc qua được hàng rào nhau thai.
  • Đào thải: hầu hết thuốc được đào thải qua thận, trong vòng 30 giờ. Thanh thải ở thận của người lớn là 86ml/phút.

CHỈ ĐỊNH

Dạng uống:

  • Cải thiện triệu chứng chóng mặt
  • Được đề nghị để cải thiện một vài triệu chứng suy giảm trí tuệ bệnh lý ở người già (rối loạn sự tập trung, trí nhớ…).
  • Được đề nghị trong điều trị sau cơn nhồi máu não hay chấn thương sọ não.
  • Ở trẻ em: điều trị hỗ trợ chứng khó đọc

Dạng tiêm:

  • Được đề nghị trong điều trị cơn nhồi máu não, chấn thương sọ não, rung giật cơ.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Suy thận nặng.

Nếu không làm thẩm tách, không nên dùng các liều cao gần nhau.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Ở bệnh nhân suy thận, có làm thẩm tách hay không:

  • liều dùng được điều chỉnh do thuốc được đào thải hoàn toàn qua thận và do đặc tính thấm qua được các dụng cụ thẩm tách ;
  • cần thận trọng dùng các liều cách xa và giảm liều khi sự thanh thải créatinine thấp hơn 60 ml/phút (thời gian bán hủy của Nootropyl tăng gấp đôi) và đặc biệt nếu sự thanh thải này thấp hơn 30 ml/phút (thời gian bán hủy: 25-42 giờ) ;
  • do không kiểm tra được nồng độ của piracétam trong huyết tương, nên thận trọng dùng các liều cách xa hoặc giảm liều dựa trên các giá trị thanh thải créatinine.

LÚC CÓ THAI

Ở động vật, các nghiên cứu không cho thấy thuốc có tác động gây quái thai. Ở người, do còn thiếu số liệu, nguy cơ này không được biết.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Các tác dụng phụ như cau có, dễ kích động, rối loạn giấc ngủ có thể xảy ra sau khi dùng liều cao với tỉ lệ không dưới 5%.

Các tác dụng phụ khác trên hệ tiêu hóa như buồn nôn, ói, tiêu chảy và đau bao tử cũng được ghi nhận với tỉ lệ dưới 2%.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Dạng thuốc nước khi uống có thể được pha loãng với một ít nước.

Người lớn:

Rối loạn khả năng nhận thức và chóng mặt:

Viên 800 mg: liều thông thường mỗi lần 1 viên, 3 lần/ngày. p Viên 400 mg: liều thông thường mỗi lần 2 viên, 3 lần/ngày.

Dung dịch uống với pipette có khắc vạch: liều thông thường mỗi lần 800 mg, 3 lần/ngày, khi uống có thể pha loãng với một ít nước.

Dung dịch uống 1,2 g chứa trong ống thuốc: liều thông thường mỗi lần 1 ống, 2 lần/ngày, khi uống có thể pha loãng với một ít nước.

Các liều này có thể tăng lên trong vài trường hợp. n Điều trị cơn nhồi máu não, chấn thương sọ não:

Dung dịch uống với pipette có khắc vạch: liều thông thường mỗi lần 1 g,3 lần/ngày, khi uống có thể pha loãng với một ít nước.

Dạng tiêm 1 g, 3 g: liều thông thường 3-6 g/ngày, tiêm tĩnh mạch, tiêm truyền hoặc tiêm bắp. Liều có thể tăng đến 12 g/ngày trong trường hợp nặng.

Trẻ em:

Chứng khó đọc: dùng dạng dung dịch uống chứa trong chai.

Liều trung bình là 50 mg/kg/ngày (chẳng hạn ở trẻ nặng 30 kg, mỗi lần uống 500 mg, 3 lần/ngày), khi uống có thể pha loãng với một ít nước.

QUÁ LIỀU

Thuốc không gây độc tính, do đó không cần dùng đến các biện pháp chuyên biệt khi bị quá liều.

Các Bệnh van tim – Triệu chứng, nguyên nhân và điều trị

HẸP VAN HAI LÁ

Nguyên nhân

Thường gặp nhất là hậu thấp, mặc dù tiền căn sốt thấp cấp hiện nay không rõ ràng; hẹp hai lá bẩm sinh hiếm gặp, chỉ thấy ở trẻ sơ sinh.

Bệnh sử

Triệu chứng thường xảy ra ở độ tuổi 40, nhưng hẹp van hai lá thường gây mất chức năng nặng ở độ tuổi sớm hơn ở các nước đang phát triển. Triệu chứng chính là khó thở và phù phổi do gắng sức, phấn khích, sốt, thiếu máu, nhịp nhanh kịch phát, mang thai, quan hệ tình dục, v.v..

Thăm khám lâm sàng

Thất phải nảy cạnh ức; ”sờ được” T1; clack mở van (OS) sau A2 khoảng 0.06-–0.12 s; khoảng OS–-A2 đảo ngược tỉ lệ với mức độ hẹp van. Âm thổi rung tâm trương và gia tăng ngay trước kì tâm thu trong nhịp xoang.

Độ dài của âm thổi tương quan với mức độ hẹp van.

Biến chứng

Ho ra máu, thuyên tắc phổi, nhiễm trùng phổi, huyết khối hệ thống; viêm nội tâm mạc ít gặp trong hẹp van hai lá đơn thuần.

ECG

Thường thấy rung nhĩ hoặc lớn nhĩ trái với nhịp xoang. Trục lệch phải và lớn thất phải khi có tăng áp phổi.

Xquang ngực

Cho thấy lớn nhĩ trái và thất phải và các đường Kerley B.

Siêu âm tim

Phương pháp không xâm lấn có lợi nhất; cho thấy độ phân chia không đồng đều, vôi hoá và dày các lá van và bộ máy dưới van, và lớn nhĩ trái. Siêu âm Doppler cung cấp độ chênh áp ước lượng giữa hai bên vùng van hai lá, và mức độ tăng áp phổi.

Những bệnh nhân có nguy cơ nên được dùng kháng sinh dự phòng cho sốt thấp tái phát (penicillin V 250–-500 mg uống 2 lần/ngày hoặc benzathine penicillin G 1–2 M đơn vị tiêm bắp hàng tháng). Nếu có khó thở, nên hạn chế muối và dùng lợi tiểu uống; beta blockers, digitalis, hay kiểm soát nhịp tim bằng chẹn kênh calci (v.d verapamil or diltiazem) để làm giảm tần số thất trong rung nhĩ. Warfarin (mục tiêu INR 2.0-–3.0) ở những bệnh nhân rung nhĩ và/hoặc tiền căn huyết khối hệ thống hay thuyên tắc phổi. Nếu rung nhĩ mới xuất hiện, xem xét hồi phục lại nhịp xoang (hoá học hay dùng điện), lý tưởng là ≥3 tuần dùng chống đông. Phẫu thuật van hai lá nếu có triệu chứng và kích thước lỗ van ≤ ~1.5 cm2. Trong hẹp hai lá đơn giản, nong van bằng bóng qua da là thủ thuật được lựa chọn; nếu không khả thi, thì phẫu thuật mở (Hình 123-1).

HỞ VAN HAI LÁ

Nguyên nhân

Sa van hai lá (xem ở dưới), bệnh tim hậu thấp, bệnh tim thiếu máu có rối loạn chức năng cơ nhú, giãn thất trái do bất cứ nguyên nhân nào, vôi hoá vòng van hai lá, bệnh cơ tim phì đại, viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, bẩm sinh.

Đặc điểm lâm sàng

Mệt mỏi, yếu người, khó thở khi gắng sức. Thăm khám lâm sàng: mạch động mạch nảy mạnh, thất trái nảy mạnh, T1 mờ: T2 tách đôi giãn rộng; T3 âm thổi toàn tâm thu lớn và thường có âm thổi đầu-giữa tâm trương ngắn do gia tăng lưu lượng giữa hai bên van.
Điều trị hẹp van hai lá

HÌNH123-1 Điều trị hẹp van hai lá (MS). †Có sự tranh cãi ở những bệnh nhân hẹp nặng (MVA <1.0 cm2) và tăng áp phổi nặng (PH) (PASP >60 mmHg) nên được nong van bằng bóng (PMBV) hoặc thay van hai lá (MVR) để phòng ngừa suy thất phải. CXR: xquang ngực; ECG: điện tâm đồ; echo: siêu âm tim; LA: nhĩ trái; MR: hở van hai lá; MVA: diện tích van hai lá; MVG: độ chênh áp trung bình giữa hai van; NYHA: Hội tim mạch New York; PASP: áp lực động mạch phổi; PAWP  : áp lực giường mao mạch phổi; van hai lá; 2D: 2 chiều.

Siêu âm tim

Lớn nhĩ trái, thất trái tăng động, xác định cơ chế của hở hai lá; Doppler giúp ích trong chẩn đoán và đánh giá độ nặng của hơ van hai lá và mức độ tăng áp phổi.

Điều trị hở van hai lá tiến triển

HÌNH 123-2 Điều trị hở van hai lá tiến triển. *Phẫu thuật van hai lá có thể được thực hiện ở bệnh nhân không triệu chứng với chức năng thất trái bình thường nếu được thực hiện bởi đội ngũ phẫu thuật có kinh nghiệm và nếu khả năng thành công >90%. AF: rung nhĩ; Echo: siêu âm tim; EF: phân suất tống máu; ESD: đường kính cuối tâm thu; eval, đánh giá; HT, tăng huyết áp; MVR: thay van hai lá.

ĐIỀU TRỊ Hở van hai lá (Xem Hình 123-2)

Đối với hở van hai lá nặng/mất bù, điều trị như suy tim. Thuốc giãn mạch tiêm tĩnh mạch (v.d nitroprusside) có lợi trong hở van hai lá cấp, nặng. Kháng đông được chỉ định khi có rung nhĩ. Điều trị phẫu thuật, cũng như sửa chữa hay thay thế van, thì phù hợp cho bệnh nhân có triệu chứng hay bằng chứng của rối loạn chức năng thất trái tiến triển [phân suất tống máu thất trái ≤60% hoặc đường kính thất trái cuối tâm trương trên siêu âm ≥40 mm]. Phẫu thuật cần được thực hiện trước khi tiến triển triệu chứng của suy tim mạn.

SA VAN HAI LÁ

Nguyên nhân

Thường là vô căn; có thể liên quan đến sốt thấp, bệnh tim thiếu máu, thông liên nhĩ, hội chứng Marfan, hội chứng Ehlers-Danlos.

Bệnh học

Mô van hai lá thừa với phù niêm thoái triển và thừng gân bị kéo dãn.

Đặc điểm lâm sàng

Thường gặp ở nữ. Hầu hết bệnh nhân không có triệu chứng. Triệu chứng thường gặp nhất là đau ngực mơ hồ, nhịp nhanh trên thất và loạn nhịp thất. Biến chứng quan trọng nhất là hở van hai lá nặng gây hậu quả suy thất trái. Hiếm hơn, huyết tắc hệ thống do tiểu cầu-fibrin kết tụ tại van. Đột tử là một biến chứng rất hiếm gặp.

Thăm khám thực thể

Tiếng click giữa hoặc cuối tâm thu theo sau bởi âm thổi cuối tâm thu ở mỏm; gia tăng khi làm nghiệm pháp Valsava, giảm khi ngồi xổm hoặc gắng sức bất động.

Siêu âm tim

Cho thấy một hay hai lá van hai lá lạc vị cuối kì tâm thu.

ĐIỀU TRỊ Sa van hai lá

Bệnh nhân không triệu chứng nên được tái khám. Beta blockers có thể làm giảm khó chịu ở ngực và đánh trống ngực. Dự phòng viêm nội tâm mạc nhiễm trùng được chỉ định chỉ khi có tiền căn viêm nội tâm mạc trước đó. Sửa chữa hoặc thay thế van cho những bệnh nhân hở van hai lá nặng; aspirin hay kháng đông cho những bệnh nhân tiền căn có thiếu máu não thoáng qua hay huyết khối.

HẸP VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ

Nguyên nhân

Thường gặp nhất là (1) vôi hoá thoái triển của bệnh hai lá van bẩm sinh, (2) sự phát huỷ mạn tính của ba lá van, và (3) bệnh tim hậu thấp (gần như lúc cũng cũng gặp với bệnh hai lá hậu thấp).

Triệu chứng

Khó thở khi gắng sức, đau ngực, và ngất là các triệu chứng tại tim; chúng xảy ra trễ, sau vài năm sau khi bị hẹp và diện tích van ≤1.0 cm2.

Thăm khám thực thể

Mạch động mạch yếu và nảy chậm (parvus et tardus) với rung động mạch cảnh. Mỏm tim nảy hai lần (T4 sờ được); A2 yếu hay mất; T4 thường gặp.

Âm thổi tâm thu dạng “kim cương” ≥ độ 3/6, thường có rung tâm thu. Âm thổi điển hình nghe rõ ở gian sườn hai, lan lên động mạch cảnh và đôi khi ở mỏm (hiệu ứng Gallavardin).

ECG

Thường cho thấy phì đại thất trái, nhưng không hữu ích trong ước lượng độ chênh áp.

Phác đồ điều trị hẹp van động mạch chủ

HÌNH 123-3 Phác đồ điều trị hẹp van động mạch chủ (AS). AVA: diện tích van động mạch chủ; BP: huyết áp; CABG: phẫu thuật bắc cầu động mạch vành; LV: thất trái; Vmax: vận tốc máu lớn nhất qua van trên siêu âm Doppler. ( Modified from CM Otto: J Am Coll Cardiol  47:2141, 2006.)

Siêu âm tim

Cho thấy phì đại thất trái, vôi hoá và dày các lá van động mạch chủ với giảm động mở kì tâm thu. Thất trái giãn và giảm khả năng co bóp là một tiên lượng xấu. Doppler giúp đo lường độ chênh áp và cho phép tính diện tích của lỗ van.

ĐIỀU TRỊ Hẹp van động mạch chủ (Xem Hình 123-3)

Tránh gắng sức quá mạnh trong hẹp van động mạch chủ nặng, kể cả khi không có triệu chứng. Điều trị suy tim theo tiêu chuẩn, nhưng cẩn thận khi dùng giãn mạch cho những bệnh nhân có bệnh tiến triển. Thay thế van được chỉ định ở người lớn có triệu chứng do hẹp van và có bằng chứng thay đổi huyết động do tắc nghẽn. Ghép van động mạch chủ qua cathether (TAVI) là một phương pháp đang được nghiên cứu cho những bệnh nhân có nguy cơ phẫu thuật cao và đã cho thấy kết quả khả quan.

HỞ VAN ĐỘNG MẠCH CHỦ

Nguyên nhân

Tại van: hậu thấp (đặc biệt nếu có bệnh van hai lá hậu thấp), bệnh hai lá van, viêm nội tâm mạc. Dãn gốc động mạch chủ: dãn do hoại tử áo giữa dạng nang, bóc tách động mạch chủ, ankylosing spondylitis, giang mai.

Ba phần tư bệnh nhân là nam.

Đặc điểm lâm sàng

Khó thở khi gắng sức và cảm thấy tim đập mạnh, đau thắt ngực, và các dấu hiệu của suy thất trái. Wide pulse pressure, water hammer pulse, mạch mao mạch (dấu Quincke), A2 yếu hay mất, T3 thường gặp. Âm thổi giảm dần kì tâm trương dọc theo bờ trái ức (dọc theo bờ phải nếu dãn động mạch chủ). Có thể có âm thổi tâm thu do tăng lượng máu kì tâm thu.

ECG và Xquang ngực

Lớn thất trái

Siêu âm tim

Lớn nhĩ trái, lớn thất trái, van hai lá rung với tần số cao kì tâm trương. Các lá van động mạch có thể mất ăn khớp với nhau. Doppler cho phép phát hiện và đánh giá hở van động mạch chủ.

ĐIỀU TRỊ Hở van động mạch chủ

Điều trị chuẩn cho suy thất trái. Thuốc dãn mạch (nifedipine tác dụng dài hay ức chế men chuyển) được khuyến cáo nếu có tăng huyết áp. Phẫu thuật thay thế van nên được thực hiện ở bệnh nhân hở van nặng khi tiến triển triệu chứng hoặc ở bệnh nhân không triệu chứng có rối loạn chức năng thất trái (phân suất tống máu thất trái <50%, thể tích thất trái cuối tâm thu >55 mL/m2, đường kính cuối tâm thu >55 mm, hay đường kính thất trái tâm trương >75 mm) bằng hình ảnh học.

HẸP VAN BA LÁ

Nguyên nhân

Thường do hậu thấp; thường gặp ở nữ; hầu như lúc nào cũng kèm theo hẹp van hai lá.

Đặc điểm lâm sàng

Gan to, báng bụng, phù, vàng da, tĩnh mạch cổ nổi với sóng y xuống chậm. Rung tâm trương dọc bờ trái ức gia tăng khi hít vào và tăng cường độ vào tiền tâm thu. Lớn nhĩ phải và tĩnh mạch chủ trên trên phim Xquang. Siêu âm Doppler cho thấy dày các lá van và giảm độ phân tách của các lá van, cho phép ước tính độ chênh áp giữa hai bên van.

ĐIỀU TRỊ Hẹp van ba lá

Trong hẹp van ba lá nặng, điều trị phẫu thuật sửa van hay thay thế van thường được chỉ định.

HỞ VAN BA LÁ

Nguyên nhân

Thường hở chức năng và thứ phát do dãn lớn thất phải do bất cứ nguyên nhân gì và thường kèm theo tăng áp động mạch phổi.

Đặc điểm lâm sàng

Suy thất phải nặng, kèm phù, gan to, nhịp tĩnh mạch cảnh có sóng v nhô cao và sóng γ xuống nhanh. Âm thổi tâm thu dọc phần dưới bờ trái ức gia tăng khi hít vào. Siêu âm Doppler giúp xác định chẩn đoán và ước tính độ nặng.

ĐIỀU TRỊ Hở van ba lá

Điều trị lợi tiểu tích cực khi có dấu hiệu của suy tim phải. Trong các trường hợp nặng (không có tăng áp phổi nặng), điều trị phẫu thuật bao gồm thắt vòng van ba lá hoặc thay thế van.

Bé làm quen với đồ ăn nhỏ

Tháng 7, Tuần 3

Khi bé của bạn đã thành thạo việc ăn các loại thực phẩm mềm nghiền, bé có thể sẵn sàng chuyển sang thức ăn nhỏ khoảng 8 tháng tuổi. Bé đã có khả năng khéo léo để cầm nắm thức ăn và đưa vào miệng nghiền nát chúng, và sẽ trở nên hiệu quả và độc lập hơn khi bé thành thạo cách cầm nắm bằng đầu ngón tay khoảng 9 tháng. Lúc đó, bé sẽ có thể sử dụng ngón cái và ngón trỏ để nhặt các miếng thức ăn nhỏ.

Dinh dưỡng và sự phát triển của bé
Dinh dưỡng và sự phát triển của bé

Bé có thể sẽ với tay lấy mọi thứ trên đĩa của bạn, nhưng hãy tuân theo những hướng dẫn sau để đảm bảo bữa ăn lành mạnh và an toàn.

Bắt đầu với những món như miếng phô mai mềm; những miếng nhỏ pasta hoặc bánh mì; rau củ mềm thái nhỏ; và trái cây như chuối, bơ và đào hoặc mơ chín. Những thực phẩm này nên yêu cầu ít nhai, vì bé có thể vẫn chưa có răng. KHÔNG cho bé ăn xúc xích, rau sống, hạt, thịt, kẹo cứng, hoặc các loại thực phẩm dính như bơ hạt do có nguy cơ nghẹt thở cao ở giai đoạn này.
Giới thiệu thực phẩm mới một cách lần lượt để kiểm tra xem có bất kỳ lo ngại nào về dị ứng không.
Thái tất cả thực phẩm thành các miếng nhỏ, mềm, kích thước 1/2 inch hoặc nhỏ hơn.
Cẩn thận với các nguy cơ nghẹt thở: Tránh các thực phẩm tròn, cứng như cà rốt, nho và xúc xích, và bỏ qua bất kỳ thứ gì như rau sống và đậu phộng. Nho khô và bỏng ngô rất nguy hiểm cho trẻ em.
Tiếp tục chế độ cho bé uống sữa công thức hoặc cho con bú, nhưng khi bé ăn nhiều thức ăn đặc hơn, bé sẽ tự nhiên uống ít sữa hơn. Bé cần bắt đầu ăn nhiều thức ăn đặc và uống ít sữa hơn để có giá trị dinh dưỡng ở giai đoạn này.

Sự phát triển của bé trong tuần này

Bé của bạn đang trở nên mạnh mẽ hơn và có thể đang di chuyển xung quanh, có thể là trượt bụng lùi, lết trên mông, hoặc thực sự bò về phía trước. Nếu bạn chưa bảo đảm an toàn cho ngôi nhà, đừng chần chừ nữa!

Bạn có thể nhận thấy những dấu hiệu phát triển vận động đang tăng lên như sau:

  • Bé của bạn có thể ngồi một mình trong vài phút mà không cần dùng tay làm điểm tựa và có thể tự đứng dậy để vào tư thế ngồi.
  • Khi bạn hỗ trợ, bé có thể nhảy lên nhảy xuống và có thể thậm chí kéo lên để đứng.
  • Đôi tay nhỏ của bé ngày càng linh hoạt hơn — bé đang trở nên tốt hơn trong việc chuyền đồ chơi qua lại giữa hai tay.

Bạn có thể thắc mắc về:

  • Tầm nhìn của bé. Đến giờ, bé nên có thể nhìn xa gần như người lớn và có khả năng theo dõi các vật di chuyển bằng mắt.
  • Sự lo âu với người lạ. Bạn không phải tưởng tượng đâu: Bé có thể sợ hãi những người và tình huống mới. Hãy cho bé thời gian làm quen và trấn an bé nếu bé cảm thấy khó chịu.
  • Những gì bé có thể hiểu. Bé có thể hiểu nhiều hơn bạn nghĩ, vì vậy việc tiếp tục trò chuyện với bé về mọi thứ bạn đang làm và cố gắng sử dụng những từ ngữ nhất quán cho các đồ vật quen thuộc là rất quan trọng.

Mẹo cho tuần thứ 3 tháng 7

  • Nếu có tiền sử dị ứng thực phẩm trong gia đình, hãy nói chuyện với bác sĩ nhi khoa của bạn về việc giới thiệu các thực phẩm dễ gây dị ứng như đậu phộng và trứng.
  • Thực phẩm chiên không phải là lựa chọn tốt cho trẻ sơ sinh. Nếu bạn có cho bé ăn, hãy làm điều đó một cách hiếm hoi.
  • Tránh cho bé uống nước trái cây trừ khi đó là nước trái cây vắt tươi.
  • Đến giờ, chế độ ăn của bé nên bao gồm ngũ cốc, trái cây, rau củ và thịt, và bé nên ăn từ hai đến ba bữa mỗi ngày.
  • Ngoài bột gạo, bột đại mạch hoặc bột yến mạch, bạn có thể giới thiệu các sản phẩm ngũ cốc mà bé có thể tự cầm, như bánh mì nướng, bánh quy và ngũ cốc khô. Tránh các loại ngũ cốc có màu sắc sặc sỡ và nhiều đường.
  • Đặt bé vào ghế ăn cao trong giờ ăn. Nếu bé ăn các món finger food trong khi bò xung quanh, bé có nguy cơ bị nghẹn cao hơn.
  • Bạn chưa xong việc cho bé bú mẹ hoặc bú bình. Bé đang bắt đầu quá trình chuyển tiếp, nhưng sữa mẹ và sữa công thức vẫn là rất quan trọng.
  • Nghiền hoặc xay nhuyễn rau củ có thể giúp bé dễ dàng ăn hơn khi bé bắt đầu chuyển từ chế độ ăn lỏng sang ăn đặc

Phương thuốc làm người phát hương thơm tự nhiên (thể hương)

NÓI VỀ THỂ HƯƠNG

Bất luận nam hay nữ trên thân thể dù sao cũng có một ít mùi vị, mùi vị này thường thường vì lứa tuổi và chủng tộc mà có sự khác biệt nhau. Có những người, đặc biệt là những người có thể trạng khỏe mạnh kiện toàn, mùi vị mà thân thể họ tán phát ra khiến người ta thấy dễ chịu, mùi vị đó gọi là “hương trời” hoặc gọi là “Phiên hương tự nhiên”, phiên hương này đối với hệ thống thần kinh có tác dụng kích thích mãnh liệt, và có sức hấp dẫn. Làm cách nào để thân thể tự mình có mùi phiên hương ? Đó là điều mà mỗi độc giả nào cũng muốn biết.

Khứu giác của loài người thuộc về một trong những bản năng nguyên thủy. Thanh niên nam nữ trong các cuộc hoạt động giao tế, tình cảm thường bị ảnh hưởng bởi mùi vị tỏa rạ của thân thể đối phương, hoặc là vì mùi vị tương đồng mà tiếp cận, hoặc là vì mùi .vị không tương đồng mà xa lánh nhau.

TOÀN THÂN TỎA DIỆU HƯƠNG.

Trong động vật, lưỡng tính đều dễ bị ảnh hưởng bởi mùi vị cơ thể của đối phương. Động vật giống đực luôn có tuyến hôi ở bộ phận sinh dục để hấp dẫn giống cái, mà động vật giống cái trong mùa giao phối cũng thường có mùi vị cơ thể đặc biệt, sức cám dỗ của mùi vị đó không kém hơn giống đực.

Trong lúc thanh niên nam nữ giao tế qua lại, đa số người luôn từ trong thể hương của người khác giới tính đó mà sinh sản ý thức của tình yêu, nhưng thể hương đây là chỉ thể hương tự nhiên phát tỏa ra từ cơ thể, mà không phải chỉ nước hoa nhân tạo hoặc mùi thơm của phấn kem.

Theo “Triệu Phi Yến ngoại truyện” của Linh Huyền khi nói đến người em của Triệu Phi Yến, Hoàng Hậu của Hán Thành Đế là Lê Triệu Hợp Đức sở dĩ được sủng ái , là vì nàng có loại thể hương (mùi vị của cơ thể tự nhiên) trời phú cho. Lúc Triệu Phi Yến tắm gội, nước tắm là Ngũ uẩn thất hương thang, ghế ngồi là Thông hương trầm thủy tỏa, và đốt loại Giáng thần bách uẫn hương, phấn thoa mình là Lộ hoa bách anh phấn, khiến toàn thân tỏa’hương thơm ngát, nhưng vẫn không được sủng ái của Hán Thành Để nguyên nhân đó ở đâu ? Hán Thành Đế một hôm nói thầm với một lão phụ trong cung rằng “Hoàng hậu (chỉ Triệu Phi Yến) tuy có dị hương, nhưng không bằng mùi phiên hương tự nhiên tỏa từ cơ thể Tiệp Dư (chỉ Hợp Đức) mùi phiên hương ? đây chính là thể hương tự nhiên của bẩm sinh trời cho.

Luyện thở để giúp giấc ngủ ngon
Luyện thở để giúp giấc ngủ ngon

THỂ HƯƠNG KHIẾN NGƯỜI DỄ CHỊU

Mùi hương thơm đối với hệ thống thần kinh có thể sản sinh sự kích thích mãnh liệt, sự kích thích này nếu ở độ vừa phải có thể làm tăng thêm sức sống. Nhưng có loại mùi hương có tác dụng trấn tĩnh. Y học gia đã phát hiện rất sớm về nhiều loại hương liệu chứa tinh dầu phát tán có thể khiến thần kinh bị ức chế, có thể lấy làm thuốc gây tê và thuốc chữa các chứng co giật, những hương liệu này cũng có thể tăng cường tác dụng tiêu hóa, đẩy mạnh sự tuần hoàn của máu, khiến con người tinh thần ổn định, cảm thấy rất dễ chịu.

Hương trời khó có được, nhưng chúng ta có thể thông qua cách uống thuốc bắc hoặc thức ăn chữa bệnh khéo vượt cả trời, để làm cho cơ thể tự nhiên sản sinh mùi hương thoảng.

NHỮNG PHƯƠNG THUỐC LÀM ĐẸP THƠM MÌNH

  1. PHƯƠNG KHIẾN NGƯỜI THỂ HƯƠNG

(“Bổ Tập Trửu Hậu Phương”)

Hiệu quả:

Sau khi sử dụng được 30 ngày, sẽ khiến thân thể thậm chí đến dưới chân đều hương thơm.

Thành phần dược liệu:

Bạch chỉ, Huân thảo, Đỗ nhược, Đỗ hành, cảo bản mỗi thứ lượng bằng nhau.

Vị thuốc Bạch chỉ
Vị thuốc Bạch chỉ

Cách thực hiện:

Đem 5 vị dược vật trên nghiền thành bột mịn hỗn hợp rồi cho mật ong vào trộn đều nhau, vo thành những viên lớn cỡ bằng hạt ngô đồng.

Cách dùng:

Mỗi buổi sáng sóm uống 3 viên, đêm uống 4 viên, uống với nước ấm.

Giải thích:

Phương thuốc này do những dược vật thơm tho hợp thành. Trong phương, Bạch chỉ, Huân thảo, Đỗ nhược, Đỗ hành, Cảo bản đều có mùi vị thơm tho.

Trong đó Bạch chỉ có thể khu phong bài mũ, có thể chữa trị ung nhọt và chứng huyết trắng của phụ nữ, còn có thể loại trừ hơi miệng. Huân thảo có thể trừ “Xú ác khí” (“Danh y biệt lục”),, còn có thể tỏa mùi hương. Đỗ nhược có thể trừ hôi miệng (“Danh y biệt lục”). Đỗ hành có thể làm thang mộc dục, làm thơm cơ thể y phục con người (“Danh y biệt lục”), cảo bản có vị đắng mùi thơm, người thời xưa phần nhiều thường dùng làm hương liệu, đồng thời Cảo bản còn giỏi về khu phong trừ thấp, có thể chữa nhọt sưng, bài nùng nội tắc (“Bản thảo cương mục”).

Nên 5 vị hương dược hợp dùng, có thể làm thơm tho cơ thể và khử mùi hôi, sau khi sử dụng có thể làm cho cơ thể tự nhiên tỏa ra mùi thơm tho, làm cho lòng người sảng khoái, lòng tin tăng gấp đôi.

  1. PHƯƠNG THỦ HƯƠNG

(“Thiên Kim Nguyệt Linh Phương”)

Hiệu quả:

Sử dụng 20 ngày sau có thể khiến cho cơ thể thơm tho.

Thành phần dược liệu:

Bạch chỉ, Huân thảo, cảo bản mỗi thứ lượng bằng nhau.

Cách thực hiện:

Đem ba vị dược vật trên cùng nghiền thành bột mịn hỗn hợp, sàng qua, sau đó cho mật ong vào trộn đều, vo thành những viên thuốc lớn cỡ hạt ngô đồng.

Cách dùng:

Mỗi lần uống 3 viên trước bữa cơm, uống với nước cơm.

Giải thích:

Phương thuốc này xuất xứ từ trong “Thiên kim nguyệt linh phương” của Tôn Tư Mạo đời Đường, là diệu phương thông qua dược vật nội phục để đạt được hiệu quả làm thơm cơ thể.

Trong phương này, Bạch chỉ không những bản thân nó có mùi vị phương hương, còn cơ thể lấy hương ức ché mùi hôi. Theo sự ghi lại trong “Bản thảo cương mục” rằng: Trong “Bách nhất tuyển phương dùng bảy chỉ Bạch chỉ, tán thành bột, sau bữa cơm dùng một chỉ bột thuốc pha với nước để uống “Chữa chứng hôi miệng”, tức thuốc loại này.

Đồng thời còn có thể chữa trị viêm xoang mũi, bệnh nha và bệnh đới hạ để đạt đến hiệu quả loại trừ mùi hôi trên cơ thể. Huân thảo có mùi vị rất là thơm tho, đến khi khô héo mùi thơm vẫn còn, nó giỏi về khử mùi hôi thối (“Danh y biệt lục”), cảo bản người thời xưa gọi là cảo bản hương, là một trong hương liệu thường dùng đời xưa, giỏi về khu phong trừ thấp và chữa trị chứng đau đầu huyệt Thái, dương, đau đỉnh đầu, đại hàn phạm não, đau răng sưng má, đồng thời còn có thể chữa trị “nhọt sưng, bài nùng nội tắc (“Bản thảo cương mục”).

Ngoài ra, dược vật này .còn thường dùng làm dược mộc dục thuốc tắm và thuốc thoa mặt, có tác dụng làm đẹp. Mật ong, nước cơm có thể bổ trung ích khí, điều lý tỷ vị. Trong đó mật ong còn chữa chứng sâu răng (“Bản thảo thập di”), đồng thời còn tác dụng tả hạ hoãn chậm, có thể làm đại tiện thông suốt. Tổng hợp lại, phương này có tác dụng loại trừ mùi hôi, làm thơm cơ thể. Sau khi sử dụng phương thuốc này có thể khiến trong cơ thể tự nhiên tỏa ra mùi thanh hương, làm cho cơ thể phiên hương ?

  1. PHƯƠNG NHƯ Y THUẬT HƯƠNG THÂN

(“Y Tâm Phương”)

Hiệu quả:

Sử dụng 20 ngày sau sẽ có hiệu quả, 50 ngày sau cơ thể sẽ có mùi thơm tho.

Thành phần dược liệu:

Điềm qua tử, vỏ và rễ cây Tùng, Táo đỏ, Chích cam thảo mỗi loại lượng đều bằng nhau.

Cách thực hiện:

Đem bốn vị thuốc trên cùng nghiền thành bột mịn hỗn hợp.

Cách dùng:

Mỗi lần uống khoảng 4 – 9gam bột thuốc, mỗi ngày 3 lần Giải thích:

Trung y cho rằng Phế vị có nhiệt, hoặc hạ tiêu thấp nhiệt, huyết trắng tăng nhiều, hoặc mụn nhọt sinh mủ lỡ loét đều có thể dẫn đén thân thể có mùi hôi hám.

Phương này là phương làm thơm thân thể với những vị thuốc thanh nhiệt trừ mùi hôi. Trong phương này, Điềm qua tử tức là hạt dưa của loại dưa ngọt trái cây, giỏi về chữa trị “chứng kết tụ trong bụng, phá vỡ máu mủ, là thuốc cần dùng cho chứng bệnh nội ung của trường vị tỳ (“Danh y. biệt lục”), đồng thời còn thanh phế nhuận trường (“Bản thảo cương mục”), và trừ hôi miệng (“Bản thảo cương mục”), vỏ rễ cây Tùng, Chích Cam  thảo đều có thể chữa trị nhọt sưng, mụn loét, vị thuốc trước giỏi về chữa “nhọt độc không gom miệng” (“Bản thảo cương mục”) vị thuốc sau lại giỏi về thanh nhiệt tả hỏa giải độc. Táo đỏ vị ngọt tính nóng, có tác dụng làm thơm thân thể. Trong “Bản thảo cương mục” nổi rằng: Dùng lâu dài sẽ làm cho thân thể có mùi thơm.Trong cuốn “Thực liệu bản thảo” thì dùng thứ táo đỏ , Quế tâm, Bạch qua nhân, vỏ cây Tùng, làm thuốc hoàn, dùng lâu có thể làm thơm tho thân thể .

Tổng hợp lại phương thuốc này có thể thanh nhiệt khử mùi hôi, làm thơm tho thân thể. Cho nên sau khi dùng phương thuốc này cọ thể làm thơm tho thân thể, dùng lâu dài hiệu quả càng tót, có thể khiến cho thân thể tỏa mùi khí thơm thoảng.

  1. MÃN TIỆM HƯƠNG

(“Tu Nguyệt Lỗ Ban Kinh Hậu Lục”)

Hiệu quả:

Có thể làm thơm cho thân thể và miệng.

Thành phần dược liệu:

Đinh hương 30gam, Hoắc hương 60gam, Linh linh hương 60gam, Cam tùng 60gam, Bạch chị sảo 40gam, Hương phụ 40gam, Đương quy 40gam, Quế chi 40gam, ích trí 40gam, Tân lang 40gam, Bạch khấu 40gam, Xạ hương 5gam.

Cách thực hiện:

Đem tất cả dược vật trên nghiền thành bột mịn hỗn hợp cho thêm mật vào trộn đều, vo thành viên thuốc lớn cỡ hạt ngô đồng.

Cách dùng:

Mỗi lần ngậm đến 3 đến 5 viên thuốc cho tan trong miệng.

Giải thích:

Phương thuốc này chủ yếu do dược vật có mùi vị cay, thơm hợp thành. Trong phương thuốc .này, Đinh hương có thể phát tán ra mùi thơm tự nhiên, cổ thể chữa hôí miệng (“Nhật Hoa Tử bản thảo”), cho nên các lang trung thời xưa khi vào triều kiến hoàng để lúc nào miệng cũng ngậm Đinh hương, mục đích là nhằm khử mùi hôi làm thơm miệng , để lấy lòng ông vua. Ngoài ra Đinh hương cũng có thể làm thơm quần áo khử mùi mồ hôi, nhưng Đinh hương lại chia làm Công Đinh hương và Mâu Đinh” hương, mà người xưa cho rằng mùi thơm của Mẫu đinh hương hay hơn, bởi thế phương này nên dùng Mẫu đinh hương thích hợp hơn. Hoắc hương phương hương hóa thấp, thơm miệng khử hôi (“Bản thảo cương mục”). Linh linh.hượng tức là linh lăng hương là vị thuốc dùng loại trừ mùi hôi, có thể làm thơm cho thân thể (“Đại Minh ‘bản thảo”) Cam tùng có mùi vị phương hương có.thể chữa sâu răng do suy dinh dưỡng (“Bản thảo thập di”). Bạch chỉ có mùi hương dùng chữa bệnh huyết trắng phụ nữ, và còn có thể loại trừ mùi hôi trên thân thể. Hương phụ tử có thể trừ nóng trong ngực (“Danh y biệt lục”), đồng thời còn sơ can lý khí, chữa chứng bệnh xích bạch đới hạ và bệnh nha. Đương quy bổ huyết hoạt huyết khử ứ. ích trí nhân vừa chữa chứng huyết trắng tăng nhiều của phụ nữ, lại vừa làm thơm miệng trừ hôi. Tân lang (trái cau), Quế chi đều có vị cay. Trong đó Tân lang có thể tiêu cốc trục thủy (“Danh y biệt lục”), “Tuyên lợi ngũ tạng lục phủ ung trệ (“Dược tính luận”). Quế chi có thể thông lợi huyết mạch, khiến khí huyết lưu thông. Bạch khấu có,tác dụng phương hương hóa thấp trọc. Xạ hương phương hương khai khiếu. Tất cả vị dược vật hợp dùng có tác dụng thơm tho khử hôi. Sau khi sử dụng .phương này có thể loại trừ hôi miệng và mùi hôi của đới hạ, đồng thời có thể làm thơm miệng và thân thể.

  1. PHƯƠNG QUÝ NHÂN ẨP HÃN HƯƠNG

(“Tất Dụng Toàn Thư”)

Hiệu quả:

CÓ thể tuyệt trừ mùi mồ hôi.

Thành phần dược liệu:

Đinh hương 40gam, Xuyên tiêu 60 hột.

Vị thuốc đinh hương chữa nấc hiệu nghiệm
Vị thuốc đinh hương chữa nấc hiệu nghiệm

Cách thực hiện:

Đem Đinh hương nghiền thành bột mịn. Xuyên tiêu đâm nát, tiếp đó đem hai vị dược vật trộn đều nhau, rồi cho vào một túi vải, may kín miệng túi lại.

Cách dùng:

Đeo túi thuốc trước ngực.

Giải thích:

Phương này thuộc loại tễ phương huân hương, người thời xưa rất coi trọng các loại dược vật thơm tho để xông hương quần áo nhằm đạt đến mục đích loại trừ mùi hôi.

Phương này chính là một trong những hương phương mà người xưa thường dùng dể khử mồ hôi. Đinh hương trong phương này là vị thuốc thường dùng làm thơm tho thân thể thời xưa, trong rất nhiều hương phương đều không thể thiếu vị thuốc này. Đinh hương có thể tỏa ra mùi vị thơm tho, làm thơm tho cho thân thể con người. Xuyên tiêu có vị cay mùi thơm ngát, có thể tán hàn trừ thấp, và khử mùi tanh hôi. Hai vị dược vật hợp dùng mùi thơm bội tăng, thì có thể khử trừ mùi hôi, khiến thân thể con người thơm tho. Ngoài ra, trong các cổ phương loại hương phương tương tự như trên còn rất nhiều.

Theo sự ghi lại trong cuốn “Tất dụng toàn thư” thì dùng Mẫu đơn một lượng, Cam tùng một phân, giã nhuyễn, trong mỗi lần giặt giũ, đến lần xả cuối cùng, cho vào trong nước xả, một hương dược trên, rồi dùng xả quần áo, thì có thể làm cho áo quần có mùi thơm.

Những lý do khác để sử dụng thuốc tránh thai

Hơn cả việc ngăn ngừa mang thai

Thuốc tránh thai nội tiết bao gồm viên uống, miếng dán, vòng âm đạo và dụng cụ tử cung (IUD). Hầu hết có chứa progesterone tổng hợp (progestin) và estrogen, nhưng một số chỉ chứa progestin. Biện pháp tránh thai nội tiết có thể giúp quản lý triệu chứng của một số tình trạng bệnh lý và mang lại các lợi ích sức khỏe khác. Tuy nhiên, chúng cũng có những rủi ro và tác dụng phụ. Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn về những lợi ích và bất lợi của từng phương pháp, bao gồm cả viên thuốc tránh thai không kê đơn.

Hội chứng tiền kinh nguyệt (PMS) và rối loạn tâm trạng tiền kinh nguyệt (PMDD)

Khoảng ba phần tư phụ nữ cảm thấy cáu kỉnh, tức giận hoặc căng thẳng trước kỳ kinh của họ. Đây được gọi là PMS. Khoảng 8% phụ nữ có một phiên bản nghiêm trọng được gọi là PMDD.

Bác sĩ của bạn có thể khuyên bạn bỏ qua tuần uống viên đường (viên không có hormone) mà thường đi kèm với thuốc tránh thai và bắt đầu một gói mới. Việc uống thuốc hormone liên tục sẽ giúp bạn không có kỳ kinh – và những thay đổi ảnh hưởng đến tâm trạng của bạn.

Đau nửa đầu

Nhiều yếu tố có thể kích thích những cơn đau đầu này, nhưng sự thay đổi mức estrogen và progesterone có thể làm chúng trở nên tồi tệ hơn. Bạn có thể bị đau nửa đầu nhiều hơn trước hoặc trong kỳ kinh, có thể là do sự giảm estrogen. Bác sĩ của bạn có thể đề xuất bạn tiếp tục uống thuốc tránh thai để không có kỳ kinh, hoặc sử dụng miếng dán có estrogen trong kỳ kinh để giữ mức hormone này ổn định.

Đau bụng kinh

Cơn co thắt dữ dội có thể có nghĩa là bạn bị tình trạng gọi là dysmenorrhea. Cơn đau được gây ra bởi một hóa chất hình thành trong tử cung của bạn và kích thích các cơn co cơ. Bác sĩ của bạn có thể khuyên bạn uống thuốc tránh thai hoặc sử dụng miếng dán hoặc vòng để ngăn chặn sự rụng trứng. Bằng cách đó, tử cung của bạn sản xuất ít hóa chất gây đau hơn, prostaglandin.

Mụn trứng cá

Chúng không được thiết kế để điều trị mụn, nhưng thuốc tránh thai có thể làm giảm mức độ hormone “nam” mà buồng trứng của bạn sản xuất, có thể dẫn đến các vấn đề về da. Bạn sẽ cần làm việc với bác sĩ của mình để tìm ra viên thuốc có sự kết hợp phù hợp của các loại thuốc cho bạn. Có thể mất vài tuần hoặc vài tháng trước khi bạn thấy kết quả.

Kỳ kinh không đều và ra nhiều

Chu kỳ kinh nguyệt của bạn có thể đến nhiều hơn hoặc ít hơn bình thường nếu bạn có sự mất cân bằng hormone, u xơ hoặc các tình trạng y tế khác, và bạn có thể bị chảy máu nhiều khi có kỳ kinh. Bác sĩ của bạn có thể đề xuất bạn uống thuốc tránh thai kết hợp hoặc viên “minipill” chỉ chứa progestin để giúp điều hòa chu kỳ của bạn và giảm hoặc ngừng lượng máu. Điều quan trọng là nói cho bác sĩ của bạn biết nếu bạn có chảy máu không đều hoặc ra nhiều trong khi dùng thuốc tránh thai. Có các phương pháp điều trị hoặc quy trình không nội tiết để giúp quản lý những triệu chứng này.

Lạc nội mạc tử cung

Rối loạn đau đớn này xảy ra khi các tế bào trông giống như các tế bào thường lót bên trong tử cung, gọi là nội mạc tử cung, phát triển ở những vùng khác của vùng chậu, bao gồm buồng trứng và ruột của bạn. Viên thuốc tránh thai ảnh hưởng đến mô này bên ngoài tử cung giống như bên trong. Chúng giới hạn mức độ phát triển của nó, vì vậy bạn sẽ cảm thấy đau ít hơn.

Hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS)

Bạn không thể chữa khỏi hội chứng buồng trứng đa nang, nhưng bạn có thể điều trị các triệu chứng như kỳ kinh không đều hoặc bị bỏ lỡ, mụn trứng cá và tăng trưởng lông thừa. Hormone trong thuốc tránh thai có thể giúp làm lại sự mất cân bằng giữa hormone “nam” và “nữ” gây ra các vấn đề này cho phụ nữ mắc phải tình trạng này.

Các lợi ích sức khỏe khác

Vì thuốc tránh thai làm giảm lượng máu mà bạn có trong kỳ kinh, bạn cũng có thể ít có khả năng bị thiếu máu, hoặc mức hồng cầu thấp. Chúng cũng đã được liên kết với tỷ lệ ung thư buồng trứng và tử cung thấp hơn.

Tác dụng phụ và rủi ro

Hầu hết phụ nữ không gặp vấn đề khi uống thuốc tránh thai, nhưng bạn có thể gặp chu kỳ không đều và thay đổi tâm trạng và cân nặng, đặc biệt là trong vài tháng đầu. Mặc dù ít phổ biến hơn, cũng có khả năng bị cục máu đông. Các viên thuốc cũng đã được liên kết với nguy cơ cao hơn đối với ung thư vú và cổ tử cung. Hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn về hình thức tránh thai tốt nhất để giải quyết mối quan tâm của bạn một cách an toàn.

Tác dụng chữa bệnh của Xương Hổ, Cao Hổ

Hổ

Tên khác:  Cọp, hùm, beo, khái, ông ba mươi, tu xưa (Tày)

Tên khoa học: Panthera tigris L.

Họ Mèo               (Felidae)

MÔ TẢ

Thú cỡ lớn, to khỏe có thân thẳng dài. Đầu to tròn, cổ và tai ngắn, mắt sáng, 4 chân dài khỏe, có vuốt rất sắc. Đuôi dài bằng nửa thân. Lông màu vàng, có vằn đen không đều suốt từ đầu đến chót đuôi và bốn chân phía trên. Bụng có lông trắng.

Hổ cốt
Hổ

PHÂN BỐ, NƠI SỐNG

Trên thế giới, hổ phân bố ở Liên Xô trước đây, Ân Độ, Trung Quốc, Inđônêxia, Thái Lan, Mianma, Lào, Campuchia, Việt Nam.

Ở Việt Nam, hổ sống hoang dã ở các tỉnh miền núi nơi có nhiều cỏ tranh, lau lách, cây bụi, rừng già. Sống riêng lẻ chỉ ghép đôi trong thời kỳ động dục, ăn thịt các loài thú khác như hươu, nai, lợn rừng, trâu rừng, đôi khi cả những vật nuôi như bò, dê. Hổ đẻ 2 – 4 con cho mỗi lứa.

Hổ đã được thuần dưỡng để làm xiếc và nuôi trong vườn thú.

BỘ PHẬN DÙNG, THU HOẠCH, CHẾ BIẾN

Toàn bộ xương hổ gọi là hổ cốt, được coi là quý nhất trong các loại xương động vật. Trọng lượng nguyên bộ nặng từ 7 kg trở lên, xương phải to, chắc, sạch gân thịt, khô có màu vàng ngà, không vỡ vụn. Xương đầu và xương 4 chân được coi là quý hơn cả, đặc biệt hai xương cánh chân trước, mỗi chiếc có một lỗ gọi là mắt phượng hay thông thiên và răng hàm có 3 đỉnh nhô lên gọi là “tam sơn”. Đây là những nét đặc thù của xương hổ để phân biệt với các loại xương khác.

Để đảm bảo chất lượng thu mua, tránh thiếu hụt và đánh tráo, người ta đã quy định các loại xương trong .toàn bộ như sau: xương đầu, xương cổ, xương sống, xương sườn, xương chậu, xương bả vai, xương đuôi, xương bánh chè.

Xương hổ bị trúng độc có màu đen hoặc xanh lam, không được dùng.

Toàn bộ xương hổ phải được nấu thành cao (gọi là cao hổ cốt) dùng mơi tốt. Trước khi nấu, cần kiểm tra kỹ các loại xương trong nguyên bộ cho đủ, đúng quy cách và đúng trọng lượng. Trong dân gian, người ta hay nấu xương hổ với xương gấu, khỉ hoặc sơn dương hoặc các dược liệu gốc thực vật để có sự hiệp đồng tác dụng giữa vị chủ lực với một số vị hỗ trợ và bảo đảm sự bảo quản được lâu bền.

Để nấu cao, cần qua 3 giai đoạn là làm sạch, tẩm sao và nấu cô.

  1. Làm sạch: Đem xương đun sôi với nước trong 30 phút, có thể thêm ít lá đu đủ. Khuấy lộn xương cho róc hết thịt và gân còn dính lại. Lấy ra, dùng bàn chải tre hoặc lông thép cọ mạnh cho thật sạch nhiều lần rồi rửa với nước sạch. Xương đã được làm sạch, đem phơi nắng to hay sấy ở 50 – 60°c cho khô. Lúc này, xương có màu trắng, sạch thịt và không có mùi tanh hôi. Ngày trước, người ta bỏ xương còn dính thịt và gân vào một rọ tre, để chỗ nước suối chảy xiết trong 15-20 ngày để rửa trôi hết gân thịt, rồi treo rọ lên cành cây cho khô. Làm như vậy để loại bỏ hết các khí xấu (khu phong), có lẽ để làm bay hết mùi hôi thối.

Cưa xương thành từng đoạn dài lOcm, chẻ nhỏ, nạo hết tủy và lổp xương xốp ở trong. Có nơi, người ta đun sôi với nước giấm (10 kg xương dùng 3 lít giấm) rồi mới nạo tủy. Rửa sạch, rồi ngâm tẩm.

  1. Tẩm sao: Có nhiều cách tẩm. Trước đây, người ta dùng nước luộc rau cải hoặc nước ngâm lá ngải cứu (có nơi lại dùng lá trầu không) để ngâm xương trong một ngày, một đêm, rồi rửa lại nhiều lần bằng nước, sau đó, tẩm xương với rượu gừng. Hiện nay người ta chỉ ngâm rượu gừng với tỷ lệ 50 kg xương, 1 kg gừng và 5 lít Ị-ượu 40°. Đem sao qua (không sao vàng).
  2. Nấu và cô cao: xếp xương vào thùng nhôm, ở giữa đặt một rọ tre để múc dịch chiết ra. Đổ nước ngập xương chừng 10cm. Đun sôi liên tục trong 24 giờ, nếu cạn nước thì gia thêm nước sôi vào, luôn giữ cho mức nước lúc nào cũng ngập xương. Rút nước chiết lần thứ nhất, đem cô riêng. Tiếp tục thêm nước sôi và đun 24 giờ nữa. Rút nước chiết lần thứ hai, cô riêng. Tiếp tục làm lần thứ ba. Khi cô nước chiết lần cuối gần được thì dồn số cao của hai lần trước vào, đánh đều, cô tiếp đến khi được cao đặc. Chú ý khi cô, đừng để cao đặc quá làm lượng cao thu được thấp, khó đổ thành bánh. Nhưng cũng không lấy cao còn quá mềm, sau này, cao hay bị chảy và môc. Tốt nhất là cô đến khi dùng đũa nhúng vào cao và nhấc lên không thấy cao chảy là được. Và phải cô cao ở lửa nhỏ, khuấy luôn tay để cao khỏi bị khê, cháy. Khi cao đã được, đổ vào khay đã bôi dầu lạc, mỡ lợn hoặc trải lá chuối cho khỏi sát dính.

Để nguội, cắt cao thành bánh chừng 50 – 100g, gói giấy bóng hay ni lông, bảo quản ở chỗ kín, khô và mát.

Ngoài ra, thịt hổ, dạ dày hổ và răng hổ cũng được dùng theo các sách thuốc cổ của Việt Nam và nước ngoài.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Xương hổ chứa protid và calci dưới dạng phosphat.

Cao hổ cốt chứa nhiều acid amin.

CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Xương hổ, nhất là cao hổ cốt là vị thuốc cổ điển có giá trị chữa bệnh cao trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian.

Xương và cao có vị mặn, cay, hơi tanh, tính ấm, có tác dụng bổ dương, trục phong hàn, mạnh gân cốt, giảm đau nhức, trừ thấp, chuyên trị bệnh đau nhức gân xương, cơ thể suy yếu, kém hoạt động, đi lại khó khăn, chân tay co quắp, thoái hóa cột sống.

Liều dùng hàng ngày: 10 – 12g xương chưa chế biến dưới dạng thuốc sắc hoặc rượu ngâm; 4 – 8g cao hổ cốt uống với rượu. Cao hổ cốt còn được ngâm thành rượu hổ cốt cùng với nhiều vị thuốc khác.

Tuệ Tĩnh còn dùng thịt hổ chữa sốt rét, nôn mửa. Hải Thượng Lãn Ông lại dùng dạ dày hổ chữa chứng phiên vị; răng hổ chữa chó dại cắn.

Kiêng kỵ: Những người huyết hư, hỏa vượng, không được dùng các sản phẩm từ hổ.

BÀI THUỐC

  • Chữa cước khí: Xương hổ (đau lưng thì dùng xương sống, đau chân thì dùng xương ống chân) đập vỡ thành mảnh nhỏ, bôi mỡ hoặc váng sữa, nướng vàng, tán bột, ngâm rượu. Khi dùng hâm rượu cho nóng mà uống (Nam dược thần hiệu).
  • Thuốc hổ máu, làm mạnh gân cốt: Xương cánh chân hổ (100g), ngưu tất (60g), thục địa (60g), ý di (10g). Ngâm với 1 lít rượu. Ngày uống hai lần, mỗi lần 1 chén nhỏ.

Ghi chú:

  • Cao hổ cốt hay bị giả mạo bằng cao nấu từ xương các động vật khác, cần chú ý phân biệt tránh nhầm lẫn.

Hổ đã được đưa vào Sách Đỏ để bảo vệ triệt để.

Nhiễm nấm âm đạo

Nhiễm nấm là gì?

Âm đạo thường chứa một sự cân bằng lành mạnh giữa vi khuẩn và nấm. Hormone estrogen giúp vi khuẩn được gọi là lactobacilli phát triển. Những vi khuẩn này tiêu diệt các sinh vật có hại trong âm đạo và giữ cho bạn khỏe mạnh. Nhưng khi có điều gì đó làm mất cân bằng đó, một loại nấm gọi là candida có thể phát triển ngoài tầm kiểm soát và gây ra nhiễm nấm, còn được gọi là nhiễm nấm âm đạo (vaginal candidiasis).

Chúng gây ngứa và khó chịu, và không ai thực sự thích nói về chúng. Nhưng nhiễm nấm âm đạo là rất phổ biến. Ước tính có khoảng 75% phụ nữ sẽ mắc ít nhất một lần nhiễm nấm trong đời.

Mặc dù nhiễm nấm có thể xảy ra với bất kỳ ai vào bất kỳ thời điểm nào, một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Hầu hết các nhiễm trùng có thể được điều trị nhanh chóng và dễ dàng.

Nhiễm nấm âm đạo và viêm âm đạo do vi khuẩn

Nhiễm nấm và viêm âm đạo do vi khuẩn (BV) đều là các nhiễm trùng âm đạo được gọi là vaginitis. Mặc dù các tình trạng này có thể có triệu chứng tương tự, nhưng chúng xảy ra vì những lý do khác nhau và cần điều trị khác nhau. Bạn có thể sử dụng phương pháp điều trị không kê đơn cho nhiễm nấm nhưng sẽ cần thuốc theo đơn cho BV.

Bạn có thể điều trị một số nhiễm trùng âm đạo bằng thuốc không kê đơn, nhưng những bệnh khác cần phải có đơn thuốc. Bác sĩ của bạn có thể giúp bạn xác định tình trạng nào bạn mắc phải và phương pháp điều trị phù hợp. 

Triệu chứng của nhiễm nấm

Ngứa và khó chịu là những triệu chứng chính của nhiễm nấm, nhưng còn có những triệu chứng khác:

  • Đau rát, đỏ và sưng ở âm đạo và âm hộ (phần ngoài của bộ phận sinh dục nữ)
  • Đau hoặc rát khi đi tiểu
  • Đau khi quan hệ tình dục
  • Dịch tiết dày, trắng, không mùi, giống như phô mai tươi
  • Dịch tiết loãng
  • Phát ban âm đạo
  • Những vết cắt nhỏ hoặc vết nứt trên da âm hộ

Nếu bạn nghĩ rằng bạn có nhiễm nấm, hãy đến gặp bác sĩ trước khi tự điều trị. Các triệu chứng của nhiễm nấm rất giống với một số tình trạng khác nghiêm trọng hơn, bao gồm nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục và viêm âm đạo do vi khuẩn (tăng trưởng vi khuẩn trong âm đạo). Việc chẩn đoán chính xác là quan trọng để bạn có thể nhận được phương pháp điều trị tốt nhất.

Nguyên nhân nhiễm nấm

Có nhiều lý do mà bạn có thể bị nhiễm nấm, bao gồm:

  • Hormone: Những thay đổi trong thai kỳ, cho con bú, hoặc mãn kinh (hoặc nếu bạn đang dùng thuốc tránh thai) có thể thay đổi sự cân bằng trong âm đạo của bạn.
  • Bệnh tiểu đường: Nếu bệnh tiểu đường của bạn không được kiểm soát tốt, lượng đường tăng trong màng nhầy của âm đạo có thể tạo ra môi trường cho nấm phát triển.
  • Kháng sinh: Những loại thuốc này có thể tiêu diệt nhiều vi khuẩn có lợi sống trong âm đạo của bạn.
  • Rửa âm đạo và xịt âm đạo: Việc sử dụng các sản phẩm này có thể thay đổi sự cân bằng trong âm đạo của bạn.
  • Hệ thống miễn dịch yếu: Nếu bạn có HIV hoặc có một rối loạn hệ miễn dịch khác, nấm cũng có thể phát triển không kiểm soát.
  • Quan hệ tình dục: Mặc dù nhiễm nấm không được coi là một bệnh lây truyền qua đường tình dục, nó có thể lây từ người này sang người khác qua quan hệ tình dục.
  • Căng thẳng: Nghiên cứu cho thấy nấm candida, giống như các sinh vật khác, phản ứng với căng thẳng. Kiến thức của chúng ta về phản ứng này chủ yếu đến từ các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, nơi các nhà khoa học nuôi cấy nấm trong glucose. Nhưng trong cơ thể người, nấm đối mặt với nhiều điều kiện khác nhau và tiếp xúc với nhiều căng thẳng cùng một lúc, điều này ảnh hưởng đến khả năng gây bệnh của nó.

Nhiễm nấm có lây không?

Bạn có thể bị nhiễm nấm cả qua quan hệ tình dục và không qua quan hệ tình dục, nhưng nó không phải là một bệnh lây truyền qua đường tình dục (STI).

Nhiễm nấm được chẩn đoán như thế nào?

Chẩn đoán nhiễm nấm âm đạo liên quan đến việc bác sĩ hoặc y tá kiểm tra âm hộ và âm đạo của bạn. Họ cũng sẽ lấy mẫu dịch tiết bằng cách swab âm đạo của bạn, sau đó gửi mẫu đến phòng thí nghiệm để được kiểm tra.

Điều trị nhiễm nấm

Cách phổ biến nhất để điều trị nhiễm nấm là dùng kem, thuốc mỡ, hoặc viên đặt chống nấm không kê đơn (với clotrimazole hoặc miconazole). Thời gian điều trị có thể từ 1 đến 7 ngày. Bác sĩ của bạn cũng có thể kê đơn thuốc chống nấm đường uống, chẳng hạn như fluconazole (Diflucan) hoặc ibrexafungerp (Brexafemme).

Nếu bạn đang mang thai, việc sử dụng kem hoặc viên đặt là an toàn, nhưng nên tránh các loại thuốc đường uống.

Bạn cần biết rằng một số loại thuốc nhiễm nấm làm yếu bao cao su hoặc diafragma. Điều này làm tăng khả năng bạn có thai hoặc mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục. Hãy chắc chắn đọc hướng dẫn và cảnh báo trước khi sử dụng.

Nhiễm nấm tái phát

Nếu bạn có bệnh tiểu đường hoặc hệ miễn dịch yếu, bạn có thể bị nhiễm nấm nhiều lần. Đây là một tình trạng được gọi là nhiễm nấm âm đạo tái phát (RVVC). Nếu bạn bị nhiễm nấm ít nhất bốn lần một năm, bác sĩ có thể khuyên bạn nên dùng thuốc fluconazole hàng tuần trong 6 tháng để chống lại chúng. Oteseconazole (Vivjoa) đã được phê duyệt cho những người có vấn đề tái phát với nhiễm trùng mà không muốn có con (hoặc muốn có thêm con).

Cách phòng ngừa nhiễm nấm

Một số nghiên cứu cho thấy việc ăn sữa chua probiotic hoặc dùng bổ sung Lactobacillus acidophilus có thể làm chậm sự phát triển của nấm trong âm đạo, giảm nguy cơ nhiễm trùng. Cần thêm nhiều nghiên cứu trước khi có thể xác định mối liên hệ rõ ràng. Những cách khác để tránh nhiễm nấm bao gồm:

  • Mặc đồ lót cotton.
  • Giữ cho da khô ráo.
  • Không rửa âm đạo.
  • Tránh dùng các sản phẩm khử mùi cho phụ nữ.
  • Sử dụng băng vệ sinh hoặc tampon không có hương liệu.
  • Sử dụng chất bôi trơn tình dục có nguồn gốc từ nước.
  • Kiểm soát đường huyết nếu bạn bị tiểu đường.

Những điều cần lưu ý

Nhiễm nấm âm đạo là rất phổ biến, với các triệu chứng bao gồm ngứa, đỏ, sưng, đau khi đi tiểu hoặc quan hệ tình dục, và dịch tiết dày, trắng. Các phương pháp điều trị bao gồm từ kem chống nấm không kê đơn hoặc thuốc đường uống đến các lựa chọn theo đơn. Các nhiễm trùng tiếp tục tái phát có thể cần điều trị lâu dài. Probiotics như sữa chua hoặc bổ sung chứa Lactobacillus acidophilus có thể giúp ngăn ngừa sự phát triển của nấm, nhưng cần thêm nghiên cứu để xác nhận hiệu quả của chúng.

Cách cho con bú và chăm sóc bầu vú sau sinh

Những ngày đầu tiên cho con bú sữa mình, bà mẹ nào cũng có nhiều bỡ ngỡ. Khác với việc cho Bé bú bình, trên bình có ghi số lượng sữa của mỗi bữa, Bé bú sữa mẹ chẳng biết thế nào là đủ. Khi thì sữa chưa có, lúc thì lại lên ít; làm người mẹ không yên tâm, không biết Bé đã no chưa.

Các nhà khoa học cho biết, trong thời gian đầu, tuy chưa có sữa nhưng bầu vú mẹ đã có chất colostrum – một chất có tính dinh dưỡng cao và chứa rất nhiều chất kháng thể có tác dụng giúp cơ thể Bé chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn và vi trùng bên ngoài.

Trong những ngày đầu, Bé ngủ rất nhiều, trong người còn nhiều chất dự trữ nên không thấy đói. Bởi vậy, lượng chất Bé cần bú cũng phù hợp với tình hình sản xuất sữa của hai bầu vú mẹ lúc này.

Việc cho con bú đòi hỏi người mẹ, trong những ngày đầu, phải kiên nhẫn và có nghị lực. Nhiều bà mẹ hay nản chí vì đã bận bịu lại phải đối phó với những lời “bàn ra”. Đôi khi ngại không muốn cho con bú vì nhiều người tới thăm quá mà việc phô bày bầu vú của mình giữa lúc đông người quả là bất tiện.

Cách cho con bú

Khi cho con bú, nên chọn chỗ tĩnh mịch, ít người đi lại để Bé tập trung sự chú ý vào việc bú mẹ. Thời gian Bé bú cũng là thời gian thư giãn của Bé. Sau này, khi Bé đã quen, bạn có thể cho Bé bú ở bất cứ chỗ nào.

Trước khi cho con bú, mẹ phải rửa tay sạch sẽ. Tất cả các vật gì đụng chạm tới núm vú đều phải sạch. Sau đó, chọn tư thế ngồi cho thật thoải mái. Nhiều người chỉ vì thiếu một cái nệm kê tay, tựa lưng hoặc cái ghế kê chân mà thấy chóng mệt mỏi, do đó, đâm sốt ruột, chỉ mong Bé bú nhanh cho chóng xong và mỗi lần cho con bú là một lần ngần ngại.

Có nhiều tư thế cho con bú, nhưng thường là ngồi hay nằm.

Nếu bạn ngồi trên giường để cho con bú, hãy dùng một cái gối để tựa lưng. Lấy một hay hai gối nữa để lên trên đùi sao cho khi đặt Bé lên gối hoặc bế Bé và tựa tay vào gối thì miệng của Bé vừa tầm với núm vú của mình.

Nếu bạn ngồi ghế để cho con bú, nên ngồi ghế thấp, tựa lưng vào ghế. Chọn cách ngồi cho thật thoải mái để khi bế con thì mặt Bé sát vào ngực mình mà không phải cúi người xuống mới cho được đầu vú vào miệng con. Nên ngồi ghế có thành vịn để có chỗ kê tay. Khi bạn bế con, đầu của Bé nằm trên phần khuỷu tay co lại của bạn, hơi cao hơn phần thân. Bàn tay mẹ đỡ lấy mông hoặc đùi của Bé. Khi Bé bú, toàn người của Bé nghiêng về phía mẹ, bụng Bé áp vào bụng mẹ, mặt hướng vào bầu vú. Mùi sữa của bầu vú sẽ làm cho môi Bé động đậy rồi mở ra để tìm nguồn sữa.

Cách ngậm bắt vú của trẻ khi bú mẹ
Cách ngậm bắt vú của trẻ khi bú mẹ

Với bàn tay tự do kia, bạn hãy nâng bầu vú mình lên, ngón cái phía trên, những ngón khác phía dưới. Khi miệng Bé mở to nhất, dùng cánh tay đang ẵm Bé đưa Bé về phía ngực mình sao cho miệng Bé ngậm hết núm vú, hết phần mầu thẫm chung quanh đầu vú. Bạn có thể ấn nhẹ bầu vú vào miệng Bé để cho sữa ra. Thường thì lúc này Bé đã bắt đầu đủ rồi. Động tác này không phải là mới mẻ gì với Bé vì có nhiều đứa trẻ biết mút tay từ khi còn nằm trong bụng mẹ. Có thể nhìn thấy hiện tượng này bằng phương pháp siêu âm.

Trong khi Bé bú, cằm và mũi Bé có thể đụng vào bầu vú, làm Bé khó thở. Bạn hãy dùng tay ấn nhẹ vào vú mình để vú không bịt chặt vào mũi Bé.

Bạn cũng có thể vừa nằm vừa cho con bú, hai mẹ con nằm nghiêng, miệng con áp vào vú mẹ.

Làm thế nào để biết rằng Bé đã bú ra sữa ? Hãy nhìn vào tai và thái dương của Bé. Cả hai điểm đó đều động đậy theo nhịp Bé bú. Vả lại, có một hay hai lần Bé hút sữa ra, bạn lại nghe thấy tiếng Bé nuốt sữa xuống bụng.

Khi bắt đầu bú, Bé mút sữa rất mạnh. Về sau, khi đã no nê Bé lim dim ngủ, vẻ mặt đờ đẫn và thỏa mãn. Nhiều Bé khi thôi không bú nữa, nhưng vẫn ngậm và nhay đầu vú. Bạn hãy nhẹ nhàng kéo đầu vú mình ra vì để Bé ngậm đầu vú như vậy không tốt : Bé sẽ nuốt không khí vào dạ dày, gây nôn, ói. Hơn nữa, đầu vú mẹ bị nhay như thế, có thể tạo ra những kẽ nứt.

Trong những ngày đầu, Bé bú mỗi bên bầu vú khoảng 10 phút. Nếu Bé thôi bú mà vẫn ngậm vú, hãy khẽ để một ngón tay vào giữa hai môi Bé rồi rút đầu vú ra, hoặc đặt hai ngón tay ở hai bên đầu vú rồi khẽ ấn vú xuống.

Nếu Bé nằm đúng tư thế, bạn sẽ không cảm thấy khó chịu hoặc đau khi Bé bú. Lần đầu tiên cho con bú, người mẹ có thể thấy hơi nhoi nhói ở đầu vú. Nhưng cảm giác này không lâu. Nếu sau 30 giây mà cảm giác này vẫn tồn tại, bạn hãy kéo đầu vú ra khỏi miệng Bé rồi cho Bé bú lại, sao cho miệng Bé ngậm sâu xuống cả phần núm vú – gồm đầu vú và phần màu thẫm chung quanh.

Sau khi Bé bú xong, hãy ấm Bé sát vào người theo chiều thẳng đứng, vỗ nhè. nhẹ vào lưng Bé để Bé thở ra hết lượng không khí đã nuốt vào bụng cùng với sữa. Nếu bạn để Bé tựa đầu vào vai, thì nên lót sẩn một khăn sạch ở vai để đề phòng Bé có thể Ợ ra một ít sữa.

Nếu sau khi bú, Bé có ợ ra như vậy thì cũng là việc bình thường, không có gì đáng lo ngại. Đó là do cái van ở đoạn nối ống thực quản, với dạ dày chưa hoạt động tốt. Cũng không nên nghĩ rằng Bé bú chẳng được bao nhiêu mà lại Ợ ra tất cả. Không phải đầu, Bé chỉ ợ ra lượng sữa dư thừa mà thôi.

Sau khi cho con bú xong, bạn hãy dùng một khăn sạch lau khô hai đầu vú. Nếu sữa chảy ra khỏi bầu vú giữa hai bữa ăn, bạn hãy dùng khăn ẩm hoặc loại mút thâm đã hấp vô trùng thường có bán ở hiệu thuốc, phủ lên hai vú và thay chúng mỗi khi ướt nhiều.

Trong những ngày đầu, lượng chất Bé bú từ vú mẹ chỉ vào khoảng 10 g mỗi lần, trong vòng 10 phút. Chất này chưa phải là sữa mà là chất colostrum màu hơi vàng, sánh, chứa nhiều prôtêin và các chất kháng thể, ít mđ. Chất này là chất trung gian giữa máu – chất đã nuôi Bé lớn lên trong bụng mẹ – và sữa, nên có giá trị dinh dưỡng đặc biệt rất quí.

Sau này, Bé bú lâu hơn, từ 15 – 20 phút, vì khi được 1 tháng tuổi, Bé đã bú mỗi lần khoảng 100 g sữa. Thường các bà mẹ chỉ có sữa sau khi sinh được 3 – 4 ngày, có khi chậm hơn. Lúc này hai bầu vú dần dần căng lên, có khi thấy đau. Cơ thể tiết ra chất hoócmôn prolactin, làm vú sinh ra sữa. Nhưng muốn các tuyến sữa thực sự hoạt động, người mẹ phải cho con bú. Vì, Bé bú và hút sữa ra như vậy kích thích các tuyến sữa hoạt động. Bởi vậy, để mau có sữa, người mẹ phải cho con bú càng sớm càng tốt.

Cần nhớ rằng hai bầu vú không phải chỉ là chỗ đựng sữa và lúc nào cũng có đầy sữa. Có sữa hay không là do Bé bú nhiều hay ít. Bé bú càng nhiều thì sữa ra cùng nhiều.

Chăm sóc bầu vú

Trong thời gian cho con bú, người mẹ phải biết chăm sóc bầu vú của mình để tránh hiện tượng bị đau vì đầu vú bị nứt kẽ. Muốn tránh hiện tượng này cần chú ý :

  • Khi cho con bú, ngồi cho thoải mái và để cho Bé ngậm sâu tới hết núm vú của mình. Không chỉ ngậm đầu vú.
  • Tránh cho Bé bú lâu quá. Như vậy, đến lúc cuối, Bé không bú mà chỉ ngậm và cắn đầu vú. Thời gian đầu tiên, nên cho bú làm nhiều lần – mỗi ngày, từ 6 tới 8 lần bú trong 24 giờ, mỗi lần bú ngắn.
  • Phải giữ đầu vú luôn sạch sẽ. Những vật đụng chạm tới đầu vú cũng phải sạch. Cũng như việc tắm rửa toàn thân, mỗi ngày rửa đầu vú bằng xà phòng một lần là đủ.
  • Nên dùng các nịt vú bằng vải bông. Không nên dùng loại nịt bằng vải nhân tạo hay tổng hợp vì dễ gây phản ứng da, làm nứt kẽ đầu vú.
  • Khi cho con bú, nên mặc ấm và có biện pháp che ngực để khỏi bị bệnh.
  • Những khó khăn có thể gặp lúc ban đầu

ĐẦU VÚ NHỎ QUÁ, CHUA nở – Bé khó ngậm. Có thể dùng phương pháp mátxa nhẹ hoặc dùng dụng cụ hút sữa ra. Nhưng tốt nhất là kiên nhẫn, cứ để Bé bú. Môi Bé sẽ kích thích làm cho đầu vú nở dần ra.

BÉ KHÔNG CÓ SỨC BÚ – Bé không có sức vì sinh thiếu tháng. Trường hợp này, nên vắt sữa và cho Bé uống sữa bằng thìa (muỗng). Bé yếu nên càng cần phải bú sữa mẹ.

Trường hợp các cháu bị dị dạng môi hoặc bị đau vì bị viêm nhiễm môi – miệng, cũng vậy.

BÉ KHÔNG MUỐN BÚ – Nhiều Bé ngủ lơ mơ và không muốn bú. Hiện tượng này thường xảy ra. Hai, ba ngày sau, Bé sẽ tỉnh ngủ hơn và sẽ bú bình thường. Trong khi chờ đợi, nếu cần, nên dùng các dụng cụ hút sữa ra để kích thích sự lên sữa.

SỮA LÊN MUỘN HOẶC ÍT SỮA – Trong những tuần đầu, sự lên sữa còn do tâm lý người mẹ chi phối. Mẹ càng lo, sữa lên càng ít. Việc người mẹ do dự không biết có hay không cho con bú sữa mình cũng có tác dụng như vậy.

Ngoài ra, người mẹ cần được nghỉ ngơi trong thời gian đầu cho con bú. Mệt nhọc cũng làm sữa lên ít. Khi cho con bú, nên cho bú cả 2 bên.

Nếu thiếu sữa trong những ngày đầu, thì cho Bé bú bình thêm. Nên chú ý đục lỗ nhỏ ở đầu vú giả cốt để sữa không ra dễ dàng, vì như vậy, Bé sẽ quen và ngại bú mẹ vì sữa ra chậm hoặc khó khăn hơn.

Sữa mẹ chỉ lên đều sau khi cho con bú 15 ngày. Nhiều người phải chờ tới 3 tuần. Bởi vậy các bà mẹ cho con bú nên kiên nhẫn, không nên vội chán nản. Đối với trẻ sơ sinh, được bú sữa mẹ, dù là ít cũng rất quan trọng và có lợi cho sức khỏe của các cháu.

Cũng nên biết rằng, các bà mẹ có bầu vú nhỏ cũng có thể nuôi con không kém gì những người có bầu vú lớn hơn.

Nếu khi Bé bú vú bên này mà vú bên kia tự nhiên chảy sữa, thì cũng là chuyện bình thường.

Nếu Bé bú xong bị nấc, có thể cho Bé uống ít nước bằng bình sữa, hoặc cho Bé bú thêm ít nữa cho tới khi Bé hết nấc. Trong khi Bé bú, xoa nhẹ lưng cho Bé.

  • Đau vú lúc cho bú hoặc đau vì tắc sữa

Nếu chỉ cho con bú mà thấy đau thì nên sửa đổi lại cách ngồi khi cho Bé bú và chú ý sao cho Bé ngậm hết núm vú, cả đầu vú lẫn phần chung quanh gốc, có màu da thâm.

Nếu vú đau vì tắc sữa, hãy cho Bé bú càng nhiều càng tốt. Nếu Bé no không chịu bú nữa, bạn có thể vắt sữa ra bằng tay hoặc bằng dụng cụ hút sữa. Đơn giản hơn là tắm vòi hoa sen nước nóng. Nước nóng sẽ kích thích sữa chảy ra.

Bạn có thể làm giảm căng vú bằng cách chườm nước nóng. Lấy vải gạc tẩm nước nóng vừa, ấp lên vú nhiều lần trong ngày. Có người lại dùng phương pháp lạnh : chườm vú bằng nước đá rồi vắt sữa ra.

Hiện tượng tắc sữa chỉ xảy ra nhất thời. Nhưng, nếu kéo dài sẽ làm giảm lượng sữa và cũng có thể gây viêm tấy. Bởi vậy, các bà mẹ phải đề phòng sao cho không bị tắc sữa.

  • Bé ham bú quá

Có đứa trẻ háu bú, khi mẹ cho bú, bú vội vàng. Như vậy, khi bú, Bé sẽ hớp cả không khí xuống dạ dày, kèm theo hiện tượng sặc, ho, nghẹn rồi lại bị trớ (ói) ra nhiều sữa. Trong trường hợp Bé háu ăn như vậy, nên ngắt quãng bữa ăn của cháu ra làm nhiều lần, không nên để cho Bé bú một hơi.

  • Có cần cân Bé sau mỗi lần bú không ?

Không cần thiết. Bình thường, các cháu bé bú vừa đủ nhu cầu hoặc hơi quá một chút cúng không sao.

Trong trường hợp Bé có vẻ chậm lớn, thì có thể cân Bé trước và sau khi bú để xem cháu có bú đủ hay không. Lượng sữa cho mỗi lần bú của các trẻ em từ 1 ngày tới 3 tháng có ghi ở bảng trong chương sau. Lượng sữa này áp dụng khi Bé bú sữa mẹ hay bú bình (sữa bò) đều như nhau.

Nên chú ý, từ ngày thứ 8 tới thứ 10 sau khi sinh, lượng sữa mẹ có thể bị giảm trong vòng 2-3 ngày. Trong thời gian này, màu sữa sẽ chuyển từ màu vàng sang trắng : đó là việc bình thường, sữa trắng có nhiều chất béo hơn sữa vàng.

  • Nên thay tã lót cho bé trước hay sau khi bú ?

Nhiều bà mẹ cho rằng nên thay cho Bé trước khi cho Bé bú. Như vậy, cháu bé cảm thấy dễ chịu trong khi bú. Vả lại, khi bú xong nếu bị đụng chạm, xoay người để thay tã lót, Bé dễ bị trớ.

Lại có người cho rằng nên thay sau khi bú. Trước đó, khi muốn được ăn, thường Bé đã kêu, khóc để tỏ dấu hiệu sốt ruột. Vậy mà lại phải thay tã lót mất thêm thời giờ nữa, thì thật là quá sức ! Vả lại sau khi bú xong, Bé hay tiêu hoặc tiểu. Thay tã lót, Bé sẽ cảm thấy sạch sẽ, dễ chịu và đi vào giấc ngủ.

  • Cho bú một bên vú hay cả hai bên, ?

Trong 15 ngày đầu, mỗi lần cho Bé bú, nên cho bú cả 2 bên. Sau này, bạn có thể cho bú một bên, để cho vú bên kia được nghỉ. Trường hợp bạn có nhiều sữa cũng vậy, nên cho Bé bú hết một bên. Lần sau, lại cho bú bên kia. Muốn khỏi nhầm, nên dùng một cái băng hoặc đanh ghim, cài vào áo hoặc nịt vú đánh dấu bên chưa bú.

Trường hợp bà mẹ ít sữa, nên cho Bé bú cả 2 bên.

Nếu sữa 2 bên không đều nhau, bên nhiều bên ít thì nên cho Bé bú bên ít sữa trước để kích thích sữa lên vì khi mới bú, Bé bú mạnh hơn.

  • Bú bao lâu ?

Tùy lúc trong ngày, nhưng trung bình vào khoảng 20 phút. Bé có thể bú 9/10 lượng sữa cần thiết trong vòng 5 phút đầu. Thời gian sau, Bé thường bú chậm hơn hoặc vừa bú, vừa ngủ lơ mơ hoặc vừa bú vừa chơi. Nên để Bé thoải mái như vậy vì thời gian này Bé thấy được thư giãn và hạnh phúc vì cảm thấy ở gần mẹ.

  • Vitamin D, chất sắt và fluo

Dù được bú mẹ, bác sĩ cũng vẫn yêu cầu cho Bé uống thêm :

  • Chất SẮT, nếu Bé sinh thiếu tháng, nhẹ cân hoặc là Bé sinh đôi.
  • Vitamin D từ 1000 – 1200 đơn vị/ngày; 2 – 3 giọt Sterogyl hoặc hơn đối với các cháu da thẫm màu và sinh trong thời gian ít ánh sáng mặt trời.
  • Fluo 1/2 mg mỗi ngày trong những tháng đầu. về sau 1 mg/ngày.
  • Giờ bú như thế nào ?

NÊN CHO BÉ BÚ THEO GIỜ GIẤC HAY KHI NÀO BÉ KHÓC ĐÒI ÄN ?

Trước kia các bà mẹ cho con bú theo giờ giấc định sẵn 6 giờ, 9 giờ, 15 giờ, 18 giờ, 21 giờ. Dù Bé khóc nhưng chưa đến giờ, chưa cho bú.

Bây giờ, người ta thấy rằng không phải tất cả các trẻ em đều giống nhau như những cái máy. Đối với cháu có khả năng, tiêu hóa nhanh, thì khoảng cách giữa các bữa bú của cháu ắt sẽ ngắn hơn, so với các cháu có khả năng tiêu hóa chậm.

Bởi vậy, khi nào cháu khóc đòi ăn thì bà mẹ có thể cho con bú mà không sợ làm như vậy, cháu sẽ ăn quá mức. Thường, trẻ em chỉ bú đủ no. Nếu có bú quá một ít, thì sữa mẹ cũng mau tiêu.

Trong những ngày đầu, Bé đòi ăn luôn luôn. Nhưng chỉ sau vài tuần, Bé sẽ đòi ăn đều đặn hơn, vào khoảng 3 tới 4 giờ một lần. ít khi dưới 2 giờ hoặc hơn 6 giờ.

Vấn đề chính là dung hòa được các bứa bú của Bé vđi thời gian thích hợp của mẹ. Nên định giờ cho các bữa chính để nhớ. sữa mẹ vắt ra để tủ lạnh vẫn dùng được, nhưng không được để quá 24 giờ.

  • Có nên cho Bé bú đêm không ?

Trong những tuần đầu, cần cho Bé bú mỗi khi Bé khóc đòi ăn, kể cả trong đêm, dù có làm mẹ mệt và vất vả thêm. Sau tuần thứ 7 hay thứ 8, Bé sẽ không đòi ăn đêm nữa vì khi Bé nặng từ 5 kg trở lên, Bé có thể ngủ lâu tới 10 tiếng liền. Trong những tuần đầu, bà mẹ cần chịu khó và kiên nhẫn hơn.

  • Cho con bú tới bao giờ ?

Việc cho con bú tới bao giờ mới thôi hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn và hoàn cảnh của người mẹ. Dù Bé chỉ được bú mẹ có 10 ngày, 15 ngày… cũng còn hơn là không được bú ngày nào. Thông thường thì sữa sẽ có đều đều cho tới tháng thứ 2, thứ 3. Sau đó, bà mẹ có thể cho con bú thưa hơn, ít hơn tới thời gian nào cũng được. Để Bé đủ no, bạn có thể cho Bé ăn thêm sữa bò.

Nhiều cháu quen bú mẹ, tới khi cho bú bình không chịu bú. Bởi vậy, phải cho cháu bé làm quen trước. Tới tháng thứ 3, thứ 4, hãy để núm vú của bình gần núm vú thật để Bé làm quen với mùi của núm vú giả. Cho Bé bú thêm nước, nước cam bằng bình để Bé quen với việc bú bình.

Cỏ sữa lá to – cỏ sữa lá nhỏ

Cỏ sữa lá to
Cỏ sữa lá to

CỎ SỮA LÁ TO

Tên khác: Cỏ sữa lá lớn

Tên khoa học: Euphorbia pilulifera L. hay Euphorbia hirta L., họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).

Mô tả: Cây thảo sống hằng năm hay nhiều năm, có thân mảnh cao 15-40cm, toàn cây có lông ráp và có nhựa mủ trắng. Lá mọc đối, cuống ngắn, phiến lá hình mũi mác, dài 4-5cm, rộng 7-15mm, mép có răng cưa nhỏ. Gốc cuống lá có 2 lá kèm nhỏ hình lông cứng. Nhiều cụm hoa hình chén nhỏ ở các nách lá. Mỗi chén mang các hoa đơn tính. Quả rất nhỏ, đường kính khoảng 1,5mm, khi già nứt thành 3 mảnh vỏ mang 3 hạt rất nhỏ. Ra hoa quanh năm.

Bộ phận dùng: Toàn cây bỏ rễ.

Phân bố: Cây mọc hoang khắp nơi, ở những chỗ đất có sỏi đá, bãi cỏ, đường đi.

Thu hái: Cây được thu hái vào mùa hè thu, rửa sạch, dùng tươi hay phơi khô dùng dần.

Thành phần hoá học : Trong cây có quercetin, triacontan, jambulol, một chất phenolic, enphosterol, một phytosterol và phytosterolin, các acid hữu cơ (gallic, melissic, palmitic, oleic và linoleic), l-inositol và một alcaloid xanthorhamnin.

Công năng: Tiêu viêm, lợi tiểu, giải độc, chống ngứa, thông sữa; cây còn có tính làm dịu, chống co thắt và làm dễ thở.

Công dụng: Người ta dùng Cỏ sữa để chữa: 1. Lỵ trực khuẩn, lỵ amíp; 2. Viêm ruột cấp, khó tiêu, viêm ruột non do Trichomonas; 3. Viêm khí quản mạn tính; 4. Viêm thận, viêm bể thận. Dùng ngoài trị eczema, viêm da, hắc lào, zona, apxe vú, viêm mủ da. Còn dùng cho phụ nữ đẻ ít sữa hoặc tắc tia sữa.

Ở Ấn Ðộ, Cỏ sữa lá lớn được dùng trị bệnh giun ở trẻ em, bệnh đường ruột và ho; dịch lá dùng trị lỵ và cơn đau bụng, nước sắc cây dùng trị bệnh về phế quản và hen; nhựa cây đắp trị hột cơm, mụn cóc. Ở phương Tây, Cỏ sữa được dùng trị bệnh đường hô hấp (hen, sổ mũi, khí thũng, ho mạn tính). Còn dùng chữa bệnh về mắt (viêm kết mạc, loét giác mạc). Nó có tính gây xót đối với niêm mạc dạ dày nên cần uống thuốc trước các bữa ăn.

Cách dùng, liều lượng: Có thể dùng dưới nhiều dạng. Nếu hãm, lấy 1g cho vào trong 1 ch n nước sôi, mỗi ngày uống 2 chén. Hoặc dùng cao lỏng 0,50g – 1,50g hàng ngày. Hoặc dùng cao nước rượu 0,05-0,10g hàng ngày, dạng poxio. Hoặc dùng cồn thuốc 1-3g mỗi ngày. Người ta cũng thường dùng nước nấu cây để chữa bệnh ngoài da hoặc giã đắp ngoài.

Ghi chú: Không dùng quá liều vì cây có độc, sẽ gây ỉa chảy và làm tim hoạt động bất thường. Có thể giải độc bằng nước sắc Cam thảo và Kim ngân hoa, mỗi vị 12- 16g.

cỏ-sữa-lá-nhỏ
cỏ-sữa-lá-nhỏ

CỎ SỮA LÁ NH

Tên khoa học: Euphorbia thymifolia Burm., họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).

Mô tả: Cây thảo sống nhiều năm, mọc bò, có lông và có nhựa mủ trắng. Thân và cành tỏa rộng trên mặt đất, hình sợi, màu đỏ tím, hơi có lông. Lá nhỏ mọc đối, hình bầu dục hay thuôn, tù đầu, hình tim không đều hay tù ở gốc, có răng ở mép, có lông ở mặt dưới, dài 7mm, rộng 4mm. Cụm hoa dạng xim co ít hoa ở nách lá. Quả nang, đường kính 1,5mm, có lông. Hạt nhẵn, có 4 góc lồi, dài 0,7mm. Cây ra hoa vào mùa hè.

Bộ phận dùng: Toàn cây

Phân bố: Cây mọc hoang khắp nơi ở bãi cỏ, sân vườn, ở những nơi đất có sỏi đá.

Thu hái: Cây quanh năm, tốt nhất vào hè thu, rửa sạch dùng tươi hay phơi khô.

Tác dụng dược lý: Dùng dung dịch cỏ sửa đưa vào ruột sẽ ức chế sự sinh sản của các loại vi trùng lỵ (Sonner, Shigella, Flexneri,…) cũng có tác dụng ức chế các chủng vi khuẩn tụ cầu vàng. Cỏ sữa lá nhỏ được xem là loại thuốc kháng khuẩn tụ cầu vàng. Cỏ sữa lá nhỏ được xem là loại thuốc kháng sinh trị bệnh đường ruột và bệnh ngoài da. Chất nhựa mủ của nó có tính gây xót đối với niêm mạc dạ dày và độc đối với cá và chuột. Ở Ấn Ðộ, người ta xem nó như có tác dụng làm thơm, săn da, kích thích và nhuận tràng.

Thành phần hoá học: Trong cây có một loại tinh dầu màu xanh, mùi đặc biệt, vị kích ứng. Thành phần tinh dầu gồm cymol, carvacrol, limonen-sesquiterpen và acid salicylic. Lá và thân chứa flavonoid cosmosiin (5,7,4-trihydroxyflavon-7- glucosid). Rễ chứa taraxerol, tirucallol và myrixyl alcohol.

Công năng: Thông huyết, tiêu viêm, tiêu độc, lợi tiểu, kháng khuẩn, thông sữa.

Công dụng: Thường dùng trị: 1. Lỵ trực trùng, viêm ruột ỉa chảy; 2. Trị xuất huyết;

  1. Phụ nữ sinh đẻ thiếu sữa hoặc tắc tia sữa.

Ở Ấn Độ còn dùng làm thuốc diệt sâu bọ, giã đắp chữa bệnh ngoài da.

Cách dùng, liều lượng: Toàn cây phơi khô, sao vàng, sắc uống, mỗi ngày 15-20g, có thể tới 50g cho trẻ em. Người lớn có thể dùng tới 100-150g.

Bài thuốc:

  1. Lỵ trực trùng: dùng Cỏ sữa Rau sam 80g sắc với 300ml nước, lấy 150ml, chia 3 lần uống trong ngày.
  2. Lợi sữa: Cỏ tươi 100g, hạt cây Gạo 40g, hai thứ sắc kỹ, lấy nước nấu cháo gạo ăn.
  3. Viêm da nổi mẩn ngứa: Cỏ sữa giã nát xoa hay nấu nước rử

Bốn kiêng kỵ trong bảo vệ sức khỏe người ở tuổi trung niên

  1. Kỵ lao động quá mức: Người ở tuổi trung niên, trên vai mang hai gánh nặng gia đình và công tác xã hội, là trụ cột trong cuộc sống gia đình, nếu trong công tác, học tập và sinh hoạt thường ngày không biết sắp xếp để lao động, học tập và nghỉ ngơi thích đáng, tất sẽ ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan trong cơ thể.
  2. Kỵ ít để tâm coi trọng giữ gìn sức khỏe: Không ít những người ở tuổi trung niên tự cho mình khỏe mạnh, sung sức, có thể trấn át được tất cả, có bệnh không để tâm lo đi chữa kịp thời. Trên thực tế, người ở tuổi trung niên lại càng cần phải chú ý nhất trong phòng, chữa bệnh, kịp thời, định kì kiểm tra sức khỏe, nhất là khi phát hiện có hiện tượng khả nghi bị ung thư thời kì đầu, càng không được coi thường, để chậm trễ, nhằm tránh những hậu họa khó lường.Huyết áp cao cũng có thể dẫn tới nhức đầu
  3. Kỵ uống quá nhiều: ở tuổi trung niên, mỗi bữa uống một chén con rượu thuốc bổ hoặc rượu nho hoặc một cốc bia, hoặc ăn một ít rượu nếp cái hoặc rượu nếp cẩm, như vậy có thể tiêu trừ được mệt mỏi qua một buổi lao động vất vả, mệt nhọc, thúc đẩy ăn ngon miệng, đẩy mạnh tuần hoàn huyết dịch. Nhưng nếu uống quá lượng thường xuyên các loại bia, rượu sẽ làm tổn thương gan, sinh bệnh về tim. Uống nước trà tuy có ích nhưng cũng không được uống quá lượng, không uống nước trà pha quá đặc và uống nhiều một lúc, nhất là uống trước và sau liền kề với bữa ăn.
  4. Kỵ ăn quá nhiều, quá no: Ăn vào quá nhiều, quá no một lúc thường sẽ gây nên các bệnh về dạ dày và ruột, cho nên nếu muốn cơ thể khỏe mạnh, sống lâu, cần ăn có điều độ, đầy đủ, cân đối, tuyệt đối tránh ăn quá no, nhất là bữa tối trước khi đi ngủ, cần ăn non bụng đi một chút.