Blog Trang 508

Chứng Trường ung trong đông y và điều trị

“Trường ung” là chứng bệnh mọc ung ở trong ruột mà bụng đau nhức, sách “Kim quỹ yếu lược” có ghi chép rất sớm về bệnh “trường ung”. Vì chỗ phát sinh có khác nhau cho nên có chia ra “ung đại trường” và “ung tiểu trường”, nhưng vì tính chất lại giống nhau, nên đời sau gọi là “trường ung”. Ngoài ra lại vì trên chứng trạng biểu hiện những đặc điểm không giổng nhau, nên lại có những tên gọi như “súc cước trường ung”, “ung ruột co chân”, “bàn trường ung”, “ung ruột chảy máu”, tên gọi tuy có khác, nhưng cách chữa vẫn là một.

NGUYÊN NHÂN

  • Do ăn uống không dè dặt mà gây nên

Sách “Phùng thị cẩm nàng’’ nói: “Trường ung là do ăn đồ cao lương tích nhiệt gây ra”. Trần Thục Công cũng nhận rằng: Đói no thất thường, nhọc mệt thương tổn, đội vác nặng, làm cho tổn thương trường vị… hoặc ăn thức ăn sống lạnh, trở ngại đến khí huyết, thấp đọng sinh đờm. Phần nhiều làm cho trường vị đầy tức, vận hóa không thông, khí huyết ngừng trệ mà sinh ra. Vì ăn uống bừa bãi không có chừng độ nên ruột bị đầy tức, không vận hóa được làm cho khí huyết ngừng trệ, uất kết thành nhiệt, chứa đọng lại không tan ra được, huyết nhục hủ nát mà hóa thành mủ.

  • Do lao lực tổn thương quá độ, vấp ngã tổn hại gây nên

Sách “Ngoại khoa chính tông” chép: “Chạy nhảy vội vàng, làm cho trường vị truyền tông không được khoan khoái, bại huyết, trọc khí ủng tắc lại mà gây nên. Sách “Ngoại khoa kinh” nói: “Trèo cao nhảy xuống, nhảy bị đụng chạm hoặc bị đánh, bị ngã làm cho ứ huyết ngưng đọng trong ruột mà sinh ra trường ung”. Đó là nói bị nhọc mệt, bị vấp ngã, để làm cho khí trệ huyết ngừng, uất đọng lâu ngày, mà gây nên chứng ung.

  • Đàn bà sau khi đẻ gây ra

Trần Thực Công nói: “Đàn bà sau khi đẻ, người yếu hay nằm, chưa từng ngồi dậy hoặc khi đẻ khó khăn, dùng sức quá nhiều, sau khi đẻ rồi không trục huyết ứ, làm cho hại huyết đình chứa ở trường vị, kết trệ lại mà gây nên”. Đó là nói rõ sau khi đẻ huyết xấu, không tiêu, chứa lại ở trường vị mà sinh chứng “trường ung”.

Căn cứ vào 3 chứng trạng trên, thì bệnh lý “trường ung” không ngoài thấp nhiệt và ứ huyết, cho nên Trần Thực Công nói: “Chứng trường ung đều là do thấp nhiệt ứ huyết chảy vào trong tiểu trường mà sinh ra”. Căn cứ vào kinh nghiệm lâm sàng, do thấp nhiệt thì chứng bệnh phát ra nhanh, do hàn tà và ứ huyết đưa tới mà chuyển hóa thành thấp nhiệt thì chứng bệnh phát ra chậm.

BIỆN CHỨNG

Biện chứng về bệnh này, nói chung có thể phân làm 3 giai đoạn:

  1. Ung chưa mưng mủ
  2. Ung đã mưng mủ
  3. vỡ mủ.

Hai giai đoạn trước, sách “Kim quỹ yếu lược” đã từng nói rất rõ rằng: “Trường ung sinh bệnh, mình nổi vẩy, da bụng căng, ấn vào mềm như hình trạng chứng “thũng”, bụng không tích tụ, người không sốt, mạch sác, đó là trong ruột có ung mủ”. Lại nói chứng “trường ung” thì bụng dưới sưng đầy ấn vào thì đau như chứng “lâm”, tiểu tiện điều hoà, thường thường phát nóng, tự ra mồ hôi, lại sợ rét, mạch trì hoặc khẩn, là chưa nung mủ, nôn oẹ, sẽ có ra huyết, mạch hồng sác là đã nung mủ, không nên hạ. Điều trước là thuộc về chớng mãn tính, mà trong ruột đã có mủ tích tụ. Điều sau là thuộc về chứng cấp tính, mà trong ruột chưa mưng mủ. Như sau khi mủ đã mưng rồi, thì hoặc có thể xuất hiện những tình hình nghiêm trọng, như rốn chảy mủ, quanh rốn mọc mụn, đại tiện ra máu mủ, rốn lồi bụng trướng, trở mình nghe có tiếng nước.

CÁCH CHỮA

Sinh ra bệnh này do thấp nhiệt ứ trệ ngăn tắc, vì vậy nguyên tắc chữa chủ yếu không ngoài cách thanh nhiệt tiêu thấp, trừ ứ, thông đại tiểu tiện. Nếu mới phát chưa thành mủ, dùng Đại hoàng mẫu đờn thang (1) để hạ hoặc Hoạt huyết tán ứ thang (2) để điều hoà và thông lòi. Nếu bệnh thế hoà hoãn, không cần công hạ, thì có thể dùng Thanh tràng ẩm (3). Ngoài ra bài Tràng ung đơn phương(4) của Trương cảnh Nhạc cũng nên áp dụng, nếu không chữa kịp thời hoặc ngăn ngừa, đến nỗi ung thành mủ, thì về phương diện chữa, nên kiên dung công hạm nên lấy hoạt huyết phá ứ tiêu thũng, làm chủ yếu. Nếu thành mủ lâu ngày không vỡ, dùng ý dĩ, phụ tử bài Hương tán (5) để lấy sắc nóng mà phát ra. Như mạch thấy hồng sác, thế bệnh cấp hớn, nên dùng Ý dĩ nhân thang (6) để lương huyết phá ứ. Như thế bệnh phát triển đến thời kì vỡ mủ, nói chung thì phần nhiều hiện ra những hiện tượng hư. Nếu bụng mềm mà đau, thường thường ra mủ là mủ độc chưa hết dùng Mẫu đan bì tán (7). Nếu mủ từ rốn ra, bụng trướng không khỏi ăn uống kém, sắc mặt trắng, tinh thần mệt mỏi, đó là khí huyết đều hư, dùng Bát trân thang (8) gia hoàng kì, nhục quế, đan bì, ngũ vị tử để liễm mà bổ.

TÓM TẮT

“Trường ung” là một loại ung mọc bên trong, do bộ vị khác nhau mà có chia ra “đại trường ung” và “tiểu trường ung”. Nhưng cách chữa thì đại khái giống nhau, cho nên gọi chung là “trường ung”.

Gây nên bệnh này, chủ yếu là do thấp nhiệt, và ứ huyết làm ngăn tắc, trong quá trình phát bệnh, do thấp nhiệt thì bệnh phát chóng, do hàn ngừng ứ trệ mà chuyển thành thấp nhiệt thì bệnh chậm phát. Cách chữa nên phân biệt tình hình khác nhau, là có mủ hay không có mủ, và đã vỡ hay chưa vỡ mủ, có thể dùng trứ ứ công hạ, nung mủ rồi, thì phải nên kiêng hạ, nên dùng những phép hoạt huyết phá ứ tiêu thũng. Nếu mủ đã vỡ, thường phần nhiều xuất hiện tình trạng hư, nên bổ hư giải độc thúc mủ.

PHỤ PHƯƠNG

  1. Đại hoàng mẫu đơn thang: Đại hoàng, mẫu đơn bì, đào nhân, qua tử, mang tiêu.
  2. Hoạt huyết tán ứ thang: Xuyên khung, quy vỹ, xích thược, tô mộc, đan bì, chỉ xác, long nhãn, đào nhân, tân lang, đại hoàng.
  3. Thanh tràng ẩm: Kim ngân hoa, đương quy, địa du, mạch môn, huyền sâm, cam thảo, dĩ nhân, hoàng cầm.
  4. Trương Cảnh Nhạc tràng ung đơn phương: Trước tiên dùng chừng 1 lạng hoàng đằng, lấy hai bát rượu ngon nấu còn 1 bát, uống 1 lần lúc buổi sáng, say nằm ngủ, buổi chiều, dùng chừng 1 lạng tử hoa định đinh, cũíig nấu uống như lần trước sau khi uống, đau khỏi dần là có hiệu quả.
  5. Ý dĩ phụ tử bài hương tán: Phụ tử, ý dĩ, bại hương thảo.
  6. Ý dĩ nhân thang: Xem phụ phương số 3 mục Tỳ chứng.
  7. Mẫu đơn bi tán: Nhân sâm, hoàng kì, đan bì, bạch thược, phục linh, ý dĩ nhân, đào nhân, bạch chỉ, đương quy, xuyên khung, cam thảo, quan quế, mộc hương.
  8. Bát trân thang: Xem phụ phương số 6 mục Quyết chứng.

Trị Liệu Tâm Lý (Psychotherapy) là gì?

Trị liệu tâm lý, còn được gọi là trị liệu nói chuyện, là một loại điều trị sức khỏe tâm thần.

Nó thường được sử dụng một mình hoặc kết hợp với thuốc để điều trị các tình trạng sức khỏe tâm thần. Trong một phiên trị liệu tâm lý, bạn sẽ trò chuyện với một bác sĩ hoặc một chuyên gia chăm sóc sức khỏe tâm thần có giấy phép để xác định và thay đổi những suy nghĩ gây rối. Trị liệu tâm lý có thể giúp bạn đối phó với các tình trạng sức khỏe tâm thần như trầm cảm, lo âu và stress, hoặc xử lý các sự kiện trong cuộc sống như chấn thương hoặc cái chết của một người thân yêu.

Trị Liệu Tâm Lý vs. Tư Vấn

Hai thuật ngữ này thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng chúng có nghĩa khác nhau. Cả hai đều là liệu pháp sức khỏe tâm thần, nhưng thời gian và mục đích chăm sóc thì khác nhau.

Tư vấn thường là ngắn hạn và thường tập trung vào việc tạo ra giải pháp cho một vấn đề cụ thể, chẳng hạn như lạm dụng chất. Trị liệu tâm lý có khả năng là một phương pháp điều trị dài hạn hơn và có thể tập trung vào nhiều vấn đề hoặc các tình trạng sức khỏe tâm thần phức tạp hơn.

Trị Liệu Tâm Lý Có Thể Điều Trị Những Vấn Đề Nào?

Trị liệu tâm lý có thể điều trị nhiều vấn đề khác nhau, bao gồm nhiều tình trạng sức khỏe tâm thần và các yếu tố gây căng thẳng hoặc xung đột trong cuộc sống hàng ngày của bạn.

Các tình trạng sức khỏe tâm thần mà trị liệu tâm lý có thể điều trị bao gồm:

  • Trầm cảm
  • Rối loạn lưỡng cực
  • Rối loạn lo âu như lo âu xã hội và ám ảnh
  • Rối loạn ăn uống bao gồm chứng anorexia và bulimia
  • Rối loạn stress sau chấn thương (PTSD)
  • Tâm thần phân liệt
  • Lạm dụng rượu và các chất gây nghiện
  • Rối loạn nhân cách như rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) và rối loạn nhân cách biên giới
  • Rối loạn điều chỉnh

Bạn có thể không mắc bệnh tâm thần, nhưng trị liệu tâm lý có thể giúp bạn đối phó với các vấn đề hàng ngày hoặc các tình huống căng thẳng. Nó có thể giúp bạn trong những vấn đề như:

  • Một tình trạng y tế như ung thư, các bệnh tự miễn hoặc đau mãn tính
  • Chấn thương, bất kể là thể chất hay tinh thần
  • Căng thẳng
  • Cái chết của một người bạn hoặc thành viên trong gia đình
  • Ngừng hút thuốc
  • Ly hôn hoặc các vấn đề với thành viên trong gia đình
  • Các thách thức trong công việc
  • Vấn đề tình dục
  • Các vấn đề cảm xúc như cơn giận hoặc hành vi thường xuyên hung hăng

Lợi Ích Của Trị Liệu Tâm Lý

Trị liệu tâm lý có thể hữu ích cho nhiều vấn đề. Nó đã được chứng minh giúp giảm bớt ít nhất một số triệu chứng cho khoảng ba phần tư số người tham gia. Nó đã được chứng minh giúp mọi người:

  • Nhận diện hành vi, cảm xúc và ý tưởng và học cách điều chỉnh chúng
  • Hiểu và xác định các vấn đề hoặc sự kiện trong cuộc sống của họ — chẳng hạn như một căn bệnh nghiêm trọng, cái chết trong gia đình, mất việc làm hoặc ly hôn — và giúp họ nhận ra những khía cạnh nào của những vấn đề đó mà họ có thể giải quyết hoặc cải thiện
  • Lấy lại cảm giác kiểm soát và vui vẻ trong cuộc sống
  • Học các kỹ thuật đối phó lành mạnh và kỹ năng giải quyết vấn đề
  • Học cách nhận diện nếu họ có nguy cơ tự gây hại và học các công cụ để quản lý những cảm xúc đó
  • Hồi phục từ sự lạm dụng

Trị liệu tâm lý cũng có thể giúp bạn với các chức năng hàng ngày, bao gồm:

  • Cải thiện các mối quan hệ tại nơi làm việc và ở nhà
  • Có ít ngày nghỉ bệnh hơn
  • Cải thiện triệu chứng và giảm tàn tật với một tình trạng y tế mãn tính
  • Tăng cường sự hài lòng với cuộc sống
  • Tham gia tích cực vào việc ra quyết định y tế khi bạn có vấn đề sức khỏe

Các Định Dạng Trị Liệu Tâm Lý

Trị liệu có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm:

  • Cá nhân: Điều này chỉ liên quan đến bạn và nhà trị liệu của bạn.
  • Nhóm: Bạn và những người khác cùng tham gia trị liệu. Mọi người chia sẻ kinh nghiệm của mình và học rằng người khác cảm thấy như vậy và đã có những trải nghiệm tương tự.
  • Vợ/chồng: Điều này giúp bạn và bạn đời hiểu những thay đổi nào trong giao tiếp và hành vi có thể giúp và những gì bạn có thể làm cùng nhau. Điều này cũng có thể giúp một cặp đôi đang gặp khó khăn trong mối quan hệ của họ.
  • Gia đình: Bởi vì gia đình là một phần quan trọng của nhóm giúp bạn hồi phục, đôi khi có lợi khi các thành viên trong gia đình hiểu những gì bạn đang trải qua, cách họ có thể quản lý cảm xúc của họ và những gì họ có thể làm để giúp đỡ. Điều này cũng có thể giúp giải quyết các vấn đề, cải thiện giao tiếp và giảm xung đột giữa các thành viên trong gia đình.

Các Loại Trị Liệu Tâm Lý

Có nhiều phương pháp mà các chuyên gia sức khỏe tâm thần có thể sử dụng để cung cấp trị liệu. Sau khi nói chuyện với bạn về rối loạn của bạn, nhà trị liệu của bạn sẽ quyết định phương pháp nào để sử dụng. Các phương pháp khác nhau bao gồm:

  • Trị liệu tâm lý động: Dựa trên giả định rằng các vấn đề cảm xúc của bạn là kết quả của các xung đột chưa được giải quyết (thường là vô thức), thường bắt nguồn từ thời thơ ấu. Mục tiêu của loại trị liệu này là giúp bạn hiểu các niềm tin và cảm xúc của bạn để bạn có thể thay đổi các mẫu hành vi không lành mạnh. Trị liệu tâm lý động thường kéo dài vài tháng, mặc dù có thể lâu hơn, thậm chí nhiều năm.
  • Trị liệu liên cá nhân: Loại trị liệu này tập trung vào hành vi và tương tác của bạn với gia đình và bạn bè. Mục tiêu của trị liệu này là cải thiện kỹ năng giao tiếp của bạn và tăng cường sự tự tin của bạn trong một khoảng thời gian ngắn. Nó thường kéo dài từ 3-4 tháng và hoạt động tốt cho trầm cảm do tang lễ, xung đột trong mối quan hệ, các sự kiện quan trọng trong đời và sự cô lập xã hội.
  • Trị liệu hành vi nhận thức (CBT): CBT giúp bạn xác định và thay đổi những nhận thức sai lầm mà bạn có về bản thân và thế giới xung quanh. Nhà trị liệu sẽ hướng sự chú ý của bạn đến những giả định không lành mạnh của bạn và giúp bạn học các phương pháp suy nghĩ mới và các kỹ năng đối phó hiệu quả hơn. CBT có thể được sử dụng để điều trị những điều như trầm cảm, lo âu và chấn thương. Nó cũng là một trong những phương pháp điều trị phổ biến nhất cho các rối loạn ăn uống, giúp bạn tập trung ít hơn vào hình dáng cơ thể và giảm nhu cầu sử dụng các biện pháp cực đoan để kiểm soát trọng lượng của mình.

Trị liệu hành vi nhận thức (CBT)

CBT có thể là một lựa chọn cho bạn nếu bạn:

  • Suy nghĩ và hành xử theo cách khiến bệnh tâm thần của bạn trở nên tồi tệ hơn.
  • Bị trầm cảm hoặc rối loạn lo âu (tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng, CBT có thể được sử dụng cùng với thuốc chống trầm cảm).
  • Không muốn hoặc không thể sử dụng thuốc chống trầm cảm.
  • Có một tình trạng sức khỏe tâm thần gây đau khổ, khuyết tật hoặc vấn đề trong quan hệ.

Trị liệu chấp nhận và cam kết (ACT)

ACT dạy bạn cách hiểu những gì bạn đang cảm thấy vào bất kỳ thời điểm nào và quản lý hành vi của bạn dựa trên các giá trị của bạn. Không giống như CBT, nơi bạn học cách thay đổi các mẫu suy nghĩ không lành mạnh, ACT giúp bạn hiểu và chấp nhận cảm xúc của mình, sau đó cam kết với một sự thay đổi hành vi tích cực. Thay vì kìm nén hoặc phớt lờ những trải nghiệm khó chịu, mục tiêu là trở nên “linh hoạt về tâm lý,” để bạn có thể thích nghi với những tình huống này. ACT có thể được sử dụng để điều trị các vấn đề như đau buồn, bệnh tật và lo âu.

Trị liệu hành vi biện chứng (DBT)

DBT là một loại trị liệu hành vi nhận thức được sử dụng cho những bệnh nhân có nguy cơ cao, khó điều trị. Thuật ngữ “biện chứng” xuất phát từ ý tưởng rằng việc kết hợp hai đối lập trong trị liệu – chấp nhận và thay đổi – mang lại kết quả tốt hơn so với việc sử dụng từng cái một. DBT giúp bạn thay đổi các hành vi không lành mạnh như nói dối và tự gây thương tích thông qua việc giữ nhật ký hàng ngày, trị liệu cá nhân và nhóm, cùng với coaching qua điện thoại.

DBT ban đầu được thiết kế để điều trị những người có hành vi tự sát và rối loạn nhân cách biên giới. Tuy nhiên, nó đã được điều chỉnh cho các vấn đề khác bao gồm rối loạn ăn uống và PTSD.

DBT toàn diện tập trung vào bốn cách để nâng cao kỹ năng sống:

  • Chịu đựng căng thẳng: Cảm nhận những cảm xúc mãnh liệt như giận dữ mà không phản ứng một cách bốc đồng hoặc resort đến tự gây thương tích hay sử dụng chất kích thích để làm dịu sự lo âu.
  • Điều chỉnh cảm xúc: Nhận diện, gán nhãn và điều chỉnh cảm xúc.
  • Chánh niệm: Trở nên nhận thức hơn về bản thân và người khác và chú ý đến thời điểm hiện tại.
  • Hiệu quả trong quan hệ: Điều hướng xung đột và tương tác một cách tự tin.

Trị liệu hỗ trợ

Nhà trị liệu của bạn hướng dẫn bạn cách sử dụng nguồn lực cảm xúc của mình để đối phó với các tình trạng sức khỏe tâm thần. Cách tiếp cận này giúp nâng cao lòng tự trọng của bạn, giảm lo âu và cải thiện kỹ năng xã hội và kỹ năng đối phó của bạn.

Trị liệu nhân văn

Loại trị liệu này không tập trung vào các triệu chứng hay vấn đề của bạn. Thay vào đó, nó dựa trên ý tưởng rằng tự khám phá sẽ giúp bạn đạt được tiềm năng tối đa, phá vỡ các mẫu cũ và cải thiện mối quan hệ với thế giới xung quanh bạn. Nó có thể ngắn hạn hoặc dài hạn, tùy thuộc vào nhu cầu của bạn. Trị liệu nhân văn có thể được sử dụng để điều trị một số tình trạng sức khỏe tâm thần bao gồm lo âu, trầm cảm và OCD.

Liệu pháp cảm xúc

Liệu pháp cảm xúc chủ yếu được sử dụng nếu bạn có vấn đề về gắn kết hoặc chấn thương. Liệu pháp cảm xúc sử dụng mối liên kết giữa các phản ứng thể chất của bạn với các vấn đề cảm xúc để giúp thay đổi các mẫu và niềm tin tâm lý không lành mạnh.

Trị liệu trẻ em – phụ huynh

Loại trị liệu này được sử dụng cho trẻ em từ khi sinh đến 6 tuổi có chấn thương hoặc có chẩn đoán tình trạng sức khỏe tâm thần. Một phụ huynh hoặc người chăm sóc luôn tham gia vào các buổi trị liệu. Trị liệu trẻ em – phụ huynh dựa trên ý tưởng rằng nếu mối liên kết giữa trẻ và người lớn được củng cố, nó sẽ cải thiện sức khỏe tâm thần, hành vi và khả năng xã hội của trẻ.

Các hình thức trị liệu bổ sung và thay thế

Các hình thức trị liệu bổ sung và thay thế có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp với trị liệu tâm lý thông thường.

  • Liệu pháp hỗ trợ động vật: Chó, ngựa và các động vật khác có thể giúp giảm lo âu và trầm cảm, mang lại sự an ủi.
  • Liệu pháp nghệ thuật và âm nhạc: Điều này có thể cho phép bạn thể hiện và xử lý nỗi buồn và các cảm xúc khác của mình.

Mẹo cho Trị liệu Tâm lý Hiệu quả

Trị liệu hiệu quả phụ thuộc vào sự tham gia tích cực của bạn. Nó đòi hỏi thời gian, nỗ lực và sự đều đặn. Hãy ghi nhớ những mẹo này khi bạn bắt đầu điều trị:

  • Tham dự tất cả các cuộc hẹn đã lên lịch.
  • Làm việc với nhà trị liệu của bạn để thiết lập mục tiêu ngay từ đầu. Xem xét chúng từ thời gian này đến thời gian khác.
  • Xác định các nguồn căng thẳng và cố gắng giữ nhật ký. Ghi chú các sự kiện căng thẳng cũng như các sự kiện tích cực.
  • Đặt lại các ưu tiên bằng cách tập trung nhiều hơn vào hành vi tích cực, hiệu quả.
  • Dành thời gian cho các hoạt động giải trí và thú vị.
  • Giao tiếp bằng cách giải thích và khẳng định nhu cầu của bạn với một người mà bạn tin tưởng. Hoặc viết nhật ký để thể hiện cảm xúc của bạn.
  • Tập trung vào các kết quả tích cực và tìm phương pháp giảm thiểu và quản lý căng thẳng.
  • Hãy cởi mở và trung thực, vì thành công phụ thuộc vào sự sẵn lòng của bạn để chia sẻ suy nghĩ, cảm xúc và trải nghiệm của bạn và xem xét những hiểu biết, ý tưởng và cách làm mới. Nếu bạn không sẵn lòng nói về một số vấn đề vì cảm xúc đau đớn, sự xấu hổ hoặc lo ngại về phản ứng của nhà trị liệu, hãy cho nhà trị liệu của bạn biết.
  • Tuân thủ kế hoạch điều trị của bạn ngay cả khi bạn cảm thấy chán nản hoặc thiếu động lực. Có thể bạn sẽ cảm thấy cám dỗ để bỏ qua các phiên trị liệu, nhưng điều này có thể làm gián đoạn tiến trình của bạn. Hãy cố gắng tham gia tất cả các phiên và suy nghĩ về những gì bạn muốn thảo luận.
  • Đừng mong đợi kết quả ngay lập tức, vì làm việc với các vấn đề cảm xúc có thể đau đớn và có thể đòi hỏi công việc khó khăn. Bạn có thể cần một vài phiên trước khi bạn bắt đầu thấy sự cải thiện.
  • Làm bài tập về nhà giữa các phiên, vì nó có thể giúp bạn áp dụng những gì bạn đã học được trong trị liệu vào cuộc sống của bạn. Nếu nhà trị liệu của bạn yêu cầu bạn ghi lại suy nghĩ của mình trong nhật ký hoặc làm các hoạt động khác ngoài các phiên trị liệu của bạn, hãy thực hiện theo.

Tìm kiếm nhà trị liệu

Bạn có thể tìm thấy một nhà trị liệu tâm lý bằng cách hỏi bạn bè và gia đình về các giới thiệu và kiểm tra với công ty bảo hiểm sức khỏe của bạn để xem ai được bảo hiểm theo kế hoạch của bạn. Bạn cũng có thể truy cập trang web của một tổ chức như Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ hoặc hiệp hội sức khỏe tâm thần của tiểu bang bạn. Cân nhắc phỏng vấn nhà cung cấp qua điện thoại, video hoặc trực tiếp cho đến khi bạn tìm thấy một người phù hợp. Bạn có thể muốn thiết lập các cuộc hẹn ban đầu với một vài nhà trị liệu để tìm ra một người mà bạn thích.

Trước khi chọn nhà trị liệu, bạn có thể muốn hỏi:

  • Họ tính phí bao nhiêu.
  • Họ có sử dụng phương pháp điều trị dựa trên bằng chứng hay không.
  • Họ có chấp nhận bảo hiểm không.
  • Giờ làm việc của họ là gì.
  • Họ có bao nhiêu năm kinh nghiệm.
  • Các lĩnh vực chuyên môn của họ để đảm bảo họ xử lý các vấn đề mà bạn đang gặp phải.
  • Phương pháp điều trị của họ.
  • Họ có cung cấp dịch vụ telehealth (cuộc hẹn trực tuyến) hay không.
  • Họ nghĩ rằng liệu pháp sẽ kéo dài bao lâu.
  • Họ có sẵn sàng cho các cuộc hẹn khẩn cấp hay không.

Nếu bạn đang tìm kiếm một nhà trị liệu tập trung vào sự đa dạng, có nhiều cách để đảm bảo rằng họ có thể hiểu những nhu cầu đặc thù của bạn. Khi bạn nói chuyện với họ trước cuộc hẹn đầu tiên, bạn có thể hỏi các câu hỏi như:

  • Kinh nghiệm của họ khi làm việc với những người có nền tảng dân tộc, xu hướng tính dục hoặc chủng tộc của bạn là gì?
  • Họ đã nhận được đào tạo nào về cách kết hợp sự công bằng vào thực hành của họ?
  • Họ có bao nhiêu kinh nghiệm làm việc với bệnh nhân từ các nền tảng đa dạng?
  • Họ có thể đưa ra ví dụ về cách họ đã điều trị một bệnh nhân có nền tảng tương tự như của bạn không?

Điều gì mong đợi trong trị liệu tâm lý

Hầu hết các buổi trị liệu kéo dài từ 45 đến 60 phút với cuộc trò chuyện có hướng dẫn. Nhà trị liệu của bạn có thể sẽ hỏi rất nhiều câu hỏi, đặc biệt là ở giai đoạn đầu. Họ cũng có thể yêu cầu bạn điền vào các mẫu trong lần đến đầu tiên để có ý tưởng về những gì bạn đang cảm thấy và những gì bạn muốn từ các buổi trị liệu. Họ có thể muốn biết về lịch sử, trải nghiệm, cảm xúc và những lo lắng của bạn.

Tốt nhất là cả hai bạn đều đồng ý về các mục tiêu điều trị của bạn. Nhà trị liệu của bạn có thể muốn lên lịch thêm các buổi trị liệu. Một số nhà trị liệu có thể kê đơn thuốc nếu cần.

Trong quá trình trị liệu, bạn có thể thấy mình khóc, mệt mỏi hoặc có một cơn bùng nổ. Điều này là bình thường vì bạn có thể đang xử lý những cảm xúc không thoải mái. Nhà trị liệu của bạn không có ở đó để đánh giá hành vi của bạn, vì vậy bạn nên cảm thấy tự do để mở lòng và họ có thể giúp bạn vượt qua những cảm xúc này.

Trị liệu của bạn cũng được giữ bí mật với rất ít ngoại lệ. Họ không thể lặp lại những gì bạn đã nói trừ khi họ nghĩ rằng có một mối đe dọa ngay lập tức đến sự an toàn của bạn hoặc người khác. Bạn có thể nói chuyện với nhà trị liệu của bạn và họ có thể trả lời bất kỳ mối quan tâm nào bạn có về tính bảo mật.

Nhà trị liệu của bạn có thể giao cho bạn bài tập về nhà. Điều này có thể bao gồm các việc như viết nhật ký, có một trải nghiệm mới hoặc tạo một kế hoạch để quản lý một trong những triệu chứng của bạn. Nếu nhà trị liệu yêu cầu bạn làm điều gì đó mà bạn không cảm thấy thoải mái, hãy cho họ biết. Bài tập về nhà có thể là một cách tốt để thực hành những gì bạn đang học trong các phiên của bạn.

Thời gian trị liệu tâm lý có hiệu quả

Thời gian bạn dành trong trị liệu sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố. Nghiên cứu cho thấy rằng chỉ cần 12 phiên hàng tuần có thể giúp giảm nhiều triệu chứng. Thường thì bạn có thể mong đợi khoảng 6 tháng để có được sự giảm nhẹ hoàn toàn các triệu chứng và học các kỹ năng để giúp bạn đối phó với các vấn đề trong tương lai. Nếu bạn có những vấn đề phức tạp hơn, có thể mất một năm hoặc lâu hơn để thấy sự cải thiện. Và, giống như một số người, bạn có thể đi trị liệu một cách không thường xuyên suốt cuộc đời để duy trì sức khỏe tâm thần.

Thời gian bạn cần trị liệu phụ thuộc vào các yếu tố như:

  • Loại trị liệu mà nhà trị liệu của bạn cung cấp.
  • Mức độ nghiêm trọng của triệu chứng của bạn.
  • Thời gian bạn đã có các triệu chứng.
  • Sự cống hiến của bạn cho trị liệu.
  • Bảo hiểm của bạn và các hạn chế về chi phí.

Kết luận

Trị liệu tâm lý, hay còn gọi là trị liệu trò chuyện, có thể được sử dụng để điều trị nhiều tình trạng cảm xúc và sức khỏe tâm thần. Nếu bạn cần giới thiệu, hãy nói chuyện với bạn bè và gia đình hoặc tìm đến các hiệp hội tiểu bang hoặc quốc gia để tìm các nhà trị liệu được cấp phép trong khu vực của bạn. Bạn có thể mong đợi có một số giảm nhẹ triệu chứng trong khoảng 6 tháng, nhưng trị liệu tâm lý có thể ngắn hơn hoặc dài hơn, tùy thuộc vào nhiều yếu tố.

Các câu hỏi thường gặp về trị liệu tâm lý

Sự khác biệt giữa nhà trị liệu tâm lý và nhà tâm lý học là gì?

Nhà trị liệu tâm lý là một thuật ngữ chung cho các chuyên gia thực hiện trị liệu trò chuyện và có thể bao gồm các nhà tâm lý học, nhân viên xã hội và nhà trị liệu gia đình. Một nhà tâm lý học là một nhà trị liệu có ít nhất bằng thạc sĩ về tâm lý học (nhưng thường là bằng tiến sĩ). Các nhà tâm lý học thường không kê đơn thuốc (một bác sĩ tâm thần có thể) nhưng có giấy phép để kê đơn ở một số bang.

Đông y điều trị Bệnh tiểu đường (đái tháo đường )

Bệnh tiểu đường (đái đường) thuộc phạm vi chứng tiêu khát của y học cổ truyền. Với 3 triệu chứng chủ yếu: ăn nhiều, uống nhiều, tiểu tiện nhiều.

Do ăn uống nhiều đồ cay, béo ngọt, do sang chấn tinh thần tạo thành hỏa nhiệt, uất nhiệt làm phần âm của phủ tạng tâm vị, thận bị hao tổn. hỏa làm phế âm hư gây chứng khát, âm hư gây chứng đói nhiều, người gầy, thận âm hư không tàng trữ tinh hoa của ngũ cốc, gây tiểu tiện nhiều ra chất đường.

ĐIỀU TRỊ THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN

Phương pháp chữa chung: lấy dưỡng âm thanh nhiệt sinh tân dịch là cơ sở. Nhưng trên lâm sàng hội chứng của bệnh tiểu đường có khi thiên về khát nhiều, thiên về đói nhiều, thiên về tiểu tiện nhiều nên cách chữa còn tuỳ theo chứng mà có trọng điểm gia giảm vì thận là nguồn gốc của tân dịch và nơi tàng trữ tinh vi của ngũ cốc, nên vẫn lấy bổ thận âm làm chính.

Bài thuốc:

Sinh địa                   40 gam                    Thổ hoàng liên 16 gam

Thạch cao               40 gam

Sắc uống.

Bài 2.

Tuỷ lợn sống khô tán bột 8 gam   Hoài sơn tán bột 12 gam

Ý dĩ tán bột 8 gam                          Cát căn tán bột 8 gam

Góí thành 5 gói, uống một ngày 4 – 5 gói, tuỳ theo bệnh nặng nhẹ.

Bài 3.

Sa sâm                     12 gam                    Thạch cao                     20 gam

Thiên môn              12 gam                    Tâm sen                          8 gam

Mạch môn               12 gam                    Biển đậu                       12 gam

Hoài sơn                  12 gam                    Ý dĩ                               12 gam

Sắc uống ngày 1 thang. Nếu khát nhiều thêm tang bạch bì 8 gam, thiên hoa phấn 8 gam. Đói nhiều thêm hoàng liên 8 gam, đái nhiều thêm ngũ vị tử 8 gam , thạch hộc 8 gam.

Bài 4. Lục vị hoàn thang gia giảm điều trị đái tháo đường

Sinh địa hay thục địa 20 gam                  Sơn thù                          8 gam

Hoài sơn                  20 gam                    Đan bì                           12 gam

Kỷ tử                       12 gam                    Thiên hoa phấn 8 gam

Thạch hộc               12 gam                    Sa sâm                             8 gam

Nếu khát nhiều thêm thạch cao 40 gam, đói nhiều thêm hoàng liên 8 gam, đái nhiều ra đường thêm ích trí nhân 8 gam, tang phiêu tiêu 8 gam, ngũ vị tử 6 gam, nếu thận dương hư bỏ thiên hoa phấn, sa sâm, thêm phụ tử chế 8 gam, nhục quế 4 gam (là bài Bát vị quế phụ).

Có tài liệu căn cứ vào triệu chứng thiên lệch chủ yếu về khát, về đói, về tiểu tiện để phân ra vị trí và tạng phủ chia các loại hình của bệnh và có cách chữa, dùng thuốc và sự dùng bài thuốc thích hợp.

Vị thuốc Hoài sơn điều trị đái tháo đường
Vị thuốc Hoài sơn điều trị đái tháo đường

Nếu khát uống nước nhiều, họng khô, lưỡi đỏ, ít rêu mạch sác thuộc thượng tiêu phế. Phương pháp chữa, dưỡng âm nhuận phế dùng bài Thiên hoa phấn thang.

Thiên hoa phấn 20 gam                         Sinh địa                         16 gam

Mạch môn               16 gam                    Cam thảo                        6 gam

Ngữ vị tử                  8 gam                 Gạo nếp                     16   gam

Nếu ăn nhiều, đái nhiều, người gầy, khát, đái nhiều, đại tiện táo, lưỡi đỏ rêu vàng, mạch hoạt sác thuộc vị âm hư, trung tiêu.

Phương pháp chữa: Dưỡng vị sinh tân (dùng các thuốc đắng lạnh, thanh vị hoả) dùng bài Tăng dịch thang để điều trị tiểu đường

Huyền sâm                 16 gam                 Sinh địa                      16   gam

Mạch môn                  12 gam                 Thiên hoa phấn          16 gam

Hoàng liên                    6 gam

Nếu táo bón thêm đại hoàng 8 – 12 gam.

Vị thuốc Thiên hoa phấn
Vị thuốc Thiên hoa phấn

Nếu tiểu tiện nhiều, đái ra đường, miệng khát, hồi hộp, lòng bàn tay, bàn chân nóng, lưỡi đỏ không rêu, mạch tế sác là do thận âm hư, nếu tay chân lạnh mệt mỏi, người gầy mạch tế sác vô lực là do thận dương hư. Các triệu chứng thuộc thận là do bệnh ở hạ tiêu. Nếu do thận âm hư. Phương pháp chữa là do thận âm sinh tân dịch dùng bài Lục vị hoàn hoặc thang gia giảm như trên. Nếu do thận dương hư, phương pháp chữa là ôn thận dương sáp mạch dùng bài Bát vị quế phụ, thêm các thuốc ôn thận sáp niệu như tang phiêu tiêu, kim anh tử, khiếm thực, sơn thù…

Châm cứu: ít dùng châm cứu để chữa bệnh đái đường có thể chọn các huyệt sau: Phế du, Thiếu dương (nếu khát nhiều), Tỳ du, Vị du, Túc tam lý (nếu đói nhiều), Thận du, Quan nguyên, Phục lưu, Thủy tuyền (nếu đái nhiều).

Nhĩ châm: châm huyệt Nội tiết và các huyệt Vị (đói nhiều), Phế (khát nhiều), Thận (đái nhiều ).

Bệnh tiểu đường còn hay gây những biến chứng phức tạp như mụn nhọt do bội nhiễm, viêm các dây thần kinh, đục nhãn mắt… đến giai đoạn nặng có thể hôn mê do nhiễm độc. cần phải theo dõi chặt chẽ trên lâm sàng, thêm các vị thuốc thích hợp, dùng các phương tiện và thuốc của Y học hiện đại để chữa và cấp cứu.

ĐIỀU TRỊ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THEO Y HỌC HIỆN ĐẠI

Xem thêm:

Bệnh Đái tháo đường typ 2

Bệnh đái tháo đường type 2 chưa có biến chứng

https://thuocchuabenh.vn/benh-san-khoa/chan-doan-dieu-tri-dai-thao-duong-thai-nghen.html

Bệnh thận đái tháo đường

  • Chế độ giảm nhiệt lượng

Người lớn cần 1500 – 2000 calo/ngày. Nếu lao động cũng không quá 2500calo/ngày.

  • Cân đối giữa các chất dinh dưỡng chính hàng ngày

Glucid40% khoảng 200 gam.

Protid 20% khoảng 100 gam

Lipit 40% khoảng 80 gam

Nên chia đều làm 3 – 4 bữa là đủ vitamin.

Nên cho ăn nhiều rau để tránh cảm giác đói, khi đã điều chỉnh chế độ ăn mà đường huyết vẫn cao, vẫn đái ra đường mới dùng thuốc hạ đường huyết.

  • Thuốc hạ đường huyết

Tolbutamit là sulfamit chống đái đường, biệt dược orabet: 0,50 gam X 4 – 6 viên/ ngày. Sau giảm dần tới liều dùng duy trì theo bệnh nhân. Tránh dùng cho người mẫn cảm với sulíamit.

Oradian: thuốc giảm gluco huyết. Không dùng cho người đái tháo đường nặng, người dưới 4Q tuổi, người bị bệnh gan, thận, thai nghén, liều lượng tuỳ theo đường huyết và đường niệu.

Đầu tiên dùng 250 mg/ngày uống 1 lần.

Tai biến nổi ban, rốỉ loạn tiêu hoá, giảm bạch cầu, bạch cầu hạt.

Gilbenclamod là dẫn chất Sulfamid làm hạ đường huyết mạch. Song tương đương 1 gam tolnutamin, dùng liều nhỏ nên dễ dùng hơn 1 – 2 viên /ngày.

Chỉ định: người béo dùng tốt hơn

bệnh kéo dài chưa quá 5 năm.

chữa điều trị bằng insulin quá hai năm.

Insulin có 2 loại:

Insulin nhanh (1 ml = 4 đơn vị)

Loại này có tác dụng nhanh và thải hết sau 8 giờ.

Vậy phải chia ra làm 2 ~ 3 lần trong 24 giờ.

Insulin chậm.

Tác dụng sau khi tiêm 2 – 3 giờ thải hết sau 24 giờ chỉ cần tiêm 1 lần trong ngày hoặc chia hai lần cách nhau 24 giờ.

  • Lưu ý

Nếu số đường niệu thải ra trong 24 giờ dưới 15% số đường ăn vào thì không cần dùng insulin mà chỉ cần điều chĩnh chế độ ăn.

Ăn 200 gam gluxit, đái ra 30% = 60 gam, thì cho tiêm 30 đơn vị insulin/24 giờ.

Nếu có dấu hiệu tiền hôn mê hoặc hôn mê do đái tháo đường thì phải sử dụng insulin nhanh không dùng insulin chậm.

Phải theo dõi tốt tránh hạ đường huyết sau khi dùng insulin.

Quan trọng nhất là chế độ ăn uống với sự tự giác của bệnh nhân tiểu đường.

Bệnh Suy giáp trạng bẩm sinh

Suy giáp trạng bẩm sinh là bệnh nội tiết do tuyến giáp sản xuất không đủ hormon đáp ứng cho nhu cầu chuyển hoá và sinh trưởng của cơ thể. Bệnh phổ biến đứng thứ 2 sau bướu cổ nhưng di chứng rất trầm trọng về thể lực và thiểu năng tinh thần nếu không được điều trị sớm.

Suy giáp trạng bẩm sinh tiên phát không nằm trong vùng thiếu hụt iod mà có thể gặp khắp mọi nơi trên thế giới, tỷ lệ mắc Suy giáp trạng bẩm sinh 1/3000-1/4000 trẻ sơ sinh sống sau đẻ. Bệnh từ bào thai nhưng các triệu chứng không xuất hiện sau đẻ mà biểu hiện muộn hơn ở thời kỳ bú mẹ hoặc thanh thiếu niên. Do đó chẩn đoán bị muộn, trẻ vĩnh viễn bị thiểu năng trí tuệ. Nhưng nếu điều trị sớm ngay sau sinh trẻ sẽ phát triển bình thường, vì vậy, từ 1960 đến nay chương trình sàng lọc sơ sinh (CTSLSS) bệnh Suy giáp trạng bẩm sinh ngày càng được mở rộng và phát triển, hàng ngàn trẻ đã được cứu khỏi thiểu năng trí tuệ nhờ phát hiện sớm qua CTSLSS.

  1. NGUYÊN NHÂN

Rối loạn phát triển tuyến giáp: Là nguyên nhân thường gặp nhất chiếm 90% trẻ bị Suy giáp trạng bẩm sinh do không có tuyến giáp, tuyến giáp lạc chỗ (ở dưới lưỡi hoặc trung thất) hoặc tuyến giáp bị thiểu sản.

10% Suy giáp trạng bẩm sinh còn lại do rối loạn tổng hợp hormon giáp (bệnh do di truyền lặn NST thường), do giảm bắt giữ iod tại tuyến giáp, thiếu enzym trong quá trình tổng hợp hormon giáp, SGBS địa phương do thiếu iod nặng, Suy giáp trạng bẩm sinh do mẹ điều trị phóng xạ khi có thai.

  1. CHẨN ĐOÁN SUY GIÁP BẤM SINH TIÊN PHÁT

Lâm sàng

  • Bộ mặt phù niêm: khoảng cách 2 mắt xa nhau, khe mi hẹp, mi mắt nặng, mũi tẹt, má phị, miệng trẻ luôn há vì lưỡi dầy, đầy miệng, tóc khô, thưa và chân tóc mọc thấp đã tạo cho trẻ 1 khuôn mặt đặc biệt của phù niêm.
  • Dấu hiệu về da: thường gặp là vàng da sinh lý kéo dài > 1 tháng, không tìm thấy nguyên nhân bệnh lý gan mật nên nghĩ đến Có thể thấy da khô, lạnh và nổi vân tím.
  • Dấu hiệu tiêu hoá: Trẻ thường ngủ nhiều, ít khóc đòi ăn và táo bón kéo dài
  • Phát triển: tinh thần và vận động thường chậm so với tuổ Trẻ chậm lẫy, bò, ngồi hoặc đi. Chậm biết lạ quen, chậm biết nói, chậm mọc răng, chậm liền thóp sau. Mức độ chậm phát triển thể lực và tinh thần cũng tăng dần theo tuổi.

Xét nghiệm

  • Xét nghiệm đặc hiệu:

+ Điều trị bằng thyroxin ngay nếu FT4 hoặc T4 thấp. T4 thấp kèm TSH tăng trên 40 mU/L được coi là suy giáp trạng tiên phát.

+ Cần điều trị ngay sau khi lấy máu làm xét nghiệm TSH và FT4 nếu TSH giấy thấm khô ≥ 40 mU/L.

+ Cần điều trị ngay nếu FT4 thấp so với tuổi, bất kể nồng độ TSH như thế nào.

+ Có thể điều trị nếu TSH liên tục > 20 mU/L mặc dù FT4 bình thường.

+ Nếu TSH trong khoảng 6-20 mU/L ở trẻ khỏe mạnh và FT4 bình thường thì nên làm xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh để chẩn đoán xác định.

  •  Xét nghiệm không đặc hiệu:

+ Tuổi xương: thường chậm. Tiêu chuẩn dựa vào đánh giá các điểm cốt hoá ở cổ tay trái theo Greulich và Pyle.

+ Ghi hình tuyến giáp bằng TC 99m để xác định tuyến giáp ở vị trí bình thường, lạc chỗ hay thiểu sản. Xét nghiệm này có giá trị tìm nguyên nhân Suy giáp trạng bẩm sinh.

  1. ĐIỀU TRỊ

  • Thuốc: Hormon giáp tổng hợp Liều lượng thuốc ban đầu là: 10-15 mg/kg/ngày.
  • Cách dùng thuốc: Uống thuốc ngày 1 lần vào trước ăn sáng hoặc trước bứa ăn tối, nhưng thời gian trong ngày cần giống Uống thuốc dạng viên. Đối với trẻ nhỏ, sơ sinh thì nghiền thành bột và pha vào vài ml nước hoặc sữa mẹ.
  1. THEO DÕI KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ

  • Kiểm tra TSH, FT4 hoặc T4 định kỳ. Cần lấy máu cách xa thời điểm uống thyroxin trước đó trên 4 giờ.
  • Điều chỉnh liều để TSH bình thường so với tuổi (0,05 đến 2 mU/L), T4 hoặc FT4 ở giới hạn cao của bình thườNG
  • Thời gian khám và xét nghiệm TSH, T4 hoặc FT4:

+ Sau 2-4 tuần sau điều trị.

+ Sau mỗi 1-2 tháng trong 6 tháng sau sinh.

+ Sau mỗi 3-4 tuổi từ 6 tháng tuổi đến 3 tuổi.

+ Sau mỗi 6-12 tháng từ 3 tuổi đến hết tuổi lớn.

+ Khám sớm hơn nếu xét nghiệm bất thường, không tuân thủ điều trị, sau khi thay đổi liều thyroxin.

  • Trường hợp nghi ngờ suy giáp trạng thoáng qua (Xạ hình tuyến giáp bình thường hoặc TSH không tăng sau thời kỳ sơ sinh) thì cần:

Điều trị thyroxin đến 3 tuổi, sau đó dừng điều trị 30 ngày. Sau 30 ngày dừng thuốc xét nghiệm lại TSH, T4. Nếu TSH cao và T4 thấp cần tiếp tục điều trị. Nếu TSH và T4 bình thường thì không cần điều trị.

  • Nếu chưa đủ liều điều trị: Trẻ vẫn chậm lớn, chậm phát triển tinh thần

Nồng độ TSH tăng cao nhưng nồng độ T4 trong máu bình thường.

  • Nếu quá liều điều trị trẻ kích thích, nhịp tim nhanh, ra nhiều mồ hôi, khó ngủ, tiêu chảy và nôn. Xét nghiệm thấy nồng độ T4 trong máu tăng cao và TSH giảm thấ Liều cao kéo dài tuổi xương phát triển nhanh trẻ sẽ bị lùn.
  • Với liều điều trị thích hợp, các dấu hiệu suy giáp dần biến mấ Trẻ phát triển đuổi kịp chiều cao so với trẻ cùng tuổi. Nhanh nhẹn đến trường đi học bình thường.
  1. TIÊN LƯỢNG

Phụ thuộc vào

  • Phát hiện và điều trị sớm hay muộn
  • Nguyên nhân của suy giáp trạng bẩm sinh
  • Mức độ Suy giáp trạng bẩm sinh trước điều trị.
  • Ngày nay tiên lượng điều trị tốt hơn nhờ có chương trình sàng lọc sơ sinh đã điều trị sớm trẻ bị Suy giáp trạng bẩm sinh tránh cho trẻ bị thiểu năng tinh thần.

Các Yếu Tố Gây Mất Ngủ: Nguyên Nhân, Triệu Chứng Và Điều Trị

Mất Ngủ Là Gì?

Mất ngủ là một rối loạn giấc ngủ mà bạn gặp khó khăn trong việc đi vào giấc ngủ và/hoặc duy trì giấc ngủ.

Tình trạng này có thể ngắn hạn (cấp tính) hoặc kéo dài lâu (mãn tính). Nó cũng có thể xảy ra và biến mất.

Mất ngủ cấp tính kéo dài từ 1 đêm đến vài tuần. Mất ngủ được coi là mãn tính khi xảy ra ít nhất 3 đêm một tuần trong 3 tháng trở lên.

Các Loại Mất Ngủ

Có hai loại mất ngủ: nguyên phát và thứ phát.

  • Mất ngủ nguyên phát: Điều này có nghĩa là các vấn đề giấc ngủ của bạn không liên quan đến bất kỳ tình trạng sức khỏe hoặc vấn đề nào khác.
  • Mất ngủ thứ phát: Điều này có nghĩa là bạn gặp khó khăn trong việc ngủ vì một tình trạng sức khỏe (như hen suyễn, trầm cảm, viêm khớp, ung thư hoặc ợ nóng); cơn đau; thuốc men; hoặc việc sử dụng chất kích thích (như rượu).

Bạn cũng có thể nghe về:

  • Mất ngủ khởi phát: Điều này có nghĩa là bạn gặp khó khăn trong việc bắt đầu giấc ngủ.
  • Mất ngủ duy trì: Điều này xảy ra khi bạn gặp khó khăn trong việc duy trì giấc ngủ suốt đêm hoặc tỉnh dậy quá sớm.
  • Mất ngủ hỗn hợp: Với loại mất ngủ này, bạn gặp khó khăn cả trong việc đi vào giấc ngủ và duy trì giấc ngủ suốt đêm.
  • Mất ngủ nghịch lý: Khi bạn có mất ngủ nghịch lý, bạn đánh giá thấp thời gian bạn đã ngủ. Bạn cảm thấy như mình ngủ ít hơn thực tế.

Nguyên Nhân Gây Mất Ngủ

Các nguyên nhân chính gây mất ngủ bao gồm:

  • Căng thẳng liên quan đến những sự kiện lớn trong cuộc sống, như mất việc hoặc thay đổi, cái chết của người thân, ly hôn, hoặc chuyển nhà.
  • Môi trường xung quanh như tiếng ồn, ánh sáng, hoặc nhiệt độ.
  • Thay đổi thói quen ngủ như jet lag, ca làm việc mới, hoặc những thói quen xấu mà bạn đã hình thành khi gặp vấn đề giấc ngủ khác.
  • Di truyền. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng có xu hướng mắc mất ngủ có thể chạy trong các gia đình.

Các nguyên nhân thứ phát của mất ngủ bao gồm:

  • Vấn đề sức khỏe tâm thần như trầm cảm và lo âu.
  • Thuốc điều trị cảm cúm, dị ứng, trầm cảm, huyết áp cao và hen suyễn.
  • Cơn đau hoặc khó chịu vào ban đêm.
  • Sử dụng caffeine, thuốc lá hoặc rượu, cũng như việc sử dụng ma túy bất hợp pháp.
  • Cường giáp và các vấn đề nội tiết khác.
  • Các rối loạn giấc ngủ khác, như ngưng thở khi ngủ hoặc hội chứng chân không yên.
  • Thai kỳ.
  • Bệnh Alzheimer và các loại sa sút trí tuệ khác.
  • ADHD.
  • Hội chứng tiền kinh nguyệt (PMS) và mãn kinh.

Yếu Tố Nguy Cơ Gây Mất Ngủ

Mất ngủ ảnh hưởng đến phụ nữ nhiều hơn nam giới và người cao tuổi nhiều hơn người trẻ.

Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm:

  • Bệnh mãn tính.
  • Vấn đề sức khỏe tâm thần.
  • Làm việc ca đêm hoặc các ca làm việc luân phiên.

Triệu Chứng Mất Ngủ

Triệu chứng của mất ngủ bao gồm:

  • Cảm thấy buồn ngủ vào ban ngày.
  • Mệt mỏi.
  • Cáu kỉnh.
  • Vấn đề về sự tập trung hoặc trí nhớ.

Chẩn Đoán Mất Ngủ

Bác sĩ của bạn sẽ tiến hành khám sức khỏe và hỏi về lịch sử y tế cũng như lịch sử giấc ngủ của bạn.

Họ có thể yêu cầu bạn giữ một cuốn nhật ký giấc ngủ trong một hoặc hai tuần, ghi lại các mẫu giấc ngủ và cảm giác của bạn trong suốt cả ngày. Họ có thể nói chuyện với người bạn ngủ cùng về mức độ và chất lượng giấc ngủ của bạn. Bạn cũng có thể cần thực hiện các bài kiểm tra đặc biệt tại một trung tâm giấc ngủ.

Điều Trị Mất Ngủ

Mất ngủ cấp tính có thể không cần điều trị.

Nếu bạn khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động hàng ngày vì cảm thấy mệt mỏi, bác sĩ có thể kê đơn thuốc ngủ trong một thời gian ngắn. Các loại thuốc có tác dụng nhanh nhưng ngắn có thể giúp bạn tránh các vấn đề như buồn ngủ vào ngày hôm sau.

Không sử dụng thuốc ngủ không kê đơn để điều trị mất ngủ. Chúng có thể có tác dụng phụ và thường kém hiệu quả theo thời gian.

Đối với mất ngủ mãn tính, bạn sẽ cần điều trị cho các tình trạng hoặc vấn đề sức khỏe khiến bạn không thể ngủ. Bác sĩ của bạn cũng có thể đề xuất liệu pháp hành vi. Điều này có thể giúp bạn thay đổi những gì bạn làm làm cho tình trạng mất ngủ trở nên tồi tệ hơn và tìm hiểu những gì bạn có thể làm để thúc đẩy giấc ngủ.

Biến Chứng Của Mất Ngủ

Cơ thể và não của chúng ta cần ngủ để tự sửa chữa. Nó cũng rất quan trọng cho việc học tập và giữ gìn trí nhớ. Nếu mất ngủ khiến bạn không thể ngủ, bạn có thể gặp phải:

  • Rủi ro cao hơn đối với các vấn đề sức khỏe như huyết áp cao, béo phì và trầm cảm.
  • Rủi ro cao hơn về việc ngã, nếu bạn là phụ nữ cao tuổi.
  • Khó khăn trong việc tập trung.
  • Lo âu.
  • Cáu kỉnh.
  • Thời gian phản ứng chậm có thể dẫn đến tai nạn giao thông.

Phòng Ngừa Mất Ngủ

Các thói quen ngủ tốt, còn được gọi là vệ sinh giấc ngủ, có thể giúp bạn vượt qua mất ngủ. Dưới đây là một số mẹo:

  • Đi ngủ vào cùng một giờ mỗi đêm và thức dậy vào cùng một giờ mỗi sáng. Cố gắng không ngủ trưa trong suốt cả ngày, vì điều này có thể khiến bạn ít buồn ngủ vào ban đêm.
  • Không sử dụng điện thoại hoặc sách điện tử trước khi đi ngủ. Ánh sáng của chúng có thể khiến bạn khó ngủ hơn.
  • Tránh caffeine, nicotine và rượu vào cuối ngày. Caffeine và nicotine là chất kích thích và có thể khiến bạn khó ngủ. Rượu có thể làm bạn tỉnh dậy giữa đêm và ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ của bạn.
  • Tập thể dục thường xuyên. Cố gắng không tập thể dục gần giờ đi ngủ, vì điều này có thể khiến bạn khó đi vào giấc ngủ. Các chuyên gia khuyên nên tập thể dục ít nhất 3 đến 4 giờ trước khi đi ngủ.
  • Đừng ăn một bữa ăn nặng vào cuối ngày. Nhưng một bữa ăn nhẹ trước khi đi ngủ có thể giúp bạn dễ ngủ hơn.
  • Làm cho phòng ngủ của bạn thoải mái: tối, yên tĩnh và không quá ấm hoặc quá lạnh. Nếu ánh sáng là vấn đề, hãy sử dụng mặt nạ ngủ. Để che đậy tiếng ồn, hãy thử sử dụng nút tai, quạt hoặc máy phát tiếng trắng.
  • Thực hiện một thói quen để thư giãn trước khi đi ngủ. Đọc sách, nghe nhạc, hoặc tắm.
  • Không sử dụng giường của bạn cho bất cứ điều gì khác ngoài ngủ và quan hệ tình dục.
  • Nếu bạn không thể ngủ và không cảm thấy buồn ngủ, hãy đứng dậy và làm điều gì đó nhẹ nhàng, như đọc sách cho đến khi bạn cảm thấy buồn ngủ.
  • Nếu bạn có xu hướng nằm awake và lo lắng về những điều, hãy lập một danh sách việc cần làm trước khi đi ngủ. Điều này có thể giúp bạn gác lại những mối lo của mình trong đêm.

Tái tạo mạch máu nuôi tim qua cơ tim bằng Laser C02.

Phương pháp này được Mirhoseini đề xuất ra năm 1992.

Chỉ định:Chủ yếu làm giảm hoặc mất hẳn cơn đau thắt ngực.

  • Bệnh hẹp tắc lan tỏa các động mạch vành tim. (Không thể thực hiện nối động mạch chủ – vành hoặc đặt giá nâng Stent động mạch vành).
  • Các động mạch vành rất nhỏ và tắc hẹp ở nhiều chỗ.
  • Tắc nghẽn các ống ghép động mạch chủ vành (sinh học, nhân tạo).
  • Nguy cơ cao ở các bệnh nhân cao tuổi, suy chức năng thận, suy chức năng gan, suy hô hấp nặng không tiến hành được ghép động mạch chủ vành hoặc đặt Stent.
  • Dự phòng thiếu máu cơ tim ở trái tim của người hiến tim để ghép.

Chống chỉ định làm thủ thuật trên:

  • Chỉ số tổng máu của tim quá thấp (EF < 15%).
  • Bệnh nhân dị ứng với tất cả các loại thuốc mê.
  • Bệnh lý đông máu vởi nguy cơ chảy máu khó cầm lại được.
  • Loạn nhịp tim các loại không đáp ứng thuốc.

Kỹ thuật mổ:

  • Gây mê nội khí quản. Mở lồng ngực trái qua liên sườn VI.
  • Khoan Laser trên trái tim đang hoạt động (ở thì tâm trương) tạo kênh nuôi dưỡng cho cơ tim (từ 15 đến 20 kênh tùy theo nhu cầu).

Kết quả sau mổ:

  • Hết cơn đau thắt ngực.
  • Bệnh nhân có thể tập thể dục thường và tập thể dục dụng cụ nhẹ.
  • Không phải dùng nhiều và thường xuyên các thuốc giãn mạch.
  • Chụp X quang cản quang buồng tim trái thấy các kênh khoan hoạt động tốt.

Thuốc sau mổ (chỉ dùng thời gian ngắn):

  • Thuốc chống đông máu (Cintrõm, faciparin, dicoumame)
  • Thuốc giãn động mạch vành (loại Nitrate)
  • Vitamin K.
  • Thuốc ức chế Calci và p-bloquanits

Đái tháo đường ở Trẻ em và thanh thiếu niên

Ba phần tư trường hợp Đái tháo đường typ 1 được chẩn đoán ở độ tuổi dưới 18. Các nhà quản lý phải xem xét đặc biệt về quản lý chăm sóc trẻ em và thanh thiếu niên mắc Đái tháo đường typ 1, chẳng hạn như thay đổi về độ nhạy insulin liên quan đến sự hình thành giới tính và phát triển thể chất, khả năng tự chăm sóc, giám sát trong việc chăm sóc trẻ em và ở trường học, và dễ bị tổn thương thần kinh do hạ đường huyết và có thể tăng đường huyết cũng như nhiễm toan ceton. Chú ý đến vai trò của gia đình, giai đoạn phát triển, và sự khác biệt sinh lý liên quan đến sự phát triển giới tính là tất cả những điều cần thiết cần cân nhắc trong việc phát triển và thực hiện một phác đồ Đái tháo đường tối ưu. Do thiếu lâm sàng nghiên cứu ở trẻ em, các khuyến nghị cho trẻ em và thanh thiếu niên ít có khả năng dựa trên bằng chứng thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, theo ý kiến chuyên gia và tổng quan có sẵn và số liệu thực nghiệm có liên quan được tóm tắt trong hội Đái tháo đường hoa kỳ (ADA) đã đưa ra “Chăm sóc trẻ em và thanh thiếu niên với bệnh Đái tháo đường typ 1″ và đã được cập nhật trong thời gian gần đây ADA đã công bố báo cáo” Đái tháo đường trong suốt các giai đoạn sống “.

Một nhóm chuyên gia đa ngành được đào tạo quản lý bệnh Đái tháo đường ở trẻ em và xử lý những thách thức của trẻ em và thanh thiếu niên mắc Đái tháo đường typ 1 nên cung cấp dịch vụ chăm sóc cho nhóm bệnh nhân này. Điều cần thiết là giáo dục bệnh nhân Đái tháo đường tự quản lý và hỗ trợ bệnh nhân Đái tháo đường tự quản lý , liệu pháp dinh dưỡng y tế (LPDDYT), và hỗ trợ tâm lý xã hội được cung cấp lúc chẩn đoán cũng như thường xuyên sau đó bởi các cá nhân có kinh nghiệm về giáo dục, dinh dưỡng, hành vi và cảm xúc cần cho sự phát triển của trẻ và gia đình. Sự cân bằng giữa sự giám sát của người lớn và tự chăm sóc nên được xác định từ lần đầu tiên và đánh giá lại tại mỗi lần khám. Mối quan hệ này sẽ thay đổi khi còn trẻ lớn dần lên và đạt mức độ trưởng thành về thể chất, tâm lý và tình cảm.

Kiểm soát đường huyết

Khuyến nghị

Mục tiêu của A1C 7,5% được khuyến cáo cho tất cả các trẻ em ở mọi lứa tuổi. E

Tiêu chuẩn hiện nay về quản lý bệnh Đái tháo đường cho thấy sự cần thiết phải hạ glucose thấp ở một mức an toàn nhất có thể. Điều này nên được thực hiện với việc thiết lập mục tiêu từng bước. Việc cân nhắc đặc biệt nên áp dụng cho những nguy cơ hạ đường huyết ở trẻ nhỏ (tuổi< 6), vì trẻ thường không thể nhận ra và/hoặc quản lý các triệu chứng hạ đường huyết của mình. “Hạ đường huyết không có dấu hiệu” cần được xem xét khi thiết lập các mục tiêu đường huyết cá thể hóa.

Mặc dù đã có băn khoăn trước đó rằng trẻ em có nguy cơ suy giảm nhận thức sau cơn hạ đường huyết nặng, nhưng dữ liệu hiện tại đã không xác nhận được điều này. Hơn nữa, phương thức điều trị mới, chẳng hạn như insulin tác dụng nhanh và dài, tiến bộ công nghệ (ví dụ, kiểm soát glucose liên tục, bơm insulin tự dừng khi nồng độ glucose thấp) và giáo dục, có thể làm giảm tỷ lệ hạ đường huyết nặng. Các các nghiên cứu kiểm soát bệnh Đái tháo đường và biến chứng (DCCT) đã chứng minh rằng lượng đường huyết gần như bình thường là rất khó khăn để đạt được ở thanh thiếu niên hơn ở người lớn. Tuy nhiên, sự gia tăng sử dụng các phác đồ insulin nền-phóng thích (basal-bolus) và bơm insulin cho trẻ từ giai đoạn sơ sinh đến khi trưởng thành có liên quan đến việc đạt glucose huyết mục tiêu của ADA trong những gia đình mà cả cha mẹ và con cái tham gia cùng nhau thực hiện các yêu cầu liên quan đến bệnh. Hơn nữa, các nghiên cứu cho thấy sự khác biệt về nhận thức thần kinh có liên quan đến sự tăng đường huyết ở trẻ em là một động lực để hạ thấp mục tiêu đường huyết.

Trong việc lựa chọn mục tiêu đường huyết, những lợi ích sức khỏe lâu dài của việc đạt được một A1C thấp nên được cân bằng với những rủi ro của hạ đường huyết và những khó khăn phát sinh của các phác đồ chuyên sâu ở trẻ em và thanh thiếu niên. Ngoài ra, việc đạt được A1C thấp hơn có nhiều khả năng liên quan đến việc thiết lập mục tiêu HbA1c thấp hơn.

Các tình trạng bệnh tự miễn

Khuyến nghị

Đánh giá sự xuất hiện của các tình trạng tự miễn lúc chẩn đoán và nếu phát triển các triệu chứng. E

Do sự gia tăng tần suất của các bệnh tự miễn khác trong bệnh Đái tháo đường typ 1, kiểm soát rối loạn chức năng tuyến giáp, thiếu vitamin B12 (do viêm dạ dày tự miễn), và bệnh loét dạ dày cần được xem xét dựa trên các dấu hiệu và triệu chứng. Sàng lọc định kỳ ở những người không có triệu chứng đã được khuyến cáo, nhưng hiệu quả và tần suất sàng lọc tối ưu chưa được xác định.

Mặc dù ít phổ biến hơn so với loét dạ dày và rối loạn chức năng tuyến giáp, các điều kiện tự miễn khác thường xảy ra ở bệnh Đái tháo đường typ 1, chẳng hạn như bệnh Addison (suy tuyến thượng thận), tự miễn viêm gan, viêm da cơ, nhược cơ, Gravis, vv, nên được đánh giá và quan sát về mặt lâm sàng.

Bệnh loét dạ dày

❖  Kiến nghị

•        Xem xét sàng lọc trẻ em mắc bệnh Đái tháo đường typ1 về bệnh loét dạ dày bằng cách đo transglutaminase ở mô hoặc các kháng thể gliadine deamidated kèm báo cáo mức tổng IgA huyết thanh bình thường, ngay sau khi chẩn đoán bệnh Đái tháo đường. E

•         Xem xét sàng lọc ở trẻ em có tiền sử gia đình bị bệnh celiac, chậm phát triển, không tăng cân, giảm cân, tiêu chảy, đầy hơi, đau bụng, hoặc có dấu hiệu kém hấp thu hoặc ở trẻ em, hạ đường huyết không rõ nguyên nhân hoặc suy giảm trong kiểm soát đường huyết. E

•         Trẻ em có sinh thiết khẳng định bị bệnh loét dạ dày nên dùng một chế độ ăn không có gluten và có tư vấn của các chuyên gia dinh dưỡng giàu kinh nghiệm trong việc quản lý cả bệnh Đái tháo đường và bệnh loét dạ dày. B

Bệnh loét dạ dày do rối loạn trung gian miễn dịch xảy ra với tần số tăng ở bệnh nhân bệnh Đái tháo đường typ 1 (1-16% so với 0,3 – 1% trong mặt bằng chung).

Kiểm tra loét dạ dày bao gồm đo lường nồng độ kháng IgA ở mô, kháng thể transglutaminase hay với thiếu hụt IgA, sàng lọc có thể bao gồm đo lường IgG transglutaminase ở mô hoặc IgG deamidated kháng peptide gliadine. Sinh thiết đường ruột ở trẻ em được khuyến khích để xác định chẩn đoán. Hướng dẫn của Châu Âu về sàng lọc bệnh loét dạ dày ở trẻ em (không cụ thể cho trẻ em Đái tháo đường typ 1) cho rằng sinh thiết có thể không cần thiết ở trẻ em có nồng độ kháng thể cao dương tính chừng nào xét nghiệm di truyền hoặc HLA được hỗ trợ, nhưng có triệu chứng nguy hiểm thì trẻ cần phải sinh thiết.

Triệu chứng ở trẻ em bị bệnh Đái tháo đường typ 1 và có loét dạ dày, chế độ ăn không có gluten làm giảm triệu chứng và tỷ lệ hạ đường huyết. Khó khăn ở chế độ ăn kiêng kết hợp bệnh Đái tháo đường typ 1 và bệnh loét dạ dày đặt một gánh nặng đáng kể với bệnh nhân. Vì vậy, chúng tôi khuyên bạn nên làm sinh thiết chẩn đoán xác định loét dạ dày trước. Ủng hộ thay đổi chế độ ăn uống có ý nghĩa, đặc biệt là ở trẻ em có triệu chứng.

Bệnh tuyến giáp

Kiến nghị

•         Xem xét kiểm tra trẻ em bệnh Đái tháo đường typ 1 về kháng thể peroxidase antithyroid và antithyroglobulin ngay sau khi chẩn đoán. E

•         Đo nồng độ hormone kích thích tuyến giáp ngay sau khi chẩn đoán bệnh Đái tháo đường typ 1 là hợp lý. Nếu bình thường, xem xét kiểm tra lại 1-2 năm hoặc sớm hơn nếu bệnh nhân có các triệu chứng rối loạn chức năng tuyến giáp, tuyến giáp lớn, tốc độ tăng trưởng bất thường hoặc đường huyết bất thường. E

Bệnh tuyến giáp tự miễn là nhất rối loạn tự miễn liên quan với Đái tháo đường, xảy ra ở 17- 30% bệnh nhân mắc bệnh Đái tháo đường typ 1. Khoảng một phần tư trẻ em Đái tháo đường typ 1 có tự kháng thể tuyến giáp tại thời điểm chẩn đoán, và sự hiện diện của kháng thể tuyến giáp là tiên đoán của rối loạn tuyến giáp, phổ biến nhất là suy giáp, mặc dù cường giáp có thể xảy ra. Suy giáp về lâm sàng có thể liên quan với nguy cơ gia tăng triệu chứng hạ đường huyết và giảm tăng trưởng. Cường giáp làm thay đổi sự trao đổi chất glucose, có thể dẫn đến sự tổn hại kiểm soát chuyển hóa.

Quản lý các nguy cơ tim mạch THA

Kiến nghị
• Kiểm tra huyết áp thường xuyên ở mỗi lần khám. Trẻ em thấy có huyết áp ở mức bình thường-cao (huyết áp tâm thu [HA tâm thu] hoặc huyết áp tâm trương [DBP] > 90% các trẻ cùng tuổi tác, giới tính, và chiều cao) hoặc THA (HA tâm thu hay tâm trương >95% các trẻ cùng tuổi tác, giới tính, và chiều cao) nên đo huyết áp vào ba ngày khác nhau để xác định. B Điều trị
• Điều trị ban đầu của huyết áp ở mức bình thường-cao (huyết áp tâm thu hay tâm trương liên tục> 90% các trẻ cùn tuổi tác, giới tính và chiều cao) bao gồm can thiệp chế độ ăn uống và tập thể dục, nhằm kiểm soát trọng lượng và tăng hoạt động thể chất, nếu thích hợp. Nếu mục tiêu huyết áp không đạt được trong 3-6 tháng can thiệp lối sống, trẻ cần được điều trị.E
• Điều trị bằng thuốc để trị THA (HA tâm thu hay tâm trương nhất quán > 95% các trẻ cùng với tuổi tác, giới tính, và chiều cao) nên được xem xét sử dụng ngay sau khi THA được xác định. E
• ACEI hay chẹn thụ thể angiotensin(ARB) cần được xem xét điều trị như thuốc ban đầu để điều trị THA, kèm theo đói là tư vấn thích hợp do khả năng gây quái thai tiềm tàng của thuốc trên sinh sản. E
• Mục tiêu của điều trị là áp lực ổn định < 90% các trẻ có cùng tuổi tác, giới tính, và chiều cao. E
Đo huyết áp nên được xác định một cách chính xác, sử dụng dụng cụ thích hợp về kích thước vòng và với tư thế ngồi và thư giãn. THA nên được khẳng định từ kết quả đo ít nhất ba ngày riêng biệt. Đánh giá cần tiến hành trước khi chỉ định lâm sàng. Điều trị thường bắt đầu với ức chế men chuyển (ức chế men chuyển), nhưng một ARB có thể được sử dụng nếu ức chế men chuyển không dung nạp được (ví dụ, do ho). Mức huyết áp bình thường cho từng độ tuổi, giới tính, và chiều cao và phương pháp đo lường thích hợp có sẵn trực tuyến tại

Rối loạn lipid máu

Kiến nghị

Thử nghiệm
• Xác định nồng độ lipid khi đói trên trẻ em >2 tuổi ngay sau khi chẩn đoán (sau khi kiểm soát glucose đã được thiết lập). E
• Nếu lipid bất thường, giám sát hàng năm là hợp lý. Nếu giá trị LDL cholesterol trong vòng mức độ rủi ro chấp nhận được (<100 mg / dL [2,6 mmol / L]), kiểm tra lipid lặp đi lặp lại mỗi 5 năm là hợp lý. E
Điều trị
• Điều trị ban đầu có thể bao gồm tối ưu hóa kiểm soát glucose và liệu pháp dinh dưỡng y tế sử dụng chế độ ăn Bước 2 của Hiệp hội Tim mạch Mỹ (AHA) nhằm giảm lượng chất béo bão hòa trong chế độ ăn. B
• Sau 10 tuổi, việc bổ sung một statin ở những bệnh nhân mà sau khi áp dụng liệu pháp dinh dưỡng y tế và thay đổi lối sống đạt LDL cholesterol >160 mg / dL (4.1 mmol / L) hoặc LDL cholesterol >130 mg / dL (3,4 mmol /L) và có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch là hợp lý. E
• Mục tiêu của điều trị là giá trị cholesterol LDL < 100 mg / dL (2,6 mmol / L). E
Trẻ em được chẩn đoán bị Đái tháo đường typ 1 có nguy cơ cao về cận lâm sàng và lâm sàng bị bệnh tim mạch. Mặc dù còn thiếu dữ liệu, AHA phân loại trẻ em bị Đái tháo đường loại 1 ở tầng cao nhất cho nguy cơ tim mạch và khuyến nghị cả điều trị bằng thuốc và lối sống cho những người có LDL cholesterol cao. Bệnh nhân nên áp dụng chế độ ăn uống Bước 2 của AHA, trong đó hạn chế chất béo bão hòa xuống 7% tổng số calo và hạn chế cholesterol trong khẩu phần xuống 200 mg/ngày. Dữ liệu từ các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên ở trẻ em 7 tháng tuổi chỉ ra rằng chế độ ăn uống này là an toàn và không ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và phát triển bình thường của trẻ. Đối với trẻ em có tiền sử gia đình có bệnh tim mạch, hội tim mạch và phổi quốc gia và Viện huyết học đề nghị kiểm soát lipid lúc đói bắt đầu lúc 2 tuổi. Kết quả bất thường từ một mẫu máu ngẫu nhiên xét nghiệm lipid nên được khẳng định với kết quả xét nghiệm khi đói lipid. Bằng chứng cho thấy kiểm soát glucose cải thiện tương quan với mức lipid tốt. Tuy nhiên, kiểm soát đường huyết cải thiện một mình nó không có khả năng thay đổi tình trạng rối loạn lipid máu nặng.
An toàn lâu dài cũng như hiệu quả trên tim mạch của liệu pháp statin không được chứng minh trên trẻ em. Tuy nhiên, nghiên cứu đã cho thấy mức an toàn ngắn hạn tương đương gặp ở người lớn và hiệu quả trong việc làm giảm LDL cholesterol cấp, cải thiện chức năng nội mô, và làm chậm sự dày hóa động mạch cảnh (29,30). Statin không được chấp thuận dùng cho bệnh nhân dưới 10 tuổi, và điều trị statin nói chung là không được sử dụng ở trẻ em Đái tháo đường typ 1 nhỏ hơn độ tuổi này. Đối với trẻ em nữ ở tuổi dậy thì, những biện pháp tránh thai là thiết yếu, vì statin là thuốc được phân vào nhóm X khi sử dụng trong thai kỳ (xem Phần 12. Quản lý bệnh Đái tháo đường trong thai kỳ để biết thêm thông tin).

Hút thuốc

Khuyến nghị
Tìm hiểu tiền sử hút thuốc khi mới chẩn đoán và trong suốt quá trình theo dõi bệnh Đái tháo đường và khuyến khích bệnh nhân bỏ hút ở những trẻ hút thuốc và khuyên không nên hút thuốc ở những trẻ chưa hút thuốc. B
Các tác hại cho sức khỏe của việc hút thuốc cũng được ghi nhận là có hại đối với nguy cơ ung thư và bệnh tim mạch. Trong thời niên thiếu mắc bệnh Đái tháo đường, để tránh thêm yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch; do đó, không khuyến khích hút thuốc lá, bao gồm cả hít phải thuốc lá, là quan trọng như là một phần của thói quen chăm sóc bệnh Đái tháo đường. Ở trẻ em, điều quan trọng là đánh giá tiếp xúc với thuốc lá trong nhà do tác hại của khói thuốc lá và để ngăn trẻ hút thuốc nếu tiếp xúc với người hút thuốc trong thời thơ ấu. Ngoài ra, hút thuốc lá có liên quan đến sự khởi phát albumin niệu. Do đó, tránh hút thuốc là quan trọng để ngăn chặn cả tác hại vi mạch máu và các biến chứng mạch máu lớn.

Các biến chứng vi mạch máu

Kiến nghị
Ít nhất sàng lọc hàng năm albumin niệu, cùng với tiến hành một lần ngẫu nhiên lấy mẫu nước tiểu để tính tỷ lệ albumin-reatinine (UACR) ở trẻ mắc bệnh Đái tháo đường đã 5 năm. B
Xác định độ thanh thải creatinine /mức độ lọc cầu thận ước tính tại lần đánh giá ban đầu và sau đó được tiến hành dựa vào tuổi tác, thời gian mắc bệnh Đái tháo đường và điều trị. E

Điều trị
Điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển, điều chỉnh liều cho đến khi bình thường hóa bài tiết albumin, nên được xem xét khi UACR cao (30 mg/g) được báo cáo ít nhất hai trong số ba mẫu nước tiểu. Điều này có thể đạt được sau 6 tháng cùng với nỗ lực cải thiện kiểm soát đường huyết và đạt huyết áp bình thường theo tuổi. B
Nghiên cứu gần đây cho thấy mối liên quan chặt chẽ giữa đường huyết và huyết áp, đặc biệt là khi thời gian bị bệnh Đái tháo đường tăng lên (33). Độ thanh thải creatinine tính toán dựa theo tốc độ lọc cầu thận ước tính có thể thu được khi biết creatinin huyết thanh, chiều cao, tuổi tác, và giới tính của bệnh nhân và cần được tính toán lúc thăm khám lần đầu và lặp lại sau đó dựa trên tình trạng lâm sàng, tuổi tác, thời gian bệnh Đái tháo đường và trị liệu. Có những thử nghiệm lâm sàng đang tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả của việc điều trị sớm bằng thuốc ức chế men chuyển trên albumin niệu dai dẳng.

Bệnh võng mạc

Kiến nghị

Khám mắt ban đầu bằng đo độ giãn con ngươi và khám mắt toàn diện nên xem xét tiến hành co các trẻ bắt đầu tuổi dậy thì hoặc >10 tuổi, hay sớm hơn khi trẻ đã mắc bệnh Đái tháo đường 3-5 năm. B
Sau khi kiểm tra ban đầu, việc theo dõi thường quy hàng năm được khuyến cáo. Kiểm tra ít thường xuyên hơn, mỗi 2 năm là có thể theo đề nghị của chuyên gia chăm sóc mắt. E
Mặc dù bệnh võng mạc (giống như albumin niệu) thường xảy ra nhất sau tuổi dậy thì và sau 5-10 năm mắc bệnh Đái tháo đường, nó đã được báo cáo ở trẻ trước tuổi dậy thì và mắc bệnh Đái tháo đường chỉ 1-2 năm. Nên chuyển trẻ đến các chuyên gia chăm sóc mắt về lĩnh vực bệnh võng mạc Đái tháo đường, về nguy cơ bệnh võng mạc ở trẻ em, và có kinh nghiệm trong tư vấn các bệnh nhi và gia đình về tầm quan trọng của công tác phòng bệnh /can thiệp sớm.

Bệnh thần kinh

Khuyến nghị
Cân nhắc tiến hành một kiểm tra toàn diện hàng năm chân cho trẻ bắt đầu dậy thì hoặc > 10 tuổi, hoặc sớm hơn khi trẻ đã có bệnh Đái tháo đường typ 1 đã 5 năm. E
Bệnh thần kinh hiếm khi xảy ra trước tuổi dậy thì trẻ hoặc trẻ mới 1-2 năm mắc bệnh. Kiểm tra toàn diện chân, bao gồm kiểm tra mạch mu bàn chân – mạch chày sau ung chày, đánh giá sự hiện diện hay vắng mặt của phản xạ bánh chè và gân Asin, và xác định rung động, cảm giác bằng sợi đơn nên được thực hiện hàng năm cùng với việc đánh giá các triệu chứng đau thần kinh. Kiểm tra bàn chân có thể được thực hiện tại mỗi lần thăm khám và giáo dục cho trẻ về tầm quan trọng của việc chăm sóc bàn chân.
Tự quản lý bệnh Đái tháo đường

Giáo dục và Hỗ trợ

Khuyến nghị
Người trẻ bị bệnh Đái tháo đường typ 1 và cha mẹ/người chăm sóc (cho trẻ <18 tuổi) nên thực hiện giáo dục bệnh nhân Đái tháo đường tự quản lý (GDĐTĐTQL) và hỗ trợ bệnh nhân Đái tháo đường tự quản lý (HTĐTĐTQL) được thiết kế phù hợp với sự phát triển của cá nhân và phù hợp với văn hóa theo chuẩn quốc gia khi họ được chẩn đoán bệnh Đái tháo đường và thường xuyên tiến hành sau đó. B
Dù liệu pháp có tốt thế nào, nó cũng chỉ phát huy tác dụng chỉ khi gia đình và/hoặc cá nhân thực hiện nó. Sự tham gia của gia đình rất quan trọng trong việc quản lý bệnh Đái tháo đường trẻ em và tuổi vị thành niên. Các cán bộ y tế chăm sóc sức khỏe cho trẻ em và thanh thiếu niên phải có khả năng đánh giá giáo dục, hành vi, yếu tố tình cảm, tâm lý xã hội của trẻ vốn ảnh hưởng lên khả năng thực hiện kế hoạch điều trị và phải làm việc với các cá nhân và gia đình để vượt qua các rào cản hoặc xác định lại mục tiêu điều trị cho phù hợp. Giáo dục bệnh nhân Đái tháo đường tự quản lý và hỗ trợ bệnh nhân Đái tháo đường tự quản lý là hoạt động đòi hỏi phải đánh giá lại liên tục, đặc biệt là khi trẻ lớn lên, phát triển, và cần có kỹ năng tự chăm sóc. Ngoài ra, còn cần thiết đánh giá nhu cầu giáo dục và kỹ năng của các cá nhân cung cấp chăm sóc, y tá trường học, hoặc nhân viên nhà trường – những người có thể tham gia vào việc chăm sóc trẻ mắc bệnh Đái tháo đường.
Trường học và chăm sóc trẻ em
Phần lớn thời gian trong ngày của trẻ là ở trường học vì vậy thông tin liên lạc chặt chẽ và hợp tác với trường hoặc đội ngũ chăm sóc trẻ hàng ngày là điều cần thiết để quản lý bệnh Đái tháo đường tối ưu, an toàn và kết quả học tập tối ưu. Vui lòng tham khảo báo cáo ADA ” Chăm sóc Đái tháo đường ở trường và những cơ sở chăm sóc hàng ngày” và “Chăm sóc trẻ ở các cơ sở chăm sóc trẻ hàng ngày” để biết thêm chi tiết.

Chăm sóc

Kiến nghị
Khi trẻ thiếu niên chuyển tiếp sang tuổi trưởng thành, các cán bộ y tế và gia đình phải nhận ra nhiều điểm dễ tổn thương ở trẻ B và chuẩn bị cho sự phát triển của tuổi teen, bắt đầu từ giai đoạn sớm đến giai đoạn giữa của trẻ thiếu niên và ít nhất 1 năm trước khi xảy ra sự chuyển tiếp này. E
Cả bác sĩ nhi khoa và cán bộ chăm sóc người trưởng thành cần hỗ trợ trong việc cung cấp và làm cầu nối cho các nguồn lực hỗ trợ cho các thanh thiếu niên và trẻ sắp trưởng thành. B
Chăm sóc và giám sát chặt chẽ trong việc quản lý Đái tháo đường đang ngày càng chuyển dịch từ cha mẹ và những người lớn sang thanh thiếu niên và vị thành niên bị bệnh Đái tháo đường trong thời thơ ấu. Tuy nhiên, việc chuyển từ bác sĩ nhi sang cán bộ chăm sóc những người trưởng thành thường xảy ra rất đột ngột khi các thanh thiếu niên lớn tuổi bước vào giai đoạn phát triển chuyển tiếp thành người trưởng thành, đó là một giai đoạn quan trọng cho những người trẻ, những người trẻ bị bệnh Đái tháo đường.
Trong giai đoạn này với quá trình chuyển đổi quan trọng về cuộc sống, thanh thiếu niên bắt đầu rời khỏi nhà của cha mẹ và phải tự chịu trách nhiệm chăm sóc bệnh Đái tháo đường của mình. Những trách nhiệm mới bao gồm tự quản lý chăm sóc, đặt lịch hẹn y tế và chi trả cho chăm sóc sức khỏe, một khi trẻ không còn được hưởng bảo hiểm theo bảo hiểm sức khỏe của cha mẹ (mặc dù bảo hiểm có thể kéo dài đến 26 tuổi với các chương trình cải cách y tế tại Mỹ gần đây). Ngoài sự đứt đoạn trong chăm sóc sức khỏe, đây còn là khoảng thời gian kiểm soát đường huyết xấu đi; tăng biến chứng cấp tính và các vấn đề tâm lý xã hội, tình cảm và hành vi; và sự xuất hiện của biến chứng mãn tính.
Mặc dù bằng chứng khoa học vẫn hạn chế, một kế hoạch toàn diện và phối hợp, bắt đầu từ đầu và với sự quan tâm liên tục, tạo điều kiện cho một quá trình chuyển đổi liền mạch từ khoa nhi để khoa chăm sóc sức khỏe người lớn là cần thiết. Lập kế hoạch chuyển tiếp sẽ bắt đầu ở tuổi vị thành niên sớm. Ngay cả sau khi quá trình chuyển đổi sang chăm sóc người lớn được thực hiện, hỗ trợ và củng cố được khuyến khích duy trì.
Một cuộc thảo luận toàn diện về những thách thức phải đối mặt trong thời gian này, bao gồm các đề xuất cụ thể được trình bày trong các tuyên bố ADA “Chăm sóc bệnh Đái tháo đường cho người mới trưởng thành: Khuyến cáo để chuyển tiếp từ nhi khoa sang hệ thống chăm sóc dành cho người trưởng thành”.
Chương trình giáo dục Đái tháo đường quốc qua (NDEP) có tài liệu sẵn có tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi này và Hội nội tiết hợp tác với ADA và các tổ chức khác đã xây dựng các công cụ cho quá trình chuyển đổi giành cho các nhà lâm sàng và thanh thiếu niên và gia đình

Bệnh Đái tháo đường typ 2

Để biết thông tin về kiểm tra bệnh Đái tháo đường typ 2 và tiền Đái tháo đường ở trẻ em và thanh thiếu niên, vui lòng tham khảo Phần 2 – Phân loại và chẩn đoán bệnh Đái tháo đường.
Trung tâm kiểm soát và phòng bệnh công bố gần đây tỉ lệ bệnh Đái tháo đường týp 2 bằng cách sử dụng cơ sở dữ liệu SEARCH. Giả định tỷ lệ tăng hàng năm là 2,3%, tỷ lệ bệnh Đái tháo đường týp 2 ở những người dưới 20 tuổi tăng gấp bốn lần trong 40 năm. Với hiện trạng béo phì hiện nay, phân biệt giữa bệnh Đái tháo đường týp 1 và týp 2 ở trẻ em có thể khó khăn. Ví dụ, các tự kháng thể và toàn ceton có thể có mặt ở bệnh nhân Đái tháo đường týp 2 (bao gồm cả béo phì). Tuy nhiên, chẩn đoán chính xác là rất quan trọng vì phác đồ điều trị, phương pháp giáo dục, tư vấn chế độ ăn uống, và kết quả sẽ có sự khác biệt rõ rệt giữa hai loại chẩn đoán.
Các bệnh mắc kèm đáng kể có thể đã hiện diện tại thời điểm chẩn đoán bệnh Đái tháo đường typ 2. Khuyến cáo cần đo huyết áp, đo lipid khi đói, đánh giá albumin, và khám mắt bằng đo độ giãn con ngươi lúc chẩn đoán bệnh. Sau đó, hướng dẫn sàng lọc và điều trị cao huyết áp, rối loạn lipid máu, bài tiết albumin, và bệnh võng mạc cho người trẻ bị bệnh Đái tháo đường typ 2 cũng giống như những người trẻ bị bệnh Đái tháo đường typ 1. Vấn đề khác có thể cần được giải quyết bao gồm bệnh buồng trứng đa nang và các bệnh đi kèm khác nhau liên quan với bệnh béo phì ở trẻ em, như ngưng thở khi ngủ, gan nhiễm mỡ, biến chứng ở chân, tâm lý. Báo cáo sự đồng thuận của ADA “Trẻ em và thanh thiếu niên với bệnh Đái tháo đường typ 2 ” cung cấp hướng dẫn về công tác phòng, sàng lọc, và điều trị bệnh Đái tháo đường typ 2 và bệnh đi kèm ở những người trẻ tuổi.

VẤN ĐỀ TÂM LÝ

Kiến nghị
Lúc mới chẩn đoán và trong suốt quá trình theo dõi chăm sóc bệnh, đánh giá tâm lý xã hội và áp lực gia đình – vốn có thể tác động lên sự tuân thủ quản lý bệnh Đái tháo đường của bệnh nhân và cung cấp sự giới thiệu thích hợp bệnh nhân đến các chuyên gia sức khỏe tâm thần, tốt nhất là những chuyên gia có kinh nghiệm điều trị Đái tháo đường ở trẻ. E
Khuyến khích sự tham gia của gia đình trong kiểm soát bệnh Đái tháo đường của trẻ, cần nhận biết việc chuyển tiếp sớm chăm sóc Đái tháo đường cho trẻ có thể làm trẻ không tuân thủ điều trị và kiểm soát đường huyết kém. B
Quản lý bệnh Đái tháo đường ở trẻ em và thời niên thiếu là gánh nặng đối với người trẻ và gia đình, phải đánh giá thường xuyên các vấn đề tâm lý xã hội. Hơn nữa, quản lý bệnh Đái tháo đường phức tạp đòi hỏi sự tham gia của cha mẹ liên tục trong quá trình chăm sóc trẻ, phát triển tinh thần gắn kết giữa những trẻ và phụ huynh, nhằm duy trì tuân thủ điều trị và ngăn chặn suy thoái trong kiểm soát đường huyết. Ngoài ra, những mâu thuẫn trong gia đình có liên quan đến việc tuân thủ và kiểm soát đường huyết kém hơn, do đó cần có một kế hoạch để giải quyết hoặc tham khảo ý kiến của chuyên gia y tế .
Khám sàng lọc yếu tố tâm lý xã hội và các vấn đề sức khỏe tâm thần là một điều quan trọng của chăm sóc liên tục. Nó rất quan trọng để xem xét ảnh hưởng của bệnh Đái tháo đường đến chất lượng cuộc sống cũng như sự phát triển các vấn đề sức khỏe tâm thần liên quan đến bệnh Đái tháo đường, và nỗi lo lắng nguy cơ của hạ đường huyết (và tăng đường huyết), các triệu chứng lo âu, rối loạn hành vi ăn uống, và triệu chứng của bệnh trầm cảm. Xem xét sàng lọc bệnh trầm cảm và rối loạn hành vi ăn uống. Với việc ăn mất kiểm soát, điều quan trọng là nhận ra những rối loạn hành vi ăn uống của việc bỏ liều insulin để kiểm soát cân nặng trong bệnh Đái tháo đường typ 1. Sự có mặt của các chuyên gia về sức khỏe tâm thần nhi và các nhóm đa ngành nhấn mạnh tầm quan trọng của các vấn đề tâm lý xã hội của bệnh Đái tháo đường. Những yếu tố tâm lý xã hội là các yếu tố quan trọng có liên quan đáng kể đến mức độ không tuân thủ điều trị, kiểm soát đường huyết dưới mức tối ưu, giảm chất lượng cuộc sống, và có tỷ lệ cao hơn các biến chứng Đái tháo đường cấp và mãn tính.

Vacxin Phòng Quai Bị

Đại cương về bệnh quai bị:

Quai bị là một bệnh nhiễm vi rut cấp tính do vi rút quai bị thuộc họ paramyxovide gây nên. Bệnh thường gặp ở tuổi trẻ nhất là 5-9 tuổi. Tuổi thiếu niên và người lớn chiếm tỷ lệ mắc khoảng 15%. Thời kỳ ủ bệnh từ 12-25 ngày. Bệnh lây bằng nước bọt của bệnh nhân qua đường hô hấp. Trước khi viêm tuyến mang tai 6 ngày kéo dài đến 9 ngày sau khi viêm tuyến mang tai. Virút xâm nhập vào các tuyến ngoại tiết và màng não. Bệnh cảnh lâm sàng thường là sưng đau tuyến nước bọt, đặc biệt là tuyến mang tai. Lúc đầu tuyến mang tai bị sưng đau một bên, sau đó lan sang bên còn lại. Một số trường hợp có thể xuất hiện viêm tinh hoàn (tỷ lệ khoảng 20%) hoặc viêm màng não nước trong. Các biểu hiện khác hiếm gặp hơn bao gồm các bệnh cảnh viêm tuỵ, viêm buồng trứng, viêm gan, viêm cơ tim, viêm tuyến giáp . Các biến chứng nặng hiếm khi xảy ra bao gồm điếc hoặc teo tinh hoàn dẫn đến vô sinh..

Xem về bệnh Quai bị:

Bệnh Quai Bị – Triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Phác đồ điều trị bệnh quai bị

Vacxin phòng quai bị :

  • Tên chung : Vacxin sởi, quai bị và rubella.
  • Tên thương mại : MMR II
  • Nơi sản xuất: Merk, Sharp & Dohme
  • Tác dụng phụ:

Các tác dụng phụ của Vacxin MMR II là những tác dụng phụ đã được báo cáo sau khi sử dụng các Vacxin đơn giá.

Thường gặp: bỏng rát và/hoặc đau hoặc nổi cục cứng tại nơi tiêm.

ít gặp:

+ Toàn thân: Sốt 38,3°c hoặc cao hơn

+ Da: nổi ban, thường ít nhưng có thể nổi ban toàn thể

Nói chung, triệu chứng sốt, nổi ban, hoặc cả hai xuất hiện trong khoảng từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 12.

Hiếm gặp:

+ Các phản ứng tại chỗ nhẹ như ban đỏ, đám cứng và tăng nhạy cảm

+ Tiêu hóa: đau họng, viêm tuyến mang tai, buồn nôn, nôn, tiêu chảy

+ Máu/ bạch hụyết: bệnh hạch bạch huyết khu trú, giảm tiểu cầu, ban xuất huyết

+ Tăng nhạy cảm: Các phản ứng dị ứng như nốt phỏng và đỏ da ở nơi tiêm, sốc phản vệ, nổi mày đay

+ Cơ xương: Đau khốp và/ hoặc viêm khớp (thường gặp) thoáng qua và hiếm khi kéo dài, đau cơ

+ Thần kinh/tâm thần: Sốt cao co giật ở trẻ em, co giật hoặc cơn động kinh không kèm theo sốt, đau đầu, chóng mặt, dị cảm, viêm đa dây thần kinh, hội chứng Guillain – Barre, mất điều vận. Viêm não/bệnh não cũng đã được báo cáo vói tần số khoảng 1/3 triệu liều tiêm. Nguy cơ xuất hiện những rối loạn thần kinh trầm trọng như vậy sau khi tiêm Vacxin vi rút sởi sống ít hơn rất nhiều so với nguy cơ viêm não và bệnh não khi mắc sởi tự nhiên (1/2000 trường hợp báo cáo)

+ Da: ban đỏ đa hình thái

+ Các giác quan đặc biệt: Các dạng viêm thần kinh thị giác, bao gồm cả viêm thần kinh hậu nhãn cầu, viêm nhú, viêm võng mạc; liệt thị giác, viêm tai giữa, điếc do thần kinh, viêm kết mạc

+ Tiết niệu, sinh dục: Viêm tinh hoàn Có những báo cáo về các trường hợp viêm não xơ hoá lan toả bán cấp (SSPE) ở trẻ em không có tiền sử mắc sởi tự nhiên những đã được tiêm Vacxin sởi. Một số trong các trường hợp này có thể do bị bệnh sởi từ trước 1 tuổi mà không biết hoặc có thể là do tiêm Vacxin sởi. Dựa trên sự phân phối Vacxin sởi trên toàn quốc theo ước tính, thì số trường hợp SSPE do tiêm Vacxin sởi là khoảng 1/1 triệu liều Vacxin. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với tỷ lệ mắc do bị sởi tự nhiên là 6 – 22 trường hợp SSPE/1 triệu trường hợp mắc sởi. Kết quả nghiên cứu bệnh – chứng hồi cứu do Trung tâm phòng chống bệnh thực hiện cho thấy tác động chung của Vacxin sởi là bảo vệ chống lại SSPE bằng cách phòng ngừa bệnh sởi.

Đau khớp và/hoặc viêm khớp (thường thoáng qua và hiếm khi kéo dài), và viêm đa dây thần kinh là những đặc điểm của bệnh rubella tự nhiên, các triệu chứng này khác nhau về tần số và mức độ nặng nhẹ theo tuổi và giới, hay gặp và nặng nhất ở nữ trưởng thành, ít gặp và nhẹ nhất ở trẻ chưa đến tuổi dậy thì.Rất hiếm khi người được tiêm Vacxin có các triệu chứng khốp mạn tính.

Theo dõi trẻ tiêm Vacxin thấy rằng các phản ứng ở khốp không thường gặp và thường hết sau thời gian ngắn. 0 phụ nữ, tỷ lệ viêm khớp và đau khớp thường cao hơn ở trẻ em (trẻ em 0 – 3%, phụ nữ 12 – 20%), và các phản ứng có vẻ rõ hơn và kéo dài hơn. Các triệu chứng có thể tồn tại trong vài tháng hoặc hiếm khi vài năm. Ó thanh thiếu niên nữ, tỷ lệ xuất hiện các phản ứng ở mức độ trung gian giữa trẻ em và phụ nữ trưởng thành. Thậm chí ở phụ nữ lớn tuổi hơn (35 – 45 tuổi), thì những phản ứng này cũng ít ảnh hưởng đến hoạt động bình thường. Tiêm nhắc lại ít gặp phản ứng hơn là khi gây miễn dịch cơ bản.

  • Chống chỉ định:

Không tiêm MMR II cho phụ nữ có thai; hiện nay chưa biết rõ về tác dụng của Vacxin đối với sự phát triển của thai nhi. Nếu tiêm Vacxin cho phụ nữ đã dậy thì, thì phải tránh mang thai 3 tháng sau khi tiêm Vacxin.

Có phản ứng sốc phản vệ với neomycin (vì mỗi liều Vacxin đã hoàn nguyên có chứa khoảng 25pg neomycin)

Tiền sử có phản ứng dị ứng với trứng

Các bệnh đường hô hấp có sốt hoặc các trường hợp nhiễm khuẩn có sốt tiến triển khác

Bệnh lao tiến triển chưa được điều trị

Bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch. Chống chỉ định này không áp dụng cho bệnh nhân đang điều trị corticosteroid hoặc liệu pháp thay thế khác, ví dụ như trong bệnh Addison

Những người bị bệnh rối loạn tạo máu, bệnh bạch cầu, bệnh u lympho các thể, hoặc những trường hợp u ác tính khác ảnh hưởng đến tuỷ xương hoặc hệ bạch huyết.

Tình trạng suy giảm miễn dịch nguyên phát hoặc mắc phải, kể cả những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch do AIDS hoặc các biểu hiện lâm sàng khác của nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch; thiếu hụt miễn dịch tế bào; giảm gammaglobulin huyết và tình trạng loạn gammaglobulin huyết

Người có tiền sử gia đình bị suy giảm miễn dịch bẩm sinh hoặc di truyền, đến khi chứng minh được khả năng đáp ứng miễn dịch của người được tiêm Vacxin.

  • Thận trọng

Nói chung:

Cần chuẩn bị sẵn Adrenalin để xử trí cấp cứu trong trường hợp xảy ra phản ứng sốc phản vệ

Cần thận trọng khi tiêm MMR II cho những người mà bản thân hoặc gia đình có tiền sử co giật, tiền sử tốn thương não hoặc các trường hợp stress khác do sốt. Bác sỹ cần thông báo cho người được tiêm về việc có thế xảy ra hiện tượng tăng thân nhiệt sau khi tiêm.

Trẻ em và người trẻ tuổi bị nhiễm HIV nhưng không có các biểu hiện lâm sàng có thể được tiêm Vacxin. Tuy nhiên, người được tiêm Vacxin cần được theo dõi chặt đế phát hiện phơi nhiễm với các bệnh mà Vacxin phòng ngừa vì khả năng sinh miễn dịch có thể kém hơn là ở những người chưa bị nhiễm. Trong những trường hợp lựa chọn, có thể xác định lượng kháng thể lưu hành trong máu để có biện pháp bảo vệ hợp lý, kể cả biện pháp dự phòng bằng miễn dịch thụ động nếu việc gây miễn dịch không đạt tới mức độ bảo vệ.

Hoãn tiêm Vacxin ít nhất là 3 tháng sau khi truyền máu hoặc huyết tương, hoặc dùng globulin huyết tương miễn dịch người.

Phụ nữ có thai

Không nên tiêm Vacxin cho phụ nữ có thai; cần tránh

có thai 3 tháng sau khi tiêm Vacxin

Phụ nữ cho con bú

Cần thận trọng khi tiêm Vacxin MMR II cho phụ nữ đang cho con bú

  • Lịch tiêm

Tiêm cho trẻ từ 15 tháng tuổi trở lên. Nên tiêm liều thứ 2 bằng Vacxin MMR II hoặc Vacxin sởi đơn giá.

Ở những vùng mà bệnh sởi xuất hiện với tỷ lệ cao ở trẻ < 15 tháng tuổi thì có thể tiêm sớm hơn. Trẻ được tiêm Vacxin khi chưa được 12 tháng tuổi cần được tiêm nhắc lại sau khi được 15 tháng tuổi. Hầu hết trẻ 12 – 14 tháng tuổi đã có đáp ứng miễn dịch, nhưng có thể tiêm liều nhắc lại khi trẻ đến tuổi đi học hoặc muộn hơn.

Những trẻ chưa được tiêm Vacxin sinh ra từ người mẹ mang thai mẫn cảm cần được tiêm Vacxin rubella sống giảm độc.

Những trẻ cảm thụ với một hoặc nhiều bệnh của Vacxin cần được tiêm hoặc một Vacxin đơn giá (sởi, quai bị hoặc rubella), hoặc một Vacxin phối hợp phù hợp. Tuy nhiên, MMR II thích hợp đối với những người cảm thụ với bệnh quai bị, rubella và bệnh sởi. Nếu không có Vacxin đơn giá, thì nên dùng Vacxin MMR II.

Vacxin được tiêm vào dưới da, thường tiêm vào mặt ngoài phía trên của cánh tay. Không tiêm vào mạch máu.

Liều Vacxin giông nhau cho tất cả mọi người: 0,5ml Vacxin đã hồi chỉnh.

Không tiêm globulin miễn dịch (IG) đồng thời với tiêm MMR II.

Co giật do rối loạn chuyển hóa

Cơn co giật kiểu động kinh có thể gặp trong một số trường hợp: hạ natri máu, ngộ độc nước, nhiễm độc thyroxin, bệnh não tăng huyết áp, porphyrin niệu, hạ đường máu, tăng đường máu, thiêu hụt pyridoxin, tiểu tiện ra acid argininsuccinic, phenylceton niệu, hạ calci máu.

  1. Cơn hạ đường máu

Hạ đường máu có thể do tăng insulin chức năng hoặc do bệnh lý tuyến tụy.

Trong nghiệm pháp choáng insulin điều trị bệnh tậm thần, hoặc trong trường hợp đói lả, đường máu hạ gây nên cơn co giật toàn thể hoặc ngất lịm.

Trên điện não đồ có thể thấy giảm biên độ sóng điện não, hoàn toàn không có sóng chậm khu trú. Song xét nghiệm máu phát hiện rõ glucose máu giảm đáng kể (glucose máu bình thường: 4,4 – 6,1 mmol/1 (theo phương pháp Folin – Wu và đơn vị S.I.)).

Xử lý bằng tiêm thanh huyết ngọt ưu trương hoặc cho người bệnh uống nước đường.

  1. Cơn hạ calci máu

Do suy chức năng tuyến cận giáp, không đủ tiết hormon đưa đến hậu quả hạ calci máu.

Nguyên nhân do phẫu thuật tuyến giáp hay gặp nhất, sau đó là phẫu thuật cắt bỏ khối u tuyến cận giáp, hay điều trị tuyến giáp bằng liều lớn iod phóng xạ, suy chức năng cận giáp tạm thời sau đẻ, ăn nhiều sữa bò có chứa nhiều phosphat.

Calci máu giảm là nguyên nhân tăng hưng phấn hệ thần kinh cơ, lâm sàng biểu hiện bằng các cơn co giật têtani: đầu ngón chân tay có cảm giác tê buồn như kiến bò, chuột rút, máy cơ, giật cơ ở mu tay làm cho bàn tay run run co quắp lại giống như bàn tay của bác sĩ, hộ sinh sắp sửa thăm tử cung, gọi là dấu hiệu “bàn tay đỡ đẻ”, ơ trẻ em hay gặp bàn chân co quăp, các ngón chân cũng co như bàn tay, trẻ thường kêu la đau đớn, cơn kéo dài từ 5 – 30 phút.

Khám dấu hiệu Chwostek: do tăng hưng phấn các sợi vận động của dây thần kinh số VII nên khi gõ ngón tay hay búa phản xạ vào vùng gò má thấy hiện tượng co cơ bám da mặt cùng bên.

Dấu hiệu Trousseau: dùng huyết áp có dây cuốn trên nếp gấp khuỷu tay, bơm hơi tới số huyết áp trên 200 mmHg để trong vòng 2 – 3 phút sẽ xuất hiện dấu hiệu bàn tay đỡ đẻ.

Xét nghiệm máu, nồng độ calci máu giảm 5 – 7 mg%, phosphat huyết tăng 8-10 mg%.

Điều trị cấp cứu: tiêm ngay calci clorua 0,5g X 1 – 2 ống tĩnh mạch chậm, sau vài phút sẽ hết cơn. Sau đó cho uống calci gluconat, calci lactat… và cho vitamin D để kích thích hấp thụ calci, ổn định nồng độ calci máu.

Xử trí cấp cứu sốc

1.  Đại cương

Sốc là bệnh cảnh hay gặp chính của khoa Cấp cứu và Hồi sức. Đặc điểm sinh lý bệnh chính của sốc là giảm tưới máu hệ thống của toàn cơ thể dẫn tới giảm cung cấp oxy cho các mô cơ thể. Từ đó dẫn tới sự mất cân bằng giữa cung cấp và trao đổi oxy, thiếu oxy tế bào gây tăng chuyển hóa yếm khí, tăng giải phóng ra các chất trung gian, độc tố phù tế bào, hoạt hóa các phản ứng viêm. Ban đầu tình trạng thiếu oxy này có thể hồi phục, nhưng rất nhanh chóng sẽ không hồi phục hậu quả là chết tế bào, tổn thương cơ quan đích, suy đa tạng và tử vong. Do vậy quan trọng nhất là phải phát hiện sớm và điều trị kịp thời.

2.  Chẩn đoán

2.1. Triệu chứng chung của sốc

  • Phát hiện sớm các dấu hiệu về sốc: mạch nhanh, tụt HA, thiểu niệu, thay đổi về ý thức, toan chuyển hóa, da lạnh, vã mồ hôi, nổi vân tím
  • Ý thức hốt hoảng do giảm lượng máu lên não, có thể có cơn ngất. Ở giai đoạn muộn có thể lơ mơ, hôn mê
  • < 40 mmHg so với HA nề Biểu hiện sớm hơn là tụt HA tư thế.
  • Thiểu niệu: giảm lưu lượng máu tới thận gây giảm mức lọc cầu thận, giai đoạn sớm suy thận chức năng giai đoạn muộn gây hoại tử ống thận suy thận thực tổn
  • Thở nhanh sau do tăng chuyển hóa hoặc do toan chuyển hóa
  • Da lạnh, ẩm do co mạch, trong sốc nhiễm khuẩn do giãn mạch thường có thể có nổi vân tím
  • Bụng chướng dần do giảm tưới máu tạng trong ổ bụng, thiếu máu mạc treo
  • Toan chuyển hóa: do chuyển hóa yếm khí sinh lactic, và mất khả năng thanh lọc lactate của gan, thận, cơ…vv.

Các triệu chứng nguyên nhân gây sốc:

  • Sốc giảm thể tích: ỉa chảy, mất máu, chấn thương…
  • Sốc tim: đau ngực, gan to tĩnh mạch cổ nổi, phù chi dưới, rale phổi
  • Sốc nhiễm khuẩn: sốt, thể trạng nhiễm trùng nhiễm độc, viêm phổi, áp xe tay chi, nhiễm trùng tiết niệu, nhiễm trùng trong ổ bụng
  • Sốc phản vệ như các biểu hiện dị ứng, tiền sử dùng thuố.vv
  • Sốc tắc nghẽn: nhồi máu phổi lớn, huyết khối tĩnh mạch sâu.

2.2.  Xét nghiệm đánh giá tình trạng sốc

  • Khí máu: đánh giá tình trạng toan máu
  • Acid lactic để đánh giá tình trạng tưới máu mô
  • Xét nghiệm đánh giá tổn thương cơ quan đích: chức năng gan thận, đông máu, hô hấp.vv

3.  Phân loại các loại sốc:

Sau khi đã nhận ra tình trạng sốc, phải nhanh chóng phân loại và tìm nguyên nhân gây sốc.

Có 4 loại sốc chính

  • Sốc giảm thể tích: giảm thể tích tuần hoàn (ỉa  chảy,  mất  máu, bỏng, ..vv) làm giảm tiền gánh giảm cung lượng tim, tụt Cơ thể sẽ phản ứng lại bằng tăng nhịp tim, co mạch máu để duy trì HA tưới máu cho những tạng quan trọng như não, tim, phổi, thận. Triệu chứng lâm sàng thường nhịp tim nhanh, nhợt nhạt, lạnh nhợt đầu chi, vã mồ hôi, mất nước, tụt HA tư thế.
  • Sốc tim: giảm cung lượng tim (NMCT, viêm cơ tim…vv) gây tụt HA, cơ thể cũng phản ứng lại bằng cách co mạch, thể tích tuần hoàn trong trường hợp này có thể bình thường hoặc tăng. Triệu chứng thường là suy tim như gan to tĩnh mạch cổ nổi, phù phổi, đầu chi lạnh nhợt do co mạch, đau ngực, tim nghe có tiếng thổi
  • Sốc giãn mạch: giãn mạch hệ thống do các yếu tố trung gian hoạt mạch, độc tố (vd sốc nhiễm khuẩn, sốc phản vệ ..) cơ thể cũng phản ứng lại bằng cách tăng nhịp tim để duy trì Thể tích tuần hoàn có thể thiếu hoặc bình thường. Triệu chứng thường là tăng nhịp tim, giãn mạch đầu chi, nổi vân tím, thể trạng nhiễm trùng nhiễm độc hoặc có yếu tố dị ứng kèm theo
  • Sốc tắc nghẽn: nhồi máu phổi, hoặc ép tim cấp làm tim không thể tống máu vào đại tuần hoàn. Triệu chứng chủ yếu ứ trệ tuần hoàn tim phải như khó thở, gan to tĩnh mạch cổ nồi phù đồng thời có giảm tưới máu đầu chi
  • Sốc giai đoạn muộn: Cho dù bất kể do nguyên nhân gì nếu để muộn đều dẫn tới tình trạng hôn mê, giảm cung lượng tim, giãn mạch, thể tích tuần hoàn giảm hoặc tăng, tổn thương đa tạng, toan chuyển hóa và tử vong.

Bảng 1. Các đặc điểm sinh lý của các loại sốc

Phân  loại sốc  

I

C       S

V R

P V R S

v O

2

R A P R V P P A P P

a O P

Sốc     tim

(ví        dụ

N
NMCT

hay      ép tim)

Sốc  giảm thể     tích

(vd     mất máu)

N
Sốc phân bố (vd sốc phản vệ, sốc nhiễm khuẩn)  

N      ↓ N N

N

N

N

N

Sốc tắc nghẽn (vd tắc đm phổi) N

N

N

CI: chỉ số tim                                            SVR: sức cản mạch hệ

PVR: sức cản mạch phổi                          thống

RAP: áp lực nhĩ phải                                SvO2:  bão  hòa  oxy  tm pha trộn

PAOP:  áp  lực  đm  phổi  bít,  N

bình thường                                              PAP áp lực đm phổi

4.  Cách tiếp cận bệnh nhân sốc

  • Khi nhận ra bệnh nhân sốc, phải tiến hành hồi sức ngay đồng thời tìm hiểu hỏi tiền sử, khám lâm sàng tìm các triệu chứng gợi ý, và làm các xét nghiệm khẳng định tình trạng và nguyên nhân gây số
  • Thăm dò huyết động đóng vai trò rất quan trọng trong chẩn đoán, theo dõi, và điều trị sốc đặc biệt trong những trường hợp sốc hỗn hợp và sốc ở giai đoạn muộn, nhiều yếu tố nhiễu ảnh hưởng tới triệu chứng

+ Đặt catheter tĩnh mạch trung tâm: đánh giá tiền gánh thất phải, gián tiếp đánh giá tiền gánh thất trái.

+ Siêu âm tim: đánh giá chức năng tim, loại trừ nhanh ép tim cấp, các máy siêu âm tim hiện đại còn có thể đánh giá được cung lượng tim.

+ Đặt catheter Swan Ganz hoặc PiCCO: đánh giá tiền gánh thất trái (áp lực mao mạch phổi bít), đo được cung lượng tim, đo được sức cản mạch hệ thống (hậu gánh). Riêng với PiCCO còn có thể đo được lượng nước trong phổi.

5.  Xử trí bệnh nhân sốc

  • Ổn định chức năng sống: Đảm bảo oxy hóa máu (thở oxy, đặt NKQ, TKNT), kiểm soát đường thở và đặt NKQ sớm nếu bệnh nhân hôn mê trong tình trạng sốc, đặt đường truyền tĩnh mạch cỡ lớn hoặc catheter tĩnh mạch trung tâm, truyền dịch theo áp lực TMTT, lấy máu làm xét nghiệm: công thức máu, chức năng gan thận, cấy máu.
  • Các biện pháp hồi sức huyết động

+ Đặt ống thông TMTT duy trì CVP từ 11 tới 16 cmH20 truyền dịch muối đẳng trương, cao phân tử hay máu tùy tình trạng và loại sốc.

+ Nếu HA không cải thiện cân nhắc sử dụng các thuốc trợ tim và co mạch

Bảng 2. Cơ chế tác động của các thuốc trợ tim và co mạch

Loại thuốc Liều truyền C O MA P S V R
I. Co mạch
Noradrenal ine 0,05-0,5

mcg/kg/ph út

-/+ ++ +

+

+

Dopamine 5-20

mcg/kg/ph út

++ + +

+

Adrenaline 0,05-2

mcg/kg/ph út

++ ++ +

+

+

Phenylephr ine 2-10

mcg/kg/ph út

0 ++ +

+

+

Vasopressi

n

0,04     đơn vị/phút 0 +++ +

+

+

II. Co bóp cơ tim
Dobutamin

e

2,5-10

mcg/kg/ph út

++

+

-/+

/ 0

CO: cung lượng tim MAP: HA trung bình

SVR: sức cản mạch hệ thống

– Điều trị đặc hiệu cho từng loại sốc

+ Sốc giảm thể tích: bù đủ khối lượng tuần hoàn, ngăn chặn nguồn mất, cầm máu…

+ Sốc tim: trợ tim, bơm bóng ngược động mạch chủ, đặt thiết bị hỗ trợ thất..vv. Can thiệp mạch vành, dùng thuốc chống đông, chống ngưng tập tiểu cầu nếu NMCT

+ Sốc phản vệ: dùng sớm adrenaline nếu có rối loạn huyết động, corticoid, loại trừ dị nguyên khỏi cơ thể

+ Sốc nhiễm trùng: dùng kháng sinh sớm, loại trừ ổ nhiễm khuẩn, liệu pháp điều trị sớm theo mục tiêu

+ Sốc tắc nghẽn: chọc tháo dịch màng ngoài tim..vv

Tác dụng chữa bệnh của Hoa cúc vàng

Cây cúc vàng được trồng làm cảnh ở hầu hết các vùng của nước ta. Hoa có màu vàng rất đẹp và thơm, thường mọc ở đầu các cành hay kẽ lá. Hoa cúc vàng được dùng làm thuốc chữa bệnh. Theo Đông y hoa cúc vàng có vị ngọt, hơi đắng, tính hơi lạnh, tác dụng trừ phong thanh nhiệt, làm sáng mắt, tăng thị lực, giải độc, chữa chóng mặt, nhức đầu, cảm sốt nóng, tăng huyết áp, đau mắt đỏ, trừ mụn nhọt, lở ngứa sưng đau. Không dùng cho người dạ dày yếu, hay bị lạnh bụng.

* Thuốc ứng dụng:

Bài 1. Thuốc chữa bệnh nhức đầu

+ Hoa cúc vàng 30g

+ Bạc hà 20g

+ Kinh giới 25g

+ Xuyên khung 15g

+ Phòng phong 12g

+ Khương hoạt 15g

+ Bạch chỉ 10g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 500ml nước đun, sôi kỹ lấy 200ml nước đặc. Người bệnh chia đều làm 3 lần uống trong ngày, sau bữa ăn, khi thuốc còn ấm. cần uống liền 5-7 ngày.

+ Cam thảo 5g

+ Tế tân 5g

+ Cương tằm 10g

Các vị thuốc trên sấy khô tán bột mịn. Người bệnh ngày uống 3 lần trước khi ăn, mỗi lần 5g với nước ấm.

Bài 2. Chữa sốt do cảm mạo có ho

+ Lá dâu 6g

+ Bạc hà 4g

+ Hoa cúc vàng 6g

+ Viên kiều 4g

+ Cát cánh 4g

+ Cam thảo 4g

(Tất cả đã sấy khô).

Cho các vị thuốc cho vào nồi cùng 400ml nước. Đun kỹ, nhỏ lửa, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh chia đều làm 3 lần, uống trong ngày, trước bữa ăn khi thuốc còn ấm. cần uống liền 3-5 ngày.

Bài 3. Thuốc chữa bệnh mắt đau sưng đỏ

+ Hoa cúc vàng 10g

+ Hoa cúc trắng 10g

+ Bạch tật lê 4g

+ Khương hoạt 4g

+ Mộc tăng 6g

+ Thuyền thoái 4g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 500ml nước đun, sôi kỹ lấy 200ml nước đặc. Người bệnh chia đều làm 3 lần uống trong ngày, sau bữa ăn, khi thuốc còn ấm. cần uống liền 5-7 ngày.

Bài 4. Thuốc tăng cường thị lực

+ Hoa cúc vàng 12g
+ Hồng hoa 16g
+ Hà thủ ô 20g
+ Thục địa 20g
+ Quy vĩ 16g
+ Hoài sơn 16g
+ Đào nhân 16g
+ Trạch tả 12g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 600ml nước đun sôi kỹ. Chắt lấy 200ml nước đặc. Người bệnh chia đều uống 3 lần trong ngày, sau bữa ăn khi thuốc còn ấm. cần uống liền 7-10 ngày.

Bài 5. Thuốc chữa bệnh đau đầu mắt mờ

+ Hoa cúc vàng 9g
+ Lá dâu 6g
+ Câu đằng 6g
+ Liên kiều 9g
+ Cát cánh 6g
+ Cây mã đề 8g
+ Cam thảo 5g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 600ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 200ml nước đặc. Người bệnh chia đều làm 3 phần, uống hết trong ngày sau bữa ăn. cần uống liên tục 7-10 ngày.

Bài 6. Thuốc chữa bệnh gan, thận suy nhược

+ Hoa cúc vàng 9g

+ Đơn bì 9g

+ Phục linh 9g

+ Thục địa 15g

+ Hoài sơn 12g

+ Trạch tả 9g

+ Sơn thù 9g

+ Kỷ tử 9g

Các vị thuốc sấy khô, tán bột, dùng nước cháo đặc luyện viên bằng hạt ngô, phơi khô. Người bệnh ngày uống 3 lần, mỗi lần 10 viên trước khi ăn với nước sôi để nguội.

Optalidon

Thuốc Optalidon
Thuốc Optalidon

OPTALIDON

NOVARTIS

Viên bao: hộp 25 viên.

THÀNH PHẦN

Noramidopyrine 125 mg
Caffeine 25 mg

TÍNH CHẤT

Optalidon là một thuốc giảm đau, hạ sốt có hiệu quả, tác dụng nhanh, dung nạp tốt, không ảnh hưởng tới khả năng làm việc.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Noramidopyrine: nồng độ tối đa trong huyết tương đạt được sau khi dùng thuốc 1-3 giờ. Thời gian bán thải từ 1-1,5 giờ. Khoảng 0,6% thải trừ qua nước tiểu dưới dạng không đổi.

Caffeine: được hấp thu nhanh chóng và hoàn toàn ; nó được chuyển hóa mạnh. Các chất chuyển hóa chủ yếu được đào thải qua nước tiểu. Thời gian bán thải là 3,5 giờ. Tỉ lệ gắn với protein huyết tương là 35%.

CHỈ ĐỊNH

Optalidon được dùng trong điều trị các chứng đau sau:

  • Đau đầu do nhiều nguyên nhân khác nhau
  • Đau răng và đau sau khi nhổ răng.
  • Đau dây thần kinh thuộc: vùng mặt, gian sườn, thần kinh tọa..
  • Đau cấp tính trong các bệnh thấp khớp như thoái hóa khớp, viêm khớp và các rối loạn thần kinh-cơ khác.
  • Đau sau chấn thương hay phẫu thuật
  • Đau bụng kinh.
  • Đau cơ, đau trong cảm lạnh hay cúm.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Mẫn cảm với các dẫn xuất của pyrazolone.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Nên dùng thuốc trong một thời gian nhất định chớ không nên dùng kéo dài.

Như mọi thuốc khác, chỉ nên dùng Optalidon cho phụ nữ có thai hay cho con bú theo chỉ định của bác sĩ.

Cần thận trọng khi dùng thuốc cho các bệnh nhân có rối loạn chức năng gan, thận. Để thuốc ngoài tầm với của trẻ em.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Hiếm khi có chóng mặt hay buồn nôn. Rất hiếm gặp các phản ứng quá mẫn như đỏ da hay các triệu chứng khác kiểu phản vệ.

Các dẫn xuất pyrazolone như noramidopyrine cá biệt có trường hợp gây mất bạch cầu hạt.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Nuốt cả viên thuốc với một ít nước.

Người lớn:

1-2 viên/lần ; nếu cần, có thể nhắc lại liều này 1-2 lần/ngày. Liều tối đa: 6 viên/ngày.

Trẻ em từ 6 tuổi trở lên: 1 viên/lần.

Liều tối đa hàng ngày: 1-3 viên tùy theo tuổi.

QUÁ LIỀU

  • Triệu chứng: đau bụng, buồn nôn, nôn, ngủ gà, kích thích, co giật ; nhịp tim nhanh ; hôn mê.
  • Điều trị: điều trị triệu chứng ; nên rửa dạ dày nếu thấy cần

Các loại trà tác dụng giải rượu, giải độc

Phần lớn những loại rượu nguyên chất đều chứa chất độc, còn gọi là cồn. Có thành phần cấp và mãn tính. Trong thời gian ngắn nếu một lần dùng một lượng rượu nguyên chất quá liều (cồn) sẽ xuất hiện độc tố cấp tính, còn gọi là trạng thái say rượu. Sau khi uống rượu chất cồn sẽ nhanh chóng được hấp thụ vào dạ dày và ruột non, sau 5 phút sẽ ngấm vào máu, sau 30-90 phút sẽ đạt tới nồng độ cao nhất và sẽ phân bố tới các bộ phận trên cơ thể. Một lượng nhỏ sẽ thoát ra ngoài theo đường bài tiết, mồ hôi và hô hấp, trên 90% sẽ trao đổi trong cơ thể (chủ yếu ở trong nội tạng). Tửu lượng của mỗi người là không giống nhau, một số người rất mẫn cảm đối với các loại rượu.

Những điều cần ghi nhớ về dưỡng sinh

Cảm giác hít nhả khói thật thoải mái, nhưng một khi do hút thuốc mà tạo thành biến chứng của bệnh thì hối hận cũng đã muộn. Nghiện thuốc cũng giống như cái mệnh của các bậc nam thanh nữ tú, vì sức khỏe phải cai ngay thuốc. Khi muốn hút một điếu thuốc, hãy pha một ấm trà đặc, mùi thơm của khói thuốc cũng giống như vị đắng đặc trưng của trà, đây là thức uống thay thế tốt nhất đối với người nghiện.

Rượu trắng
Rượu trắng

Các loại trà nên sử dụng

(1) Trà dấm

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Cho 30 gam lá trà vào 500 ml nước, đun thành một bát nhỏ (khoảng từ 100-150 ml). Hoặc dùng nước sôi đổ vào thành một bát, cho vào cùng với lá trà và giấm (khoảng 100-150 ml) là có thể dùng được. Chia làm ba lần uống.

Công dụng chữa trị: Dùng để giải độc.

Chú ý: Phương trà này dùng để giải độc, dưỡng tim, thông hơi.

(2) Trà phèn chua

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Búp trà, phèn chua vừa đủ cho thêm nước vào đun, lấy nước cốt là có thể dùng được. Mỗi ngày uống một thang, có thể uống khi đã nguội.

Công dụng chữa trị: Đánh gió, thanh nhiệt, giải đôc, tiêu đờm.

Chú ý: Phương trà này đùng để giải độc hoặc để điều trị các chứng quá mẫn cảm.

(3) Trà giã rượu

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Đồ uống này như một món trà thuốc, do các vị thuốc như cát cân, quyết minh tử tạo thành. Cho nước sôi vào hoặc đun nước lên. Uống như trà, mỗi lần uống nửa gói hoặc một gói (mỗi gói 19 gam).

Công dụng chữa trị: Kiện tì, trợ giúp tiêu hóa.

Chú ý: Phương trà này dùng cho những người uống quá nhiều rượu.

(4) Trà nhân sâm điền thất

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Món trà này chính là thuốc, thành phần chủ yếu là điền thất, nhân sâm. Mỗi ngày uống một gói (mỗi gói 3 gam). Đổ nước sôi vào uống, mỗi ngày 2 lần.

Công dụng chữa trị: Dưỡng sinh bổ từ, hoạt huyết thông mạch.

Chú ý: Phương trà này dùng cho những người uống rượu quá nhiều, phòng tránh bệnh tim.

(5) Trà dây bí ngô đường đen

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Dây bí ngô, đường đen mỗi loại một lượng vừa đủ. Dây bí ngô cắt nhỏ, giã nhuyễn, cho đường đen vào. Cho nước sôi vào uống như trà.

Công dụng chữa trị: Giải độc, tiêu đờm.

Chú ý: Phương trà này rất có tác dụng đối với những người muốn cai thuốc.

(6) Trà cai thuốc

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Sâm thái tử 15 gam, bồ hà 9 gam, địa long 6 gam, cỏ ngư tinh 9 gam, viễn chí 10 gam, muối natri 4 gam, lá trà, đường đen vừa đủ. Trước tiên đem sáu vị thuốc trên để khô rồi nghiền nhỏ. Cho vào nồi hấp cách thủy. Cho lá trà, đường đen, đổ nước sôi vào, mỗi lần 2 gam, mỗi ngày uống hai lần thay cho trà.

Công dụng chữa trị: Giải độc, tiêu đờm.

Chú ý: Phương trà này thích hợp với những người muốn cai thuốc.

(7) Hồng trà mía

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Mía 500 gam, hồng trà 5 gam. Mía đem róc vỏ, cắt nhỏ, đun lên cùng với hồng trà. Uống thay cho trà.

Công dụng chữa trị: Giải nhiệt , tỉnh rượu hòa vị.

Chú ý: Đồ uống này dùng với những người uống rượu quá liều, khô miệng, cổ họng ngứa, ho, ăn quá nhiều đồ béo và ngấy, là đồ uống lí tưởng để bồi bổ sức khỏe vào tiết xuân.Không nên ăn nhiều mía

(8) Trà mễ lan

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Mễ lan 10 gam. Đổ nước sôi vào, uống thay cho trà.

Chú ý: Phương trà này dùng cho những người uống rượu quá nhiều, say rượu.

Những điều cần ghi nhớ

Nội tạng của con người mỗi phút có thể phân giải được 10 ml tinh chất rượu, nếu uống quá nhiều rượu khi vượt quá giới hạn giải độc mà cơ thể cho phép thì sẽ nhiễm độc. Đối với những người tửu lượng kém, đầu tiên phải ngăn họ dừng ngay việc uống rượu, cũng có thể dùng biện pháp kích thích cổ họng để họ nôn cho toàn bộ rượu và đồ ăn chứa trong dạ dày ra ngoài, tuy nhiên nếu xuất hiện hiện tượng ngủ mệt thì không dùng được biện pháp này. Có thể uống nước ép trái cây, canh đỗ xanh và quýt giã rượu, đặt vào giường nghỉ ngơi, chú ý giữ ấm, chú ý tránh nôn ra thức ăn trong khi ngủ; quan sát sự hô hấp và động mạch, nếu không có gì đặc biệt thì khi tỉnh dậy đã có thể tự hồi phục sức khỏe. Nếu sau khi nghỉ ngơi trên giường mà vẫn có hiện tượng mạch đập nhanh, thở chậm, da ướt và lạnh, cảm giác bực bội thì cần lập tức cấp cứu. Nhiễm độc rượu cấp tính nghiêm trọng sẽ xuất hiện các trạng thái bực bội, ngủ sâu, mất nước, co giật, choáng, thở yếu, nên đưa đến bệnh viện để cấp cứu.

Viêm kết mạc dị ứng cấp tính

1. ĐẠI CƯƠNG

Viêm kết mạc dị ứng cấp tính là hình thái dị ứng nhanh của viêm kết mạc dị ứng khi bệnh nhân tiếp xúc với dị nguyên.

2. NGUYÊN NHÂN

Dị nguyên thường là các mỹ phẩm lạ, thuốc tra mắt, hóa chất, bụi, phấn hoa,….

3. CHẨN ĐOÁN

Lâm sàng

  • Triệu chứng xảy ra rất cấp tính.
  • Triệu chứng cơ năng: bệnh nhân có cảm giác bỏng rát trong mắt, ngứa mắt, đau, sợ ánh sáng, chảy nước mắt, nhiều khi không mở được mắt.
  • Dấu hiệu thực thể: mi sưng nề, mọng đỏ, kết mạc cương tụ, phù nề mọng nước, chảy nhiều dịch, tiết tố nhầy, phát triển nhú to trên kết mạc sụn mi, đôi khi xuất hiện viêm giác mạc chấm.

Cận lâm sàng

Xét nghiệm tìm dị nguyên khi có điều kiện.

Chẩn đoán xác định

Lâm sàng:

  • Ngứa mắt, đau, bỏng rát, sợ ánh sáng, chảy nước mắt
  • Mi kết mạc phù nề, tiết tố nhầy, nhú viêm trên kết mạc sụn

Chẩn đoán phân biệt

Viêm kết mạc cấp: không có tiền sử tiếp xúc dị nguyên, kết mạc cương tụ nhưng không phù nề nhiều như dị ứng, nhiều tiết tố nhầy…

4. ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc điều trị

Ngừng tiếp xúc với dị nguyên gây dị ứng (nếu xác định được)

Chống dị ứng tại chỗ và toàn thân.

Tra tại chỗ: chống viêm, chống dị ứng

Toàn thân: chống dị ứng, chống phù (nếu cần)

Điều trị cụ thể

  • Việc đầu tiên là phải loại trừ tác nhân gây dị ứng bằng rửa mắt bằng dung dịch như nước muối sinh lý.
  • Dùng thuốc:

Thuốc tra:

  • Corticosteroid: prednisolon acetate 1%, fluorometholone 0,1% 6-8 lần/ngày, trong vài ngày đầu, sau đó bệnh giảm có thể tra rút xuống 3-4 lần/ngày và dừng khi các triệu chứng khỏi hẳn.
  • Nếu da mi phù, đỏ ngứa: bôi da mi mỡ có corticoid: mỡ hydrocortison 1%….bôi da mi 3 lần/ ngày

Thuốc uống:

  • Thuốc kháng histamin: có thể dùng 1 trong các loại thuốc chống dị ứng như: loratadine, fexofenadine
  • Loratadine 10mg: Người lớn, trẻ em ≥ 12 tuổi: 1 viên/ngày

Trẻ em 6-12 tuổi ≥ 30kg: 1 viên/ngày Trẻ em 6-12 tuổi ≤ 30kg: 1/2 viên/ngày

  • Fexofenadine hydrochloride: người lớn, trẻ em ≥ 12 tuổi: 60mg/viên x 2 lần/ngày hoặc 120mg-180mg/ 1 lần/ngày.
  • Trong những trường hợp có kèm theo triệu chứng toàn thân nặng cần phối hợp hoặc chuyển bệnh nhân đến chuyên khoa dị ứng.

5. TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG

  • Bệnh thường khỏi sau vài ngày.
  • Bệnh có thể tái phát khi bệnh nhân lại tiếp xúc với dị nguyên gây dị ứng.

6. PHÒNG BỆNH

Tránh tiếp xúc với dị nguyên nếu xác định được tác nhân gây dị ứng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Andrea Leonardi (2010): Allergic disease of Conjunctiva and Cornea, Cornea and external eye disease, chapter 8, pp97-116.
  2. Etsuko Takamura, Eiichi Uchio, Nobuyuki Ebihara et Japanese Guideline for Allergic Conjunctival Disease, Allergology International, vol 60, N2, pp191-202.
  3. Hoàng Minh Châu,” Viêm kết mạc dị ứng do tiếp xúc”, Nhãn khoa giản yếu tập, Nhà xuất bản y học, trang 127.
  1. Hoàng Minh Châu, Phạm Ngọc Đông,” Viêm kết mạc dị ứng do tiếp xúc”, Nhãn khoa (tập 2). Nhà xuất bản y học, trang 21.
  1. Tôn Kim Thanh, Hoàng Minh Châu, Phạm Khánh Vân, Hoàng Thị Phúc,” Viêm kết mạc dị ứng”, Bài giảng nhãn khoa bán phần trước nhãn cầu. Nhà xuất bản y học, trang 73-82.

Những lưu ý khi xác định chẩn đoán đái tháo đường người cao tuổi

1. Tại sao đái tháo đường là một vấn đề ở người cao tuổi ?

Đái tháo đường là một trong những bệnh mạn tính thường gặp có tỷ lệ mắc mới và hiện mắc tăng lên theo tuổi. Ở nhóm tuổi này tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường là 7 – 10% so với cộng đồng chung, chiếm khoảng 40% trong cộng đồng người mắc bệnh. Ngoài ra có vào khoảng 10% người cao tuổi có bệnh đái tháo đường không được chẩn đoán, không được điều trị và thậm chí có nguy cơ cao hơn về đau ốm dẫn đến tử vong do đái tháo đường. Khoảng 20% người cao tuổi có rối loạn dung nạp glucose, có nguy cơ phát triển bệnh mạch máu lớn liên quan đến đái tháo đường. Như vậy cứ 5 người cao tuổi sẽ có một người đái tháo đường (đã được hoặc chưa được phát hiện). Nếu tính đến các rối loạn dung nạp glucose khác thì có 40% số người cao tuổi có rối loạn hằng định nội môi glucose ở những mức độ khác nhau.

Cùng với những tiến bộ của y học, tuổi thọ của con người ngày càng cao, nhóm tuổi này hiện nay chiếm khoảng 11% dân số, sẽ tăng lên 20% vào năm 2021. Sự thay đổi về lối sống cũng làm tăng tỷ lệ các bệnh về chuyển hóa, như béo phì chẳng hạn, sẽ còn làm tăng nhanh tỷ lệ mắc đái tháo đường ở nhóm tuổi này. Điều này cũng có nghĩa là những nhu cầu về nguồn lực y tế cũng sẽ tiếp tục tăng cho những người từ 65 tuổi trở lên.

2. Bệnh tật do đái tháo đường

Với nguyên tắc “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, việc phát hiện bệnh đái tháo đường ở giai đoạn sớm chính là biện pháp phòng bệnh tốt nhất. Phát hiện sớm và can thiệp kịp thời sẽ làm giảm mức độ hoặc ngăn chặn các biến chứng của bệnh. Những biến chứng đó thường là giảm thị lực, thậm chí mù loà do bệnh đái tháo đường, cắt cụt chi dưới do bệnh mạch máu ngoại vi, bệnh thần kinh và bệnh nhiễm trùng, bệnh thiếu máu cơ tim, tai biến mạch não và suy thận mạn…Tất cả đều làm suy giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh đái tháo đường cao tuổi.

Các biến chứng mạn tính thường có ở người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường. Tại thời điểm bệnh đái tháo đường mới được chẩn đoán đã có 10-20% có bệnh mạch máu nhỏ (võng mạc hoặc bệnh thận); 10% có bệnh tim mạch và bệnh thần kinh. Bệnh tăng huyết áp và nhồi máu cơ tim có sóng Q còn gặp nhiều hơn. Tỷ lệ và nguy cơ phát triển bệnh võng mạc, bệnh mạch máu ngoại vi, bệnh thần kinh ngoại vi sẽ tăng lên theo tuổi.

Người cao tuổi bị đái tháo đường cũng dễ bị mắc một số biến chứng cấp tính như tăng áp lực thẩm thấu. Các yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển như do giảm cảm giác khát, người cao tuổi luôn ở trạng thái không bù đủ dịch bằng đường uống, vì thế có nguy cơ bị mất natri, mất nước, hạ huyết áp, tăng áp lực thẩm thấu, hạ kali máu (đặc biệt nếu người bệnh dùng lợi tiểu), giảm bài tiết insulin và các biến cố tắc mạch. Khi bị nhồi máu cơ tim hoặc nhiễm trùng máu, những người bệnh cao tuổi hay bị shock, có thể dẫn đến nhiễm toan lactic đặc biệt ở những người bệnh mắc đái tháo đường nhưng kiểm soát glucose máu kém. Những biến chứng như thế có thể đe doạ tính mạng và cũng có thể được dự phòng bằng chẩn đoán sớm bệnh đái tháo đường và quản lý đường máu chặt chẽ.

3. Tử vong do đái tháo đường

Phần lớn người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường là typ 2, chiếm tỷ lệ cao từ 86 đến 92%. Ước đoán người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường có tỷ lệ tử vong trong 10 năm tới sẽ là 44%. Một người được chẩn đoán đái tháo đường ở tuổi 65 sẽ làm giảm kỳ vọng sống từ 4 đến 5 năm. Trong một nghiên cứu kéo dài 5 năm, người ta thấy, người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường tử vong đột ngột nhiều hơn gấp 4,5 lần so với người không mắc bệnh đái tháo đường.

Người ta cũng có nhận xét rằng, tuổi khởi phát bệnh đái tháo đường týp 2 càng cao thì tỷ lệ tử vong cũng tăng lên. Nhưng nếu đái tháo đường được chẩn đoán sau tuổi 75 thì tử vong do bệnh đái tháo đường không gia tăng mà còn giảm đi so với các nguyên nhân khác. Cũng cần lưu ý rằng ý kiến này không nhận được sự thông nhất. Nhiều ý kiến vẫn cho rằng tỷ lệ tử vong sẽ tăng liên tục đối với những người được chẩn đoán đái tháo đường sau tuổi 65.

Bệnh tim mạch là biến chứng thường gặp của tăng glucose máu và là nguyên chính gây tử vong ở những người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường. Ví dụ, bệnh tim thiếu máu cục bộ chiếm một nửa nguyên nhân tử vong ở nhóm tuổi này. Đã có những kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ tử vong ở người mắc bệnh đái tháo đường bị nhồi máu cơ tim tăng 1,5 lần ngay trong thời gian nằm viện, tăng 1,4 lần sau xuất viện, so với những người không bị đái tháo đường. Tỷ lệ này cũng giảm xuống, nếu tình trạng quản lý đường máu được cải thiện.

Cũng có những ý kiến cho rằng, người cao tuổi bị mắc bệnh đái tháo đường ở mức độ nhẹ và/hoặc vừa không cần điều trị. Họ lý giải rằng, vì ở nhóm người cao tuổi thời gian sống không đủ lâu để phát triển các biến chứng. Ngược lại những tai biến xảy ra trong quá trình điều trị có thể còn nguy hiểm hơn. Cho đến nay quan điểm này không được chấp nhận. Sự phát hiện sớm đái tháo đường và điều trị tích cực, có thể có ích ở những mặt khác, nhất là có thể cải thiện được chất lượng cuộc sống của người bệnh.

4. Đái tháo đường được nghĩ đến khi nào?

Để chẩn đoán sớm đái tháo đường đòi hỏi mức cảnh giác cao trước tiên là từ phía thày thuốc. Nhiều người mắc bệnh đái tháo đường, đặc biệt là người cao tuổi,’không có triệu chứng, ở thời điểm chẩn đoán đái tháo đường, các biến chứng muộn thường đã có mặt nhưng cũng không có triệu chứng. Người bệnh đến gặp thày thuốc chỉ với những triệu chứng không đặc hiệu. Chính người thày thuốc và cả người bệnh nữa đều coi rằng đó là biểu hiện của “sự lão hoá bình thường” (bảng 8.1).

Ngoài những khó khăn trên sự suy giảm trí nhớ của người bệnh gây khó khăn không nhỏ cho khai thác bệnh sử hoặc tình trạng đa bệnh lý sẽ làm phức tạp hơn cho chẩn đoán và điều trị.

Trong thực tế nhiều trường hợp đái tháo đường điển hình vẫn có thể bị bỏ sót. Sút cân nhẹ và vừa, triệu chứng mệt mỏi có thể không được nhận thấy, dễ bị bỏ qua. Thậm chí những triệu chứng kinh điển của tăng glucose máu như đái nhiều, khát, uống nhiều và ăn nhiều thường là mờ nhạt, nếu có cũng không điển hình, hoặc được lý giải theo khía cạnh bệnh lý khác. Đái nhiều có thể được lý giải nhầm là đái dầm, là không nhịn được tiểu do các vấn đề cơ học của bàng quang theo tuổi tác hoặc là nhiễm trùng đường tiết niệu, uống nhiều thường nhẹ hoặc không rõ, do tăng ngưỡng của thận với glucose và giảm cơ chế khát với tuổi già. Ăn nhiều khó được nhận thấy, vì người cao tuổi thường có chán ăn khi bị mắc bệnh. Nhiễm trùng nhất là mức độ nhẹ, thường không có triệu chứng vì thế không được điều trị.

Tất cả những lý do này làm cho người bệnh đái tháo đường cao tuổi thường đến bệnh viện khi bệnh đã ở giai đoạn rất muộn hoặc với những biểu hiện bệnh lý của các biến chứng khác nhau. Những bệnh hay gặp ở người đái tháo đường cao tuổi bao gồm viêm đau quanh khớp vai, teo cơ, suy kiệt, tổn thương thần kinh đái tháo đường, bệnh lý về da với phỏng nước nội thượng bì. Một số người bệnh cao tuổi có thể đến bệnh viện với các triệu chứng của các biến chứng mạn tính của đái tháo đường như mất thị lực, bất thường thần kinh ngoại vi, bệnh tim thiếu máu cục bộ, suy tim sung huyết, bệnh mạch máu ngoại vi hoặc bệnh mạch máu não.

Nhưng ở họ lại không có dấu hiệu tăng glucose máu. Đây là lý do lý giải tại sao tỷ lệ bệnh đái tháo đường không được chẩn đoán ở nhóm tuổi này thường cao.

Bảng 8.1. Các đặc điểm lâm sàng tăng glucose máu ở người cao tuổi.

Tác động tiên phát Tác dộng thứ phát
Bài niệu thẩm thấu Đái nhiều nhất là về đêm, ngủ kém, đái dầm, đái không tự chủ, mất nước, khát, uống nhiều, yếu cơ
Bệnh lý ở mắt Nhìn kém, giảm khả năng di chuyển
Biến dạng hồng cầu kém và kết dính tiểu cầu Đau cách hổi, đột qụy, nhồi máu cơ tim
Nhiễm trùng tái phát
Vết thương chậm lành
Các biểu hiện không đặc hiệu (sút cân, mệt mỏi…)
Thay đổi về đổi về tri thức Trí nhớ kém, không quản lý được hành vi
Trầm cảm
Giảm ngưỡng đau Tăng các triệu chứng đau
Hồi phục kém sau đột qụy
Tăng glucose máu tăng áp lực thẩm thấu Mất nước nặng, giảm ý thức, hôn mẽ, rối loạn thị giác do tăng glucose máu, co giật, tắc mạch não

Béo phì có thể là một trong những yếu tố quan trọng nhất liên quan đến đái tháo đường typ 2. Béo phì làm giảm số lượng thụ thể insulin và làm tăng sản xuất acid béo, cả hai dẫn đến giảm hiệu quả hoạt động của insulin. So sánh với quần thể chung, nguy cơ mắc đái tháo đường typ 2 là 4 lần cao hơn ở anh chị em của người mắc bệnh và 8 lần cao hơn ở con cái nếu cả bố và mẹ đều bị mắc bệnh đái tháo đường typ 2. Các yếu tố nguy cơ khác như tăng huyết áp, tăng triglycerid, HDL-C thấp đều có kết hợp với tăng nguy cơ mắc bệnh ở những người trên 65 tuổi.

Do những đặc điểm này người ta luôn khuyến cáo người cao tuổi cần được sàng lọc thường quy về đái tháo đường.

5. Xác định chẩn đoán đái tháo đường ở người cao tuổi

Vào 1997, một phân loại và các tiêu chuẩn chẩn đoán mới cho đái tháo đường đã được thiết lập bởi ADA; năm 1998, WHO đã đưa ra các khuyến cáo tạm thời. Mục tiêu của việc xem xét lại các chỉ tiêu chẩn đoán là nhằm dự báo chính xác hơn những người có nguy cơ biến chứng đái tháo đường để tiến hành các biện pháp dự phòng sớm hơn. Sự thay đổi căn bản trong tiêu chuẩn mới phù hợp với những người tuổi trên 65 là giảm mức glucose huyết tương lúc đói xuống > 7,0 mmol/l. Với tiêu chuẩn này sẽ có sự tương đương với mức glucose huyết tương ở thời điểm 2 giờ >11,1 mmol/l trong test dung nạp và phù hợp với lực dự báo của mức glucose máu lúc đói đối với các biến chứng vi mạch tìm thấy trong các nghiên cứu cắt ngang.

Để điều chỉnh mức glucose máu lúc đói mới cho chẩn đoán, khái niệm “Suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói”- IFG, khi mức glucose huyết tương lúc đói từ 5,6 mmol/l đến 6,9 mmol/l- đã được khuyến cáo. WHO cho rằng test dung nạp glucose uống được sử dụng trong những trường hợp khi mà mức glucose ngẫu nhiên nằm trong vùng không chắc chắn và có nhiều dấu hiệu chứng tỏ có những rối loạn về chuyển hóa.

Một số các nghiên cứu đã xem xét tác động của việc sử dụng mức glucose lúc đói mà không dùng test dung nạp glucose đường uống đến tỷ lệ hiện mắc, kiểu hình và tỷ lệ tử vong của bệnh, ở những người cao tuổi, những thay đổi khác nhau về tỷ lệ hiện mắc đái tháo đường đã được báo cáo khi chỉ sử dụng tiêu chuẩn glucose máu lúc đói của ADA so với tiêu chí về glucose máu lúc đói và 2 giờ của WHO 1985 ở các quần thể khác nhau. Một số lớn những người được chẩn đoán bằng một số tiêu chuẩn này bị bỏ qua bởi các tiêu chuẩn khác và ngược lại.

Cũng có sự bất tương đồng đáng kể giữa những người được phân loại là IFG theo tiêu chuẩn của ADA -1997 và những người được chẩn đoán là IGT theo tiêu chuẩn trước đó. Những hiểu biết của chúng ta về tiên lượng của IGT nhiều hơn nhiều so với IFG. Suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói ít có nguy cơ tiến triển đến đái tháo đường so với rối loạn glucose (sau nghiệm pháp tăng glucose máu), cả IGT và IFG với glucose máu lúc đói bình thường (<7,0 mmol/l) đều có kết hợp với tăng nguy cơ bệnh tim mạch, tăng nguy cơ gây tử vong ở những phụ nữ cao tuổi. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh test dung nạp glucose bằng đường uống có ích lợi hơn về tiên lượng so với sử dụng chỉ số glucose máu lúc đói đơn độc.

5.1. Vấn đề sàng lọc người bệnh cao tuổi không triệu chứng và không có các nguy cơ gây đái tháo đường khác kèm theo

Nguyên nhân việc sàng lọc đái tháo đường ở quần thể từ 65 tuổi trở lên là do tỷ lệ hiện mắc đái tháo đường tăng lên ở nhóm tuổi này. Ngoài ra nếu được phát hiện sớm có thể sẽ làm giảm chi phí cho điều trị, đồng thời làm tăng chất lượng cuộc sống cho người bệnh.

  • Tiến hành sàng lọc:

Mục đích chủ yếu của sàng lọc là phát hiện những người có khả năng mắc bệnh đái tháo đường cao. Sàng lọc được tiến hành đơn giản bằng đo mức glucose huyết tương tĩnh mạch ở thời điểm bất kỳ. Mức glucose huyết tương lúc đói kết hợp test dung nạp glucose bằng đường uống có độ nhạy, độ đặc hiệu và giá trị dự báo dương tính cao hơn nhưng đòi hỏi sự tổ chức khám sàng lọc công phu hơn. Hemoglobin glycosyl hóa không được khuyến cáo bởi WHO và ADA như một tiêu chuẩn chẩn đoán. HbA1c là một chỉ số để đánh giá tình trạng quản lý glucose máu tốt hay kém. Ó những người cao tuổi hơn, một số yếu tố khác ngoài nồng độ glucose huyết tương thường gặp có thể làm thay đổi mức hemoglobin glycosyl hóa.

  • Phân tích kết quả sàng lọc và theo dõi:

Mức glucose huyết tương tĩnh mạch tại thời điểm bất kỳ dưới 11,1mmol/l được xem là bình thường. Nếu glucose huyết tương tĩnh mạch lúc đói < 5,5mmol/l, ít có khả năng đái tháo đường (WHO 1985), nhưng khám sàng lọc buộc phải được chỉ định sau một năm, với điều kiện không có nguy cơ cao nào xuất hiện trong thời gian này. Nếu có các yếu tố nguy cơ xuất hiện, người bệnh cần được đo mức glucose huyết tương tĩnh mạch lúc đói, thậm chí làm nghiệm pháp tăng glucose máu.

Nếu mẫu glucose huyết tương tĩnh mạch ở thời điểm bất kỳ > 11,1mmol/l, thì xét nghiệm glucose huyết tương tĩnh mạch lúc đói phải được chỉ định. Trong trường hợp nếu lấy 2 mẫu bất kỳ mà lượng glucose huyết tương vẫn trên 11,1 mmol/l thì chẩn đoán đái tháo đường được xác định mà không cần xét nghiệm glucose máu lúc đói nữa.

5.2. Xác định chẩn đoán bằng test dung nạp glucose uống

  • Tiến hành test:

Trước khi thử test, người bệnh vẫn được đi lại và không có bất kỳ hạn chế hoạt động thể lực bình thường nào. Chế độ ăn không hạn chế (trên 150 g carbohydrat/ngày) trong 3 ngày. Nếu có thể, các loại thuốc cần được ngừng 3 ngày trước khi thử test. Test được tiến hành buổi sáng sau nhịn đói (trừ nước uống) 8-14 giò. Trong thời gian thử test người bệnh có thể ngồi, nhưng không được hút thuốc. Glucose huyết tương tĩnh mạch được đo ngay tại thồi điểm trước uống đường và 2 giờ sau đó.

  • Chống chỉ định với test:

Cần tránh làm test trong những trường hợp sau:

– Nếu chẩn đoán đái tháo đường đã được xác định bởi tăng rõ ràng glucose máu tĩnh mạch và các triệu chứng kinh điển của tăng glucose máu, hoặc 2 mẫu glucose huyết tương tĩnh mạch lúc đói > 7,0 mmol/l. Thực hiện test dung nạp glucose bằng đường uống có thể có hại vì gây tăng glucose máu. Hơn nữa test cũng không cung cấp thêm thông tin gì có giá trị.

– 0 những người bệnh đang chịu các stress cấp tính nội hoặc ngoại khoa vì nó có thể dẫn đến kết quả dương tính giả. Test dung nạp glucose đường uống cần được trì hoãn vài tháng sau khỏi bệnh.

– ở những người suy dinh dưỡng mạn tính.

– Ở những người nằm liệt giường từ 3 ngày trở lên.

  • Phân tích kết quả test (bảng 8.2):

Bảng 8.2. Bảng phân loại đánh giá test dung nạp glucose.

Phân loại Lúc đói Test dung nạp glucose
Bình thường

IFG

IGT

Đái tháo đường Đái tháo đường

<   6,0 mmol/l 5,6 – 6,9 mmol/l

<  7,0 mmol/l

<  7,0 mmol/l > 7,0 mmol/l.

<  7,8 mmol/l

<  7,8 mmol/l

7,8 – 11,0 mmol/l 11,1 mmol/l >11,1 mmol/l

Những ý kiến khác nhau về test dung nạp glucose đường uống ở người cao tuổi:

Lợi ích của test này là giành cho những người cao tuổi đang bị nghi ngờ có khả năng mắc bệnh. Nhưng ở người cao tuổi, phần lớn (75%) người được chẩn đoán là IGT không bao giờ tiến triển đến đái tháo đường. Nhiều người được chẩn đoán là đái tháo đường bằng test này không bao giờ tiến triển đến tăng glucose máu lúc đói hoặc đái tháo đường có triệu chứng lâm sàng. Ngoài ra, ngay cả khi test được tiến hành lặp lại trên cùng một đối tượng trong những điều kiện chuẩn hóa, cũng có thể cho những kết quả khác nhau. Như vậy, độ ổn định của test không cao. Đây là lý do test ít được chỉ định trong thực hành lâm sàng. Khuyến cáo của ADA về sử dụng tiêu chuẩn glucose máu lúc đói mà không thực hiện test này trong chẩn đoán lâm sàng là đặc biệt hợp lý ở nhóm người cao tuổi.

Một nguyên nhân khác của sự giới hạn của việc sử dụng test dung nạp glucose bằng đường uống là vì có một số nghiên cứu đã chứng minh khả năng mất dung nạp glucose là hiện tượng sinh lý ở người cao tuổi. Sự suy giảm dung nạp glucose bắt đầu vào thập niên thứ 3 và tiếp tục tăng lên trong suốt thời gian sống còn lại của cuộc đời. Nó được đặc trưng bởi tăng vừa phải glucose máu 1 giờ và 2 giờ sau ăn. Sau uống 100 gram glucose có tăng nồng độ glucose huyết tương tĩnh mạch được động mạch hóa trong thời gian từ phút 60 đến 180. Người ta cũng tính được số thêm là từ 0,7 đến 0,8 mmol/l/thập niên. Một sự gia tăng nhỏ về nồng độ glucose lúc đói đã được chứng minh ở một số (nhưng không phải ở tất cả) các nghiên cứu.

Cơ chế bệnh sinh của rối loạn dung nạp glucose ở người cao tuổi là đa yếu tố, liên quan đến rối loạn bài tiết insulin được kích thích bởi glucose, sự chậm chễ và kéo dài quá trình ức chế sản xuất glucose ở gan qua trung gian insulin, kéo dài quá trình thu nhận glucose ở ngoại vi. Tầm quan trọng tương đối của các yếu tố như giảm hoạt động thể lực, thay đổi chế độ ăn, giảm khối lượng cơ và béo phì còn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Khi so sánh các bất thường chuyển hóa trong quá trình lão hóa, béo phì và đái tháo đường typ 2, có ý kiến cho rằng đái tháo đường typ 2 và rối loạn dung nạp glucose của sự lão hóa cần được xem là những chủ thể riêng biệt.

Cũng có những bằng chứng ở các khía cạnh khác, chứng minh việc tăng glucose máu của tuổi già có thể thực sự là bệnh lý. Trong nhiều, tuy không phải là tất cả các nghiên cứu, tỷ lệ phần trăm của hemoglobin glycosyl hóa tăng lên theo tuổi ở những người không mắc đái tháo đường thậm chí khi không có rối loạn glucose lúc đói cũng đã được ghi nhận. Điều này chứng minh rằng ít nhất có tăng glycosyl hóa hemoglobin ở những người này. Những phát hiện các sản phẩm của sự glycosyl hóa quá mức tích luỹ trong một số mô tăng lên cùng với tuổi cao trong đái tháo đường có thể giúp giải thích sự kém dung nạp glucose, của sự lão hóa cũng dẫn đến các biến chứng xơ vữa mạch máu lớn của đái tháo đường như thế nào.

Có thể kết luận rằng, phần lớn các trường hợp đái tháo đường được chẩn đoán dễ dàng mà không cần test dung nạp glucose đường uống, ở một số trường hợp, khi các xét nghiệm không đủ tin cậy để chẩn đoán xác định đái tháo đường, test tăng glucose máu đường uống vẫn được chỉ định. Hiện nay, đây có thể là cách duy nhất đảm bảo độ tin cậy. ít nhất với chẩn đoán này cũng có lợi cho dự phòng và ngăn chặn các biến chứng.

Nguy cơ của một cá thể bị IFG hoặc IGT phát triển bệnh lý mạch máu lớn luôn tăng lên, không liên quan nhiều đến tuổi. Chẩn đoán IFG hoặc IGT ở người cao tuổi vì thế đòi hỏi sự can thiệp tích cực để cải thiện nguy cơ này. Hiện nay, không có các tiêu chuẩn điều chỉnh theo tuổi được chấp nhận chung cho chẩn đoán đái tháo đường, cho IFG hoặc IGT ở người cao tuổi. Các tiêu chuẩn chẩn đoán được mô tả ở trên được dùng cho tất cả đối tượng trừ đái tháo đường thai kỳ.

  • Có cần phải quy định tiến hành sàng lọc hàng năm về đái tháo đường ở người cao tuổi?

Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ các đối tượng có mức bất thường lúc sàng lọc không tăng lên sau 80 tuổi. Đồng thời có sự giảm liên tục sau tuổi 90. Tỷ lệ đái tháo đường theo tuổi đã được chẩn đoán có hình cao nguyên ở khoảng 10% sau tuổi 74. Nhưng tỷ lệ hiện mắc đái tháo đường được chẩn đoán hoặc không được chẩn đoán ở những người trên 80 tuổi đã được ước tính cao đến 40%. Như thế có thể có một số lượng lớn người cao tuổi có đái tháo đường không được chẩn đoán. Vì những lý do này người ta khuyên nên để người thày thuốc có quyết định cuối cùng sau khi đã thăm khám tỷ mỷ cho người bệnh.

6. Đánh giá người bệnh cao tuổi mắc đái tháo đường, rối loạn dung nạp glucose (IFG) và suy giảm dung nạp glucose lúc đói (IGT)

Phần lớn đái tháo đường mới được chẩn đoán ở lứa tuổi từ 65 trở lên là đái tháo đường typ 2. Một số trong số họ cần insulin để kiểm soát sau thời gian ngắn thử dùng chế độ ăn, luyện tập hoặc thuốc uống hạ glucose máu. Nhưng nên nhớ họ không phụ thuộc insulin để dự phòng nhiễm toan ceton hoặc duy trì sự sống. Tuy vậy, một người bệnh cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường lâu năm có thể mất khả năng bài tiết insulin và như thế trở thành phụ thuộc insulin. Trước khi bắt đầu điều trị IFG, IGT hoặc đái tháo đường, một sự đánh giá toàn diện cần được tiến hành, tập trung vào các yếu tố có thể ảnh hưởng đến kế hoạch quản lý.

Vào thời điểm chẩn đoán IFG, IGT hoặc đái tháo đường, người bệnh đã có tăng nguy cơ bệnh mạch máu lớn, thậm chí họ đã có mắc các bệnh mạch máu. Vì thế các yếu tố nguy cơ của xơ vữa động mạch cần được phát hiện như béo phì, rối loạn lipid máu, hút thuốc, tăng huyết áp và ít luyện tập. Tăng triglycerid và giảm HDL-C huyết tương thường gặp trong đái tháo đường typ 2. Những người này cần có sự đánh giá toàn diện và thận trọng trước khi quyết định phương pháp điều trị.

7. Quản lý người bệnh cao tuổi mắc rối loạn dung nạp glucose hoặc suy giảm dung nạp glucose lúc đói

7.1. Các mục tiêu của quản lý

Đối tượng cần được biết họ có nguy cơ phát triển bệnh đái tháo đường và các biến chứng mạch máu lớn của đái tháo đường. Các mục tiêu của quản lý cho các người bệnh này là bình thường hóa mức glucose máu và giảm thiểu tối đa các yếu tố nguy cơ của bệnh mạch máu lớn. Khi có những thay đổi các yếu tố nguy cơ liên quan đến béo phì, chế độ ăn và luyện tập được tiến hành, tình trạng dung nạp glucose của nhiều người trong số họ trở về bình thường.

7.2. Các chiến lược quản lý

  • Cân nặng, chế độ ăn và luyện tập

Những người bệnh béo phì cần nhằm đạt mục đích giảm cân bằng cách kết hợp chế độ ăn đúng đắn và chế độ luyện tập thường xuyên, đúng kỹ thuật. Giảm cân phải dần dần và không cần phải đạt cân nặng lý tưởng để cải thiện kiểm soát glucose máu. Người bệnh cần được khuyến khích dùng chế độ ăn cân bằng, hợp lý về dinh dưỡng giảm thu nhập các đường đơn và chất béo. Chất béo không bão hoà cần được thay thế bằng loại không bão hoà một hoặc nhiều nối đôi. Cho đến nay thành phần của chế độ ăn tôi ưu chưa được nghiên cứu trọn vẹn, một chế độ ăn bao gồm 15 – 20% tổng thu nhập năng lượng là protein, 25 – 30% là chất béo và 50 – 60% là carbohydrat, dưới 10% là đường đơn đang là khuyến cáo được chấp nhận và sử dụng phổ biến.

Ngoài ra chế độ ăn giảm natri được áp dụng cho những người có tăng huyết áp. Hạn chế rượu, đặc biệt đối với những người bị béo phì, với những đối tượng có rối loạn chuyển hóa lipid. Kế hoạch ăn uống cần đơn giản, linh hoạt và thích ứng với cách sống và sở thích của người bệnh. Cần tham khảo ý kiến các chuyên gia dinh dưỡng để đảm bảo chế độ ăn hợp lý, khoa học.

Luyện tập thường xuyên sẽ cải thiện cân nặng cơ thể, tình trạng lipid huyết tương, cải thiện tình trạng huyết áp, tăng độ nhạy cảm với insulin và dung nạp glucose của mô đích. Nó cũng giúp hình thành và giữ gìn một cơ thể cường tráng, tạo ra tình trạng cân bằng và cảm giác khoẻ mạnh. Trước khi bắt đầu luyện tập thường xuyên, người bệnh cần được bác sỹ đánh giá về tình trạng hệ tim mạch, hô hấp và cơ xương. Lý tưởng là luyện tập vừa phải cần được thực hiện ít nhất 20 phút mỗi lần, 3 hoặc 4 lần một tuần, nhưng thời lượng, tần số và sự tăng dần luyện

tập cần được tham khảo ý kiến của thày thuốc có kinh nghiệm để tránh những tổn thương có thể xảy ra.

  • Bệnh mạch máu lớn

Điều trị tăng huyết áp, rối loạn lipid máu và bỏ hút thuốc là điểu buộc phải làm trong dự phòng hoặc quản lý bệnh mạch máu lớn. Aspirin liều thấp được khuyến cáo sử dụng ở những đối tượng này, đặc biệt ở những người đã có bệnh mạch vành, trừ phi có những chống chỉ định.

Mức độ nặng của bệnh mạch máu ngoại vi cần được xác định bằng các biện pháp không xâm nhập như siêu âm doppler. Điện tim cần được làm ngay từ đầu cho tất cả người bệnh bị nghi ngờ hay đã biết có bệnh tim mạch. Bệnh tim thiếu máu cục bộ cần được điều trị tích cực vì nó là nguyên nhân tử vong chủ yếu ở người bệnh có bệnh mạch máu lớn. Mặc dù có các tác dụng bất lợi về chuyển hóa lipid máu, về kiếm soát glucose máu, thuốc chẹn beta giao cảm có vai trò khá tốt để ngăn ngừa và giảm tỷ lệ tử vong sau nhồi máu cơ tim.

  • Tăng huyết áp

Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ của bệnh mạch máu lớn. Hầu hết tăng huyết áp ở người bệnh có IFG, IGT hoặc đái tháo đường là tăng huyết áp không rõ nguyên nhân. Điều trị tăng huyết áp không rõ nguyên nhân ở người có tuổi, bao gồm huyết áp tâm trương hoặc tăng huyết áp tâm thu đơn độc, đã làm giảm rõ rệt tỷ lệ tử vong do đột qụy và tim mạch. Kết quả này làm cho người ta vững tin khi áp dụng cho những người cao tuổi bị IGT, IFG hoặc đái tháo đường.

Điều trị trước tiên là bằng biện pháp không dùng thuốc. Áp dụng chế độ ăn, luyện tập, phấn đấu giảm cân nặng, bỏ hút thuốc, hạn chế uống rượu và hạn chế vừa phải lượng natri qua đường ăn, uống. Vấn đề sử dụng thuốc cần được xem xét nghiêm túc, nếu huyết áp vẫn > 140/90 mmHg.

Không có thuốc hạ áp đặc biệt nào bị chống chỉ định ở người bệnh cao tuổi bị IGT, IFG hoặc đái tháo đường. Tuy nhiên, các tác dụng phụ của các thuốc hạ huyết áp khác nhau lại cần được cân nhắc khi chỉ định – như hạ kali máu với thuốc lợi tiểu, lipid máu bất lợi với các thuốc nhóm thiazid và chẹn beta giao cảm, hạ huyết áp tư thế với chẹn alpha giao cảm, các chất ức chế giao cảm trung ương và các chất giãn mạch – cần luôn được xem xét khi lựa chọn thuốc làm hạ huyết áp.

  • Rối loạn lipid máu

Là một yếu tố nguy cơ chủ yếu của bệnh mạch máu lớn. Hạn chế acid béo bão hoà trong thức ăn và thay thế bằng các acid béo không bão hoà một hoặc nhiều nối đôi là biện pháp điều trị được ưu tiên hàng đầu để giảm mức cholesterol và triglycerid huyết. Biện pháp này có thể có hiệu quả thậm chí khi tình trạng cân nặng không được cải thiện. Luyện tập thường xuyên, giảm cân ở những người thừa cân cũng sẽ cải thiện tình trạng lipid huyết. Nếu điều trị không dùng thuốc không hiệu quả, các thuốc hạ lipid máu cần được xem xét. Gemfibrozil và các chất ức chế HMG CoA reductase là các thuốc hàng đầu ở những người bệnh cao tuổi có IGT, IFG hoặc đái tháo đường. Gemfibrozil chủ yếu làm giảm triglycerid lúc đói và tăng HDL-C, trong khi các chất ức chế HMG-CoA reductase chủ yếu làm giảm LDL-C. Tuy nhiên gần đây người ta đã có những thay đổi về chiến lược điều trị, như làm tăng lượng HDL-C.

8. Quản lý người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường

8.1. Các mục tiêu quản lý

Các mục tiêu của quản lý là kiểm soát mức độ và các triệu chứng của tăng glucose máu mà không gây những sự dao động lớn về glucose hoặc hạ glucose máu, để dự phòng hoặc làm chậm các biến chứng của bệnh, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.

8.2. Các chiến lược quản lý

  • Các mục tiêu về glucose:

Hạ glucose máu thường gặp hơn và gây tác hại nhiều hơn ở những người bệnh đái tháo đường cao tuổi. Các tiêu chuẩn của WHO về kiểm soát glucose lý tưởng ở người bệnh đái tháo đường nói chung (glucose huyết tương tĩnh mạch < 5,5mmol/l lúc đói và < 7,8 mmol/l vào thời điểm 2 giờ sau ăn là quá chặt đối với nhiều người cao tuổi. Glucose huyết tương tĩnh mạch lúc đói < 7,8 mmol/l và <11,1 mmol/l vào thời điểm 2 giờ sau ăn là thích hợp cho hầu hết những người ở nhóm tuổi này. ở những người bệnh dùng insulin, mức glucose máu sau ăn phải cao hơn, có khi đến 15 mmol/l, vẫn có thể được chấp nhận.

  • Cân nặng, chế độ ăn và luyện tập:

Người ta đã viết nhiều về kiểm soát glucose máu ở người bệnh đái tháo đường cao tuổi. Điều trị hàng đầu và căn bản để kiếm soát glucose máu là chế độ ăn. Nhiều người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường typ 2 đáp ứng tốt chỉ với chế độ ăn và luyện tập mà không cần dùng thuốc.

Giảm cân dần dần và vừa phải là mục tiêu cho điều trị ở những người bệnh đái tháo đường có thừa cân hoặc béo phì. Các nguyên tắc chung của chế độ ăn phù hợp giống như được mô tả đổi với người có giảm dung nạp glucose. cần chú ý đến sự phân bố đều lượng carbohydrat trong suôt cả ngày, nhất là khi có luyện tập; đặc biệt hơn nêu có dùng các thuốc uống hoặc insulin để làm hạ glucose máu.

Tất cả người mắc bệnh đái tháo đường cần theo đuổi một chương trình luyện tập thường xuyên thích hợp với khả năng vận động và tình trạng cơ thể. Luyện tập ở người giảm dung nạp glucose cũng giống như những người được chẩn đoán đái tháo đường. Bất kỳ bệnh tim thiếu máu cục bộ hoặc bệnh võng mạc tăng sinh nào cũng phải được khám và đánh giá chu đáo trước khi lập kế hoạch và chương trình luyện tập. Sự ổn định của glucose máu cần phải đạt được trước khi bắt đầu chương trình. Cần chú ý dự phòng các vấn đề của bàn chân liên quan đến bệnh thần kinh, bệnh mạch máu hoặc các biến dạng xương, cần lựa chọn giày dép thích hợp cho luyện tập.

  • Các thuốc hạ glucose máu:

Nếu tăng glucose máu có triệu chứng lâm sàng và mức glucose máu cao tồn tại dai dẳng, mặc dù đã tuân thủ chế độ ăn và chương trình luyện tập, thì khả năng điều trị bằng thuốc cần được xem xét. Các sulíbnylurea là các thuốc hàng đầu ở những người bệnh không béo. Các sulfonylurea tác dụng ngắn (Glicazide) được ưa dùng vì người bệnh cao tuổi dễ bị hạ glucose máu. Tổn thương thận và gan, nếu có, làm tăng nguy cơ hạ glucose máu. Thuốc cần được bắt đầu bằng liều thấp và tăng dần nếu lượng glucose máu không duy trì được ở mức cho phép. Với những người mắc bệnh thừa cân, béo phì, metformin thường là thuốc uống hạ glucose máu hàng đầu, hoặc bổ sung vào sulfonylurea để hỗ trợ nhằm làm giảm cân nặng. Metformin bị chống chỉ định khi có tổn thương tim, thận hoặc gan vì nguy cơ nhiễm toan lactic. Các chất ức chế a-glucosidase có đặc điểm an toàn; chúng có thể được sử dụng như thuốc hàng đầu, đơn độc hoặc kết hợp với sulfonylurea hoặc metformin. Để giảm tối thiểu tác dụng phụ ở đường tiêu hóa, metformin và các chất ức chế a-glucosidase cần được bắt đầu bằng liều thấp và tăng liều dần dần.

Một số thuốc mới đã gần đây được đưa vào sử dụng trong lâm sàng. Một số có ít nguy cơ hạ glucose máu hơn, và có thể cuối cùng đã được chứng minh là đặc biệt có ích ở người bệnh cao tuổi. Các chất kích thích bài tiết insulin như repaglinide có thể thích hợp hơn sulfonylurea đối với những người bệnh cao tuổi vì bắt đầu tác dụng nhanh và thời gian kéo dài tác dụng ngắn, do đó làm giảm nguy cơ hạ glucose máu. Các thiazolidinedion làm tăng nhạy cảm với insulin. Các thiazolidinedion với ít tác dụng không mong muôn có thể trở thành các thuốc có lợi cho người bệnh đái tháo đường có tuổi trong tương lai.

Insulin:

Nếu chế độ ăn, luyện tập và thuốc uống hạ glucose máu không có hiệu quả trong việc kiểm soát glucose máu hoặc người bệnh mắc các bệnh cấp tính khác kèm theo thì việc sử dụng insulin (đơn độc hoặc kết hợp) là cần thiết.

Tuy nhiên, insulin có nguy cơ cao gây hạ glucose máu; vì thế chỉ được sử dụng khi cần thiết tuyệt đối và ở liều thấp nhất có hiệu quả để giữ glucose máu ở mức chấp nhận được. Sự lựa chọn chế độ insulin phụ thuộc vào nhu cầu của mỗi người bệnh và cần được xem xét thận trọng.

  • Tự theo dõi, kiểm soát glucose máu và ceton niệu tại nhà:

Theo dõi glucose máu tại nhà bằng máy đo glucose máu cá nhân là cần thiết ở bất kỳ người bệnh nào dùng insulin, cũng sẽ rất có ích cho người bệnh sử dụng các thuốc uống hạ glucose máu. Tần suất theo dõi phụ thuộc vào tính ổn định của glucose máu và phương pháp tiêm insulin. Theo dõi glucose máu tại nhà có thể là khó khăn đối với người bệnh cao tuổi, có vấn đề về thị lực, sự khéo tay và nhất là có những khó khăn về tài chính. Kiểm tra đường niệu bằng que thử nước tiểu không có ích vì nó bị ảnh hưởng bởi ngưỡng của thận với glucose có thể bị tăng lên. Kiểm tra ceton niệu cần phải làm khi glucose máu tăng dai dẳng trên 16,0 mmol/l và trong khi người bệnh bị mắc các bệnh cấp hoặc mạn tính khác.

  • Bệnh mạch máu lớn:

Bệnh mạch máu lớn chiếm phần lớn các nguyên nhân gây tử vong ở người bệnh đái tháo đường. Làm giảm tất cả các nguy cơ của xơ vữa động mạch là mục tiêu tối quan trọng trong quản lý người bệnh đái tháo đường. Các nguyên tắc của quản lý các bệnh đồng hành như rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, bệnh tim thiếu máu cục bộ, bệnh mạch máu não và mạch máu ngoại vi cần được áp dụng chặt chẽ như với kiểm soát glucose máu.

  • Tăng huyết áp:

Là một nguy cơ của bệnh mạch máu lớn và bệnh thận ở người bệnh đái tháo đường. Giảm cân, hoạt động thể lực thường xuyên, giảm uống rượu và giảm ăn muối là những khâu quan trọng của quản lý tăng huyết áp, kể cả khi đã dùng thuốc hạ huyết áp. Các chất ức chế men chuyển và chẹn kênh calci được xem là các thuốc hàng đầu cho điều trị tăng huyết áp ở người bệnh đái tháo đường. Các chất ức chế men chuyển có vai trò quan trọng trong việc làm chậm sự hư hại chức năng thận trong đái tháo đường. Sau đó là các chất đối kháng thụ thể angiotensin có thể được sử dụng, các lợi tiểu thiazid và các chất chẹn beta giao cảm.

Mối lo ngại về các tác dụng của thiazid và chẹn beta giao cảm ảnh hưởng đến mức glucose máu và lipid máu là không đáng kể khi các thuốc này được sử dụng riêng rẽ, nhưng sẽ có ảnh hưởng đáng kể nếu chúng được sử dụng kết hợp. Các chẹn beta giao cảm có thể làm mờ các triệu chứng giao cảm của hạ glucose máu cũng như làm chậm quá trình phục hồi, đặc biệt ở những người bệnh được điều trị bằng insulin. Ở những người có bệnh thận đái tháo đường, các thuốc lợi tiểu thường được dùng để kiểm soát huyết áp phải được theo dõi chặt chẽ về điện giải. Các phản xạ tự vệ của tim mạch cũng bị giảm đi theo lứa tuổi.

Điều quan trọng và cần thận trọng là tránh giảm quá mức huyết áp khi bắt đầu điều trị cho những người bệnh trong nhóm tuổi này. Mục tiêu là duy trì huyết áp ở mức 130/85 mmHg, con số huyết áp này được áp dụng chung cho người bệnh đái tháo đường, nhưng có thể cần được thay đổi cho phù hợp với từng cá thể, để tránh hạ huyết áp tư thế.

  • Rối loạn lipid, máu:

Tỷ lệ hiện mắc rối loạn lipid máu tăng lên ít nhất 2 lần ở người bệnh đái tháo đường typ 2. Các rối loạn này liên quan đến tất cả các thành phần lipoprotein. Chế độ ăn, luyện tập, giảm cân nặng và kiểm soát tốt nồng độ glucose máu sẽ cải thiện được tình trạng rối loạn, nhưng hiếm khi sửa chữa được hoàn toàn các rối loạn lipid máu ở người bệnh đái tháo đường typ 2. Nếu sau 2-3 tháng can thiệp bằng các biện pháp không dùng thuốc, mà cholesterol toàn phần vẫn còn trên 4,5 mmol/l và LDL-C trên 2,5 mmol/l tương ứng, thì buộc phải can thiệp bằng thuốc. Cũng như với người mắc IFG hoặc IGT, các chất ức chế HMG-CoA reductase và gemfibrozil là những thuốc lựa chọn ưu tiên cho người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường.

  • Bệnh tim thiếu máu cục bộ:

Bệnh tim thiếu máu cục bộ là nguvên nhân gây tử vong chủ yếu trong đái tháo đường. Xơ vữa động mạch tiến triển với tốc độ nhanh và nặng nề hơn ở những người bệnh đái tháo đường cao tuổi. Thiêu máu hoặc nhồi máu cơ tim thường không có đau và tiến triển không điển hình về biểu hiện lâm sàng ở những người bệnh này. Suy tim sau nhồi máu cơ tim thường gặp hơn và tỷ lệ sống sót thấp hơn người không bị đái tháo đường.

  • Giáo dục người bệnh:

Giáo dục là một khâu quan trọng trong quản lý người cao tuổi bị đái tháo đường. Nội dung của các chương trình giáo dục về bệnh đái tháo đường cần thích nghi với người cao tuổi, với các mức độ khác nhau. Ngoài ra còn cần phải nghiên cứu người bệnh có mắc các bệnh đồng hành khác nhau hay không. Để mục tiêu điều trị đạt được kết quả tối ưu, việc lôi cuốn gia đình, người thân, những người trực tiếp chăm sóc người bệnh vào cuộc là cần thiết và phải được khuyến khích.

  • Quản lý chung:

Quản lý người bệnh đái tháo đường cao tuổi đặt ra những thách thức đặc biệt. Người đái tháo đường cao tuổi thường có nhiều bệnh đồng hành cần được phát hiện và ưu tiên điều trị theo từng giai đoạn biểu hiện bệnh lý.

Nguồn tài chính hạn hẹp và tâm lý chán nản, rối loạn nhận thức và trầm cảm thường tạo ra những rào cản đối với biện pháp quản lý có hiệu quả. Vì thế việc phổ biến kiến thức về bệnh, về các yếu tố nguy cơ cho người bệnh, cho nhóm người có khả năng mắc bệnh là cần thiết và cấp bách. Cũng phải giáo dục chế độ dùng thuốc, cách lựa chọn những loại thuốc đang có bán trên thị trường. Hướng dẫn cách tự theo dõi, tự xử lý những cấp cứu ban đầu là nhiệm vụ bắt buộc của thày thuốc với người bệnh.

9. Sàng lọc các biến chứng của bệnh đái tháo đường

Khi phải vào nhập viện người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường đã có các biến chứng đái tháo đường mạn tính, nhưng lại không có các triệu chứng chỉ điểm. Những biến chứng này cần được sàng lọc có hệ thống bằng khai thác tiền sử, khám và xét nghiệm lâm sàng thích hợp.

Các biến chứng về hệ thống thần kinh cảm giác, vận động và thần kinh tự chủ cần được xác định vào thời điểm chẩn đoán đái tháo đường và được đánh giá lại ít nhất 6 tháng 1 lần. Các bệnh thần kinh khác cần được loại trừ trước khi chẩn đoán bệnh thần kinh đái tháo đường. Người bệnh cần được thông báo rằng bệnh thần kinh đái tháo đường có thể được cải thiện chậm hơn ngay cả khi tình trạng kiểm soát glucose máu được cải thiện.

Tất cả những người bệnh đái tháo đường cao tuổi cần được khám lại ít nhất 6 tháng một lần về bệnh lý mắt và đáy mắt, ít nhất một năm một lần soi đáy mắt có thuốc giãn đồng tử. Sự phát hiện bất kỳ bệnh võng mạc, đục thuỷ tinh thể hoặc bất thường về mắt nào đều phải gửi đến bác sỹ chuyên khoa mắt. Bệnh võng mạc sớm có thể được phục hồi nhờ cải thiện kiểm soát chuyển hóa hoặc làm ngừng lại bằng điều trị laser.

Chức năng thận phải được theo dõi hàng năm bằng các chỉ số microalbumin niệu và creatinin huyết tương. Phân tích nước tiểu phải được kiểm tra thường xuyên để phát hiện nhiễm trùng đường tiêt niệu. Kiểm soát chặt huyết áp là biện pháp quan trọng để dự phòng bệnh thận đái tháo đường.

Bệnh lý bàn chân cần được khám tỷ mỷ mỗi lần người bệnh đến khám bệnh. Các vết loét và nhiễm trùng, các tổn thương sớm cần đưa vào chương trình giáo dục và quản lý chăm sóc bàn chân.

Lưu ý các yếu tố nguy cơ ở người cao tuổi:

– Béo phì, khi BMI > 25 (người Việt Nam BMI > 23), hoặc cân nặng lý tưởng trên 115%.

– Béo bụng, vòng eo > 95 cm ở nữ và > 100 cm ở nam giới.

– Tiền sử gia đình có người thuộc thế hệ thân cận (liên quan trực tiếp) bị mắc bệnh đái tháo đường typ 2.

– Thiếu máu cơ tim.

– Tăng huyết áp.

– Bị bệnh lý mạch máu lớn khác như bệnh mạch máu ngoại vi, mạch máu não.

– Rối loạn chuyển hóa lipid.

– Tiền sử có giảm dung nạp glucose.

– Tiền sử sản khoa đặc biệt hoặc sinh con nặng trên 4,0 kg đối với phụ nữ (Việt Nam là 3600 gam).

– Nhóm dân tộc đặc biệt, ví dụ người gốc châu Á, người Arập… đến sống ở các quốc gia phát triển.

– Sử dụng thuốc có khả năng ảnh hưởng đến bệnh đái tháo đường như corticoid, estrogen, thiazid, chẹn beta giao cảm, phenytoin.

Phục hồi chức năng hô hấp, chăm sóc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

  1. Đại cương

Phục hồi chức năng hô hấp giúp làm giảm triệu chứng khó thở, cải thiện chất lượng cuộc sống, tăng khả năng gắng sức, giúp ổn định hoặc cải thiện bệnh, giảm số đợt kịch phát phải nhập viện điều trị, giảm số ngày nằm viện, tiết kiệm chi phí điều trị.

Phục hồi chức năng hô hấp bao gồm 3 nội dung chính:

  • Giáo dục sức khỏe: người bệnh được tư vấn cai thuốc lá, kiến thức về bệnh, hướng dẫn sử dụng thuốc, thở oxy đúng cách, kỹ năng dùng ống bơm xịt, bình hít hay máy khí dung, các phương pháp ho khạc đờm, tập thở. Bên cạnh đó, bệnh nhân cũng được tư vấn để có chế độ dinh dưỡng hợp lý nhằm cải thiện tình trạng gầy yếu, sút cân, suy dinh dưỡng thường đi kèm với bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT, COPD).
  • Vật lý trị liệu hô hấp: bệnh nhân được hướng dẫn và thực hành các kỹ thuật cải thiện thông khí, ho khạc đờm, học các bài tập thể dục và vận động để tăng cường thể chất và khắc phục hậu quả căn bện Các bài tập cần được thiết kế phù hợp với mỗi bệnh nhân.
  • Hỗ trợ tâm lý và tái hòa nhập xã hội: Rối loạn tâm thần kiểu trầm cảm thường đi kèm với BPTN Nếu bệnh nhân được tư vấn và hỗ trợ tâm lý sẽ cải thiện được tình trạng này.

Trong phạm vi bài này, chúng tôi đề cập đến nội dung vật lý trị liệu hô hấp cho bệnh nhân BPTNMT.

  1. Vật lý trị liệu – phục hồi chức năng hô hấp

Phương pháp thông đờm làm sạch đường thở

  • Mục đích: giúp bệnh nhân biết cách loại bỏ đờm, dịch tiết phế quản làm cho đường thở thông thoáng.
  • Chỉ định: bệnh nhân có nhiều đờm gây cản trở hô hấp hoặc gặp khó khăn khi  khạc  đờm.

Phương pháp này bao gồm 2 kỹ thuật chính:

Ho kiểm soát

  • Ho thông thường: là một phản xạ bảo vệ của cơ thể nhằm tống những vật lạ ra ngoài.
  • Để thay thế những cơn ho thông thường dễ gây mệt, khó thở, cần hướng dẫn bệnh nhân sử dụng kỹ thuật ho có kiểm soát:
  • Ho có kiểm soát là động tác ho hữu ích giúp tống đờm ra ngoài, làm sạch đường thở và không làm cho người bệnh mệt, khó thở.
  • Mục đích của ho có kiểm soát không phải để tránh ho mà lợi dụng động tác ho để làm sạch đường thở.
  • ở bệnh nhân BPTNMT cần có một luồng khí đủ mạnh tích lũy phía sau chỗ ứ đọng đờm để đẩy đờm di chuyển ra ngoài

Kỹ thuật ho có kiểm soát.

  • Bước 1: Ngồi trên giường hoặc ghế thư giãn, thoải mái.
  • Bước 2: Hít vào chậm và thật sâu
  • Bước 3: Nín thở trong vài giây.
  • Bước 4: Ho mạnh 2 lần, lần đầu để long đờm, lần sau để đẩy đờm ra ngoài
  • Bước 5: Hít vào chậm và nhẹ nhàng. Thở chúm môi vài lần trước khi lặp lại động tác

Lưu ý:

  • Khạc đờm vào lọ để xét nghiệm hoặc khạc vào khăn giấy, sau đó bỏ vào thùng rác tránh lây nhiễm.
  • Khi có cảm giác muốn ho, đừng cố gắng nín ho mà nên thực hiện kỹ thuật ho có kiểm soát để giúp tống đờm ra ngoà
  • Tùy lực ho và sự thành thạo kỹ thuật của mỗi người, có khi phải lặp lại vài lần mới đẩy được đờm ra ngoà
  • Một số người bệnh có lực ho yếu có thể thay thế bằng kỹ thuật thở ra mạnh

K thut thở ra mạnh

Nhằm thay thế động tác ho có kiểm soát trong những trường hợp người bệnh yếu mệt, không đủ lực để ho.

Kỹ thuật thở ra mạnh.

  • Bước 1: Hít vào chậm và sâu
  • Bước 2: Nín thở trong vài giây.
  • Bước 3: Thở ra mạnh và kéo dài
  • Bước 4: Hít vào nhẹ nhàng. Hít thở đều vài lần trước khi lập lại.

Lưu ý: Để hỗ trợ thông đờm có hiệu quả cần phải.

  • Uống đủ nước hàng ngày, trung bình từ 1 lít 1,5 lít nước, nhất là những bệnh nhân có thở oxy, hoặc trong điều kiện thời tiết nóng bức.
  • Chỉ nên dùng các loại thuốc long đờm, loãng đờm, không nên dùng các thuốc có tác dụng ức chế ho.
  • Bảo tồn và duy trì chức năng hô hấp
    • Mục đích:
  • Hướng dẫn các bài tập thở để khắc phục sự ứ khí trong phổi.
  • Hướng dẫn các biện pháp đối phó với tình trạng khó thở.
    • ở bệnh nhân COPD nhất là ở nhóm viêm phế quản mạn, thường có tình trạng tắc nghẽn các đường đẫn khí do đờm nhớt hay viêm nhiễm phù nề gây hẹp lòng phế quản. Còn ở nhóm khí phế thũng, các phế nang thường bị phá hủy, mất tính đàn hồi. Dẫn đến hậu quả không khí thường bị ứ đọng trong phổi, gây thiếu oxy cho nhu cầu cơ thể. Các bài tập thở là các kỹ thuật nhằm khắc phục tình trạng ứ khí trong phổi và tăng cường cử động hô hấp của lồng ngực.
    • Bài tp thở chúm môi
      • Khí bị nhốt trong phổi làm cho người bệnh khó thở; đẩy được lượng khí cặn ứ đọng trong phổi ra ngoài mới có thể hít được không khí trong lành
      • Thở chúm môi là phương pháp giúp cho đường thở không bị xẹp lại khi thở ra nên khí thoát ra ngoài dễ dàng hơn.

Kỹ thuật thở chúm môi.

  • Tư thế ngồi thoải mái.
  • Thả lỏng cổ và
  • Hít vào chậm qua mũi.
  • Môi chúm lại như đang huýt sáo, thở ra bằng miệng chậm sao cho thời gian thở ra gấp đôi thời gian hít vào.

Lưu ý:

  • Nên lặp lại động tác thở chúm môi nhiều lần cho đến khi hết khó thở.
  • Tập đi tập lại nhiều lần sao cho thật nhuần nhuyễn và trở thành thói quen.
  • Nên dùng kỹ thuật thở chúm môi bất cứ lúc nào cảm thấy khó thở, như khi leo cầu thang, tắm rửa, tập thể dục
    • Bài tp thở hoành

Các lý do cần tập thở hoành cho bệnh nhân có BPTNMT:

  • Do tình trạng ứ khí trong phổi nên lồng ngực bị căng phồng làm hạn chế hoạt động của cơ hoành.
  • Cơ hoành là cơ hô hấp chính, nếu hoạt động kém sẽ làm thông khí ở phổi kém và các cơ hô hấp phụ phải tăng cường hoạt động.
  • Tập thở cơ hoành sẽ giúp tăng cường hiệu quả của động tác hô hấp và tiết kiệm năng lượng

Kỹ thuật thở hoành.

  • Ngồi ở tư thế thoải mái. Thả lỏng cổ và vai.
  • Đặt 1 bàn tay lên bụng và đặt bàn tay còn lại lên ngực
  • Hít vào chậm qua mũi sao cho bàn tay trên bụng có cảm giác bụng phình lên. Lồng ngực không di chuyển.
  • Hóp bụng lại và thở ra chậm qua miệng với thời gian thở ra gấp đôi thời gian hít vào và bàn tay trên bụng có cảm giác bụng lõm xuống.

Lưu ý:

  • Nên tập thở cơ hoành nhiều lần trong ngày cho đến  khi trở thành thói  quen.
  • Sau khi đã nhuần nhuyễn kỹ thuật thở cơ hoành ở tư thế nằm hoặc ngồi, nên tập thở cơ hoành khi đứng, khi đi bộ và cả khi làm việc nhà.

Các bin pháp đối phó với cơn khó thở

  • Chọn các tư thế đứng hoặc ngồi sao cho phần thân trên từ hông trở lên hơi cúi về phía trước. Có thể tìm các điểm tựa như tường, mặt bàn, bệ gạch,… tư thế này giúp cơ hoành di chuyển dễ dàng hơn.
  • Luôn kết hợp với thở chúm môi.
  • ở tư thế ngồi, tay nên đặt ở tư thế sao cho khuỷu tay hoặc bàn tay chống lên đầu gối hay đầu tựa vào cẳng tay. ở tư thế này, các hoạt động của các cơ hô hấp ở lồng ngực hỗ trợ tốt nhất để làm nở phổi.

Cơn khó thở v đêm

Nếu bệnh nhân có cơn khó thở về đêm, thường phải thức giấc vì khó thở cần lưu ý:

Trước khi ngủ:

  • Dùng thuốc giãn phế quản loại tác dụng kéo dài.
  • Dùng nhiều gối để kê đầu cao khi ngủ.
  • Đặt thuốc bơm xịt loại để cắt cơn ngay cạnh giường, trong tầm tay. Khi thức giấc vì khó thở:
  • Ngồi ở cạnh mép giường với tư thế hơi cúi người ra phía trước, khuỷu tay chống gối.
  • Thở chúm môi chậm rãi và điềm tĩnh cho đến khi hết khó thở.
  • Tập thể dục và luyện tập

Xây dựng chương trình luyn tp

Thể dục và vận động liệu pháp là một phương pháp giúp tăng cường sức khỏe và tuổi thọ. Trong BPTNMT, thể dục và vận động liệu pháp giúp bệnh nhân kiểm soát bệnh tật tốt hơn, dễ thích nghi với bệnh tật và mang lại niềm vui sống cho bệnh nhân.

  • Tập thể dục giúp cho khí huyết lưu thông, cơ bắp mạnh khỏe hơn, cơ hô hấp mạnh hơn.
  • Các bài tập được xây dựng phù hợp với khả năng và thể lực của từng người và được tăng dần cường độ để đạt được hiệu quả cần thiết.
  • Các động tác đơn giản, từ nhẹ đến nặng, khi bệnh nhân cảm thấy khó thở thì dừng lại.
  • Các bài tp vn động

Bài tập vận động tay

  • Bệnh nhân được hướng dẫn các bài tập vận động tay để tăng cường sức cơ chi trên, cơ hô hấp
  • Các bắp cơ vai, ngực và cánh tay khỏe mạnh sẽ hỗ trợ tốt cho động tác hô hấp và những động tác thường ngày như nấu ăn, quét dọn, vệ sinh cá nhân.
  • Các loại hình vận động tay thường dùng: nâng tạ, máy tập chi trên đa năn Bài tập vận động chân.
  • Giúp cho các bắp cơ ở chân rắn chắc hơn, bên cạnh đó còn giữ vai trò rất quan trọng trong việc cải thiện chức năng tim – phổi, giúp cho cơ thể có được sức bền cần thiết, dẻo dai và người bệnh sẽ lâu mệt hơn khi phải gắng sức.
  • Bài tập vận động chân còn giúp cho người bệnh đi lại tốt hơn, đem lại sự năng động và tự tin cho bệnh nhân và không lệ thuộc vào người khác.
  • Bài tập được xây dựng phù hợp với khả năng và thể lực của từng người và được tăng dần cường độ để đạt được hiệu quả cần thiết.
  • Loại hình thường được sử dụng: xe đạp lực kế, thảm lăn, đi bộ trên mặt phẳng, leo cầu thang.

Thời gian, liu trình tp luyn

  • Chương trình tập luyện được xây dựng trong khoảng thời gian ít nhất 8 tuần, mỗi tuần 3 buổi. Bệnh nhân BPTNMT tham gia chương trình phải tham gia đầy đủ để đạt được hiệu quả tốt nhấ Khi đã thành thạo các bài tập, bệnh nhân sẽ tự tập luyện tại nhà.
  • Luyện tập vận động không đều đặn, không đầy đủ, không đúng phương pháp sẽ không đem lại những kết quả như mong muốn.

ng dn bnh nhân tp luyn các hot động trong sinh hot hàng ngày

  • Đi bộ
  • Bắt đầu bằng đi bộ một thời gian ngắn trên mặt phẳng, có thể dùng oxy nếu cần thiết. Khi có cảm giác khó thở phải dừng lại ngay.
  • Khuyên bệnh nhân đi theo tốc độ của riêng mình, phù hợp với gắng sức của họ.
  • Trong khi đi bách bộ cần kết hợp với bài tập thở hoành, khi hít vào bụng giãn nở to, khi thở ra bụng xẹp lại.

Lưu ý:

  • Kéo dài khoảng cách đi bộ của mình theo nỗ lực tập luyện hàng ngày của bệnh nhâ Dần dần bệnh nhân sẽ thấy hài lòng vì khả năng gắng sức đã được cải thiện.
  • Tránh những động tác thừa không cần thiết, tránh mang những vật nặng.
  • Đặt mục tiêu hợp lý để đạt được, không nên cố gắng mọi cách để đạt được mục tiêu đó.
  • Bệnh nhân cần bước từng bước một tay bám vào tay vịn của cầu thang để giữ thăng bằng tránh ngã.
  • Leo cầu thang là một gắng sức thể lực nặng do vậy có thể phải thở oxy bổ sung trong quá trình leo.
  • Leo cầu thang
  • Vừa leo cầu thang vừa phối hợp với thở hoành và thở chúm môi để giảm khó thở và tăng khả năng gắng sức.
  • Khi bệnh nhân cảm thấy khó thở thì dừng lại và ngồi nghỉ tại bậc hoặc chiếu nghỉ của cầu thang.
  • Tắm rửa, vệ sinh cá nhân
  • Tự tắm rửa, vệ sinh cá nhân là một trong những việc thường gây khó thở.
  • Không nên tắm khi thấy trong người không khỏe và ở nhà một mình.
  • Nên dùng vòi hoa sen loại cầm tay, ống dẫn nước đủ dài di động dễ dàng.
  • Dùng bàn chải có cán dài để kỳ cọ, tránh phải cúi người hoặc với ta
  • Để tránh khó thở, nên dùng ghế để ngồi khi tắ Chọn ghế loại chắc chắn, nhẹ, chiều cao thích hợp, có chỗ dựa hoặc không tuỳ ý.
  • Nên đặt những thanh vịn trong nhà tắm để có chỗ bám, tựa khi cần thiết.
  • Không nên dùng các loại xà bông, dầu gội có mùi hắc khó chịu.
  • Nếu bệnh nhân đang thở oxy dài hạn tại nhà, trong khi tắm cũng vẫn cần phải thở oxy. Đặt bình oxy cạnh cửa phòng tắm, dây dẫn oxy đủ dài đưa vào nhà tắm
  • Mặc quần áo
  • Sắp xếp tủ quần áo gọn gàng, ngăn nắp sao cho dễ lấy, vừa tầm tay.
  • Tránh các loại quần áo chật, bó sát, quá nhiều lớp, các loại áo cổ kín, cổ cao, áo cài nút sau lưn
  • Nếu khó chịu khi dùng thắt lưng, nên thay bằng quần chun hoặc quần có dây đeo v
  • Phụ nữ nên dùng áo ngực loại mềm mại, co giãn hoặc thay bằng áo lót.
  • Nên ngồi xuống giường hoặc ghế khi mặc quần áo để tránh khó thở.
  • Nếu thấy mệt khi cúi gập người, nên sử dụng các dụng cụ mang tất có dây kéo, dụng cụ mang giày có cán dài. Tốt nhất dùng các loại giày không cột dây.
  • Làm việc nhà
  • Sắp xếp để có thể đi một vòng, tránh đi tới đi lui nhiều lần
  • Nên dùng loại xe đẩy nhỏ có bánh xe để chất đồ đạc lên.
  • Hạn chế đi cầu thang. Nếu bắt buộc phải đi, nên nghỉ ở khoảng giữa cầu thang và đặt ghế ở cuối để ngồi nghỉ.
  • Tránh dùng các loại có mùi gắt như dầu lửa, long não, thuốc tẩy.
  • Làm bếp
  • Sắp xếp các dụng cụ làm bếp vừa tầm tay, dễ lấy, tránh đi tới, đi lui.
  • Nên ngồi khi chuẩn bị món ăn. Chọn món ăn đơn giản, dễ làm, không cầu kỳ. Ưu tiên cho các thức ăn làm sẵn và tận dụng khả năng bảo quản thức ăn của tủ lạnh.
  • Khi dọn dẹp nên dùng mâm hoặc xe đẩy nhỏ.
  • Tuyệt đối tránh các loại bếp có nhiều khói hoặc các món nướn Ưu tiên sử dụng bếp điện hoặc lò vi sóng.
  • Nhà bếp cần thông thoáng, nên có quạt thông gió hoặc quạt máy nhỏ.
  • Ra ngoài
  • Sắp xếp công việc sao cho không lúc nào phải vội vã, làm việc gì cũng khoan thai, vừa với sức mì
  • Không nên đi xe điện ngầm. Nếu đi xe buýt, tránh đi những xe quá đông người. Nếu đi ô tô riêng, tránh vào xe ngay sau khi xe đỗ lâu ở ngoài nắng. Nên vặn máy điều hòa trước hoặc mở cửa xe cho thoáng.
  • Tránh đến những nơi đông người mà kém thoáng khí như trong tầng hầm, trong nhà kín vì không khí có nhiều CO2 và dễ bị lây nhiễm bệnh qua đường hô hấp.
  • Chú ý giữ ấm nếu khí hậu bên ngoài lạnh và nhiều gió.
  • Nên tiêm vaccin phòng cúm hàng năm và vaccin phòng phế cầu mỗi 3 – 5 năm.
  • Đi mua sắm
  • Nên sử dụng các loại xe đẩy khi đi mua sắm, tránh xách hoặc mang vác nặng.
  • Mua và thử quần áo có thể làm cho bệnh nhân rất mệt. Nên biết trước số đo của mình hoặc mang theo thước dây. Cách khác là chỉ mua sắm ở những tiệm quen để có thể đổi lại nếu không vừa.

Tài liệu tham khảo

  1. Bartolome R. Celli (2011), “Pulmonary rehabilitation in COPD”, UpToDate version 19.1.
  1. Geddes L., O’Brien K., Reid W.D. et al. (2008), “Inspiratory muscle training in adults with chronic obstructive pulmonary disease: an update of a systematic review”, Respir Med; 102; pp.1715.
  2. Nici L., Donner C., Wouters et al. (2006), “American Thoracic Society/European Respiratory Society statement on pulmonary rehabilitation”, Am J Respir Crit Care Med; 173; pp.1390.
  3. Salman F., Mosier M.C., Beasley B.W. et al.  (2003), “Rehabilitation for patients with chronic obstructive  pulmonary disease: meta-analysis of randomized controlled trials”, J Gen Intern Med; 18; pp.213.
  4. Seymour M., Moore L., Jolley C.J. et al. (2010), “Outpatient pulmonary rehabilitation following acute exacerbations of COPD”, Thorax; 65; pp.423.
  5. Troosters T., Casaburi R., Gosselink R., et al. (2005), “Pulmonary rehabilitation in chronic obstructive pulmonary disease”, Am J Respir Crit Care Med; 172; pp.19.

Isoket

Thuốc isoket
Thuốc isoket

THUỐC ISOKET

SCHWARZ PHARMA

Dung dịch tiêm 0,1%: ống 10 ml, chai 50 ml.

THÀNH PHẦN

cho 1 ml
Isosorbide dinitrate 1 mg
Tá dược (mg/ml):
Sodium Chloride 9,0 mg
Nước pha tiêm 994,9 mg
Dung dịch Sodium Hydroxide 2N 0-0,00002 mg
Hydrochloride acid 1N 0-0,00002 mg

CHỈ ĐỊNH

Thuốc Isoket 0,1% được chỉ định để điều trị suy thất trái không đáp ứng thứ phát sau nhồi máu cơ tim cấp, suy thất trái không đáp ứng do nhiều nguyên nhân khác nhau và chứng đau thắt ngực nặng hoặc không ổn định.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Không được sử dụng Thuốc Isoket 0,1% trong điều trị sốc do tim trừ khi đã chuẩn bị một số phương tiện duy trì áp lực tâm trương đủ, ví dụ chỉ định thuốc làm co bóp cơ tim đồng thời.

Thuốc Isoket 0,1% được chống chỉ định trong trụy tuần hoàn và tụt huyết áp nặng.

Không được chỉ định Thuốc Isoket 0,1% cho bệnh nhân nhạy cảm với nitrates, thiếu máu nặng, chấn thương đầu, xuất huyết não hoặc giảm lưu lượng máu.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Cần chú ý thận trọng đến mạch và huyết áp trong suốt thời gian điều trị Thuốc Isoket 0,1%.

Cần sử dụng thận trọng ở những bệnh nhân có glôcôm góc đóng, đang mắc chứng giảm năng tuyến giáp, suy dinh dưỡng, bệnh lý nặng về gan hoặc thận, hoặc hạ nhiệt.

Không được sử dụng thuốc trong thời kỳ có thai hoặc cho con bú trừ khi Bác sĩ xét thấy cần thiết phải sử dụng.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Khi áp lực động mạch giảm đột ngột có thể làm tăng triệu chứng thiếu máu não và làm giảm tưới máu vành, kinh nghiệm lâm sàng với Thuốc Isoket 0,1% cho thấy đây không phải là một vấn đề bình thường. Điều này phù hợp với tác dụng gây giãn mạch như đã biết của isosorbide dinitrate, tác dụng này thường chủ yếu xảy ra ở tĩnh mạch hơn là động mạch. Cũng giống như các nitrates khác, đau đầu và buồn nôn có thể xảy ra trong thời gian điều trị.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Sự tương hợp:

Thuốc Isoket 0,1% có chứa Isosorbide dinitrate trong dung dịch muối đẳng trương và tương hợp với các dung dịch truyền nói chung. Cho đến nay không thấy có sự bất tương hợp nào xảy ra.

Thuốc Isoket 0,1% tương hợp với các chai truyền bằng thủy tinh và các túi truyền bằng polyethylene. Thuốc Isoket 0,1% có thể được truyền chậm bằng cách sử dụng một bơm tiêm bằng thủy tinh hoặc bằng nhựa cứng.

Hướng dẫn sử dụng:

Liều lượng:

Liều lượng phải được điều chỉnh tùy theo đáp ứng của bệnh nhân. Nói chung, liều từ 2 đến 7 mg mỗi giờ là thích hợp mặc dù đôi khi cần đến liều cao 10 mg.

Nồng độ yêu cầu:

5 ống 10 ml hoặc 1 chai 50 ml (50 mg) Thuốc Isoket 0,1% được pha đến 500 ml với chất tải thích hợp như Sodium chloride tiêm hoặc Dextrose tiêm. Dung dịch thu được sẽ có nồng độ 100 mg/ml. Khi cần phải giảm bớt lượng dịch truyền, có thể tạo dung dịch có nồng độ cao hơn bằng cách sử dụng 10 ống 10 ml hoặc 2 chai 50 ml Thuốc Isoket, pha đến 500 ml để tạo thành dung dịch có nồng độ 200 mg/ml.

Thuốc Isoket 0,1% cần được cho vào dung dịch truyền ngay sau khi mở ra. Phải pha chế hỗn hợp trong điều kiện vô khuẩn.

Bảng tính liều:

Nồng độ yêu cầu:

100 mg/ml: 5 ống hoặc 1 chai 50 ml pha thành 500 ml Liều lượng Thuốc Isoket 200 mg/ml: 10 ống hoặc 2 chai 50 ml pha thành 500 ml
Tốc độ chảy Tốc độ chảy
m giọt/phút m giọt/phút
ml/giờ giọt/phút mg/giờ ml/giờ giọt/phút
10 3-4 1 5 1-2
20 7 2 10 3
30 10 3 15 5
40 13 4 20 7
50 17 5 25 8
60 20 6 30 10
70 23 7 35 12
80 27 8 40 13
90 30 9 45 15
100 33 10 50 17

1 ml = 60 giọt nhỏ nhi khoa = 20 giọt chuẩn

Bảng tính liều:

Bảng tính liều cho biết tốc độ truyền cần thiết để đảm bảo một liều lượng Thuốc Isoket tính bằng mg/giờ, nồng độ sử dụng là 100 mg/ml hoặc 200 mg/ml.

Ví dụ:

Việc tính toán liều lượng rất đơn giản. Với nồng độ 100 mg/ml bệnh nhân cần 6 mg Thuốc Isoket mỗi giờ và cần tốc độ nhỏ giọt là 60 giọt nhỏ nhi khoa mỗi phút (tương đương 60 ml/giờ) hoặc 20 giọt chuẩn/phút. Nếu cần phải hạn chế lượng dịch cần truyền, liều tương tự (6 mg/giờ) có thể chỉ định bằng cách sử dụng nồng độ 200 mg/ml với tốc độ nhỏ giọt là 30 giọt nhỏ nhi khoa mỗi phút (tương đương 30 ml mỗi giờ) hoặc 10 giọt chuẩn mỗi phút.

Cách dùng:

Thuốc Isoket là một dung dịch có nồng độ và không bao giờ được tiêm thuốc trực tiếp. Cần phải chỉ định thuốc với dung dịch thích hợp như Sodium Chloride tiêm hoặc Dextrose tiêm. Dung dịch Thuốc Isoket đã pha chế phải luôn luôn được cho bằng đường truyền tĩnh mạch hoặc với sự hỗ trợ của một bơm tiêm. Trong khi sử dụng phải theo dõi chặt chẽ huyết áp và mạch của bệnh nhân. Pha chế dung dịch bằng cách thay đổi lượng Thuốc Isoket 0,1% yêu cầu với thể tích dịch truyền tương đương.

Trẻ em:

Mức độ an toàn và hiệu quả của Thuốc Isoket 0,1% chưa được thiết lập ở trẻ em.

BẢO QUẢN

Ở nhiệt độ phòng không quá 30oC.

Chứng nóng rát ở bàn chân

Cảm giác nóng rát ở bàn chân có thể do tổn thương thần kinh ở chân, còn được gọi là chứng bệnh thần kinh ngoại biên (neuropathy). Mặc dù nhiều tình trạng y tế có thể gây ra hiện tượng nóng rát ở bàn chân, nhưng bệnh tiểu đường là nguyên nhân phổ biến nhất. Hầu hết các phương pháp điều trị chứng nóng rát bàn chân tập trung vào việc ngăn ngừa tổn thương thần kinh thêm và giảm đau.

Nguyên nhân gây nóng rát bàn chân

Thường thì, chứng bệnh thần kinh là nguyên nhân gây ra cảm giác nóng rát ở bàn chân. Các sợi thần kinh bị tổn thương có khả năng trở nên quá hoạt động và phát tín hiệu sai. Những dây thần kinh bị tổn thương gửi tín hiệu đau đến não mặc dù không có vết thương nào.

Ở hầu hết những người mắc chứng bệnh thần kinh, các dây thần kinh ở chân thường bị tổn thương đầu tiên. Những người này thường cảm thấy tê và ngứa ran ở bàn chân. Nhiều người phàn nàn rằng bàn chân của họ quá nhạy cảm với sự chạm (hyperesthesia) và có thể trải qua các mức độ đau rát khác nhau, từ nhẹ đến tàn phế.

Bệnh tiểu đường và lạm dụng rượu là hai nguyên nhân phổ biến nhất gây ra chứng bệnh thần kinh ở chân. Nhiều tình trạng khác cũng có thể gây ra chứng bệnh thần kinh hoặc cảm giác nóng rát ở bàn chân:

  • Bệnh thận mạn tính (uremia)
  • Chứng bệnh thần kinh sợi nhỏ
  • Thiếu vitamin (vitamin B12, folate, và đôi khi vitamin B6)
  • Lạm dụng rượu
  • Mức hormone tuyến giáp thấp (suy giáp)
  • Bệnh Lyme
  • HIV/AIDS
  • Chứng bệnh đa dây thần kinh amyloid
  • Tác dụng phụ của thuốc, bao gồm thuốc hóa trị, quá liều vitamin B6, thuốc HIV, amiodarone, isoniazid, metformin, và những thuốc khác
  • Erythromelalgia
  • Ngộ độc kim loại nặng (chì, thủy ngân, asen)
  • Viêm mạch (viêm mạch máu)
  • Bệnh sarcoidosis
  • Hội chứng Guillain-Barre (GBS)
  • Bệnh đa dây thần kinh viêm mãn tính (CIDP)

Các lý do khiến bạn cảm thấy nóng rát ở bàn chân

Ngoài chứng bệnh thần kinh, nhiễm trùng và viêm ở bàn chân cũng có thể gây ra cảm giác nóng rát. Phổ biến nhất trong số này là bệnh nấm chân, một nhiễm trùng da do nấm gây ra.Triệu chứng Đau chân

Bệnh động mạch ngoại vi (PAD) cũng thường gây ra cảm giác nóng rát ở bàn chân. Sự lưu thông máu kém đến bàn chân có thể thường xuyên gây ra đau, ngứa ran, và cảm giác nóng rát, đặc biệt khi đi bộ.

Sau vài tuần hoặc vài tháng sau phẫu thuật cắt dạ dày, một số người có thể cảm thấy cảm giác nóng rát ở bàn chân. Sự hấp thụ kém vitamin B sau phẫu thuật cắt dạ dày có thể gây ra chứng bệnh thần kinh ở chân và cảm giác nóng rát.

Chẩn đoán chứng nóng rát ở bàn chân

Hầu hết những người có cảm giác nóng rát ở bàn chân có một nguyên nhân rõ ràng (như bệnh tiểu đường) có thể được xác định. Đối với những người này, chẩn đoán chứng nóng rát ở bàn chân do bệnh thần kinh là rõ ràng, và không cần thêm xét nghiệm nào.

Đối với một số người có cảm giác nóng rát đột ngột, nhanh chóng xấu đi, hoặc không có nguyên nhân giải thích được, có thể cần thêm xét nghiệm để đưa ra chẩn đoán chính xác. Các xét nghiệm này có thể bao gồm:

  • Điện cơ đồ (EMG): Một xét nghiệm chức năng cơ bằng cách ghi lại hoạt động điện bên trong các cơ. Có thể đặt một đầu dò lên da hoặc chèn một kim vào cơ để thực hiện xét nghiệm EMG.
  • Xét nghiệm dẫn truyền thần kinh: Xét nghiệm này kiểm tra khả năng của dây thần kinh trong việc truyền tín hiệu. Một dây thần kinh được kích thích, và phản ứng trong cơ được điều khiển bởi dây thần kinh đó được đo lường.
  • Xét nghiệm trong phòng thí nghiệm: Đôi khi, các xét nghiệm máu, nước tiểu, hoặc dịch não tủy có thể được gợi ý để giúp chẩn đoán nguyên nhân gây ra chứng nóng rát ở bàn chân. Mức vitamin có thể được kiểm tra bằng xét nghiệm máu đơn giản.
  • Sinh thiết dây thần kinh: Rất hiếm khi, bác sĩ có thể đề nghị cắt một mẫu mô thần kinh và kiểm tra dưới kính hiển vi.

Phương pháp điều trị chứng nóng rát ở bàn chân

Phương pháp điều trị quan trọng nhất cho cảm giác nóng rát ở bàn chân do bệnh thần kinh là ngăn chặn bất kỳ tổn thương thần kinh nào đang tiếp diễn. Trong một số trường hợp, việc điều trị bệnh nền sẽ cải thiện bệnh thần kinh và triệu chứng. Trong những tình huống khác, như chứng bệnh thần kinh sợi nhỏ, nơi không thể xác định nguyên nhân, bác sĩ sẽ tập trung vào việc điều trị các triệu chứng của người bệnh.

Đối với những người mắc chứng bệnh thần kinh do tiểu đường, việc điều trị có nghĩa là giữ mức đường huyết trong phạm vi bình thường. Điều này thường yêu cầu thay đổi chế độ ăn uống, thuốc uống, và thường là tiêm insulin.

Đối với những người mắc các dạng bệnh thần kinh khác gây ra cảm giác nóng rát ở bàn chân, việc ngăn chặn tổn thương thần kinh thêm cũng rất quan trọng. Các tình trạng cụ thể và phương pháp điều trị của chúng bao gồm:

  • Thiếu vitamin: Việc bổ sung vitamin B12 bằng đường uống hoặc tiêm có thể thay thế mức vitamin thấp này.
  • Lạm dụng rượu: Ngừng uống rượu quá mức ngăn ngừa tổn thương thần kinh tiếp diễn và cho phép các dây thần kinh hồi phục.
  • Bệnh thận mạn tính: Thẩm tách có thể cần thiết để loại bỏ độc tố gây ra bệnh thần kinh và triệu chứng nóng rát ở bàn chân.
  • Suy giáp: Việc sử dụng hormone tuyến giáp đường uống có thể nâng cao mức hormone tuyến giáp thấp, thường đảo ngược bệnh thần kinh cũng như triệu chứng nóng rát ở bàn chân.
  • GBS và CIDP: Các phương pháp điều trị rất chuyên biệt và bao gồm thay huyết tương (plasmapheresis) hoặc liệu pháp globulin miễn dịch (IVIG).

Phương pháp điều trị cho chứng nóng rát ở bàn chân bao gồm điều trị cơn đau và cảm giác bất thường do bệnh thần kinh gây ra. Một số loại thuốc thường được kê đơn cho chứng nóng rát ở bàn chân bao gồm:

  • Amitriptyline
  • Carbamazepine (Tegretol)
  • Desipramine (Norpramin)
  • Duloxetine (Cymbalta)
  • Gabapentin (Neurontin)
  • Pregabalin (Lyrica)
  • Topiramate (Topamax)
  • Venlafaxine (Effexor XR)

Các loại thuốc giảm đau khác có thể cần thiết để giảm sự khó chịu nghiêm trọng mà một số người trải qua do chứng nóng rát ở bàn chân. Các thuốc không kê đơn như Advil, Aleve, Motrin IB, và Tylenol có thể kiểm soát cơn đau cho nhiều người có cảm giác nóng rát ở bàn chân. Các thuốc giảm đau theo toa như tramadol (Ultram) hoặc thuốc giảm đau liều thấp (thuốc gây nghiện) có thể cần thiết cho cơn đau nghiêm trọng.

Đối với chứng nóng rát ở bàn chân do bệnh nấm chân, thuốc kháng nấm có thể chữa khỏi nhiễm nấm và giảm triệu chứng nóng rát ở bàn chân. Các thuốc không kê đơn như miconazole (Micatin) hoặc terbinafine (Lamisil AT) nên được sử dụng trước. Các thuốc kháng nấm theo toa như fluconazole (Diflucan), itraconazole (Sporanox), và naftifine (Naftin) cũng có sẵn.