Blog Trang 510

Những điều cần biết về thuốc Aubagio (teriflunomide)

Tên thương hiệu: Aubagio

Tên chung: Teriflunomide

Nhóm thuốc: Ức chế tổng hợp pyrimidine

Aubagio là gì và được sử dụng để làm gì?

Aubagio là một loại thuốc kê đơn được sử dụng để điều trị các dạng tái phát của bệnh đa xơ cứng (MS). Aubagio có thể làm giảm số lần bùng phát bệnh (tái phát). Tuy nhiên, thuốc không chữa khỏi bệnh MS mà giúp làm chậm lại các vấn đề thể chất do MS gây ra.

Hiện chưa rõ liệu Aubagio có an toàn và hiệu quả ở trẻ em hay không.

Ai không nên dùng Aubagio?

Không dùng Aubagio nếu bạn:

  • Đã từng bị dị ứng với Aubagio hoặc với thuốc có tên leflunomide.
  • Bị các vấn đề nghiêm trọng về gan.
  • Đang mang thai hoặc trong độ tuổi sinh sản và không sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả.
  • Đang dùng thuốc leflunomide.

Tác dụng phụ của Aubagio là gì?

CẢNH BÁO

  • Độc tính gan: Đã có báo cáo về tổn thương gan nghiêm trọng, bao gồm suy gan gây tử vong ở bệnh nhân điều trị bằng leflunomide (được chỉ định cho bệnh viêm khớp dạng thấp). Do liều teriflunomide (Aubagio) và leflunomide tạo ra nồng độ tương tự trong huyết tương, nguy cơ tương tự cũng được dự kiến cho teriflunomide.
  • Việc sử dụng Aubagio cùng với các thuốc có khả năng gây độc cho gan có thể làm tăng nguy cơ tổn thương gan nghiêm trọng.
  • Trước khi bắt đầu điều trị với Aubagio, cần kiểm tra mức transaminase và bilirubin trong vòng 6 tháng. Sau khi bắt đầu điều trị, nên theo dõi mức ALT ít nhất hàng tháng trong 6 tháng. Nếu nghi ngờ tổn thương gan do thuốc, hãy ngừng Aubagio và bắt đầu quá trình loại bỏ thuốc nhanh với cholestyramine hoặc than hoạt tính. Aubagio chống chỉ định cho những bệnh nhân suy gan nghiêm trọng. Những bệnh nhân có bệnh gan từ trước có thể có nguy cơ cao bị tăng transaminase huyết thanh khi dùng Aubagio.
  • Nguy cơ gây quái thai: Aubagio chống chỉ định ở phụ nữ mang thai và phụ nữ có khả năng sinh sản không sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả do có khả năng gây hại cho thai nhi. Quái thai và tử vong phôi đã xảy ra ở động vật ở mức phơi nhiễm teriflunomide thấp hơn so với con người. Cần loại trừ khả năng mang thai trước khi bắt đầu điều trị với Aubagio ở phụ nữ có khả năng sinh sản. Phụ nữ cần sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả trong thời gian điều trị với Aubagio và thực hiện quy trình loại bỏ thuốc nhanh sau khi ngừng thuốc. Nếu bệnh nhân mang thai, cần ngừng dùng Aubagio ngay lập tức và thực hiện quy trình loại bỏ thuốc nhanh.

Aubagio (teriflunomide) là thuốc ức chế tổng hợp pyrimidine được sử dụng để điều trị các dạng tái phát của bệnh đa xơ cứng (MS). Các tác dụng phụ của Aubagio bao gồm:

  • Vấn đề về gan,
  • Cúm,
  • Rụng tóc hoặc tóc mỏng,
  • Buồn nôn,
  • Tiêu chảy,
  • Cảm giác nóng rát hoặc châm chích trên da,
  • Tê hoặc ngứa ran ở tay hoặc chân khác với triệu chứng MS.

Hãy thông báo cho bác sĩ nếu bạn gặp các tác dụng phụ nghiêm trọng từ Aubagio bao gồm:

  • Sốt,
  • Ớn lạnh,
  • Đau nhức cơ thể,
  • Triệu chứng cúm,
  • Loét miệng và họng,
  • Ngứa,
  • Cảm giác mệt mỏi,
  • Mất cảm giác thèm ăn,
  • Nước tiểu sẫm màu,
  • Phân màu đất sét,
  • Da hoặc mắt vàng,
  • Nhịp tim nhanh hoặc đập mạnh,
  • Nhầm lẫn,
  • Tiểu ít hoặc không tiểu,
  • Đau ngực,
  • Ho khan,
  • Khó thở,
  • Đỏ hoặc bong tróc da,
  • Sưng,
  • Tăng cân nhanh,
  • Phản ứng da nghiêm trọng – sốt, đau họng, sưng mặt hoặc lưỡi, rát mắt, đau da, kèm theo phát ban đỏ hoặc tím lan rộng (đặc biệt là ở mặt hoặc thân trên) gây phồng rộp và bong tróc.

Liều khuyến cáo cho Aubagio là 7 mg hoặc 14 mg uống mỗi ngày một lần, có thể uống cùng hoặc không cùng thức ăn. Aubagio có thể làm tăng phơi nhiễm của ethinyl estradiol và levonorgestrel. Bệnh nhân đang dùng Coumadin (warfarin) cần được theo dõi chặt chẽ vì có thể xảy ra tương tác. Aubagio có thể gây dị tật bẩm sinh nghiêm trọng nếu sử dụng trong thai kỳ. Phụ nữ cần loại trừ khả năng mang thai trước khi bắt đầu điều trị với Aubagio và tránh mang thai trong quá trình điều trị. Nếu Aubagio được sử dụng trong thai kỳ hoặc bệnh nhân mang thai trong khi điều trị, thuốc cần được ngừng ngay lập tức và bắt đầu quy trình loại bỏ thuốc nhanh. Tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi cho con bú.

Đây không phải là danh sách đầy đủ các tác dụng phụ và có thể có những tác dụng phụ khác. Hãy gọi cho bác sĩ để được tư vấn y tế về tác dụng phụ.

Liều lượng của Aubagio là gì?

Liều khuyến cáo của Aubagio là 7 mg hoặc 14 mg uống một lần mỗi ngày. Aubagio có thể được uống cùng hoặc không cùng với thức ăn.

Các loại thuốc nào tương tác với Aubagio?

Tác động của Aubagio lên các chất nền CYP2C8:

Teriflunomide là một chất ức chế CYP2C8 trong cơ thể. Ở những bệnh nhân dùng Aubagio, sự phơi nhiễm với các thuốc được chuyển hóa bởi CYP2C8 (ví dụ: paclitaxel, pioglitazone, repaglinide, rosiglitazone) có thể tăng lên. Cần theo dõi những bệnh nhân này và điều chỉnh liều của các thuốc đồng thời được chuyển hóa bởi CYP2C8 khi cần thiết.

Tác động của Aubagio lên Warfarin:

Việc dùng Aubagio cùng với warfarin yêu cầu phải theo dõi chặt chẽ tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế (INR) vì Aubagio có thể làm giảm INR đỉnh khoảng 25%.

Tác động của Aubagio lên các biện pháp tránh thai uống:

Aubagio có thể làm tăng sự phơi nhiễm toàn thân của ethinylestradiol và levonorgestrel. Cần xem xét loại hoặc liều của các biện pháp tránh thai được sử dụng kết hợp với Aubagio.

Tác động của Aubagio lên các chất nền CYP1A2:

Teriflunomide có thể là một chất kích thích yếu của CYP1A2 trong cơ thể. Ở những bệnh nhân dùng Aubagio, sự phơi nhiễm với các thuốc được chuyển hóa bởi CYP1A2 (ví dụ: alosetron, duloxetine, theophylline, tizanidine) có thể giảm xuống. Cần theo dõi những bệnh nhân này và điều chỉnh liều của các thuốc đồng thời được chuyển hóa bởi CYP1A2 khi cần thiết.

Tác động của Aubagio lên các chất nền OAT3:

Teriflunomide ức chế hoạt động của OAT3 trong cơ thể. Ở những bệnh nhân dùng Aubagio, sự phơi nhiễm với các thuốc là chất nền OAT3 (ví dụ: cefaclor, cimetidine, ciprofloxacin, penicillin G, ketoprofen, furosemide, methotrexate, zidovudine) có thể tăng lên. Cần theo dõi những bệnh nhân này và điều chỉnh liều của các thuốc đồng thời là chất nền OAT3 khi cần thiết.

Tác động của Aubagio lên BCRP và các chất nền OATP1B1/1B3:

Teriflunomide ức chế hoạt động của BCRP và OATP1B1/1B3 trong cơ thể. Đối với bệnh nhân đang dùng Aubagio, liều rosuvastatin không được vượt quá 10 mg một lần mỗi ngày. Đối với các chất nền khác của BCRP (ví dụ: mitoxantrone) và các thuốc trong gia đình OATP (ví dụ: methotrexate, rifampin), đặc biệt là các chất ức chế HMG-CoA reductase (ví dụ: atorvastatin, nateglinide, pravastatin, repaglinide, simvastatin), cần xem xét giảm liều của các thuốc này và theo dõi chặt chẽ bệnh nhân để phát hiện các dấu hiệu và triệu chứng của việc tăng cường phơi nhiễm với các thuốc trong quá trình bệnh nhân đang dùng Aubagio.

Aubagio có an toàn khi sử dụng trong thai kỳ hoặc cho con bú không?

Aubagio bị chống chỉ định cho phụ nữ mang thai và phụ nữ có khả năng sinh sản mà không sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả do nguy cơ gây hại cho thai nhi dựa trên dữ liệu từ động vật. Dữ liệu về con người hiện không có để xác định sự hiện diện hoặc không hiện diện của nguy cơ liên quan đến thuốc khi sử dụng Aubagio trong thai kỳ.

Trong các nghiên cứu sinh sản trên động vật như chuột và thỏ, việc dùng teriflunomide qua đường uống trong giai đoạn tạo hình cơ quan đã gây ra tật bẩm sinh và tử vong thai nhi ở mức phơi nhiễm huyết tương (AUC) thấp hơn mức liều khuyến cáo tối đa cho con người (MHRD) là 14 mg/ngày.

Trong dân số chung ở Mỹ, nguy cơ nền ước tính của các dị tật bẩm sinh nghiêm trọng và sảy thai trong các thai kỳ được công nhận lâm sàng lần lượt là 2%-4% và 15%-20%. Nguy cơ nền của các dị tật bẩm sinh nghiêm trọng và sảy thai trong nhóm đối tượng được chỉ định vẫn chưa rõ ràng.

Đăng ký theo dõi phơi nhiễm thai kỳ

Có một đăng ký theo dõi phơi nhiễm thai kỳ nhằm giám sát kết quả thai kỳ ở những phụ nữ tiếp xúc với Aubagio trong thai kỳ.

Chưa biết liệu thuốc này có bài tiết vào sữa mẹ hay không. Teriflunomide đã được phát hiện trong sữa chuột sau một liều uống duy nhất.

Các lợi ích về phát triển và sức khỏe của việc cho con bú nên được cân nhắc cùng với nhu cầu lâm sàng của mẹ về Aubagio và bất kỳ tác động bất lợi tiềm tàng nào đối với trẻ sơ sinh bú sữa mẹ từ Aubagio hoặc tình trạng mẹ có sẵn.

Tóm tắt

Aubagio (teriflunomide) là một loại thuốc kê đơn dùng cho bệnh đa xơ cứng (MS). Aubagio có thể làm chậm các vấn đề về thể chất và giảm cơn bùng phát do MS, nhưng không chữa khỏi MS. Thuốc điều trị đa xơ cứng Aubagio có một số tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm nguy hại sinh sản và tổn thương gan nặng hoặc suy gan ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp được điều trị bằng leflunomide. Aubagio không nên được sử dụng trong thời gian mang thai hoặc cho con bú. Aubagio chưa được chứng minh là an toàn khi sử dụng cho trẻ em.

Bệnh giãn phế quản – Nguyên nhân, triệu chứng, điều trị

Định nghĩa

Là tÌnh trạng giãn rộng đường kính của những phế quản cỡ trung bình và nhỏ khu trú hoặc tràn lan (lan toả) và không thể hồi phục được.

Căn nguyên

GIÃN PHẾ QUẢN KHU TRÚ: xẩy ra thứ phát sau khi một phế quản bị tắc nghẽn và nhiễm khuẩn, nhất là do dị vật, khối u lành tính hoặc ác tính, lao phổi (di chứng của lao hạch bạch huyết), bệnh nấm aspergillus phổi, bệnh xơ phổi và co rút do sẹo ở phế quản.

GIÃN PHẾ QUẢN LAN TOẢ (TRÀN LAN):

  • Nhiễm khuẩn hoặc virus với biến chứng viêm tiểu phế quản ở trẻ em, đặc biệt là trong bệnh sởi, bệnh ho gà và nhiễm virus hô hấp hợp bào.
  • Viêm phổi hoại tử do nhiễm Klebsiella, tụ cầu khuẩn, mycobacterium.
  • Bệnh nấm phổi (bệnh phổi do nhiễm nấm).
  • Bệnh nhầy nhớt (xem bệnh này).
  • Hội chứng Kartagener: là một bệnh di truyền nhiễm sắc thể thân kiểu lặn, với đặc điểm là lông chuyển của những những tế bào biểu mô kém hoạt động (rối loạn chuyển động của lông chuyển nguyên phát) và tinh trùng mất khả năng di chuyển. Bệnh thường kết hợp với polýp ở mũi (thịt thừa ở mũi) và đảo nghịch phủ tạng. Trong hội chứng Young thì lông chuyển không hoạt động lại kết hợp với chứng mất tinh trùng tắc nghẽn (không có tinh trùng do tắc nghẽn bẩm sinh đường dẫn tinh (quá trình tạo tinh trùng ở tinh hoàn vẫn bình thường).

– Những bệnh bẩm sinh khác: những phế quản ở trước phế quản phân thuỳ không có sụn (hội chứng Williams-Campbell), giảm gammaglobulin-huyết bẩm sinh, và những thiếu hụt miễn dịch khác (giảm sức đề kháng với nhiễm khuẩn).

Giải phẫu bệnh

GIÃN PHẾ QUẢN KHU TRÚ: chỉ hạn chế trong một hoặc hai phân thùy hoặc giới hạn ở thuỳ giữa phổi phải.

GIÃN PHẾ QUẢN LAN TỎA: hình thành từ lúc còn nhỏ tuổi, có thể phế quản bị giãn hình trụ, với giãn tĩnh mạch ở thành phế quản, hoặc giãn phế quản thành hình túi, hình bóng dài. Về phương diện vi thể, người ta thấy trong thành của phế quản bị giãn, các thành phần cơ trơn và sợi chun đều bị phá huỷ, không thấy có những lông chuyển của tế bào biểu mô, và dịch nhầy thì tích tụ nhiều trong các phế quản. Khi mô kẽ và phế nang bị hoại tử, thì thấy hình ảnh co kéo. Đôi khi thấy các shunt (mạch nối tắt) giữa các động mạch hoặc tĩnh mạch phế quản với động và tĩnh mạch phổi, và đôi khi tăng huyết áp động mạch phổi.

Triệu chứng

THỂ KHU TRÚ: có thể không có biểu hiện triệu chứng.

THỂ LAN TỎA: các triệu chứng thường bắt đầu xuất hiện từ lúc còn nhỏ tuổi bởi những đợt nhiễm khuẩn hô hấp bị đi bị lại, với ho và khạc nhiều đờm, nổi bật vào buổi sáng sớm. Đòm của bệnh nhi thường đọng thành 3 lớp (dưới cùng là các mảnh tế bào bị hoại tử, lóp giữa là dịch nhầy, và lớp trên cùng là bọt). Bệnh nhi hay bị những đợt viêm phế quản, trong những đợt này đờm trở nên lẫn mủ- (dịch phế quản có mủ). Ho ra máu cũng hay xẩy ra từ mức độ đờm có dính vết máu tới ho ra máu với lượng lớn, và biến dạng ngón tay hình dùi trống. Khó thở và tím tái xuất hiện ở những thể muộn. Khi nghe phổi, thấy các dấu hiệu thay đổi từng ngày tuỳ theo mức độ ứ đọng các chất trong phế quản bị giãn, nhưng vị trí ổ nghe thấy dấu hiệu bệnh thì luôn cố định. Thường nghe thấy các ran bọt nước và ran hai thì.

X quang: chụp X quang lồng ngực cho thấy tăng sáng, nhất là ở thuỳ dưới của hai phổi, có hình cánh hoa hoặc hình tổ ong, có hoặc không có mức nước và những bóng mờ dài, co kéo ở cạnh tim hoặc cạnh rốn phổi. Trong bệnh nhày nhớt, thì hình ảnh bất thường nổi bật ở hai thuỳ trên. Có thể thấy những hình ảnh dầy màng phổi và hình ảnh túi cùng sườn-hoành bị lấp kín (bị mờ).

Chụp cắt lớp vi tính có thể cho phép nhận ra các phế quản bị giãn với thành dầy lên.

Chụp phế quản hai bên (chụp hai bên phổi theo hai thì) cho phép chẩn đoán xác định và tổng kết mức độ lan rộng của tổn thương. Tuy nhiên, kỹ thuật này chỉ được thực hiện khi nào tình trạng của bệnh nhân ổn định.

Biến chứng: viêm phế quản-phổi mủ bởi những vi khuẩn Gram âm, áp xe phổi, nhiễm khuẩn lan xa (áp xe não), tràn khí màng phổi, thoái hoá dạng tinh bột.

Tiên lượng

Nếu không điều trị, thì giãn phế quản lan toả sẽ diễn biến bởi từng đợt nhiễm khuẩn tái phát nhiều lần nhất là vào mùa đông, để cuối cùng dẫn tới suy hô hấp mạn tính.

Chẩn đoán

Căn cứ vào các triệu chứng và dấu hiệu: ho mạn tính lâu ngày, kèm theo khạc đờm nhiều, nghe phổi thấy ran thay đổi ở hai vùng đáy, chụp phế quản thấy hình ảnh đặc biệt. Cần chẩn đoán phân biệt giữa giãn phế quản với viêm phế quản mạn tính và với lao phổi.

Thể giãn phế quản khu trú thường phát triển sau khi một phế quản bị tắc nghẽn, và trong chẩn đoán thường phải chỉ định soi phế quản để tìm ra nguyên nhân (khối u, dị vật).

Điều trị

Dẫn lưu bằng tư thế hàng ngày. bệnh nhân phải tìm được một tư thế thích hợp để làm thoát đờm ra ngoài có hiệu quả nhất (ví dụ tư thế gối gấp lên ngực, nằm nghiêng ở vị trí đầu thấp). Phải làm cho bệnh nhân ho để đẩy đờm ra ngoài và tuỳ tình thế, tác động gõ -rung (vỗ vào thành ngực) để tiết đờm. Thời gian dẫn lưu đờm có thể kéo dài khoảng mười phút, và làm đi làm lại 3-4 lần mỗi ngày, lần dẫn lưu buổi sáng vào lúc mới ngủ dậy là quan trọng nhất.

Dự phòng nhiễm khuẩn hô hấp: Thôi (cai) hút thuốc lá. Tránh khí hậu ẩm và lạnh cũng như tránh không khí ô nhiễm được càng nhiều càng tốt.

Thuốc kháng sinh:chỉ được sử dụng trong những đợt nhiễm khuẩn cấp tính. Liệu pháp kháng sinh cũng phải căn cứ vào kết quả cấy vi khuẩn từ bệnh phẩm đờm và vào kháng sinh đồ. Trong đa số trường hợp, sử dụng amoxicillin, hoặc tetracyclin, hoặc phối hợp sulfamethoxazol + trimethoprim đều có hiệu quả.

Dẫn lưu bằng nội soi:kỹ thuật hút phế quản đôi khi cho phép giải toả những phế quản khỏi bị tắc nghẽn bởi một nút niêm dịch, nếu không thì rất dễ bị nhiễm khuẩn.

Phẫu thuật cắt bỏ:cắt phân thuỳ phổi hoặc cắt thuỳ phổi có thể cần thiết trong những thể giãn phế quản khu trú, hay bị bội nhiễm tái phát, và kém nhạy cảm với kháng sinh.

Thuốc làm dịu(an thần kinh) và thuốc giảm ho:chống chỉ định dẫn xuất của thuốc phiện.

Điều trị suy hô hấp mạn tính(xem bài: suy hô hấp mạn tính ).

Phòng bệnh

Tiêm chủng vaccin cho trẻ em để phòng chống bệnh sởi, bệnh ho gà, chẩn đoán trước sinh bệnh nhày nhớt trong trường hợp có tiền sử gia đình, và điều trị thích đáng những trường hợp nhiễm virus hô hấp hợp bào, tiêm chủng vaccin phòng ngừa phế cầu khuẩn, và phòng cúm cho những đối tượng có nguy cơ.

Tác dụng chữa bệnh của Quả Mướp

Cây mướp thuộc loại thân leo, là một trong những loại cây cung cấp quả, lá, hoa làm thực phẩm ăn hàng ngày. Quả mướp không to, dài 40-60cm. Quả mướp còn được dùng làm thuốc chữa bệnh.

Cây mướp thuộc loại thân leo
Cây mướp thuộc loại thân leo

Theo Đông y, quả mướp có vị ngọt tính bình không độc. Tác dụng nhuận tràng, thông huyết, giải độc, chữa băng huyết, xuất huyết không rõ nguyên nhân, chữa đau lưng, chữa trĩ ra máu, rong kinh, kiết lỵ, chữa hen, thúc lên sởi, phụ nữ bị bế kinh và viêm vú v.v…

Thuốc ứng dụng:

Bài 1. Thuốc chữa bệnh băng huyết

+ Cuống quả mướp 20g

+ Rễ cỏ tranh 10g

+ Lá huyết dụ 15g

+ Cỏ nhọ nồi 10g

+ Than ngải cứu 15g

Các vị thuốc rửa sạch cho vào nồi cùng 500ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, mỗi lần 60-70ml nước thuốc, cần uống liền 3 ngày.

Bài 2. Thuốc chữa phụ nữ kinh nguyệt không đều

+ Quả mướp khô                   150g

Cho quả mướp khô vào nồi đất, đậy kín vung vùi vào bếp than, khi mướp cháy thành than, đem tán nhỏ. Mỗi lần uống 12g bột thuốc với 2 thìa canh tiết vịt pha thêm 10ml rượu gạo, ngày uống một lần vào lúc sáng sớm khi chưa ăn gì. cần uống liền 5-7 ngày trước kỳ kinh.

 quả mướp có tác dụng nhuận tràng, thông huyết
Quả mướp có tác dụng nhuận tràng, thông huyết

Bài 3. Thuốc làm đẹp da mặt

+ Quả mướp                          500g

Chọn quả không già, không non, rửa sạch cắt nhỏ cho vào lọ to miệng, đậy kín, sau 24 tiếng chắt lấy nước, bảo quản sạch trong tủ lạnh, mỗi sáng bôi một lần nước này lên khắp mặt, thời gian bôi từ 10-12 ngày sẽ có kết quả.

Bài 4. Thuốc chữa bệnh đau lưng

+ Hạt mướp già 20g

+ Cành dâu 15g

+ Tang kí sinh 10g

Hạt mướp giã dập sao vàng cùng các vị thuốc cho vào nồi sắc lấy 180ml nước đặc. Người bệnh uống ngày 3 lần, trước khi ăn, mỗi lần 60ml nước thuốc, cần uống liền 15-20 ngày.

Bài 5. Thuốc chữa bệnh trĩ ra máu

+ Xơ mướp 100g

+ cỏ nhọ nồi 50g

+ Lá mồng tơi 30g

+ Ngải cứu 25g

Các vị thuốc phơi khô sao cháy, đem tán bột. Người bệnh mỗi lần uống 10g với nước sôi để nguội, ngày 3 lần, trước khi ăn. Cần uống liền 7-10 ngày.

Bài 6. Thuốc chữa bệnh hen

+ Xơ mướp                             100g

+ Hạt đay (loại quả dài) 50g

Hạt đay giã dập, cùng xơ mướp sao vàng tán bột. Người bệnh ngày uống 3 lần, mỗi lần 9g VỚI nước sôi để nguội, uống sau khi ăn. cần uống liền 11 ngày.

Bài 7. Thuốc chữa phụ nữ bị viêm vú

+ Quả mướp                           150g

+ Hạt gấc 50g

Hạt gấc bỏ vỏ đen, sao vàng; quả mướp sấy khô, sao cháy. Cả hai thứ tán bột mịn, uống mỗi lần 10g với nước nóng có pha 30% rượu, sau bữa ăn.

Cần uống liền 5-7 ngày.

Bài 8. Thuốc lợi sữa

+ Quả mướp non 100g

+ Móng giò lợn 50g

+ Quả mít non 50g

+ Gạo nếp 50g

Móng giò lợn làm sạch, cùng các vị thuốc cho vào nồi cùng 1 lít nước, ninh nhừ cho người bệnh ăn, ngày 2 lần, lúc đói. Cần ăn liền 5 ngày.

Bài 9. Thuốc thúc đều sởi

+ Xơ mướp 20g

+ Kinh giới 12g

+ Bạch chỉ 12g

+ Kim ngân 12g

+ Cỏ mần trầu 8g

+ Cam thảo nam (sao vàng) 4g

Các vị thuốc rửa sạch cho vào nồi cùng 400ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 150ml nước đặc. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước bữa ăn. cần uống liền 2-3 ngày.

Chẩn đoán và điều trị xơ não tủy rải rác

Giữa thế kỷ XIX, bệnh xơ não tủy rải rác được mô tả lâm sàng lần đầu tiên bời Frerichs ờ Goettingen với chẩn đoán “xơ não” (hirnsclerose); tuy nhiên, chẩn đoán này còn gây nhiều tranh cãi trong thời gian đó. Cùng thời gian đó Robert Carstwell (sau này đã trở thành giáo sư giải phâu bệnh ở London, 1793 – 1857) đã hoàn chỉnh những sơ đồ và hình vẽ về giải phẫu bệnh trong cuôn “Giải phâu bệnh: những mô phỏng của các dạng bệnh cơ bản” (pathological antomy: illustrations of elementary forms of disease), trong đó, có những hình ảnh tương ứng với tổn thương giải phẫu như chúng ta biết trong bệnh xơ não tủy rải rác ngày nay.

Năm 1863, Rindfleisch (ở Zuerich) mô tả lần đầu tiên những tổn thương mạch máu trong xơ não tủy rải rác; sau đó thuyết mạch máu của xơ não tủy rải rác tồn tại được hơn một thập kỷ. Chỗ dựa của học thuyết này là những tổn thương trong xơ não tủy rải rác thường nằm cạnh những tĩnh mạch nhỏ, tại đó đôi khi còn quan sát thấy những đám huyết khối đã được tổ chức hoá.

Năm 1863, Leyden đã khái quát những hiểu biết về bệnh trong thời gian đó thành một số đặc điểm nhất định.

Ngay sau đó, thông qua kết quả theo dõi nghiên cứu trên 40 ca lâm sàng, JM Charcot đã chứng minh và khẳng định xơ não tủy rải rác không đơn thuần là một hội chứng mà là một bệnh lý độc lập và hoàn chỉnh; đồng thời, ông cũng là người có nhiều công trong việc tìm kiếm những phương pháp điều trị đầu tiên cho bệnh này.

Cho tới nay bệnh được biết tới với nhiều tên gọi quốc tế khác nhau như:

+ Mutiple sclerosis.

+ Sclerose en plaque.

+ Encephalomyelitis dissiminata.

  • Ở Việt Nam bệnh thường được các tác giả đề cập tới với các tên như sau:

+ Xơ cứng từng mảng.

+ Xơ cứng rải rác nhiều ổ.

+ Viêm não tuỷ rải rác.

+ Xơ não tuỷ rải rác.

+ Xơ rải rác.

Chúng tôi thấy rằng tên gọi “xơ não tuỷ rải rác” hợp lý hơn cả, vì nó diễn đạt bệnh sát hơn về hình thái, định khu và về bệnh căn cũng như bản chất bệnh. Vì vậy, chúng tôi xin gọi là bệnh “xơ não tuỷ rải rác”.

Phân loại

+ Căn cứ vào đặc điểm tiến triển của bệnh người ta chia xơ não tủy rải rác thành các loại sau:

Tiến triển thành từng đợt.

Tiến triển mạn tính nặng dần.

Tiến triển cấp tính.

+ Trong đó, tiến triển theo 2 kiểu đầu tiên là điển hình của bệnh, tiến triển cấp tính hiếm gặp hơn.

Dịch tễ

Những tác giả đầu tiên nghiên cứu tỷ lệ hiện hành của xơ não tủy rải rác là Bing và Reese (1926), Ackermann (1931). Các tác giả đã nghiên cứu với tham vọng lập bản đồ phân bố bệnh trên thế giới, đồng thời so sánh những triệu chứng của người bệnh với người lành để xác định những điểm khác nhau giữa người bệnh và người bình thường, qua đó tìm hiểu những yếu tố liên quan tới đặc tính lâm sàng của bệnh.

Tuy nhiên, mục đích của các tác giả không thực hiện được vì vào thời đó không có những điều kiện trang bị kỹ thuật như ngày nay cho nên việc xác định những đặc điểm đặc trưng của bệnh còn gặp những khó khăn. Chương trình đã dự kiến nhưng không thực hiện được.

Phải cho tới khi kỹ thuật chẩn đoán miễn dịch và chẩn đoán hình ảnh đạt tới trình độ cao, người ta mới có những cứ liệu khoa học tin cậy để soi dọi cho các quan sát lâm sàng. Khi đó tiêu chuẩn chẩn đoán đáng tin cậy cho bệnh xơ não tủy rải rác mới được xác định và trở thành cơ sở nghiên cứu bệnh về mặt lâm sàng cũng như dịch tễ.

Ngày nay, người ta thấy bệnh xơ não tủy rải rác hay gặp nhất ở lứạ tuổi trẻ và ở cư dân các nước châu Âu, châu Mỹ. Theo thống kê của các chuyên gia, trên thế giới có khoảng 1,2 triệu người mắc bệnh này. Ở CHLB Đức ước tính có chừng 100 nghìn bệnh nhân xơ não tủy rải rác.

Những nghiên cứu trong 2 thập niên vừa qua cho thấy tỷ lệ giới tính của xơ não tủy rải rác là khoảng từ 1,9/1 – 3,1/1, trong đó ưu thế mắc bệnh thuộc về phái nữ.

Tỷ lệ mắc bệnh có khác nhau rõ rệt giữa các châu lục. Người ta thấy bệnh xơ não tủy rải rác có sự phân bố theo địa lý trên trái đất tương đối điển hình. Các nước thuộc những vĩ tuyến nam thường có tỷ lệ mắc bệnh thấp (ví dụ Nam Phi khoảng 10BN/100.000 dân). Càng tiên dân lên các vĩ tuyến phía Bắc tỷ lệ bệnh cũng tăng dần từ 30 – 60BN/100.000 dân (các nước Trung Âu) đến 80 – 100BN/100.000 dân (các nước Bắc Âu).

Theo bản đồ phân bố bệnh trên thế giới, Việt Nam là một nước thuộc vùng có tỷ lệ bệnh xơ não tủy rải rác rất thấp. Các bài viết về mặt bệnh này của các tác giả trong nước cũng rất thưa thớt. Theo thống kê mắc bệnh 10 năm của Hồ Hữu Lương và Nguyễn Văn Chương thì trong thời gian 1980 – 1989 tại Khoa Thần kinh Bệnh viện 103 không có ca xơ não tủy rải rác nào được chẩn đoán và điều trị.

BỆNH CĂN – BỆNH SINH

Nguyên nhân của xơ não tủy rải rác còn chưa rõ ràng, người ta cho rằng sự mẫn cảm gien, các quá trình tự miễn và nhiễm virus có vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của xơ não tủy rải rác.

Yếu tố di truyền

Có nhiều bằng chứng cho thấy thiên hướng mắc bệnh xơ não tủy rải rác được di truyền qua các thế hệ. Bên cạnh đó còn thấy thiên hướng sắc tộc trong bệnh xơ não tủy rải rác, chủng tộc da trắng có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất, sau đó là người da vàng rồi đến người Phi da đen.

HLA – antigen

Ở đây cần đặc biệt nhấn mạnh vai trò của HLA – locus trên nhiễm sắc thể số VI. Bản thân locus này cũng mã hoá các kháng thể ghép (transplantation antigene) và là những phân tử then chốt trong sự xuất hiện đáp ứng miễn dịch thông qua tế bào T.

Các phân tử nhóm I được thấy ở hầu như tất cả các tế bào trong cợ thể, chúng được chia thành các phân nhóm A, B và c. Các phân tử nhóm II chỉ có ở một số tế bào nhất định, chúng giữ vai trò trung tâm khi tế bào TCD4+ phát hiện thấy một kháng nguyên ngoại lai; ngược lại tế bào TCD8+ lại được hoạt hoá bởi các kháng nguyên nội sinh qua con đường MHC nhóm I (major histocompatibility complex nhóm I) ví dụ do nhiễm virus của một tế bào.

LÂM SÀNG

Bệnh cảnh lâm sàng của xơ não tủy rải rác rất đa dạng và phong phú. Các triệu chứng trong từng giai đoạn của bệnh không đồng nhất ờ các bệnh nhân, ở giai đoạn khởi phát, bệnh cảnh lâm sàng nghèo nàn, thường chỉ là 1 – 2 triệu chứng nhẹ nhàng (biểu hiện rối loạn cảm giác, giác quan, rối loạn vận động hoặc thực vật); hơn nữa tiến triển của bệnh cũng không theo một kiểu mẫu nhất định, ở đa số bệnh nhân bệnh tiến triển mạn tính thành đợt nhưng cũng có trường hợp bệnh tiến triển tuân tiến. Chính vì vậy mà việc chẩn đoán bệnh luôn gặp khó khăn.

  • Trong những ngày đầu tiên nghiên cứu bệnh xơ não tủy rải rác, Charcot đã đưa ra tam chứng lâm sàng cổ điển để chẩn đoán bệnh là:

+ Run khi vận động chủ ý.

+ Rung giật nhãn cầu.

+ Tiếng nói thay đổi.

  • Hoặc Marburg và Pette cũng đưa ra những tam chứng tiêu chuẩn để chẩn đoán lâm sàng của mình là:

+ Gai thị thần kinh bạc màu phần thái dương.

+ Thất điều tiểu não.

+ Dấu hiệu tổn thương bó tháp.

Năm 1965, Schumacher cũng đưa ra những tiêu chuẩn chẩn đoán thuần lâm sàng tương đối toàn diện và chặt chẽ như sau:

Có những triệu chứng khách quan biểu hiện tổn thương hệ thần kinh trung ương.

Thông qua thăm khám hoặc hỏi bệnh thấy có biểu hiện tổn thương của 2 vùng giải phẫu khác nhau của hệ thần kinh trung ương.

Về mặt thời gian bệnh phải diễn biến như sau:

Hoặc có 2 hay nhiều đợt diễn biến ngày càng xấu đi, mỗi đợt kéo dài ít nhất 24 giờ và giữa 2 đợt phải là khoảng thời gian dài ít nhất 1 tháng với những triệu chứng lâm sàng ở giai đoạn ổn định hoặc giai đoạn thuyên giảm.

Hoặc có tiến triển nặng dần của các triệu chứng trong khoảng thời gian ít nhất là 6 tháng.

Các triệu chứng trước hết phải phản ánh những tổn thương của chất trắng trong hệ thần kinh trung ương.

Tuổi phát bệnh giữa 10-50.

Các triệu chứng của bệnh nhân phải được một nhà thần kinh học nhiều kinh nghiệm xác định và không thể giải thích được bằng một bệnh thần kinh nào khác.

+ Tuy nhiên, với một bệnh có bệnh cảnh lâm sàng phong phú và không điển hình như bệnh xơ não tủy rải rác thì mức độ sai sót của một chẩn đoán khị chỉ dựa vào một trong những triệu chứng lâm sàng sẽ rất cao là điều không thể tránh khỏi. Muốn chẩn đoán chắc chắn hơn không thể không dựa vào các chỉ tiêu cận lâm sàng.

+ Trong những năm gần đây sự tiến bộ của các kỹ thuật cận lâm sàng (các xét nghiệm miễn dịch trong DNT, kỹ thuật đo dẫn truyền thần kinh, phương pháp đo điện thế kích thích và nhất là việc chẩn đoán hình thái trung ương thần kinh não – tuỷ bằng phương pháp chụp cộng hưởng từ) như đã thổi một luồng sinh khí mới vào công cuộc nghiên cứu bệnh xơ não tủy rải rác. vấn đề chẩn đoán xơ não tủy rải rác đã có được một bước ngoặt rất quan trọng.

CẬN LÂM SÀNG

Xơ não tủy rải rác là một bệnh miễn dịch, điểm tấn công của bệnh trong hệ thần kinh là các tế bào Schwann ở bao myelin (các tế bào giữ vai trò quan trọng trong việc dẫn truyền các xung động thần kinh), về mặt hình thái giải phẫu, bệnh tạo thành những ổ xơ hoá, các ổ xơ này nằm rải rác trong hệ thần kinh trung ương và cả ngoại vi. Chính vì những lý do đó mà các xét nghiệm miễn dịch trong DNT, việc khảo sát khả năng dẫn truyền của các đường thần kinh hướng tâm và ly tâm bằng phương pháp đo tốc độ dẫn truyền và đo điện thế kích thích, cũng như phương pháp chẩn đoán bằng hình ảnh (như MRI) có vai trò rât to lớn trong việc chẩn đoán bệnh xơ não tủy rải rác.

CHẨN ĐOÁN

Trong nhiều năm trở lại đây các nhà nghiên cứu xơ não tủy rải rác thường vận dụng “tiêu chuẩn chẩn đoán của Poser, 1983”. Tiêu chuẩn chẩn đoán này đã kết hợp lâm sàng với các phương pháp cận lâm sàng khác nhau và đã đạt được mức hoàn thiện cao. Các tiêu chuẩn này như sau:

Tiêu chuẩn chung

Bệnh khởi phát không trước năm 10 tuổi và không sau năm 59 tuổi.

Bệnh nhân phải được một bác sĩ thần kinh thứ 2 khám để loại trừ các bệnh thần kinh khác có thể có.

Chẩn đoán chắc chắn bằng lâm sàng

Bệnh nhân phải có 2 đợt bệnh tấn công và 2 ổ tổn thương ở các vị trí giải phẫu khác nhau của hệ thần kinh trung ương (được khẳng định bằng thăm khám lâm sàng), hoặc:

Bệnh nhân phải có 2 đợt bệnh tấn công và 1 ổ tổn thương được xác định bằng thăm khám lâm sàng và 1 ổ tổn thương khác được xác định bằng cận lâm sàng.

Chẩn đoán được hỗ trợ bằng sinh hoá

Bệnh nhân phải có 2 đợt bệnh tấn công, 1 ổ tổn thương được xác định bằng thăm khám lâm sàng thần kinh hoặc bằng cận lâm sàng, thêm vào đó là có oligoklonale Banden và/hoặc tăng sản xuất IgG trong hệ thần kinh trung ương, hoặc:

Bệnh nhân phải có một đợt bệnh tấn công và 2 ổ tổn thương được xác minh bằng thăm khám lâm sàng thần kinh, thêm vào đó là có oligoklonale Banden và/hoặc tăng IgG, hoặc:

Bệnh nhân phải có 1 đợt bệnh tấn công và 1 ổ tổn thương trong hệ thần kinh trung ương được xác định bằng thăm khám thần kinh cùng 1 ổ khác được xác định bằng cận lâm sàng, thêm vào đó có oligoklonale Banden và/hoặc tăng IgG trong DNT.

ĐIỀU TRỊ

Những nguyên tắc điều trị xơ não tủy rải rác

+ Hầu hết bệnh nhân có cách tiến triển theo từng đợt.

Không thể điều trị bệnh căn vì nguyên nhân bệnh không rõ ràng.

Do diễn biến bệnh ở mỗi bệnh nhân và giữa các bệnh nhân không có sự đồng nhất nên vấn đề đánh giá tác dụng điều trị bệnh gặp rất nhiều khó khăn, nó đòi hỏi phải có những tiêu chuẩn đánh giá tiến triển bệnh.

Vấn đề điều trị ngày nay cơ bản là chống viêm và can thiệp miễn dịch.

Những chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá kết quả điều trị xơ não tủy rải rác:

+ Đối với từng đợt tiến triển: loại, thời gian kéo dài, mức độ nặng nề của các triệu chứng cũng như mức độ thuyên giảm của chúng.

+ Với tiến triển theo kiểu từng đợt: số lượng đợt, sự phát triển giữa các đợt (mức độ thường xuyên và thời điểm của những tiến triển thứ phát).

+ Kiểu tiến triển mạn tính: số đợt tiến triển, sự thay đổi đồ thị tiến triển.

Mục đích điều trị hiện nay là loại bỏ tế bào lympho T tự kháng mạnh (autoaggressive T – cells).

Tác dụng của các thuốc điều trị xơ não tủy rải rác:

+ Glucocorticoid và ACTH làm rút ngắn thời gian của các đợt bệnh tấn công (corticoid phải dùng liêu cao như truyền 500 – 1500mg methylprednisolon), truyền corticoid vào khoang DNT ngày nay không được sử dụng nữa vì không có tác dụng. Các thuốc này không được sử dụng để điều trị dài ngày vì nó không có tác dụng lên diễn biến ngoài đợt của bệnh.

+ Azathioprin (imurek): liều lượng 1 – 2,5mg/kg cận nặng/ngày. Tuỳ theo từng bệnh nhân mà thời gian điều trị có thể dài ngắn khác nhau. Các kết quả ngen cứu cho thấy thuốc chỉ có tác dụng làm giảm tần số các đợt và giảm quá trình tiến triển của bệnh. Thuốc hầu như không có tác dụng trên thể tiến triển mạn tính. Theo các tác giả nếu được chỉ định thì azathioprin nên dùng cho thể tiến triển thành đợt với các di chứng ngày càng tăng, không nên sử dụng trong trường hợp bệnh tiến triển mạn tính.

+ Cyclosporin: ngược lại với azathioprln, cyclosporin không có tác dụng trong trường hợp bệnh tiến triển thành đợt. Đối với thể tiến triển mạn tính thuốc có tác dụng làm chậm quá trình xấu đi của bệnh, cần lưu ý rằng cyclosporin có những tác dụng phụ đáng kể lên huyết áp và thận.

+ Cyclophosphamid (endoxan) thường hay được sử dụng trong điều trị thể tiến triển mạn tính hơn là điều trị thể tiến triển thành đợt. Tuy nhiên, thuốc cung co thể làm giảm tần số của các đợt tiến triển. Đối với thể mạn tính, thuốc có thể duy trì tình trạng ổn định của bệnh kéo dài tới 2 năm. Trong trường hợp bệnh tiến triển nhanh và trường hợp bệnh chuyển sang giai đoạn mạn tính kèm theo những di chứng nặng nề người ta cũng có thể cho chỉ định dùng endoxan.

+ Mitoxantron (novantron); thuốc có tác dụng trên tế bào lympho B. Trên lâm sàng thuốc được dung nạp tốt, tuy nhiên, cần lưu ý sự tích tụ tác dụng phụ trên tim. Hiện nay tác dụng của thuốc còn đang được nghiên cứu.

+ Plasmapherese: với liệu trình 3 lần/tuần, sau đó mỗi tuần 1 lần (trong giai đoạn đầu) phương pháp điều trị này sẽ có tác dụng cải thiện tình trạng bệnh ở thể tiến triển thành đợt nặng nề và thể tiến triển mạn tính, nhưng kết quả không kéo dài. Ngày nay phương pháp điều trị chỉ được sử dụng trong trường hợp có đợt tiến triển nặng nề đe dọa tính mạng bệnh nhân.

+ Lymphocytophẹrese: đây là phương pháp tách tế bào nhằm mục đích loại bỏ bớt tế bào lympho. Mỗi một lần ứng dụng sẽ loại bỏ được 3 – 7 tỷ tế bào. Trong tuần thứ nhất đến tuần thứ 2 tiến hành 2 – 5 lần, từ hơn 2 tháng đến 1 năm cứ 2 – 8 tuần tiến hành 1 lần.

Phương pháp được chỉ định trong trường hợp tần số các đợt cao và trong giai đoạn tiến triển mạn tính. Tuy nhiên, cho đến nay phương pháp này ít được sử dụng và trên cơ sở có ít số liệu nên không thể đánh giá được.

+ Kháng thể monoklonal kháng nhiều loại tế bào lympho T: cho tới nay ít được sử dụng cho thể tiến triển mạn tính, không sử dụng để điều trị củng cố được vì thuốc thúc đẩy phát triển kháng thể kháng đạm của chuột trên thực nghiệm.

+ Chiếu tia X (Roentgen) các tổ chức lympho: phương pháp được sử dụng từ năm 1909, trong những năm gần đây đôi khi vẫn còn được sử dụng. Phương pháp này làm chậm sự tiến triển của bệnh.

+ Dùng interferon là phương pháp hay được ứng dụng hiện nay.

+ Các acid amin không no: các acid này được sử dụng ở dạng dịch treo, viên nén hoặc nang với các biệt dược như primrose, naudicelle… Tác dụng của chúng còn chưa được chứng minh một cách đầy đủ.

+ Copolymer I: những kết quả nghiên cứu cho thấy thuốc có tác dụng làm bớt các đợt tiến triển ở thể tiến triển từng đợt, nhưng không có kết quả đối với thể tiến triển mạn tính, tuy nhiên, cho tới nay tác dụng của thuốc vẫn chưa được thuyết phục.

+ Những phương hướng điều trị mới sử dụng điều trị miễn dịch: họạt hoá tế bào T, điều trị bằngcác peptid của thụ cảm thể tế bào T là những quan niệm mới về vấn đề điều trị.

Nói tóm lại, xơ não tủy rải rác chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu. Các phương pháp điều trị hiện nay cơ bản là can thiệp vào cơ chế bệnh sinh hoặc điều trị triệu chứng.

 

Thuốc tiêm Abilify Asimtufii

Abilify Asimtufii là gì và được sử dụng để làm gì?

Tiêm Abilify Asimtufii là một loại thuốc theo toa được tiêm bởi nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe để điều trị bệnh tâm thần phân liệt ở người lớn và như một phương pháp điều trị bảo trì đơn độc cho rối loạn lưỡng cực loại I ở người lớn. Abilify Asimtufii là một dạng tiêm kéo dài dùng cho tiêm bắp.

Chưa rõ liệu Abilify Asimtufii có an toàn và hiệu quả cho trẻ em dưới 18 tuổi hay không.

Không được tiêm Abilify Asimtufii nếu bạn bị dị ứng với aripiprazole hoặc bất kỳ thành phần nào trong Abilify Asimtufii.

Cảnh báo

  • Bệnh nhân cao tuổi bị rối loạn tâm thần liên quan đến sa sút trí tuệ đang được điều trị bằng thuốc antipsychotic có nguy cơ tử vong cao hơn.
  • Abilify Asimtufii không được chấp thuận để điều trị cho bệnh nhân bị rối loạn tâm thần liên quan đến sa sút trí tuệ.
  • Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy tỷ lệ phản ứng bất lợi liên quan đến mạch máu não (ví dụ, đột quỵ, cơn thiếu máu não thoáng qua), bao gồm cả trường hợp tử vong, tăng lên ở bệnh nhân được điều trị bằng aripiprazole đường uống với rối loạn tâm thần liên quan đến sa sút trí tuệ (tuổi trung bình: 84 tuổi; độ tuổi: 78 đến 88 tuổi).
  • Hội chứng ác tính do thuốc an thần (NMS), một phức hợp triệu chứng có khả năng gây tử vong, đã được báo cáo với thuốc antipsychotic, bao gồm aripiprazole. Một số trường hợp hiếm gặp của NMS đã được báo cáo trong quá trình điều trị bằng aripiprazole trong cơ sở dữ liệu lâm sàng toàn cầu.

Các triệu chứng của NMS bao gồm sốt cao, cứng cơ, thay đổi tình trạng tinh thần, và các dấu hiệu của sự mất ổn định tự chủ (mạch không đều hoặc huyết áp, nhịp tim nhanh, đổ mồ hôi, và loạn nhịp tim). Các dấu hiệu bổ sung có thể bao gồm tăng creatine phosphokinase, myoglobin niệu (rhabdomyolysis) và suy thận cấp.

Nếu nghi ngờ NMS, ngay lập tức ngừng tiêm Abilify Asimtufii và cung cấp điều trị triệu chứng và giám sát.

Tác dụng phụ của Abilify Asimtufii là gì?

Abilify Asimtufii có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm:

  • Tăng nguy cơ tử vong ở người cao tuổi mắc rối loạn tâm thần liên quan đến sa sút trí tuệ. Abilify Asimtufii làm tăng nguy cơ tử vong ở người cao tuổi đã mất liên lạc với thực tế (rối loạn tâm thần) do nhầm lẫn và mất trí nhớ (sa sút trí tuệ). Abilify Asimtufii không dành cho việc điều trị những người có rối loạn tâm thần liên quan đến sa sút trí tuệ.
  • Tương tác thuốc: Abilify Asimtufii và các thuốc khác có thể ảnh hưởng lẫn nhau, gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng. Abilify Asimtufii có thể ảnh hưởng đến cách thức hoạt động của các thuốc khác, và các thuốc khác cũng có thể ảnh hưởng đến cách Abilify Asimtufii hoạt động.

Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn có thể cho bạn biết liệu việc tiêm Abilify Asimtufii với các thuốc khác của bạn có an toàn hay không. Không bắt đầu hoặc ngừng bất kỳ loại thuốc nào trong quá trình điều trị bằng Abilify Asimtufii mà không tham khảo ý kiến nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn trước.

Biết những loại thuốc bạn đang sử dụng. Giữ một danh sách để trình bày cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và dược sĩ của bạn khi bạn nhận được thuốc mới.

Các tác dụng phụ khác của Abilify Asimtufii bao gồm:

  • Đột quỵ (các vấn đề mạch máu não) ở người cao tuổi bị rối loạn tâm thần liên quan đến sa sút trí tuệ có thể dẫn đến tử vong.
  • Hội chứng ác tính do thuốc an thần (NMS), một tình trạng nghiêm trọng có thể dẫn đến tử vong. Gọi cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn hoặc đến phòng cấp cứu gần nhất ngay lập tức nếu bạn có một hoặc một số triệu chứng sau đây của NMS:
    • Sốt cao
    • Nhầm lẫn
    • Thay đổi về mạch, nhịp tim và huyết áp
    • Cứng cơ
    • Ra mồ hôi nhiều
  • Chuyển động cơ thể không kiểm soát (tardive dyskinesia). Abilify Asimtufii có thể gây ra các chuyển động mà bạn không thể kiểm soát ở mặt, lưỡi, hoặc các bộ phận khác của cơ thể. Tardive dyskinesia có thể không biến mất, ngay cả khi bạn ngừng tiêm Abilify Asimtufii. Tardive dyskinesia cũng có thể bắt đầu sau khi bạn ngừng tiêm Abilify Asimtufii.
  • Vấn đề chuyển hóa như:
    • Tăng đường huyết (hyperglycemia) và tiểu đường: Tăng đường huyết có thể xảy ra ở một số người được điều trị bằng Abilify Asimtufii. Đường huyết cực kỳ cao có thể dẫn đến hôn mê hoặc tử vong. Nếu bạn có tiểu đường hoặc các yếu tố nguy cơ tiểu đường như thừa cân, hoặc có tiền sử gia đình bị tiểu đường, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nên kiểm tra đường huyết của bạn trước khi bắt đầu điều trị bằng Abilify Asimtufii, và trong quá trình điều trị bằng Abilify Asimtufii.

Gọi cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nếu bạn có bất kỳ triệu chứng nào sau đây của tăng đường huyết trong quá trình điều trị bằng Abilify Asimtufii:

  • Cảm thấy rất khát
  • Cảm thấy rất đói
  • Cảm thấy buồn nôn
  • Cần đi tiểu nhiều hơn bình thường
  • Cảm thấy yếu hoặc mệt mỏi
  • Cảm thấy bối rối, hoặc hơi thở có mùi trái cây

Tăng mức chất béo (cholesterol và triglycerides) trong máu.

Tăng cân. Bạn và nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nên kiểm tra trọng lượng của bạn thường xuyên trong quá trình điều trị bằng Abilify Asimtufii.

Cảm giác thèm muốn bất thường và không thể kiểm soát (thèm muốn cưỡng bức). Một số người nhận Abilify Asimtufii đã có những cảm giác thèm muốn mạnh mẽ bất thường để đánh bạc và việc đánh bạc không thể kiểm soát (đánh bạc cưỡng bức). Các cảm giác thèm muốn cưỡng bức khác bao gồm thèm muốn tình dục, mua sắm, và ăn uống hoặc ăn uống quá mức. Nếu bạn hoặc các thành viên trong gia đình nhận thấy rằng bạn có những cảm giác hoặc hành vi bất thường, hãy nói chuyện với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn.

Giảm huyết áp (hạ huyết áp thế đứng). Bạn có thể cảm thấy chóng mặt hoặc ngất khi đứng dậy quá nhanh từ vị trí ngồi hoặc nằm.

Ngã. Abilify Asimtufii có thể làm bạn buồn ngủ hoặc choáng váng, có thể gây giảm huyết áp khi thay đổi tư thế (hạ huyết áp thế đứng), và có thể làm chậm khả năng suy nghĩ và kỹ năng vận động của bạn, điều này có thể dẫn đến việc ngã, gây gãy xương hoặc các chấn thương khác.

Giảm số lượng bạch cầu. Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn có thể thực hiện các xét nghiệm máu trong vài tháng đầu điều trị bằng Abilify Asimtufii.

Co giật (cơn động kinh).

Ngủ gật, buồn ngủ, cảm thấy mệt mỏi, khó khăn trong việc suy nghĩ và thực hiện các hoạt động bình thường.

Vấn đề kiểm soát nhiệt độ cơ thể khiến bạn cảm thấy quá nóng.

Khó khăn trong việc nuốt có thể gây ra thực phẩm hoặc chất lỏng đi vào phổi của bạn.

Các tác dụng phụ phổ biến nhất của Abilify Asimtufii bao gồm: tăng cân, bồn chồn hoặc cảm giác như bạn cần phải di chuyển (akathisia), đau tại vị trí tiêm, hoặc buồn ngủ (an thần).

Đây không phải là tất cả các tác dụng phụ có thể có của Abilify Asimtufii.

Nếu bạn muốn biết thêm thông tin, hãy trò chuyện với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn. Bạn có thể hỏi dược sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về thông tin về Abilify Asimtufii được viết cho các chuyên gia y tế.

Liều dùng của Abilify Asimtufii là gì?

Đối với những bệnh nhân chưa từng sử dụng aripiprazole, hãy xác định khả năng dung nạp bằng cách sử dụng aripiprazole đường uống trước khi bắt đầu điều trị bằng Abilify Asimtufii. Do thời gian bán hủy của aripiprazole đường uống, có thể mất đến 2 tuần để đánh giá đầy đủ khả năng dung nạp.

Abilify Asimtufii phải được tiêm bắp ở vùng mông bởi một chuyên gia y tế. Không được tiêm qua bất kỳ con đường nào khác.

Liều dùng khuyến cáo cho Abilify Asimtufii

Liều dùng khuyến cáo của Abilify Asimtufii là 960 mg, được tiêm một lần mỗi 2 tháng (56 ngày sau lần tiêm trước).

Bệnh nhân đang sử dụng thuốc chống loạn thần đường uống

Khi bắt đầu tiêm Abilify Asimtufii cho những bệnh nhân đang sử dụng aripiprazole đường uống, hãy tiêm liều đầu tiên của Abilify Asimtufii cùng với aripiprazole đường uống (10 mg đến 20 mg) trong 14 ngày liên tiếp.

Đối với những bệnh nhân đã ổn định trên một loại thuốc chống loạn thần đường uống khác (và đã biết là dung nạp aripiprazole), hãy tiêm liều đầu tiên của Abilify Asimtufii cùng với thuốc chống loạn thần đường uống trong 14 ngày liên tiếp.

Bệnh nhân đang sử dụng Abilify Maintena

Đối với những bệnh nhân đang sử dụng Abilify Maintena (liều tiêm hàng tháng), hãy tiêm Abilify Asimtufii 960 mg (liều tiêm mỗi 2 tháng) thay cho lần tiêm Abilify Maintena đã được lên lịch tiếp theo. Liều tiêm Abilify Asimtufii đầu tiên có thể được tiêm thay cho lần tiêm thứ hai hoặc sau đó của Abilify Maintena.

Nếu có phản ứng bất lợi với liều Abilify Asimtufii 960 mg, liều có thể được giảm xuống 720 mg một lần mỗi 2 tháng.

Bệnh nhân có thể nhận tiêm Abilify Asimtufii lên đến 2 tuần trước hoặc 2 tuần sau thời điểm được lên lịch 2 tháng.

Liều bị bỏ lỡ

Nếu đã hơn 8 tuần và ít hơn 14 tuần kể từ lần tiêm cuối cùng, hãy tiêm liều Abilify Asimtufii tiếp theo càng sớm càng tốt. Lịch tiêm một lần mỗi 2 tháng nên được tiếp tục.

Nếu đã hơn 14 tuần kể từ lần tiêm cuối cùng, hãy bắt đầu lại aripiprazole đường uống kèm theo trong 14 ngày với lần tiêm tiếp theo của Abilify Asimtufii.

Khuyến nghị về liều dùng cho các yếu tố liên quan đến cytochrome P450

Các điều chỉnh liều cho những bệnh nhân là người chuyển hóa kém CYP2D6 và/hoặc cho những bệnh nhân đang sử dụng đồng thời các chất ức chế CYP3A4 hoặc CYP2D6 trong hơn 14 ngày được mô tả trong Bảng 1.

Nếu chất ức chế CYP3A4 hoặc CYP2D6 bị ngừng, liều Abilify Asimtufii có thể cần phải được tăng lên liều trước đó.

Không khuyến nghị điều chỉnh liều cho những bệnh nhân đang sử dụng đồng thời các chất ức chế CYP3A4, CYP2D6 hoặc CYP3A4 trong thời gian dưới 14 ngày.

Bảng 1: Khuyến nghị về liều dùng cho Abilify Asimtufii ở những bệnh nhân được biết là người chuyển hóa kém CYP2D6, bệnh nhân đang sử dụng đồng thời các chất ức chế CYP2D6, 3A4 hoặc CYP3A4 trong hơn 14 ngày.

Dưới đây là bản dịch đầy đủ và chính xác:

Các yếu tố Khuyến nghị về liều lượng
Người chuyển hóa kém CYP2D6
Người chuyển hóa kém CYP2D6 đã biết 720 mg một lần mỗi 2 tháng
Người chuyển hóa kém CYP2D6 đã biết đang dùng các chất ức chế CYP3A4 đồng thời Tránh sử dụng
Bệnh nhân dùng 960 mg Abilify Asimtufii
Sử dụng đồng thời Abilify Asimtufii với các chất ức chế CYP2D6 mạnh 720 mg một lần mỗi 2 tháng
Sử dụng đồng thời Abilify Asimtufii với các chất ức chế CYP3A4 mạnh 720 mg một lần mỗi 2 tháng
Sử dụng đồng thời Abilify Asimtufii với các chất ức chế CYP2D6 mạnh và CYP3A4 mạnh Tránh sử dụng
Sử dụng đồng thời Abilify Asimtufii với các chất kích thích CYP3A4 Tránh sử dụng

 

Tránh những điều sau đây trong quá trình nhận Abilify Asimtufii:

  • Không lái xe, vận hành máy móc hoặc thực hiện các hoạt động nguy hiểm khác cho đến khi bạn biết Abilify Asimtufii ảnh hưởng đến bạn như thế nào. Abilify Asimtufii có thể ảnh hưởng đến khả năng phán đoán, tư duy hoặc kỹ năng vận động của bạn.
  • Không uống rượu trong quá trình điều trị bằng Abilify Asimtufii.
  • Không để cơ thể quá nóng hoặc mất nước trong quá trình điều trị bằng Abilify Asimtufii.
  • Không tập thể dục quá nhiều.
  • Trong thời tiết nóng, nếu có thể, hãy ở trong một nơi mát mẻ.
  • Tránh ánh nắng mặt trời.
  • Không mặc quá nhiều quần áo hoặc quần áo nặng.
  • Uống nhiều nước.

Những loại thuốc nào tương tác với Abilify Asimtufii?

Bảng 7: Các Tương Tác Thuốc Quan Trọng với Abilify Asimtufii

Các chất ức chế CYP3A4 mạnh và/hoặc các chất ức chế CYP2D6 mạnh
Lý do lâm sàng Việc sử dụng đồng thời aripiprazole đường uống với các chất ức chế CYP3A4 và/hoặc CYP2D6 mạnh làm tăng nồng độ của aripiprazole.
Khuyến nghị lâm sàng Việc sử dụng đồng thời với một chất ức chế CYP3A4 mạnh HOẶC một chất ức chế CYP2D6 mạnh
Giảm liều Abilify Asimtufii khi được sử dụng đồng thời với một chất ức chế CYP3A4 mạnh HOẶC một chất ức chế CYP2D6 mạnh trong hơn 14 ngày.
Việc sử dụng đồng thời một chất ức chế CYP3A4 mạnh một chất ức chế CYP2D6 mạnh
Tránh sử dụng Abilify Asimtufii khi được sử dụng đồng thời với một chất ức chế CYP3A4 mạnh một chất ức chế CYP2D6 mạnh trong hơn 14 ngày.
Các chất kích thích CYP3A4 mạnh
Lý do lâm sàng Việc sử dụng đồng thời aripiprazole đường uống và carbamazepine làm giảm nồng độ của aripiprazole.
Khuyến nghị lâm sàng Tránh sử dụng Abilify Asimtufii kết hợp với một chất kích thích CYP3A4 mạnh (ví dụ: carbamazepine) trong hơn 14 ngày.
Các thuốc hạ huyết áp
Lý do lâm sàng Do tác dụng đối kháng alpha-adrenergic, aripiprazole có khả năng tăng cường tác dụng của một số tác nhân hạ huyết áp nhất định.
Khuyến nghị lâm sàng Theo dõi huyết áp và điều chỉnh liều lượng tương ứng.
Benzodiazepines
Lý do lâm sàng Cường độ gây ngủ lớn hơn khi kết hợp aripiprazole đường uống và lorazepam so với khi chỉ sử dụng aripiprazole. Hạ huyết áp tư thế đứng được quan sát thấy nhiều hơn với sự kết hợp so với khi chỉ sử dụng lorazepam.
Khuyến nghị lâm sàng Theo dõi tình trạng gây ngủ và huyết áp. Điều chỉnh liều lượng tương ứng.

 

Các thuốc không có tương tác lâm sàng quan trọng với Abilify Asimtufii

Dựa trên các nghiên cứu dược động học với aripiprazole đường uống, không cần điều chỉnh liều của Abilify Asimtufii khi sử dụng đồng thời với famotidine, valproate, lithium và lorazepam.

Ngoài ra, không cần điều chỉnh liều cho các chất nền của CYP2D6, CYP2C9, CYP2C19 hoặc CYP3A4 khi phối hợp với Abilify Asimtufii. Thêm vào đó, cũng không cần điều chỉnh liều cho valproate, lithium, lamotrigine, lorazepam hoặc sertraline khi phối hợp với Abilify Asimtufii.

Thai kỳ và cho con bú

Abilify Asimtufii có thể gây ra các triệu chứng ngoại tháp và/hoặc triệu chứng cai ở trẻ sơ sinh. Hãy thông báo cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nếu bạn đang mang thai hoặc nghi ngờ mình có thể mang thai.
Aripiprazole có mặt trong sữa mẹ; tuy nhiên, có rất ít dữ liệu để đánh giá lượng aripiprazole trong sữa mẹ, tác động đến trẻ bú mẹ hoặc tác động đến sản xuất sữa. Cần cân nhắc sự phát triển và lợi ích sức khỏe của việc cho con bú cùng với nhu cầu lâm sàng của mẹ đối với Abilify Asimtufii và bất kỳ tác dụng phụ tiềm tàng nào đối với trẻ bú mẹ từ Abilify Asimtufii hoặc từ tình trạng của mẹ.

Còn điều gì khác tôi nên biết về Abilify Asimtufii?

Không nên nhận Abilify Asimtufii nếu bạn bị dị ứng với aripiprazole hoặc bất kỳ thành phần nào trong Abilify Asimtufii.

Trước khi nhận Abilify Asimtufii, hãy cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn biết về tất cả các bệnh lý của bạn, bao gồm nếu bạn:

  • Chưa bao giờ dùng aripiprazole trước đây
  • Có hoặc đã có bệnh tiểu đường hoặc lượng đường trong máu cao, hoặc có tiền sử gia đình mắc bệnh tiểu đường hoặc lượng đường trong máu cao. Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nên kiểm tra lượng đường trong máu của bạn trước khi bạn bắt đầu sử dụng Abilify Asimtufii và trong suốt quá trình điều trị.
  • Có hoặc đã có mức cholesterol toàn phần cao, cholesterol LDL cao hoặc triglycerides cao, hoặc mức cholesterol HDL thấp
  • Có hoặc đã có huyết áp thấp hoặc cao
  • Có hoặc đã có vấn đề về tim hoặc đột quỵ
  • Có hoặc đã có số lượng bạch cầu thấp
  • Có hoặc đã có cơn co giật (co giật)
  • Có vấn đề có thể ảnh hưởng đến việc bạn nhận được một mũi tiêm ở mông
  • Đang mang thai hoặc dự định mang thai. Abilify Asimtufii có thể gây hại cho thai nhi của bạn. Việc nhận Abilify Asimtufii trong tam cá nguyệt thứ ba của thai kỳ có thể khiến em bé của bạn có các chuyển động cơ bất thường hoặc triệu chứng cai sau khi sinh. Hãy thảo luận với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về các rủi ro đối với thai nhi nếu bạn nhận Abilify Asimtufii trong thời kỳ mang thai.
  • Hãy thông báo cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn ngay lập tức nếu bạn mang thai hoặc nghi ngờ mình có thể mang thai trong suốt quá trình điều trị với Abilify Asimtufii.
  • Đang cho con bú hoặc dự định cho con bú. Abilify Asimtufii có thể đi vào sữa mẹ và chưa rõ liệu nó có thể gây hại cho em bé của bạn hay không. Hãy thảo luận với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về cách tốt nhất để cho con bú trong quá trình điều trị với Abilify Asimtufii.
  • Hãy cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn biết về tất cả các loại thuốc bạn đang sử dụng, bao gồm thuốc theo toa và thuốc không kê đơn, vitamin và thực phẩm chức năng.

Hổ trượng

Hổ trượng ( 虎杖 )

Tên và nguồn gốc

– Tên thuốc: Hổ trượng (Xuất xứ: Biệt lục)

– Tên khác: Đại trùng trượng (大虫杖), Khổ trượng (苦杖), Toan trượng (酸杖), Ban trượng (斑杖), Toan dũng duẩn (酸桶笋), Ban trang căn (斑庄根), Điểu bất đạp (鸟不踏), Toan can (酸杆), Ban căn (斑根), Toan lựu căn (酸榴根), Thổ địa cầm (土地檎), Toan thông (酸通), Toan thang can (酸汤秆) v.v…

– Tên Trung văn: 虎杖 HUZHANG

– Tên Anh văn: Giant Knotweed Rhizome

– Tên La tinh: Rhiaoma Polygoni Cuspidati

– Nguồn gốc: Là thân rễ của Hổ trượng thực vật họ Liệu (rau đắng).

Phân bố

Chủ yếu sản xuất ở các vùng Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Sơn Đông, Hà Nam v.v… (Trung Quốc).

 – Thu hoạch, bào chế –

Hai mùa xuân, thu đào móc, bỏ đi rễ râu, rửa sạch, thừa lúc tươi mới cắt đoạn ngắn hoặc phiến dày, phơi khô. Dùng sống hoặc dùng tươi.

– Lôi Công bào chích luận: Sau khi lấy được Hổ trượng căn, cắt nhỏ, lại dùng lá Hổ trượng tốt bọc lại 1 đêm, lấy ra, phơi khô dùng.

 Tính vị

– Trung dược học: Hơi đắng, hơi hàn.

– Biệt lục: Hơi ấm.

– Dược tính luận: Vị ngọt, bình, không độc.

– Bản thảo diễn nghĩa: Hơi đắng.

– Điền Nam bản thảo: Đắng hơi chát, hơi lạnh.

– Y lâm toản yếu: Ngọt đắng cay, ấm.

Qui kinh

– Trung dược học: Vào kính Can, Đởm, Phế.

– Trung Hoa bản thảo: Vào kinh Can, Đởm.

Công dụng và chủ trị

Khu phong, lợi thấp, phá ứ, thông kinh.

Trị phong thấp đau nhức gân xương, thấp nhiệt hoàng đản, lâm trọc đái hạ, phụ nữ kinh bế, sản hậu ác lộ bất hạ, trưng hà tích tụ, trĩ lậu hạ huyết. Tổn thương té đánh, vết thương bỏng, nhọt độc ghẻ lở.

– Biệt lục: Chủ thông lợi nguyệt thủy, phá lưu huyết trưng kết.

– Đào Hoằnh Cảnh: Chủ bạo hà (bụng chợt có hòn, tán tụ không được), rượu ngâm uống vậy.

– Dược tính luận: Chủ đại nhiệt phiền táo, ngừng khát, lợi tiểu tiện, chặn tất cả nhiệt đôc.

– Bản thảo thập di: Chủ phong tại khoản giửa khớp xương và huyết ứ. Nấu nước làm rượu uống vậy.

– Nhật Hoa tử bản thảo: Chủ sản hậu ác huyết bất hạ, tâm phúc trướng đầy. Trừ mủ, chủ nhọt loét ung độc, đàn bà huyết vựng, ứ huyết do đánh tổn thương, phá kết khí phong độc.

– Điền Nam bản thảo: Công đánh tất cả sưng độc, ngừng đau cổ họng, lợi tiểu tiện, chạy kinh lạc. Trị ngũ lâm bạch trọc, trĩ lậu, ung nhọt, đàn bà xích bạch đái hạ.

– Y lâm toản yếu: Kiên Thận, cường dương ích tinh, mạnh gân xương, tăng khí lực. Đắp chổ tổn thương gãy vết thương té, có thể nối gân liền xương.

– Lĩnh nam thái dược lục: Trị vết thương rắn cắn, mụn mủ nước, ngừng đau do tổn thương.

– Quí Châu dân gian phương dược tập: Thu liễm cầm máu, trị trĩ lậu, trừ phong thấp, phát biểu tán hàn, tán ứ huyết, dùng ngoài trị vết thương bỏng.

– Nghiên cứu thực nghiệm Trung y dược: Trị đau răng do thực hỏa, chàm loét chân, kẽ ngón chân loét ướt.

Cách dùng và liều dùng

Sắc uống, 9 ~ 15g. Dùng ngoài lượng thích hợp.

Kiêng kỵ

– Dược tính luận: Người có thai chớ uống.

 Nghiên cứu hiện đại

1.Thành phần hoá học: Hàm chứa Polydatin, Flavonoids, Emodin, Physcion, Resveratrol, Polysaccharide (Trung dược học).

  1. Tác dụng dược lý:Bổn phẩm có tác dụng tả hạ, khu đàm ngừng ho, giáng áp, cầm máu, trấn thống. Dịch sắc có tác dụng ức chế đối với nhiều loại vi khuẩn như khuẩn cầu chùm sắc kim vàng, trực khuẩn mủ xanh v.v…Có tác dụng ức chế đối với một số virut (Trung dược học).
  2. Phản ứng không tốt:

Mỗi ngày uống trong bổn phẩm 30g, bệnh nhân cá biệt có ăn uống giảm sút, nôn mửa, tiêu chảy, chợt thấy ngoại tâm thu. Vì vậy bổn phẩm vẫn không nên dùng liều lớn và uống trường kỳ. Thông thường không quá 30g là thích hợp.

Bài thuốc cổ kim tham khảo

+ Phương thuốc 1:Trị độc công tay chân sưng, đau nhức muốn đứt: Hổ trượng căn, cắt, nấu, thích hợp hàn ôn để ngâm chân.

( Bổ khuyết trửu hậu phương)

+ Phương thuốc 2:

Trị gân xương đàm hỏa, tay chân tê, đánh run, mềm yếu: Ban trang căn 1 lượng, Xuyên ngưu tất 5 chỉ, Xuyên gia bì 5 chỉ, Phòng phong 5 chỉ, Quế chi 5 chỉ, Mộc qua 3 chỉ. Đun rượu 3 cân ngâm uống.

(Điền Nam bản thảo)

+ Phương thuốc 3:

Trị túi mật kết sỏi: Hổ trượng 1 lượng, sắc uống; nếu hoàng đản có thể phối hợp sắc uống với Liên tiền thảo v.v… .

(Thượng Hải thường dùng Trung thảo dược)

+ Phương thuốc 4:

Trị ngũ lâm: Hổ trượng không kễ nhiều ít, nghiền nhỏ. Mỗi lần uống 2 chỉ, dùng nước cơm uống, bất cứ lúc nào.

(Diêu tăng Thản tập nghiệm phương)

+ Phương thuốc 5:

Trị sản hậu ứ huyết huyết thống, và ngã đánh tối tăm khó chịu: Hổ trượng căn, nghiền nhỏ, rượu uống.

(Cương mục)

+ Phương thuốc 6:

Trị trĩ ruột ra máu: Hổ trượng căn, rửa bỏ vỏ nứt, cắt sấy, giã sàng, mật hoàn như hạt đậu đỏ, uống với nước gạo cũ.

(Bản thảo đồ kinh)

+ Phương thuốc 7:

Trị các chứng ác sang (nhọt, vết thương xấu độc): Hổ trượng căn đốt thành tro dán.

(Bản thảo đồ kinh)

+ Phương thuốc 8:

Trị ung nhọt sưng đau nhức: Toan thang can, Thổ đại hoàng nghiền nhỏ, điều với trà đặc đắp ngoài.

(Quí Dương dân gian thảo dược)

+ Phương thuốc 9:

Theo báo cáo, Hổ trượng căn, nước lấy nước, đợi ấm ngồi rửa sạch, viêm âm đạo chân khuẩn, hiệu quả điều trị khá tốt.

(Trung y Tứ Xuyên, 1986, 11: 26)

+ Phương thuốc 10:

Bột Hổ trượng uống trong, điều trị bao tử xuất huyết có hiệu quả.

(Tạp chí Trung y Chiết Giang, 1980, 5:210)

+ Phương thuốc 11:

Hổ trượng căn khô ráo đóng thành phiến, uống trong, điều trị chứng mỡ máu cao, có hiệu quả rõ rệt.

(Tạp chí y học Trung Hoa, 1975, 5: 339)

+ Phương thuốc 12 :

– Thành phần: Sanh Hoàng kỳ, Đan sâm, Tần giao mỗi vị 20~25g; Sinh địa hoàng, Hổ trượng, Tang kí sinh, Mộc qua, Uy linh tiên mỗi vị 15 ~ 20g; Sơn thù, Ích mẩu thảo, Ngũ gia bì, Phục linh, Trạch tả mỗi vị 10 ~ 15g, Sinh Cam thảo 5 ~8g.

– Gia giảm: Lúc dùng phương này ứng dụng lâm sàng, có thể theo chứng gia giảm.

* Nếu lưng gối đau mềm, sợ lạnh, tay chân lạnh, gia Tiên linh tỳ, Tiên mao, Đổ trọng, Tục đoạn, Ngưu tất mỗi vị 10~15g;

* Nếu choáng đầu, đau đầu rõ gia Câu đằng, Bạch chỉ, Dã cúc hoa, Minh thiên ma mỗi vị 10 ~12g;

* Nếu bụng trướng, đại tiện lỏng gia Thái tử sâm, Sao Bạch truật mỗi vị 10 ~15g;

* Nếu phát sốt miệng khô, nước tiểu vàng gia Tri mẩu, Hoàng bá, Sơn chi, Xa tiền thảo mỗi vị 10~12g;

* Nếu đại tiện bí kết gia Sinh xuyên quân (bỏ sau) 8~10g.

– Cách dùng: Thuốc trên sau khi sắc 3 lần, hợp các dịch thuốc lại, phân sáng trưa, tối 3 lần uống, mỗi ngày 1 thang. 10 ngày là 1 liệu trình.

– Hiệu quả điều trị: Dùng phương này trị bệnh nhân Viêm khớp tính thống phong 21 ca, sau khi dùng thuốc 1~3 liệu trình, trong đó trị khỏi 18 ca, chuyển biến tốt 3 ca. Thông thường uống 3~5 thang thì kiến hiệu.

Tham khảo thêm

CỐT KHÍ CỦ

Tên khác: Hổ trượng (琥 杖)

Tên khoa học: Polygonum cuspidatum Sieb. et Zucc, họ Rau răm (Polygonaceae).

tả: Cây thảo sống nhiều năm, cao 1-1,5m. Rễ phình thành củ cứng màu vàng nâu. Thân có những đốm màu tím hồng. Lá mọc so le, có bẹ chìa ngắn. Hoa nhỏ, màu trắng, mọc thành chùm ở nách lá. Quả khô có 3 cạnh. Hoa tháng 6-7, quả tháng 9-10.

Bộ phận dùng: Rễ phơi hay sấy khô của cây Cốt khí củ.

Phân bố: Cây của vùng Đông Á ôn đới, mọc hoang ở vùng đồi núi nước ta và thường được trồng ở nhiều nơi để lấy củ làm thuốc.

Thu hái: Rễ củ quanh năm, tốt nhất là vào mùa thu đông, rửa sạch, thái phiến, dùng tươi hay phơi khô trong râm.

Thành phần hóa học: Rễ chứa physcin, emodin 8-0-b glucosid, b-sitosterol glucosid, 3.4.5. trihydroxystilben 3-0-b – 0 glucosid, polygonin, rheochrysin, polydatin, resveratol, cuspidatin.

Công năng: Hoạt huyết, tiêu viêm, kháng sinh, chống virus, lợi tiểu, lợi sữa, chống ho, tiêu đờm.

Công dụng: Thường dùng trị 1. Phong thấp tê bại, đau nhức gân xương, ngã ứ huyết; 2. Viêm gan cấp, viêm ruột, lỵ; 3. Viêm amygdal, viêm hầu; 4. Viêm khí quản, viêm phổi nhẹ; 5. Viêm ruột cấp, nhiễm trùng đường niệu; 6. Kinh nguyệt khó khăn, vô kinh, huyết hôi không ra (đẻ xong ứ huyết); 7. Táo bón.

Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 10-30g dạng thuốc sắc. Dùng ngoài trị rắn cắn, vết đứt và bỏng, đòn ngã tổn thương, đinh nhọt, viêm mủ da, viêm âm đạo; thường dùng thuốc bột đắp.

Bài thuốc:

  1. Phong thấp, viêm khớp, đầu gối và mu bàn chân sưng đỏ đau nhức: Củ cốt khí, Gối hạc, lá Bìm bìm, Mộc thông, mỗi vị 15-20g sắc uống
  2. Viêm gan cấp tính, sưng gan: Cốt khí củ, Lá móng, Chút chít, mỗi vị 15-20g sắc uố Hoặc dùng Cốt khí với Nhân trần, mỗi vị 30g, sắc uống.
  3. Thương tích, ứ máu, đau bụng: Cốt khí củ 20g, Lá móng 30g, nước 300ml, sắc còn 150ml, hoà thêm 20ml rượu, chia 2 lần uống trong ngày.

Chú ý: Khi dùng phải sao kỹ để giảm bớt anthranoid, nếu dùng sống dễ bị ỉa lỏng.

Miễn dịch thụ động bằng Globulin Miễn Dịch

  1. GIỚI THIỆU:

Miễn dịch thụ động được tạo thành nhờ tiêm globulin miễn dịch để phòng ngừa ngay lập tức một bệnh nào đó. Thời gian miễn dịch thụ động phụ thuộc vào liều lượng, tính bền vững của globulin và chỉ có thể có tác dụng trong 1 hoặc vài tuần. Có hai loại globulin miễn dịch : loại thông thường và loại đặc hiệu.

– Loại globulin miễn dịch thông thường ở người: Loại này được chiết xuất từ máu hay huyết tương người. Nó có chứa kháng thể chống vi rút, các vi rút này có tỷ lệ lưu hành trong quần thể dân chúng bình thường.

Loại globulin đặc hiệu: Những sản phẩm này được sử dụng giúp cho cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh riêng như vi rút cự bào (Cytomegalovirus), bạch hầu, viêm gan B, dại, uốn ván, thủy đậu hoặc các bệnh Zoster. Nó được chiết xuất từ máu của bệnh nhân mắc các bệnh này đã khỏi hoặc người đã được tiêm Vacxin trong thời gian gần đây hoặc những người được phát hiện có hiệu giá kháng thể cao. Do đó globulin đặc hiệu có mức độ hiệu giá kháng thể đặc hiệu rất cao .

Mặc dù yếu tố tan máu Rh(D) không phải là tác nhân gây nhiễm khuẩn nhưng cần phải được kiểm soát một cách kỹ lưỡng.

Các phản ứng phụ và cách bảo quản Globulin miễn dịch đặc hiệu giống như Globulin miễn dịch thông thường.

Globulin đặc hiệu và các Globulin miễn dịch khác phải được sàng lọc và xử lý để đảm bảo không bị lây nhiễm HIV, HBV hoặc HCV.

  1. GLOBULIN MIÊN DỊCH THÔNG THƯỜNG:

Các globulin miễn dịch thông thường được bào chế từ huyết tương người. Các Globulin miễn dịch đó có chứa các kháng thể chống lại các bệnh nhiễm trùng thông thường. Tại Úc Globulin miễn dịch được pha loãng 16,5%, tại Anh 10%, Tại Mỹ 16,5%. Người ta đã thêm Thiomersal 0,01% vào để bảo quản. Các Globulin miễn dịch bình thường và các chế phẩm miễn dịch khác đều phải được sàng lọc và xử lý để không bị nhiễm HIV, HBV và HCV.

Các Globulin miễn dịch thông thường có chứa 16% các phân tử IgG của huyết tương người bình thường + Thiomersal 0,01%. ống đóng 2 ml hoặc 5 ml để tiêm bắp.

  • Chỉ định:

Dùng cho người bị thiếu hụt miễn dịch:

Bệnh nhân bị bất thường trong việc sản xuất kháng thể (thiếu hụt Gamma Globulin tiên phát, bệnh bạch cầu lympho mãn) thường được điều trị bằng các Globulin miễn dịch thông thường theo đường tĩnh mạch. Những trường hợp khác, các Globulin miễn dịch thông thường được chỉ định tiêm bắp. Liều tiêm bắp thông thường của các Globulin miễn dịch thường từ 0,6-0,9 ml/kg trong 2-4 tuần.

Miễn dịch thụ động:

Khi có dịch sởi hoặc có nguy cơ phơi nhiễm với bệnh thủy đậu globulin miễn dịch chống bệnh sởi và bệnh thủy đậu có thê được dùng để dự phòng các bệnh này cho những người bị nhiễm HIV.

Globulin miễn dịch cũng có thể được chỉ định tiêm dự phòng các bệnh nhiễm khuẩn đặc hiệu cho các trường hợp mà hệ thông miễn dịch bình thường nhưng dễ bị cảm nhiễm với các bệnh này khi họ có nguy cơ phơi nhiễm.

Dự phòng bệnh thủy đậu

Cần dự phòng bệnh thủy đậu cho trẻ em dưới 1 tháng tuổi, trẻ em đang được điều trị bằng các thuốc làm suy giảm miễn dịch và ở phụ nữ có thai. Nếu các Globulin miễn dịch của Zoster không có sẵn, liều lượng các Globulin thông thường có thể tăng lên. Liều này không thường xuyên được sử dụng để phòng thủy đậu nhưng có tác dụng làm nhẹ bệnh. Liều thông thường từ 0,4 – 1 ml/kg trọng lượng cơ thể.

  • Cách dùng:

Globulin miễn dịch thông thường được tiêm bắp sâu với kim cỡ lớn, không được tiêm tĩnh mạch. Trong trường hợp cần tiêm globulin liều cao vào tĩnh mạch thì phải sử dụng loại globulin được bào chế đặc biệt . (xem mục 3).

  • Liều lượng:

Tiêm phòng bệnh viêm gan A với liều từ 0,03ml/kg trọng lượng cơ thể có thể dự phòng được 6 tuần lễ. Tiêm phòng bệnh sởi với liều 0,2ml/ kg trọng lượng cơ thể.

  • Thời gian tác dụng:

Hiệu quả kéo dài của Globulin miễn dịch có liên quan đến liều lượng. Thời gian tác dụng với liều Globulin miễn dịch thông thường kéo dài được 3-4 tuần.

  • Thử phản ứng da với Globulin miễn dịch:

Không cần phải thử phản ứng da với Globulin miễn dịch thông thường. Tiêm Globulin trong da có thể gây nên các phản ứng viêm tại chỗ và dễ nhầm là phản ứng dị ứng. Tiêm bắp globulin miễn dịch rất hiếm gặp các phản ứng phụ.

  • Tác dụng phụ:

Tại chỗ tiêm thấy cơ bị mềm hoặc cứng và triệu chứng này kéo dài nhiều giò sau khi tiêm.

Có thể xuất hiện phản ứng dị ứng toàn thân như chứng mày đay, phù niêm, đôi khi bệnh nhân có thê có ban đỏ hoặc sốt nhẹ.

Các phản ứng quá mẫn sau khi tiêm Globulin miễn dịch rất hiếm xảy ra. Trên các cơ địa quá mẫn, có nguy cơ gây sốc phản vệ nếu tiêm nhắc lại nhiều lần.

  • Chống chỉ định:

Phản ứng quá mẫn rất hiếm gặp nhưng hay xảy ra ở các bệnh nhân đã sử dụng nhiều lần. Globulin miễn dịch thông thường ở người không được sử dụng cho các trường hợp thiếu hụt IgA.

  1. GLOBULIN MIỄN DỊCH THÔNG THƯỜNG ( LOẠI TIÊM TĨNH MẠCH)

Globulin miễn dịch thông thường thường dùng để tiêm tĩnh mạch là IgG được pha loãng ở nồng độ 6%. Loại này có chứa một lượng rất nhỏ IgM và IgA. Đóng gói dưới dạng 50ml, 200ml và chai 500ml.

  • Chỉ định:

Globulin miễn dịch thông thường loại tiêm tĩnh mạch được sử dụng cho các bệnh nhân thiếu hụt miễn dịch cần điều trị bởi một lượng lớn globulin hàng tháng. Globulin miễn dịch thông thường loại tiêm tĩnh mạch sản xuất từ một lượng huyết thanh có chứa lượng IgG lớn hơn loại tiêm bắp.

Sử dụng globulin miễn dịch dạng tiêm tĩnh mạch rất có lợi cho những bệnh nhân mắc bệnh Kawasaki, hội chứng Guillain Barre, viêm đa rễ thần kinh mãn tính và ở các bệnh nhân nhiễm khuẩn phối hợp với bệnh suy giảm miễn dịch thứ phát cũng như làm giảm nguy cơ bị các bệnh mạch vành.

  • Cách dùng:

Điều trị cho người lớn bằng dung dịch globulin 6% trộn với 4 thê tích nước muôi đẳng trương và tốc độ truyền dịch lúc đầu là 1 ml/phút sau 15 phút tăng lên đến mức tôi đa là 3-4ml/ phút.

Bệnh nhân cần phải được theo dõi sát trong quá trình truyền. Cứ 15 phút theo dõi mạch, huyết áp, nhịp thở một lần và đo nhiệt độ 1 giò một lần. Các chỉ số theo dõi này cần phải được ghi đầy đủ trước và trong khi truyền.

Trường hợp thiếu hụt miễn dịch, truyền 0,4 đến 0,6 ml/kg cách nhau 3-4 tuần. Đôi với bệnh Kawasaki dùng truyền một liều đơn 2ml/kg, nhắc lại một lần nếu sốt không giảm trong vòng 48 giờ.

Các phản ứng phụ sau tiêm bao gồm run rẩy, đau ngực, đau lưng, sốt nhẹ. Đau đầu dữ dội được quy là do viêm màng não vô khuẩn. Không gặp sốc phản vệ trong trường hợp sử dụng Globulin miễn dịch thông thường loại tiêm tĩnh mạch. Những người thiếu hụt IgA có thể có nguy cơ phản ứng quá mẫn với Globulin miễn dịch thông thường loại tiêm tĩnh mạch.

  1. GLOBULIN MIỄN DỊCH CHỐNG VI RÚT CỰ BÀO ( CMV)

Globulin miễn dịch chống CMV được chỉ định cho một số trường hợp có nguy cơ bị nhiễm CMV. Sản phẩm này dễ bị bội nhiễm các loại vi khuẩn, do đó phải được dùng ngay sau khi mở. Do vậy, khi dùng globulin miễn dịch loại này cần dự tính trước về liệu trình, cách sử dụng và các tác dụng phụ.

Globulin đặc hiệu CMV được bào chế từ huyết tương người có hiệu giá kháng thể kháng CMV ở mức độ cao 6% được pha loãng với Maltose 10%, không có chất diệt khuẩn, đóng chai 30 ml dưới dạng tiêm tĩnh mạch.

  1. GLOBULIN MIỄN DỊCH ĐẶC HIỆU VIÊM GAN B

Globulin miễn dịch đặc hiệu viêm gan B được bào chế từ huyết tương người cho máu tại các ngân hàng máu. Các mẫu máu được lựa chọn phải là mẫu có chứa lượng kháng thể kháng viêm gan B cao. Do sản phẩm này hiếm nên Globulin miễn dịch viêm gan B ít được dùng. Nó chỉ được dùng cho các trường hợp có nguy cơ cao như trẻ sinh ra từ các bà mẹ có HBsAg dương tính, các nhân viên y tế bị phơi nhiễm HBV do các tổn thương do kim đâm khi chăm sóc người có HBV dương tính.

  • Dự phòng sau khi bị phơi nhiễm với máu hoặc dịch thể của người có HBsAg dương tính:

Nhân viên y tế bị phơi nhiễm với máu của người có HBsAg dương tính (thường do kim đâm). Nếu những người có HBsAg dương tính hoặc không rõ tình trạng dương tính thì người ta khuyến cáo dùng một liều Globulin miễn dịch với viêm gan B liều lượng 400 đơn vị cho người lớn và dùng càng sớm càng tốt (chỉ trong vòng 72 giờ sau khi bị kim đâm) loại trừ người đó biết rõ đã được tiêm Vacxin viêm gan B hoặc có HBsAg dương tính. Có thể tiêm cùng với Vacxin viêm gan B nếu chưa tiêm Vacxin này hoặc tiêm nhắc lại nếu tiêm Vacxin viêm gan B đã được 5 năm.

  • Trẻ sinh ra từ các bà mẹ có HBsAg dương tính:

Trẻ sinh ra từ các bà mẹ có HBsAg dương tính nên được dùng globulin chống viêm gan B với liều 100 IU trong ngày đầu tiên sau khi sinh nhằm dự phòng ngay lập tức. Vacxin viêm gan B cũng được tiêm ngay sau khi sinh.

Globulin miễn dịch đặc hiệu viêm gan B không dùng cho trẻ em sinh ra từ bà mẹ có HBsAg âm tính .

  1. GLOBULIN MIEN DỊCH ĐẶC HIỆU CHỐNG BỆNH DẠI

Globulin miễn dịch đặc hiệu chống bệnh dại được bào chế từ huyết tương của người có hiệu giá miễn dịch chống bệnh dại cao. Globulin miễn dịch với bệnh dại được sử dụng để phòng ngừa cho những người bị các súc vật lên cơn dại như chó, mèo, dơi cắn.

Để dự phòng bệnh dại, phải dùng Vacxin dại. Tiêm globulin phòng dại đồng thời với tiêm Vacxin trong những trường hợp vết cắn sâu, gần thần kinh trung ương (xem Vacxin dại trang 69). Liều lượng điều trị cho tất cả các nhóm tuổi là 20IU/ kg cơ thể. Có thể tiêm quanh vết cắn một nửa và một nửa tiêm bắp bình thường. Chỉ tiêm globulin miễn dịch chống bệnh dại một lần, không tiêm tiếp lần 2 vì lần 2 không có tác dụng.

Đau tại chỗ, sốt nhẹ sau khi tiêm Globulin miễn dịch với dại có thể xảy ra. Mặc dầu theo các báo cáo là không hoàn toàn do Globulin miễn dịch với dại nhưng phù quanh mao mạch thần kinh, hội chứng thận và sốc phản vệ cũng đã được báo cáo sau khi tiêm huyết thanh kháng dại.

  1. GLOBULIN MIỄN DỊCH RH (D)

Khẩng thể Rh (D) có thể phòng ngừa cho các bà mẹ có Rh âm tính nhưng mang thai có Rh dương tính.

Globulin miên dịch Rh(D) hiệu giá cao được dùng cho ngưòi mẹ có yếu tố Rh âm tính trong vòng 72 giò khi đẻ. Liều Globulin miễn dịch Rh tiêm bắp là 625 IU , tiêm càng sớm càng tốt khi xác định được yếu tố Rh của đứa trẻ và tốt nhất không tiêm chậm hơn 72 giờ sau khi đẻ. ở Việt Nam, không gặp các trường hợp bất đồng nhóm máu Rh nên thường không có chỉ định tiêm Globulin miễn dịch Rh này .

Đóng gói: Dung dịch globulin miễn dịch Rh chứa 16% các phân tử Gamma globulin được chiết xuất từ người có kháng nguyên D của Rh dương tính với 125 µg/ml tương đương với 625IU/ml + 0,01 thiomersal trong ông lml.

  1. GLOBULIN MlỄN DỊCH UỐN VÁN

Globulin miễn dịch uốn ván được dùng để phòng ngừa cho người bị thương chưa được miễn dịch và có nguy cơ cao bị uốn ván.

Liều Globulin miễn dịch uốn ván là 250 UI được tiêm càng sớm càng tốt sau khi bị thương. Nếu chậm quá 24 giờ thì cần phải tăng liều lượng lên 500 IU. Giải độc tố uốn ván (Vacxin uốn ván)được chỉ định tiêm cùng lúc với tiêm globulin miễn dịch vào tay khác.

Globulin miễn dịch uốn ván lấy từ huyết tương của người được chọn được cô đặc kháng thể kháng uốn ván và đóng gói dưới dạng dung dịch pha loãng 16% .

Globulin miễn dịch uốn ván chế tạo từ huyết tương người để tiêm tĩnh mạch

Sản phẩm này được dùng để điều trị bệnh uốn ván. Liều lượng tuỳ mức độ nặng nhẹ trên lâm sàng có thể dùng 4.000 -20.000 IU tiêm bắp hoặc truyền tĩnh mạch chậm.

Ông globulin miễn dịch uốn ván có nồng độ pha loãng 6% chứa 4.000 lư.

  1. GLOBULIN MIỄN DỊCH ZOSTER

Chỉ định tiêm cho các trường hợp bị thủy đậu. Globulin miễn dịch zoster có nồng độ 16% các phân tử Gamma Globulin miễn dịch của người có hiệu giá kháng the Zoster cao.

Chỉ .định:

Globulin miễn dịch Zoster được dùng cho các trường hợp sau :

  • Người bị các bệnh thiếu hụt miễn dịch tế bào như bệnh
  • Bệnh nhân phải chịu liệu trình điều trị suy giảm miễn dịch
  • Phụ nữ mang thai có nguy cơ bị thủy đậu, Zoster nhưng phải thử kháng thể kháng thủy đậu trưốc.
  • Trẻ sinh ra từ các bà mẹ có nguy cơ bị thủy đậu (xét nghiệm phát hiện kháng thể của bà mẹ).
  • Trẻ đẻ non dưối 28 tuần mang thai hoặc nhỏ hơn 1000g ở các bà mẹ có tiền sử bị thủy đậu.

Nguy cơ rõ rệt hoặc nguy cơ cao ở đây được hiểu là có sự tiếp xúc trong gia đình người bệnh kéo dài hơn 1 giờ, tiếp xúc trong lớp học với người bị thủy đậu.

Nên chỉ định tiêm globulin miễn dịch Zoster cho trẻ em nếu các bà mẹ của chúng bị thủy đậu 7 hoặc ít ngày trước và sau khi đẻ vì không tiêm thì tỷ lệ tử vong của trẻ có thể tới 30%. Nên tiêm càng sớm càng tốt trong giai đoạn ủ bệnh, tốt nhất trong vòng 96 giờ sau khi phơi nhiễm. Globulin miễn dịch Zoster có hiệu quả phòng bệnh cao nhưng tác dụng chỉ trong thời gian rất ngắn.

Liều tiêm Globulin miễn dịch Zoster là 6ml cho người lớn, 4ml cho trẻ em 6-12 tuổi và 2ml cho trẻ từ 0-5 tuổi. Liều này có thể lặp lại khi bị phơi nhiễm lần thứ hai. Có thể tiêm globulin miễn dịch thông thường nếu không có Globulin miễn dịch Zoster.

Huyệt Suất Cốc – Vị trí, tác dụng, ở đâu

Suất Cốc

Tên Huyệt Suất Cốc:

Suất = đi theo. Cốc = chỗ lõm. Từ đỉnh tai đi theo đường thẳng lên chỗ lõm phía trong đường tóc là huyệt, vì vậy, gọi là Suất Cốc (Trung Y Cương Mục).

Tên Khác:

Nhĩ Tiêm, Suất Cốt, Suất Giác.

Xuất Xứ:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính Huyệt Suất Cốc:

Huyệt thứ 8 của kinh Đởm.

Huyệt hội với kinh Thủ + Túc Thái Dương.

Vị Trí Huyệt Suất Cốc:

Gấp vành tai, huyệt ở ngay trên đỉnh vành tai, trong chân tóc 1, 5 thốn.

Giải Phẫu:

Dưới da là cơ tai trên, cơ thái dương, xương thái dương.

Thần kinh vận động cơ là nhánh của dây thần kinh mặt, dây thần kinh sọ não số V.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh C2.

Chủ Trị Huyệt Suất Cốc:

Trị nửa đầu đau, chóng mặt, hoa mắt.

Phối Huyệt:

1. Phối Cách Du (Bàng quang.18) trị ngăn nghẹn do hàn đờm (Tư Sinh Kinh ).

2. Phối Ty Trúc Không (Tam tiêu.23) trị thiên đầu thống (Châm Cứu Học Thượng Hải).

Cách châm Cứu Huyệt Suất Cốc:

Châm luồn dưới da 0, 3 – 0, 5 thốn. Cứu 1 – 3 tráng – Ôn cứu 3 – 5 phút.•

Người bị bệnh mất ngủ nên ăn gì

Định nghĩa: mất ngủ là không thể ngủ được hoặc khó ngủ, gây cảm giác ngủ không đủ.

  • Phân loại

Mất ngủ đầu giấc: chậm ngủ được (trên một giờ) thường xảy ra khi có rối loạn về cảm xúc, nhất là lo âu.

Mất ngủ cuối giấc: bắt đầu ngủ bình thường nhưng thức dậy vào lúc 2- 4 giờ sáng. Hay gặp ở người già hay người bị trầm cảm. Thường dẫn đến buồn ngủ ban ngày.

Ngủ ít: thời gian ngủ giảm.

Đảo ngược chu kỳ ngủ: có thể do rối loạn nhịp ngày đêm sau khi đi máy bay lâu, do chấn thương sọ não trước đây, do suy hô hấp có tắc nghẽn (xem hội chứng ngừng thở lúc ngủ) hay dùng thuốc an thần không đúng dẫn đến kích động vật vã, đi lại ban đêm và buồn ngủ ban ngày.

  • Căn nguyên

Do vệ sinh kém: giường chiếu bẩn, rối loạn về giờ giấc sinh hoạt (do công việc hay do bản thân), nghiện thuốc lá, dùng quá nhiều cà phê, chè hay sô cô la. Do dùng các thuốc gây giảm ăn hoặc thuốc cường giao cảm.

Rối loạn tâm thần: lo âu, trầm cảm hoặc hưng cảm, cơn thiếu rượu hay thiếu thuốc (tất cả các thuốc ngủ đều dẫn đến quen thuốc và nghiện thuốc). Các nguyên nhân khác là các vấn đề về công việc, mâu thuẫn gia đình, lo lắng về sức khoẻ hay về tiền bạc.

Bệnh thể xác: đau đớn, suy tim hay suy hô hấp, bệnh hệ thần kinh trung ương.

Sau đây là các món ăn có tác dụng rất tốt cho giấc ngủ, qua đó có thể hỗ trợ điều trị đối với người bệnh mất ngủ. Các món ăn an toàn hiệu quả tốt có thể áp dụng lâu dài.

Món 1: CHÁO NHÃN NHỤC

Nguyên liệu:

  • Long nhãn nhục 15gr
  • Gạo nếp 100gr.

    Vị thuốc Long nhãn trị da khô nứt nẻ
    Vị thuốc Long nhãn

Cách chế biến:

Gạo nếp vo sạch nấu cháo. Khi cháo chín được một nửa thì cho nhãn nhục vào tiếp tục nấu cho đến khi cháo chín.

Cách ăn: Uống lúc bụng đói vào buổi sáng và trước khi ngủ.

Món 2: THỊT HEO HẦM ĐƯƠNG QUY

Nguyên liệu:

  • Thịt heo filê: 500gr.
  • Đảng sâm, đang quy, sơn dược mỗi thứ 10gr.

    Đảng sâm
    Đảng sâm

Cách chế biến:

Thịt heo rửa sạch, cho vào nồi cùng với 3 loại thuốc trên, nấu cho đến khi thịt và thuốc chín hẳn. Cho thêm các thứ gia vị cần thiết vào thì dùng được.

Cách ăn: Ăn với cơm tùy khả năng.

Công hiệu: ích khí, an thần.

Món 3: GÀ GIÒ HẦM NHÃN NHỤC

Nguyên liệu:

  • Gà giò 1 con khoảng 1kg
  • Nhãn nhục 30gr.

Cách chế biến:

Gà giò làm sạch, bỏ ruột. Trụng qua nước sôi một lần rồi vớt ra, cho nhãn nhục và các thứ gia vị như gừng, rượu, hành, muối, nước sạch và tiếp tục hầm (hoặc chưng) khoảng 60 phút. Vớt gừng, hành ra trước khi dùng.

Cách ăn: Ăn với cơm.

Công hiệu: Bổ huyết, an thần.

Món 4: CANH HẾN

Nguyên liệu:

  • Sò hoặc hến 50gr
  • Thịt heo nạc 200gr.

Cách chế biến:

Thịt heo xắt miếng. Rửa sạch thịt và sò rồi cho vào nồi nấu nhừ. Nêm muối trước khi dùng.

Cách ăn: Ăn với cơm.

Công hiệu: Bổ thận, ích khí.

Người tăng huyết áp NÊN ăn gì

Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy những người có thói quen ăn mặn, chế độ ăn ít rau, quả thường hay bị tăng huyết áp hơn. Ở những người có huyết áp ổn định, trong chế độ ăn thường có giàu ngũ cốc, đậu đỗ, lạc, vừng, rau xanh, quả chín, đôi khi có cá, sản phẩm sữa, trứng… Do đó ngoài việc chữa trị bằng thuốc, điều chỉnh chế độ ăn cũng có thể tác động đến việc hạ huyết áp.

Điều chỉnh chế độ ăn cũng có thể tác động đến việc hạ huyết áp
Điều chỉnh chế độ ăn cũng có thể tác động đến việc hạ huyết áp

Những vùng dân cư có tập quán ăn mặn thì tỉ lệ người bị tăng huyết áp cao hơn hẳn các vùng người dân có tập quán ăn nhạt hơn. Có người cho rằng thực hiện ăn nhạt bằng cách thay muối bằng mì chính (bột ngọt). Tuy nhiên mì chính cũng là một loại thực phẩm có nhiều natri không kém muối ăn. Ngoài ra chế độ ăn nhiều cholesterol, nhiều chất béo cũng có liên quan với tăng huyết áp. Vì vậy, điều chỉnh chế độ ăn có tác dụng dự phòng tăng huyết áp, không để tăng cân quá mức, làm giảm cân bằng dinh dưỡng và luyện tập là biện pháp quan trọng trong phòng và điều trị tăng huyết áp. về ăn uống, cần giảm lượng tiêu thụ natri, đặc biệt ở những người béo cần tránh ăn thực phẩm chứa nhiều muối, không nên ăn thêm muối trong các bữa ăn. Người bình thường lượng muối ăn hàng ngày không nên quá 6g, người có tăng huyết áp chỉ nên ăn khoảng 4g muối/ngày. Với mọi người nên thực hiện khẩu phần ăn nhiều rau quả (giàu kali) cũng có tác dụng giúp giảm huyết áp. Với phụ nữ tuổi mãn kinh nên đảm bảo chế độ ăn đủ calci, magie, sử dụng nhiều thức ăn từ cá, dầu lạc, vừng (có acid béo không no) và hạn chế thức ăn nhiều cholesterol.

Lợi ích của việc kiểm soát huyết áp thường xuyên
Lợi ích của việc kiểm soát huyết áp thường xuyên

Người tăng huyết áp nên ăn gì

Nguyên tắc:

Ít natri, giàu kali, calci, magie, chất xơ; có tính lợi tiểu, giảm chất béo no, tăng chất béo không no; giảm chất kích thích, tăng an thần.

Cụ thể:

+ ít natri, giàu kali, calci, magie: Hạn chế muối ăn (natri clorid), giảm mì chính (bột ngọt) (natri glutamat). Hạn chế muối ăn và mì chính dưới 6g/ngày. Người có phù và suy tim thì chỉ ăn 2- 4g/ngày, bỏ thức ăn mặn như cà, dưa muối, mắm tôm, mắm tép, thức ăn đóng hộp… Ăn nhiều rau quả để có nhiều kali.

+ Hạn chế thức ăn có tác dụng kích thích thần kinh, tâm thần: Bỏ rượu, cà phê, nước chè đặc. Tăng sử dụng thức ăn, nước uống có tác dụng an thần, hạ huyết áp, lợi tiểu như hạt sen, ngó sen, chè sen vông, canh lá vông…

Người tăng huyết áp nên ăn gì
Người tăng huyết áp nên ăn gì

Phân bố tỉ lệ thành phần thức ăn, thức uống hợp lý:

+ Chất đạm: Giữ ở mức khoảng 0,8-1,0g/kg cân nặng/ngày. Chú ý dùng nhiều đạm thực vật như đậu đỗ. Nếu có suy thận thì giảm nhiều hơn (4-6g/kg cân nặng/ngày) tuỳ mức độ.

+ Chất cung cấp năng lượng: Bảo đảm khoảng 35 Kcal/kg cân nặng/ngày. Ăn ít đường, bánh kẹo. Tốt nhất là ăn chất bột từ các hạt ngũ cốc và khoai củ.

+ Chất béo: Ăn ít mỡ, người béo càng phải ăn ít dầu mỡ hơn. Bỏ thức ăn nhiều cholesterol như óc, lòng, tim, gan, phủ tạng, ăn ít trứng. Ăn dầu làm từ cá, đậu tương, lạc, vừng…

+ Các chất vi khoáng, vi lượng, vitamin: Ăn nhiều rau quả, giá, đậu đỗ để đảm bảo đủ vitamin C, E, A và các vitamin nhóm B: B12, B6, acid folic.

Bạn có thể tự đo huyết áp tại nhà
Bạn có thể tự đo huyết áp tại nhà

+ Thức uống: Uống nước chè xanh, chè sen vông, chè hoa hoè, nước ngô luộc, nước rau luộc là thích hợp nhất, vừa lợi tiểu, an thần, hạ huyết áp. Bỏ rượu bia, cà phê, chè đặc.

Xin lưu ý:

Người bị tăng huyết áp không nên có chế độ ăn kiêng khem quá nghiêm ngặt, cũng không nên nằm bất động, nên tập luyện thể thao với các bài tập nhẹ hoặc đi bộ.

 

Nhồi máu cơ tim

Định nghĩa

Hoại tử một bộ phận của cơ tim do thiếu máu, vì dòng máu trong động mạch vành (động mạch tim) bị gián đoạn tại chỗ và kéo dài.

Dịch tễ học xem: cơn đau thắt ngực.

Căn nguyên

  • Huyết khối hình thành ở một đoạn động mạch vành bị hẹp do xơ vữa.
  • Xuất huyết dưới-nội mô (dưới lóp áo trong của động mạch) ở dưới một mảng xơ vữa.
  • Nhồi máu cơ tim nhưng chụp động mạch vành không thấy tắc đáng kể: được giải thích là do co thắt động mạch vành kéo dài, tái lập nhanh lòng động mạch từ một huyết khối, bệnh tuần hoàn vi mạch (bệnh mạch máu vi thể) thuộc khu vực mạch vành, chụp X quang động mạch vành nhưng không thể hiện hoặc kém thuyết minh.
  • Nguyên nhân hiếm thấy, nghẽn mạch vành (trong những trường hợp: viêm nội tâm mạc, hẹp van hai lá, hẹp van động mạch chủ), hẹp lỗ động mạch vành do tổn thương động mạch chủ (di chứng của bệnh giang mai hoặc đôi khi của bệnh xơ vữa), viêm mạch máu
    trong những bệnh tự miễn, dị tật mạch vành, chấn thương tim.

– Yếu tố tạo thuận lợi cho nhồi máu xảy ra:

+ Huyết áp thấp, tình trạng sốc.

+ Can thiệp ngoại khoa.

+ Nhịp tim nhanh và loạn nhịp.

+ Tật van tim, bệnh cơ tim.

+ Nghiện ma tuý cocain.

Giải phẫu bệnh

Tắc động mạch liên thất trước (nhánh của động mạch vành trái) thì gây ra nhồi máu cơ tim phía trước. Tắc động mạch vành phải thì gây ra nhồi máu phía sau và đôi khi hoại tử tâm thất và tâm nhĩ phải. Nhồi máu phía trước- bên thường là hậu quả tắc động mạch mũ (nhánh của động mạch vành trái), tắc động mạch mũ cũng có thể gây ra nhồi máu phía sau. Nhồi máu có thể ở dưới nội tâm mạc, xuyên thành tim (từ dưới nội tâm mạc tối lá tạng bao thanh mạc của ngoại tâm mạc), dưới thượng tâm mạc (lá tạng bao thanh mạc của ngoại tâm mạc), hoặc thành ổ nhồi máu rải rác. Kích thước tổn thương nhồi máu phụ thuộc vào tầm quan trọng của động mạch bị tắc và mạng lưới mạch nối tiếp hình thành giữa ba động mạch chính (động mạch vành phải, động mạch liên thất trước và động mạch mũ) trước khi nhồi máu xảy ra. Chính vì vậy mà một người trẻ tuổi ít hoạt động thể lực có xu hướng bị nhồi máu cơ tim nặng hơn một người già hoạt động thể lực tích cực. Cũng có những trường hợp nhồi máu rất rộng mà không có huyết khối trong động mạch vành. Nhồi máu không thể nhìn thấy đại thể trước 10-15 giờ. Ngày đầu tiên, cơ tim bị nhợt nhạt và phù nề. Rồi trở nên xuất huyết (máu thoát ra ngoài mạch) sau 3-4 ngày. Sau đó thì co lại, có màu sẫm, rồi sau 2-3 tháng thì chỉ còn để lại một sẹo màu trắng nhạt. Soi kính hiển vi, những sợi cơ tim mất các vân ngang sau 3 giờ. Bạch cầu hạt xuất hiện ở vị trí nhồi máu sau khoảng 10 giờ, rồi đến các đại thực bào, Các nguyên bào sợi bắt đầu sinh sản ngay tuần đầu tiên, và những sợi tạo keo thấy ở tuần thứ hai.

Sinh lý bệnh

Nhồi máu cơ tim gây ra rối loạn chức năng thất trái, tỷ lệ với khối lượng cơ tim bị hoại tử. Lưu lượng tim và phân số tông máu giảm, huyết áp hạ thấp, áp suất cuối tâm trương ở tâm thất trái tăng lên đồng thời cả áp suất trong nhĩ trái và áp suất mao mạch phổi bị chặn cũng tăng (10-15 mmHg trong trường hợp nhồi máu nhỏ, hơn 20-25 mmHg trong trường hợp nhồi máu nặng).

Triệu chứng

THỂ KINH ĐIỂN

– Đau vùng trước tim (sau xương ức): có thể xảy ra ở một người chưa hề có tiền sử bệnh tim-mạch, hoặc ở một người có cơn đau thắt ngực rõ ràng. Đau ngực do nhồi máu cơ tim chỉ khác với cơn đau thắt ngực vì thời gian kéo dài (> 30 phút), cường độ, và không đỡ hoặc không khỏi khi dùng thuốc nitrit. Đau do nhồi máu cơ tim có thể xuất hiện lúc đang nghỉ, sau khi gắng sức, hoặc sau bữa ăn thịnh soạn, vào ban ngày hoặc ban đêm. Cơn đau không liên quan với nhịp thở và thường kèm theo lo âu, hoảng hốt, toát mồ hôi lạnh, buồn nôn và nôn.

  • Khám thực thể: các chi lạnh, huyết áp đo ở hai cánh tay bình thường hoặc thấp (hạ huyết áp); đôi khi huyết áp tăng lên trong cơn đau. Nhịp tim thường nhanh, bệnh nhân không bị sốt trong những giờ đầu, nhưng thân nhiệt có thể sẽ tăng lên tới 38,5°c sau 2-3 ngày. Những tiếng tim, nhất là tiếng thứ nhất ở đỉnh tim nghe thấy yếu.

Có thể nghe thấy tiếng ngựa phi đầu thì tâm trương và/hoặc đầu thì tâm thu, tiếng thổi hở van hai lá. Tiếng cọ màng ngoài tim xuất hiện 2-3 ngày sau khi bị nhồi máu.

THỂ KHÔNG ĐIỂN HÌNH

  • Thể không đau:25% số trường hợp nhồi máu cơ tim không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng, nhất là ở những đối tượng cao tuổi, hoặc chỉ gây ra khó chịu thoáng qua. Nhồi máu có thể biểu hiện bởi những dấu hiệu gián tiếp: toát mồ hôi, hạ huyết áp, khó thở, nhịp tim nhanh, loạn nhịp. Cũng có thể nhồi máu cơ tim thể hiện bởi suy tim, bệnh van tim, hoặc phù phổi (ran bọt nước) đột ngột trở nên nặng.
  • Nhồi máu thất phải:gây ra bởi tắc động mạch vành phải, thường kết hợp với nhồi máu thất trái ở mặt hoành (mặt dưới của tim). Trường hợp này thể hiện bởi lưu lượng tim thấp (tụt hoặc giảm thể tích tông máu), các tĩnh mạch cảnh ứ máu (hở van ba lá) trong khi đó các trường phổi vẫn sáng trên phim

X quang, đôi khi xảy ra tràn dịch màng phổi phải. Biến chứng: vỡ tâm thất, rối loạn dẫn truyền nhĩ thất.

ĐIỆN TÂM ĐỒ

  • Chênh đoạn S-T > 0,1 mV (> lmm) ở hai đạo trình của cùng một khu vực, tồn tại kê cả sau khi cho trinitrin.
  • Xuất hiện sóng Q sau vài giờ (xem: điện tâm đồ trong nhồi máu cơ tim). Người ta phân biệt nhồi máu cơ tim “có sóng Q” là kiểu xuyên thành tim, với nhồi máu có biến đổi đoạn S-T và sóng T, nhưng “không có sóng Q” là kiểu không xuyên thành tim. Trong những trường hợp này, so sánh với điện tâm đồ ghi trước khi bị nhồi máu sẽ rút ra được những kết luận có lợi cho chẩn đoán.
  • Sau 4-5 ngày, mức chênh của đoạn S-T giảm dần, trong khi sóng T đảo ngược ngày càng rõ (gọi là sóng T do thiếu máu cục bộ).
  • Nếu điện tâm đồ bình thường thì cũng không thể loại trừ khả năng nhồi máu cơ tim, kể cả trường hợp nhồi máu rộng.

Xét nghiệm cận lâm sàng

ENZYM

  • Creatin-phosphokinase (CPK): 6- 8 giờ sau khi nhồi máu cơ tim khởi phát thì enzym này tăng lên và đạt đỉnh vào 12-24 giờ (đôi khi tới tận 36 giờ sau khi nhồi máu bắt đầu). Enzym sẽ trở lại giá trị bình thường trong vòng từ 36-48 giờ. CPK cũng có thể tăng lên trong trường hợp bị chấn thương (ví dụ tiêm bắp), viêm và thoái hoá các cơ vân.

Tăng phân đoạn MB của CPK có giá trị đặc hiệu hơn trong chẩn đoán nhồi máu cơ tim, nhất là nếu đỉnh của enzym xảy ra sớm hơn (sau 8 giờ). Tuy nhiên phân đoạn MB của CPK cũng tăng trong những trường hợp ưu năng tuyến giáp, loạn dưỡng cơ, tăng thân nhiệt.

  • Dehydrogenase lactic (LDH): enzym này hình thành từ 5 iso- enzym (là LDH 1, 2,3,4 và 5), tăng lên 24 giờ sau khi bị nhồi máu cơ tim, đạt đỉnh ở giữa ngày thứ 3 và thứ 5, và tồn tại tới ngày thứ 14. Độ đặc hiệu của enzym này được cải thiện hơn nếu tính tỷ số LDH1/LDH2, tỷ số này tăng lên trong trường hợp nhồi máu cơ tim.
  • Glutamino – oxalo – acetic trans – aminase (SGOT, GOT hoặc ASAT): enzym này tăng vào 12 đến 48 giờ sau khi nhồi máu cơ tim khỏi phát, rồi nhanh chóng trở lại bình thường. Tuy nhiên, tăng hàm lượng enzym này ít đặc hiệu đối với nhồi máu cơ tim.
  • Alpha-hydroxybutyrat dehydrogenase (HBDH): tăng vào 12 giờ sau khi nhồi máu cơ tim bắt đầu, và đạt hàm lượng tối đa vào giờ thứ 72, tồn tại trong vòng khoảng 10 ngày. Giá trị bình thường: 50-140 đơn vị/l.

NHỮNG XÉT NGHIỆM KHÁC

  • Troponin huyết thanh: là protein liên kết với các tơ cơ của tế bào cơ tim. Chất này tăng lên vào 4 giờ sau khi bị nhồi máu, đạt mức đỉnh vào giờ thứ 36, và trở lại bình thường trong vòng 10-20 ngày. Đây là một test nhạy và đặc hiệu.

+ Giá trị bình thường: < 0,3 pg/1 hoặc ng/ml.

+ Nếu có tổn thương cơ tim: > 0,5 µg/l.

  • Myoglobin huyết tương:tăng vào 30-60 phút sau khi nhồi máu cơ tim bắt đầu, đạt mức đỉnh sau 10 giờ, và trở lại bình thường sau 24giờ.
  • Myosin huyết thanh:xuất hiện vào 2 ngày sau khi nhồi máu cơ tim bắt đầu, và đạt hàm lượng tối đa vào ngày thứ 6, rồi giảm dần bắt đầu từ ngày thứ 12. Định lượng myosin huyết thanh cho phép đánh giá mức độ quan trọng của cơ tim bị tan và khối lượng cơ tim bị hoại tử, nhưng không sử dụng để chẩn đoán sớm được. Giá trị bình thường: 30-150 p đơn vị/l.
  • Tăng bạch cầu trong máu:từ 10.000 đến 20.000.
  • Tăng đường huyếtnhất thời.

X quang: chụp X quang lồng ngực có thể thấy các dấu hiệu sung huyết phổi, các tĩnh mạch phổi thuộc thuỳ trên giãn rộng, có những đường Kerley B, và đôi khi có cả bóng mờ do phù phổi.

Sièu âm tim: trên siêu âm tim hai chiều, thấy các chuyển động của thành tim và của vách tim không bình thường. Siêu âm tim cũng có ích để phát hiện lỗ thủng ở vách tim, phát hiện rối loạn chức năng của van hai lá hoặc cột cơ của van hai lá bị hư hại (cơ nhủ có các dây chằng van tim bám vào). Siêu âm tim cũng phát hiện được huyết khối bám vào thành tim. Trong trường hợp nhồi máu phía phải, thấy giãn thất phải, động tính của thất phải không bình thường, vách tim chuyển động nghịch thường.

Chụp nhấp nháy động mạch của tim (xem kỹ thuật này): là kỹ thuật đồng vị phóng xạ sử dụng albumin người đánh dấu bằng technetium 99, tiêm tĩnh mạch. Với kỹ thuật này có thể nhìn thấy các buồng tim nhờ một máy chụp hình (camera) nhấp nháy, khởi động bởi điện tâm đồ. Technetium 99 sẽ tập trung vào những vùng cơ tim bị hoại tử ít nhất vào 12 giờ sau khi tiêm. Những vùng hoại tử này sẽ thể hiện như những điểm nóng trên nhấp nháy đồ. Đo phân số tống máu lúc nghỉ ngơi và gắng sức, sẽ phát hiện thấy thể tích tống máu khi gắng sức bị tụt giảm, và đây là dấu hiệu tiên lượng nhồi máu nặng.

Biến chứng

RỐI LOẠN NHỊP TIM: nói chung xuất hiện ngay những giờ đầu tiên hoặc trong ngày đầu tiên, và thường là nguyên nhân quan trọng gây tử vong. Những kiểu loạn nhịp hay gặp nhất là:

  • Loạn nhịp thất: ngoại tâm thu thất có thể là dấu hiệu báo trước nhịp nhanh hoặc rung thất. Ngoại tâm thu thất có tiềm năng nguy hiểm (hơn 5 lần/phút, xuất hiện từng loạt, đa hình) phải được phát hiện và điều trị kịp thời. Nếu xảy ra rung nhĩ thì khử rung ngay.
  • Nhịp xoang nhanh: có thể là do suy tim.
  • Cuồng nhĩ và rung nhĩ: ít xảy ra hơn. Rung nhĩ thường chỉ nhất thời và khỏi tự nhiên không cần điều trị.
  • Loạn nhịp chậm và bloc nhĩ- thất: bloc không hoàn toàn xuất hiện trong bôi cảnh nhồi máu cơ tim phía trước là biến chứng đáng sợ, có thể dẫn tới bloc hoàn toàn vào bất kỳ lúc nào, nhưng xảy ra trong nhồi máu cơ tim phía sau thì lại có tiên lượng tốt.

Sốc Tim: là hậu quả của suy thất trái nặng kèm theo: hạ huyết áp (huyết áp tâm thu <90 mmHg), chỉ số tim <21/ phút/m2, áp suất mao mạch bị chặn cao (hơn 18 mm Hg), thiểu niệu (đái ít), và nhiễm acid chuyển hoá. Bắt mạch thấy nhỏ như sợi chỉ, huyết áp động mạch khó đo. Lưu lượng tim thấp kèm theo những rối loạn thần kinh (hốt hoảng bồn chồn, lú lẫn tâm thần, hôn mê). Các chi lạnh ẩm, tím tái.

SUY TIM: xuất hiện cấp tính hoặc bán cấp vào mọi giai đoạn của cơn nhồi máu cơ tim, ở những thể từ nhẹ nhất tới nặng nhất là phù phổi siêu cấp tính. Không phải bao giờ cũng có triệu chứng khó thở. Các dấu hiệu và triệu chứng sau đây: tĩnh mạch cảnh ứ máu, mạch luân phiên, ran ở hai đáy phổi, tiếng ngựa phi đầu thì tâm trương, tiếng thổi tâm thu nghe thấy ở đỉnh tim, tiếng thứ hai mạnh ở ổ động mạch phổi, gan đau tự phát hoặc khi sờ nắn, là những dấu hiệu của suy tim lưu lượng thấp. Nếu không có sẵn một ống thông (catheter) Swan- Ganz để đo áp suất mao mạch phổi bị chặn thì chụp X quang lồng ngực nhiều lần cũng có thể cho những chỉ dẫn quý giá về diễn biến của biến chứng suy tim. Nói chung hình ảnh X quang thường muộn hơn so với những hiện tượng huyết động. Giữa ngày thứ 7 và thứ 10, suy tim có thể xảy ra do phình thành tim, do thủng vỡ vách tim tạo nên thông liên thất (nồng độ oxy trong tâm thất phải cao lên một cách bất thường), hoặc do rối loạn hoạt động của một cột cơ trong thành tâm thất.

VỠ TIM: vỡ thành tâm thất với hậu quả tràn máu trong ổ ngoại tâm mạc và chứng ép tim có thể gây đột tử.

HỞ VAN HAI LÁ: xuất hiện tiếng thổi cuối thì tâm thu nghe thấy ở mỏm tim là do rối loạn chức năng van hai lá khi van này bị hở ít hoặc nhiều. Hiếm khi xảy ra gãy vỡ một cột cơ ở thành tâm thất (1% số trường hợp nhồi máu cơ tim), nhưng nếu xảy ra thì tiếng thổi trở nên toàn tâm thu (nghe thấy trong toàn bộ thì tâm thu), cường độ mạnh và nghe thô ráp, và suy tim sẽ tiến triển nhanh chóng. Chẩn đoán sẽ được khẳng định nhờ siêu âm tim.

VIÊM NGOẠI TÂM MẠC SAU NHỒI MÁU CƠ TIM: đau ngực nặng hơn trong thì thở vào, tiếng cọ màng ngoài tim thường hay xuất hiện vào 2-3 ngày sau cơn nhồi máu cơ tim và có thể kèm theo điện tâm đồ có đoạn S-T chênh lên cao. Định lượng nhiều lần các enzym của tim có thể cho phép phân biệt viêm ngoại tâm mạc với nhồi máu cơ tim lan rộng. Viêm ngoại tâm mạc xuất hiện muộn nhiều ngày hoặc nhiều tuần sau nhồi máu cơ tim thuộc về hội chứng Dressler (xem hội chứng này).

HUYẾT KHỐI NGHẼN MẠCH: có thể xuất phát từ huyết khối ở chi dưới vì bệnh nhân nằm lâu không vận động và vì những rối loạn tuần hoàn, hoặc từ một huyết khối hình thành trên nội tâm mạc ở vùng hoại tử cơ tim.

PHÌNH THÀNH TIM: xem hội chứng này.

ĐAU LOẠN DƯỠNG DO PHẢN XA Ở CHI TRÊN: xuất hiện một vài ngày hoặc vài tuần sau cơn nhồi máu cơ tim là viêm quanh khớp vai, phần nhiều ở bên trái hơn là bên phải (xem: đau loạn dưỡng do thần kinh giao cảm và viêm quanh khớp vai- cánh tay). Phòng ngừa biến chứng này bằng cách cho bệnh nhân vận động sớm.

LOẠN THẦN KINH DO HOẢNG SỢ: nỗi sợ hãi bị tái phát và phải trở lại làm việc có thể dẫn tối tình trạng lo âu và trầm cảm làm cho bệnh nhân trở nên tàn phế. Phục hồi chức năng tim trong trường hợp này có thế mang lại niềm tin cho bệnh nhân.

Chẩn đoán

  • Cơn đau thắt ngực kéo dài (> 30 phút), không chịu ảnh hưởng hoặc chịu ảnh hưởng ít bởi các thuốc nitrit.
  • Điện tâm đồ có sóng Q và đoạn S-T biến đổi .
  • Tăng các enzym của cơ tim (CPK toàn phần và phân đoạn MB của CPK).

Chẩn đoán phân biệt, với những trường hợp sau:

CÁC BỆNH TIM – MẠCH KHÁC

  • Cơn đau thắt ngực, cơn đau thắt ngực Prinzmetal: trong các trường hợp này cơn đau ngắn hơn, chịu ảnh hưởng của thuốc nitrit, không thấy sóng Q bệnh lý trên điện tâm đồ, các enzym của cơ tim không tăng.
  • Viêm ngoại tâm mạc: có tiếng cọ màng ngoài tim, không có sóng Q bệnh lý trên điện tâm đồ. Những enzym cơ tim nói chung bình thường, nhưng cũng có thể tăng ít trong trường hợp viêm cơ tim kết hợp. Siêu âm tim là xét nghiệm quyết định chẩn đoán.
  • Phình thành tim:có tiền sử nhồi máu cơ tim cũ, cảm giác va đập của mỏm tim lan rộng trên thành ngực khi sờ thành ngực. Đoạn S-T chênh, các enzym cơ tim bình thường.
  • Tách thành phình động mạch chủ:đau ngực thường lan ra sau, đôi khi thấy hở van động mạch chủ, rối loạn thần kinh. Xét nghiệm quyết định chẩn đoán là chụp cắt lớp vi tính và chụp động mạch chủ.
  • Bệnh cơ tim phì đại:ngất, đau thắt ngực, khó thở khi gắng sức, tiếng thổi cuối thì tâm thu, ở ổ van động mạch chủ tăng lên trong khi thực hiện nghiệm pháp Sóng T âm ở đạo trình V2-V5.

CÁC BỆNH HÔ HẤP VÀ LỒNG NGỰC

  • Nghẽn mạch phổi:lâm sàng giống với nhồi máu cơ tim, nhưng điện tâm đồ, hàm lượng emzym cơ tim bình thường, và phát hiện thấy các lưỡng đồng phân-D cho phép nhĩ tới bệnh phổi. Trong trường hợp còn nghi ngờ thì xét nghiệm chụp nhấp nháy và chụp động mạch phổi có vai trò quyết định chẩn đoán.
  • Tràn khí màng phổi tự phát, tràn khí trung thất (khí thũng trung thất), viêm màng phổi trái cấp tính, đau dây thần kinh liên sườn, giai đoạn trước khi nổi mụn của bệnh zona ngực, tất cả những trường hợp này đều có thể giống với nhồi máu cơ tim. Điện tâm đồ, định lượng enzym cơ tim, và chụp X quang lồng ngực cho phép chẩn đoán chính xác.

NHỮNG BỆNH TIÊU HOÁ: viêm tuỵ cấp, viêm túi mật, thoát vị hoành với trào ngược dạ dày-thực quản, thủng ổ loét dạ dày-tá tràng, nói chung đều dễ chẩn đoán phân biệt với nhồi máu cơ tim bằng điện tâm đồ, X quang, và định lượng enzym.

Tiên lượng

Thay đổi tuỳ theo các thống kê khác nhau. Người ta công nhận là có 30% số trường hợp tử vong trước khi tới được bệnh viện. Tỷ lệ tử vong ở bệnh viện từ 3-30%. Tỷ lệ toàn bộ những bệnh nhân sống sót một tháng sau cơn nhồi máu vào khoảng 45%. Những trường hợp nhồi máu nhỏ, không bị biến chứng, có tỷ lệ tử vong dưới 5%. Những trường hợp nhồi máu phía sau và xuyên thành tim có tiên lượng tốt hơn so với nhồi máu dưới nội tâm mạc và nhồi máu phía trước.

Tỷ lệ tử vong tới 80-90% trong trường hợp sốc tim và/hoặc suy tim nặng. Bất kể lúc nào cũng có thể xảy ra đột tử vì vỡ cơ tim hoặc loạn nhịp không được phát hiện.

Nhồi máu cơ tim tái phát, bệnh đái tháo đường, loạn nhịp và/hoặc rối loạn dẫn truyền nhĩ-thất và nội tâm thất (trong tâm thất), và những biến chứng huyết khối- nghẽn mạch là những yếu tố làm tăng tỷ lệ tử vong ngắn hạn và trung hạn.

Tiên lượng dài hạn phụ thuộc vào kích thước của phần cơ tim bị hoại tử. Nếu nhồi máu cơ tim nhỏ, không biến chứng thì có thể thời gian sống thêm lâu hơn 10-20 năm. Nếu có ngoại tâm thu thất mau và đa hình, suy tim, loạn động tính tâm thất, thì thời gian sống thêm thấp xuống tới 5 năm hoặc ngắn hơn nữa.

Để phát hiện những đối tượng có nguy cơ cao, trước khi xuất viện, người ta làm những xét nghiệm sau đây cho bệnh nhân:

  • Thử nghiệm (test) gắng sức dưới tối đa: nguy cơ cao trong trường hợp đoạn S-T hạ thấp rõ rệt, và ngoại tâm thu thất mau và đa hình khi gắng sức (thiếu máu cụ bộ di chứng).
  • Ghi điện tâm đồ liên tục (Holter): được chỉ định khi nghi ngờ loạn nhịp nguy hiểm, để từ đó cho các thuốc chống loạn nhịp và kiểm tra hiệu quả của các thuốc này.
  • Siêu âm tim và chụp nhấp nháy động mạch tim với technetium 99 cho phép phát hiện loạn động tính hoặc vô động tính thất khu trú. Ngoài ra, chụp nhấp nháy động mạch còn cho phép đo phân số tông máu lúc nghỉ ngơi và lúc gắng sức. Phân số tông máu lúc gắng sức bị tụt là dấu hiệu nhồi máu cơ tim nặng.
  • Chụp động mạch vành: được chỉ định trong trường hợp nhồi máu cơ tim rộng, cơn đau thắt ngực sau nhồi máu, thiếu máu cục bộ di chứng phát hiện nhờ test gắng sức, loạn nhịp thất, điện thế muộn, giảm phân số tông máu, suy tim. Chụp động mạch vành có thể phát hiện thấy những vị trí hẹp có khả năng điều trị được bằng phẫu thuật bắc cầu hoặc tạo hình mạch vành.

Những bệnh nhân có nguy cơ cao đòi hỏi phải được đánh giá sâu sắc những nhu cầu điều trị của họ. Có thể họ chỉ được trở lại hoạt động một cách dần dần chậm chạp.

Điều trị nhồi máu cơ tim không biến chứng

GIAI ĐOẠN TRƯỚC KHI NHẬP VIỆN: bệnh nhân phải được chuyển tới bệnh viện càng sớm càng tốt, nếu có thể thì bằng xe cấp cứu chuyên dụng (tiếng Anh:”cardiomobile”). Trong khi vận chuyển, cho thuốc tan huyết khối nếu khoảng cách để tối bệnh viện phải đi hơn 60 phút. Cho thuốc tan huyết khối ngay trong giờ đầu tiên sau khi xuất hiện triệu chứng làm giảm tỷ lệ tử vong do nhồi máu cơ tim cấp tính xuống 50%, và cho ngay aspirin (250-500 mg rồi 100 mg/ ngày), thì riêng thuốc này đã làm giảm tỷ lệ tử vong được 25%. Ngoài ra:

  • Thuốc an thần (làm dịu): nhồi máu cơ tim kèm theo hoảng sợ, có thể điều trị bằng 5 mg diazepam, theo đường uống nếu có thể (vì tiêm bắp sẽ làm tăng hàm lượng CPK).
  • Điều trị đau: cho morphin Sulfat, 5 mg theo đường tĩnh mạch và 5 mg tiêm dưới da, có thể cho nhắc lại nếu cần, miễn là chưa tới mức hô hấp bị suy giảm (tần số thở dưới 12 lần/phút). Có thể thay thế morphin bằng một dẫn xuất tổng hợp. Suy giảm hô hấp do morphin gây ra có thể điều trị bằng naxolon tiêm tĩnh mạch.
  • Liệu pháp oxy: làm giảm đau và giảm khó thở. Nên cho bệnh nhân thở qua ống thông (sonde) đặt vào Wc mũi hoặc chụp mũi hơn là thở qua mặt nạ vì mặt nạ có thể làm cho bệnh nhân hoảng sợ thêm. Tốc độ cung cấp oxy khoảng 2-4 lít một phút, để giữ độ bão hoà oxy cao hơn 90%.
  • Ngừng tim-ngừng hô hấp: xem hội chứng này.

GIAI ĐOẠN NỘI TRÚ

  • Thuốc tan huyết khối (xem phần viết về thuốc này): ngay khi bệnh nhân nhập viện phải truyền tĩnh mạch ngay thuốc tan huyết khối. Kết quả phụ thuộc vào cho thuốc sớm hay muộn: nếu cho thuốc trong vòng trước 3 giờ kể từ lúc nhồi máu cơ tim khởi phát thì đạt được kết quả tối đa, nếu cho trong vòng 6 giờ và có thể tới 12 giờ sau khi nhồi máu bắt đầu thì lợi ích cũng không còn phải bàn cãi. Tuy nhiên, nếu cho thuốc tan huyết khối sau 12 giờ thì không có ích gì nữa.

Chống chỉ định, xem: thuốc tan huyết khối.

Theo dõi: trong trường hợp cơ tim được cấp máu lại, thì cơn đau vùng trước tim giảm dần, hoặc hết hẳn và có thể xuất hiện loạn nhịp, nhưng nói chung lành tính. Enzym CPK tăng tỷ lệ với kích thước của phần cơ tim bị hoại tử (gọi là hiện tượng “súc rửa” cơ tim).

Thuốc chống đông máu: cho heparin ngay từ lúc bắt đầu điều trị tan huyết khối với alteplase.

Tạo hình mạch máu: tạo hình mạch máu chỉ nên thực hiện như một biện pháp hàng đầu, khi nhồi máu có biến chứng sốc tim, khi có nguy cơ xuất huyết não quan trọng, hoặc có những chống chỉ định sử dụng thuốc tan huyết khối

Diễn biến: biện pháp tan huyết khối thường có kết quả làm cho cơ tim được tái cấp máu trong 30-50% số trường hợp. Hẹp động mạch tồn dư khít vẫn tiếp tục trong 30-50% số trường hợp, và có 5-10% số bệnh nhân thì bị tái phát nhồi máu mới. Tạo hình mạch máu gọi là “để cứu nạn” được đề nghị thực hiện đối với những bệnh nhân mà sau một giờ điều trị tan huyết khối vẫn không thấy có dấu hiệu rõ rệt nào chứng tỏ cơ tim được tái cấp máu (đau vẫn tồn tại, không thấy đỉnh CPK xuất hiện sớm). Trong trường hợp hẹp tồn dư khít, người ta nhận thấy rằng tạo hình mạch máu qua lòng mạch ngay sau điều trị tan huyết khối có nhiều nguy cơ hơn, so với nếu tạo hình mạch máu được làm muộn hơn, khi mà các tham số huyết động và huyết tĩnh đã ổn định lại.

  • An thần và giảm đau: cho dùng diazepam hoặc một thuốc benzodiazepin khác, morphin hoặc một dẫn xuất tổng hợp khác tuỳ theo nhu cầu. Liệu pháp oxy cần được tiếp tục chừng nào bệnh nhân vẫn còn thấy đau hoặc khó thở.
  • Acid acetyl salicylic:sau một liều khởi đầu 250-500 mg thì tiếp tục với liều 100 mg/ ngày.
  • Thuốc giãn mạch:

+ Trinitrin: truyền tĩnh mạch với liều 20-50 pg/phút, dưới sự theo dõi bằng những tham số huyết động chính (nguy cơ hạ huyết áp), hoặc

+ Thuốc chẹn beta: nếu không bị sốc hoặc suy tim, thì nên sử dụng atenolol hoặc propanolol truyền tĩnh mạch chậm trong 24 giờ, rồi sau đó cho uống trong một tuần (nguy cơ: suy tim, hen phế quản), hoặc

+ Thuốc ức chế men chuyển angiotensin: có tác dụng làm giảm tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân bị suy thất trái không triệu chứng sau cơn nhồi máu cơ tim, nhưng phải không có chống chỉ định, đặc biệt là sốc tim hoặc hạ huyết áp dai dẳng; nên sử dụng captopril uống với liều khởi đầu 12,5 mg rồi tăng dần lên tới 25 -100 mg/ ngày.

+ Thuốc chẹn kênh calci: nên dùng nifedipin uống (nguy hiểm: hạ huyết áp).

  • Những biện pháp toàn thân: nghỉ tại giường, yên lặng. Không nghe điện thoại, không xem hồ sơ. Hạn chế người đến thăm. Trong những trường hợp không có biến chứng, bệnh nhân có thể tự ăn được ngay, tự tắm rửa, đi lại bằng cách ngồi ghế có bánh xe để ở cạnh giường bệnh, đứng dậy sớm sau 2 ngày và đi lại chút ít vào ngày thứ 5.

THỜI GIAN NẰM VIỆN: những trường hợp đơn giản, không bị biến chứng, thường là một tuần. Giai đoạn cấp tính của nhồi máu cơ tim sẽ hết sau 2-3 tuần. Trở lại lao động nói chung sau 3 tháng.

ĐIỀU TRỊ DÀI HẠN: thuốc chẹn beta (hoặc thay bằng verapamil nếu có chống chỉ định) và một thuốc chống ngưng tụ tiểu cầu.

Điều trị biến chứng

ĐIỀU TRỊ LOẠN NHỊP THẤT

  • Ngoại tâm thu thất: cần điều trị cấp cứu nếu loạn nhịp có tiềm năng nguy hiểm (hơn 6 nhịp ngoại tâm thu/phút, xuất hiện từng loạt, đa hình), vì kiểu ngoại tâm thu này có khả năng là dấu hiệu báo trưổc nhịp thất nhanh hoặc rung thất. Tuy nhiên rung thất có thể xảy ra mà không có bất kỳ tiền triệu nào.
  • Khắc phục tình trạng giảm kali huyết, tăng calci huyết, giảm magiê huyết, và ngừng những thuốc có tiềm năng gây loạn nhịp.
  • Lidocain truyền tĩnh mạch (1 mg/phút), người thường trực theo dõi.
  • Trong trường hợp không thành công với lidocain, thì có thể cho amiodaron theo đường tĩnh mạch. Biện pháp điều trị này cũng có những hiệu quả không mong muôn (tác dụng phụ) đáng kể.
  • Điều trị nhịp nhanh thất:

+ Khử rung bằng sốc điện với năng lượng 50-350 Joule. Sau đó truyền tĩnh mạch lidocain để phòng ngừa tái phát nhịp nhanh.

+ Đối với những thể khó chữa, đặt một máy kích thích tim tạm thời vào trong buồng tim với tần số hơi lớn hơn tần số nhịp nhanh thất để có thể làm ngừng nhịp nhanh bằng kích thích điện nhanh (overdrive) tâm thất.

  1. Điều trị rung thất: phải khử rung ngay (200-400 Joule).
  2. Theo dõi và điều trị loạn nhịp thất sau cơn nhồi máu cơ tim cấp tính:

+ Điều trị nội khoa: tất cả các trường hợp nhồi máu cơ tim cấp tính nếu bị loạn nhịp nặng đều phải được theo dõi đặc biệt, nếu cần thì bằng ghi điện tâm đồ liên tục (Holter). Những trường hợp nhồi máu cơ tim bị biến chứng rối loạn dẫn truyền nhĩ-thất hoặc nội-tâm thất (trong tâm thất) cũng có nguy cơ cao chuyển thành nhịp nhanh thất và do đó cũng phải theo dõi liên tục nhịp tim của họ. Phải điều trị những trường hợp loạn nhịp trong bối cảnh này bằng một thuốc chống loạn nhịp, hoặc phối hợp vài loại thuốc chống loạn nhịp trong vòng 3 tháng. Phải kiểm tra thường xuyên hiệu quả của biện pháp điều trị.

+ Điều trị ngoại khoa: trong trường hợp loạn nhịp thất mà điều trị nội khoa không có kết quả, thì có thể bằng các kỹ thuật ghi điện tâm đồ đặc biệt cố gắng tìm ra vùng cơ tim sinh loạn nhịp và phẫu thuật cắt bỏ. Đã có những trường hợp đạt được kết quả tốt nếu ổ sinh loạn nhịp có liên quan tới một phình thành tim (phình thành tâm thất).

LOẠN NHỊP XOANG

  • Nhịp xoang nhanh: điều trị nguyên nhân (suy tim, giảm thể tích huyết tương, tình trạng sốc).
  • Nhịp xoang chậm: atropin 0,5 – 1 mg tiêm tĩnh mạch; chỉ tiêm nếu huyết áp động mạch thấp (nguy hiểm: làm nặng thêm cơn đau thắt ngực).

NHỊP NHANH TRÊN THẤT VÀ BỘ NÔI (nhịp nhanh nút): khử rung bằng sốc điện là biện pháp hàng đầu để điều trị rung nhĩ, cuồng nhĩ, và những trường hợp nhịp nhanh trên thất với đáp ứng tâm thất nhanh (hơn 120-130 nhịp/phút), với cơn đau thắt ngực, khó thở hoặc hạ huyết áp. Nếu tần số nhịp thất dưới 120 và nếu bệnh nhân không đau vùng trước tim, và tình trạng huyết động tốt, thì cho dùng digital theo đường tĩnh mạch.

Nhịp nhanh bộ nối (nhịp nhanh nút) không kịch phát (80-130 nhịp/phút) phải được điều trị bằng cách giải quyết nguyên nhân, thường là sốc tim.

RỐI LOẠN DẪN TRUYỀN

  • Nhồi máu phía sau: bloc nhĩ- thất sẽ hình thành dần dần, hiếm khi hoàn toàn và tiến triển rất chậm. Thường thì bloc này có thể tự hết không cần phải đặt máy kích thích tim. Ngược lại, nếu nhồi máu phía sau có biến chứng nhồi máu thất trái với nhịp xoang chậm hoặc bloc nhĩ- thất, thì chỉ đặt máy kích thích nhĩ-thất tuần tự là có hiệu quả.
  1. Nhồi máu phía trước: dẫn truyền nhĩ – thất chậm xảy ra trong trường hợp nhồi máu cơ tim phía trước bao giờ cũng là dấu hiệu của tổn thương rộng ở vách tim và ở trong hệ thống dẫn truyền nội-tâm thất, bất cứ lúc nào cũng có khả năng dẫn tới bloc nhĩ-thất hoàn toàn. Phải đặt một máy kích thích tim tạm thời ngay khi có những dấu hiệu điện tâm đồ của bloc nhĩ-thất độ 2. Quan niệm kinh điển về tính chất lành tính của bloc nhĩ-thất trong trường hợp nhồi máu cơ tim phía sau và tính chất ác tính của bloc nhĩ-thất trong trường hợp nhồi máu cơ tim phía trước còn là vấn đề tranh cãi. Hình như, dẫn truyền nhĩ-thất chậm thứ phát do mọi trường hợp nhồi máu cơ tim, dù nhồi máu khu trú ở phần nào, cũng đều có thể chuyển thành bloc nhĩ-thất hoàn toàn và nặng, trong những hoàn cảnh dưới đây:

+   Nhồi  máu   cơ tim cấp tính kèm theo biến chứng bloc nhánh trái hoặc nhánh phải mới xuất hiện đồng thời với nhồi máu cơ tim.

+   Nhồi máu cơ tim cấp tính kèm theo biến chứng bloc nhánh luân phiên.

+   Nhồi máu cơ tim cấp tính kèm theo biến chứng bloc nhánh cả hai bên [bloc nhánh phải kết hợp với bloc nửa tim (bloc một bên) trái trước, hoặc bloc nhánh phải kết hợp với bloc nửa tim trái sau].

SUY TIM

– Suy tim nhẹ hoặc trung bình (khó thở, tiếng ngựa phi, ran ở hai đáy phổi, không có sốc):

+ Thuốc lợi tiểu thiazid hoặc furosemid (10-20mg) theo đường tĩnh mạch, phải theo dõi thể tích máu.

+ Liệu pháp oxy qua ống thông đặt trong hốc mũi hoặc chụp mũi với liều lượng 3-4 1/ phút.

+ Thuốc giãn mạch (trinitrin, thuốc ức chế men chuyển). Không nên cho digital ở giai đoạn nhồi máu cơ tim cấp tính, vì lúc này thuốc không có hiệu quả hoặc ít hiệu quả, và có thể gây ra loạn nhịp và rối loạn dẫn truyền). Ngược lại, có thể cho digital trong trường hợp suy tim dai dẳng sau 5-7 ngày.

+ Digital nói chung ít có ích khi điều trị suy tim trong trường hợp nhồi máu cơ tim, trừ trường hợp có loạn nhịp trên thất.

– Suy tim nặng: cách điều trị cũng giống với điều trị sốc tim

Sốc TIM: điều trị cần đến những thuốc co cơ và thuốc giãn mạch mạnh, cần kiểm tra chặt chẽ thể tích máu, đo nồng độ các khí trong máu, cần biết rõ lưu lượng tim bằng những phép đo phức tạp, mà chỉ những trung tâm chuyên sâu mới thực hiện và thuyết minh kết quả được. Tuỳ tình hình, có thể đặt một bóng kháng lực đẩy đưa vào phần đầu của động mạch chủ xuống. Bằng kỹ thuật này, có thể hỗ trợ thêm cho hoạt động tống máu của thất trái trong thì tâm thu, và tăng áp suất cấp máu cho các mạch vành ở thì tâm trương. Những phương pháp hỗ trợ tuần hoàn khác cũng có thể sử dụng (ví dụ bơm trục, bơm ly tâm, V..V…).

VỠ VÁCH LIÊN THẤT: nói chung sẽ hình thành shunt động-tĩnh mạch có lưu lượng lớn, và suy tim sẽ tiến triển nhanh chóng. Tiên lượng thường xấu. Phải cố gắng điều trị cho bệnh nhân qua khỏi cơn hiểm nghèo trong 3-6 tuần, vì trước thời kỳ này thì can thiệp ngoại khoa để đóng chỗ vỡ thường có tỷ lệ tử vong rất cao.

VỠ THÀNH TÂM THẤT: nói chung gây tử vong vì chứng ép tim. Phẫu thuật đóng vết vỡ chỉ có thể thực hiện khi lỗ thủng cực nhỏ và chảy máu rất ít vào ổ màng tim. Tỷ lệ tử vong cao.

RỐI LOẠN CHỨC NĂNG HOẶC ĐỨT GIẬP MỘT CO NHÚ: thể hiện bằng hở van hai lá. Nếu có thể thì đặt một van giả vào 2-3 tuần, sau khi cơ nhú bị đứt giập và kết quả thường tốt.

HỘI CHỨNG DRESSLER: xem hội chứng này.

PHÌNH THÀNH TIM: xem hội chứng này.

ĐAU LOẠN DƯỠNG DO PHẢN XẠ Ở VAI: có thể phòng ngừa bằng cách cho bệnh nhân vận động sớm.

Điều trị ngoại khoa cdn nhồi máu cơ tim

  • Nhồi máu cơ tim cấp tính: phẫu thuật bắc cầu động mạch chủ- vành cấp cứu được chỉ định trong trường hợp nhồi máu cơ tim có sốc mà điều trị nội khoa và kháng-lực đẩy ở động mạch chủ không có kết quả. Tỷ lệ tử vong rất cao, và phần lớn phẫu thuật viên đã bỏ không thực hiện. Phẫu thuật bắc cầu động mạch chủ-vành cấp cứu cũng được thực hiện để điều trị nhồi máu cơ tim do thày thuốc gây ra, khi họ cố gắng tạo hình mạch vành qua lòng mạch.
  • Phẫu thuật bắc cầu động mạch chủ – vành, xem: cơn đau thắt ngực.
  • Những chỉ định khác của phẫu thuật tim trong trường hợp nhồi máu cơ tim: phình thành tim, vỡ thủng vách liên thất, đứt giập cơ nhú.

Tạo hình mạch qua lòng mạch

Xem: cơn đau thắt ngực.

Tái thích nghi tim-mạch (Hồi phục chức năng tim mạch)

THỜI KỲ LẠI SỨC (dưỡng bệnh): kể từ khi xuất viện tới khi lao động lại. Thời kỳ này nói chung dài từ 2 đến 8 tuần.

  • Thử nghiệm (test) gắng sức dưới- tối đa: nhằm đánh giá khả năng thể lực của bệnh nhân, phát hiện những bất thường nếu có (cơn đau thắt ngực, loạn nhịp), định hướng tiên lượng và đảm bảo an toàn cho việc tập luyện thể lực theo chương trình.
  • Tập luyện thể lực: thực hiện trong khuôn khổ được giám sát, có thể mỗi tuần 2-3 buổi, bao gồm khởi động trong 5-10 phút, bài tập hô hấp, thể dục theo nhóm (các động tác mềm dẻo), đi bộ, đạp xe, và lên cầu thang. Trong quá trình tập luyện, không được để cho huyết áp tâm thu tăng lên thêm quá 50 mmHg.

THỜI KỲ DUY TRÌ: thời kỳ này nhằm tái hội nhập bệnh nhân vào môi trường của họ, để họ có thể đối mặt với những yêu cầu lao động và tránh tái phát.

Thời kỳ này kéo dài từ 6 đến 12 tháng, thậm chí suốt đời.

  • Thử nghiệm (test) gắng sức tối đa: dựa trên kết quả của thử nghiệm đo cơ lực này, người ta có thể cho bệnh nhân tăng thêm cường độ luyện tập ở thời kỳ trước.
  • Luyện tập thể lực: chuyển nội dung luyện tập sang đi xe đạp và đi bộ trên các diện tích không bằng phẳng, sang bơi lội, trượt tuyet. Ngược lại, chống chỉ định những môn thể thao có tính thi đấu, tránh những môn: chạy bộ nhanh (jogging), cử tạ, võ judo, và lặn dưới nước.
  • Tự giám sát: ở thời kỳ này, bệnh nhân đảm bảo tự giám sát mức độ gắng sức của mình bằng cách tự xem xét sự xuất hiện những dấu hiệu thở hổn hển, đau ngực, rối loạn nhịp tim, và tự kiểm tra mạch.

TRỞ LẠI LAO ĐỘNG: nói chung khả năng lao động lại có thể đạt tới 100% sau 3 tháng, đối với những bệnh nhân nhồi máu cơ tim không biến chứng, và tuỳ theo bản chất lao động, nếu cần thiết thì làm việc nhẹ hơn trước khi bị nhồi máu. Khoảng 25% số bệnh nhân không lao động lại vì những lý do tâm lý hoặc thể lực: tuổi già, có bệnh đái tháo đường, có bệnh tăng huyết áp động mạch, bệnh xương-khớp, phải đảm bảo kiểm soát cả những yếu tố nguy cơ (như hút thuốc lá, tăng lipid huyết, tăng huyết áp động mạch).

Phòng ngừa tái phát nhồi máu cơ tim

  • Các biện pháp toàn thân: ngừng hút thuốc lá, kiểm soát tăng huyết áp, bệnh đái tháo đường,chứng tăng lipid huyết. Tập luyện thể lực vừa phải.
  • Acid acetylsalicylic:uống từ 100- 250 mg mỗi ngày, coi như một thuốc chống ngưng tụ tiểu cầu (xem phần viết về thuốc này).
  • Thuốc chẹn beta: bắt đầu từ 1-2 tuần sau lúc khởi đầu cơn nhồi máu cơ tim, và trong thời gian ít nhất 18 tháng có thể sử dụng một số thuốc chẹn beta theo đường uống, ví dụ metoprolol (25-100 mg, hai lần mỗi ngày) hoặc timolol (10 mg, hai lần mỗi ngày). Các thuốc này có tác dụng làm giảm tỷ lệ tái phát, và giảm tỷ lệ đột tử. Tuy nhiên, chống chỉ định nếu bệnh nhân mắc bệnh hen, suy tim, nhịp tim chậm.

Thuốc giảm lipid huyết . pravastatin với liều 40 mg/ ngày có thể làm giảm tỷ lệ tai biến mạch vành, kể cả trường hợp không tăng cholesterol huyết.

Viêm thanh quản cấp tính – Nguyên nhân, triệu chứng, điều trị

Viêm thanh quản cấp tính là tình trạng viêm niêm mạc của thanh quản kéo dài dưới 3 tuần. Viêm thanh quản cấp có rất nhiều nguyên nhân và biểu hiện lâm sàng cũng rất khác nhau, tùy theo nguyên nhân, và lứa tuổi bệnh được phân loại: Viêm thanh quản cấp ở trẻ em, Viêm thanh quản cấp ở người lớn nhưng thường hay gặp ở trẻ em nhiều hơn.

NGUYÊN NHÂN

Tác nhân gây bệnh

  • Virus thường gặp là: Influenzae (cúm), APC…
  • Vi khuẩn: pneumoniae (phế cầu), Hemophilus influenzae
  • Trực khuẩn bạch hầu ngày nay ít gặp.

Điều kiện thuận lợi

  • Sau một viêm đường hô hấp: bệnh mũi xoang, bệnh phổi, bệnh họng amiđan, VA ở trẻ em.
  • Bệnh đái tháo đường ở người lớn tuổi.
  • Sử dụng giọng gắng sức: nói nhiều, hét, hát to…
  • Sặc các chất kích thích: bia, rượu.
  • Trào ngược họng, thanh quản.
  • Dị ứng.

CHẨN ĐOÁN

Lâm sàng

  • Triệu chứng toàn thân: phụ thuộc vào nguyên nhân và điều kiện gây bệnh, người bệnh có thể sốt hoặc chỉ gai sốt hoặc ớn lạnh, mệt mỏi …
  • Triệu chứng cơ năng:

Thay đổi giọng nói: khàn tiếng, khóc khàn ở trẻ em, ho khan có thể có đờm nhày, ở người lớn không có khó thở, ở trẻ em có thể có khó thở thanh quản nhất là trong viêm thanh quản phù nề hạ thanh môn.

  • Triệu chứng thực thể:

+ Khám họng: niêm mạc họng đỏ, amiđan có thể sưng.

+ Khám thanh quản bằng gương soi gián tiếp hoặc nội soi thanh quản thấy:

  • Niêm mạc phù nề, đỏ ở vùng thanh môn, tiền đình thanh quản.
  • Dây thanh sung huyết đỏ, phù nề, khép không kín khi phát âm, có xuất tiết nhày ở mép trước dây thanh.

Cận lâm sàng

  • Xét nghiệm công thức máu có thể bạch cầu tăng.
  • Chụp X Quang tim phổi để loại trừ bệnh phế quản phổi kèm theo.

Chẩn đoán xác định

  • Tiền sử phơi nhiễm với các nguyên nhân.
  • Khàn tiếng hoặc khóc khàn, ho khan đột ngột.
  • Khám họng thanh quản: niêm mạc họng, thanh quản và dây thanh sung huyết đỏ.

Phân loại thể lâm sàng

Viêm thanh quản ở trẻ em

  • Viêm thanh quản hạ thanh môn: là bệnh lý gặp chủ yếu ở trẻ nhỏ 1-3 tuổi.

+ Bệnh thường phát hiện về ban đêm trên một trẻ nhỏ đang bị viêm mũi họng thông thường, tiến triển từ từ và đột nhiên xuất hiện khó thở thanh quản. Tiếng ho cứng và ông ổng, giọng nói gần như bình thường nhưng sau đó trở nên trầm và cứng hơn. Sáng dậy trẻ vẫn chơi bình thường. Cơn khó thở kiểu này còn có thể xuất hiện vào tối khác.

+ Chẩn đoán xác định dựa vào bệnh sử, soi thanh quản ống mềm.

  • Viêm thanh quản co thắt hoặc viêm thanh quản giả bạch hầu: Viêm và phù nề khu trú ở vùng hạ họng, co thắt thanh quản gây ra các cơn khó thở thường xảy ra nửa đêm về sáng, cơn khó thở và thở rít, giọng khàn. Ho ông ổng, co kéo cơ hô hấp và các cơ liên sườn. Cơn khó thở có thể đi qua trong nửa giờ nhưng có thể tái diễn cơn khó thở khác. Không sốt, không có dấu hiệu toàn thân khác.
  • Viêm thanh thiệt: thanh thiệt bị sưng nề, bệnh nhân có nuốt đau, khó thở tăng tiết, nhiều nước bọt, cổ ngả về trước, khó thở tăng khi nằm ngửa thường do Hemophilus influenza.
  • Viêm thanh quản bạch hầu: do vi khuẩn Loeffler xâm nhập vào thanh quản gây phù nề và loét có màng giả. Màng giả trắng, dai, dính, bít tắc đường thở gây khó thở thanh quản nặng dần, nói khàn, kèm theo sốc nhiễm độc nội độc tố khiến tiên lượng rất nặng, dễ dẫn tới tử vong.

Viêm thanh quản ở người lớn

Viêm thanh quản do cúm: có thể do cúm đơn thuần hoặc kết hợp với vi khuẩn khác, gây nên các thể bệnh sau:

  • Thể xuất tiết: triệu chứng giống Viêm thanh quản xuất tiết thông thường nhưng bệnh nhân có sốt, mệt mỏi kéo dài. Khám thanh quản đôi khi có điểm xuất huyết dưới niêm mạc, đó là dấu hiệu đặc hiệu của Viêm thanh quản do cúm.
  • Thể phù nề: đó là giai đoạn tiếp theo của xuất tiết, phù nề thường khu trú ở thanh thiệt và mặt sau của sụn phễu. Bệnh nhân nuốt đau và đôi khi có khó thở, tiếng nói ít thay đổi.
  • Thể loét: soi thanh quản sẽ thấy những vết loét nông, bờ đỏ, sụn phễu và sụn thanh thiệt bị phù nề.
  • Thể viêm tấy:

+ Triệu chứng toàn thân nặng, sốt cao, mạch nhanh, mặt hốc hác.

+ Triệu chứng cơ năng rõ rệt: khó nuốt, đau họng, nhói bên tai, giọng khàn đặc hoặc mất hẳn, khó thở thanh quản.

+ Triệu chứng thực thể: vùng trước thanh quản viêm tấy, sưng to, ấn đau. Sau khi hết viêm bệnh để lại di chứng sẹo hẹp thanh quản.

  • Thể hoại tử: màng sụn bị viêm và bị hoại tử, các tổ chức liên kết lỏng lẻo ở cổ bị viêm tấy, cứng, hoặc viêm tấy mủ, thanh quản bị sưng to và có màng giả che phủ. Bệnh nhân khó nói, nuốt đau và khó thở.

Triệu chứng toàn thân rầm rộ. Nhiệt độ cao, mạch nhanh yếu, thở nhanh nông, huyết áp thấp, nước tiểu có Albumin, tiên lượng rất xấu, thường tử vong do phế quản viêm truỵ tim mạch.

Chẩn đoán phân biệt

  • Dị vật thanh quản: tiền sử hội chứng xâm nhập. Soi thanh khí phế quản để chẩn đoán xác định và lấy dị vật.

ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc điều trị

  • Viêm thanh quản không có khó thở

Quan trọng nhất là kiêng nói, tránh lạnh.

Nội khoa: thuốc kháng sinh, giảm viêm, kháng histamin H1, tiêu đờm, giảm

Điều trị tại chỗ bằng các thuốc giảm viêm nhóm corticoid, men tiêu viêm, tinh dầu.

Nâng cao sức đề kháng, bổ sung dinh dưỡng, điện giải.

  • Viêm thanh quản có khó thở

Khó thở thanh quản độ I: điều trị nội khoa.

Khó thở thanh quản độ II: mở khí quản cấp cứu.

Khó thở thanh quản độ III: mở khí quản cấp cứu kết hợp hồi sức tích cực.

Điều trị cụ thể

  • Kháng sinh

Nhóm beta lactam: Amoxicilin, cephalexin, các cephalosporin thế hệ 1,2 như: cefadroxyl, cefaclor, cefuroxime, các thuốc kháng men betalactamse: acid clavulanic, ..

Nhóm macrolide: azithromycin, roxithromycin,

  • Kháng viêm

Chống viêm steroid: prednisolon, methylprednisolon, dexamethasone.

Chống viêm dạng men: alpha chymotrypsin,

  • Điều trị tại chỗ

Khí dung, bơm thuốc thanh quản bằng các hỗn dịch kháng viêm corticoid (hydrococtison, dexamethason…), kháng viêm dạng men (alpha ..), kháng sinh (gentamycin…).

Xúc họng bằng các dung dịch sát khuẩn, giảm viêm tại chỗ: BBM.

  • Hạ sốt, giảm đau

Truyền dịch, paracetamol, aspirin…

  • Nâng đỡ cơ thể

Bổ sung yếu tố vi lượng, sinh tố, vitamin, dinh dưỡng…

TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG

Viêm thanh quản cấp ở người lớn không gây ra các tình trạng nguy hiểm có khả năng hồi phục tốt, nhưng ở trẻ em phải theo dõi sát vì dễ gây khó thở thanh quản, có thể ảnh hưởng đến sinh mạng.

Viêm thanh quản cấp có thể tiến triển thành viêm phế quản, viêm phổi nhưng hiếm gặp.

PHÒNG BỆNH

  • Giữ ấm cho trẻ em về mùa lạnh, tránh lạm dụng giọng quá sức ở người lớn.
  • Tránh tiếp xúc trực tiếp với người đang bị viêm đường hô hấp trên, cúm.
  • Khi phát hiện viêm thanh quản cấp ở trẻ em cần theo dõi sát để phòng tiến triển xấu.

Giãn Não Thất Áp Lực Bình Thường (Normal Pressure Hydrocephalus)

Giãn Não Thất Áp Lực Bình Thường là gì?

Giãn não thất áp lực bình thường (NPH) là một tình trạng xảy ra khi có quá nhiều một loại dịch nhất định trong một số khu vực của não.

Não và tủy sống của bạn được bao quanh bởi một chất lỏng trong suốt gọi là dịch não tủy (CSF). Dịch này được sản xuất và lưu trữ trong các khoang của não gọi là não thất. Nó lưu thông xung quanh não, di chuyển từ não thất này sang não thất khác. Dịch này giúp đệm và bảo vệ não và tủy sống, cung cấp dinh dưỡng cho chúng và loại bỏ một số sản phẩm thải. Dịch thừa thường được dẫn lưu ra khỏi não và được hấp thụ bởi các tĩnh mạch ở trên não.

Thủy não xảy ra khi hệ thống tự nhiên để dẫn lưu và hấp thụ dịch CSF thừa không hoạt động đúng cách. Não thất nở ra để chứa dịch thừa và sau đó ép lên các phần khác nhau của não, gây ra nhiều triệu chứng khác nhau. Thủy não có nhiều nguyên nhân khác nhau. Một số người sinh ra đã mắc phải tình trạng này, trong khi những người khác phát triển nó trong suốt cuộc đời của họ.

Giãn não thất áp lực bình thường (NPH) là một loại thủy não thường xảy ra ở người lớn tuổi. Tuổi trung bình của một người mắc NPH là trên 60. NPH khác với các loại thủy não khác ở chỗ nó phát triển chậm theo thời gian. Có sự tích tụ bất thường của CSF theo thời gian và quá trình dẫn lưu bị chặn dần. Dịch thừa tích tụ từ từ. Nó làm cho não thất nở ra từ từ và áp lực dịch trong não có thể không cao như ở các loại thủy não khác. Tuy nhiên, các não thất nở ra vẫn ép lên não và có thể gây ra triệu chứng (thuật ngữ “áp lực bình thường” có phần gây hiểu lầm).

Các phần của não thường bị ảnh hưởng trong NPH là những phần điều khiển chân, bàng quang, và các quá trình tinh thần “cognitive” như trí nhớ, lý luận, giải quyết vấn đề và nói. Sự suy giảm trong các quá trình tinh thần này, nếu đủ nghiêm trọng để can thiệp vào các hoạt động hàng ngày, được gọi là sa sút trí tuệ. Các triệu chứng khác bao gồm đi lại bất thường (khó khăn trong việc đi bộ), không thể giữ nước tiểu (tiểu không kiểm soát), và đôi khi không thể kiểm soát đại tiện.

Các triệu chứng sa sút trí tuệ của NPH có thể tương tự như các triệu chứng của bệnh Alzheimer. Các vấn đề đi lại giống như ở bệnh Parkinson. Các chuyên gia cho rằng nhiều trường hợp NPH bị chẩn đoán nhầm là một trong những bệnh này. Khác với bệnh Alzheimer và Parkinson, NPH có thể đảo ngược ở nhiều người nếu được điều trị thích hợp. Nhưng trước tiên, nó phải được chẩn đoán chính xác.

Nguyên nhân của Giãn Não Thất Áp Lực Bình Thường

Trong hầu hết các trường hợp, nguyên nhân của NPH không rõ ràng, nhưng một số điều có thể dẫn đến nó, bao gồm:

  • Chấn thương đầu
  • Chảy máu quanh não (do va chạm vào đầu)
  • Đột quỵ
  • Viêm màng não (nhiễm trùng lớp bảo vệ xung quanh não)
  • Khối u não
  • Phẫu thuật não

Cách mà những tình trạng này dẫn đến NPH vẫn chưa được rõ ràng.

Triệu chứng của Giãn Não Thất Áp Lực Bình Thường

Lúc đầu, các triệu chứng của giãn não thất áp lực bình thường thường rất tinh tế. Chúng xấu đi rất từ từ.

Các triệu chứng của sa sút trí tuệ bao gồm:

  • Mất trí nhớ
  • Vấn đề về lời nói
  • Thờ ơ (không quan tâm) và rút lui
  • Thay đổi hành vi hoặc tâm trạng
  • Khó khăn trong việc lý luận, chú ý hoặc phán đoán
  • Các vấn đề về đi lại
  • Không vững vàng
  • Yếu chân
  • Ngã đột ngột
  • Bước đi lùi
  • Khó khăn trong việc thực hiện bước đầu tiên, như thể chân bị dính vào sàn
  • “Bị kẹt” hoặc “đóng băng” khi đi bộ

Triệu chứng tiểu tiện

  • Không thể giữ nước tiểu
  • Không thể giữ phân (ít phổ biến hơn)
  • Đi tiểu thường xuyên
  • Cảm giác khẩn cấp khi tiểu tiện

Các triệu chứng sau có thể liên quan đến áp lực tăng trong não:

  • Đau đầu
  • Buồn nôn
  • Khó khăn trong việc tập trung mắt

Một số người nghĩ rằng mất trí nhớ, khó khăn trong việc tìm từ, vấn đề đi lại hoặc vấn đề tiểu tiện là các phần bình thường của quá trình lão hóa. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, đây là triệu chứng của các tình trạng có thể điều trị. Bất kỳ vấn đề nào trong số này, hoặc sự thay đổi trong tâm trạng hoặc hành vi, đều đáng để bạn đến gặp nhà cung cấp dịch vụ y tế của mình.

Chẩn đoán Giãn Não Thất Áp Lực Bình Thường

Các triệu chứng của giãn não thất áp lực bình thường cũng có thể xảy ra ở những người mắc bệnh Alzheimer và Parkinson. Tuy nhiên, sự kết hợp của các triệu chứng giống như sa sút trí tuệ, vấn đề đi lại và vấn đề tiểu tiện nên cảnh báo nhà cung cấp dịch vụ y tế của bạn về khả năng NPH. Việc phân biệt này rất quan trọng vì các phương pháp điều trị cho những tình trạng này là khác nhau. Không có xét nghiệm nào có thể cho biết bạn có NPH hay không, nhưng các loại xét nghiệm khác có thể chẩn đoán NPH.

Tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình này, nhà cung cấp dịch vụ y tế của bạn có thể giới thiệu bạn đến một chuyên gia về các rối loạn não (bác sĩ thần kinh hoặc bác sĩ phẫu thuật thần kinh) để hoàn thành việc đánh giá và bắt đầu điều trị.

Việc đánh giá bắt đầu với một cuộc phỏng vấn y tế, khi bác sĩ sẽ hỏi về:

  • Các triệu chứng của bạn và khi nào chúng bắt đầu
  • Các vấn đề y tế và tinh thần của bạn bây giờ và trong quá khứ
  • Các vấn đề y tế của gia đình bạn
  • Các loại thuốc bạn đã sử dụng bây giờ và trong quá khứ
  • Kinh nghiệm làm việc và đi lại của bạn
  • Thói quen và lối sống của bạn

Chẩn đoán Giãn Não Thất Áp Lực Bình Thường

Sau đó, họ sẽ thực hiện một cuộc kiểm tra thể chất chi tiết để ghi lại tình trạng của bạn và loại trừ các rối loạn khác có thể gây ra các triệu chứng tương tự. Cuộc kiểm tra sẽ có thể bao gồm:

  • Các bài kiểm tra tình trạng tinh thần của bạn, như trả lời câu hỏi và làm theo chỉ dẫn đơn giản
  • Kiểm tra tâm lý học để ghi lại các triệu chứng sa sút trí tuệ của bạn. Đây là phương pháp chính xác nhất để xác định và ghi lại các vấn đề và điểm mạnh nhận thức của một người.
  • Các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm để loại trừ các tình trạng có thể gây ra các triệu chứng tương tự

Bác sĩ của bạn cũng có thể đề xuất một số xét nghiệm hoặc thủ tục khác:

  • Chụp CT đầu: Xét nghiệm này tương tự như X-quang nhưng cho hình ảnh 3 chiều chi tiết hơn về não. Nó không thể xác nhận chẩn đoán NPH, nhưng có thể cho thấy sự nở rộng của não thất hoặc các thay đổi khác gợi ý NPH. Các kỹ thuật mới có thể đo lường dòng chảy của CSF trong não. Những phát hiện này một mình có thể không đủ để chẩn đoán. Xét nghiệm này là an toàn và không đau.
  • Chụp MRI đầu: Xét nghiệm này sử dụng tín hiệu radio và nam châm mạnh để tạo ra hình ảnh chi tiết về não. Nó an toàn và không đau, giống như chụp CT, nhưng mất nhiều thời gian hơn (khoảng 30 phút). Nó cũng không thể xác nhận chẩn đoán NPH.
  • Chụp cisternography: Xét nghiệm này phức tạp hơn so với CT hoặc MRI và không được sử dụng rộng rãi. Nó làm nổi bật sự hấp thụ của CSF.
  • Chọc dò thắt lưng (spinal tap): Thủ tục này bao gồm đo áp lực CSF và lấy một số dịch từ khu vực xung quanh tủy sống ở lưng dưới để phân tích các bất thường có thể cho biết nguyên nhân vấn đề.

Với chọc dò thắt lưng, bác sĩ của bạn có thể lấy nhiều dịch hơn mức cần thiết vì điều đó đôi khi có thể giúp giảm triệu chứng (điều này được kiểm tra bằng cách so sánh kết quả kiểm tra trước và sau).

Nếu triệu chứng giảm, thường thì đó chỉ là tạm thời; sự cải thiện triệu chứng với chọc dò thắt lưng thường được diễn giải là có nghĩa là một shunt phẫu thuật sẽ hữu ích cho người đó.

Điều trị và Chăm sóc tại Nhà cho Giãn Não Thất Áp Lực Bình Thường

Giãn não thất áp lực bình thường đôi khi có thể được quản lý hoặc thậm chí đảo ngược thông qua phẫu thuật. Đối với những người không phải là ứng viên phẫu thuật, việc điều trị bao gồm các biện pháp để giảm bớt các vấn đề về tâm trạng và hành vi, đối phó với các vấn đề thể chất như tiểu không kiểm soát và khó khăn trong việc đi lại, và tối đa hóa chức năng thể chất, tinh thần và xã hội.

Phẫu Thuật cho Giãn Não Thất Áp Lực Bình Thường

Giãn não thất áp lực bình thường không do bất kỳ bất thường cấu trúc nào gây ra. Trong hầu hết các trường hợp, vấn đề cơ bản không rõ nguyên nhân hoặc không thể điều trị. Phương pháp điều trị trong những trường hợp này là phẫu thuật tạo shunt.

Shunt là một ống mỏng được cấy ghép vào não bởi một bác sĩ phẫu thuật thần kinh. Nó được đặt vào trong các não thất để dẫn lưu dịch não tủy (CSF) thừa ra khỏi não. Ống này được dẫn dưới da từ đầu đến một phần khác của cơ thể, thường là ổ bụng (bụng dưới). Shunt được trang bị một van mở ra để giải phóng dịch khi áp lực tăng lên. Dịch được dẫn lưu ra ngoài một cách vô hại và sau đó được cơ thể hấp thụ vào dòng máu. Đôi khi, cần điều chỉnh cài đặt áp lực trên van. Các shunt mới hơn cho phép điều chỉnh mà không cần phẫu thuật thêm.

Phẫu thuật shunt không phải là một phương pháp chữa trị. Nó không điều trị nguyên nhân cơ bản của NPH. Tuy nhiên, nó có thể làm giảm triệu chứng. Shunt sẽ ở lại vị trí vô thời hạn. Nếu được cấy ghép đúng cách, shunt thường không rõ ràng đối với người khác.

Phẫu thuật shunt không hiệu quả cho tất cả mọi người bị NPH. Nhiều người trải qua phẫu thuật shunt có được sự giảm triệu chứng đáng kể. Ở một số người, triệu chứng cải thiện rồi lại bắt đầu xấu đi. Những người khác thì ít được hưởng lợi, nếu có. Ngay cả các chuyên gia cũng không thể dự đoán chính xác ai sẽ được hưởng lợi và ai sẽ không. Nhiều bác sĩ phẫu thuật thực hiện một cuộc chọc dò thắt lưng trước khi phẫu thuật để kiểm tra xem triệu chứng có cải thiện khi loại bỏ dịch hay không. Trong một số trường hợp, người bệnh sẽ được nhập viện vài ngày trong khi dịch được dẫn lưu từ từ qua một ống nhỏ gọi là catheter. Đây là một cách khác để kiểm tra xem việc loại bỏ dịch thừa có giúp giảm triệu chứng hay không.

Càng phát hiện sớm NPH, cơ hội phẫu thuật giúp ích càng cao. Nói chung, những người có triệu chứng nhẹ hơn có kết quả tốt hơn với phẫu thuật này. Giống như bất kỳ phẫu thuật nào, phẫu thuật shunt có thể gây ra các biến chứng. Những biến chứng như nhiễm trùng shunt và cục máu đông quanh não. Bác sĩ thần kinh hoặc bác sĩ phẫu thuật thần kinh của bạn sẽ thảo luận về lợi ích và rủi ro của phẫu thuật này và liệu nó có thể có lợi cho bạn hay không.

Một phẫu thuật khác đôi khi được sử dụng thay thế cho việc đặt shunt. Trong phương pháp nội soi mở não thất ba, một ống nội soi (ống mỏng có camera chiếu sáng ở đầu) được sử dụng để tạo một lỗ nhỏ trong đáy của não thất. Lỗ này cung cấp một cách khác để CSF thoát ra khỏi não.

Chăm Sóc Người Bị Giãn Não Thất Áp Lực Bình Thường

Một cá nhân bị giãn não thất áp lực bình thường luôn nên được theo dõi bởi một chuyên gia y tế. Tuy nhiên, phần lớn việc chăm sóc hàng ngày được thực hiện bởi gia đình và những người chăm sóc. Chăm sóc y tế nên tập trung vào việc tối ưu hóa sức khỏe, an toàn và chất lượng cuộc sống của cá nhân, đồng thời giúp các thành viên gia đình đối phó với nhiều thách thức khi chăm sóc một người thân bị sa sút trí tuệ và các triệu chứng khác của NPH.

Mức độ chăm sóc cần thiết cho những người bị NPH thay đổi đáng kể. Những người trải qua phẫu thuật shunt thành công có thể tiếp tục sống một cuộc sống độc lập bình thường hoặc gần như bình thường. Những người khác sẽ thấy triệu chứng của họ xấu đi theo thời gian. Nhiều cá nhân trong số này cuối cùng sẽ cần sự giám sát và chăm sóc chặt chẽ. Bác sĩ thần kinh hoặc bác sĩ phẫu thuật thần kinh của bạn nên thảo luận với bạn và gia đình về những điều cần mong đợi khi thời gian trôi qua.

Điều quan trọng là biết rằng không có thuốc hay phương pháp điều trị y tế nào được biết đến là có hiệu quả trong NPH.

Phòng Ngừa Giãn Não Thất Áp Lực Bình Thường

Không có cách nào được biết đến để ngăn ngừa NPH. Một lối sống lành mạnh, bao gồm không hút thuốc, duy trì cân nặng khỏe mạnh và tập thể dục thường xuyên, có thể giúp tránh các tình trạng như huyết áp cao, bệnh tim, tiểu đường và đột quỵ có thể góp phần vào NPH. Đeo dây an toàn và mũ bảo hiểm khi cần thiết có thể giúp tránh chấn thương đầu, một nguyên nhân khác gây ra NPH.

Triển Vọng về Giãn Não Thất Áp Lực Bình Thường

NPH là một tình trạng tiến triển, có nghĩa là các triệu chứng dần dần xấu đi nếu không được điều trị. Nói chung, triển vọng phụ thuộc vào nguyên nhân của thủy não và liệu bạn có phải là ứng viên cho phẫu thuật hay không. Một số người cải thiện đáng kể sau phẫu thuật, trong khi những người khác thì không. Một số người không đủ điều kiện phẫu thuật. Những người không đủ điều kiện phẫu thuật có rất ít tùy chọn điều trị.

Nếu bạn bị NPH, bạn nên thường xuyên thăm khám với bác sĩ thần kinh hoặc bác sĩ phẫu thuật thần kinh của mình. Những cuộc hẹn này cho phép bác sĩ theo dõi triệu chứng của bạn. Thay đổi trong triệu chứng có thể yêu cầu điều chỉnh trong việc chăm sóc.

Hỗ Trợ cho Người Bị Giãn Não Thất Áp Lực Bình Thường

Việc đối phó với các triệu chứng của NPH có thể khó khăn cho cả bạn và các thành viên trong gia đình. Tình trạng này ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của cuộc sống bạn, bao gồm các mối quan hệ gia đình, công việc, tình trạng tài chính, đời sống xã hội và sức khỏe thể chất cũng như tinh thần. Bạn có thể cảm thấy choáng ngợp, trầm cảm, thất vọng, tức giận hoặc hậm hực. Những cảm xúc này không giúp tình hình và thường làm cho nó trở nên tồi tệ hơn.

Đó là lý do tại sao các nhóm hỗ trợ được tạo ra. Các nhóm hỗ trợ là những nhóm người đang trải qua những điều tương tự và muốn giúp bản thân cũng như người khác bằng cách chia sẻ các chiến lược đối phó.

Các nhóm hỗ trợ gặp mặt trực tiếp, qua điện thoại hoặc trên internet. Để tìm một nhóm hỗ trợ phù hợp với bạn, hãy liên hệ với các tổ chức được liệt kê dưới đây. Bạn cũng có thể hỏi nhà cung cấp dịch vụ y tế hoặc nhà trị liệu hành vi của bạn, hoặc tìm kiếm trên internet. Nếu bạn không có quyền truy cập internet, hãy đến thư viện công cộng.

Bệnh vàng da vàng mắt do viêm gan nên ăn gì

Triệu chứng:

Da và mắt bị vàng phần lớn là do chức năng của gan bị tổn thương. Vàng mắt vàng da là biểu hiện của viêm gan hay nói cách khác viêm gan sẽ dẫn đến vàng mắt vàng da. Sau đây giới thiệu các món ăn có tác dụng tốt cho người viêm gan có triệu chứng vàng mắt vàng da.

Món 1: MÓN THỊT LƯƠN

Nguyên liệu:

  • 02 con lươn dài khoảng 0,5 mét (không dùng lươn chết)
  • gạo tẻ 500gr.

    Lươn tươi ngon
    Lươn tươi ngon

Cách chế biến:

Gạo vo sạch nấu cơm. Lươn làm sạch nhớt nhưng không mổ bụng. Chờ đến khi cơm vừa cạn thì chặt khúc lươn ra cho vào nồi, đậy nắp chặt lại. Khi cơm chín thì thịt lươn cũng dùng được. Khi ăn có thể thêm gia vị vào.

Cách ăn: Ăn trong bữa chính.

Công hiệu: Giảm vàng da, lợi tiêu hóa.

Món 2: CANH RAU CAN NÂU TÁO ĐỎ

Nguyên liệu:

350gr rau cần

100gr táo đỏ.

Cách chế biến:

Rau cần rửa sạch cắt khúc. Táo đỏ rửa sạch bụi. Cả hai bỏ chung vào nồi, đổ nước vừa đủ. Nấu cho đến khi táo chín mềm.

Cách ăn: Uống canh ăn táo.

Công hiệu: Hòa trung, dưỡng huyết.

Món 3: CHÁO TRỨNG GÀ NẤU SƠN DƯỢC

Nguyên liệu:

50gr sơn dược

2 quả trứng gà

150gr gạo.

Vị thuốc Hoài sơn
Vị thuốc Hoài sơn

Cách chế biến:

Đập trứng, chỉ lấy lòng đỏ rồi dùng đũa đánh đều trứng lên. Sơn dược rửa sạch xắt miếng mỏng. Gạo vo sạch rồi cho vào nồi chung với sơn dược. Khi cháo chín trước khi nhắc xuống nhớ cho trứng vào.

Cách ăn: Ăn trong bữa chính.

Món 4: CANH THỊT HEO, NẤM HƯƠNG

Nguyên liệu:

Nấm hương 100gr

Thịt heo 100gr.

Cách chế biến:

Nấu chung thịt và nấm cho đến khi chín nhừ rồi cho gia vị vào trước khi nhắc xuống dùng.

Cách ăn: Ăn chung với cơm.

Công hiệu: ích khí hòa huyết.

Chú ý: Các món ăn cho bệnh nhân phải bổ, mềm và hạn chế tối đa các chất kích thích.

các huyết thanh dị biệt

Kháng độc tố bạch hầu

Huyết thanh kháng bạch hầu Pasteur ®

Dung dịch vô trùng và đậm đặc của kháng độc tố, chế tạo từ huyết thanh ngựa đã cường miễn dịch với độc tố bạch hầu, được dùng để chữa bệnh bạch hầu (miễn dịch thụ động).

Chỉ định và liều dùng

Điều trị bệnh bạch hầu: cho dùng rất sớm, dựa vào chẩn đoán lâm sàng, không chờ kết quả xét nghiệm.

Tuỳ theo mức độ bệnh, cho ở người lớn và trẻ em dùng 20000 hay 100000UI tiêm bắp hay dưới da, tất nhiên là chia làm nhiều lần cách nhau nhưng chỉ trong 1 ngày.

Phối hợp gây miễn dịch tích cực bằng tiêm nội độc tố tại một điểm khác trên cơ thể (nhắc lại 2 lần cách nhau 5 ngày).

Dự phòng bệnh bạch hầu: ở những người phơi nhiễm hay không được tiêm chủng, cho tiêm bắp 1.000 — 10.000UI; phối hợp với nội độc tố (để chi tiết hơn xem mục vaccin kháng bạch hầu).

Thận trọng: khi cho dùng phải thử mẫn cảm và nếu thử nghiệm dương tính, phải tiến hành giải mẫn cảm bằng phương pháp Besredka: tiêm cách 15 phút các liều tăng dần (0,10ml rồi 0,25ml và phần còn lại của liều hữu hiệu) phải điều trị ngay khi có các phản ứng dị ứng. Phải luôn có sẵn adrenalin 1/1000 để tiêm ngay khi bị sốc phản vệ.

Tác dụng phụ: sốc phản vệ, bệnh huyết thanh (trong 7-12 ngày).

Kháng độc tố uốn ván

Huyết thanh kháng uốn ván Pasteur ®

Dung dịch vô trùng và đậm đặc của kháng độc tố ngựa, trước đây được dùng để điều trị uốn ván (miễn dịch thụ động) và hiện được thay thế bằng globulin miễn dịch kháng uốn ván.

Chỉ định: dự phòng bệnh uốn ván khi có vết thương ở người chưa được hay đã được tiêm phòng nhưng không hiệu quả; tiêm dưới da 1.500UI (luôn phối hợp với vaccin kháng uốn ván).

Thận trọng: phải thử mẫn cảm trước khi dùng và nếu thử nghiệm dương tính, người ta phải tiến hành giải mẫn cảm bằng phương pháp Besredka: tiêm cách 15 phút các liều tăng dần (0,10ml rồi 0,25ml và phần còn lại là của liều hữu hiệu) phải điều trị ngay khi có các phản ứng dị ứng. Phải luôn có sẵn adrenalin 1/1000 để tiêm ngay khi bị sốc phản vệ.

Tác dụng phụ: sốc phản vệ, bệnh huyết thanh (trong 7-12 ngày).

Huyết thanh chống nọc độc

Huyết thanh ngựa

Ipser ® Europe Pasteus (Aspis-

Berus-Ammodytes).

Huyết thanh kháng nọc độc

Pasteur ® (Bitis Echis Naja).

Huyết thanh kháng nọc độc

Pasteur ® (Dendroaspis).

Các huyết thanh chế tạo từ ngựa đã gây cường miễn dịch. Tuỳ từng nước mà dùng nhiều loại huyết thanh bị diệt, đơn tác dụng hay đa tác dụng, chống lại các vết cắn của các loại rắn độc của mỗi nước; khi bị vết cắn của rắn lục ở Pháp hay châu Au, việc dùng huyết thanh kháng nọc độc còn mâu thuẫn do hiệu quả và nguy cơ các phản ứng dị ứng nặng: ngược lại, huyết thanh luôn được khuyên dùng khi bị vết cắn của các con rắn lạ do nọc của chúng độc với tim và thần kinh. Trong các hình thái nặng, nhập viện cấp cứu và các biện pháp hồi sức là thiết yếu.

Liều dùng: khi bị rắn cắn có phù tại chỗ lan toả nhanh và các dấu hiệu truy mạch, một số tác giả khuyên tiêm càng nhanh càng tốt sau khi bị cắn 2,5ml chia làm nhiều điểm xung quanh vết cắn, tiêm dưới da và 2,5ml vào gốc chi bị cắn bằng đường tiêm bắp thịt.

Thận trọng giải mẫn cảm nhanh theo phương pháp Besredka: tiêm cách 15 phút các liều huyết thanh tăng dần (0,10ml rồi 0,25ml và phần còn lại của liều hữu ích) phải điều trị ngay khi có biểu hiện dị ứng. Phải luôn có sẵn adrenalin 1/1000 để tiêm ngay bị sốc phản vệ.

Tức thời: sốc phản vệ.

Chậm: bệnh huyết thanh trong 7 đến 12 ngày.

Bảo quản: từ + 2°c đến 8°c trong tủ lạnh.

Chất kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans

Tên Generic: Candida albicans skin test antigen

Tên Thương Mại: Candin

Nhóm Thuốc: Thuốc chống nấm, Echinocandin

Candida albicans skin test antigen là gì và được sử dụng để làm gì?

Candida albicans skin test antigen là một sản phẩm được sử dụng để xác định xem một người có phản ứng miễn dịch bình thường đối với các tác nhân gây dị ứng và các chất (kháng nguyên) kích thích hệ miễn dịch sản xuất kháng thể hay không. Một phản ứng dương tính với xét nghiệm da Candida albicans cho thấy đáp ứng miễn dịch tế bào (CMI) của cá nhân đó là bình thường. Nhiều bệnh tật và rối loạn miễn dịch có thể làm thay đổi đáp ứng miễn dịch tế bào của cơ thể.

Candida albicans là một loại nấm (men) sống trên cơ thể người, nhưng sự phát triển quá mức của C. albicans có thể gây nhiễm trùng. Candida albicans skin test antigen được chế tạo từ dịch lọc nuôi cấy và tế bào của hai chủng C. albicans. Khi kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans được tiêm vào da, nó thường gây ra hiện tượng cứng mô (induration) có kích thước bằng đồng xu hoặc khoảng đồng xu, bắt đầu xuất hiện trong vòng 24 giờ và đạt đỉnh điểm từ 24 đến 48 giờ.

Xét nghiệm da Candida albicans thường được sử dụng như một xét nghiệm kiểm soát đối với bệnh lao ở bệnh nhân có kết quả xét nghiệm da tuberculin âm tính, nhằm loại trừ khả năng không có phản ứng miễn dịch (suy giảm miễn dịch) đối với tuberculin. Xét nghiệm da Candida albicans sẽ tạo ra phản ứng quá mẫn loại chậm (DTH) ở những người khỏe mạnh, nhưng đáp ứng miễn dịch có thể bị thay đổi ở những người mắc các rối loạn như suy giảm miễn dịch bẩm sinh, suy giảm miễn dịch mắc phải, ung thư, suy dinh dưỡng, và các bệnh do virus và nấm.

Một số người có miễn dịch tế bào bình thường có thể không có phản ứng quá mẫn với C. albicans, do đó có thể không có phản ứng dương tính với xét nghiệm da Candida albicans. Việc sử dụng đồng thời các kháng nguyên xét nghiệm quá mẫn tế bào khác có giấy phép được khuyến cáo đối với những cá nhân này. Kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans không nên được sử dụng để chẩn đoán hoặc điều trị dị ứng loại 1 với Candida albicans.

Cảnh báo

  • Không tiêm kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans cho những người đã có phản ứng quá mẫn hoặc dị ứng nghiêm trọng với kháng nguyên C. albicans hoặc với sản phẩm tương tự khác.
  • Không sử dụng kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans để chẩn đoán hoặc điều trị dị ứng loại 1 với Candida albicans.
  • Sử dụng xi lanh và kim tiêm vô trùng riêng biệt cho mỗi bệnh nhân để tránh lây truyền các tác nhân gây bệnh. Vứt bỏ kim tiêm đúng cách và không tái sử dụng.
  • Tiêm kháng nguyên vào da càng nông càng tốt. Tiêm vào mô dưới da (dưới da) có thể gây ra kết quả không đáng tin cậy. Không tiêm vào tĩnh mạch và cần đặc biệt chú ý để tránh tiêm vào mạch máu.
  • Xét nghiệm da Candida albicans có thể gây ra các phản ứng nghiêm trọng và đôi khi đe dọa tính mạng đối với một số người. Tiêm kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans trong môi trường lâm sàng nơi có đầy đủ các cơ sở vật chất, thuốc men (bao gồm epinephrine và oxy) và nhân viên được đào tạo sẵn sàng xử lý các phản ứng hệ thống nghiêm trọng nếu có.
  • Một số bệnh nhân có thể có phản ứng quá mẫn tức thì và những người có xu hướng chảy máu có thể bị bầm tím và phù nề không đặc hiệu do chấn thương trong quá trình xét nghiệm da. Các phản ứng dị ứng tại chỗ và toàn thân có thể xảy ra.

Các tác dụng phụ của kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans là gì?

Các tác dụng phụ thường gặp của kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans bao gồm:

Phản ứng tại chỗ:

  • Sưng
  • Đỏ (erythema)
  • Ngứa (pruritus)
  • Phồng rộp (vesiculation)
  • Mụn nước lớn chứa đầy dịch (bullae)
  • Phát ban
  • Lột da (exfoliation)
  • Viêm mô tế bào

Phản ứng toàn thân:

  • Hắt hơi
  • Ho
  • Ngứa
  • Chuột rút bụng
  • Nôn
  • Tiêu chảy
  • Phản ứng dị ứng nghiêm trọng (sốc phản vệ)
  • Khó thở
  • Huyết áp thấp (hạ huyết áp)
  • Nhịp tim nhanh (tachycardia)
  • Suy hô hấp

Hãy gọi bác sĩ ngay lập tức nếu bạn gặp bất kỳ triệu chứng nào dưới đây hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng khi sử dụng thuốc:

  • Các triệu chứng tim nghiêm trọng bao gồm nhịp tim nhanh hoặc mạnh, cảm giác tim đập mạnh, chóng mặt đột ngột, khó thở;
  • Đau đầu nặng, bối rối, nói ngọng, yếu cơ nghiêm trọng, nôn mửa, mất phối hợp, cảm giác không vững;
  • Phản ứng nghiêm trọng ở hệ thần kinh với cơ cứng rất mạnh, sốt cao, đổ mồ hôi, bối rối, nhịp tim nhanh hoặc không đều, run rẩy, và cảm giác như có thể ngất xỉu;
  • Các triệu chứng mắt nghiêm trọng bao gồm mờ mắt, nhìn hầm hố, đau mắt hoặc sưng mắt, hoặc nhìn thấy quầng sáng xung quanh ánh sáng.

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ hoặc phản ứng bất lợi có thể xảy ra từ việc sử dụng thuốc này. Hãy gọi bác sĩ để được tư vấn về tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc các phản ứng bất lợi. Bạn cũng có thể báo cáo các tác dụng phụ hoặc vấn đề sức khỏe cho FDA qua số điện thoại 1-800-FDA-1088.

Liều lượng của kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans là gì?

Dung dịch tiêm dưới da

Candin

1 mL lọ đa liều
Người lớn:

  • Phản ứng miễn dịch tế bào với Candida albicans

Chỉ định sử dụng như một kháng nguyên hồi phục để phát hiện phản ứng quá mẫn tế bào bằng phương pháp xét nghiệm dưới da (intradermal).
Sản phẩm này nhằm tạo ra phản ứng cứng mô (induration) 5 mm hoặc lớn hơn ở những người có khả năng miễn dịch tế bào bình thường và có phản ứng quá mẫn với kháng nguyên.

Cách sử dụng:

  • Tiêm dưới da trên mặt trong cẳng tay hoặc trên mặt ngoài của cánh tay.
  • Liều thử nghiệm là 0.1 mL.
  • Da nên được làm sạch bằng cồn 70% trước khi tiến hành xét nghiệm.
  • Tiêm dưới da phải được thực hiện càng nông càng tốt để tạo ra một mụn nước rõ ràng và sắc nét.
  • Phản ứng không đáng tin có thể xảy ra nếu sản phẩm được tiêm dưới da sâu.

Phản ứng quá liều:

Quá liều kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans hoặc tiêm tĩnh mạch ngoài ý muốn có thể gây ra phản ứng dị ứng nghiêm trọng (sốc phản vệ). Quá liều có thể được điều trị bằng epinephrine và các loại thuốc khác cũng như oxy nếu cần.

Tương tác thuốc với kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans:

Hãy thông báo cho bác sĩ về tất cả các loại thuốc bạn đang sử dụng, để bác sĩ có thể tư vấn về bất kỳ tương tác thuốc có thể xảy ra. Tuyệt đối không bắt đầu sử dụng, ngừng đột ngột, hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự chỉ định của bác sĩ.

Kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans có thể tương tác với:

  • Các thuốc corticosteroid và thuốc ức chế miễn dịch
  • Các thuốc chẹn beta

Các tương tác thuốc trên đây không phải là tất cả các tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về các tương tác thuốc, vui lòng truy cập vào RxList Drug Interaction Checker.

Mang thai và cho con bú

Chưa có nghiên cứu sinh sản trên động vật và chưa biết liệu kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans có thể gây hại cho thai nhi nếu tiêm cho phụ nữ mang thai hoặc có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản không.

Kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans chỉ nên sử dụng trong thai kỳ nếu thực sự cần thiết.

Chưa biết liệu kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans có tiết ra trong sữa mẹ hay không. Cần thận trọng khi sử dụng kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans cho các bà mẹ đang cho con bú vì nhiều thuốc có thể tiết vào sữa mẹ.

Thông tin khác về kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans:

Xét nghiệm da Candida albicans có thể gây ra các phản ứng tại chỗ như đỏ, ngứa, sưng và đổi màu, những triệu chứng này thường sẽ tự hết sau vài ngày. Nếu các phản ứng này kéo dài hoặc trở nên tồi tệ hơn, hoặc nếu bạn phát triển các phản ứng toàn thân, hãy báo cáo cho bác sĩ.

Tóm tắt:

Kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans là một sản phẩm được sử dụng để xác định xem một người có phản ứng miễn dịch bình thường đối với các chất gây dị ứng và các chất kích thích hệ miễn dịch sản xuất kháng thể hay không. Candida albicans là một loại nấm sống trên cơ thể người, nhưng sự phát triển quá mức của nó có thể gây nhiễm trùng. Các tác dụng phụ thường gặp của kháng nguyên xét nghiệm da Candida albicans bao gồm sưng, đỏ, ngứa, phồng rộp, mụn nước lớn chứa đầy dịch (bullae), hắt hơi, ho, ngứa, chuột rút bụng, nôn, tiêu chảy và các tác dụng phụ khác.

Công dụng chữa bệnh của củ Cải

Theo Đông y, củ cải tươi sống có vị cay, tính mát: Khi nấu chín vị ngọt, tính bình, quy kinh phế và vị. Củ cải có công dụng chữa nhiều bệnh khác nhau.

Củ cải trắng là củ của cây củ cải. cải củ ngoài cách dùng củ làm thức ăn còn dùng lá (để luộc, muối dưa), củ cải được chế biến tương đối nhiều món: thái mỏng muối dưa, luộc ăn uống nước, kho với thịt, xào với trứng hoặc thịt, nấu canh, làm gỏi, ngâm nước mắm thành món dưa ngâm, ăn quanh năm, phơi khô dự trữ để làm dưa góp.

Củ cải có nhiều tính năng, công dụng. Tập trung nhất vào nhóm chữa bệnh ở bộ máy hô hấp (ho, hen, đàm, suyễn, tức ngực, khản tiếng, mất tiếng, ho ra máu, lao) và bệnh ở bộ máy tiêu hóa (như đau vùng thượng vị, ở chua, nôn, ăn không tiêu, chướng bụng, táo bón, lòi dom, trĩ).

Ngoài ra còn chữa một số bệnh ở bộ máy tiết niệu do thấp nhiệt (tiểu ít, tiểu dắt, buốt, tiểu đục, có sỏi); chữa một số bệnh chuyển hóa (béo, trệ, đái tháo đường…), bệnh về máu (hoạt huyết, chỉ huyết chống chảy máu khi đại tiểu tiện, lao); còn có công dụng đặc biệt là giải độc như khi bị ngộ độc khí độc do than, gas, độc của rượu, cà, hàn the và ngộ độc nhân sâm.

Theo y học hiện đại, cứ 100g củ cải có: nước 93,5g, protein 0,06g, chất béo 0,gia vị vừa đủ, đường tổng số 5,3g chủ yếu là các loại đường dễ hấp thụ (glucose, fructose); những chất khoáng cần cho cơ thể như canxi 32mg, photpho 21mg, sắt 0,6mg, mangan 0,41mg, bromine 7mg…; các vitamin nhóm B như B1 0,02mg, B2 0,03mg, nicacin 0,3mg, vitamin c 25mg và nhiều loại axit amin.

củ cải trắng
Củ cải trắng

Dưới đây là một số bài thuốc sử dụng củ cải:

  1. Bánh củ cải tiêu đờm, lợi khí, giảm ho, bổ tỳ
  • Củ cải trắng, bột mỳ mỗi thứ 500g, bột ngọt 2g, tiêu bột gia vị vừa đủ, dầu cải 50g, muối 5g, dầu vừng 15g, thịt 300g. Củ cải rửa sạch bào sợi, xào xơ bằng dầu cải rồi cho bột ngọt, muôi, tiêu, thịt trộn để làm nhân bánh.
  • Củ cải trắng 250g, gừng tươi 15g, dầu cải 50g, bột mỳ 250g, hành 15g, thịt heo nạc 100g, muối 3g. Làm như trên.
  • Củ cải trắng 125g, hành trắng (bỏ lá xanh) vì lá này không tốt cho bệnh ho) 50g, trứng gà 60g, vừng 5g, bột mỳ 500g, đường 50g, muôi 60g, bột ngọt 5g, dầu vừng 25g, mỡ. Làm như trên.
  1. Sirô chữa ho nhiều, suy nhược

Củ cải trắng 1 kg, lê 1 kg, gừng tươi 250g, sữa 250 g, mật ong 250g. Lê gọt vỏ bỏ hạt, củ cải, gừng tươi rửa sạch thái nhỏ. Cho từng thứ vào vải xô vắt nước để riêng. Đổ nước củ cải, lê đun to lửa cho sôi, bớt lửa cho đến khi đặc dính thì cho nước gừng, sữa, mật ong vào quấy đều đun sôi lại. Khi nguội cho vào lọ đậy kín dùng dần, mỗi lần một thìa canh pha vào nước nước nóng để uống. Ngày hai lần.

  1. Cao củ cải chữa lao phổi (kèm tức ngực, ho ra máu).

Củ cải tươi 1kg, lê tươi 1kg, sinh địa tươi 500g, ngó sen tươi 1kg, mạch môn tươi 500g, rễ tranh tươi 1kg, gừng tươi 100g. Tất cả nấu sôi 30 phút, chắt lấy nước, nấu lại lần 2 thành cao rồi cho các vị sau đây: a giao 500g, đường phèn 500g, mật ong 500g, nấu thành cao đặc, cho vào lọ. Ngày uống 2 lần sáng chiều. Mỗi lần 2 muỗng canh (3ml) hòa nước ấm hoặc ngậm nuốt dần.

  1. Miệng khô đắng, táo bón: Ăn củ cải xào với tỏi.
  2. Chữa khản tiếng, mất tiếng: dùng nước củ cải tươi giã hoặc ép. Nếu sợ thì trộn với nước gừng tươi để ngậm nuốt dần. Có thể làm mứt củ cải. Nếu phối hợp với nước giá đậu xanh thì hiệu quả càng cao, phối hợp với tỏi cũng tốt nhưng tỏi hăng và lâu hết mùi.
  3. Trị đau do sỏi mật: củ cải thái thành mieólng dày bằng ngón tay tẩm mật ong trắng hoặc vàng nhạt (không dùng mật ong nâu sẫm), sấy khô xong, tẩm mật ong rồi lại sấy lại, ăn củ cải đã tẩm sấy.
  4. Viêm gan vàng da, thủy thũng: sắc khoảng 400g củ cải xắt, vắt lấy nước, sắc còn khoảng 60ml uống thay trà hằng ngày.
  5. Trị loét khoang miệng do nhiệt: Củ cải giã lấy nước cốt ngậm súc miệng.
  6. Trị lỵ (nhiệt lỵ): Củ cải giã lấy nước với ít mật ong đun lẫn để uống, lúc sáng sớm chưa ăn sáng.
  7. Đái tháo đường: củ cải 200g, gạo tẻ 50g, gạo nếp 50g, nấu thành cháo. Ăn nóng ngày 2 lần, ăn liền nhiều ngày.
  8. Bí đái do tích nhiệt: củ cải tươi 200g, hành tây 100 g, gạo tẻ 50 g, gia vị, nước 300ml. Nấu cháo nhừ mới cho hành, củ cải. Nấu sôi lại. Ăn ngày 2 lần lúc đói.
  9. Hỗ trợ điều trị ung thư
  • Ung thư phổi hoa ra máu: Nước củ cải 50ml, đường phèn 15g, chưng cách thủy, ngày một thang.
  • Ung thư dạ dày thực quản, nôn mửa: củ cải giã vắt lấy nước, thêm nước, mật ong, nấu chín. Hoặc nước củ cải thêm mật ong, nước uống trộn đều, uống hằng ngày.
  1. Chữa chóng mặt cao huyết áp:

Ép 150ml nước củ cải, hòa thêm 50 g đường, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần uống 100 ml, có hiệu quả thanh nhiệt, hạ huyết áp.

  1. Chữa thiên đầu thống: củ cải giã nát, trộn thêm long não bịt vào mũi, nếu đau đầu bên trái bịt vào mũi phải và ngược lại.
  2. Chữa trĩ: củ cải thái nát, hơ trên bếp rồi đắp vào vết trĩ, làm nhiều lần trong ngày.
  3. Chữa đau họng: củ cải 300g, 10 quả trám, đun lấy nước uống thay trà, uống nhiều lần trong ngày.
  4. Chữa lử loét miệng: Nước ép củ cải 100ml, pha thêm nước lọc để súc miệng, thực hiện nhiều lần trong ngày.

Thuốc hạ huyết áp và bệnh thoái hóa điểm vàng ướt: Rủi ro là gì?

Giới thiệu

Huyết áp cao, còn được gọi là tăng huyết áp, có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe nghiêm trọng nếu không được điều trị. Những vấn đề này bao gồm cơn đau tim, đột quỵ, suy thận và suy tim cũng như các vấn đề về thị lực. Huyết áp cao là một yếu tố nguy cơ gây ra bệnh thoái hóa điểm vàng liên quan đến tuổi tác (AMD), một bệnh lý mắt có thể dẫn đến mất thị lực.

Điều trị và mối liên quan

Các bác sĩ thường khuyên bệnh nhân điều chỉnh các yếu tố lối sống để giảm huyết áp, tập trung vào chế độ ăn uống lành mạnh và tập thể dục thường xuyên. Thuốc hạ huyết áp cũng có thể được kê cho những bệnh nhân có huyết áp vẫn cao một cách bướng bỉnh. Tuy nhiên, có một số nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa một số loại thuốc hạ huyết áp và AMD.

Theo Dr. Vaidehi Dedania, một bác sĩ nhãn khoa và phẫu thuật viên tại NYU Langone Health, rất khó để rút ra kết luận chắc chắn từ các nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa một số loại thuốc hạ huyết áp và AMD ướt, hình thức nghiêm trọng hơn của AMD có thể gây mất thị lực đột ngột. Điều này là do các nghiên cứu thường bao gồm một nhóm cá nhân đa dạng với nhiều vấn đề sức khỏe khác nhau.

Những thách thức trong nghiên cứu

“Các nghiên cứu này đã xem xét những bệnh nhân có nguy cơ cao bị tăng huyết áp. Bạn thường thấy huyết áp cao hơn ở những người 60 tuổi chứ không phải 20 tuổi, và nhiều hơn ở những bệnh nhân thừa cân, cũng như những bệnh nhân đang hút thuốc, những người đã có tất cả các yếu tố nguy cơ khác,” cô nói. “Một số nghiên cứu kiểm soát được điều đó, nhưng rất khó để kiểm soát hoàn toàn.”

Bệnh nhân nên cân nhắc giữa rủi ro của các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng do tăng huyết áp không kiểm soát, mà có bằng chứng mạnh mẽ, so với bằng chứng kém xác thực liên quan đến thuốc hạ huyết áp, Dedania cho biết.

Lời khuyên cho bệnh nhân

“Nếu một bệnh nhân hỏi tôi về điều này và nói: ‘Này, tôi đọc bài báo nói rằng thuốc huyết áp của tôi có liên quan đến [AMD],’ tôi sẽ nói với họ rằng cuộc sống quan trọng hơn đôi mắt,” Dedania nói. “Tôi khuyên họ rằng, ‘Không phải là bạn không thể nhìn thấy, mà là có một số báo cáo rằng có thể có một mối liên hệ rất nhỏ, mờ nhạt giữa những điều này, trong khi chúng ta biết rằng việc ngừng thuốc của bạn sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và sức khỏe của bạn.’”

Những yếu tố nguy cơ khác

Tăng huyết áp, giống như hút thuốc và tiểu đường, cũng có thể làm hỏng các mạch máu mang oxy đến võng mạc và mang đi các sản phẩm thải, bác sĩ Christina Weng, một chuyên gia về võng mạc, phẫu thuật viên và giáo sư tại Trường Y Baylor cho biết. Mặc dù có các nghiên cứu cho thấy có mối liên hệ giữa một số loại thuốc hạ huyết áp và AMD, cô cho biết rất khó để phân tích yếu tố nào có ảnh hưởng nhiều hơn đến tổn thương võng mạc.

“Tôi sẽ nói rằng cho đến nay vẫn chưa có kết luận rõ ràng vì chúng ta cũng biết rằng huyết áp cao có thể làm tăng vai trò của AMD, vì vậy bạn đang ở trong tình huống khó khăn,” Weng nói. “Bạn chọn huyết áp cao hay chọn thuốc hạ huyết áp?”