Đại cương về bệnh quai bị:
Quai bị là một bệnh nhiễm vi rut cấp tính do vi rút quai bị thuộc họ paramyxovide gây nên. Bệnh thường gặp ở tuổi trẻ nhất là 5-9 tuổi. Tuổi thiếu niên và người lớn chiếm tỷ lệ mắc khoảng 15%. Thời kỳ ủ bệnh từ 12-25 ngày. Bệnh lây bằng nước bọt của bệnh nhân qua đường hô hấp. Trước khi viêm tuyến mang tai 6 ngày kéo dài đến 9 ngày sau khi viêm tuyến mang tai. Virút xâm nhập vào các tuyến ngoại tiết và màng não. Bệnh cảnh lâm sàng thường là sưng đau tuyến nước bọt, đặc biệt là tuyến mang tai. Lúc đầu tuyến mang tai bị sưng đau một bên, sau đó lan sang bên còn lại. Một số trường hợp có thể xuất hiện viêm tinh hoàn (tỷ lệ khoảng 20%) hoặc viêm màng não nước trong. Các biểu hiện khác hiếm gặp hơn bao gồm các bệnh cảnh viêm tuỵ, viêm buồng trứng, viêm gan, viêm cơ tim, viêm tuyến giáp . Các biến chứng nặng hiếm khi xảy ra bao gồm điếc hoặc teo tinh hoàn dẫn đến vô sinh..
Xem về bệnh Quai bị:
Bệnh Quai Bị – Triệu chứng, chẩn đoán và điều trị
Vacxin phòng quai bị :
- Tên chung : Vacxin sởi, quai bị và rubella.
- Tên thương mại : MMR II
- Nơi sản xuất: Merk, Sharp & Dohme
- Tác dụng phụ:
Các tác dụng phụ của Vacxin MMR II là những tác dụng phụ đã được báo cáo sau khi sử dụng các Vacxin đơn giá.
Thường gặp: bỏng rát và/hoặc đau hoặc nổi cục cứng tại nơi tiêm.
ít gặp:
+ Toàn thân: Sốt 38,3°c hoặc cao hơn
+ Da: nổi ban, thường ít nhưng có thể nổi ban toàn thể
Nói chung, triệu chứng sốt, nổi ban, hoặc cả hai xuất hiện trong khoảng từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 12.
Hiếm gặp:
+ Các phản ứng tại chỗ nhẹ như ban đỏ, đám cứng và tăng nhạy cảm
+ Tiêu hóa: đau họng, viêm tuyến mang tai, buồn nôn, nôn, tiêu chảy
+ Máu/ bạch hụyết: bệnh hạch bạch huyết khu trú, giảm tiểu cầu, ban xuất huyết
+ Tăng nhạy cảm: Các phản ứng dị ứng như nốt phỏng và đỏ da ở nơi tiêm, sốc phản vệ, nổi mày đay
+ Cơ xương: Đau khốp và/ hoặc viêm khớp (thường gặp) thoáng qua và hiếm khi kéo dài, đau cơ
+ Thần kinh/tâm thần: Sốt cao co giật ở trẻ em, co giật hoặc cơn động kinh không kèm theo sốt, đau đầu, chóng mặt, dị cảm, viêm đa dây thần kinh, hội chứng Guillain – Barre, mất điều vận. Viêm não/bệnh não cũng đã được báo cáo vói tần số khoảng 1/3 triệu liều tiêm. Nguy cơ xuất hiện những rối loạn thần kinh trầm trọng như vậy sau khi tiêm Vacxin vi rút sởi sống ít hơn rất nhiều so với nguy cơ viêm não và bệnh não khi mắc sởi tự nhiên (1/2000 trường hợp báo cáo)
+ Da: ban đỏ đa hình thái
+ Các giác quan đặc biệt: Các dạng viêm thần kinh thị giác, bao gồm cả viêm thần kinh hậu nhãn cầu, viêm nhú, viêm võng mạc; liệt thị giác, viêm tai giữa, điếc do thần kinh, viêm kết mạc
+ Tiết niệu, sinh dục: Viêm tinh hoàn Có những báo cáo về các trường hợp viêm não xơ hoá lan toả bán cấp (SSPE) ở trẻ em không có tiền sử mắc sởi tự nhiên những đã được tiêm Vacxin sởi. Một số trong các trường hợp này có thể do bị bệnh sởi từ trước 1 tuổi mà không biết hoặc có thể là do tiêm Vacxin sởi. Dựa trên sự phân phối Vacxin sởi trên toàn quốc theo ước tính, thì số trường hợp SSPE do tiêm Vacxin sởi là khoảng 1/1 triệu liều Vacxin. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với tỷ lệ mắc do bị sởi tự nhiên là 6 – 22 trường hợp SSPE/1 triệu trường hợp mắc sởi. Kết quả nghiên cứu bệnh – chứng hồi cứu do Trung tâm phòng chống bệnh thực hiện cho thấy tác động chung của Vacxin sởi là bảo vệ chống lại SSPE bằng cách phòng ngừa bệnh sởi.
Đau khớp và/hoặc viêm khớp (thường thoáng qua và hiếm khi kéo dài), và viêm đa dây thần kinh là những đặc điểm của bệnh rubella tự nhiên, các triệu chứng này khác nhau về tần số và mức độ nặng nhẹ theo tuổi và giới, hay gặp và nặng nhất ở nữ trưởng thành, ít gặp và nhẹ nhất ở trẻ chưa đến tuổi dậy thì.Rất hiếm khi người được tiêm Vacxin có các triệu chứng khốp mạn tính.
Theo dõi trẻ tiêm Vacxin thấy rằng các phản ứng ở khốp không thường gặp và thường hết sau thời gian ngắn. 0 phụ nữ, tỷ lệ viêm khớp và đau khớp thường cao hơn ở trẻ em (trẻ em 0 – 3%, phụ nữ 12 – 20%), và các phản ứng có vẻ rõ hơn và kéo dài hơn. Các triệu chứng có thể tồn tại trong vài tháng hoặc hiếm khi vài năm. Ó thanh thiếu niên nữ, tỷ lệ xuất hiện các phản ứng ở mức độ trung gian giữa trẻ em và phụ nữ trưởng thành. Thậm chí ở phụ nữ lớn tuổi hơn (35 – 45 tuổi), thì những phản ứng này cũng ít ảnh hưởng đến hoạt động bình thường. Tiêm nhắc lại ít gặp phản ứng hơn là khi gây miễn dịch cơ bản.
- Chống chỉ định:
Không tiêm MMR II cho phụ nữ có thai; hiện nay chưa biết rõ về tác dụng của Vacxin đối với sự phát triển của thai nhi. Nếu tiêm Vacxin cho phụ nữ đã dậy thì, thì phải tránh mang thai 3 tháng sau khi tiêm Vacxin.
Có phản ứng sốc phản vệ với neomycin (vì mỗi liều Vacxin đã hoàn nguyên có chứa khoảng 25pg neomycin)
Tiền sử có phản ứng dị ứng với trứng
Các bệnh đường hô hấp có sốt hoặc các trường hợp nhiễm khuẩn có sốt tiến triển khác
Bệnh lao tiến triển chưa được điều trị
Bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch. Chống chỉ định này không áp dụng cho bệnh nhân đang điều trị corticosteroid hoặc liệu pháp thay thế khác, ví dụ như trong bệnh Addison
Những người bị bệnh rối loạn tạo máu, bệnh bạch cầu, bệnh u lympho các thể, hoặc những trường hợp u ác tính khác ảnh hưởng đến tuỷ xương hoặc hệ bạch huyết.
Tình trạng suy giảm miễn dịch nguyên phát hoặc mắc phải, kể cả những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch do AIDS hoặc các biểu hiện lâm sàng khác của nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch; thiếu hụt miễn dịch tế bào; giảm gammaglobulin huyết và tình trạng loạn gammaglobulin huyết
Người có tiền sử gia đình bị suy giảm miễn dịch bẩm sinh hoặc di truyền, đến khi chứng minh được khả năng đáp ứng miễn dịch của người được tiêm Vacxin.
- Thận trọng
Nói chung:
Cần chuẩn bị sẵn Adrenalin để xử trí cấp cứu trong trường hợp xảy ra phản ứng sốc phản vệ
Cần thận trọng khi tiêm MMR II cho những người mà bản thân hoặc gia đình có tiền sử co giật, tiền sử tốn thương não hoặc các trường hợp stress khác do sốt. Bác sỹ cần thông báo cho người được tiêm về việc có thế xảy ra hiện tượng tăng thân nhiệt sau khi tiêm.
Trẻ em và người trẻ tuổi bị nhiễm HIV nhưng không có các biểu hiện lâm sàng có thể được tiêm Vacxin. Tuy nhiên, người được tiêm Vacxin cần được theo dõi chặt đế phát hiện phơi nhiễm với các bệnh mà Vacxin phòng ngừa vì khả năng sinh miễn dịch có thể kém hơn là ở những người chưa bị nhiễm. Trong những trường hợp lựa chọn, có thể xác định lượng kháng thể lưu hành trong máu để có biện pháp bảo vệ hợp lý, kể cả biện pháp dự phòng bằng miễn dịch thụ động nếu việc gây miễn dịch không đạt tới mức độ bảo vệ.
Hoãn tiêm Vacxin ít nhất là 3 tháng sau khi truyền máu hoặc huyết tương, hoặc dùng globulin huyết tương miễn dịch người.
Phụ nữ có thai
Không nên tiêm Vacxin cho phụ nữ có thai; cần tránh
có thai 3 tháng sau khi tiêm Vacxin
Phụ nữ cho con bú
Cần thận trọng khi tiêm Vacxin MMR II cho phụ nữ đang cho con bú
- Lịch tiêm
Tiêm cho trẻ từ 15 tháng tuổi trở lên. Nên tiêm liều thứ 2 bằng Vacxin MMR II hoặc Vacxin sởi đơn giá.
Ở những vùng mà bệnh sởi xuất hiện với tỷ lệ cao ở trẻ < 15 tháng tuổi thì có thể tiêm sớm hơn. Trẻ được tiêm Vacxin khi chưa được 12 tháng tuổi cần được tiêm nhắc lại sau khi được 15 tháng tuổi. Hầu hết trẻ 12 – 14 tháng tuổi đã có đáp ứng miễn dịch, nhưng có thể tiêm liều nhắc lại khi trẻ đến tuổi đi học hoặc muộn hơn.
Những trẻ chưa được tiêm Vacxin sinh ra từ người mẹ mang thai mẫn cảm cần được tiêm Vacxin rubella sống giảm độc.
Những trẻ cảm thụ với một hoặc nhiều bệnh của Vacxin cần được tiêm hoặc một Vacxin đơn giá (sởi, quai bị hoặc rubella), hoặc một Vacxin phối hợp phù hợp. Tuy nhiên, MMR II thích hợp đối với những người cảm thụ với bệnh quai bị, rubella và bệnh sởi. Nếu không có Vacxin đơn giá, thì nên dùng Vacxin MMR II.
Vacxin được tiêm vào dưới da, thường tiêm vào mặt ngoài phía trên của cánh tay. Không tiêm vào mạch máu.
Liều Vacxin giông nhau cho tất cả mọi người: 0,5ml Vacxin đã hồi chỉnh.
Không tiêm globulin miễn dịch (IG) đồng thời với tiêm MMR II.