Bệnh của loài gậm nhấm được truyền sang người qua bọ chét và có thể gây ra nhiễm khuẩn huyết, hạch sưng hoá mủ (thể hạch), viêm phổi (thể phổi) hoặc có hội chứng xuất huyết (thể nhiễm khuẩn huyết hay thể đen).
Căn nguyên
Vi khuẩn gây bệnh là vi khuẩn Yersin hay Yersinia pestis, có hình que, ngắn, Gram âm, bất động, rất đa dạng, bắt màu ở hai đầu như hình thoi. Bệnh dịch hạch lưu hành ở loài gậm nhấm, nhất là chuột có thể mang vi khuẩn đi rất xa theo tàu biển.
Dịch hạch thể hạch: bọ chét, nhất là bọ chét chuột (Xenopsylla cheopsis) hút máu động vật mắc bệnh rồi truyền qua người qua vết đốt ở da. Nhiễm khuẩn ở da gây bệnh thể hạch, ít lây. Bọ chét sống và có khả năng truyền bệnh trong 12 ngày ở nhiệt độ trên 20° và trong nhiều tuần nếu ở nhiệt độ thấp hơn. Chấy và rận cũng là vectơ truyền bệnh dịch hạch cho người. Vi khuán khu trú trong các hạch bạch huyết, gây viêm, apxe và chảy máu ở hạch.
Vi khuẩn lan theo đường máu gây nhiễm khuẩn huyết, apxe ở phổi và các cơ quan khác.
DỊCH HẠCH THỂ PHOI: do hít phải vi khuẩn, thể này rất hay lây (truyền sang người khác qua ho, khạc). Vi khuẩn tràn vào các phế nang và chết do nhiễm độc máu.
Bệnh dịch hạch không tạo ra miễn dịch.
Dịch tễ học
Dịch hạch đã từng là thảm hoạ của nhân loại qua các vụ đại dịch trong lịch sử. Hiện nay, bệnh vẫn còn ở một số vùng có lưu hành, nhất là ở nông thôn châu Á, châu Phi, Nam Mỹ và Trung Đông.
Mỗi năm có khoảng 1000 trường hợp từ các vùng này. Các 0 dịch hạch thể phổi đã xảy ra ở An Độ năm 1994. Bệnh dịch hạch hiện vẫn là mối đe doạ. Thực vậy, các vụ dịch có chu kỳ xảy ra ở loài gậm nhấm hoang dại (sóc, thỏ, chuột) có thể truyền sang chuột nhà và từ đấy được truyền sang người.
Triệu chứng
Ủ BỆNH: 2-8 ngày nếu do bọ chét truyền; 24-48 giờ nếu do hít phải vi khuẩn.
DỊCH HẠCH THỂ HẠCH: tại chỗ bị đốt nổi phỏng nước. Bệnh khởi phát đột ngột, sốt 40°, rét run, nôn, tình trạng toàn thân bị ảnh hưởng nhanh chóng. Trong khoảng từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 5, các hạch trong vùng bị bọ đốt sưng to. Hạch bị hoá mủ và vào ngày thứ 8- 10, hạch võ ra; chất chảy ra là dịch có máu lẫn với mô bị hoại tử. Có thể gây tử vong ngay từ ngày thứ 3 do sốc. Cũng có thể chết chậm hơn, vào giai đoạn cuối có các chấm xuất huyết (chết đen). Trong trường hợp khỏi bệnh, các triệu chứng mất dần và thời kỳ lại sức rất lâu.
DỊCH HẠCH THỂ PHỔI: có thể là thứ phát sau thể hạch hay do lây trực tiếp từ người khác (hít phải vi khuẩn). Bắt đầu là viêm phế quản sau đó là viêm phế quản-phổi có khó thở, ho, khạc nhiều đờm nhày rồi lẫn máu, rất truyền nhiễm. Nếu không được điều trị sẽ chết trong 2-5 ngày.
DỊCH HẠCH THỂ NHIỄM KHUẨN HUYẾT: tiến triển nhanh, không nổi hạch, không viêm phổi, chảy máu lan toả (dịch hạch đen).
DỊCH HẠCH THỂ MÀNG NÃO: viêm màng não sau thể hạch 10-15 ngày.
DỊCH HẠCH THỂ NHẸ: thể nhẹ hay gặp trong các vụ dịch.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Tìm vi khuẩn: soi trực tiếp dịch từ hạch chảy ra, từ đờm, máu hay dịch não tuỷ trên tiêu bản nhuộm Giemsa, nhuộm Gram hay miễn dịch huỳnh quang.
Nuôi cấy từ các bệnh phẩm trên (kết quả sau 49-72 giờ).
Cấy máu; dương tính trong thể nhiễm khuẩn huyết. Dương tính chậm trong thể hạch.
Tiêm truyền cho chuột lang dịch rỉ viêm hay đờm
Phản ứng huyết thanh: kết quả muộn, không có ý nghĩa chẩn đoán thực tiễn.
Chẩn đoán
Khởi phát có sốt cao.
Viêm hạch hoá mủ, nhiễm khuẩn huyết, chấm xuất huyết.
Thê phối: có ho, khạc nhiều đờm lẫn máu.
Chẩn đoán xác định: tìm thấy vi khuẩn trong bệnh phẩm hoặc bằng cấy máu.
Chẩn đoán phân biệt: dễ ở vùng có bệnh lưu hành; khó trong trường hợp tản phát. Hạch sưng có thể bị nhầm lẫn với viêm hạch do liên cầu hay tụ cầu. Các triệu chứng toàn thân có thê làm cho nghĩ đến sốt rét, bệnh do rickettsia; các triệu chứng phổi có thể làm cho nghĩ đến viêm phổi khác do vi khuẩn.
Tiên lượng: nếu không được điều trị, tỷ lệ tử vong khoảng 80%. Nếu được điều trị ngay trong 24 giờ đầu tiên, tỷ lệ này là 5-10%.
Điều trị
Ngay trong 24 giờ đầu, tiêm bắp thịt streptomycin 0,5 g; 6 giờ một lần (hay 7,5-15 mg/kg 12 giờ một lần) trong 10 ngày. Cũng có thể dùng tetracyclin (5-20 mg/kg; 6 giờ một lần) hoặc chloramphenicol (tới 100 mg/kg/ngày).
Chloramphenicol là thuốc hàng đầu đối với thể màng não.
Phòng bệnh
Thông báo bắt buộc. Diệt chuột ở các tàu, bến cảng, kho ở bến cảng. Theo dõi, giám sát các vụ dịch ở loài gậm nhấm hoang dại.
Tiêm phòng
Vaccin (2-3 liều) có tác dụng bảo vệ trong khoảng 6 tháng. Cần tiêm nhắc lại để có bảo vệ lâu dài. Do tác dụng của vaccin có hạn và do tác dụng phụ, chỉ tiêm phòng cho những người tới hoặc sống ở các vùng có dịch lưu hành và cho nhân viên phòng thí nghiệm có nguy cơ bị nhiễm.
Dùng thuốc để phòng: doxycyclin 200 mg/ngày trong 1 tuần. Trong trường hợp có chống chỉ định, thay bằng cotrimoxazol.
Loét dạ dày, còn được gọi là loét dạ dày tá tràng, là những vết loét hở trên lớp niêm mạc của dạ dày hoặc phần trên của ruột non. Loét xảy ra khi axit dạ dày ăn mòn lớp màng nhầy bảo vệ niêm mạc đường tiêu hóa.
Loét dạ dày: Xảy ra khi có vết loét ở niêm mạc dạ dày.
Loét tá tràng: Xảy ra khi có vết loét ở phần trên của ruột non.
Loét thực quản: Xảy ra khi có vết loét ở niêm mạc thực quản, ống dẫn thức ăn và chất lỏng từ cổ họng xuống dạ dày.
Loét tá tràng phổ biến hơn loét dạ dày. Loét thực quản hiếm gặp hơn và thường do một số loại thuốc hoặc lạm dụng rượu gây ra.
Nguyên nhân gây loét dạ dày
Trước những năm 1980, người ta cho rằng loét dạ dày hình thành do căng thẳng, dễ tiết quá nhiều axit dạ dày do yếu tố di truyền và lối sống không lành mạnh (như ăn nhiều thực phẩm giàu chất béo, uống rượu, caffeine, thuốc lá). Những yếu tố này được cho là làm tăng axit dạ dày, làm mòn lớp màng bảo vệ của dạ dày, tá tràng hoặc thực quản.
Mặc dù việc tiết quá nhiều axit dạ dày đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành loét, nhưng một lý thuyết mới cho rằng nhiễm khuẩn là nguyên nhân chính gây ra loét dạ dày tá tràng. Nghiên cứu từ những năm 1980 đã chỉ ra rằng vi khuẩn Helicobacter pylori (H. pylori) có mặt trong hơn 90% trường hợp loét tá tràng và khoảng 80% trường hợp loét dạ dày. Tuy nhiên, tỷ lệ này đang giảm dần.
Những người nhiễm H. pylori không phải ai cũng bị loét, nhưng ở một số người, nó có thể làm tăng lượng axit, phá vỡ lớp màng nhầy bảo vệ và kích thích đường tiêu hóa. Cách lây lan H. pylori hiện chưa rõ, nhưng có thể qua tiếp xúc gần gũi như hôn, hoặc qua thực phẩm và nước không sạch.
Các yếu tố khác góp phần gây loét:
Lạm dụng thuốc giảm đau không kê đơn (như aspirin, ibuprofen, naproxen).
Uống nhiều rượu.
Căng thẳng tâm lý.
Hút thuốc lá.
Nguy cơ loét dạ dày tăng nếu bạn:
Dùng steroid và có nồng độ canxi cao.
Lớn tuổi.
Có nhóm máu A hoặc O.
Mắc hội chứng Zollinger-Ellison.
Triệu chứng của loét dạ dày
Bạn có thể cảm thấy đau rát hoặc khó chịu giữa rốn và xương ức, đặc biệt là khi bụng đói. Các triệu chứng khác có thể bao gồm:
Cảm thấy no nhanh.
Không muốn ăn do đau.
Ợ nóng, trào ngược axit.
Đau ngực.
Mệt mỏi.
Buồn nôn, nôn ra máu.
Phân có màu đen.
Hình ảnh Loét dạ dày tá tràng
Chẩn đoán loét dạ dày
Bác sĩ sẽ bắt đầu bằng cách khám thực thể và xét nghiệm tìm H. pylori qua mẫu máu, phân hoặc hơi thở. Họ cũng có thể sử dụng ống nội soi hoặc X-quang để kiểm tra loét.
Điều trị loét dạ dày
Thuốc kháng sinh: Để diệt vi khuẩn H. pylori.
Thuốc ức chế bơm proton (PPIs): Giảm axit dạ dày.
Các loại thuốc khác: Thuốc bảo vệ niêm mạc, thuốc giảm axit.
Thay đổi lối sống như bỏ hút thuốc, giảm rượu, tránh thực phẩm gây kích ứng cũng giúp điều trị loét.
Nếu các biện pháp trên không hiệu quả, có thể cần phẫu thuật như cắt dạ dày, cắt dây thần kinh phế vị hoặc phẫu thuật nội soi.
Biến chứng của loét dạ dày
Nếu không được điều trị, loét dạ dày có thể gây ra biến chứng như:
Chảy máu, nguy hiểm đến tính mạng.
Thủng dạ dày, viêm nhiễm, tắc nghẽn.
Ung thư dạ dày.
Phòng ngừa loét dạ dày
Mặc dù căng thẳng và thực phẩm cay có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng loét, nhưng chúng không phải là nguyên nhân chính. Tuy nhiên, một số yếu tố khác có thể làm tăng nguy cơ loét, như sử dụng thuốc giảm đau kéo dài và nhiễm H. pylori.
Bạn có nhiều khả năng bị loét khi dùng thuốc NSAIDs nếu bạn:
Trên 65 tuổi
Bị nhiễm vi khuẩn H. pylori
Dùng nhiều hơn một loại NSAIDs cùng lúc
Đã từng bị loét dạ dày tá tràng trước đây
Đang sử dụng thuốc steroid hoặc thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI)
Hãy cẩn thận khi dùng thuốc giảm đau như aspirin, ibuprofen và naproxen sodium. Một số người bị viêm khớp hoặc các tình trạng gây đau mãn tính thường dùng NSAIDs trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng để giảm đau và sưng. Những loại thuốc này có thể ảnh hưởng đến lớp nhầy bảo vệ dạ dày khỏi axit và làm tăng nguy cơ loét dạ dày tá tràng.
Cách giảm nguy cơ loét dạ dày khi dùng NSAIDs:
Sử dụng liều thấp nhất có thể để kiểm soát triệu chứng và ngừng dùng thuốc khi không còn cần thiết. Hãy thảo luận với bác sĩ về việc sử dụng thuốc giảm đau khác như acetaminophen.
Uống thuốc cùng với thức ăn.
Không uống rượu trong khi đang dùng thuốc này.
Khi bạn đang dùng NSAIDs, bạn có thể dùng thuốc để giảm lượng axit mà dạ dày sản sinh, bao gồm:
Thuốc ức chế bơm proton (PPIs): như esomeprazole (Nexium), omeprazole (Prilosec OTC) và pantoprazole (Protonix).
Thuốc chẹn H2: như cimetidine (Tagamet), famotidine (Pepcid) và nizatidine.
Bạn cũng có thể sử dụng thuốc misoprostol (Cytotec) để tăng cường sản xuất lớp nhầy bảo vệ dạ dày. Tuy nhiên, thuốc này có thể gây tác dụng phụ như tiêu chảy và đau bụng.
Thay đổi lối sống giúp giảm nguy cơ biến chứng:
Không hút thuốc và hạn chế rượu. Cả hai thói quen này đều làm tăng nguy cơ loét dạ dày tá tràng vì chúng làm mỏng lớp nhầy bảo vệ dạ dày khỏi axit. Hãy nhờ bác sĩ tư vấn chương trình bỏ thuốc và hỏi về lượng rượu an toàn cho bạn.
Quản lý căng thẳng. Căng thẳng có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng loét dạ dày. Xác định nguyên nhân gây căng thẳng và tìm cách giải quyết tốt hơn. Việc ngủ đủ giấc cũng có thể giúp ích và cải thiện hệ miễn dịch.
Cân nhắc sử dụng probiotics. Các vi khuẩn có lợi này có thể giúp chống lại vi khuẩn có hại như H. pylori. Probiotics có thể được tìm thấy trong các thực phẩm như: sữa chua, kefir, dưa cải bắp, kimchi, miso và tempeh.
Phòng ngừa nhiễm H. pylori
Khoảng hai phần ba dân số thế giới nhiễm H. pylori, nhưng không phải ai cũng bị loét. Bác sĩ chưa biết cách phòng ngừa cụ thể, nhưng cho rằng vi khuẩn có thể lây qua tiếp xúc giữa người với người hoặc qua thực phẩm và nước.
Bạn có thể làm giảm nguy cơ nhiễm H. pylori bằng cách:
Rửa tay thường xuyên bằng nước ấm và xà phòng, đặc biệt trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Nếu không có xà phòng, hãy dùng dung dịch rửa tay có cồn.
Nấu chín thịt và các thực phẩm kỹ càng.
Chỉ uống nước sạch.
Tóm tắt
Loét dạ dày rất phổ biến và có thể chữa lành bằng cách điều trị thuốc và thay đổi lối sống. Hãy thảo luận với bác sĩ nếu bạn có các triệu chứng loét dạ dày như ợ nóng, trào ngược axit, cảm thấy no nhanh, và đau giảm khi dùng thuốc kháng axit. Những thay đổi lối sống như bỏ thuốc lá, giảm uống caffeine và rượu, cũng như tránh các thực phẩm gây kích ứng, có thể giúp ích.
Câu hỏi thường gặp về loét dạ dày
Triệu chứng của loét dạ dày là gì? Đau có thể giảm hoặc không khi ăn, uống, hoặc dùng thuốc kháng axit; cảm giác no nhanh, trào ngược axit, ợ nóng, thiếu máu, đau ngực, mệt mỏi, nôn ra máu hoặc nôn giống như bã cà phê.
Loét dạ dày có nghiêm trọng không? Loét có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng. Hãy gặp bác sĩ nếu bạn nghi ngờ mình bị loét.
Loét dạ dày có tự khỏi không? Đôi khi loét có thể tự lành, nhưng quá trình này lâu dài và có thể gây đau. Loét thường tái phát. Hãy gặp bác sĩ nếu bạn nghi ngờ mình bị loét.
Cách điều trị loét dạ dày? Loét dạ dày có thể được điều trị bằng thuốc, thay đổi lối sống và phẫu thuật trong một số trường hợp.
Khô nhuyễn giác mạc là bệnh về mắt, thường gặp ở những trẻ em từ 1-3 tuổi sau suy dinh dưỡng, sau đợt tiêu chảy kéo dài.
Nguyên nhân do:
Thiếu hụt Vitamin A. Vitamin A cần thiết cho sự phát triển, tham gia tái tạo các mô, da và niêm mạc cùng tia võng mạc, vì chất này giữ vai trò quan trọng trong quá trình sinh lý học của thị giác. Vitamin A còn điều hoà chức năng tuyến giáp,tuyến sinh dục, tăng cường sức đề kháng cơ thể. Thiếu Vitamin A gây rối loạn nhất là khô nhuyễn giác mạc dẫn đến mờ mắt…
Bệnh cảnh lâm sàng ở những em bé nhỏ người, rất gầy yếu, không muốn vui chơi cùng bạn bè. Thường ngồi ì một chỗ, bụng của bé to, ngực lép, nói không ra tiếng, khóc yếu, thường bị tiêu chảy.
Hai mắt trẻ nhắm nghiền. Khi khám mắt phát hiện khô kết giác mạc. Có những chấm khô gọi là chàm Bitot không giữ nước dẫn đến loét giác mạc, thủng giác mạc, phòi mồng mắt, mù loà, hết cách chữa.
Biện pháp để phòng ngừa là: tuyên truyền cho nhân dân nhất là các bà mẹ, ông bố về những tác hại của bệnh khô nhuyễn giác mạc, nên cho đi uống Vitamin A phòng bệnh khô nhuyễn giác mạc và cho trẻ ăn các loại dầu mỡ động vật như dầu gan cá, bơ, sữa, lòng đỏ trứng gà, cam, cà rốt.
Khi phát hiện bệnh cần đưa trẻ đến bệnh viện chữa ngay.
Điều trị:
Trẻ em 30 tháng cho uống Vitamin A 5-15 giọt/ ngày. Trẻ dưới 30 tháng 3-5 giọt/ ngày.
Phát hiện vàng da: da có màu vàng, thấy trước hết ở củng mạc.
U động mạch hình sao: đám tiểu động mạch, phần trung tâm giãn, từ đấy có các mạch nhỏ đi ra. Nếu ấn vào phần bị giãn thì thấy các mạch nhỏ kia mất đi (trái ngược với u tĩnh mạch mạch hình sao), u động mạch hình sao có chủ yếu ở thân động mạch. Đây có thể là dấu hiệu của bệnh về gan, đặc biệt là xơ gan. Cũng có thể có tạm thời ở phụ nữ có thai.
Lòng bàn tay: lòng bàn tay đỏ và bệnh Dupuytren là các dấu hiệu kinh điển của xơ gan. Hay có phì đại tuyến mang tai kèm theo.
Vết gãi: là dấu hiệu có ngứa và có thể là dấu hiệu bị tắc mật, ngay cả khi vàng da không rõ bụng
Bụng trướng căng: trướng ruột, cổ trướng.
Đầu sứa trên bụng: giãn tĩnh mạch quanh rốh, là dấu hiệu tăng áp lực tĩnh mạch cửa.
Bộ phận sinh dục: đàn ông có phân bố lông mu như ở phụ nữ, lông nách ít, vú to và tinh hoàn teo nhỏ là các dấu hiệu của xơ gan.
Hệ thần kinh: lú lẫn, bắt chuồn chuồn là các triệu chứng của bệnh não do gan.
Gõ, sờ gan và túi mật
Gõ gan: cho các thông tin không chính xác lắm. Vùng đục của gan bắt đầu từ khoảng liên sườn thứ 6 bên phải, ở phía trước. Phải gõ mạnh mới thấy. Giới hạn dưới của vùng đục khó phát hiện vì tiếng vang của bụng.
Sờ gan: người khám đặt bàn tay thật phẳng trên vùng hạ sườn phải của bệnh nhân, song song với bờ sườn.
Bảo bệnh nhân hít vào sâu, đồng thời ấn bàn tay vào vùng hạ sườn, cố để cho bờ gam nằm dưới bờ ngoài ngón trỏ.
Bình thường, khi hít vào bình thường, bờ dưới của gan không được vượt quá bờ sườn ở đường giữa đòn.
Sờ gan cho biết:
Gan to: gan to trong xơ gan do rượu, khi đã sang giai đoạn cuối lại nhỏ đi.
Mật độ gan: tăng trong xơ gan.
Bề mặt nhẵn hay không:
+ Gan bình thường có bờ nhẵn, đều, ít đàn hồi.
+ Bò nhẵn, đều nhưng rắn và sắc: xơ gan.
+ Bờ sần sùi, rắn: xơ gan.
+ Bờ rất không đều: ung thư nguyên phát hay thứ phát, apxe, nang.
Đau: gan có thể bị đau khi sờ nắn vào nếu bị viêm (viêm gan, apxe) hay khi gan to nhanh (ứ máu gan cấp).
Gan có nhịp đập: xem thuật ngữ này
Sờ túi mật
Nghiệm pháp Murphy:người khám ngồi ở bên phải bệnh nhân. Đặt hai bàn tay lên hạ sườn phải, các ngón tay hướng lên phía đầu bệnh nhân, ấn nhẹ thành bụng như muôn đưa sâu ngón tay vào dưới bờ sườn. Lúc này bảo bệnh nhân hít vào sâu để gan và túi mật xuống chạm vào đầu ngón tay.
Nếu có bệnh ở túi mật, nhất là viêm túi mật hay sỏi mật thì nghiệm pháp này gây đau, bệnh nhân nhăn mặt, ngừng thở hay cơ thẳng to co lại theo phản xạ.
Túi mật to:
+ Sỏi mật: rất hiếm khi có thể sờ thấy túi mật đầy sỏi (xem định luật Courvoisier).
+ ứ mật: tắc ống mật chủ có thể làm túi mật to, sờ thấy một khôl rắn hình quả lê, đàn hồi, không đau nếu không bị nhiễm khuẩn.
Ung thư đầu tuỵ: thường gặp túi mật to trong u đầu tuỵ hơn là khi bị sỏi ống mật chủ.
Bảng 9.1. Gan to
Bệnh
Dấu hiệu lâm sàng
Hoá sinh
Sơ gan do rượu
Gan to + đến +++
Bò gan cứng, nhẩn, đều, không đau
Giai đoạn muộn: gan nhỏ, vàng da, lách to, cổ trướng
Test chức năng gan bình thường hoăc rối loạn nhẹ, Gamma GT +
Giai đoạn muộn: test về gan bị rối loạn.
Sơ gan bẩm sinh do đường mật
Gan to + đến +++
Bờ nhẵn, cứng, đều, không đau
Phosphatase kiềm và cholesterol cao
Thường có các kháng thể kháng mitochondrie
Sơ gan sau viêm gan
Gan to + đến +++
Bờ nhẵn, cứng, đều, không đau Có tiền sử viêm gan
Nhiều khi có HBsAg dương tính
Gan tim
Gan to + đến +++ Bờ cứng, đau
Test chức năng gan bình thường hoặc rối loạn nhẹ
Viêm gan virus
Gan bình thường hoăc to ít Đau nhẹ
Lách to (20% số trường hợp)
Các transaminase tăng + đến +++ Có HBsAg nếu bị viêm gan B Có IgM anti A nếu bị viêm gan A
Viêm gan mạn tính tiến triển
Gan bình thường hoặc to ít Đau nhẹ
Các gamma globulin +++
Thường có kháng thể kháng cơ trơn Đôi khi HBsAg dương tính
Viêm gan do rượu
Gan to + đến +++ Đôi khi rất đau Sốt
Phosphatase kiềm tăng +++ Transaminase tăng + đến +++ Bạch cầu tăng
Gan nhiễm mỡ
Gan to + đến +++
Bờ rắn, đều, không đau
Test chức năng gan bình thưởng hoặc rối loạn nhẹ
Apxe do amip
Gan to ít
Đau vùng sau – bên
Test chức năng gan bình thường hoặc rối loạn nhẹ
Apxe không do amip
Gan to ít
Bơ có khi không đều Đau
Test chức năng gan bình thường hoặc rối loạn nhẹ
Bạch cẩu tăng
Ung thư gan nguyên phát
Gan to + đến +++
Bờ rất rắn, không đều Đau không thường xuyên
Phosphatase kiềm tăng Alpha protein thường dương tính
Amoxicillin là một loại thuốc kháng sinh thuộc lớp thuốc gọi là penicillins. Các thành viên khác của lớp thuốc này bao gồm:
Ampicillin (Unasyn)
Piperacillin (Pipracil)
Ticarcillin (Ticar)
Một số loại khác.
Các loại kháng sinh này có cơ chế hoạt động tương tự. Chúng không trực tiếp tiêu diệt vi khuẩn, nhưng ngăn chặn vi khuẩn sinh sản bằng cách ngăn không cho vi khuẩn hình thành các thành tế bào bao quanh chúng. Những thành này cần thiết để bảo vệ vi khuẩn khỏi môi trường bên ngoài và giữ cho các thành phần bên trong tế bào vi khuẩn được nguyên vẹn. Vi khuẩn không thể sống sót nếu không có thành tế bào.
Amoxicillin có hiệu quả chống lại nhiều loại vi khuẩn khác nhau bao gồm H. influenzae, N. gonorrhoea, E. coli, Pneumococci, Streptococci, và một số chủng Staphylococci nhất định.
FDA đã phê duyệt Amoxicillin vào tháng 12 năm 1974.
Các công dụng của Amoxicillin
Amoxicillin được sử dụng để điều trị các nhiễm trùng do vi khuẩn nhạy cảm với tác dụng của amoxicillin.
Các nhiễm trùng do vi khuẩn phổ biến mà amoxicillin được sử dụng bao gồm nhiễm trùng của:
Tai giữa
Amidan
Họng
Thanh quản (viêm thanh quản)
Phế quản (viêm phế quản)
Phổi (viêm phổi)
Đường sinh dục và tiết niệu
Nhiễm Heliobacter pylori (H. pylori)
Bệnh than
Viêm nội tâm mạc
Đường tiết niệu
Da
Amoxicillin cũng được sử dụng để điều trị bệnh lậu.
Cảnh báo
Amoxicillin có thể gây ra tình trạng quá mẫn cảm với penicillins, cephalosporins, và imipenem.
Không nên dùng nếu bạn bị dị ứng với amoxicillin hoặc bất kỳ thành phần nào có trong thuốc này.
Những người bị bệnh đơn nhiễm (“mono”) không nên dùng amoxicillin vì có nguy cơ phát triển phát ban đỏ trên da.
Giữ thuốc ở nơi xa tầm tay trẻ em. Trong trường hợp quá liều, hãy tìm sự trợ giúp y tế hoặc liên hệ với Trung tâm Kiểm soát Chất độc ngay lập tức.
Các tác dụng phụ của amoxicillin là gì?
Các tác dụng phụ do amoxicillin gây ra bao gồm:
Tiêu chảy
Chóng mặt
Ợ nóng
Mất ngủ
Buồn nôn
Ngứa
Nôn
Nhầm lẫn
Đau bụng
Dễ bầm tím
Chảy máu
Phát ban
Phản ứng dị ứng
Những người bị dị ứng với nhóm kháng sinh cephalosporin, có liên quan đến penicillins, ví dụ như cefaclor (Ceclor), cephalexin (Keflex), và cefprozil (Cefzil), có thể hoặc không bị dị ứng với penicillins.
Các phản ứng nghiêm trọng nhưng hiếm gặp bao gồm:
Co giật
Phản ứng dị ứng nghiêm trọng (phản vệ)
Giảm tiểu cầu (thrombocytopenia) hoặc giảm số lượng hồng cầu.
Amoxicillin có thể làm thay đổi hệ vi khuẩn bình thường trong ruột và khuyến khích sự phát triển quá mức của một số vi khuẩn như Clostridium difficile, gây viêm ruột (viêm đại tràng giả mạc). Bệnh nhân phát triển các dấu hiệu viêm đại tràng giả mạc sau khi bắt đầu dùng amoxicillin (tiêu chảy, sốt, đau bụng, và có thể sốc) nên liên hệ với bác sĩ ngay lập tức.
Liều dùng của amoxicillin là gì?
Đối với hầu hết các nhiễm trùng ở người lớn, liều amoxicillin là 250 mg mỗi 8 giờ, 500 mg mỗi 8 giờ, 500 mg mỗi 12 giờ hoặc 875 mg mỗi 12 giờ, tùy thuộc vào loại và mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng.
Đối với điều trị bệnh lậu ở người lớn, liều là 3 g được dùng trong một liều duy nhất.
Đối với hầu hết các nhiễm trùng, trẻ em trên 3 tháng nhưng dưới 40 kg được điều trị với 25 hoặc 45 mg/kg/ngày chia thành các liều mỗi 12 giờ hoặc 20 hoặc 40 mg/kg/ngày với một phần ba liều hàng ngày được dùng mỗi 8 giờ tùy thuộc vào loại và mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng.
Amoxicillin có thể được uống cùng hoặc không cùng với thức ăn.
Thuốc hoặc thực phẩm bổ sung nào tương tác với amoxicillin?
Hãy thông báo cho bác sĩ của bạn về tất cả các thuốc mà bạn đang sử dụng, để họ có thể tư vấn về bất kỳ tương tác thuốc nào có thể xảy ra. Không bao giờ bắt đầu sử dụng, đột ngột ngừng lại, hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ thuốc nào mà không có sự khuyến nghị của bác sĩ.
Amoxicillin hiếm khi liên quan đến các tương tác thuốc quan trọng.
Tương tác nghiêm trọng của Amoxicillin bao gồm:
Không có
Amoxicillin có tương tác trung bình với ít nhất 27 loại thuốc khác nhau.
Tương tác nhẹ của amoxicillin bao gồm:
Amiloride
Azithromycin
Aztreonam
Chloramphenicol
Clarithromycin
Erythromycin base
Erythromycin ethylsuccinate
Erythromycin lactobionate
Erythromycin stearate
Pyridoxine (thuốc giải độc)
Các tương tác thuốc được liệt kê ở trên không phải là tất cả các tương tác hoặc tác dụng phụ có thể xảy ra. Để biết thêm thông tin về tương tác thuốc, hãy truy cập Trình kiểm tra Tương tác thuốc RxList.
Rất quan trọng để luôn thông báo cho bác sĩ, dược sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn về tất cả các loại thuốc theo toa và không theo toa mà bạn sử dụng, cũng như liều lượng của từng loại, và giữ danh sách thông tin đó. Hãy kiểm tra với bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về thuốc.
Mang thai và cho con bú
Penicillins thường được coi là an toàn cho phụ nữ mang thai không dị ứng với penicillin.
Một lượng nhỏ amoxicillin có thể được bài tiết vào sữa mẹ và có thể gây tiêu chảy hoặc phản ứng dị ứng ở trẻ sơ sinh đang bú. Amoxicillin thường được coi là an toàn khi sử dụng trong thời kỳ cho con bú. Amoxicillin được sử dụng để điều trị các nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh.
Hầu hết trẻ sơ sinh đều rụng một ít hoặc toàn bộ tóc. Điều này là bình thường và không ngoài dự đoán. Tóc sơ sinh rụng trước khi tóc trưởng thành mọc. Rụng tóc trong sáu tháng đầu đời không cần lo lắng.
Các bé cũng rụng tóc do cọ da đầu với nệm hoặc do thói quen hay đập đầu. Khi hành vi cọ hay đập dừng lại, kiểu rụng tóc này sẽ tự hết.
Khoảng 4 tháng tuổi, nhiều bé có thể rụng tóc phía sau đầu vì thời gian và tốc độ mọc tóc khác nhau. Trong rất hiếm các trường hợp, trẻ bị hói ngay từ lúc sinh ra, vấn đề này có thể xuất hiện một mình hay đi kèm với những bất thường ở móng tay và răng. Về sau khi trẻ lớn hơn một chút, rụng tóc có thể là do tình trạng sức khỏe, chấn thương da đầu, hoặc vấn đề về y tế hay dinh dưỡng.
Trẻ lớn hơn cũng có thể rụng tóc nếu bện tóc quá chặt hoặc kéo tóc quá mạnh khi chải. Lược điện cũng có thể góp phần làm tóc bị gãy. Một số trẻ (nhỏ hơn 3 tuổi) xoắn tóc như một thói quen thư giãn và vô tình làm tóc gãy hoặc rụng ra. Hành vi này thường dừng lại khi trẻ 4 tuổi. Những bé khác (thường là lớn hơn) có thể cố tình nhổ tóc nhưng lại chối là đã làm thế. Các bé khác lại đơn giản là không nhận thức được mình đang làm việc đó, đó là một dấu hiệu cho thấy bé căng thẳng về mặt cảm xúc và là điều bạn nên thảo luận với bác sĩ nhi.
Một số trẻ có thể bị rụng tóc vì một bệnh tự miễn được gọi là alopecia areata (tóc rụng thành đám). Ở dạng rối loạn này, trẻ rụng tóc ở một vùng hình tròn, tạo thành một chỗ hói. Thông
thường, khi hiện tượng này được giới hạn trong một vài mảng, sẽ có nhiều triển vọng hồi phục hoàn toàn. Nhưng khi tình trạng kéo dài và nặng hơn, các loại kem có chứa steroid và ngay cả việc tiêm steroid và các dạng trị liệu khác tại chỗ mất tóc có thể được sử dụng. Không may là nếu hiện tượng mất tóc lan rộng, sẽ khó để làm nó mọc mới trở lại.
Nói chuyện với bác sĩ nhi nếu con bạn bị rụng tóc không rõ lý do kèm theo:
Mệt mỏi
Mẩn đỏ dọc theo sống mũi
Sốt hay các dấu hiệu ốm khác
Mất lông mi và lông mày.
CẢNH BÁO!
Sử dụng lược mềm làm từ lông tự nhiên hoặc nylon; các loại lông cứng có thể làm gãy tóc bé và khiến da đầu khó chịu.
Đối phó với rụng tóc
Đôi khi một trẻ khỏe mạnh bình thường đột nhiên lại rụng tóc thành mảng. Hiện tượng rụng tóc có thể do một căn bệnh tự miễn gọi là alopecia areata. Mặc dù chưa rõ nguyên nhân, nó thường ảnh hưởng tới những thành viên khác trong gia đình. Chưa có phương pháp điều trị nào, an toàn và hiệu quả có thể biết tiên lượng, nhưng trong hầu hết các trường hợp, tóc sẽ mọc lại trong vòng 6 đến 12 tháng. Bác sĩ nhi có thể giới thiệu bạn tới một bác sĩ da liễu nhi khoa để có các phương pháp điều trị như corticosteroid tại chỗ hoặc các loại thuốc khác.
MỐI BẬN TÂM CỦA BẠN
NGUYÊN NHÂN CÓ THỂ CÓ
HÀNH ĐỘNG CẦN THỰC HIỆN
Con bạn mới được vài tuần hay vài tháng tuổi, nhưng tóc bé đang rụng.
Rụng tóc giai đoạn telogen (rụng tóc sơ sinh tự nhiên).
Tóc sơ sinh sẽ dần dần được tóc trưởng thành thay thế. Hãy gội đầu cho bé thường xuyên và dùng lược mềm hàng ngày. Nếu đến khoảng 12 tháng mà không thấy tóc mọc, hãy nói chuyện với bác sĩ nhi.
Con bạn bị một vết hói ở phía sau hoặc bên cạnh da đầu.
Mất tóc sơ sinh do cọ xát hoặc nằm ở một tư thế.
Tóc mới sẽ phủ lên vết đó khi bé hoạt động nhiều hơn. Thay đổi tư thế cho bé thường xuyên cũng sẽ có tác dụng. Nếu một vài mảng hói xuất hiện hoặc da đầu của bé bị khó chịu, hãy nói chuyện với bác sĩ nhi.
Con bạn có những mảng đóng cứng, nhờn trên da đầu.
Viêm da tiết bã (chứng nổi vảy trên da đầu trẻ sơ sinh -cứt trâu).
Gội đầu cho bé thường xuyên với dầu gội và lau khô nhẹ nhàng bằng khăn tắm. Xoa da đầu bé với dầu hoặc mỡ cho trẻ trước khi gội để giúp làm bong các vảy cứng. Nếu vảy lan rộng, bác sĩ nhi có thể kê đơn một loại kem bôi.
Con bạn đang tập đi hoặc ở tuổi đi học, bé bị rụng tóc thành những mảng tròn, có váy. Da đầu bé bị ngứa.
Nấm da đầu.
Gọi bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho bé và kê một đơn thuốc uống chống nấm nếu thích hợp.
Hiện tượng rụng tóc của con bạn đặc biệt dễ nhận thấy ở quanh đường chân tóc. Bé tết tóc hoặc buộc tóc đuôi ngựa. Bé dùng dụng cụ làm xoăn hoặc máy ép tóc, hoặc bé làm tóc xoăn vĩnh viễn.
Rụng tóc do lực kéo (tổn thương do tạo nếp quá đà hoặc hóa chất).
Thay đổi kiểu tóc cho bé hàng ngày để tránh tổn thương do kéo chặt. Tránh sử dụng các loại hóa chất như thuốc nhuộm, thuốc làm thẳng và uốn xoăn. Sử dụng dầu gội dạng nhẹ và đừng dùng máy sấy.
Con bạn bị rụng tóc sau khi bị ốm kèm sốt
Rụng tóc Telogen (một sự gián đoạn trong chu kỳ mọc tóc).
Tóc thường sẽ mọc lại trong vòng 6 tháng, nhưng hãy đề nghị bác sĩ nhi chú ý tới hiện tượng rụng tóc của bé.
Con bạn ở tuổi màu giáo hoặc đi học và bị gàu. Các thành viên trong gia đình bị vảy nến hoặc viêm da tiết bã.
Vảy nến (các mảng đỏ, ngứa, đóng vảy).
Viêm da tiết bã (các vảy nhờn trên da).
Nói chuyện với bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho bé và chuyển bé tới một bác sĩ da liễu nhi khoa nếu cần thiết.
Con bạn kéo hoặc xoăn tóc. Bé xoăn tóc trong khi mút ngón tay cái.
Chứng nghiện giật tóc đôi khi liên quan tới sự căng thẳng hoặc một vấn đề về tình cảm.
Hỏi bác sĩ nhi làm cách nào để kiểm soát vấn đề. Cố gắng xác định và loại bỏ nguồn gây căng thẳng.
Con bạn bị một dạng rối loạn tự miễn dịch như bệnh lupus đỏ hệ thống.
Rụng tóc do một rối loạn mãn tính.
Nói chuyện với bác sĩ nhi để đảm bảo tình trạng của con bạn đang được điều trị đúng cách. Thảo luận về các cách giúp bé đối mặt với chứng rụng tóc của mình.
Con bạn đang ở tuổi thiếu niên và ở giai đoạn hoàn thiện cơ thể và bị rụng tóc. Các thành viên của một trong hai bên gia đình bị hói.
Hói do di truyền ở nam hoặc nữ.
Chưa có phương pháp điều trị hữu hiệu nào cho hói đầu; thuốc chỉ có tác dụng một phần. Hãy giúp bé chấp nhận hiện tượng rụng tóc của mình. Nói chuyện với bác sĩ nhi các giải pháp dùng mĩ phẩm.
Con bạn ở tuổi thiếu niên hoặc lớn hơn bị rụng tóc thành nắm.
Rụng tóc thành đám (một bệnh tự miễn).
Nói chuyện với bác sĩ nhi. Trong phần lớn các trường hợp, tóc sẽ mọc trở lại. Không có một phương thuốc chung nào, mặc dù điều trị bằng corticosteriod đôi khi cũng được sử dụng.
Con bạn đang điều trị một căn bệnh nghiêm trọng bằng xạ trị hoặc hóa trị.
Rụng tóc do nhiễm độc hay rụng tóc anagen do tác động của việc điều trị.
Tóc sẽ mọc lại trong 2 đến 3 tháng dừng điều trị. Trong thời gian này, hãy cho bé dùng các dụng cụ che đầu như mũ hay khăn buộc đầu. Một bé đặc biệt nhạy cảm có thể sẽ thích dùng tóc giả hơn.
Khám tiền đình tức là nghiên cứu những phản ứng của tiền đình ở người bệnh và so sánh những phản ứng đó với những phản ứng của người bình thường để đánh giá mức độ và vị trí của thương tổn. Khám tiền đình chẳng những rất cần thiết cho sự chẩn đoán các bệnh về tai mà còn giúp ích nhiều cho khoa tai thần kinh (oto-neulologie).
Chúng ta sẽ nghiên cứu những triệu chứng tự phát và những triệu chứng do thầy thuốc gây ra.
RỐI LOẠN TỰ PHÁT
Những triệu chứng tự phát là : chóng mặt, động mắt hay giật nhãn cầu (nystagmus), lệch ngón tay trỏ, rối loạn thăng bằng.
1. Chóng mặt :
Chóng mặt do mê nhĩ có những đặc tính sau đây :
Bệnh nhân có cảm giác bị quay tròn hoặc đưa qua đưa lại, đưa tới đưa lui, đưa lên đưa xuống (chóng mặt chủ quan). Bệnh nhân cũng có thể thấy đồ đạc, nhà cửa cây cối chung quanh mình chạy qua trước mặt hoặc đảo lộn lung tung (chóng mặt khách quan).
Chóng mặt xuất hiện từng cơn nhất là khi bệnh nhân cử động mạnh hoặc thay đổi tư thế của đầu, hoặc liếc mắt về phía động mắt. Cơn chóng mặt có thể kèm theo nôn mửa, ù tai, điếc.
Ngoài cơn chóng mặt, bệnh nhân có thể đi lại được
Cường độ của chóng mặt giảm dần trong bệnh mạn tính và sẽ mất nếu mê nhĩ bị huỷ loại.
Nói chung trong cơn chóng mặt do mê nhĩ, bệnh nhân có cảm giác là bị quay tròn, bị xô đẩy, bị vật xuống. Ngoài cơn chóng mặt mặt các triệu chứng khách quan nghèo nàn. Chúng ta không nên nhầm chóng mặt thật sự với những hiện tượng như là hoa mắt, nẩy đom đóm mắt, tối xẩm mặt mày mà nhân dân quen gọi là “chóng mặt”.
Động mắt tự phát (nystagmus spontané).
Động mắt tức là hai nhãn cầu cùng bị giật về một hướng theo một nhịp nhất định. Không nên nhầm với rung nhãn cầu (tremblement oculaire). Động mắt gồm có hai động tác chiều hướng trái ngược : giật chậm và giật nhanh. Hướng của động mắt do giật nhanh quyết định.
Động mắt do mê nhĩ có những đặc tính sau đây :
Sau khi đeo kính + 20 diôp, động mắt vẫn tiếp tục đập.
Động mắt có đủ hai thì giật chậm và giật nhanh.
Khi bệnh nhân nhìn vế phía giật nhanh động mắt sẽ tăng lên.
Động mắt thường có kèm theo những rối loạn khác của mê nhĩ : chóng mặt điếc…
Chúng ta sẽ không nhầm động mắt do mê nhĩ với những động mắt khác như động mắt do nhìn tập trung, hoặc động mắt sinh lý do liếc ngang cực độ, hoặc động mắt của thợ mỏ do liếc về phía trên thường xuyên, hoặc động mắt thị vận (nystaglnus opto-cinetique) do nhìn các vật di chuyển nhanh qua trước mắt.
Chúng ta phân biệt ba thể động mắt chính : động mắt ngang, động mắt đứng và động mắt quay tùy thẹo sự vặn động của nhãn cấu. Trong động mắt quay, nhăn cầu xoay tròn theo trục trước sau, biên độ di động thường không quá 1/16 vòng (24 độ). Ba thể động mắt này có thể phối hợp với nhau ở trên một bệnh nhân.
Về cường độ chúng ta cũng chia động mắt ra làm ba loại :
Độ một : động mắt xuất hiện khi nhãn cầu nhìn về hướng giật nhanh.
Độ hai : động mắt xuất hiện khi nhãn cầu nhìn thẳng về trước.
Độ ba : động mắt xuất hiện khi nhãn cầu nhìn về hướng giật chậm.
Lệch ngón tay :
Chúng ta dùng hai nghiệm pháp sau đây để thể hiện lệch chi trên : nghiệm pháp đưa tay thẳng và nghiệm pháp ngón tay chỉ.
Nghiệm pháp đưa tay thẳng :
Bệnh nhân ngồi trước mặt thầy thuốc, lưng tựa vào ghế, đưa hai tay thẳng về phía trước mặt, ngón tay trỏ chỉ thẳng về phía trước mặt, các ngón khác nắm lại. Thầy thuốc ngồi trước mặt bệnh nhân, hai tay gập lại trước ngực và chìa ngón cái ra, đối diện với hai ngón tay trỏ của bệnh nhân.
Xong rồi bảo bệnh nhân nhắm mắt lại. Bình thường hai ngón tay trỏ của bệnh nhân luôn luôn chỉ vào hai ngón tay của thầy thuốc. Trong trường hợp bệnh lý, hai ngón tay của bệnh nhân sẽ lệch về mộl bên. Thường là cả hai tay cùng lệch về một hướng nhưng cũng có khi chỉ lệch một tay thôi.
Hướng tay lệch đối lập với hướng động mắt trong trường hợp thương tổn mê nhĩ (Hội chứng ngoại biên).
Nghiệm pháp ngón tay chỉ :
Bệnh nhân và thấy thuốc cũng ngồi đối diện như trên. Bảo bệnh nhân nhắm mắt và dùng ngón trỏ của tay phải chỉ đầu gối mình và chỉ ngón tay cái trái của thầy thụốc. Sau đó lại dùng ngón tay trỏ trái chỉ đầu gối mình và ngón tay cái phải của thầy thuốc.
Trong trường hợp bệnh lý, người ốm sẽ chỉ lệch theo chiều ngang sang bên phải hoặc sang bên trái.
Chúng ta cũng có thể tìm sự lệch hướng theo chiều cao bằng cách bảo bệnh nhân di động tay trong bình diện ngang, từ bên phải hoặc bên trái đến trước mặt mình.
Rối loạn thăng bằng.
Có ba nghiệm pháp được dùng để thể hiện sự mất thăng bằng của bệnh nhân: nghiệm pháp Rômbe (Romberg), nghiệm pháp Foa-Têvơna (Foix-Thévenard), nghiệm pháp Radơmake Gacxanh (Rađemaker Garein).
Nghiệm pháp Rômbe :
Để bệnh nhân đứng thẳng, hai chân chụm lại, mắt nhắm. Nếu có rối loạn thăng bằng, bệnh nhân sẽ nghiêng người về một bên hoặc ngã về một bên.
Nếu bệnh tích ở mê nhĩ, bệnh nhân sẽ ngã về phía đối lập với hướng động mắt tức là ngã về bên tai bệnh, hướng ngã này sẽ thay đổi tùy theo tư thế của mê nhĩ. Thí dụ bệnh nhân bị bệnh ở tai trái, nếu họ nhìn thẳng về phía trước họ sẽ ngã về bên trái, nếu họ quay đầu 90 độ về bên trái thì sẽ ngã về phía sau, nếu họ quay đầu 90 độ về bên phải thì họ sẽ ngã về phía trước.
Trong trường hợp rối loạn nhẹ, chúng ta phải làm nghiệm pháp Rômbe nhạy cảm mới thể hiện được sự mất thăng bằng : bệnh nhân nhắm mắt, đứng thẳng, hai bàn chân để dọc theo một đường thẳng, bàn chân trái trước, bàn chân phải sau.
Nghiệm pháp Roa-Têvơnia (Foix-Thévenard).
Nghiệm pháp này thể hicn sự giảm trương lực cơ ở chi dưới.
Để bệnh nhân đứng thẳng trong tư thế “nghiêm”, thầy thuốc dùng ngón tay đẩy khẽ vào ngực, hướng về phía sau làm cho bệnh nhân mất thăng bằng. Bình thường cơ cẳng chân trước (muscle jambier ant rieur) và cơ duỗi chung (extenseur commun) sẽ co lại và làm cho các ngón chân nhac lên khỏi mặt đất.
Nếu bệnh nhân bị giảm trương lực cơ (hypotonie musculaire) thì các ngón chân sẽ không nhấc lên và nếu đẩy mạnh hơn bênh nhân sẽ ngã về phía sau.
Nghiệm pháp thích nghi của Rađơmake va Gácxanh (Rađemaker – Garcin).
Trong nghiệm pháp này bệnh nhân chỉ được mặc quần đùi và áo lót.
Chúng ta để bệnh nhân bò chống hai tay và hai đầu gối xuống bàn, rồi đột nhiên chúng ta nhắc cái bàn nghiêng 30 độ về một bên. Nếu là người bình thường, họ sẽ có phản xạ gò người lại, duỗi các chi bên thấp và co các chi bên cao để giữ thăng bằng không bị hất xuống đất. Nói theo lý học là họ cố giữ cho trọng tâm (centre de gravit ) không rơi ra ngoài hình chân đế (polygone de sustcntation). Trái lại nếu là người bị hỏng mê nhĩ họ sẽ không có phản ứng thích nghi và bị hất xuống đất như một pho tượng gỗ.
Chúng ta cũng có thể tìm phản ứng thích nghi bằng cách để bệnh nhân ngồi trên một cái ghế tựa, rồi đột nhiên lật ngửa ghế về phía sau. Bệnh nhân mất thích nghi sẽ ngả người theo lưng ghế như tượng gỗ. Trái lại nếu là người lành mạnh, họ sẽ có phản ứng nghiêng người về phía ttrước để giữ thân mình đứng thẳng theo đường dây dọi, không ngã theo lưng ghế.
Nghiệm pháp Babinski – Ven (Babinski – Weil) hay nghiệm pháp đi hình ngôi sao.
Bảo bệnh nhân nhắm mắt lại và đi tới đi lui sáu lần, mỗi làn tám bước. Trong khi bước tới, bệnh nhân sẽ đi lệch về bên nhĩ bệnh, khỉ đi lui họ sẽ đi lệch về bên mê nhĩ lành. Rút cuộc đường đi của bệnh nhân có dạng hình ngôi sao và bệnh nhân không trở về đúng xuất phát điểm.
Nếu là người lành mạnh thì họ sẽ đi theo đường thẳng và về đúng chỗ cũ.
RỐI LOẠN DO GÂY RA
Trong những nghiệm pháp sau đây, thầy thuốc kích thích mê nhĩ để nghiên cứu các phản ứng của nó. Hiện nay trên lâm sàng người ta dùng ba phương pháp để kích thích tiền đình : nước lạnh, điện một chiều và ghế quay.
Nghiệm pháp nước lạnh.
Về nguyên tắc chúng ta có thể dùng nước nóng 44oC hay nước lạnh 25oC để kích thích tiền đình. Hướng của động mắt sẽ trái ngược nhau tùy theo nhiệt độ của nước. Trên thực tế chúng ta quen dùng nước lạnh hơn nước nóng. Sức lạnh vào tai sẽ làm di chuyển nước nội dịch. Luồng nội dịch này kích thích các tế bào giác quan của ống bán khuyên và gây ra động mặt.
Trước khi bơm nước lạnh cần phải xem màng nhĩ có bị thủng không, nếu có thủng thì phải thận trọng như dùng nước vô trùng, nhiệt độ vừa phải (30oC), bơm nhẹ… Có tác giả khuyên không nên làm nghiệm pháp này nếu tai bị thủng.
Chúng tôi quen dùng phương pháp Côbrăc (Kobrak) cải biên theo lối Hôtăng (Hautant). Cách làm này không đòi hỏi dụng cụ đặc biệt và ít gây ra phản ứng dữ dội.
Để bệnh nhân ngồi thẳng trên ghế có tựa lưng, mắt đeo kính Bacten (Bartels) (+ 20 điốp) để loại động mắt giả, đầu ngửa 60o về phía sau. Chúng ta bơm 10ml nước lạnh 25oC vào tai người bệnh.
Bình thường 20 giây saụ khi bắt đầu bơm nước, động mắt xuất hiện. Người ta gọi đó là thời gian tiềm tàng. Động mắt k o dài trong 60 đến 90 giây.
Nếu thời gian tiềm tàng bị rút ngắn dưới 20 giây và thời gian phản ứng dài trên 120 giây thì người ta gọi là quá kích thích. Trái lại nếu thời gian tiềm tàng kéo dài trên 30 giây và thời gian động mất dưới 30 giây thì người ta gọi là kém kích thích.
Nếu tiến đình không trả lời chúng ta sẽ tăng khối lượng nước lên đến 100ml. Sau đó nếu tiền đình vẫn không phản ứng thì chúng ta kết luận rằng tiền đình không kích thích được.
Muốn nghiên cứu tính chất của phản ứng chúng ta phải để dấu nghiêng theo ba tư thế Bruninh (Brunnings) khi bơm nước :
Tư thế bruninh 1 : ngồi thẳng, đầu ngửa 60 độ về phía sau, ống bán khuyên nằm bị dựng đứng lên 90 độ. Trong trường hợp bình thường sẽ có động mắt ngang, đập về bên đối diện với tai bị bơm nước.
Tư thế bruninh II : đầu ngả về phía sau 60 độ và nghiêng 45 độ về bên tai được bơm nước. ống bán khuyên nằm bị kích thích và động mắt ngang xuất hiện. Động mắt đập về phía bên đối diện với tai bị bơm nước.
Tư thế Bruninh III : đấu ngả về phía sau 60 độ và nghiêng 45 độ về phía không bơm . nước. Haị ống bán khuyên đứng bị kích thích cùng một lúc, và gây ra động mắt quay về hướng đối diện với tai bơm nước.
Nghiệm pháp nước lạnh rất tiện lợi vì nó cho phép chúng ta nghiên cứu từng mê nhĩ một vàở mỗi tai chúng ta có thể khám riêng ống bán khuyên nằm hoặc ống bán khuyên đứng.
Sau khi phân tích động mắt xong chúng ta làm ngay nghiệm pháp đưa tay thẳng : bình thường hai tay sẽ lệch vế bên bị bơm nước. Kế đó theo chúng ta bảo bệnh nhân đứng dậy để làm nghiệm pháp Rômbe : bệnh nhân sẽ ngả về bên tai bị bơm nước.
Cuối cùng chúng ta hỏi bệnh nhân có chóng mặt buồn nôn không ? Nói chung bệnh nhân sẽ trả lời rằng có rạo rực buổn nôn hoặc thắy khó chịu trong người vài phút.
Khám xong một bên tai, chúng ta phải đợi mươi phút rồi hãy chuyển sang tai bên kia.
Chúng ta tóm tắt kết quả vào bảng kết quả khám như sau :
Phản ứng hài hòa tức là hướng động mắt và hướng nghiêg người (hoặc hướng lệch ngón tay) đối lập với nhau.
Phản ứng không hài hòa tức là động mắt và nghiêng người (hay lệch ngón tay) cùng đi về một hướng, hoặc động mắt đập về phía tai bệnh bị bơm nước, hoặc ngón tay chỉ lệch về phía tai lành không bơm nước.
Nghiệm pháp ghế quay.
Nguyên tắc : khi chúng ta để bệnh nhân ngồi trên ghế quay và chúng ta cho ghế quay tròn, toàn bộ mê nhĩ sẽ quay theo.
Nếu chúng ta hãm cái ghế lại một cách đột ngột thì nội dịch trong tiền đình, do cái đà đã có sẵn, sẽ đập vào bong bóng của ống bán khuyên và kích thích các tế bào thần kinh của mào thính giác (crête acoustique) gây ra động mắt. Muốn kích thích ống bán khuyên nào thì phải để ống bán khuyên đó trong bình diện nằm. Trong nghiệm pháp này chúng ta thử cả hai tiền đình cùng một lúc.
a) Khám ống bán khuyên nằm.
Bệnh nhân đeo kính + 20 điốp, ngồi trên ghế quay kiểu Lecmoayê (Lermoyez), đầu nghiêng 30 độ vế phía trước, lưng tựa vào thành ghế, chân đặt trên bàn đạp của ghế, hai tay nắm chặt thành ghế.
Thầy thuốc quay ghế 10 vòng trong 2l giây, và đến vòng thứ 10 chặn ghế đứng lại đột ngột. Ngay khi ghế đứng lại thì động mắt xuất và đập về hướng đối lập với chiều quay của ghế. Thầy thuốc dùng đồng hố đo thời gian từ lúc động mắt bắt đầu cho đến khi hết động mắt.
Muốn khám tiền đình phải thì chúng ta quay ghế từ phải sang trái (của bệnh nhân). Nếu khám tiền đình trái thì quay từ trái sang phải.
Nếu quay từ phải sang trái, thì động mắt sẽ đập từ trái sang phải. Nếu quay từ trái sang phải thì động mắt sẽ đập từ phải sang trái.
Khi chúng ta quay từ trái sang phải thời gian động mắt là 30 giây trong đó 25 giây do mê nhĩ trái gây ra (do dòng nội dịch chảy về bong bóng) còn 5 giây do mê nhĩ phải (dòng nội dịch thoát khỏi bong bóng) gây ra. Nếu chúng ta quay từ phải sang trái, thời gian động mắt cũng là 30 giây, trong đó 25 giây do mê nhĩ phải gây ra (dòng nội dịch chảy về bong bóng) còn 5 giây do mê nhĩ trái (dòng nội dịch thoát khỏi bong bóng).
Nếu mê nhĩ của hai bên đều chết, bệnh nhân sẽ không có phản ứng.
Nếu chỉ có mê nhĩ trái bị chết thì thời gian động mắt sẽ như sau :
Quay từ trái sang phải : 30- 25 = 5 giây
Quay từ phải sang trái : 30 – 5 = 25 giây
Nếu chỉ có mê nhĩ phải bị chết thì thời gian động mắt sẽ như sau :
Quay từ phải sang trái : 30 – 25 = 5 giây
Quay từ trái sang phải : 30 – 5 = 25 giây
Sau mỗi lần quay nghỉ 10 phút để bệnh nhân hồi tĩnh.
Trên đây là kết quả của xét nghiệm khi bệnh tích còn mới. Trong những trường hợp mạn tính, lâu ngày, kêt quả sẽ không được rõ rệt như trên vì có hiện tượng bù trừ xen vào : mê nhĩ lành đảm bảo một phần chức năng của mê nhĩ chết. Thời gian của động mắt sẽ là 15 giây mặc dù chúng ta quay về bên phải hay về bên trái.
b) Khám ống bán khuyên đứng.
Ống bán khuyên đứng gồm có ống bán khuyên trên và ống bán khuyên sau. Ở đây còn nhiều điểm chưa được rõ lắm, nhất là về vai trò của ống bán khuyên riêng lẻ. Đại khái người ta quy ước với nhau rằng :
Muốn khám ống bán khuyên trên (bình diện trán) phải ngả đầu 90 độ về phía trước. Động mắt thuộc về loại quay và k o dài trong 20 giây. Hướng của động mắt và hướng quay của ghế đối lập với nhau.
Muốn khám ống bán khuyên sau (bình diện dọc-plan sagittal) phải ngả đầu 90 độ về một bên, động mắt thuộc về loại đứng và kéo dài trong 6 giây. Thí dụ : ghế quay về bên phải mà đầu ngả về bên phải thì sẽ có động mắt đứng đập về phía dưới, nếu ngả đầu về bên trái sẽ có động mắt đứng đập về phía trên.
Nghiệm pháp điện một chiều.
Dòng điện một chiều tác động trực tiếp đến thần kinh tiền đình và gây ra phản ứng nghiêng đầu, động mắt và chóng mặt.
Dụng cụ cần thiết là 20 cái pin 1,5 vôn nối tiếp nhau, một cái ampe kế, một cái điện trở và hai cực điện.
Phương pháp thường dùng là kiểu hai tai hai cực tức la mỗi bên tai đeo một cực điện khác tên với nhau.
Cách làm :
Phản ứng nghiêng đầu :
để bệnh nhân đứng thẳng, mắt nhắm, lắp cực điện vào trước nắp tai : cực dương bên phải, cực âm bên trái. Bắt đầu cho điện chạy, và tăng dần cường độ từ 0 mili ampe trở lên. Đối với người thường khi lên đến 3 mA thì đầu nghiêng về cực dương. Trong trường hợp có thương tổn mê nhĩ, hướng nghiêng đầu sẽ thay đổi. Nếu là bệnh tích ở thân dây thần kinh hoặc ở các nhân trung ương thì ngưỡng kích thích sẽ tăng lên 10 mA hoặc hơn.
Sau khi phản ứng xuất hiện rồi, chúng ta giảm điện dần trở vể 0 mA. Nếu chúng ta cắt điện nhanh bệnh nhân sẽ ngả về bên đối diện.
Phản ứng động mắt :
Bệnh nhân mở mắt. Động mắt sẽ xuất hiện khi chúng ta tăng cường độ lên đến 5 mA và đập về phía cực âm. Động mắt ngang hoặc quay.
Lúc làm nghiệm pháp này nên cho bệnh nhân đeo kính + 20 điốp.
Nếu có thương tổn tiền đình, hướng của động mắt sẽ thay đổi và ngưỡng kích thích của dòng điện cũng tăng (10 mA).
Cảm giác chóng mặt.
Chóng mặt xuất hiện muộn và đòi hỏi cường độ điện cao (trên 10 mA). Nếu bệnh nhân mở mắt thì họ sẽ thấy đồ đạc đi động qua trước mặt họ từ cực dương qua cực âm. Nếu bệnh nhân nhắm mắt họ sẽ có cảm giác bị lôi kéo về phía cực dương.
Nghiệm pháp bơm hơi.
Bình thường nếu chúng ta dùng spêculum Sieglơ (Sieglc) bơm không khí vào ống tai ngoài, bệnh nhân chỉ có cảm giác căng trong tai.
Trái lại nếu mê nhĩ có lỗ rò (rò ở ống bán khuyên nằm) khi chúng ta bơm không khí vào tai, bệnh nhân sẽ ngả người về phía đối lập và có động mắt ngang quay đập về phía tai bệnh. Đó là triệu chứng Lukê (Lucae).
Trong trường hợp giang mai bẩm sinh ở mê nhĩ (xương bàn đạp lỏng khớp) thì phản ứng sẽ ngược lại. Khi chúng ta bơm không khí vào tai thì bệnh nhân ngả người về phía tai bi kích thích và động mắt nằm quay đập về phía đối diện (triệu chứng Heanebert)
Để kết luận về vấn để khám tiền đình chúng ta nên nhớ rằng những nghiệm pháp nói trên chỉ có giá trị tương đối nếu nó đứng riêng lẻ một mình, nhưng nếu các biện pháp đó được áp đụng một cách phôi hợp và cùng trả lời theo một hướng thì giá trị của nó rất lớn.
Chúng ta chỉ nên coi như là bệnh lý những kết quả hoặc những con số thật là bất thường. Còn những sai lệch chút ít hoặc vụn vặt thì không đáng kể.
Khi chúng ta nói mê nhĩ quá kích thích hoặc k m kích thích, chúng ta không nên căn cứ vào con số tuyệt đốì của các nghiệm pháp mà phải so sánh kết quả của hai tai với nhau.
Bệnh do tuyến giáp trạng tăng hoạt động bài tiết hormon, với những đặc điểm là có bướu cổ to vừa phải, nhịp tim nhanh, người gày, có những triệu chứng toàn thân và lồi mắt.
Căn nguyên
Là bệnh tuyến giáp tự miễn, trong cơ thể có những kháng thể tự miễn chống những thụ thể (receptor) của hormon kích thích tuyến giáp (TSH), những kháng thể này có tác dụng kích thích tạo hormon tuyến giáp (tiếng Anh: TSI: “Thyroid Stimulating Immunoglobulin”- Immunoglobulin kích thích tuyến giáp, hoặc TSAb: “Thyroid Stimulating Antibodies” – Kháng thể kích thích tuyến giáp). Những kháng thể này còn được gọi là “các chất kích thích giáp trạng”. Người ta đã mô tả những thể bệnh mang tính gia đình cũng như tần suất của kháng nguyên HLA-DR3.
Dịch tễ học
Bệnh tuyến giáp hay gặp. Theo một số nghiên cứu, thì có khoảng 2% số phụ nữ bị ưu năng tuyến giáp.
Giải phẫu bệnh
Trong những thể điển hình, người ta thấy tuyến giáp tăng sản lan toả (không thành khối u có giới hạn).
Những nang (túi hình cầu) của tuyến giáp to ra, nhưng kích thước lòng của các nang thì lại giảm, vì lớp biểu mô lát thành nang tăng sản, và các tế bào này trở thành hình trụ, chúng tạo nên các nếp lồi vào trong lòng của nang.
Tới giai đoạn muộn hơn, thấy thâm nhiễm tế bào lympho. Tăng sản có thể không lan toả mà giới hạn, tạo thành một nhân (khối u nói chung có hình cầu, giới hạn rõ rệt), gọi là u độc tuyến giáp, hoặc tạo thành nhiều nhân (khối u) gọi là bướu cô độc đa nhân.
Triệu chứng: bệnh Basedow là một trong những bệnh nội tiết hay gặp nhất, đặc biệt là ở nữ giới giữa 20 và 40 tuổi (trội về nữ giới với tỷ so 9/10).
CÁC DẤU HIỆU ƯU NĂNG TUYẾN GIÁP (HOẶC NHIỄM ĐỘC TUYÊN GIÁP):
Tim: nhịp xoang nhanh thường xuyên, nhịp nhanh tồn tại cả trong khi ngủ, dễ bị kích thích và hay xảy ra ngoại tâm thu. Đôi khi xuất hiện rung nhĩ và cuồng nhĩ nhưng hiếm hơn. Nghe tim có thế thấy tiếng thổi tâm thu (gọi là tiếng thổi Mean). Cũng có thể xuất hiện suy tim với lưu lượng tim cao.
Về thần kinh, bệnh nhân dễ bị kích thích, tăng tính vận động, bồn chồn, mất ngủ, tăng tính hoạt động, hay hoảng sợ. Cũng có những thế loạn tâm thần (ưu năng tuyến giáp với rối loạn tâm thần).
Run nhẹ và nhanh tay, chân, run tăng lên khi xúc dộng, nếu đề nghị bệnh nhân đưa hai tay ra ngang phía trước thì thấy run rõ rệt hơn.
Rối loạn điều hoà thân nhiệt (bệnh nhân có những cơn nóng bừng, sợ nóng), da nóng và ẩm. Tăng tiết mồ hôi.
Người gày mặc dù có những thời kỳ ăn vô độ. Hay bị ỉa chảy.
Yếu cơ, dễ mệt. Trong những thể mạn tính, có thể thấy teo cơ.
BƯỚU CỔ: thông thường bướu cổ kín đáo (không to rõ rệt) và lan toả, bướu di động theo nhịp thở. Khi sè nắn, bệnh nhân không cảm thấy đau. Bướu đàn hồi chứ không rắn chắc, nhưng căng mọng. Đôi khi sờ nắn có thể có dấu hiệu sờ rung ở thì tâm thu, hoặc nghe bằng ống nghe thấy tiếng thở: mạch máu. Thể tích của tuyến thay đổi và tăng lên trong những đợt bệnh tiến triển. Bướu cổ có thể nằm ở trong ngực (phát hiện bằng khám X quang).
DẤU HIỆU NHÃN CẦU (không phải bao giờ cũng có):
Lồi mắt: các mí mắt co nhỏ lại. Trong thể điển hình, cả hai mắt (nhãn cầu) đều lồi ra phía trước. Hiện tượng này là do thâm nhiễm viêm của mô mỡ ở trong hốc mắt gây ra. Khi bệnh nhân nhìn thì ánh mắt sắc và có vẻ chăm chú đặc biệt (xem: lồi mắt ác tính).
Dấu hiệu Stellwag:quan sát đơn thuần cũng thấy bệnh nhân hiếm khi chớp mắt và các mi trên bị co nhỏ lại.
Dấu hiệu Graefe: khi bệnh nhân nhìn xuống phía dưới thì dộng tác của hai nhãn cầu và của hai mí trên không đồng bộ với nhau.
Dấu hiệu Moebius: hai nhãn cầu không vận động hội tụ được.
Dấu hiệu Joffroy: động tác của mi trên mắt và cơ trán không đồng bộ làm cho khi bệnh nhân nhìn lên phía trên thì ở da vùng trán không thấy các nếp nhăn ngang.
Có những rối loạn điều tiết (rối loạn khả năng nhìn xa, gần), song thị (nhìn đôi: nhìn một vật thành hai vật).
DẤU HIỆU DA: rụng tóc lan tràn hoặc từng mảng, mí mắt thâm quầng (tăng sắc tố ở da), bạch biến (da mất sắc tố từng mảng). Phù nề rắn cả hai bên ở da vùng trước trong xương chày (cẳng chân) và vùng mu bàn chân. Có những mảng da rắn chắc nổi lên cao (xem: phù niêm trước xương chày).
BỆNH BASEDOW TRƯỚC SINH: người ta thấy rằng những trẻ sơ sinh, con của những bà mẹ bị bệnh Basedow, có hàm lượng kháng thể kích thích tuyến giáp (TSAb) cao, vì kháng thể này được chuyển qua rau thai từ mẹ sang con. Những trẻ này có biểu hiện triệu chứng xuất hiện ngay những ngày đầu tiên sau khi sinh, và hết dần và tháng thứ 3 và thứ 4.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Hàm lượng thyroxin toàn phần (T4) trong huyết tương: tăng. Hàm lượng này không bị ảnh hưởng bởi những hợp chất có iod, nhưng tăng lên trong trường hợp ngấm estrogen (ví dụ khi có thai, dùng thuốc tránh thai uống). Định lượng thyroxin tự do (FT4) không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố này, và do đó đáng tin cậy hơn (so với định lượng thyroxin toàn phần).
Hàm lượng triiodothyronin (T3) trong huyết tương: tăng. Người ta gọi là tình trạng “nhiễm độc giáp trạng do T3” khi hàm lượng thyroxin (toàn phần) bình thường nhưng triiodothyronin tăng cao (xảy ra trong 10% số trường hợp bệnh Basedow). Định lượng T3 tự do là biện pháp hàng đầu để xác định tình trạng này.
Hàm lượng thyreostimulin hoặc TSH trong huyết tương (định lượng siêu nhạy): giảm.
Test với protirelin(TRH): tiêm tĩnh mạch protirelin (TRH) và đo hàm lượng TSH trước khi tiêm và 30 phút sau khi tiêm. Nếu TSH không tăng có nghĩa là có ưu năng tuyến giáp, ngay cả khi hàm lượng T4 tự do vẫn bình thường.
Hàm lượng iod. liên kết với protein (tiếng Anh: PBI: “Protein-Binding Iodine” – Iod mang protein): tăng. Hàm lượng này bị hưởng bởi các hợp chất có iod và tình trạng ngấm estrogen.
Test Hamolsky (chuyển vận T3 đánh dấu): đo mức độ bão hoà hormon giáp trạng của TBG (Thyroxin-Binding Globulin Globulin gắn Thyroxin). Kết quả định lượng được tính theo số phần trăm (%) của mức chuẩn. Giá trị đo được này tăng lên trong trường hợp ưu năng tuyến giáp và ngấm
Các test miễn dịch: đo hàm lượng của TSI (Thyroid Stimulating Immunoglobulin – Immuno – globulin kích thích tuyến giáp), của LATS (Long – Acting Thyroid Stimulator – chất kích giáp dài hạn), của HSTS (Human Specific Thyroid Stimulator – chất kích giáp đặc hiệu người). Đây là những kháng thể kích thích tuyến giáp thuộc lớp IgG có tính chất kích thích sự hình thành (sản xuất)
Tăng calci huyết và tăng calci niệu trong trường hợp loãng xương.
Xét nghiệm bổ sung
X quang: phát hiện bướu cổ ở trong ngực bằng cách cho uống chất cản quang (dung dịch baryt) để làm rõ hình ảnh của thực quản. Chụp X quang bộ xương có thể phát hiện hình ảnh loãng xương.
Chụp nhấp nháy tuyến giáp: đường biểu diễn mức cố định iod phóng xạ vào tuyến giáp cho thấy tuyến thu nhận iod rất nhanh chóng, mức này đạt tới 50% ngay sau 6 giờ, tiếp sau đó là giai đoạn giảm thu nhận. Bản đồ thu nhận iod cho thấy iod cố định đồng đều trong khắp nhu mô tuyến giáp (trường hợp không phải là thể nhân.
Siêu âm: hình ảnh bướu cổ có cấu trúc thuần nhất.
Điện tâm đồ: nhịp xoang nhanh, rung nhĩ hoặc cuồng nhĩ, các sóng p và sóng T biến dạng (trở nên nhọn).
Đo chuyển hoá cơ bản: tăng. Hiện nay đã bỏ không làm xét nghiệm này.
Đồ thị phản xạ gân Achille (gân gót): thời gian đáp ứng ngắn lại, dưới 240 milli giây (xét nghiệm này không có ích lắm).
Chẩn đoán dựa vào những triệu chứng và dấu hiệu sau
Suy nhược cơ thể, người gày, tăng tính vận động, các cơn nóng bừng, da nóng và ẩm, nhịp tim nhanh, run tay chân.
Lồi mắt hoặc co mi mắt đơn thuần.
Bướu cổ, thường kín đáo (không to hoặc không lộ rõ).
Tăng hàm lượng thyroxin trong huyết tương, tăng mức cố định iod phóng xạ, tăng chuyển hoá cơ bản.
Chẩn đoán phân biệt
NHỮNG THỂ KHÁC CỦA ƯU NĂNG TUYẾN GIÁP:
U độc tuyến giáp.
Bướu cổ độc đa nhân.
Bướu cổ lạc chỗ: tình trạng nhiễm độc giáp trạng là do tăng bài tiết hormon giáp trạng bởi những mô tuyến giáp lạc chỗ nằm ở vùng cuông lưỡi, trong khí quản hoặc ở vùng bên của cổ.
“Iod-Basedow” thuật ngữ chỉ rối loạn, ưu năng tuyến giáp gây ra bởi cho liều cao iod trong trường hợp điều trị bướu cô dịch tễ.
Nhiễm độc giáp trạng do cố ý gây ra hoặc giả nhiễm độc giáp trạng: gây ra bởi sử dụng cố ý hormon tuyến giáp, đặc biệt trong những trường hợp chữa bệnh để làm gày người. Trong trường hợp này thì iod huyết tăng lên và thyreoglobulin suy giảm. Khi chụp nhấp nháy không thấy iod cố định vào tuyến giáp.
Viêm tuyến giáp bán cấp De Quervain: ở giai đoạn khởi phát, bệnh có thể kèm theo ưu năng tuyến giáp, với tăng hàm lượng kháng thể kháng giáp và giảm thu nhận iod trong xét nghiệm chụp nhấp nháy tuyến giáp.
ưu năng tuyến giáp thứ phát: do u tuyến yên sản xuất thừa thyreostimulin (TSH – hormon kích thích tuyến giáp), và trong trường hợp carcinom rau thai (ung thư rau thai, có thể gonadotropin rau thai gây ra ưu năng tuyến giáp).
Struma buồng trứng (bưổu giáp buồng trứng): là một loại u quái lành tính, hình thành bởi mô tuyến giáp, tạo nên bướu (gọi là “bướu giáp ở buồng trứng”) và đôi khi kèm theo tình trạng ưu năng tuyến giáp.
Chứng lồi mắt ác tính.
NHỮNG BỆNH KHÁC
Bệnh loạn tâm thần hoảng SỢ: các test chức năng tuyến giáp đều bình thường.
Tăng chuyển hoá trong bệnh u tế bào ưa crôm, trong bệnh to cực, trong trường hợp suy tim với lưu lượng cao.
Những rối loạn cơ của bệnh Basedow có thể hãn hữu biểu hiện giống với bệnh nhược cơ.
Biến chứng
Biến chứng tim (bệnh tim cường giáp): rối loạn nhịp tim (rung nhĩ, phân ly nhĩ-thất tuy hiếm hơn), suy tim lưu lượng cao, suy mạch vành tuy hiếm (gây ra cơn đau thắt ngực không ổn định). Nhịp xoang nhanh và trạng thái tim-mạch dễ bị kích thích không nằm trong khuôn khổ của bệnh tim cường giáp, nhưng là một bộ phận của bệnh cảnh nhiễm độc giáp trạng.
Cơn nhiễm độc giáp trạng cấp tinh (cơn bão giáp) (hiếm gặp): có thể được khởi động bởi stress hoặc chấn thương, đôi khi bởi phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp nhưng không được chuẩn bị chu đáo. Cơn bão giáp cũng có thể phát sinh sau khi sử dụng iod phóng xạ. Cơn biểu hiện bởi bệnh cảnh lâm sàng như sau: tình trạng mê sảng với sốt cao, nhịp tim cực nhanh , ra mồ hôi đầm đìa, nôn, ỉa chảy và mất nước.
– Những biến chứng khác, rối loạn nhãn cầu và lồi mắt ác tính (mặc dù được điều trị, nhưng lồi mắt vẫn nặng thêm và kèm theo bởi phù nề kết mạc và loét giác mạc), rối loạn tâm thần (mê sảng cấp tính), rối loạn ham muốn tình dục và chứng vú to ở nam giới.
Tiên lượng
Bệnh diễn biến thành từng đợt, thường trùng khớp với hoàn cảnh bị stress hoặc bị chấn thương tâm thần. Trong 25% số trường hợp, bệnh thuyên giảm tự nhiên trong vòng 2-3 năm. Cơn bão giáp có tiên lượng dè dặt kể cả ở những thế nhẹ.
Điều trị
CÁC BIỆN PHÁP TOÀN THẢN: nghỉ ngơi và thuốc an thần (làm dịu). Điều trị ngoại trú những trường hợp nhẹ.
THUỐC CHẸN BETA: làm giảm nhanh chóng rối loạn nhịp tim, làm cho bệnh nhân đỡ run, đỡ lo âu, và giảm tiết mồ hôi (nhưng không làm giảm hàm lượng hormon tuyến giáp). Người ta thường dùng propanolol với liều 40-60 mg, 4 lần mỗi ngày, nhưng bắt đầu với liều thấp hơn tức là 10 mg, 4 lần mỗi ngày. Thuốc chẹn beta có tác dụng cải thiện tình trạng suy tim lưu lượng cao, nhưng chống chỉ định nếu lưu lượng tim thấp.
THUỐC KHÁNG GIÁP TỔNG HỢP (xem thuốc này): chỉ định điều trị liên tục bằng những thuốc kháng giáp tổng hợp (benzylthiouracil, carbimazol, propylthiouracil) trong những trường hợp nhẹ và trung bình, nhất là cho bệnh nhân trẻ tuồi. Sử dụng cốc thuốc này yêu cầu phải theo dõi thường xuyên công thức máu (vì nguy cơ mất bạch cầu), và theo dõi chức năng tuyến giáp để điều chỉnh liều lượng cho thích hợp. Bệnh có thể thuyên giảm sau 6-12 tuần điều trị. Lúc này, sẽ giảm liều lượng thuốc xuống tới mức tối thiểu cần thiết để duy trì tình trạng hormon bình thường. Phải định lượng T4 và tuỳ tình hình, định lượng cả T3 mỗi tháng một lần, cho tới khi quyết định được liều duy trì. Kiểm tra định kỳ huyết đồ (nguy cơ giảm bạch cầu). Tiếp tục điều trị trong vòng 1-2 năm. Sau khi ngừng điều trị, tỷ lệ tái phát là 30%.
Đối với phụ nữ có thai, liều lượng phải cho ở mức thấp nhất có thế chấp nhận vì nguy cơ thuốc có thể gây ra nhược năng tuyến giáp của thai nhi.
CẮT BỎ GẦN TOÀN BỘ HAI THUỲ TUYẾN GIÁP: được chỉ định trong những trường hợp nặng, ở bệnh nhân trẻ tuổi khi bướu cô quá to, trong trường hợp tái phát hoặc không dung nạp các thuốc kháng giáp tổng hợp, và trong một số trường hợp u độc tuyến giáp hoặc bướu cổ độc đa nhân. Yêu cầu chủ yếu là phải chuẩn bị bệnh nhân thật thích đáng để bình thường hoá chức năng tuyến giáp trước khi phẫu thuật; phác đồ chuẩn bị có thể như sau:
Propylthiouracil: cho 100 đến 200 mg cứ 6 giờ một lần thuồng có kết quả làm cho hàm lượng thyroxin (T4) trong huyết tương trở lại bình thường sau 4-6 tuần. Tuy nhiên, phải ngừng ngay thuốc nếu số lượng bạch cầu giảm xuống dưới 3.000/ pl máu, và số lượng bạch cầu hạt giảm xuống dưới 45%.
Iod: mới đầu cho propylthiouracil theo liều nói trên, rồi trước khi phẫu thuật 10-20 ngày, khi các test chức năng tuyến giáp đã trở lại bình thường, thì thay thế bằng dung dịch lugol 20%, cho 5- 10 giọt mỗi ngày, sau khi phẫu thuật cho tiếp lugol như trên.
IOD PHÓNG XẠ (I131): có thể sử dụng ngay, hoặc sau khi bị tái phát. Im thường làm thuyên giảm chứng ưu năng tuyến giáp sau một vài tuần nhờ chất phóng xạ phá huỷ mô tuyến giáp tăng hoạt tác. Chưa có chứng minh nào về khả năng sinh ung thư của biện pháp điều trị này. Tuy nhiên, biện pháp điều trị này chỉ được áp dụng cho những đối tượng trên 40 tuổi. Trong trường hợp có thai thì chính thức chống chỉ định dùng biện pháp này. Cách tính liều lượng I131 khó khăn, nhưng hiện nay người ta có xu hướng cho những liều khá cao và nếu xảy ra hiệu quả phụ là nhược năng tuyến giáp thì sẽ dùng liệu pháp hormon thay thế đê bù lại. Thông thường thì sau khi điều trị bằng iod phóng xạ, ưu năng tuyến giáp hay đậm nét thêm, và càng nặng thêm nếu trước , hi điều tri bằng iod phóng xạ đã điều trị bằng lugol
ĐIỀU TRỊ BIẾN CHỨNG
Biến chứng tim: thường thường biểu hiện của biến chứng sẽ thuyên giảm khi chức nang tuyến giáp trở lại bình thường. Điều trị nhịp tim nhanh bằng những thuốc chẹn
Cơn nhiễm độc giáp trạng cấp tính (cơn bão giáp) . cho propylthiouracil (900-1200 mg uống hoặc cho qua thông dạ dày), thuốc chẹn beta (propanolol 40 mg , 4 lần mỗi ngày, uống), và dung dịch iugol (30 giọt mỗi ngày, uống, hoặc qua thông dạ dày). Tuỳ tình hình, có khi phải truyền tĩnh mạch natri iodur (0,5-1 g).
Hydrocortison 200-300 mg tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp thịt. Nếu bệnh nhân tăng thân nhiệt thì chườm lạnh. Truyền tĩnh mạch dung dịch glucose.
Biến chứng nhãn cầu: corticoid đã được đề nghị để điều trị chứng lồi mắt (về chi tiết, xem: chứng lồi mắt ác tính).
GHI CHÚ: những thể khác của ưu năng tuyến giáp
U dộc tuyến giáp (bệnh Plummer):
thay vì bướu cổ lan toả như trong bệnh Basedow, trong trường hỢp u độc tuyến giáp thường thấy một nhân (có giới hạn rõ rệt) lành tính và bài tiết. Trong bệnh cảnh lâm sàng, nổi lên hàng đầu là nhịp tim nhanh và các dấu hiệu ưu năng tuyến giáp, trong khi chứng lồi mắt và những dấu hiệu nhãn cầu khác không xuất hiện. Đôi khi chỉ thấy mi mắt co. Thể bệnh này thường gặp ở người già.
Những test sau đây thường thay đổi:
Chụp nhấp nháy: thấy một nhân tăng cố định iod phóng xạ (vùng nóng) làm cho nhu mô tuyến giáp bình thường không thu nhận iod và không phụ thuộc vào TSH.
Hàm lượng T3 tăng nhiều hơn so với T4, hormon này (T4) có thể vẫn bình thường hoặc hơi tăng. Giảm hàm lượng thyreostimulin (TSH).
Các test miễn dịch: hàm lượng LATS và TSI bình thường.
Điều trị: phẫu thuật cắt bỏ khối u (sau một vài tuần chuẩn bị bằng thuốc kháng giáp) hoặc điều trị bằng iod phóng xạ trong trường hợp có chống chỉ định phẫu thuật.
Bướu cô độc đa nhân: còn gọi là bướu cổ basedow hoá. Đây là một thể u độc tuyến giáp nhiều nhân. Chụp nhấp nháy cho thấy có nhiều vùng nóng nằm rải rác trong một bướu cổ cũ đã có sẵn ở một đối tượng nhiều tuổi. Nếu có cả các vùng lạnh thì phải nghi ngờ có ung thư phối hợp (xem: nhân trong tuyến giáp). Chọc dò xét nghiệm tế bào cho thấy tính chất đầy đủ của dịch hút và hình ảnh tế bào. Điều trị: phẫu thuật cắt bỏ (sau một vài tuần chuẩn bị bằng thuốc kháng giáp tổng hợp) hoặc điều trị bằng iod phóng xạ trong trường hợp có chống chỉ định phẫu thuật.
ưu năng tuyến giáp thể ẩn: bằng thuật ngữ này, người ta mô tả một thể ưu năng tuyến giáp ở người già, trong thể này không thấy biểu hiện những triệu chứng kinh điển của bệnh Basedow hoặc những biểu hiện này rất kín đáo. Người ta phân biệt:
ưu năng tuyến giáp ẩn: với những biểu hiện: suy tim kháng digitalis, rối loạn nhịp tim, sụt cân, đau xương, gãy xương.
ưu năng tuyến giáp lãnh cảm: trong thể này, chứng lãnh cảm thay thế tính tăng hoạt động và bệnh nhân có vẻ như bị lão suy. Tuy nhiên, tình trạng này sẽ cải thiện nhanh chóng khi được điều trị bằng thuốc kháng giáp.
Việc uống rượu đã xuất hiện và tồn tại từ rất lâu trên thế giới, có tính xã hội rộng rãi và được ghi nhận sâu sắc trong truyền thông văn hoá của nhiều nền văn minh. Tuy nhiên, rượu là chất tác động tâm thần, uống rượu ở mức vừa phải đem lại cho người uống cảm giác sảng khoái, vui vẻ, hoạt bát trong giao tiếp; nhưng uống rượu nhiều, người uống dễ lâm vào trạng thái say rượu, không làm chủ được bản thân, thậm chí có thể hôn mê và tử vong do ngộ độc rượu cấp. Những người uống rượu thường xuyên với mục đích tiêu khiển, để che đậy những khiếm khuyết của bản thân, quên đi những vướng mắc trong cuộc sống… được coi là lạm dụng rượu. Từ lạm dụng rượu đến phụ thuộc rượu và nghiện rượu có ranh giới rất mỏng manh.
Trước đây, người ta hay dùng từ “nghiện rượu” để chỉ những người có thói quen uống rượu quá nhiều. Thuật ngữ này không hoàn toàn chính xác. Người nghiện rượu có thể bị tổn thương cả về mặt cơ thể, tâm thần và xã hội do uống rượu quá nhiều và lâu dài. Vì thế, ngày nay, người ta sử dụng nhiều thuật ngữ để chỉ các trạng thái khác nhau của nghiện rượu.
Uống rượu quá nhiều: là thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng uống rượu số lượng lớn hàng ngày, hàng tuần.
Ngộ độc rượu: là chỉ các trạng thái tâm lý và sinh lý do rượu gây ra. Trạng thái này sẽ biến mất khi rượu được thải trừ hết khỏi cơ thể. Sự đáp ứng của cơ thể với tình trạng ngộ độc rượu rất khác nhau, có người thì kích động, trong khi người khác thì ủ rũ.
Nguy cơ do sử dụng rượu: là thuật ngữ để chỉ các nguy cơ có hại về mặt tâm thần và cơ thể khi uống rượu. Tuy nhiên các tác hại của rượu hiện tại vẫn chưa xảy ra.
sử dụng rượu gây hại: nghĩa là uống rượu gây hại cho cơ thể.
Lạm dụng rượu: là thuật ngữ để chỉ tình trạng tiếp theo của sử dụng rượu gây hại. Bệnh nhân vẫn tiếp tục uống rượu khi đã có các tác hại về mặt cơ thể và tâm thần do rượu gây ra.
Mất năng lực do uống rượu: là thuật ngữ dùng để chỉ bất kỳ tác hại nào về mặt cơ thể, tâm thần và xã hội do uống rượu quá nhiều gây ra.
Phụ thuộc rượu: là thuật ngữ để chỉ các hiện tượng sinh lý và tâm lý nhất định được tạo ra do uống rượu lặp đi, lặp lại lâu ngày (bao gồm hội chứng cai rượu và thèm rượu mãnh liệt). Ngoài ra, bệnh nhân còn có hiện tượng dung nạp đối với rượu.
Dung nạp rượu: là trạng thái trong đó bệnh nhân sau một thời gian dài liên tục uống rượu có hiện tượng giảm tác dụng của rượu. Khi đó họ phải tăng liều để giữ nguyên hiệu quả của rượu.
Trạng thái cai rượu: là một nhóm các triệu chứng và dấu hiệu xảy ra khi bệnh nhân giảm đáng kể số lượng rượu uống hoặc ngừng uống rượu, các triệu chứng và dấu hiệu này diễn ra trong một thời gian nhất định.
Mất trí bền vững do rượu: là thuật ngữ để chỉ tình trạng mất trí xảy ra trên bệnh nhân nghiện rượu lâu năm, hiện giờ đã cai rượu.
Y học ngày nay vẫn coi nghiện rượu là một bệnh mạn tính, vì bệnh nhân uống rượu hàng ngày, lượng rượu này ảnh hưởng đến não, gan, tim mạch… từ đó gây ra các rối loạn về tâm thần và các tổn thương ở các hệ thống tiêu hoá, tim mạch…
Xã hội cũng coi những người nghiện rượu là gánh nặng vì họ mất khả năng lao động, hay gây rối trật tự công cộng, tổn thương các mối quan hệ trong gia đình, gây ra các tai nạn giao thông, sống bê tha, nhân cách suy đồi.
Không nên nhầm lẫn giữa nghiện rượu với say rượu trong sinh hoạt thường ngày. Người nghiện rượu có các dấu hiệu bệnh cơ thế và tâm thần rõ ràng hơn. Tuy nhiên, cần biêt rằng say rượu thường xuyên là giai đoạn đầu của nghiện rượu. Những người say rượu đều có biến đổi nhân cách và suy thoái về đạo đức xã hội.
Ở nước ta, tổng kết các báo cáo tại Hội nghị “Sơ kết nghiên cứu dịch tễ, lâm sàng lạm dụng rượu” tổ chức năm 1994 tại Hà Nội cho thấy số người lạm dụng rượu chiếm tỷ lệ cao trong dân chúng. Tỷ lệ lạm dụng rượu trong thành phố là từ 5% đến 10,4%, cao hơn rõ rệt khu vực nông thôn (0,57-1,2% dân số).
Theo Hội Tâm thần học Mỹ (năm 1994), lạm dụng rượu phải thoả mãn một số tiêu chuẩn sau:
Hình thức sử dụng rượu không thích hợp gây ra một số biến đổi về chức năng hoặc một sự chịu đựng có ý nghĩa lâm sàng đặc trưng bằng sự có mặt của ít nhất một trong những biểu hiện sau, xảy ra trong vòng 1 năm trở lại đây:
+ Sử dụng nhắc lại rượu dẫn đến mất khả năng thực hiện những nhiệm vụ quan trọng trong lao động, học tập và ở nhà.
+ Sử dụng nhắc lại rượu trong các tình huống có thể nguy hiểm về thể chất (bệnh tim mạch, loét dạ dày – tá tràng, bệnh viêm gan, xơ gan, lái xe hoặc lao động với các loại máy móc khi uống rượu).
+ Lặp lại những vấn đề về pháp luật liên quan đến sử dụng rượu (ví dụ bị bắt giữ vì có những hành vi không bình thường do uống rượu).
+ Sử dụng rượu mặc dù biết có những vấn đề dai dẳng hoặc tái diễn giữa cá nhân hoặc xã hội xảy ra kịch phát lên do tác động của rượu (mâu thuẫn gia đình, cơ quan, xã hội), bùng phát lên do rượu.
Không có biểu hiện của sự phụ thuộc rượu.
NGHIỆN RƯỢU
Lạm dụng rượu dần sẽ dẫn tới nghiện rượu. Từ năm 1849, Nhà Tâm thần học Thụy Sỹ (Huss M.) đã sử dụng thuật ngữ “nghiện rượu” để chỉ những người uống rượu thường xuyên với số lượng lớn dẫn đến các vấn đề về sức khỏe cơ thể và tâm thần. Ngày nay người ta coi nghiện rượu là một bệnh mạn tính, có nhiều nguyên nhân và các yếu tố thúc đẩy khác nhau. Tuy nhiên, còn nhiều ý kiến khác nhau về định nghĩa nghiện rượu.
Theo Pouquet (năm 1951) gọi là nghiện rượu khi các bệnh nhân đã dùng rượu bị mất tự do vì rượu. Định nghĩa này tuy đã nêu được sự lệ thuộc vào rượu của người nghiện, nhưng còn mơ hồ, không tiêu chuẩn hoá cụ thể được.
Jellinek (năm 1960) định nghĩa: nghiện rượu là những người mà sử dụng rượu nhiều đến mức có hại cho bản thân, cho xã hội. Định nghĩa này lấy hậu quả có hại của rượu làm thước đo, nhưng rất khó chuẩn hoá thế nào là có hại cho bản thân và cho xã hội, vì vậy khó áp dụng vào trong thực tế.
Tác giả Hardy p. (năm 1994) định nghĩa: nghiện rượu về mặt xã hội là tất cả những hình thái uống rượu vượt quá việc sử dụng thông thường và truyền thông. Định nghĩa này nêu được sự khác biệt về tập quán, thói quen uống rượu ở các cộng đồng dân cư khác nhau, tuy nhiên cũng như các định nghĩa nêu trên, còn rất mơ hồ và chung chung, vì chúng ta không thể hiểu chính xác thế nào là uống rượu thông thường và truyền thông.
Năm 1994, Viện Hàn lâm khoa học Pháp xác định: nghiện rượu là uống hàng ngày vượt quá lml cồn tuyệt đối cho 1kg thể trọng hoặc 750ml rượu vang 10 độ cồn cho người đàn ông nặng 70kg. Theo định nghĩa này có thể hiểu một người nặng 60kg, nếu uống mỗi ngày trên 60ml cồn tuyệt đối thì người đó được coi là nghiện rượu. Định nghĩa này đơn giản, dễ hiểu và dễ áp dụng trong lâm sàng.
Trong thực tế, người ta không uống cồn tuyệt đối, các loại đồ uống có cồn có nồng độ cồn khác nhau. Vì thế khi tính toán lượng rượu uống, cần phải quy chuẩn ra cồn tuyệt đối. Ngày nay, nhiều tác giả khi nghiên cứu về nghiện rượu đã dùng rượu 40 độ cồn làm chuẩn để đánh giá lượng rượu uống trong ngày.
Hầu hết các công trình nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng để trở thành nghiện rượu, bệnh nhân cần uống mỗi ngày tối thiểu uống 300ml rượu 40 độ cồn, trong thời gian không dưới 10 năm. Tiêu chuẩn đánh giá nghiện rượu này hiện nay được áp dụng rộng rãi trong lâm sàng.
Năm 1977, Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra thuật ngữ hội chứng nghiện rượu để mô tả một nhóm triệu chứng xuất hiện ở một số người khi họ ngừng uống rượu. Các triệu chứng này thường là run nhiều, ảo giác thoáng qua, cơn co giật kiểu động kinh và sảng run. Có 7 triệu chứng chính của hội chứng nghiện rượu:
+ Cảm giác thôi thúc phải uống rượu: người nghiện rượu khi đã bắt đầu uống rượu thì không thể ngừng lại được. Nếu họ bỏ rượu, họ cảm thấy thèm mãnh liệt.
+ Thói quen uống rượu hằng ngày: người nghiện rượu uống rượu hết ngày này sang ngày khác. Họ uống rượu sau các khoảng thời gian nhất định để tránh hoặc làm nhẹ hội chứng cai.
+ Uống rượu được ưu tiên hơn các hành vi khác: với người nghiện rượu, uống rượu là vấn đề được ưu tiên hàng đầu, hơn cả sức khoẻ, gia đình, nhà cửa, nghề nghiệp và cuộc sống xã hội.
+ Có hiện tượng dung nạp rượu: với một nồng độ rượu trong máu bình thường, người nghiện rượu không bị ảnh hưởng. Họ cho rằng rượu đối với họ không thành vấn đề gì, nhưng thật ra quan niệm đó là sai bởi vì tăng dung nạp rượu là dấu hiệu quan trọng của sự tăng nghiện rượu. Đến giai đoạn cuối của nghiện rượu, sự dung nạp rượu tụt xuống và người nghiện rượu trở nên mất năng lực chỉ sau khi uống một lượng rượu nhỏ.
+ Lặp đi lặp lại hội chứng cai rượu: hội chứng cai rượu xảy ra với một người uống rượu nhiều trong thời gian nhiều năm, các triệu chứng xuất hiện khi nồng độ rượu trong máu tụt xuống. Các triệu chứng này xuất hiện khi thức giấc sau một đêm không được uống rượu.
+ Uống rượu buổi sáng: người nghiện rượu uống rượu ngay khi ngủ dậy để ngăn chặn hội chứng cai. ở hầu hết các nền văn hoá, uống rượu vào buổi sáng sớm bị coi là nghiện rượu.
+ Tái nghiện trở lại: những người nghiện rượu nặng sẽ dễ dàng tái nghiện sau một thời gian cai rượu. Khi được uống rượu họ sẽ nhanh chóng tái nghiện chỉ sau vài ngày uống rượu.
Theo WHO năm 1993, nghiện rượu là nhu cầu thèm muốn đòi hỏi thường xuyên uống đồ có cồn, hình thành thói quen, rối loạn nhân cách, giảm khả năng lao động và ảnh hưởng đến sức khoẻ.
MỨC ĐỘ PHỔ BIẾN CỦA NGHIỆN RƯỢU
Nghiện rượu và say rượu bệnh lý là một trong những vấn đề y tế-xã hội rất quan trọng. Mức độ phổ biến của chúng trong nhân dân khá rộng rãi và ngày càng gia tăng. Ở các nước công nghiệp phát triển, tỷ lệ nghiện rượu và say rượu bệnh lý chiếm từ 10-100 người trong 1000 dân (1-10% dân số).
Các tài liệu của WHO nghiên cứu ở 15 nước công nghiệp phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Canada, Đan Mạch,… cho thấy tỷ lệ nghiện rượu ngày càng tăng cao. Ví dụ như trước năm 1929 tỷ lệ nghiện rượu ở quốc gia này chỉ là 0,03%, năm 1940 tăng lên 0,33% và năm 1975 tăng lên 1,23% dân số. Nghiện rượu ở phụ nữ và người trẻ tuổi ngày càng tăng. Hiện nay, tỷ lệ nghiện rượu trong nhân dân ở các nước phương Tây tăng lên so với trước chiến tranh thế giới thứ hai khoảng 2-2,5 lần. Mức độ phổ biến trung bình trong nhân dân ở người trưởng thành từ 1-10% dân số.
Theo Ades J. (năm 1990), ở Pháp có khoảng 5 triệu người nghiện rượu, trong số đó có khoảng 600.000 phụ nữ.
Năm 1984, ở Liên Xô (cũ), người nghiện rượu được quản lý trong các dixpancer là 520 ngàn người thì đến năm 1986 tăng lên 532 ngàn người. Theo tài liệu của Yu.p. Lisishun, cứ 3-4 người lạm dụng rượu thì có 1 người bị bệnh nghiện rượu. Điều đó cho thấy giữa lạm dụng rượu và bệnh nghiện rượu có mối . quan hệ mật thiết với nhau.
Theo thống kê năm 1980 ở một số nước cho thấy nghiện rượu chiếm một tỷ lệ đáng kể trong dân chúng: ở Anh là 4,5% dân số) Đức là 4,5%, Pháp 4%, Liên Xô (cũ) là 5%. Các số liệu mới đây cho thấy ở Australia và New Zealand cho thấy 1/5 nam và 1/10 nữ lạm dụng rượu, tỷ lệ nghiện rượu là 4% ở nam và 1% ở nữ.
Trên phạm vi toàn thế giới, kể cả những nước mà rượu bia bị cấm kỵ, người ta nhận thấy việc tiêu thụ rượu bia có chiều hướng tăng lên trong thập kỷ vừa qua. Chính vì thế mà tỷ lệ những người nghiện rượu ngày càng tăng cao.
Đầu những năm 90, để có được một bệnh nhân loạn thần do rượu minh họa cho học sinh tại Khoa Tâm thần – Bệnh viện 103 không phải là dễ. Nhưng ngày nay, hàng ngày tại Khoa luôn có bệnh nhân loạn thần do rượu đến khám và điều trị. Có thời điểm, hơn 1/3 số bệnh nhân điều trị nội trú trong khoa là loạn thần do rượu. Điều này cũng phản ánh phần nào rằng số người nghiện rượu đang tăng lên trong những năm gần đây.
Ở nước ta, tổng kết các báo cáo tại hội nghị “Sơ kết nghiên cứu dịch tễ, lâm sàng lạm dụng rượu” tổ chức năm 1994 tại Hà Nội cho thấy số người nghiện rượu ở thành phố là 1,16-3,61% dân số, còn ở nông thôn là 0,13-2% dân số.
HẬU QUẢ CỦA LẠM DỤNG RƯỢU VÀ NGHIỆN RƯỢU
Nghiện rượu và lạm dụng rượu không những để lại hậu quả nghiêm trọng cho chính bản thân người sử dụng rượu mà còn để lại những hậu quả về mặt kinh tế và an ninh toàn xã hội.
Hậu quả đối với cá nhân
Rượu sau khi vào cơ thể sẽ được phân bổ đến hầu hết các cơ quan, nội tạng. Việc lạm dụng rượu lâu ngày sẽ từng bước ảnh hưởng đến chức năng các cơ quan nội tạng, phát sinh ra các rối loạn và bệnh lý khác nhau.
Theo Ades J. (năm 1990), lạm dụng rượu và nghiện rượu là nguyên nhân trực tiếp gây ra 25% số bệnh tật nói chung. Riêng chẩn đoán nghiện rượu đã chiếm 4,5% số bệnh nhân điều trị trong các bệnh viện đa khoa. Còn Steudler F. (năm 1985) lại cho rằng có đến 30% những bệnh nhân nằm viện có các rối loạn liên quan đến rượu. Trong bệnh khoa tâm thần, tại Pháp (năm 1982), nghiện rượu mạn tính chiếm 22% số bệnh nhân (34% nam giới và 8% nữ giới).
Theo các báo cáo tại Hội nghị “Sơ kết nghiên cứu dịch tễ, lâm sàng lạm dụng rượu”, tỷ lệ những người lạm dụng rượu gây hậu quả xấu về sức khoẻ trong các bệnh nội khoa giao động từ 0,7% đến 34%, trong bệnh thần kinh là 30-40%, còn trong các bệnh tâm thần là từ 50-74%.
Năm 1996, Lâm Xuân Điền và cộng sự điều tra tại 5 bệnh viện đa khoa tại Thành phố Hồ Chí Minh thấy 17,1% số bệnh nhân có sử dụng rượu, trong số đó các bệnh về tiêu hoá là 20,9%, các bệnh về cơ khớp là 19,2%, các bệnh hô hấp là 11,6%, bệnh nhiễm trùng là 8,1% và bệnh tim mạch là 7,0%.
Các tổn hại về mặt xã hội
Uống rượu quá nhiều gây tổn hại sâu sắc cho xã hội và cho gia đình. Đó là các mâu thuẫn trong hôn nhân cùng các căng thẳng trong gia đình… là không tránh khỏi. Tỷ lệ ly hôn ở các gia đình có người nghiện rượu là rất cao, vợ của người nghiện rượu dễ bị lo âu, trầm cảm và bị cô lập về xã hội. Một số người đã phải uống thuốc ngủ tự tử do đã nguyền rủa người chồng nghiện rượu của mình. Không khí căng thẳng trong gia đình là rất bất lợi cho những đứa trẻ, chúng thường xuyên bị bố mẹ chửi mắng, đánh đập cũng như không được chăm sóc tử tế. Những đứa con của người nghiện rượu có nguy cơ cao bị rối loạn cảm xúc, rối loạn hành vi, học tập sút kém ở trường học. Người nghiện rượu mất dần khả năng lao động: họ thực hiện công việc với chất lượng rất thấp, hay vi phạm kỷ luật để cuối cùng bị đuổi việc.
Uống rượu liên quan chặt chẽ đến tai nạn giao thông: khoảng 1/3 số lái xe gây tai nạn là do uống rượu, vào buổi tối thì tỷ lệ này là 50%, còn vào ngày nghỉ thì tỷ lệ lái xe gây tai nạn do uống rượu là 75%. Phần lớn số lái xe này là những người trẻ tuổi.
Tại Pháp, theo Ades J. (năm 1990) thì lạm dụng rượu là nguyên nhân gây ra 15% số vụ tai nạn gia thông với các thiệt hại to lớn về con người và vật chất. Người ta nhận thấy 27,9% số nam giới và 37,7% số nữ giới điều trị tại 21 bệnh viện tại Pháp từ tháng 12-1982 đến tháng 4-1983 do tai nạn giao thông vì nghiện rượu mạn tính. Ngoài ra, nghiện rượu còn phải chịu trách nhiệm trong 15% số vụ tai nạn lao động (khoảng 230000 trường hợp/năm) và 25% số vụ tai nạn gia đình. Người ta còn cho rằng lạm dụng rượu và nghiện rượu là nguyên nhân gây ra 19% số vụ tội ác. Nhiều ý kiến cho rằng nghiện rượu và lạm dụng rượu là nguyên nhân gây ra 60% số tử vong do tai nạn giao thông, 10-20% số tử vong do tai nạn lao động, 25% số tử vong do tự sát. Theo ước tính, ở Pháp mỗi năm có 60000-70000 người chết do rượu.
Tổ chức Y tế Thế giới đã xếp các bệnh lý do rượu là nguyên nhân đứng hàng thứ 3 gây tử vong sau bệnh tim mạch và ung thư.
Ở Việt Nam, theo các báo cáo của Hội nghị “Sơ kết nghiên cứu dịch tễ, lâm sàng nghiện rượu” cho thấy trong số người lạm dụng rượu và nghiện rượu thì 31% mất việc làm, 8-18% tan vỡ gia đình, 5-20% gây tai nạn cho người khác, 5-34% tự gây tai nạn cho mình, 5-25% số phạm pháp bị bắt giữ. Trong số những người lạm dụng rượu, 45-68,5% bị sa sút về kinh tế.
Uống rượu nhiều liên quan đến tăng tỷ lệ tội phạm như ăn cắp, lừa đảo, bán dâm, cướp giật, giết người. Phần lớn trong số họ đã uống rượu trước khi gây án. Tuy nhiên, chúng ta chưa hiểu cặn kẽ cần uống bao nhiêu rượu, trong thời gian bao lâu để gây phạm tội.
Bất cứ ai uống rượu quá nhiều đều có nguy cơ trở thành nghiện rượu nếu uống trong một thời gian đủ dài. Thời gian đủ dài là bao nhiêu thì đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Thông thường, bệnh nhân cần uống rượu trên 10 năm để trở thành nghiện rượu. Cá biệt, những trường hợp uống rượu quá nhiều thì chỉ cần uống rượu trên 5 năm là đã trở thành nghiện rượu.
Theo Hội Sinh lý Hoàng gia Anh (1987), lượng rượu uống được coi là an toàn là 21 đơn vị/tuần với nam và 14 đơn vị/tuần với nữ (một đơn vị rượu bằng 8g cồn nguyên chất), nhưng họ không uống một lúc số lượng rượu trên; hơn nữa, thỉnh thoảng phải có ngày họ không uống rượu. Lượng rượu uống mỗi tuần từ 21-49 đơn vị với nam và 14-35 đơn vị với nữ được coi là có nguy cơ, cao hơn mức độ trên được coi là nguy hiểm. Cũng theo Hội Sinh lý Hoàng gia Anh, nếu uống trên 400g rượu nguyên chất với nam và 280g với nữ mỗi tuần thì mức độ gây hại tăng lên rõ ràng. Họ cũng khuyến cáo chỉ nên uống rượu dưới ngưỡng nêu trên.
Thật ra, nồng độ rượu không giống nhau ở các loại đồ uống có cồn, vì thế lượng cồn chứa trong các loại đồ uống trên cũng không giống nhau. Một chai bia 450ml có 1,5 đơn vị rượu, một chai rượu vang 700ml chứa 7 đơn vị rượu, còn chai rượu mạnh 700ml thì có tới 30 đơn vị rượu.
Còi xương là bệnh loạn dưỡng xương do thiếu vitamin D, hoặc do rối loạn chuyển hoá vitamin D trong cơ thể. Bệnh còi xương do thiếụ vitamin D hay gặp ở trẻ nhỏ nhất là trẻ < 1 tuổi.
– Nguồn gốc: Là hạt của Mạch lam thái thực vật họ Thạch Trúc.
Mạch lam thái Vaccaria segetalis Garcke
Dược liệu Vương bất lưu hành SEMEN VACCARIAE
– Phân bố –
Ngoài Hoa Nam ra, các vùng Trung Quốc đều có phân bố.
– Thu hoạch –
Tháng 4, 5 lúc lúa mạch chín thu hoạch (Vùng Đông Bắc là vào mùa thu), cắt lấy toàn thảo, phơi khô, khiến quả tự nhiên tách ra, sau đó đánh hạt rơi xuống, bỏ đi tạp chất, phơi khô.
Bào chế
Sảy sạch tạp chất, bỏ vào trong nồi, dùng lửa nhỏ sao đến nổ nứt ra 6, 7 phần lấy ra, để nguội.
Tính vị
– Trung dược học: Đắng, bình.
– Bản kinh: Vị đắng, bình.
– Ngô phổ bản thảo: Kì Bá, Lôi Công: Ngọt.
– Biệt lục: Ngọt, bình, không độc.
– Bản thảo tiện độc: Đắng vừa cay, bình.
Qui kinh
– Trung dược học: Vào kinh Can, Vị.
– Cương mục: Dương Minh, xung, nhâm.
– Lôi Công bào chế dược tính giải: Vào 2 kinh Tâm, Can.
Công dụng và chủ trị
Hành huyết thông kinh, thúc dục sinh xuống sữa, tiêu sưng thu liễm vết thương.
Trị phụ nữ kinh bế, sữa không thông, khó sanh, huyết lâm, nhọt sưng, vêế thương do kim khí xuất huyết.
Thông kinh xuống sữa: Dùng trị kinh bế và sữa không xuống.
Vương bất lưu hành trị sữa nhiều maàkhông thông; nếu chứng hư sữa ít cần phối dùng thuốc bổ ích khí huyết.
Hoạt huyết tiêu sưng: Dùng trị khối sưng ứ huyết và nhọt vết thương sưng độc.
– Bản kinh: Chủ vết thương do kim khí, cầm máu đuổi đau, ra gai nhọn, trừ phong tý lạnh bên trong.
– Dược tính luận: Trị phong độc, thông huyết mạch.
– Nhật Hoa tử bản thảo: Trị phát bối, du phong, phong chẩn, đàn bà huyết kinh không đều và sanh khó.
– Trân châu nang: Đạo dẫn mẹ con, lợi vết thương nhọt loét, chủ trị lỵ.
– Cương mục: Lợi tiều tiện.
– Bản thảo tòng tân: Trị đinh nhọt.
Kiêng kỵ
– Bản thảo kinh sơ: Đàn bà có thai chớ uống.
– Bản thảo hối ngôn: Bệnh thất huyết, bệnh băng lậu đều nên kỵ vậy.
Cách dùng và liều dùng
Sắc uống, 5 ~ 10g. Dùng ngoài lượng thích hợp.
Nghiên cứu hiện đại
Thành phần hoá học: Hàm chứa 4 loại vac- segoside A, B, C, D; còn hàm chứa flavonoid , như vaccarin, isosaponarin; ngoài ra còn hàm chứa phytin, phospholipid, stigmasterol v.v…
Tác dụng dược lý:
Thuốc sắc nước đối với chuột nhắt có tác dụng chống cấy ghép (đưa phôi vào tử cung), chống mang thai sớm. Dịch chiết nước và dịch chiết ether đều có tác dụng chống ung thư.
– Phụ phương –
Vương bất lưu hành giỏi về hành huyết biết danh tuy có mệnh lệnh của vua nhưng cũng không thể lưu giữ lại được tính hành của nó, cho nên gọi là Vương bất lưu hành, chảy máu không cầm, nó có thể cầm máu. Trong phụ khoa, Vương bất lưu hành là lương dược phát nhũ, thường cùng dùng với Xuyên sơn giáp, tục ngữ có nói “Có Xuyên sơn giáp, Vương bất hành, đàn bà uống vào sữa chảy dài”, có thể thấy tác dụng thông sữa của bổn phẩm là rất rõ ràng.
Bài thuốc cổ kim tham khảo
+ Phương thuốc 1:
Trị huyết lâm không ngừng: Vương bất lưu hành 1 lượng, Đương qui thân, Xuyên tục đoạn, Bạch thược dược, Đan sâm đều 2 chỉ, phân làm 2 thang, sắc nước uống.
(Đông hiên sản khoa phương)
+ Phương thuốc 2:
Trị các chứng lâm và tiểu tiện thường không lợi, trong âm đau, ngày phát vài chục lần, đó là do hư nhiệt lao tổn gây ra: Thạch vi (bỏ lông), Hoạt thạch, Cù mạch, Vương bất lưu hành, Quỳ tử đều 2 lượng. Giã sàng nghiền nhỏ. Mỗi lần uống thìa 1 tấc vuông, ngày uống 3 lần.
(Ngoại Đài)
+ Phương thuốc 3:
Trị ung nhọt sưng: Vương bất lưu hành (nghiền nhỏ) 2 thăng, Cam thảo 5 lượng, Dã cát (冶葛) 2 lượng, Quế tâm 4 lượng, Đương qui 4 lượng. Năm vị trên hợp sàng. Dùng rượu uống thìa 1 tấc vuông, ngày 3 lần đêm 1 lần.
(Y tâm phương – Vương bất lưu hành tán)
+ Phương thuốc 4:
Trị vú ung nhọt mới phát: Vương bất lưu hành 1 lượng, Bồ công anh, Qua lâu nhân đều 5 chỉ, Đương qui ngọn 3 chỉ. Rượu sắc uống.
(Bản thảo hối ngôn)
+ Phương thuốc 5:
Trị sau phân ra huyết: Bột Vương bất lưu hành, nước uống 1 chỉ.
(Thánh tể tổng lục)
+ Phương thuốc 6:
Trị đầu phong vẩy trắng: Vương bất lưu hành, Hương bạch chỉ phân lượng bằng nhau nghiền nhỏ, khô thấm 1 đêm, chải bỏ.
(Thánh huệ phương)
+ Phương thuốc 7: Dùng Vương bất lưu hành 15g, Xuyên sơn giáp 25g điều trị chứng thiếu sữa, phụ trợ hầm với móng heo, mỗi tối trước khi đi ngủ ăn thịt uống nước. Người huyết hư, gia dùng Tứ vật thang. Điều trị 5 ca chứng thiếu sữa, đều thu được hiệu quả xuống sữa không cùng trình độ.
(Xích cước y sinh tạp chí, 1975,(8):26)
+ Phương thuốc 8:
Dùng Bồ công anh 50g, Vương bất lưu hành 25g, sắc nước uống, tất cả trị 28 ca viêm tuyến vú cấp tính. Kết quả đều uống 1 thang chuyển biến tốt rõ rệt, 2 ~3 thang bệnh khỏi, không 1 ca nào hoá mủ.
Xin nhắc lại là “Điều trị” chứ không phải “hỗ trợ điều trị” hay phòng bệnh COVID – 19. Rất lâu nay chính vì sự không rõ ràng này làm cho Tây y và nhân dân có cái nhìn không chính xác về vai trò của Đông y đối với COVID – 19.
Nguy cơ phải đối mặt với đại dịch COVID – 19 trên toàn quốc là rất cao.
Hiện nay tỷ lệ người dân được tiêm vaccin đủ 2 mũi còn rất thấp, nhiều chuyên gia đều nhận định COVID – 19 sẽ còn tồn tại lâu dài và sẽ không hoàn toàn biến mất dù đã tiêm đủ tỷ lệ vaccin . Việc không thể tiếp tục giãn cách toàn xã hội kéo dài, trong khi vaccin chưa phủ được tỷ lệ dân số như mong muốn, khiến nguy cơ lây lan của dịch là rất cao. Gần đây, Chính phủ cũng đang có định hướng sống chung với dịch COVID – 19 và nhấn mạnh cần nghiên cứu thuốc đông tây y kết hợp điều trị COVID – 19. Vậy đông y nên tham gia điều trị COVID – 19 như thế nào?
Đông y đã có kinh nghiệm điều trị nhiều đại dịch từ hàng ngàn năm trước cho đến nay
Từ hàng ngàn năm trước, Đông y đã có nhiều kinh nghiệm điều trị đối với các đại dịch. Đặc biệt Trương Trọng Cảnh tại Trung quốc khoảng gần 2000 năm trước đã có một tác phẩm thuộc hàng kinh điển trong điều trị bệnh dịch đó là “Thương hàn luận”. Sau này có cũng có rất nhiều tác phẩm trong điều trị bệnh dịch: Ôn bệnh điều biện (Ngô Cúc Thông), ngoại cảm thông trị (Hải Thượng Lãn Ông)… Trong dịch SARS năm 2003, kế thừa các bài thuốc cổ truyền và kinh nghiệm điều trị, các nghiên cứu lâm sàng đã cho thấy thuốc y học cổ truyền điều trị giúp giảm thời gian kéo dài các triệu chứng, cải thiện triệu chứng, cải thiện tỷ lệ tử vong. Và tính đến tháng 3 năm 2020, có đến 303 nghiên cứu lâm sàng đang được tiến hành để đánh giá hiệu quả và độ an toàn của y học cổ truyền trong điều trị COVID-19 tại Trung Quốc.
Hình minh họa Trương Trọng Cảnh
Trong các bài viết và bài dịch, thì Trung Quốc đã phân ra 3 tầng bệnh nhân từ khi bắt đầu điều trị COVID – 19. Đông y của họ tham gia trực tiếp thăm khám và điều trị cả 3 tầng, ở tầng 3 có kết hợp với Tây y để điều trị và đã cho thấy có hiệu quả rất tốt. Tuy nhiên do công nghệ hóa dược phát triển từ rất sớm, họ đã có các sản phẩm thuốc viên nang, thuốc tiêm cấp cứu được chiết xuất hoạt chất từ thảo dược. Các thuốc tiêm cấp cứu đã được áp dụng từ hàng chục năm trước, vì vậy thực hiện trên lâm sàng đã rất nhuần nhuyễn nên họ có thể tham gia điều trị rất tốt ở tầng 3.
Với thực tế tại Việt Nam, Tôi xin đưa ra 1 vài đề xuất như sau:
Theo thống kê của WHO cho thấy “trong số những người xuất hiện các triệu chứng, hầu hết (khoảng 80%) khỏi bệnh mà không cần điều trị tại bệnh viện. Khoảng 15% bị bệnh nặng cần thở oxy và 5% bị bệnh nặng cần được chăm sóc đặc biệt”. Và trong phác đồ điều trị của bộ Y tế cũng nhận định tương tự. Hiện nay thực tế với tình trạng số lượng bệnh nhân quá lớn khiến quá tải ở tất cả các cơ sở y tế trong miền Nam, dù đã được chi viện nhân lực y tế từ các miền, nên khi bệnh nhân còn trong tình trạng nhẹ không thể vận dụng điều trị tối ưu trong giai đoạn sớm khiến bệnh nhân có nguy cơ chuyển nặng cao.
Với thực tế tại Việt Nam chúng ta nên sử dụng các bài thuốc dưới dạng sắc uống để điều trị cho bệnh nhân, (nếu các sản phẩm có ý định chế dưới dạng thuốc viên nang, viên nén, hỗn dịch… cần phải được nghiên cứu hiệu quả trên lâm sàng một cách tỷ mỷ). Theo phân tầng của Việt Nam thì Đông y hoàn toàn có thể điều trị tốt cho bệnh nhân tầng 1 và tầng 2, ngăn ngừa bệnh nhân chuyển nặng sang các tầng 3. Với bệnh nhân tầng 3 có thể nghiên cứu kết hợp Tây y điều trị.
Lý do điều trị cho bệnh nhân tầng 1, 2 và ngăn ngừa bệnh nhân chuyển sang tầng 3 là dựa vào lý luận “Phù chính khu tà” trong điều trị của Đông y (phù trợ chính khí của cơ thể nhằm mục đích đuổi tà khí không cho tà khí xâm nhập sâu hơn). Với các triệu chứng của bệnh, Đông y biện chứng phân bệnh nhân thành các phần Vệ, Khí, Doanh, Huyết. Bệnh nhân thuộc tầng 1 và 2 tương đương với giai đoạn đầu thuộc phần Vệ, Khí. Bệnh nhân thuộc tầng 3 với các triệu chứng trầm trọng thuộc vào phần Doanh, Huyết. Khi mắc bệnh, Đông y đặc biệt chú trọng điều trị khi bệnh nhân còn trong giai đoạn sớm thuộc phần Vệ và Khí, đó là phải khu tà, phù chính để tránh tà khi xâm nhập vào phần Doanh và Huyết. Từ đó cho thấy tầm quan trọng của Đông y trong điều trị bệnh COVID – 19. Với những nghiên cứu và các báo cáo của họ có thể làm nền tảng lý luận và dùng thuốc trên thực tiễn tại Việt Nam. Nên tôi xin mạnh dạn đề xuất những chuyên gia Đông y nên tìm hiểu và nghiên cứu nó áp dụng trên lâm sàng.
Bài thuốc được đánh giá cao tại Trung Quốc là “Thanh phế bài độc thang”
Bài thuốc này được Quốc y đại sư hàng đầu trong ngành truyền nhiễm Đông Y Trung Quốc – Tiết Bá Thọ đề xuất. Bài thuốc là phức phương từ các bài thuốc cổ phương trong “Thương hàn luận” bao gồm: Ma hạnh thạch cam thang, Xạ can ma hoàng thang, Tiểu sài hồ thang, Ngũ linh tán. Thành phần gồm:
Ma Hoàng 9g, Chích Cam Thảo 6g, Hạnh Nhân 9g, Sinh Thạch Cao 15~ 30g (sắc trước), Quế Chi 9g, Trạch Tả 9g, Chư Linh 9g, Bạch Thuật 9g, Phục Linh 15g, Sài Hồ 16g, Hoàng Cầm 6g, Khương Bán Hạ 9g, Sinh Khương 9g, Tử Uyển 9g, Đông Hoa 9g, Xạ Can 9g, Tế Tân 6g, Hoài Sơn 12g, Chỉ Thực 6g, Trần Bì 6g, Hoắc Hương 9g.
Phân tích bài thuốc này có tác dụng: Khư hàn bế lại lợi tiểu tiện khư thấp, Ma hoàng có thể tăng tác dụng khứ thấp của ngũ linh tán. Ngũ linh tán khống chế sự phát hãn khắc nghiệt của Ma Quế (Ma hoàng Quế chi). Thanh phế bài độc thang là 1 phức phương. Quế chi cam thảo cay ngọt hóa dương phù chính, Linh quế thuật cam lại có tác dụng kiện tỳ hóa ẩm. Do Covid – 19 khí đoản, tuy suyễn không rõ rệt, kỳ thực phế bế không thông, có suyễn khái càng là nghiêm trọng, Hợp dụng xạ can ma hoàng thang và Quất chỉ khương thang, Tiểu sài hồ thang là thiếu dương bệnh, bán biểu bán lý, lại có thể thông lợi tam tiêu, để phòng ngừa tà nhập lý, lại điều can hòa vị, bảo hộ công năng tiêu hóa, thêm Hoắc hương để phương hương hóa thấp, Dùng Thạch cao phòng uất mà hóa nhiệt.
Hiện nay bài thuốc này cùng phác đồ điều trị của họ cho thấy hiệu quả rất cao và vẫn đang được áp dụng cho toàn quốc. Và đặc biệt với cơn bão Cytokine, nguyên nhân hàng đầu dẫn tới bệnh nhân đến tình trạng trầm trọng và tử vong, Đông y đã có những lý luận để can thiệp trong phòng và chống cơn bão Cytokine như trong các bài viết trước đây của tôi đã trình bày.
Một vài báo cáo về bài thuốc này:
Theo “Tạp chí Trung Y dược Trung Quốc” báo cáo, Thanh phế bài độc thang là lương phương đặc biệt hiệu quả để ngăn ngừa và điều trị COVID-19, với tỷ lệ khỏi bệnh là 99,28% và được liệt kê là lựa chọn hàng đầu trong điều trị lâm sàng của Đông Y. Thanh phế bài độc thang thông qua điều chỉnh các con đường tín hiệu Toll-like receptor 4 (TLR4) và NF- κ B, ức chế TNF- α, IL-1β và IL-8 để làm giảm tổn thương viêm mô phổi.
Theo《Phytomedicine》tạp chí thực vật y học : Trong số 8939 bệnh nhân nhập viện với bệnh Covid – 19, 29% được điều trị bằng thuốc Thanh phế bài độc thang. Tỷ lệ tử vong tại bệnh viện của những bệnh nhân không dùng Thanh phế bài độc thang là 4,8%, so với 1,2% của những bệnh nhân dùng Thanh phế bài độc thang.
Cây đăng tiêu mọc leo dài tới 10 mét, được trồng làm cảnh. Hoa màu đỏ hồng, to, có ống hình chuông hơi dài, các thùy rộng. Hoa đăng tiêu được dùng làm thuốc chữa bệnh. Theo Đông y hoa đăng tiêu có vị ngọt tính lạnh, tác dụng hành huyết, làm tan máu ứ, mất máu, trừ phong, điều hòa kinh nguyệt, chữa bế kinh, kinh nguyệt không đều, kết thành hòn cục, băng huyết, rong huyết, vô kinh; đau vùng thượng vị, bạch đới; ngứa ngáy ngoài da; mầy đay, mụn trứng cá, không dùng cho người có thai hay mới ốm dậy.
Hoa đăng tiêu tác dụng hành huyết, làm tan máu ứ điều hòa kinh nguyệt
* Thuốc ứng dụng:
Bài 1. Thuốc chữa bệnh vô kinh
+ Hoa đăng tiêu 9g
+ Hoa hồng 10g
+ ích mẫu 15g
+ Rau sam 10g
+ Hồng hoa 6g
Các vị thuốc cho vào nồi cùng 500ml nước, đun sôi kỹ. Chắt lấy 200ml nước đặc. Người bệnh chia đều 3 lần uống trong ngày trước bữa ăn. cần uống liền 5-7 ngày.
Bài 2. Thuốc chữa bệnh viêm dạ dày
+ Hoa đăng tiêu 9g
+ Nghệ vàng 15g
+ Gừng 5g
Mật ong 20ml
Các vị thuốc cho vào nồi cùng 500ml nước, sắc lấy 200ml nước thuốc đặc. Cho mật ong vào nước thuốc quấy đều. Người bệnh chia 3 lần uống trong ngày trước bữa ăn. cần uống liền 10-12 ngày.
Bài 3. Thuốc chữa mụn trứng cá
+ Hoa đăng tiêu 100g
+ Nghệ vàng tươi 50g
+ Dầu vừng 50ml
Nghệ vàng rửa sạch cùng hoa đăng tiêu cho vào cối giã nhỏ; cho dầu vừng vào trộn đều, lấy bông sạch chấm thuốc vào chỗ mụn trứng cá. Ngày bôi 1 lần vào buổi tối. Bôi liên tục từ 5-7 ngày.
Bài 4. Thuốc chữa bệnh ngoài da
+ Hoa đăng tiêu 50g
+ Lá sả tươi 50g
+ Lá xoan tươi 50g
Các vị thuốc cho vào nồi cùng 400ml nước, đun sôi kỹ, chắt lấy 150ml thuốc đặc, lúc nóng xông hơi thuốc lên vùng da bị chốc lở, ngứa. Khi nguội dùng nước lau rửa chỗ đau, ngày làm 2 lần. Cần làm liền 3-5 ngày.
Bài 5. Thuốc chữa bệnh kinh nguyệt không đều
+ Hoa đăng tiêu 9g
+ ích mẫu 15g
+ Ngải cứu khô 10g
Các vị thuốc cho vào nồi cùng 500ml nước, đun sôi kỹ. Chắt lấy 200ml nước đặc. Người bệnh chia làm 3 lần uống hết trong ngày vào trước bữa ăn. cần uống liên tục 7 ngày trước kỳ kinh nguyệt.
Trên mình trẻ em có mụn nhọt, có bậc cha mẹ cứ thích ra sức nặn mủ ra, tưởng rằng như vậy sẽ mau khỏi, thực ra như vậy là vô cùng nguy hiểm.
Bởi vì sau khi dùng sức nặn mủ, áp lực trong khoang mủ tăng lên, có thể làm cho mủ hoặc vi trùng thâm nhập vào máu, dẫn đến cảm nhiễm toàn thân hoặc di chuyển sang các bộ phận khác, tức là cái mà người ta gọi là bệnh bại huyết hoặc là bệnh máu có mủ độc. Cho nên khi trẻ em mọc mụn nhọt, tuyệt đối không được nặn, nhất là mụn mọc ở trên môi trên hoặc là ở trên mũi càng không được nặn , bởi vì tĩnh mạch ở trên mặt ăn thông với tĩnh mạch ở trên đầu, nếu mủ hoặc vi trùng xâm nhập vào huyết quản có thể dẫn đến cảm nhiễm, gây nên nguy hiểm.
Trẻ em không nên lạm dụng đồ hoá trang
Có một số bậc cha mẹ cứ thích cho con đánh phấn bôi son, sơn móng chân móng tay, nên biết rằng làm như vậy là rất không có lợi cho sức khoẻ của các em.
Bởi vì làn da của trẻ em còn rất non nớt, không chịu đựng nổi sự kích thích của đồ hoá trang, dễ xảy ra phản ứng quá mẫn cảm. Ví dụ trong son bôi môi có những hương liệu và những chất huỳnh quang brôm có thể làm cho mồm bị khô, bị ngứa, bị rộp; sơn móng tay có thể làm cho móng tay biến chất, trở nên giòn, thậm chí dẫn đến viêm kẽ móng tay, dẫn đến bệnh nứt móng tay. Nếu cho trẻ em dùng đồ hoá trang của người lớn, sẽ gây tổn thương đến làn da của các em. Cho nên, ngoài những ngày hội hè, biểu diễn văn nghệ ra, tốt nhất là không nên cho trẻ em sử dụng mỹ phẩm hoá trang.
Trẻ em không nên dùng kem dưỡng da của người lớn
Kem dưỡng da của người lớn mà để cho trẻ em sử dụng, không những không có tác dụng bảo vệ làn da, mà còn có thể làm cho lớp da của các em trở nên thô ráp, sần sùi, hoặc là làn da quá mẫn cảm thì xuất hiện những chấm đỏ hoặc những nốt sần nhỏ.
Thiếu nhi không nên đánh phấn, bôi son
Bởi vì làn da của trẻ em còn mềm mại, lỗ chân lông rất nhỏ, dễ bị hoá mỹ phẩm của người lớn làm cho tắc lại, trở ngại cho việc thoát mồ hôi và phân tiết của làn da. Những sắc tố do các chất hoá học hợp thành ở trong kem dưỡng da của người lớn và hàm lượng hương liệu trong đó rất cao, gây kích thích cho lớp da của trẻ em khá mạnh. Những loại kem dưỡng da của người lớn thường có các chất như sữa ong chúa, ngân nhĩ, nhân sâm v.v… Những loại kem này dễ bị biến chất vì ô-xy hoá, sinh ra những chất hoá học độc hại, đối với làn da của trẻ em có tính kích thích rất mạnh. Vậy trẻ em không nên dùng kem dưỡng da của người lớn , chỉ nên dùng loại kem bảo vệ da của trẻ em mà thôi.
Trẻ em không nên xoa phấn quá dày ở trên mặt
Có một số bà mẹ trẻ, thường hay làm đỏm cho đứa con gái độc nhất của mình bằng cách trang điểm thật bảnh bao đẹp đẽ như trát lên má con gái những loại phấn thật thơm, đắt tiền, đến nỗi làm cho má con trở nên trắng bệch. Như vậy không những không làm cho con đẹp hơn, mà còn có hại cho sức khoẻ của con gái.
Khi ánh nắng mặt trời chiếu vào mặt đứa trẻ, có thể làm cho da mặt trở nên mềm mại, lớp da sáng bóng và rất xốp. Nếu trên má lại trát lớp phấn dầy, sẽ trở ngại cho việc hấp thu bình thường tia tử ngoại của lớp da, thường hay dẫn đến da quá mẫn cảm. Điều có hại nhất là ảnh hưởng đến sự hợp thành của vitamin D. Bởi vì chất vitamin D ở trong cơ thể trẻ em, tồn tại ở trong lớp biểu bì, chủ yếu dựa vào tác dụng của tia tử ngoại chiếu vào mà chuyển hoá thành vitamin D và trruyền vào trong máu. Nếu trên mặt thường xuyên xoa phấn dầu, sẽ làm giảm bớt việc sản xuất ra vitamin D ở trong cơ thể, ảnh hưởng đến việc hấp thu phốt-pho, can-xi của xương, do đó mà ảnh hưởng đến sự trưởng thành của trẻ em. Ngoài ra trên mặt bôi nhiều phấn dầu sẽ làm tắc việc thoát mồ hôi và bã nhờn, nếu gặp vi trùng cảm nhiễm thì sẽ sinh rôm xảy.
Thiếu nhi không nên đánh phấn, bôi son
Có một số gia trưởng thích cho trẻ con, nhất là con gái trang điểm, má phân môi son. Như sơn móng tay, kẻ lông mày, sát phấn, bôi son…. Đối với trẻ em, nếu cứ kéo dài việc sử dụng những mỹ phẩm hoá trang thì sẽ có hại.
Bởi vì lớp da mặt của trẻ em còn non, sử dụng mỹ phẩm hoá trang, rổi do nước mắt, nước mũi, mồ hôi, nước dãi hoà quyện vào sẽ hình thành một lớp mô, ảnh hưởng đến sự chuyển hoá bình thường của làn da. Đồng thời các chất hoá học ở trong mỹ phẩm như các sắc tố, hương liệu v.v…có thể dẫn đến “ Viêm da mỹ phẩm”. Nếu sử dụng mỹ phẩm dài ngày có thể làm tắc lỗ chân lông. Dẫn đến viêm lỗ chân lông.. Những đồ mỹ phẩm có chát hoá học có tính cảm quang như dầu hắc ín chẳng hạn tùi còn có thể dẫn đến “ Viêm da mẫn quang”, “ Ban da sắc tố” v.v… Cho nên trẻ em không nên đánh phấn bôi son. Để đề phòng da trẻ em bị khô, có thể xoa ngoài da một chút glixêrin pha loãng.
Trẻ em không nên đeo nhẫn
Chăm chút, làm dáng cho con cái là điều rất nên. Song có một số cha mẹ lại thích cho trẻ con đeo nhẫn. Trên thực tế, trẻ con đeo nhẫn là có hại.
Bởi vì trẻ còn đang ở giai đoạn lớn lên về thân thể, trên ngón tay mà đeo chiếc nhẫn kim loại vào, không những ảnh hưởng đến sự phát triển của ngón tay, mà còn rất có khả năng xảy ra hiện tượng “ Nghiến thịt ” hoặc “ Thắt lại ”, gây trở ngại cho việc tuần hoàn máu ở ngón tay, do đó mà ngón tay bị sưng mọng, tím bầm, hoại tử hoặc bị loét ra. Nếu nhẫn lại lắp đá quí vào nữa thì còn có thể làm xước da mình hoặc làm xước da người khác. Cho trẻ em đeo nhẫn cũng không có lợi cho việc giáo dục tâm lý trẻ em. Cho nên, không nên cho trẻ em đeo nhẫn.
Bạn muốn thực hiện từ bốn đến tám động tác chủ chốt trong mỗi buổi tập. Đảm bảo bạn nhắm đến cả cơ bụng trên và cơ bụng dưới, các cơ xiên ở hai bên, và lưng. Động tác “đạp xe” là một trong những động tác tốt nhất. Nằm ngửa và “đạp” trên không. Nâng một vai như thể bạn đang cố gắng chạm vào đầu gối đối diện. Lặp lại ở bên còn lại trong hai hiệp, mỗi hiệp 12 lần. Giữ khuỷu tay ở phía sau, và lưng dưới trên sàn.
Gập bụng cổ điển
Gập bụng là một động tác cổ điển vì nó có hiệu quả. Nằm ngửa, đầu gối gập và bàn chân đặt phẳng trên sàn. Đặt tay sau đầu, khuỷu tay hướng ra ngoài. Với lưng dưới trên sàn, sử dụng cơ bụng để nâng phần thân trên lên càng xa càng tốt. Giữ tư thế một chút, sau đó từ từ trở lại sàn. Thực hiện ba hiệp, mỗi hiệp 10-12 lần. Nghỉ 30 giây giữa các bài tập cơ bụng.
Gập bụng ngược
Gập bụng ngược tập trung vào cơ bụng dưới, vùng khó có thể phát triển. Giữ tay bên cạnh, lòng bàn tay hướng xuống. Sử dụng cơ bụng để nâng chân, đưa đầu gối thẳng lên trên hông. Co cơ bụng thêm nữa và nâng hông và lưng dưới khỏi thảm, đầu gối hướng về phía mặt. Giữ trong giây lát trước khi hạ xuống thảm. Không để bàn chân chạm sàn. Thực hiện ba hiệp, mỗi hiệp 10-12 lần. Cũng xem: Các bài tập cơ bụng dưới tốt nhất cho phụ nữ và nam giới.
Nâng gỗ
Cầm một quả tạ, bóng thể dục hoặc hệ thống tạ cáp. Chọn mức tạ đủ để làm mệt cơ trong 12 lần. Quỳ một chân với chân kia ở phía trước. Sử dụng cả hai tay để nâng tạ lên qua vai, ở phía chân trước. Không xoay thân mình. Từ từ hạ tạ xuống hông đối diện. Đầu, hông và thân mình nên luôn hướng về phía trước. Thực hiện 8 đến 12 lần trước khi đổi bên.
Xoay thân
Chọn một quả bóng thể dục hoặc quả tạ. Trong tư thế ngồi, ngả người về phía sau một chút và co cơ bụng, với đầu gối gập và gót chân chạm sàn. Giữ tạ gần cơ thể, và từ từ xoay thân mình sang một bên. Dừng lại một chút trước khi xoay sang bên đối diện. Co cơ bụng thật chặt khi bạn xoay. Tăng lên ba hiệp, mỗi hiệp 12 lần.
Cơ bụng và cơ ngực: Đưa tạ bay
Để có vẻ ngoài đẹp khi không mặc áo, bạn sẽ muốn có cơ ngực nổi bật cùng với cơ bụng phẳng. Đây là một động tác nhắm vào cả hai vùng. Ngồi trên một quả bóng ổn định cầm tạ. Đi bộ về phía trước và nằm ngửa cho đến khi đầu và phần lưng trên nghỉ trên bóng. Giữ tạ ngay trên khuỷu tay. Siết chặt cơ bụng và đẩy tạ lên thẳng. Từ từ xoay cánh tay ra và vào — kéo dài nhưng không khóa lại. Thực hiện ba hiệp, mỗi hiệp 8-12 lần.
Cơ bụng và lưng: Tư thế plank trước
Khi bạn xây dựng cơ bụng cứng cáp, hãy chắc chắn rằng lưng của bạn cũng theo kịp. Tư thế plank sẽ giúp bạn thực hiện điều đó. Nằm sấp với cẳng tay trên sàn. Giữ khuỷu tay gập và dưới vai. Sử dụng cơ cốt lõi để nâng thân mình và đùi khỏi sàn, siết chặt cơ mông và cơ bụng. Giữ trong 5 giây và nâng lên 30 đến 60 giây trước khi hạ xuống sàn. Thực hiện ba hiệp, nghỉ 20 đến 30 giây giữa các hiệp. Dừng lại ngay lập tức nếu bạn cảm thấy đau lưng dưới.
Cơ bụng và lưng: Bird-Dog
Quỳ trên tay và đầu gối, với các ngón tay hướng về phía trước. Co cơ cốt lõi và nâng chân phải lên cho đến khi nó song song với sàn, không cao hơn hông. Cùng lúc đó, nâng cánh tay trái lên cho đến khi nó song song với sàn. Giữ một chút. Sau đó hạ về vị trí bắt đầu, và lặp lại ở bên kia. Một lần lặp bao gồm một chu trình hoàn chỉnh của cả hai bên. Thực hiện ba hiệp, mỗi hiệp 8-12 lần.
Cơ bụng và chân: Co đầu gối
Động tác này bắt đầu với bụng trên một quả bóng ổn định, tay và chân trên sàn. Co cơ bụng. Bây giờ đi bộ tay về phía trước cho đến khi bạn tạo thành một tư thế plank vững chắc, mắt cá chân resting trên bóng. Không để lưng dưới chùng xuống. Từ từ, co đầu gối về phía ngực. Giữ một chút, sau đó từ từ trở lại tư thế plank. Kỳ vọng rằng bóng sẽ lăn tới và lùi theo động tác của bạn.
Cơ bụng và mông: Cầu mông
Nếu bạn muốn phần phía sau của mình được cứng cáp như cơ bụng, hãy thử động tác này để tạo hình cho các cơ mông. Nằm ngửa, với đầu gối gập và chân rộng bằng hông. Co cơ bụng và cơ mông khi bạn nâng hông khỏi mặt đất. Nhấn gót chân xuống sàn và tránh cong lưng. Hít vào và từ từ hạ mình xuống mặt đất. Lặp lại 12 đến 15 lần.
Cơ bụng và mông: Frankenstein
Đứng với tay bên cạnh, chân rộng bằng hông. Co cơ bụng, và nâng đầu gối phải lên hướng về ngực. Giữ đầu gối cao, cố gắng vượt qua chân phải qua chân trái. Tránh xoay hông trái. Bây giờ đưa chân phải trở lại về phía bên phải của phòng, mở rộng hông phải. Trở về vị trí bắt đầu. Thực hiện 5 đến 10 lần ở mỗi bên.
Cơ bụng và mông: Tư thế plank bên
Tư thế plank bên là một cách tuyệt vời để tập cả cơ xiên và cơ mông. Nằm nghiêng bên phải, đặt khuỷu tay phải lên sàn ngay dưới vai. Giữ chân thẳng, với chân trái resting ngay trên chân phải. Khi bạn co thắt eo và cơ mông, nâng hông và đầu gối lên. Giữ chân phải tiếp xúc với sàn. Giữ trong 5 đến 20 giây. Nghỉ 30 giây và lặp lại. Sau đó đổi bên.
Cơ bụng và chân: Động tác bước
Động tác bước là một động tác đa nhiệm tuyệt vời – nó nhắm đến cơ bụng, mông, cơ đùi trước và cơ đùi sau cùng một lúc. Với chân khép lại, từ từ nâng chân phải và bước về phía trước, đặt chân phải chắc chắn trên sàn. Hạ hông cho đến khi đùi phải song song với sàn. Đảm bảo rằng đầu gối phải không đẩy về phía trước hơn ngón chân. Từ từ trở về vị trí đứng. Nhắm đến 8 đến 12 lần, và lặp lại ở bên kia.
Tạo ra một thói quen tập bụng hiệu quả
Để đạt kết quả tốt nhất, hãy thực hiện một thói quen tập bụng cụ thể hai hoặc ba lần mỗi tuần, nghỉ ít nhất một ngày đầy đủ giữa các buổi tập. Đừng cố gắng thực hiện tất cả các động tác trong bài trình chiếu này trong một buổi tập. Chọn từ bốn đến tám động tác cho mỗi phiên, và phân bổ công việc giữa các nhóm cơ khác nhau. Để giữ cho cơ của bạn được thử thách, hãy thay đổi các động tác mỗi vài ngày hoặc vài tuần. Nếu bạn từ 45 tuổi trở lên hoặc có tình trạng sức khỏe nào đó, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ trước.
Cardio cho cơ bụng phẳng
Nếu bạn không thể nhìn thấy cơ bụng của mình vì bụng quá to, bạn cần hơn một bài tập bụng. Hãy nhắm đến ít nhất 150 phút tập thể dục nhịp điệu mỗi tuần. Bài tập nhịp điệu có thể bao gồm bơi, chạy, đạp xe, đi bộ nhanh hoặc bất kỳ hoạt động nào khiến bạn tim đập nhanh. Chia nhỏ thời gian ra thành các khoảng 30 phút hoặc thực hiện trong các hiệp ngắn. Bổ sung những bài tập thể dục này với các bài tập sức mạnh và tập trung vào cơ bụng hai hoặc ba lần mỗi tuần. Thực hiện một giờ hoặc hơn hoạt động nhịp điệu mỗi tuần nếu bạn đang cố gắng giảm cân.
Giảm béo bụng
Khi bạn thực hiện các bài tập cho cơ bụng, hãy nhớ rằng bạn không thể giảm béo cục bộ. Để có cơ bụng phẳng, bạn cũng cần giảm mỡ bụng. Một chế độ ăn uống khỏe mạnh và cân bằng với nhiều trái cây, rau quả, ngũ cốc nguyên hạt và protein nạc là cần thiết để giảm mỡ bụng. Tránh thực phẩm chế biến sẵn và đường tinh luyện, thường có trong đồ ngọt, nước ngọt và bánh kẹo. Hãy cân nhắc việc ăn ít hơn và uống nhiều nước để giữ cho cơ thể không bị thiếu nước. Hãy thử ăn từ 1.200 đến 1.500 calo mỗi ngày và theo dõi những gì bạn ăn vào để giúp bạn giảm cân.
Hỗ trợ cho quá trình tập luyện
Để giảm cân, hãy xem xét việc duy trì một nhật ký thực phẩm, hoặc tải xuống một ứng dụng theo dõi calo. Một số nghiên cứu cho thấy rằng việc ghi lại các bữa ăn và kiểm tra lại chúng có thể làm tăng cường việc giảm cân. Nếu bạn đang tập thể dục để giảm cân, hãy tìm một người bạn hoặc nhóm hỗ trợ để giữ cho bạn có động lực. Bạn cũng có thể cần phải gặp bác sĩ hoặc chuyên gia dinh dưỡng để giúp bạn phát triển một kế hoạch ăn uống hoặc chương trình tập luyện phù hợp với nhu cầu cá nhân.
Giảm căng thẳng
Căng thẳng có thể góp phần gây ra bụng to. Hãy thử thực hiện một số kỹ thuật thư giãn, chẳng hạn như yoga, thiền, hoặc đi dạo trong thiên nhiên để làm giảm căng thẳng. Bạn có thể sẽ thấy những kỹ thuật này sẽ giúp bạn có một tâm trạng tốt hơn và giảm cảm giác thèm ăn. Tránh uống nhiều rượu bia hoặc caffeine, vì chúng có thể làm tăng mức độ căng thẳng.
Kiểm tra sức khỏe
Để theo dõi những thay đổi về cơ bụng của bạn, hãy cân nhắc việc kiểm tra sức khỏe mỗi tháng. Một số người có xu hướng tăng mỡ bụng nhiều hơn những người khác. Tìm hiểu xem có các yếu tố nào trong gia đình của bạn có thể ảnh hưởng đến cân nặng và khả năng giảm cân của bạn. Đừng nản lòng. Nếu bạn kiên trì với chế độ tập luyện và ăn uống lành mạnh, bạn sẽ nhận thấy sự thay đổi. Các cơ bụng của bạn có thể không rõ ràng ngay lập tức, nhưng hãy kiên nhẫn.
Kết luận
Tạo một kế hoạch tập luyện cụ thể cho cơ bụng và dành thời gian cho các bài tập sức mạnh và aerobic sẽ là điều cần thiết để có cơ bụng phẳng. Theo dõi chế độ ăn uống của bạn và kết hợp các bài tập thể dục nhịp điệu có thể giúp bạn đốt cháy chất béo bụng. Kết hợp các bài tập này với các bài tập khác có thể giúp bạn duy trì sức khỏe tổng thể. Nhớ rằng sự kiên nhẫn và thời gian là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mục tiêu tập luyện nào
Sàng lọc phình động mạch chủ bụng (AAA) là cách để kiểm tra xem có sự phình to hoặc sưng ở động mạch chủ, mạch máu chính chạy từ tim xuống bụng của bạn hay không.
Sự phình to hoặc sưng này được gọi là phình động mạch chủ bụng (AAA).
Nó có thể trở nên nghiêm trọng nếu không được phát hiện sớm, vì nó có thể lớn lên và cuối cùng vỡ ra (rupture).
Ai sẽ được sàng lọc phình động mạch chủ bụng?
Tại Anh, sàng lọc phình động mạch chủ bụng được cung cấp cho nam giới trong năm họ tròn 65 tuổi.
Nam giới từ 65 tuổi trở lên có nguy cơ cao nhất bị phình động mạch chủ bụng. Việc sàng lọc có thể giúp phát hiện sự sưng ở động mạch chủ sớm khi nó thường có thể được điều trị.
Sàng lọc phình động mạch chủ bụng không được thường xuyên cung cấp cho:
Phụ nữ
Nam giới dưới 65 tuổi
Những người đã được điều trị cho một phình động mạch chủ bụng
Điều này là do nguy cơ bị phình động mạch chủ bụng ở các nhóm này nhỏ hơn nhiều.
Nếu bạn trên 65 tuổi, bạn có thể yêu cầu một cuộc kiểm tra để kiểm tra phình động mạch chủ bụng nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể cần nhưng chưa được mời tham gia một xét nghiệm sàng lọc.
Làm thế nào để được sàng lọc phình động mạch chủ bụng?
Nếu bạn là nam giới và đã đăng ký với bác sĩ gia đình, bạn sẽ nhận được lời mời sàng lọc qua đường bưu điện khi bạn 64 hoặc ngay sau sinh nhật 65 tuổi của bạn. Bạn có thể sắp xếp một cuộc hẹn phù hợp với bạn.
Nếu bạn là nam giới trên 65 tuổi và chưa được sàng lọc trước đó, bạn có thể yêu cầu một xét nghiệm bằng cách liên hệ trực tiếp với dịch vụ sàng lọc phình động mạch chủ bụng địa phương của bạn.
Lợi ích của việc sàng lọc phình động mạch chủ bụng
Một phình động mạch chủ bụng thường gây ra ít hoặc không có triệu chứng rõ ràng, nhưng nếu để cho nó lớn lên, nó có thể vỡ ra và gây ra chảy máu đe dọa tính mạng bên trong bụng của bạn.
Khoảng 8 trong số 10 người có phình động mạch chủ bụng vỡ chết trước khi họ đến bệnh viện hoặc không sống sót sau phẫu thuật khẩn cấp để sửa chữa.
Sàng lọc có thể phát hiện một phình động mạch chủ bụng trước khi nó vỡ. Nếu tìm thấy phình động mạch chủ bụng, bạn có thể chọn thực hiện các cuộc kiểm tra định kỳ để theo dõi hoặc phẫu thuật để ngăn chặn việc nó vỡ.
Xét nghiệm sàng lọc rất nhanh chóng, không đau và đáng tin cậy. Nghiên cứu cho thấy nó có thể giảm một nửa nguy cơ tử vong do phình động mạch chủ bụng.
Quyết định tham gia sàng lọc
Bạn có quyền quyết định xem bạn có muốn được sàng lọc phình động mạch chủ bụng hay không.
Mặc dù có những lợi ích rõ ràng của việc sàng lọc, bạn cũng nên xem xét các rủi ro có thể xảy ra.
Không có rủi ro từ chính xét nghiệm sàng lọc, nhưng có một số rủi ro:
Lo âu khi được thông báo rằng bạn có một tình trạng có thể đe dọa tính mạng
Các biến chứng nghiêm trọng từ phẫu thuật điều trị phình động mạch chủ bụng
Gọi cho dịch vụ sàng lọc địa phương của bạn và yêu cầu được xóa khỏi danh sách nếu bạn không muốn được sàng lọc.
Những gì xảy ra trong quá trình sàng lọc phình động mạch chủ bụng
Sàng lọc phình động mạch chủ bụng bao gồm một cuộc siêu âm nhanh chóng và không đau ở bụng của bạn.
Điều này giống như cuộc siêu âm mà phụ nữ mang thai thực hiện để kiểm tra thai nhi của họ.
Khi bạn đến cuộc hẹn, một kỹ thuật viên sàng lọc sẽ kiểm tra thông tin của bạn, giải thích về siêu âm và hỏi nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào.
Đối với cuộc siêu âm:
Bạn nằm xuống trên một bàn và nâng lên hoặc mở cúc áo (bạn không cần phải cởi đồ)
Kỹ thuật viên thoa một gel trong suốt lên bụng và di chuyển một máy quét cầm tay nhỏ trên da của bạn – hình ảnh từ máy quét sẽ được hiển thị trên màn hình và kỹ thuật viên sẽ đo độ rộng của động mạch chủ của bạn
Gel được lau sạch và bạn kéo xuống hoặc cài lại áo
Kỹ thuật viên cho bạn biết kết quả ngay lập tức
Toàn bộ bài kiểm tra thường mất khoảng 10 đến 15 phút.
Đôi khi kỹ thuật viên có thể không nhìn thấy rõ động mạch chủ của bạn. Điều này không phải là điều đáng lo ngại.
Nếu điều này xảy ra, bạn sẽ được yêu cầu thực hiện một cuộc siêu âm khác, thường vào một ngày khác.
Kết quả của việc sàng lọc phình động mạch chủ bụng
Bạn sẽ được thông báo kết quả của mình vào cuối bài kiểm tra.
Nếu phát hiện vấn đề, bạn cũng sẽ nhận được một bức thư xác nhận kết quả và cho bạn biết những gì sẽ xảy ra tiếp theo.
Có 4 kết quả sàng lọc có thể xảy ra.
Không phát hiện phình
Nếu động mạch chủ của bạn có độ rộng dưới 3cm, điều này có nghĩa là nó không bị phình. Hầu hết nam giới đều có kết quả này.
Bạn sẽ không cần điều trị hoặc theo dõi nào sau đó, và sẽ không được mời tham gia sàng lọc phình động mạch chủ bụng lần nữa.
Phình động mạch chủ bụng nhỏ
Nếu bạn có một phình động mạch chủ bụng nhỏ, điều này có nghĩa là động mạch chủ của bạn có độ rộng từ 3cm đến 4.4cm.
Hơn 1% nam giới được sàng lọc có phình động mạch chủ bụng nhỏ.
Bạn sẽ không cần bất kỳ điều trị nào ở giai đoạn này vì khả năng phình động mạch chủ bụng vỡ là nhỏ.
Bạn sẽ được mời quay lại để kiểm tra mỗi năm để kiểm tra kích thước của nó.
Điều trị sẽ thường chỉ cần thiết nếu nó trở thành một phình động mạch chủ bụng lớn.
Bạn cũng sẽ được cho lời khuyên về cách bạn có thể ngăn phình động mạch chủ bụng lớn hơn, chẳng hạn như bỏ thuốc lá, ăn uống lành mạnh và tập thể dục thường xuyên.
Phình động mạch chủ bụng trung bình
Nếu bạn có một phình động mạch chủ bụng trung bình, điều này có nghĩa là động mạch chủ của bạn có độ rộng từ 4.5cm đến 5.4cm.
Khoảng 0.5% nam giới được sàng lọc có phình động mạch chủ bụng trung bình.
Bạn sẽ không cần bất kỳ điều trị nào ở giai đoạn này vì khả năng phình động mạch chủ bụng vỡ là nhỏ.
Bạn sẽ được mời quay lại để kiểm tra mỗi 3 tháng để kiểm tra kích thước của nó.
Điều trị sẽ thường chỉ cần thiết nếu nó trở thành một phình động mạch chủ bụng lớn.
Bạn cũng sẽ được cho lời khuyên về cách bạn có thể ngăn phình động mạch chủ bụng lớn hơn, chẳng hạn như bỏ thuốc lá, ăn uống lành mạnh và tập thể dục thường xuyên.
Phình động mạch chủ bụng lớn
Nếu bạn có một phình động mạch chủ bụng lớn, điều này có nghĩa là động mạch chủ của bạn có độ rộng 5.5cm trở lên.
Khoảng 0.1% nam giới được sàng lọc có phình động mạch chủ bụng lớn.
Vì các phình động mạch chủ bụng lớn có nguy cơ vỡ cao nhất nếu không được điều trị, bạn sẽ được giới thiệu đến một bác sĩ phẫu thuật chuyên khoa trong vòng 2 tuần để nói về các lựa chọn điều trị của bạn.
Hầu hết nam giới có phình động mạch chủ bụng lớn được khuyên nên phẫu thuật để ngăn nó lớn hơn hoặc vỡ ra.
Trong khi phẫu thuật có nguy cơ gây ra các biến chứng nghiêm trọng, rủi ro này thường nhỏ hơn nguy cơ không điều trị một phình động mạch chủ bụng lớn.
Viêm ruột thừa là một cấp cứu ngoại khoa thường gặp nhất. Chẩn đoán viêm ruột thừa chủ yếu vẫn dựa vào lâm sàng, mặc dù ngày nay đã có rất nhiều tiến bộ trong chẩn đoán hình ảnh. Nhiều trường hợp chẩn đoán viêm ruột thừa còn muộn khi đã có biến chứng do viêm ruột thừa có rất nhiều thể lâm sàng khác nhau, khó chẩn đoán. Do vậy, trước một trường hợp đau bụng cấp, cần phải thăm khám tỷ mỉ, theo dõi cẩn thận để chẩn đoán sớm viêm ruột thừa và mổ sớm cho người bệnh. Chẩn đoán sớm và mổ kịp thời viêm ruột thừa là yếu tố quan trọng nhất để tránh các biến chứng nặng nề và tử vong sau mổ.
Trong viêm ruột thừa cấp có 4 thể giải phẫu bệnh tương đương với 4 giai đoạn tiến triển của bệnh.
Viêm ruột thừa xuất tiết
Kích thước ruột thừa to hơn bình thường, đầu tù: thành phù nề, xung huyết, có nhiều mạch máu cương tụ. về vi thể, có hiện tượng xâm nhập bạch cầu ở thành ruột thừa, niêm mạc ruột thừa còn nguyên vẹn. Không có phản ứng của phúc mạc.
Viêm ruột thừa mủ
Ruột thừa sưng to, thành dầy, mầu đỏ sẫm, đôi khi đầu ruột thừa to lên như hình quả chuông khi các ổ áp xe tập trung ở đầu ruột thừa; có giả mạc bám xung quanh; trong lòng ruột thừa chứa mủ thối. về vi thể, có nhiều ổ loét ở niêm mạc; có hình ảnh xâm nhập bạch cầu và nhiều ổ áp xe nhỏ ở thành ruột thừa, o bụng vùng hố chậu phải thường có dịch đục do phản ứng của phúc mạc.
Viêm ruột thừa hoại tử
Viêm ruột thừa hoại tử có hình ảnh như lá úa với những đám hoại tử đen. Ruột thừa hoại tử là do tắc mạch tiên phát hoặc thứ phát sau viêm mủ ở ruột thừa. Vi thể thấy có hiện tượng viêm và hoại tử toàn bộ thành ruột thừa. ổ bụng vùng hố chậu phải hoặc túi cùng Douglas có dịch đục, thối, cấy dịch có vi khuẩn.
Viêm ruột thừa thủng
Ruột thừa thủng là do thành ruột thừa bị viêm hoại tử, dễ vỡ và do mủ làm lòng ruột thừa căng giãn dần lên. Khi ruột thừa vỡ, mủ tràn vào ổ bụng gây viêm phúc mạc toàn thể hoặc được mạc nối lớn và các quai ruột bao bọc lại thành áp xe, khu trú ổ nhiễm khuẩn với phần còn lại của ổ bụng.
SINH BỆNH HỌC
Viêm ruột thừa do đường máu rất hiếm gặp, nguyên nhân và cơ chế gây viêm ruột thừa cấp là do bít tắc trong lòng ruột thừa và do nhiễm khuẩn.
Nguyên nhân gây tắc lòng ruột thừa có thể là:
ở trẻ em và thanh niên, thường là do sự tăng sinh của các nang bạch huyết ở lớp dưới niêm mạc. Khi mới sinh, lớp dưới niêm mạc chỉ có rất ít nang bạch huyết, các nang bạch huyết tăng dần về số lượng cho tới tuổi trưởng thành và kích thước to lên sau các nhiễm khuẩn hoặc virus.
ở người lớn, nguyên nhân bít tắc lòng ruột thừa thường là do thỏi phân, ngoài ra, còn có thể là do dị vật, giun đũa, giun kim, khối u đáy manh tràng hoặc u gốc ruột thừa…
Trong lòng ruột thừa bình thường đã chứa nhiều chủng vi khuẩn gram (-), ái khí (Escherichia Coli, Klebsiella Enterobacter, Str. Faecalis, Proteus Mirabilus, Proteus Vulgaris…) và vi khuẩn Gr (-) yếm khí (Bacteroid Fragilis, Clostridia, Streptococci…). Khi lòng ruột thừa bị bít tắc, sự bài tiết của niêm mạc làm áp lực trong lòng ruột thừa từ từ tăng lên, thuận lợi cho vi khuẩn phát triển và xâm nhập vào lớp niêm mạc. Như vậy là quá trình viêm nhiễm khuẩn xuất hiện, đầu tiên là làm cho thành ruột thừa bị phù nề, xung huyết và xâm nhập của bạch cầu đa nhân (giai đoạn viêm ruột thừa xuất tiết). Sau đó là giai đoạn viêm hoại tử mủ ở toàn bộ thành ruột thừa, tương đương với thể giải phẫu bệnh viêm ruột thừa mủ. Nếu quá trình viêm nhiễm khuẩn tiếp tục phát triển sẽ dẫn tới tắc mạch mạc treo ruột thừa, lúc đầu là cản trở sự lưu thông trở về của tĩnh mạch, sau đó là tắc cả động mạch mạc treo ruột thừa làm cho ruột thừa bị hoại tử (viêm ruột thừa hoại tử). Sự hoại tử thành, tăng áp lực trong lòng ruột thừa do mủ làm ruột thừa vỡ vào ổ bụng gây viêm phúc mạc toàn thể hoặc viêm phúc mạc khu trú (viêm ruột thừa thủng).
Khi quá trình viêm nhiễm khuẩn xảy ra, ngoài các phản ứng miễn dịch toàn thân theo cơ chế thể dịch, phản ứng tại chỗ của phúc mạc là phản ứng gây dính, bao bọc ruột thừa lại bởi các tạng lân cận mà chủ yếu là các quai ruột non và mạc nối lốn. Nêu ruột thừa viêm mủ, hoại tử và vỡ nhưng đã được các quai ruột và mạc nối lớn bọc lại sẽ tạo ra thể viêm phúc mạc khu trú hay còn gọi là áp xe ruột thừa. ổ áp xe này cũng có thể vỡ vào ổ phúc mạc và gây ra viêm phúc mạc toàn thể. Nếu quá trình viêm dính chưa hình thành hoặc không bao bọc hết ruột thừa, ruột thừa viêm hoại tử vỡ vào ổ bụng tự do và gây ra viêm phúc mạc toàn thể.
CHẨN ĐOÁN
Chẩn đoán viêm ruột thừa thể điển hình, ruột thừa ở hố chậu phải thường dễ dàng. Ngược lại, trong các trường hợp khác, chẩn đoán khó, dễ bỏ sót và chẩn đoán muộn, khi đã có biến chứng.
Viêm ruột thừa thể điển hình
Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng cơ năng
Đau bụng: đau bụng tự nhiên là dấu hiệu rất thường gặp. Tính chất đau thường thay đổi trong những giờ đầu của bệnh, đau thường bắt đầu ở vùng quanh rốn hoặc trên rốn sau đó dần dần khu trú ở vùng hố chậu phải, đôi khi đau bắt đầu ngay ở hố chậu phải. Đau bụng thường khởi phát từ từ và âm ỉ, đôi khi đột ngột và thành cơn. Có thể thấy đầy bụng, khó tiêu và dễ nhầm lẫn với các bệnh lý ở dạ dày.
Hình ảnh Viêm ruột thừa
Nôn: có khi chỉ là buồn nôn.
Rối loạn đại tiện: táo bón hoặc ỉa lỏng, tuy nhiên dấu hiệu này ít gặp và ít có giá trị để chẩn đoán.
Triệu chứng toàn thân
Sốt nhẹ 38-38°5C, thường có vẻ mặt nhiễm khuẩn: môi khô, lưỡi bẩn, hơi thở hôi, mạch nhanh.
Triệu chứng thực thể
Thăm khám bụng: để tìm 3 dấu hiệu thực thể: đau khi ấn vùng hố chậu phải, tăng cảm giác ở da bụng, phản ứng thành bụng, trong đó, hai dấu hiệu quan trọng nhất có tính chất quyết định cho chẩn đoán là ấn đau và phản ứng thành bụng vùng hố chậu phải, dấu hiệu tăng cảm giác đau ở hố chậu phải ít khi thấy và cũng ít có giá trị chẩn đoán.
Đau hố chậu phải: khi ấn sâu ở vùng hố chậu phải bệnh nhân cảm thấy đau chói, lan toả ở vùng hố chậu phải, nhiều khi vị trí đau nhất là một điểm ở vùng hố chậu phải. Đôi khi đau chỉ xuất hiện khi người thầy thuốc rút nhanh tay lên (dấu hiệu Blumberg) hoặc đau ở hố chậu phải khi ấn hai tay liên tiếp vào hố chậu trái để dồn hơi sang đại tràng phải (dấu hiệu Rowsing).
Phản ứng thành bụng hố chậu phải: điển hình khi viêm ruột thừa ở thanh niên khoẻ mạnh, không rõ ràng ở người già yếu, bụng béo, khó xác định ở trẻ nhỏ, có thể là co cứng thành bụng khi ruột thừa viêm đã thủng. Phản ứng thành bụng hố chậu phải là dấu hiệu thực thể quan trọng nhất để chẩn đoán xác định viêm ruột thừa nên cần phải thăm khám hết sức cẩn thận và nhẹ nhàng, so sánh thành bụng hai bên hố chậu, nhiều khi phải khám lại sau một vài giờ để phát hiện dấu hiệu này.
Thăm trực tràng, âm đạo đôi khi thấy đau ở túi cùng bên phải, nhưng thường thì không đau trong những giờ đầu của bệnh.
Ruột thừa viêm ở phụ nữ có thai
Cận lâm sàng
Xét nghiệm công thức máu
Số lượng bạch cầu tăng từ 10.000 – 15.000/ml. Tỷ lệ bạch cầu đa nhân trên 75%. Nhưng khi số lượng bạch cầu bình thường thì cũng không loại được là không viêm ruột thừa.
Chụp X quang bụng không chuẩn bị
Thường là không cần thiết và ít có giá trị.
Siêu âm bụng
Dấu hiệu siêu âm bụng có giá trị nhất là thấy đường kính của ruột thừa to hơn bình thường, trên 7mm, có dịch ở hố chậu phải.
Nội soi ổ bụng
Nội soi ổ bụng được sử dụng để chẩn đoán trong những trường hợp khó như vỡ nang De Graff, viêm phần phụ, chửa ngoài dạ con. Trong những trường hợp này, nội soi ổ bụng vừa là phương tiện để chẩn đoán xác định bệnh vừa là phương pháp điều trị bệnh.
Thể lâm sàng
Thể lâm sàng theo vị trí bất thường của ruột thừa
Viêm ruột thừa sau manh tràng
Vị trí đau thường nằm ở phía sau, có khi là đau ở hố thắt lưng bên phải. Cho người bệnh nằm nghiêng trái, sờ nắn thấy đau và phản ứng thành bụng ở trên cánh chậu phải, trong khi hố chậu phải không đau và không có phản ứng thành bụng. Có thể có dấu hiệu của viêm cơ đái chậu, trong trường hợp này cần chẩn đoán phân biệt với viêm cơ đái chậu. Đôi khi phải phân biệt với đau quặn thận bằng cách tìm hồng cầu trong nước tiểu, siêu âm hệ tiết niệu và chụp X quang niệu tĩnh mạch.
Viêm ruột thừa ở khung chậu
Thường gặp ở phụ nữ, vị trí đau và phản ứng thành bụng thường ở vùng thấp của hố chậu phải hoặc trên xương mu. Thường có dấu hiệu về tiết niệu kèm theo dưới dạng đái khó, đái buốt thậm trí là bí đái ở người già nên dễ nhầm lẫn với bệnh lý tiết niệu. Trong giai đoạn đầu, ít khi có dấu hiệu về trực tràng như mót rặn, ỉa nhầy, ỉa lỏng. Các dấu hiệu về trực tràng thường chỉ xuất hiện khi đã hình thường áp xe ở tiểu khung. Thăm trực tràng thấy có dấu hiệu đau ở túi cùng bên phải của trực tràng hoặc thấy khối căng và rất đau ở túi cùng Douglas khi để muộn đã thành áp xe.
Viêm ruột thừa ở mạc treo ruột
Trong trường hợp này ruột thừa nằm giữa ổ bụng, xung quanh là các quai ruột, nên khi ruột thừa viêm gây ra liệt ruột. Bệnh cảnh lâm sàng được gợi ý bởi hội chứng tắc ruột kèm theo có sốt, chỉ có mổ mới khẳng định được giả thiết này.
Viêm ruột thừa ở dưới gan
Đau và phản ứng thành bụng khu trú ở dưới sườn phải kèm với sốt nên rất dễ nhầm lẫn với viêm túi mật cấp. Siêu âm và chụp X quang bụng không chuẩn bị có giá trị để chẩn đoán phân biệt. Trong trường hợp nghi ngờ thì nên mổ vì hai nguyên nhân đó đều có chỉ định mổ cấp cứu.
Viêm ruột thừa ở hố chậu trái
Thể lâm sàng này rất ít gặp, do đảo ngược phủ tạng.
Thể lâm sàng theo tuổi và cơ địa
Viêm ruột thừa ở trẻ nhỏ
Viêm ruột thừa ở trẻ em hay gặp thể nhiễm độc và tiến triển rất nhanh tới viêm phúc mạc vì thành ruột thừa mỏng, mạc nối lớn chưa phát triển, sức đề kháng kém. Chẩn đoán thường muộn do khó khám và các triệu chứng không rõ ràng, dễ nhầm lẫn với các bệnh khác.
Rất khó xác định vị trí đau bụng: tính chất đau cũng khác thường, có thể đau cơn, cách quãng. Dấu hiệu ỉa chảy cũng thường gặp. Dấu hiệu nhiễm trùng thường rõ, sốt cao tới 39°c, toàn trạng suy sụp nhanh chóng, dấu hiệu mất nước rõ. Dấu hiệu phản ứng thành bụng không rõ, thường chỉ thấy khi ấn vào hố chậu phải làm trẻ đau, khóc thét, hất tay người thầy thuốc ra. Ở trẻ dưới 1 tuổi, thường chỉ chẩn đoán được ở giai đoạn đã có viêm phúc mạc. ở trẻ từ 1-3 tuổi, tỷ lệ viêm phúc mạc cũng vào khoảng 50%. Chính vì thế mà tỷ lệ tử vong của viêm ruột thừa ở trẻ nhỏ vẫn còn cao.
Viêm ruột thừa nhiễm độc
Viêm ruột thừa thể nhiễm độc rất ít gặp và thường chỉ gặp ở trẻ em. Triệu chứng cơ năng và thực thể rất mơ hồ và ít có giá trị gợi ý tới viêm ruột thừa, trong khi triệu chứng toàn thân lại rất nặng. Dấu hiệu đau bụng hố chậu phải rất nhẹ, không có phản ứng và co cứng thành bụng. Thân nhiệt có thể tăng rất cao hoặc không tăng nhưng mạch lại rất nhanh, huyết áp có thể tụt. Tình trạng nhiễm độc rất nặng, trẻ li bì, khó thở, tím tái, vẻ mặt hốc hác. Thường có nôn máu, ỉa phân đen và những chấm hay mảng xuất huyết dưới da. Tiên lượng rất nặng và tỷ lệ tử vong cao.
Viêm ruột thừa ở người già
ở người già trên 60 tuổi, viêm ruột thừa hoại tử và viêm ruột thừa vỡ có tỷ lệ cao (10-15%) do chẩn đoán muộn và do mạch máu ở người già xơ vữa, dễ tắc mạch. Bệnh cảnh lâm sàng thường không điển hình, đau bụng và phản ứng thành bụng không rõ do cơ thành bụng nhão, nhiều khi không sốt hoặc chỉ sốt nhẹ nên chẩn đoán khó và muộn. Đôi khi, viêm ruột thừa thể hiện là một khối u ở hố chậu phải, giới hạn tương đối rõ, dễ nhầm với u manh tràng.
Thể lâm sàng này là do viêm ruột thừa muộn, không chẩn đoán được, đôi khi do điều trị kháng sinh. Kết quả là mạc nối, các quai ruột xung quanh dính kết và bao bọc ruột thừa lại tạo ra hình thể giả khối u. Một số trường hợp, viêm ruột thừa ở người già biểu hiện như một bệnh cảnh tắc ruột có sốt do sức đề kháng kém, chẩn đoán muộn, nhiễm khuẩn lan ra phúc mạc gây liệt ruột cơ năng. Chính các yếu tố đó làm cho tiên lượng của viêm ruột thừa ở người già nặng lên và có tỷ lệ tử vong cao hơn ở người trẻ.
Viêm ruột thừa ở phụ nữ có thai
Về chẩn đoán, trong 3 tháng đầu của thời kỳ thai nghén, ruột thừa vẫn nằm ở vị trí bình thường ở hố chậu phải nên triệu chứng viêm ruột thừa thường điển hình chẩn đoán thường không khó. Vào tháng thứ 5 của thai, ruột thừa nằm ở mức ngang rốn, cạnh thận và niệu quản. Ruột thừa viêm kích thích thận và niệu quản gây ra các triệu chứng như là viêm bể thận cấp, một bệnh cảnh cũng rất hay gặp trong thai nghén. Vào những tháng cuối của thai nghén, ruột thừa bị đẩy lên cao ở dưới sườn phải.
Về tiên lượng, khi có viêm phúc mạc, tỷ lệ đẻ non và tử vong của thai nhi tăng lên rất cao.
Thể lâm sàng theo biến chứng
Viêm phúc mạc toàn thể
Thông thường thì sau 48 – 72 giờ, viêm ruột thừa sẽ vỡ vào ổ bụng tự do gây viêm phúc mạc toàn thể. Hình thái viêm phúc mạc này thường gặp nhất. Cũng có khi viêm ruột thừa diễn biến qua các thể áp xe ruột thừa hoặc đám quánh ruột thừa áp xe hoá rồi vỡ vào ổ bụng gây ra viêm phúc mạc 2 thì hay 3 thì.
Triệu chứng lâm sàng
Cơ năng: đau bụng lúc đầu ở hố chậu phải, 1-2 ngày sau đau lan khắp ổ bụng, nôn, bí trung đại tiện và bụng trướng dần lên do liệt ruột cơ năng. Thường sau khoảng gần một ngày, các dấu hiệu cơ năng giảm làm cho cả bệnh nhân và thầy thuốc bị đánh lừa tưởng là khỏi. Khi đau lại có nghĩa là ruột thừa đã vỡ.
Toàn thân: sốt cao, môi khô lưỡi bẩn, mạch nhanh, vẻ mặt hốc hác. Nếu muộn hơn có thể có tình trạng nhiễm độc, bệnh nhân vật vã, li bì, đái ít.
Thực thể: sờ nắn thấy đau và co cứng khắp bụng, nhất là vùng hố chậu phải. Thăm trực tràng thấy túi cùng Douglas phồng và rất đau.
Triệu chứng cận lâm sàng
Xét nghiệm công thức máu: bạch cầu tăng cao.
Chụp bụng không chuẩn bị: có dấu hiệu của tắc ruột cơ năng, ruột giãn hơi toàn bộ (cả ruột non và đại tràng), thành ruột dầy do có dịch, mủ trong bụng và thường không có liềm hơi.
Siêu âm: có dịch tự do trong ổ bụng, đặc biệt là hố chậu phải và túi cùng Douglas.
Áp xe ruột thừa
Áp xe ruột thừa hay còn gọi là viêm phúc mạc khu trú xuất hiện sau viêm ruột thừa cấp ít ngày do viêm ruột thừa mủ vỡ được mạc nối lớn và các quai ruột bao bọc lại thành một ổ mủ, biệt lập với ổ phúc mạc tự do. Ruột thừa có thể nằm ở nhiều vị trí khác nhau trong ổ bụng nên cũng có nhiều hình thái áp xe ruột thừa khác nhau. Nếu không được điều trị, ổ áp xe có thể vỡ vào các tạng rỗng xung quanh hoặc vỡ vào ổ bụng gây viêm phúc mạc toàn thể (viêm phúc mạc hai thì).
Áp xe ruột thừa ở hố chậu phải
Áp xe ruột thừa ở hố chậu phải là thể thường gặp nhất.
Triệu chứng toàn thân là hội chứng nhiễm trùng nặng, sốt cao 39°c – 40°c, dao động, mạch nhanh, bạch cầu tăng cao rõ rệt. Thăm khám bụng thấy có một khối đau ở hố chậu phải, phía trong bờ tương đối rõ, bờ .ngoài ranh giới không rõ, liên tục với thành bụng vùng hố chậu, các vùng còn lại mềm và không đau. Thăm trực tràng có thể sờ thấy cực dưới của khối và rất đau.
Siêu âm thấy khối dịch không đồng nhất ở hố chậu phải. Chọc dò hoặc chọc dò dưới hướng dẫn của siêu âm có mủ rất thối.
Áp xe ruột thừa trong ổ bụng
Khi ruột thừa nằm ở mạc treo ruột bị viêm mủ vỡ, được mạc treo và các quai ruột bao bọc lại, tạo thành một ổ mủ nằm trong ổ bụng không dính với thành bụng và gây ra phản xạ liệt ruột cơ năng.
Biểu hiện lâm sàng là một hội chứng tắc ruột kèm theo hội chứng nhiễm trùng nặng, sốt cao giao động 39 – 40°c, môi khô lưỡi bẩn, mặt hốc hác, mạch nhanh. Thăm khám bụng thấy một khối, nằm cạnh rốn, ranh giới rõ, rất đau, không di động.
Chụp bụng không chuẩn bị thấy dấu hiệu tắc ruột cơ năng, ruột giãn, thành ruột dầy, có thể có vài mức nước và hơi. Siêu âm và chụp cắt lớp ổ bụng thấy hình ảnh một ổ dịch không đồng nhất, có vỏ bọc, nằm giữa các quai ruột.
Áp xe ruột thừa ở khung chậu
Ruột thừa nằm ở tiểu khung viêm mủ vỡ, được bao bọc lại, tạo thành ổ áp xe ở túi cùng Douglas. Đau bụng ở vùng trên xương mu, ngoài các triệu chứng nhiễm trùng, còn có các triệu chứng của tiết niệu như đái khó, bí đái và đặc biệt là các triệu chứng kích thích trực tràng như đau quặn, mót rặn, đại tiện không ra phân mà chỉ có chất nhầy. Dâu hiệu lâm sàng quan trọng nhất giúp chẩn đoán là thăm khám hậu môn – trực tràng thấy lỗ hậu môn mở to, cơ thắt hậu môn nhão, niêm mạc hậu môn – trực tràng phù nề và sờ thấy một khối căng và rất đau ở túi cùng Douglas. Chọc dò qua thành trước trực tràng hoặc thành sau âm đạo hút ra mủ thối. Siêu âm và chụp cắt lớp ổ bụng thấy được khối dịch nằm ở tiểu khung.
Nếu không được điều trị, tiến triển tự nhiên của bệnh sẽ dẫn tới vỡ ổ áp xe vào trực tràng hoặc âm đạo, ít khi vỡ vào ổ bụng tự do.
Đám quánh ruột thừa
Khi ruột thừa viêm, phản ứng tự vệ tại chỗ của cơ thể là gây viêm dính, giới hạn quá trình viêm, không cho lan tràn vào ổ bụng tự do, khối dính gồm các quai ruột, mạc nối lớn bao bọc ruột thừa lại.
Bệnh nhân thấy đau ở hố chậu phải, các dấu hiệu nhiễm trùng giảm đi, sốt nhẹ. Triệu chứng lâm sàng quan trọng nhất để chẩn đoán là sờ thấy một mảng cứng không rõ ranh giới, hơi gồ lên, ấn vào thấy đau. Siêu âm không thấy hình ảnh của áp xe. Đây là hình thái lâm sàng duy nhất của viêm ruột thừa không phải mổ ngay, điều trị kháng sinh và theo dõi. Diễn biến của đám quánh ruột thừa có thể khỏi hoàn toàn, có thể dẫn tới áp xe hoá rồi vỡ vào ổ bụng gây viêm phúc mạc toàn thể.
CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT
Các nguyên nhân gây đau bụng cấp
Sỏi niệu quản và viêm bể thận cấp
Cần phân biệt với viêm ruột thừa sau manh tràng. Siêu âm hệ tiết niệu và chụp X quang niệu tĩnh mạch có thể khẳng định được chẩn đoán. Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng có thể vẫn có viêm ruột thừa trên bệnh nhân có sỏi niệu quản, sỏi thận.
Viêm doạn cuối hối tràng
Bệnh thường gặp ở người trẻ, các dấu hiệu lâm sàng giống như viêm ruột thừa cấp, thường có ỉa chảy. Chỉ chẩn đoán xác định được trong mổ.
U manh tràng
Áp xe ruột thừa ở hố chậu phải cần phải phân biệt với áp xe quanh khối u manh tràng. Đối với khối u manh tràng, thường kèm theo hội chứng tắc ruột không hoàn toàn (hội chứng Koenig), rối loạn lưu thông ruột (ỉa lỏng hoặc táo bón). Chụp khung đại tràng cản quang thấy hình khuyết không đều ở manh tràng. Soi đại tràng bằng ông soi mềm giúp khẳng định chẩn đoán.
Viêm hạch mạc treo
Thường gặp ở trẻ em, bệnh cảnh lâm sàng giống như viêm ruột thừa cấp, chỉ chẩn đoán được trong mổ. Khi mổ thấy ruột thừa bình thường, hạch mạc treo hồi tràng viêm rất to, đôi khi thấy hạch bị áp xe hoá.
Viêm túi thừa Meckel
Thường gặp ở trẻ em, bệnh cảnh lâm sàng giống viêm ruột thừa hoặc viêm phúc mạc ruột thừa nếu viêm thủng túi thừa. Trong tiền sử có thể có những đợt ỉa phân đen hoặc bán tắc ruột.
Viêm phúc mạc do thủng dạ dày
Đôi với viêm phúc mạc do thủng dạ dày, cơn đau khởi phát đột ngột, như dao đâm ở vùng trên rốn sau đó lan ra khắp bụng. Co cứng khắp bụng, đặc biệt là trên rốn. Ngược lại, trong viêm ruột thừa, bệnh khởi phát từ từ, đau bụng âm ỉ ở hô chậu phải vài ngày rồi mái lan ra khắp bụng.
Viêm túi mật cấp
Viêm ruột thừa dưới gan cần phân biệt với viêm túi mật cấp. Các dấu hiệu lâm sàng của 2 bệnh tương tự như nhau. Phân biệt nhờ siêu âm thấy túi mật căng, thành dầy, có dịch quanh túi mật, có thể thấy hình ảnh sỏi túi mật.
Một số bệnh ở phụ nữ trong độ tuổi hoạt dộng sinh dục
Viêm ruột thừa ở phụ nữ trong độ tuổi hoạt động sinh dục cần phân biệt với vỡ các nang cơ năng (nang De Graff, nang hoàng thể), chửa ngoài dạ con vỡ, xoắn u nang buồng trứng, viêm mủ vòi trứng: nội soi ổ bụng vừa là phương tiện chẩn đoán xác định tốt nhất vừa là phương pháp điều trị có rất nhiều ưu điểm.
Các nguyên nhân nội khoa
Viêm phổi
Viêm thuỳ đáy phổi phải có thể gây đau bụng bên phải kèm theo sốt, dễ nhầm với viêm ruột thừa nhất là đối với trẻ em. cần lưu ý khi thấy trẻ có dấu hiệu khó thở, cánh mũi phập phồng. Nên chụp phổi một cách hệ thống cho những trường hợp nghi ngờ là viêm ruột thừa ở trẻ em.
Sốt phát ban
Có thể có đau hố chậu phải và sốt cao trước khi có các dấu hiệu phát ban ở da từ 24 – 48 giờ nên dễ bị nhầm với viêm ruột thừa cấp.
Viêm gan virus
Khi viêm gan virus, có thể thấy đau ở dưới sườn phải hoặc hố chậu phải, kèm sốt nhẹ trong giai đoạn chưa có vàng da nên dễ nhầm với viêm ruột thừa. Làm các xét nghiệm tìm kháng nguyên HBsAg, định lượng men gan (SGPT, SGOT), bilirubin trong máu giúp ích cho chẩn đoán.
ĐIỀU TRỊ
Điều trị viêm ruột thừa cấp
Khi đã chẩn đoán là viêm ruột thừa cấp thì chỉ có một phương pháp điều trị duy nhất là mổ. Mổ cắt ruột thừa kịp thời thì diễn biến sau mổ rất thuận lợi. Nếu không mổ hoặc mổ muộn sẽ dẫn đến các biến chứng nặng, nguy hiểm đến tính mạng người bệnh. Kháng sinh chỉ được sử dụng nhằm mục đích dự phòng trước mổ.
Có nhiều đường mổ cắt ruột thừa khác nhau, trong đố đường mổ Mc Burney là thường được sử dụng nhất. Đường mổ giữa rốn hoặc đường bên phải cơ thẳng to được sử dụng khi chẩn đoán trước mổ không chắc chắn hoặc nghi ngờ viêm ruột thừa đã vỡ. Các đường mổ này có thể xử lý được các tổn thương khác trong ổ bụng do chẩn đoán nhầm và để lau rửa sạch ổ bụng khi có viêm phúc mạc. Cho dù chọn đường mổ nào thì cũng phải đủ rộng để co thể cắt ruột thừa dễ dàng, tránh làm tổn thương thanh mạc ruột, nguyên nhân gây tắc ruột sau mổ. Mổ cắt ruột thừa qua nội soi ổ bụng cũng đã được phổ cập, ngoài vấn đề thẩm mỹ, giảm đau sau mổ tránh được nhiễm trùng vết mổ, rút ngắn thời gian nằm viện, mổ cắt ruột thừa nội soi có ưu điểm nổi bật trong các trường hợp viêm ruột thừa khó chẩn đoán, viêm ruột thừa ở vị trí bất thường.
Có thể khâu vùi hoặc không vùi gốc ruột thừa. Khi đáy manh tràng viêm dầy, cứng thì không nên vùi gốc ruột thừa. Nếu đáy manh tràng mủn nát, khâu có nguy cơ bục thì nên mở thông manh tràng.
Điều trị biến chứng của viêm ruột thừa
Điều trị viêm phúc mạc ruột thừa
Cần phải mổ cấp cứu càng sớm càng tốt. Có thể sử dụng đường mổ bờ ngoài cơ thẳng to phải hoặc đường trắng giữa dưới rốn. Lấy dịch mủ để cấy vi khuẩn và làm khang sinh đồ. cắt ruột thừa, nếu gốc ruột thừa mủn nát, đáy manh tràng viêm dầy, mủn thì nên mở thông manh tràng để tránh bục gôc ruột thừa. Lau rửa sạch ổ bụng, đặt dẫn lưu ở túi cùng Douglas. Khâu đóng thành bụng một lớp, để da hở hoàn toàn với chỉ không tiêu, cắt chỉ muộn sau 2 – 3 tuần hoặc khâu bằng chỉ tiêu chậm (Vicryl, hoặc PDS).
Điếu trị áp xe ruột thừa
Với các ổ áp xe mà thành của ổ áp xe đã dính vào thành bụng thì dẫn lưu ổ áp xe ngoài phúc mạc, đối với ổ áp xe ở hố chậu phải, đường rạch song song với cung đùi, .trong gai chậu trước trên lcm. Đường rạch dẫn lưu ở trên mào chậu và gai chậu trước trên 2cm khi áp xe sau manh tràng. Dẫn lưu qua thành trước trực tràng nếu áp xe ở túi cùng Douglas. Ruột thừa sẽ được mổ cắt sau 3-6 tháng sau.
Đối với các ổ áp xe nằm ở giữa mạc treo ruột, không dính với thành bụng thì mổ vào ổ bụng để dẫn lưu áp xe và cắt ruột thừa một thì.
Điều trị đám quánh ruột thừa
Kháng sinh cho đến khi hết triệu chứng nhiễm khuẩn, hẹn bệnh nhân sau 3-6 tháng đến viện để mổ cắt ruột thừa.
Biến chứng sau mổ
Chảy máu sau mổ: chảy máu trong ổ bụng thường là do tuột chỉ buộc động mạch mạc treo ruột thừa. Chảy máu thành bụng do tổn thương các mạch máu thành bụng.
Áp xe thành bụng: là biến chứng thường gặp nhất.
Viêm phúc mạc sau mổ: là một biến chứng nặng, nguyên nhân là do bục mỏm ruột thừa, chủ yếu là do quá trình hoại tử nhiễm khuẩn từ ruột thừa lan sang đáy manh tràng. Để đề phòng biến chứng này, nên mở thông manh tràng khi đáy manh tràng và gốc ruột thừa mủn nát.
Viêm phúc mạc khu trú (áp xe trong ổ bụng): nguyên nhân là do bục gốc ruột thừa hoặc do lau mủ ổ bụng chưa sạch đối với viêm phúc mạc ruột thừa. Chẩn đoán xác định vị trí áp xe dựa vào siêu âm, chụp cắt lớp vi tính. Tuỳ vị trí ổ áp xe mà có các đường mổ dẫn lưu áp xe khác nhau.
Rò manh tràng: sau mổ ít ngày dịch và phân rò qua vết mổ hoặc qua chỗ đặt ống dẫn lưu. Chụp cản quang đường rò để khẳng định chẩn đoán. Rò manh tràng thường tự khỏi, nếu rò không tự khỏi cần chụp khung đại tràng cản quang và soi đại tràng xem có u đại tràng không. Nếu rò không tự khỏi thì phải mổ lại.
Hội chứng ngày thứ 5 sau mổ: bệnh nhân đau hố’ chậu phải kèm theo sốt và phản ứng nhẹ ở hố’ chậu phải thường xuất hiện vào ngày thứ 5 sau mổ. Trên phim chụp bụng không chuẩn bị có thể quai ruột non giãn do liệt ruột phản xạ. Nguyên nhân là nhiễm khuẩn phúc mạc do mỏm ruột thừa, mặc dù là mỏm ruột thừa không bục. Nên mổ lại sớm vì chỉ có một số trường hợp tự khỏi, đa số diễn biến dẫn tới viêm phúc mạc.
Tắc ruột sau mổ: tắc ruột có thể xuất hiện sớm sau mổ hoặc xa nhiều năm sau mổ. Tắc ruột sớm thường liên quan đến các ổ nhiễm khuẩn trong ổ bụng, tắc ruột xa sau mổ là do dây chằng hoặc dính ruột hình thành sau mổ.
Nguyên nhân gây loét dạ dày, tá tràng cho đến nay còn chưa được nghiên cứu làm rõ, những nhận định chung cho rằng bệnh có liên quan đến tình trạng gia tăng dịch acid trong dạ dày, khả năng đề kháng của niêm mạc dạ dày, tá tràng bị giảm sút và tình trạng căng thẳng thần kinh hoặc ưu phiền quá mức. Triệu chứng bệnh chủ yếu là đau hoặc khó chịu ở phần bụng trên (vùng thượng vị). Tính chất đau cũng đa dạng, có thể đau cồn cào, đau từng cơn, đau kèm theo đầy chướng, đau âm ỉ hoặc dữ dội, chỗ đau thường rộng bằng bàn tay. Người bị đau sau khi ăn thường là do loét dạ dày; người đau lúc đói thường là loét hành tá tràng. Ngoài triệu chứng đau bụng, người bệnh còn có thể thấy hơi thở nóng, Ợ chua, buồn nôn hoặc nôn oẹ, mất ngủ, gầy yếu. Bên cạnh việc điều trị bằng thuốc, việc áp dụng một chế độ ăn cho người bệnh là cực kỳ quan trọng.
Người bệnh nên ăn uống như thế nào ?
Nguyên tắc chung được áp dụng là ăn các món giàu dinh dưỡng, dễ tiêu hoá, lại không có tính kích thích. Vì vậy, bệnh nhân cần chọn những thực phẩm như sữa bò, nước cháo, sữa đậu nành, canh trứng, bột ngó sen, bánh bao có bột nở lên men, cơm, đậu phụ, bí xanh, khoai tây, rau chân vịt, ngân nhĩ, đại táo, thịt nạc, cá V.V.. Phương pháp chế biến chủ yếu là hấp, luộc, ninh nhừ. Nên thái nhỏ thực phẩm, nấu kỹ cho mềm. Như vậy bảo đảm đủ năng lượng và các chất protein, vitamin phong phú, giúp hồi phục các tổ chức tế bào bị tổn hại và làm mau lành vết loét, vừa tránh được sự kích thích cơ học và hoá học của thức ăn đối với niêm mạc dạ dày và ruột. Người bệnh bị nôn ra máu hoặc đại tiện ra phân đen (đen nhánh như hắc ín, mùi khẳn), cần ngừng ngay ăn cứng, sau khi ngừng chảy máu 24 giờ mới ăn một ít sữa bò nguội, bệnh ổn định dần mới ăn các món thông thường khác. Chế độ ăn uống của bệnh nhân cần căn cứ theo tình hình cụ thể để thay đổi các món kể trên, tránh ăn đơn điệu trùng lặp.
Chế độ ăn uống viêm loét dạ dày
Người bệnh không nên ăn lương thực thô (bột cao lương, bột ngô), rau cần, rau hẹ, cải bắp, hành tây, ngó sen, giá đậu và các món rán, hun khói, ướp… Những loại thực phẩm này hoặc do có nhiều chất xơ, hoặc thô cứng, khó tiêu hoá, dễ kích thích cơ học đối với niêm mạc dạ dày, làm tình trạng viêm loét nặng thêm. Nước hầm thịt đặc, trà đặc, cà phê, rượu, hạt tiêu, mì chính và những món ăn quá chua, hoặc quá ngọt, quá mặn, quá cay dễ gây kích thích hoá học đối với đường ruột, làm dịch toan dạ dày tiết ra nhiều, bệnh sẽ trầm trọng thêm.
Ngoài ra, những thực phẩm sinh đầy hơi như hành sống, tỏi sống, nước giải khát có ga; những thức ăn uống quá lạnh hoặc quá nóng cũng không nên dùng. Bởi vì những món ăn sinh hơi làm trướng bụng, gây đau có hại cho dạ dày, ruột. Những thức ăn quá lạnh hoặc quá nóng có ảnh hưởng xấu đến mạch máu trên mặt niêm mạc dạ dày, kích thích vết loét, gây đau đớn.