Blog Trang 491

Bồ công anh nam

BỒ CÔNG ANH NAM

Tên Khác:

Cây mũi mác, Diếp dại, Diếp trời, Rau bồ cóc, Rau mét.

Tên Khoa Học:

Lactuca indic L.

Họ Cúc (Asteraceae).

Mô Tả

Cây thảo, mọc đứng, sống một hoặc hai năm. Thân nhẵn, thẳng cao 0,50 – im, có khi đến 2m, ít phân cành, đôi khi có những đốm tía. Lá mọc so le, gần như không cuống, rất đa dạng. Những lá ở dưới thuôn dài, xẻ thùy không đều, hẹp và sâu, thùy lớn và thùy nhỏ xen kẽ nhau, m p có răng cưa, đầu nhọn, gốc tù; các lá ở giữa và trên ngắn và hẹp hơn, có ít răng hoặc hoàn toàn nguyên. Cụm hoa là một đầu tụ họp thành chùy dài 20 – 40cm, mọc ở ngọn thân và kẽ lá phân nhánh nhiều, mỗi nhánh mang 2 – 5 đầu; tổng bao hình trụ, mỗi đầu có 8- 10 hoa màu vàng hoặc vàng nhạt; tràng hoa có lưỡi dài, ống mảnh; nhị 5, bao phấn có đỉnh rất tròn, tai hình dùi ; vòi nhụy có gai. Quả bế, màu đen, có mào lông trắng nhạt, 2 cạnh có cánh, 2 cạnh khác giảm thành một đường lồi. Thân và lá khi bấm có nhựa màu trắng chảy ra. Mùa hoa: tháng 6 – 7; mùa quả: tháng 8 – 9.

Phân Biệt:

Mang tên Bồ công anh, còn có các cây:

1- Bồ công anh Trung Quốc – Taraxacum officinale Wigg., T. dens leonis Desf. Bồ công anh thấp: Dendelion (Anh), Pissenlit, Laitue des chiens, Salade de taupe, Couronne de moine, Dent de – lion (Pháp).

Cây thảo nhỏ, cao 0,20 – 0 40m. Lá mọc sát đất thành hình hoa thị có khía răng không đều; đầu lá tròn. Cụm hoa là từng đầu riêng biệt, màu vàng trên một cuống dài. Cây hiện mọc hoang, có thể trước đây do Pháp du nhập. Dùng rễ và lá.

  1. Bồ công anh hoa tím Cichoriunl intybus L. Chicory, Wild endive (Anh), Chicorée (Pháp).

Cây thảo, phân cành nhiều. Cành cứng mọc ngang. Hoa màu lơ hay lơ tím. Cây nhập trồng, có nguồn gốc ở vùng Địa Trung Hải. Dùng rễ.

Cây Dễ Nhầm Lẫn

+ Rau Bao – Sonchus arvensisL. – Rau diếp dại, Corn sow thistle (Anh), Laiteron des champs (Pháp). Lá có răng cưa sít và sâu. Đầu mọc thành ngù, màu vàng nhạt.

Phân Bố, Sinh Thái:

Cây mọc hoang, phân bố chủ yếu ở các vùng ấm thuộc các nước Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Inđônêxia, Philippin và các nước Đông Dương. Ở Việt Nam, Bồ công anh phân bố rải rác khắp mọi nơi (thường ở độ cao dưới 1000 m t) đến trung du và đồng bằng. Cây thường mọc ở nơi đất ẩm, trong vườn, ven đường đi, bãi sông hoặc trên các thửa ruộng, nương rẫy đã bỏ hoang.

Bồ công anh là cây sống một năm, ưa sáng, nhưng cũng có thể chịu được bóng. Cây mọc từ hạt vào mùa xuân, sinh trưởng nhanh từ mùa xuân đến mùa hè. Gần cuối mùa hè, cây đã bắt đầu ra hoa kết quả. Vào thời kỳ cây đang sinh trưởng mạnh, nếu bị gãy hay bị cắt gần ở gốc, phần còn lại sẽ tái sinh chồi và sinh trưởng tiếp. Cuối mùa hè hoặc đầu mùa thu, sau khi quả đã gìa, song song với quá trình phát tán hạt giống, cây bắt đầu vàng úa và tàn lụi. Đến mùa xuân năm sau, hạt giống lại tiếp tục nảy mầm.

Do điều kiện sinh trưởng tự nhiên thuận lợi như vậy, nên nhiều nơi đã trồng Bồ công anh ở trong vườn hoặc ngoài ruộng. Thời vụ gieo trồng vào đông xuân và hè thu. Cây ưa đất ẩm, xốp thoát nước, nhiều phù sa, được trồng bằng hạt như trồng rau cải. Khi cây con cao chừng 2 – 3 cm, đánh ra trồng thành hàng trên luống, mỗi cây cách nhau 30cm. Sau khi trồng, cần thường xuyên làm cỏ và vun gốc.

Loài Taraxacum thường chỉ gặp ở các tỉnh miền núi, khoảng 600 – 1500m. Là cây sống một năm, ưa khí hậu ẩm mát, ưa sáng hoặc chịu bóng. Cây thường mọc ở ven đường đi trên nương rẫy hoặc trên các hốc đá có nhiều mùn, tường nhà xây nơi ẩm thấp.

Hàng năm, cây mọc vào mùa xuân, sinh trưởng trong mùa xuân hè. Những cây sống ở một số vùng núi cao ở Tây Nguyên thường có mùa hoa quả sớm hơn cây ở các tỉnh phía bắc (vào khoảng tháng 4 – 5). Sau khi hoàn thành giai đoạn ra hoa kết quả, cây tự tàn lụi, hạt giống tiếp tục nảy mầm vào đầu xuân năm sau.

Bộ Phận Dùng:

Lá, thu hái vào lúc cây chưa có hoa hoặc bắt đầu ra hoa. Loại bỏ các lá xấu, lá gìa vàng úa, đem phơi nắng hoặc sấy nhẹ đến khô.

Dược điển Việt Nam quy định lá Bồ công anh khô có độ ẩm không quá 12%, tro toàn phần không quá 9%, ngọn có hoa không quá 10%, tạp chất hữu cơ (lá cây khác) không quá 1%, tỷ lệ ngọn mang lá và hoa dài quá 20 cm, không quá 10%.

Lá tươi thường được dùng ngoài. Có thể nấu cao lỏng Bồ công anh với tỷ lệ 1 phần dược liệu với 10 phần nước để dùng dần, thuận tiện.

Bào Chế:

+ Rửa sạch, cắt ngắn, phơi khô, cất dùng.

+ Rửa sạch, phơi khô, nấu thành cao đặc.

+ Dùng tươi, rửa sạch, gĩa nhỏ, thêm ít muối dùng đắp nơi bị viêm.

+ Dùng tươi, rửa sạch, gĩa vắt lấy nước uống.

Bảo Quản:

Phơi thật khô, cho vào bao, để nơi cao ráo.

Thành Phần Hóa Học:

Loài Lactuca indica chưa thấy có tài liệu nghiên cứu. Còn loài Taraxacum officinale Wigg. có thành phần các chất như sau:

  • Flavonoid toàn phần, trung bình là 98%.
  • Phần lá và hoa thành phần gồm: nước 88,8%, protein 0,6%, sợi 0,44%, phần chiết được bằng Ether 1,6%, tro 2,3%, Carbonhydrat toàn phần 3,7%, Phosphor 59,lmg, Vitamin C 73mg, Calci 473,5%, Vitamin A 6700 đơn vị quốc tế/100g, Sắt 3,3%.

Trong lá còn có: Thiamin 0,19mg, Riboflavin 0,14mg, Niacin 0,8mg/100g, Calci pectat 7,81%. Trong hoa còn có Lecithin, Violaxanthin, Xanthophyl, Taraxanthin. Toàn cây chứa chất đắng Taraxacin và một chất kết tinh Taraxacerin, Saponin, Phytosterol (b Sitosterol, Stigmasterol), Taraxasterol và Homotaraxasterol. Ngoài ra, còn chứa nhựa, tinh dầu, Pectose, Enzym, các acid béo gồm acid Melissic và p. Hydroxy phenacetic, sáp gồm Cerylpalmitat và Cerylstearat. Hạt có Alcaloid.

Tác Dụng Dược Lý

Bồ công anh (Đông y cho là thuộc về hàn lương) được áp dụng phương pháp lồng cử động đã thể hiện tác dụng an thần.

Flavonoid của Bồ công anh đã được nghiên cứu tác dụng sinh học thấy có tác dụng ức chế men Oxy hóa khử Peroxydaza và Catalaza máu chuột cống trắng. Những thí nghiệm tiến hành với huyết thanh người cũng cho những kết quả ức chế men oxy hóa khử rõ rệt.

Theo tài liệu nước ngoài, tại một số nước, người ta có sử dụng và nghiên cứu những loài Lactuca khác như L.Virosa, L. Sativa (rau diếp ăn của Việt Nam), thấy những cây này không độc và có tác dụng trên hệ thần kinh trung ương gây ngủ nhẹ.

Tính Vị, Công Năng

Bồ công anh có vị ngọt, hơi đắng, tính hàn.

Quy Kinh:

Vào kinh Can, Vị.

Tác Dụng:

Giải độc, tiêu viêm, thanh nhiệt, tán kết. Trị áp xe vú, mụn nhọt. Thường phối hợp với các vị thuốc khác. Đắp ngoài trị ung nhọt. Có trường hợp dùng uống để điều trị bệnh đau dạ dày, ăn uống kém tiêu.

Liều dùng:

Ngày dùng 20-30g cây tươi p lấy nước hoặc 8 – 30g cây khô sắc uống.

Kiêng kị:

Trong các trường hợp âm hư hoặc tràng nhạc, ung nhọt đã vỡ mủ, khi dùng Bồ công anh nên thận trọng.

Đơn Thuốc Kinh Nghiệm

+ Trị gai đâm hoặc bị nhằm nước đái của con cáo làm cho thịt sưng phù: Bồ công anh gĩa nát lấy nước cốt bôi vào nhiều lần thì khỏi (Đồ Kinh phương).

+ Trị sản hậu không cho con bú, sữa tích lại làm cho vú căng, sưng: Bồ công anh gĩa nát, đắp lên đó, ngày 3 đến 4 lần (Mai Sư phương).

+ Trị cam sang, đinh nhọt: Bồ công anh gĩa nát, lấy riêng một ít vắt nước trộn rượu sắc uống cho ra mồ hôi (Chứng Loại Bản Thảo).

+ Trị lở loét lâu ngày không khỏi, ong châm, rắn cắn, bọ cạp cắn: Bồ công anh gĩa nát, đắp vào vết thương (Cấp Cứu phương).

+ Trị kết mạc viêm cấp tính, mắt đỏ sưng đau *do Can hỏa bốc lên]: Bồ công anh (tươi) 80g , Chi tử 7 trái, sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

+ Trị ung độc sưng tấy cấp tính: Bồ công anh 20g đến 40g, sắc uống (Bồ Công Anh Thang – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

  1. Thuốc tiêu độc chữa sưng vú, mụn nhọt: Bồ công anh 12g, K đầu ngựa 12g, Vòi voi 12g, Liên kiều 12g, Kim ngân hoa 10g, Kinh giới l0g, Hạ khô thảo l0g, Cỏ mần trầu Tất cả phơi khô, thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn l00ml, uống làm 2 lần trong ngày. (Kinh nghiệm của bệnh viện Hưng Yên – Hải Hưng).
  2. Chữa đau dạ dày: Lá Bồ công anh khô 20g, lá Khôi 15g, lá Khổ sâm l0g, nước Đun sôi trong vòng 15 phút, thêm đường, chia 3 lần uống trong ngày. Uống liên tục trong vòng 10 ngày. Nghỉ 3 ngày rồi lại tiếp tục cho đến khi khỏi (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
  3. Chữa mụn nhọt, lành nhọt chóng chín và vỡ mủ: Lá Bồ công anh tươi phối hợp với lá Phù dung, rễ Vông vang hoặc rễ Gai, gĩa đắp (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).

Tham khảo:

  • Bồ công anh có hoa nở vàng, vị ngọt, giải được các độc do ăn phải, tán được khí trệ, Nhập vào kinh Dương minh, Thái âm, hóa giải được nhiệt độc, tiêu sưng hạch rất đặc hiệ Sắc chung với Nhẫn đông đằng uống với 1 chút rượu để trị nhũ ung, sau khi uống mà muốn ngủ là có công hiệu, khi ngủ ra mồ hôi là lành bệnh (Đan Khê Tâm Pháp).
  • Nước nhựa của Bồ công anh bôi vào chỗ nước đái của chồn đái là khỏi ngay (Tân Tu Bản Thảo Đồ Kinh).
  • Bồ công anh có thể giải được các thức ăn bị độc, làm tiêu tan được trệ khí, hòa được nhiệt độc, làm tiêu tan được trệ khí, hòa được nhiệt độc tiêu chỗ sưng đau, kết hạch đinh nhọt rất hiệu quả (Bản Thảo Diễn Nghĩa).
  • Dùng bồ công anh xát vào răng chữa được chứng đau răng, đen dược tóc, khỏe mạnh gân xương (Bản Thảo Cương Mục).
  • Bồ công anh khí không có gì độc cả, khí vị nhập vào Can, Vị. Đó là vị thuốc chính trong việc giải huyết, làm mát huyế Nhọt sưng vú thuộc Can kinh, phụ nữ sau khi hành kinh thì Can chủ sự nên nó làm chủ, người đàn bà bị nhũ ung sưng vú, các chứng ấy nên dùng lá tươi (Bản Thảo Kinh Sơ).
  • Bồ công anh vị ngọt, tính bình, làm cho mát huyết, giải nhiệt, nên những chứng nhũ ung, vú có ung nhọt thì nó là thuốc quan trọng được xem như đứng đầ Vả lại nó hay thông lợi được chứng lâm, xát vào răng đau, bôi làm đen râu tóc, xức được gai chích, giải được thức ăn có độc, tiêu được đinh nhọt. Vì quanh đầu vú thuộc Can, nhũ phòng thuộc Vị nên khi phát ra chứng nhũ ung, nhũ nham phần nhiều bởi nhiệt thịnh mà có huyết độc trệ, dùng vị này nhập vào 2 kinh ấy, bên ngoài đắp có tác dụng tan khỏi sưng, nhưng nếu muốn chóng chóng tiêu thì nên dùng với Hạ khô thảo, Bối mẫu, Liên kiều, Bạch chỉ là những vị thuốc trị được rất hay. Bồ công anh thuộc thổ, hoa màu vàng nên trị được thức ăn đình trệ, hoặc có hơi độc cũng phải tiêu tan, nó lại nhập vào kinh Thận làm cho mát huyết, nên nhuộm đen được râu tóc. Nhưng phải chú ý cây nào chỉ có 1 ngọn 1 hoa thì mới đúng, nếu thấy nhiều cành nhiều hoa là không đúng (Bản Thảo Cầu Chân).
  • Bồ công anh có vị ngọt, khí bình cho nên thanh được phế, lợi được hung cách, hóa được đờm, tiêu tan được tích kết, chữa được những chứng mụn nhọt, nuôi dưỡng được âm phận, mát huyết, cứng xương, cứng răng, thông lợi được chứng nhũ ung, làm cho ít tinh khí. Khi non nó mềm mại như rau, lúc về gìa nó được dùng làm thuốc, đúng là 1 vị thuốc hay, người đời nay dùng nó để trị bệnh nhũ ung, sưng vú, đau vú nghĩa là bây giờ người ta chỉ biết dùng bình thường hoặc cũng bởi tính hẹp hòi sau đó mà không làm được việc gì (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
  • Bồ công anh và Tử hoa địa đinh đều có tác dụng thanh nhiệt, giải độc. Nhưng Bồ công anh có công hiệu sơ Can, trị viêm tuyến vú rất tốt, còn Tử hoa địa đinh có tác dụng mạnh trong thanh nhiệt, giải độc, trị đinh nhọt rất tốt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển)

Bệnh Thái âm kinh (Tỳ, phế) trong đông y

Bệnh thái âm tuy với bệnh dương minh cùng là lý chứng nhưng về tính chất thì lại trái ngược nhau, bệnh dương minh là dương chứng thuộc về nhiệt, về thực, bệnh thái âm là âm chứng thuộc về hư, về hàn. Trên cơ chế thì bệnh dương minh là nhiệt kết táo hoả, bệnh thái âm là hàn kết hóa ra thấp.

Thái âm là người tỳ tạng vốn là nhược mà hoả tà thừa cơ xâm nhập vào. Sự xâm nhập của hàn tà có hai mặt: Trực trúng và truyền bệnh.

Trực trúng có nghĩa là mới mắc bệnh hàn tà đã trúng thẳng vào thái âm, chứ không trải qua tam dương.

Truyền bệnh là do khi bệnh ở tam dương, chẳng nhũng dùng thuốc khu dương trục bệnh hoặc không đúng mức mà lại dùng thuốc hàn lương thái quá, tuy có làm hết được độ nhiệt toả của tà khí, nhưng sự không đúng đó chẳng những bệnh độc không trừ hết, mà lý khí lại chuyển thành hư, không đủ sức chống đỡ bệnh tạo điều kiện cho bệnh dễ dàng tiến vào thành ra hàn hoá.

Chứng trạng của thái âm bệnh

Bụng đầy mà nôn, ăn không tiêu đi ỉa chảy, ngày càng nặng, bụng đau từng cơn, nếu hạ nhầm thì vùng dưới tim kết rắn.

Những hiện tượng trên đều là chủ chứng của thái âm bệnh do thái âm tỳ tạng hư hàn, mà tỳ vị là biểu lý với nhau nên tỳ hàn, thì vị cũng hàn, tỳ vị chỉ tiêu hóa cho nên bệnh phát ra ở thượng vị. Hay nói cách khác là do tỳ khí hư hàn, công năng vận hóa sút kém mà ảnh hưởng đến trường vị, chủ mạch của thái âm là trầm hoà hóa nhiệt, đôi khi có mạch tỳ và vô lực, nếu phong tà phạm vào thái âm thì mạch phải hoãn.

Tất cả các triệu chứng trên đều do tỳ vị hư hàn, thấp tà thịnh trong mà gây ra.

Phép chữa chủ yếu là phải ôn bổ dương khí ở trung tiêu, trừ hàn, táo thấp như bài Lý trung thang, Tứ nghịch thang tuỳ mức nặng nhẹ mà sử dụng.

Lý trung thang: (bài này hay làm thuốc hoàn, nếu để thang gọi là nhân sâm thang). Có tác dụng ôn trung khu hàn

Nhân sâm 12 gam

Bạch truật 20 gam         bổ trung khí, ích tỳ vị

Chích thảo 8 gam

Can khương 12 gam     ôn trung khu hàn.

Phép gia giảm

Trên rốn máy động là thận khí hư, thủy khí nghịch, bỏ bạch truật, gia trần bì để giải nghịch.

Mửa nhiều thuộc khí nghịch bỏ bạch truật, gia sinh khương giáng nghịch chỉ nôn mửa.

Phát mửa, muốn uống nước ở đây là tỳ hư không tán bổ được tân, thủy ẩm đình trệ lại khác hẳn với bệnh thương tổn tân dịch, táo khát, khát này do tỳ hư nên phải lợi dụng bạch truật để bố chế thủy, kiện tỳ vận thấp.

Vùng dưới tim thổn thức là thủy khí lăng tâm gia phục linh để lợi thủy.

Bụng đau là khí hư sinh ra, đau mà thích xoa bóp là trung khí hư nên trọng dụng nhân sâm.

Lý hàn nhiều nên lợi dụng can khương để tán hàn, nếu tay chân mát nhiều hoặc lạnh gia phụ tử 12 gam gọi là Phụ tử lý trung thang (tác dụng ôn bổ tỳ thận).

Tứ nghịch thang

Có tác dụng hồi dương cứu nghịch

Phụ tử 12 gam, ôn trung bổ dương

Can khương 12 gam, ôn trung khí hoà.

Chích thảo 8 gam, điều trung bổ hư

Theo kinh nghiệm của tôi, nếu bệnh nặng tay chân mình mẩy giá lạnh nhiều, mạch vi dục tuyệt, can khương, phụ tử phải dùng liều cao 24 gam đến 40 gam mà chích thảo chỉ dùng 8 hoặc 12 gam.

Thái âm kiêm biểu

  1. Bệnh thái âm biểu tà chưa hết, dùng pháp hạ sớm quá, bên ngoài nóng rét chưa trừ mà bên trong hàn khí lại tăng thêm biểu tà hãm vào lý phận, hợp với ngoại nhiệt mà gây ra bệnh ỉa chảy, khí nghịch dương bị hãm xuống, khi được âm nghịch lên khiến cho vùng dưới tim bị căng vì trong khí hư lại không chuyên vận được âm dương, công năng thăng giáng đảo ngược cho nên lí chứng không giải được mà biểu chứng cũng không trừ phép chữa phải ôn lý giải biểu dùng bài Quế chi nhân sâm thang.

Quế chi nhân sâm thang:

Tức bài Lý trung thang để ôn lý gia quế chi 16 gam để giải biểu.

Bệnh thái dương biểu tà chưa hết dùng phép hạ sớm quá mạch hư bụng đầy có khi đau là chứng hư không nên hạ nữa cho uống bài Quế chi thang bội bạch thược để điều hoà tỳ trung. Bạch thược bình can, can khí bình không khắc tỳ thì bụng khỏi đau.

  1. Nếu chứng trạng như trên, nhưng mạch trầm thực, đại tiện táo kết mà bụng đau dữ, tay đè vào không chịu được, nên phải hạ ngay dùng bài Quế chi gia đại hoàng thang.

Quế chi gia đại hoàng thang.

Tức là bài Quế chi thang bỏ bạch thược ở trên gia thêm đại hoàng 8 gam để khu trục tích trệ.

Bệnh này do người tạng thực mà có táo kết nên biểu hiện ra dương chứng, thực chứng, có lẽ quy vào thái dương sinh hợp bệnh thì đúng hơn.

Âm hoàng, bệnh thái mà hàn thấp uất lại có thể sinh ra chứng phát hoàng, nhưng sắc vàng tối sẫm không có hiện tượng phát nóng, khác với dương minh do thấp nhiệt kết lại mà sinh ra chứng vàng da, vàng mắt, sắc vàng tươi sáng gọi là chứng dương hoàng. Thái âm tỳ hư thấp thịnh, hàn thấp ứ trệ mà gây ra chứng âm hoàng.

Chữa âm hoàng chủ yếu là: ôn trung khu hoàng như các bài Lý trung thang hoặc Tứ nghịch thang gia nhân trần tuỳ theo mức độ của bệnh, nhân sâm chủ trị bệnh phát hoàng nên dùng liều cao từ 20 đến 40 gam.

Phân biệt thái âm bệnh với dương minh bệnh

Bệnh ở trường vị nếu thực nhiệt là dương minh, hư hàn là thái âm, vì vậy phương pháp điều trị rất xa, về mặt chẩn đoán phải lưu tâm phân biệt cho khỏi nhầm.

Chứng trạng đầy của thái âm có lúc giảm bớt như cũ, ấn tay và thở không có sức chống đõ, ấn mạnh tay xuống đáy bụng bệnh nhân không kêu đau, trái lại chứng trạng của dương minh thì không có lúc nào giảm, ấn tay vào không có sức chống lại, ấn mạnh tay thì bệnh nhân kêu đau thì bệnh nhân không chịu được.

Chứng đau bụng của thái âm là tỳ vị hư hàn mà bụng tự đau cho nên bụng đau từng cơn, nghĩa là lúc nào được khí trị cho đầy đủ ấm áp thì không đau, còn chứng bụng của dương minh vì có phần táo nên lúc nào cũng đau đau nghĩa là vì bản thân tỳ tạng hư hàn mà đau, chứ không phải vì tà khí ứ trệ mà đau.

Phân biệt chứng ỉa chảy của thái âm và thiếu âm

Chứng ỉa chảy của thái âm và thiếu âm tuy cùng loại hư hàn mà có khác nhau chút đỉnh. Thái âm là tỳ tạng hư hàn mà thấp khí nhiều cho nên không khát nước. Thiếu âm là thận dương hư nhược hơn nữa có tính chất toàn thân chứng trạng suy yếu mà tân dịch (suy yếu) thiếu thốn cho nên có chứng trạng khát nước. Tuy thái âm bệnh có phần nhiệt hơn thiếu âm nhưng tỳ tạng hư hàn quá nên có khi phải dùng phép (lúc tắc bổ mẫu) bổ thận hoả để sinh tỳ thì thì dùng Tứ nghịch thang là phương dược của thiếu âm, Lý trung thang mới là phương dược chính của thái âm.

Những chú ý khi cho trẻ đi nghỉ mát

Nhiều người lớn – nhất là những ông bố – muốn tạo ra cho con mình những hoạt động hè thật sôi nổi, ngay từ những ngày đầu mà quên mất rằng đi nghỉ hè có nghĩa chính là ĐI NGHỈ. Đối với trẻ em cũng vậy : tới một nơi xa lạ, khí hậu lạ, các cháu cần phải có một thời gian nào đó để cơ thể hòa hợp với môi trường sống mới. Bởi vậy, không nên vội để các cháu tham dự các hoạt động thể thao, những cuộc đi bộ đường dài, leo núi vát vả ngay khi mới tới điểm nghỉ hè, khiến cho các cháu bị mệt.

Đối với trẻ em, không nên cho các cháu tham gia vào các hoạt động thể thao đơn thuần mà chỉ dự vào các “trò chơi” thể thao mà thôi.

Ngoài bãi biển

Được nhào vào sóng, ngâm chân vào nước là những điều thích thú với đa số trẻ em. Khí hậu miền biển cũng rất tốt với các em. Tuy vậy cần chú ý :

  • Không nên đưa trẻ dưới 7-8 tháng ra bãi biển vì các cháu chưa chịu được nắng, gió, cát v.v… Nếu bạn muốn ra biển mà không thể không mang theo cháu được thì nên nhớ, mỗi ngày chỉ nên cho cháu ra ngoài tối đa là 1 giờ. Không nên cho cháu ra ngoài vào thời gian trời hóng. Không nên để cháu nằm một mình trong nôi ở ngoài nắng.

Nên cho cháu uống nước luôn và nếu bạn muốn cho cháu tắm nước biển, hãy lấy nước vào trong một cái chậu, mang phơi nắng cho nước hơi ấm rồi hãy cho cháu vào nước. Cháu bé sẽ rất thích thú, nhưng cũng đừng quên đội mũ cho cháu.trẻ mắc tự kỷ trong những năm gần đây có xu hướng tăng

  • Trẻ em từ 1 tới 4 tuổi rất dễ bị chết đuối. Ở chỗ sâu 20 cm nước cũng có thể xảy ra tai nạn, nếu Bé ngã úp mặt xuống nước và không đứng dậy được. Bởi vậy, phải luôn để mắt tđi các cháu, khi các cháu đùa giỡn dưới nước.
  • Không nên để các cháu ngâm nước lâu, nhất là những ngày đầu. Tắm biển đối với các cháu bé, không phải là tắm hoặc bơi, mà chỉ là cuộc vui đùa, nghịch nước.

Bé chạy xuống nước, ngồi xuống, đứng lên, chạy lên bờ, nghịch cát rồi lại chạy xuống nước… Thế là đủ khỏe rồi.

  • Nếu Bé sợ, không dám xuống nước, đừng vội ép buộc Bé. Hiện tượng đó là tự nhiên, nhất là trong những ngày đầu vì lần đầu tiên Bé thấy biển rộng, sóng to có cả tiếng gầm gừ có vẻ hung dữ và nguy hiểm. Bạn hãy tung bóng với Bé ở trên bờ, hoặc đắp cát thành núi rồi đào một cái rãnh cho sóng làm nước dồn vào rồi lại chảy ra. Tới một lúc nào đó, bạn sẽ thấy con bạn tự chạy xuống nước mà không cần ai phải dỗ dành.
  • Trên bãi cát hoặc cả trên miền núi đá nếu không có đá nhọn – hãy để cho con bạn chạy chân trần. Đi hoặc chạy như vậy, Bé sẽ giữ được thăng bằng dễ dàng hơn, gót chân và những bắp thịt bàn chân được có dịp để luyện tập cho khỏe và tránh được hiện tượng chân bẹt. Khi đi đất trẻ em đi chắc chắn hơn, không dễ bị trượt chân như khi đi giày, dép.
  • Không khí biển kích thích cơ thể và cũng làm cơ thể bị mệt. Do đó, cần cho các trẻ ngủ trưa. Không nên cho trẻ sơ sinh ra bãi biển buổi trưa.
  • Tuy rằng có những phương pháp tập bơi cho trẻ từ sớm, nhưng thông thường, các cháu dưới 5-6 tuổi chưa cần tập bơi.

Con sứa biển

Ở biển, trẻ có thể bị các con sứa biển đụng vào da gầy ngứa, rát và có thể sốt. Trường hợp này, nên đưa các cháu vào bệnh viện để chữa trị dị ứng.

Trẻ tắm nắng lâu hoặc đang ra nhiều mồ hôi nếu tắm hoặc ngâm nước ngay, rất dễ bị cảm.

Nghỉ mát trên núi

Không khí trên núi rất tốt cho trẻ em, kể cả trẻ sơ sinh. Hiện tượng không khí loãng – ít ôxy – chỉ có ở độ cao từ 3.000 – 3.500m trở lên. Các trẻ em bị bệnh hen đi nghỉ ở miền núi cũng rất tốt. Tuy vậy, ở miền núi đề phòng cho các cháu khỏi bị lạnh hoặc bị tia nắng mặt trời chiếu làm chói mắt. Khi ra ngoài, các cháu nhỏ cũng nên đeo kính râm.

Nghỉ hè ở thôn quê

Không khí đồng quê cũng tốt cho sức khỏe vì trong sạch hơn không khí thành phố. Nghỉ hè ở thôn quê một thời gian rất có lợi cho sức khỏe nếu nơi ở không bị ẩm ướt hoặc nóng ngột ngạt, kém thoáng đãng. Tuy vậy, các cháu nhỏ sống ở quê dễ bị các tai nạn như : chết đuối ở sống hoặc bị rắn cắn. Bởi vậy, nên đề phòng và trông kỹ các cháu khi tắm sông. Tắm sống chỉ có lợi khi trẻ đã biết bơi lội. Nước sống đã không có tác dụng tốt như nước biển, lại còn thường bị ô nhiễm vì rác và chất thải.

Nếu bạn dắt con nhỏ đi qua vùng cỏ hoặc có bụi rậm, nên cho các cháu đi giày cao cổ để tránh bị rắn cắn hoặc bị các loại bọ cỏ chích.

Dù sao, đối với các trẻ em sống ở thành phố luôn có tiếng động ầm ĩ của xe cộ, mùi khói xe và mùi thuốc lá thì những ngày nghỉ hè ở đồng quê nơi có những căn nhà nhỏ, cánh đồng rộng, nhiều cây, bụi cỏ hoang cùng hoa dại, không khí không bị ô nhiễm… vẫn có thể là những ngày lý thú, nhiều kỷ niệm và tăng cường được sức khỏe.

Ánh nắng mặt trời : lợi và hại

Da cần không khí vì da cũng “thở”. Ánh nắng mặt trời giúp cơ thể chế tạo vitamin D bởi tác dụng của những tia cực tím. Bạn có thể để con bạn tắm nắng ở một nơi kín gió, tránh cho cháu khỏi bị lạnh, ngay từ khi cháu được 4 tháng. Tuy vậy, phải chú ý cẩn thận ! Vì da Bé còn non nớt và những tia nắng có tác dụng rất mạnh.

Khi cho trẻ tắm nắng, nên tiến hành từ từ. Thoạt đầu, để nắng chiếu vào bàn chân, rồi đến cẳng chân, đùi… cuối cùng là ngực và lưng. Chỉ nên cho các cháu tắm nắng lúc buổi sáng và CUỐI chiều, đầu đội mũ, nón.

Dù trẻ đã lớn, cũng cần chú ý :

  • Không nên cởi trần hoặc trần truồng .nằm im trong nắng; phải vận động, thỉnh thoảng đi vào chỗ râm. Không được phơi mình lúc ban trưa. Tóc của trẻ em mảnh nhỏ, không che được đầu như tóc người lớn, nên phải luôn nhớ đội mũ, che đầu.
  • Trẻ mới ở thành phố tới nơi nghỉ mát, không nên cởi trần ngày. Phải có thời gian thích hợp cho cơ thể, nên có thể để mình trần trong 2, 3 ngày sau.
  • Không khí ở biển hoặc trên núi trong sạch, ít bụi nên tác dụng của các tia nắng mạnh hơn ở thôn quê hoặc thành phố.
  • Những trẻ em có mầu da càng trắng càng dễ bắt nắng và nhạy cảm với tia nắng.
  • Việc phơi nắng thái quá có thể dẫn tới bệnh ung thư da, kể cả ở người lđn.
  • Nhiều loại kem và dầu thoa da không có tác dụng bảo vệ da vì là của “dỏm”. Phải lựa chọn kỹ, khi mua.
  • Phải nhớ đeo kính râm để bảo vệ mắt.

Biện pháp chống nóng

Để chống nóng cho các cháu nhỏ, các bà mẹ có thể tăng thêm số lần tắm trong ngày cho các cháu, luôn cho các cháu uống nước. Nếu không cần uống, các cháu sẽ từ chối và đẩy bình ra. Không cần thay loại sữa.

Tránh không mặc cho các cháu quần bằng vải hóa học, không thấm nước. Cần thay quần áo cho các cháu luôn.

Đối với các cháu lớn, trong bữa ăn cho ăn thêm nhiều trái cây, sữa và các sản phẩm từ sữa.

Tắm tại hồ bơi

Hiện nay, có nhiều người có xu hướng dẫn con cái đi tắm tại hồ bơi công cộng, kể cả các cháu còn nhỏ vì nghe nói rằng, có cháu chỉ mới vài tuần lễ cũng có thể phát triển khả năng bơi lội. Hiện tượng này dù có đúng cũng chỉ là trường hợp cá lẻ không áp dụng được với tất cả mọi trẻ em.

Hồ bơi công cộng không tốt đối với trẻ em dưới 2 tuổi vì Ồn ào, đông người bơi, dễ va chạm, nóng, nước không đảm bảo sạch hoặc nước có nhiều chất sát trùng không hợp với trẻ em. Trẻ tắm ở hồ bơi phải được người lớn luôn để ý, theo dõi.

Dâu tằm

DÂU TẰM

Tên khác: Tang (桑), Mạy môn (dân tộc Thổ); Dâu cang (dân tộc Mèo); Nằn phong (Dao); Tầm tang.

Tên khoa học: Morus alba L., họ Dâu tằm (Moraceae). Mô tả: Cây gỗ, cao2-3 m. Lá mọc so le, hình bầu dục, nguyên hoặc chia 3 thùy, có lá kèm, đầu lá nhọn hoặc hơi tù. Phía cuống hơi tròn hoặc hơi bằng, mép có răng cưa to. Từ cuống lá tỏa ra 3 gân rõ rệt. Hoa đực mọc thành bông, có lá đài, 4 nhị (có khi 3). Hoa cái cũng mọc thành bông hay thành khối hình cầu, có 4 lá đài. Quả mọc trong các lá đài, màu đỏ, sau đen sẫm, ăn được, còn dùng làm thuốc hoặc ngâm rượu để uống, mùi thơm, vị chua ngọt.

Bộ phận dùng: Vỏ rễ (Tang bạch bì – Cortex Mori). Lá (Tang diệp – Folium Mori). Cành (Tang chi – Ramulus Mori). Quả (Tang thầm – Fructus Mori). Tầm gửi trên cây Dâu (Tang ký sinh – Ramulus Loranthi). Tổ bọ ngựa trên cây Dâu (Tang phiêu tiêu – Ootheca Mantidis).

Phân bố: Cây được trồng khắp nơi trong nước ta lấy lá nuôi tằm, làm thuốc.

Thu hái: Nhiều bộ phận của cây Dâu được thu hái làm thuốc. Có những bộ phận có thể thu hái quanh năm. Tầm gửi chỉ gặp ở những cây gỗ lớn. Dùng tổ bọ ngựa chưa nở, phải đồ chín rồi sấy khô.

Thành phần hoá học:

  • Tang bạch bì: Acid hữu cơ, tanin, pectin,
  • Tang diệp: Chlorophyl, flavonoid, coumarin, acid amin,
  • Tang chi: Cellulose, tanin,
  • Tang thầm: Anthocyan (sắc tố màu đỏ của quả chín), đường (glucose, fructose), vitamin B1, C, tanin, protit và acid hữu cơ.

Công năng: Lá Dâu (Tang diệp) có tác dụng tán phong, thanh nhiệt, lương huyết, sáng mắt. Người ta nhận thấy lá Dâu có tác dụng trị liệu đái đường lại ức chế trực khuẩn thương hàn, tụ cầu khuẩn. Vỏ rễ Dâu (Tang bạch bì) đã cạo sạch lớp vỏ ngoài, phơi hay sấy khô, có tác dụng thanh phế nhiệt, lợi thuỷ, chỉ khái, hạ suyễn, tiêu sưng. Cành Dâu non (Tang chi) đã phơi hay sấy khô có tác dụng trừ phong, lợi các khớp, thông kinh lạc, tiêu viêm, hạ nhiệt, giảm đau. Quả Dâu (Tang thầm) có tác dụng dưỡng huyết, bổ gan thận, trừ phong. Tầm gửi cây Dâu (Tang ký sinh) có tác dụng mạnh gân cốt, lợi huyết mạch, hạ hồng cầu, an thai, xuống sữa, lợi tiểu. Tổ bọ ngựa cây Dâu (Tang phiêu tiêu) có tác dụng ích thận, cố tinh, lợi tiểu.

Công dụng, cách dùng, liều lượng:

  • Tang bạch bì: chữa ho, ho ra máu, phù thũng, đi tiểu ít. Ngày dùng 4 – 12g, dạng thuốc sắc
  • Tang diệp: chữa cảm mạo, ho, họng đau, nhức đầu, mắt đỏ, chảy nước mắt, phát ban, huyết áp cao, mồ hôi trộ Ngày dùng 4 – 12g, dạng thuốc sắc.
  • Tang chi: chữa tê thấp, chân tay co quắ Ngày dùng 20 – 40g, dạng thuốc sắc.
  • Tang thầm: chữa bệnh tiểu đường, lao hạch, mắt mờ, ù tai, thiếu máu. Nước quả Dâu cô thành Ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g. Liều dùng từ 12 – 20g.
  • Tang ký sinh: Trị các chứng phong thấp, tê bại, đau lưng, mỏi gố Trị động thai, đau bụng. Ngày dùng 12-20g.
  • Tang phiêu tiêu: Chữa hư lao, đổ mồ hôi trộm, di tinh, bạch đới, đái đục, đi đái không nín được (tẩm rượu sao, uống ngày 8g với nước chín). Trẻ em nổi mụn có mủ (đốt tồn tính, tán bột, hoà với dầu để bôi).

Bài thuốc:

  1. Ra mồ hôi trộm ở trẻ em, ra mồ hôi ở bàn tay người lớn: Lá Dâu non nấu canh với tôm, tép hoặc dùng lá dâu bánh tẻ 12g, Cúc hoa, Liên kiều, Hạnh nhân đều 12g, Bạc hà, Cam thảo đều 4g, Cát cánh 8g, Lô căn 20g, sắc uố
  2. Dự phòng cảm cúm: Lá Dâu 12g, Cúc hoa 12g, Thảo quyết minh 8g sắc uống
  3. Mắt đau, viêm màng kết mạc cấp tính: Lá Dâu nấu nước xông vào mắt; lá Dâu bánh tẻ, rửa sạch, giã nát đắp, có thể làm tan huyết khi đau mắt đỏ sung huyết
  4. Huyết áp cao: Lá Dâu và hạt Ích mẫu nấu nước ngâm chân buổi tối 30-40 phút trước khi đi ngủ.
  5. Viêm khớp sưng phù, chân tay tê bại, cước khí, đầu ngón tay đau nhức, ngứa đỏ về mùa đông đợt lạnh nhiều: Cành Dâu, Kê huyết đằng, Uy linh tiên, mỗi vị 12g, sắc nước uống
  6. Ho, hen suyễn: Vỏ rễ 20-40g sắc uố Có thể thêm Địa cốt bì và Cam thảo.
  7. Khó tiêu, chân tay phù nề: Vỏ rễ Dâu sắc uống hoặc phối hợp với vỏ Gừng, vỏ Quít, vỏ quả Cam, Phục linh sắc uống
  8. Chữa thiếu máu, da xanh người gầy khô héo, mất ngủ, đầu choáng, chóng mặt; dùng quả Dâu chế xirô hay ngâm rượu hoặc dùng quả Dâu thêm Câu Kỷ tử, Hà thủ ô đỏ, nhân hạt táo, mỗi vị 10g, sắc uống
  1. Trừ phong thấp, mạnh gân cốt, can thận yếu dẫn tới đau lưng mỏi gối: Tầm gửi cây Dâu, phối hợp với Cẩu tích, Ngưu tất, sắc nước uống
  2. Bổ huyết, an thai khi bị động thai ra máu: Tầm gửi thêm rễ Gai, Tục đoạn sắc nước uống
  3. Di mộng tinh, hoạt tinh: 10 tổ Bọ ngựa sao cháy nghiền bột, thêm đường, uống trước khi đi ngủ, uống 3 ngày. Có thể thêm Long cốt, nghiền bột mịn, ngày 2 lần, trong 3 ngày.
  4. Đái dắt, đái nhạt: Tổ Bọ ngựa Dâu cùng với quả Kim anh, nướng cháy, tán mịn, uống với rượu lúc đói.
  5. Thuốc bổ: Sâu Dâu thêm nước cơm hấp chín, ăn tất cả.

Viêm tuyến giáp Riedel (viêm xơ tuyến giáp)

Tên khác: viêm tuyến giáp cứng như gỗ, bệnh Riedle, viêm xơ tuyến giáp.

Định nghĩa

Bệnh hiếm gặp, có đặc điểm là tuyến giáp sưng to và cứng, dính với những cơ quan bên cạnh và thường gây ra những dấu hiệu chèn ép khí quản.

Căn nguyên: chưa biết.

Giải phẫu bệnh

Mô xơ sinh sản mạnh, nên dần dần phá huỷ nhu mô tuyến giáp, xâm lấn cả tới những mô quanh tuyến giáp và có thể tiến triển thành bệnh xơ hoá trung thất và xơ hoá sau phúc mạc.

Triệu chứng

Bệnh hay gặp nhất ở phụ nữ sau 50 tuổi, có biểu hiện bướu cổ lan toả hoặc dạng nhân nhỏ, có mật độ rất rắn (cứng như gỗ), và những  dấu hiệu chèn ép khí quản (giọng nói khàn, khó thở).

Bệnh có khả năng diễn biến tới nhược năng tuyến giáp. Chẩn đoán được khẳng định nhờ sinh thiết.

Điều trị

Cắt bỏ tuyến giáp một phần trong trường hợp chèn ép khí quản.

CATAFLAML – Thuốc giảm đau chống viêm mạnh

Điều trị ngắn hạn trong những trường hợp viêm đau cấp tính như trong các chuyên khoa tai mũi họng, răng hàm mặt, sản phụ khoa … và cơn đau bụng kinh, sau chấn thương hoặc phẫu thuật, cơn migrain, đau trong hội chứng cột sống, thấp ngoài khớp.

THUỐC CATAFLAML

NOVARTIS

viên bao đường 25 mg : hộp 100 viên, 500 viên.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Diclofénac potassium 25 mg

DƯỢC LỰC

Thuốc Cataflaml là một thuốc kháng viêm không st roide có đặc tính giảm đau, kháng viêm và hạ sốt mạnh.

Thuốc Cataflaml có tác động khởi phát nhanh chóng làm cho thuốc đặc biệt thích hợp trong việc điều trị các chứng đau và viêm cấp tính.

Tác dụng ức chế sinh tổng hợp prostaglandine đã được kết luận qua các thí nghiệm, được xem như là cơ chế tác dụng cơ bản của thuốc. Prostaglandine giữ vai trò rất lớn trong gây viêm, đau và sốt.

In vitro, diclofénac không làm giảm sinh tổng hợp protéoglycane trong sụn ở các nồng độ tương đương với nồng độ được ghi nhận ở người.

Thuốc Cataflaml được chứng minh có tác động giảm đau mạnh trong những cơn đau từ trung bình cho đến trầm trọng. Khi có viêm, ví dụ như viêm do chấn thương hay do can thiệp phẫu thuật, thuốc nhanh chóng làm giảm chứng đau tự nhiên và đau do vận động, và giảm phù nề do viêm và phù nề ở vết thương.

Các nghiên cứu lâm sàng cũng cho thấy với đau bụng kinh tiên phát, hoạt chất có khả năng làm giảm đau và giảm mức độ xuất huyết.

Trong cơn migrain, Thuốc Cataflaml đã chứng minh làm giảm nhức đầu và cải thiện các triệu chứng buồn nôn, nôn đi kèm.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Hấp thu :

Diclof nac potassium được hấp thu nhanh chóng và hoàn toàn sau khi uống. Sự hấp thu bắt đầu ngay sau khi uống và lượng hấp thu tương tự như lượng thuốc được hấp thu từ cùng một liều dưới dạng viên nén diclofénac sodium không tan trong dạ dày. Nồng độ tối đa trung bình trong huyết tương là 3,8 mmol/l đạt được sau 20-60 phút sau khi uống một viên thuốc 50 mg. Uống thuốc khi ăn không gây ảnh hưởng đến lượng diclof nac được hấp thu, mặc dù tác dụng khởi đầu và tốc độ hấp thu có thể kéo dài một ít.

Lượng thuốc được hấp thu có liên quan tuyến tính với liều sử dụng.

Do khoảng một nửa diclofénac bị chuyển hóa trong lần qua gan đầu tiên, do đó diện tích dưới đường cong nồng độ khi dùng dạng uống hoặc đường trực tràng chỉ bằng khoảng một nửa so với đường tiêm với liều tương tự.

Dược động của thuốc không thay đổi sau khi dùng nhiều liều liên tiếp. Thuốc không bị tích tụ nếu được dùng đúng khoảng cách liều được khuyến cáo.

Phân phối :

Lượng diclofénac liên kết với protéine huyết tương là 99,7%, chủ yếu với albumine (99,4%). Thể tích phân phối trong khoảng 0,12-0,17 l/kg. Diclof nac đi vào trong hoạt dịch, nơi có nồng độ

tối đa đo được từ 2 đến 4 giờ sau khi đạt được nồng độ tối đa trong huyết tương. Thời gian bán hủy đào thải từ hoạt dịch là 3-6 giờ. Hai giờ sau khi đạt đến nồng độ tối đa trong huyết tương, nồng độ hoạt chất trong hoạt dịch đã cao hơn nồng độ trong huyết tương, và nồng độ này được duy trì cao hơn so với trong huyết tương cho đến 12 giờ.

Chuyển hóa sinh học :

Chuyển hóa sinh học của diclofénac một phần do sự liên hợp của bản thân phân tử nhưng phần lớn bởi sự hydroxyl hóa và méthoxyl hóa một gốc hoặc nhiều gốc, tạo nên một vài chất chuyển hóa phenol (3′-hydroxy-, 4′-hydroxy-, 5-hydroxy-, 4′,5-dihydroxy-, và 3′-hydroxy-4′-méthoxy- diclofénac), hầu hết những chất chuyển hóa này được chuyển thành dạng liên hợp glucuronique. Hai trong số những chất chuyển hóa này có hoạt tính sinh học, nhưng với mức độ yếu hơn nhiều so với diclofénac.

Đào thải :

Toàn bộ thanh thải toàn thân của diclofenac từ huyết tương là 263 +/- 56 ml/phút (giá trị trung bình +/- SD). Thời gian bán hủy cuối cùng trong huyết tương là 1-2 giờ. Bốn trong số các chất chuyển hóa, trong đó có hai chất chuyển hóa có hoạt tính, cũng có thời gian bán hủy ngắn trong huyết tương từ 1-3 giờ. Một chất chuyển hóa là 3′-hydroxy-4′-méthoxy-diclofénac, có thời gian bán hủy trong huyết tương dài hơn. Tuy nhiên, chất chuyển hóa này hầu như không có tác dụng.

Khoảng 60% liều dùng được đảo thải qua nước tiểu dưới dạng liên hợp glucuronique của hoạt chất và của chất chuyển hóa (hầu hết những chất này cũng được chuyển sang dạng liên hợp glucuronique). Dưới 1% được đào thải dưới dạng không đổi. Phần còn lại được đào thải đưới dạng chất chuyển hóa theo mật qua phân.

Tình trạng bệnh nhân :

Không ghi nhận có sự khác biệt theo tuổi tác trong sự hấp thu, chuyển hóa hay đào thải thuốc. Ở bệnh nhân suy thận, khi dùng liều duy nhất theo phác đồ điều trị thông thường, không ghi nhận có sự tích tụ hoạt chất thuốc dưới dạng không đổi có thể can thiệp đến dược động của thuốc. Với độ thanh thải cr atinine dưới 10 ml/phút, nồng độ trong huyết tương ở trạng thái bền vững tính được của chất chuyển hóa hydroxyl cao hơn khoảng 4 lần so với ở người thường. Tuy nhiên, các chất chuyển hóa được đào thải hoàn toàn qua mật.

Ở bệnh nhân viêm gan mãn tính hay xơ gan không mất bù, dược động và chuyển hóa của diclof nac cũng giống như ở bệnh nhân không có bệnh gan.

Dữ liệu tiền lâm sàng :

Diclofénac không ảnh hưởng lên khả năng sinh sản của súc vật thí nghiệm và cả sự phát triển trước, trong và sau khi sanh ra của lứa con sau này. Không ghi nhận có tác dụng gây quái thai ở chuột nhắt, chuột lớn và thỏ. Không thấy có tác dụng gây biến dị trên nhiều thử nghiệm in vivo và in vitro khác nhau, và không ghi nhận khả năng gây ung thư trong những nghiên cứu dài hạn ở chuột lớn và chuột nhắt.

CHỈ ĐỊNH

Điều trị ngắn hạn trong những trường hợp viêm đau cấp tính như trong các chuyên khoa tai mũi họng, răng hàm mặt, sản phụ khoa … và cơn đau bụng kinh, sau chấn thương hoặc phẫu thuật, cơn migrain, đau trong hội chứng cột sống, thấp ngoài khớp.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

  • Loét dạ dày tá tràng.
  • Quá mẫn đã biết với hoạt chất hay tá dược của thuốc.
  • Như các kháng viêm không st roide khác, Thuốc Cataflaml không được chỉ định cho bệnh nhân có cơn hen, nổi mề đay hay viêm xoang cấp do tác dụng của acide acétylsalicyclique hay những thuốc khác có hoạt tính ức chế tổng hợp

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG

Xuất huyết tiêu hóa hay loét/thủng dạ dày ruột có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong quá trình trị liệu, có thể có hoặc không có triệu chứng báo trước hay tiền sử bệnh. Nhìn chung, những chứng này gây hậu quả nghiêm trọng cho người già. Trong một số rất ít trường hợp có xuất huyết dạ dày hay loét ở bệnh nhân dùng Thuốc Cataflaml, nên ngưng thuốc.

Như các kháng viêm không st roide khác, những phản ứng dị ứng, bao gồm phản vệ/giống phản vệ, cũng có thể xảy ra trong những trường hợp rất hiếm mà không có xảy ra khi dùng thuốc trước đó.

Như các kháng viêm không st roide khác, sử dụng Thuốc Cataflaml có thể che đi những dấu hiệu và triệu chứng nhiễm trùng do tính chất dược lý của nó.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Theo dõi y khoa chặt chẽ ở bệnh nhân có triệu chứng cho thấy có rối loạn tiêu hóa, hay một bệnh sử gợi đến loét tá tràng hay dạ dày, bệnh nhân bị viêm loét kết tràng hay bệnh Crohn, và bệnh nhân bị suy gan.

Như các kháng viêm không st roide khác, các trị số của một hay nhiều enzyme ở gan có thể gia tăng. Trong quá trình điều trị kéo dài với Thuốc Cataflaml, việc theo dõi chức năng gan được áp dụng như một biện pháp đề phòng. Nếu kết quả thử nghiệm chức năng gan bất thường kéo dài hay xấu đi, nếu có phát triển những dấu hiệu hay triệu chứng lâm sàng ứng với bệnh gan, hay nếu những biểu hiện khác xuất hiện (như tăng bạch cầu ưa osine, nổi ban…) nên ngưng Thuốc Cataflaml. Chứng viêm gan có thể xuất hiện mà không có triệu chứng báo trước.

Nên cẩn trọng khi dùng Thuốc Cataflaml ở bệnh nhân có rối loạn chuyển hóa porphyrine ở gan, vì Thuốc Cataflaml có thể gây bộc phát cơn.

Do tầm quan trọng của prostaglandine trong sự duy trì sự tưới máu ở thận, nên đặc biệt cẩn trọng khi dùng cho bệnh nhân suy tim hay suy thận, người già, bệnh nhân đang điều trị với thuốc lợi tiểu và bệnh nhân thiếu đáng kể thể tích dịch ngoại bào do bất kỳ nguyên do gì, ví dụ như trước và sau đại phẫu. Theo dõi chức năng thận được khuyến cáo áp dụng như một biện pháp đề phòng khi dùng Thuốc Cataflaml trong những trường hợp như trên. Sự ngưng thuốc thường dẫn theo sau đó tình trạng như trước khi trị liệu.

Việc điều trị với Thuốc Cataflaml trong những chỉ định đã nêu trên thường cho thấy chỉ cần dùng trong một vài ngày. Nhưng nếu sử dụng ngược với những lời khuyên về cách dùng thuốc, có nghĩa là điều trị dài hạn, nên đo công thức máu như khi điều trị dài hạn với những kháng viêm không st roide khác. Như những kháng viêm không stéroide khác, Thuốc Cataflaml có thể ức chế tạm thời sự kết tập tiểu cầu. Bệnh nhân có rối loạn đông máu nên được theo dõi cẩn thận. Trên cơ sở y học cơ bản, nên cẩn thận khi dùng cho người già. Đặc biệt khuyến cáo rằng nên dùng liều hữu hiệu thấp nhất cho người lớn tuổi hay người nhẹ cân.

Bệnh nhân bị chóng mặt hay những rối loạn trên thần kinh trung ương như rối loạn thị giác khi dùng thuốc không nên lái xe hay sử dụng máy móc.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Phụ nữ mang thai chỉ được dùng Thuốc Cataflaml khi có lý do chính đáng và chỉ dùng với liều hữu hiệu thấp nhất như đối với những thuốc ức chế tổng hợp prostaglandine khác, đặc biệt khi dùng thuốc trong ba tháng cuối của thai kỳ (do khả năng gây đờ tử cung và/hoặc đóng sớm ống động mạch).

Với liều uống 50 mg mỗi 8 giờ, hoạt chất được bài tiết qua sữa mẹ, nhưng với lượng rất nhỏ và không ghi nhận có tác dụng không mong muốn nào lên trẻ sơ sinh.

TƯƠNG TÁC THUỐC

(Bao gồm các tương tác thuốc quan sát được khi dùng các hàm lượng khác và của diclofénac sodium)

  • Lithium, digoxine : Thuốc Cataflaml có thể làm tăng nồng độ trong huyết tương của lithium hay
  • Thuốc lợi tiểu : như các kháng viêm không st roide khác, Thuốc Cataflaml có thể ức chế tác động của thuốc lợi tiểu. Điều trị đồng thời với thuốc lợi tiểu giữ kali có thể làm tăng nồng độ kali trong huyết thanh, do đó nên theo dõi khi dùng chung hai loại thuốc này.
  • Các kháng viêm không stéroide khác : dùng phối hợp các kháng viêm không stéroide có thể làm tăng khả năng xảy ra tác dụng không mong muốn.
  • Thuốc chống đông máu : mặc dù những thăm dò lâm sàng không cho thấy rằng Thuốc Cataflaml tác động lên tính chất chống đông, cũng có những báo cáo riêng biệt về sự gia tăng nguy cơ xuất huyết ở bệnh nhân dùng đồng thời Thuốc Cataflaml và thuốc chống đông máu. Do đó, nên theo dõi cẩn thận những bệnh nhân này.
  • Thuốc hạ đường huyết : các nghiên cứu lâm sàng cho thấy Thuốc Cataflaml có thể được dùng chung với thuốc hạ đường huyết mà không ảnh hưởng đến tác dụng trên lâm sàng. Tuy nhiên, có những trường hợp riêng biệt được báo cáo về tác động tăng đường huyết lẫn hạ đường huyết đòi hỏi phải thay đổi liều lượng của thuốc hạ đường huyết trong quá trình điều trị với Thuốc Cataflaml.
  • Méthotrexate : cần cẩn thận nếu thuốc kháng viêm không st roide được dùng dưới 24 giờ trước khi hoặc sau khi điều trị với méthotrexate, do nồng độ trong máu của méthotrexate có thể tăng và do đó tăng độc tính.
  • Cyclosporine : tác động của thuốc kháng viêm không stéroide lên prostaglandine thận có thể làm tăng độc tính của cyclosporine trên thận.
  • Kháng sinh nhóm quinolone : đã có những báo cáo riêng lẻ về chứng co giật có thể là do sử dụng đồng thời quinolone và thuốc kháng viêm không stéroide.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Bao gồm các tác dụng không mong muốn xảy ra khi dùng các hàm lượng khác của Thuốc Cataflaml và diclofenac sodium trong điều trị ngắn hạn hay dài hạn.

(Tần suất ước lượng : thường xuyên > 10% ; đôi khi > 1-10% ; hiếm > 0,001-1% ; trường hợp riêng biệt < 0,001%).

  • Đường tiêu hóa : đôi khi : đau thượng vị, các rối loạn tiêu hóa khác như buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy, co thắt ruột, khó tiêu, trướng bụng, chán ăn ; hiếm : xuất huyết tiêu hóa (nôn ra máu, phân đen, tiêu chảy có máu), loét dạ dày hay ruột có hay không có xuất huyết hay thủng; trường hợp riêng biệt : viêm niêm mạc miệng, viêm lưỡi, sang thương thực quản, hẹp ruột dạng biểu đồ, bệnh ở phần đại tràng như viêm kết tràng xuất huyết không đặc hiệu và viêm kết tràng có lo t tăng nặng hơn hay bệnh Crohn, táo bón, viêm tụy.
  • Hệ thần kinh trung ương : đôi khi : nhức đầu, chóng mặt, choáng váng ; hiếm : buồn ngủ ; trường hợp riêng biệt : rối loạn cảm giác, bao gồm dị cảm, rối loạn trí nhớ, mất định hướng, mất ngủ, kích thích, co giật, trầm cảm, bồn chồn, ngủ có ác mộng, run rẩy, phản ứng loạn tâm thần, viêm màng não vô khuẩn.
  • Giác quan : trường hợp riêng biệt : rối loạn thị giác (nhìn mờ, song thị), giảm thính giác, ù tai, rối loạn vị giác.
  • Da : đôi khi : nổi ban hay phát ban da ; hiếm : nổi mề đay ; trường hợp riêng biệt : nổi ban có mụn nước, ecz ma, ban đỏ đa dạng, hội chứng Stevens- Johnson, hội chứng Lyell (chứng bong biểu bì nhiễm độc cấp), chứng đỏ da (viêm da tróc vảy), rụng tóc, phản ứng nhạy cảm ánh sáng, ban xuất huyết, bao gồm ban xuất huyết dị ứng.
  • Thận : hiếm : phù nề ; trường hợp riêng biệt : suy thận cấp, bất thường tiết niệu như tiểu ra máu và protéine niệu, viêm kẽ thận, hội chứng thận hư, hoại tử nhú thận.
  • Gan : đôi khi : tăng aminotransferase huyết thanh ; hiếm : viêm gan có hay không có vàng da ; trường hợp riêng biệt : viêm gan kịch phát.
  • Máu : trường hợp riêng biệt : giảm tiểu cầu, giảm bạch cầu, thiếu máu tán huyết, thiếu máu bất sản, mất bạch cầu hạt.
  • Quá mẫn : hiếm : phản ứng quá mẫn như hen suyễn, phản ứng phản vệ hay giống phản vệ toàn thân bao gồm hạ huyết áp ; trường hợp riêng biệt : viêm mạch, viêm phổi.
  • Hệ tim mạch : trường hợp riêng biệt : đánh trống ngực, đau ngực, cao huyết áp, suy tim sung huyết.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Dùng cho người lớn : liều khởi đầu khuyến cáo dùng mỗi ngày là 100-150 mg. Trong những trường hợp nhẹ hơn cũng như cho trẻ em trên 14 tuổi, thường chỉ dùng 75-100 mg/ngày là đủ. Nên chia liều mỗi ngày thành 2-3 lần dùng.

Đau bụng kinh nguyên phát : liều hàng ngày nên điều chỉnh theo từng người và thường từ 50-150 mg. Nên dùng liều khởi đầu là 50-100 mg và nếu cần có thể tăng trong một vài trường hợp lên đến 200 mg/ngày. Nên bắt đầu điều trị ngay khi có xuất hiện triệu chứng đầu tiên và tùy thuộc vào các triệu chứng, tiếp tục thêm vài ngày nữa.

Nên nuốt viên thuốc với nước, tốt nhất là trước bữa ăn.

Trong cơn migrain : khởi đầu điều trị liều 50 mg khi có tiền triệu đầu tiên. Trong trường hợp sau 2 giờ vẫn không có dấu hiệu giảm đau, có thể uống thêm 1 liều 50 mg. Nếu cần thiết có thể dùng 50 mg mỗi 4-6 giờ. Tổng liều không quá 200 mg/24 giờ.

QUÁ LIỀU

Điều trị : việc điều trị ngộ độc do thuốc kháng viêm không st roide đặc biệt bao gồm các biện pháp hỗ trợ và điều trị triệu chứng. Không có những chi tiết điển hình lâm sàng nào của quá liều diclofénac.

Nên áp dụng các biện pháp điều trị sau đây trong trường hợp quá liều : điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng được chỉ định cho những biến chứng như hạ huyết áp, suy thận, co giật, kích ứng tiêu hóa và suy hô hấp.

Các biện pháp đặc hiệu như gây lợi tiểu, thẩm phân hay truyền máu hầu như không hữu hiệu trong việc loại bỏ các kháng viêm không stéroide vì mức độ gắn kết cao với protéine và do sự chuyển hóa rộng rãi của thuốc.

Chóng mặt

Chóng mặt là một ảo giác hoàn toàn trái ngược về mặt vận động hoặc về tư thế của người bệnh. Từ chóng mặt dùng để chỉ tất cả những cảm giác mất thăng bằng có nguồn gốc từ cơ quan tiền đình. Chóng mặt có thể biểu hiện dưới dạng những cảm giác quay đảo của chính người bệnh hoặc đồ vật xung quanh hoặc cả hai. Khi không có hiện tượng quay, người bệnh thường dùng từ mất thăng bằng. Cảm giác mất thăng bằng cũng là một triệu chứng có nguồn gốc do rối loạn chức năng cơ quan tiền đình mà cảm giác quay chỉ là một biểu hiện đặc biệt của cảm giác mất thăng bằng.

NGUYÊN NHÂN

Nguyên nhân chóng mặt được chia thành ba nhóm:

Do bệnh lý mê đạo

  • Bệnh lý thạch nhĩ

Chóng mặt kịch phát lành tính.

Thiểu sản thạch nhĩ.

  • Nhiễm độc tiền đình

Do thuốc, kháng sinh aminozid. Tổn thương trực tiếp vào cơ quan tiền đình, các tế bào giác quan tiền đình có lông chuyển. Tổn thương tai trong cũng có thể gián tiếp do thuốc làm suy giảm chức năng thận.

  • Rò ngoại dịch tai trong

Chấn thương: chủ yếu do vỡ xương đá.

Rò ngoại dịch tự phát thường xảy ra vào những đợt có tăng áp lực nội dịch tai trong.

Do sang chấn vào vùng khớp bàn đạp tiền đình như thay thế xương bàn đạp bằng một trụ dẫn quá dài.

Sau viêm mê nhĩ do lao, giang mai.

Kích thích âm thanh quá mạnh.

  • Bệnh chuyển hóa

Thuốc lợi tiểu.

Bệnh rối loạn chuyển hóa toàn thể làm tăng  lipid máu gây tăng xơ hóa nội mạch cung cấp máu cho tiền đình.

Rượu.

  • Bệnh viêm tai

Viêm tai mạn tính: gây viêm mê nhĩ thanh dịch, viêm mê nhĩ mủ cấp, viêm mê nhĩ mạn tính.

Viêm tai giữa cấp tính: gây viêm mê nhĩ thanh dịch, viêm mê nhĩ hủy hoại.

Viêm tai thanh dịch: gây rối loạn áp lực tai giữa làm biến đổi áp lực giữa hai cửa sổ tròn và bầu dục.

Viêm tai giữa cholesteatoma: gây viêm mê nhĩ cấp và viêm mê nhĩ mạn tính có kèm theo rò mê nhĩ.

Viêm tai do lao.

Bệnh  Wegener.

Sau phẫu thuật tai: có thể do rò mê nhĩ, viêm mê nhĩ, rối loạn thông khí vòi nhĩ.

  • Bệnh xốp xơ
  • Bệnh lỏng khớp bàn đạp – tiền đình

Hiện tượng Tulio: Tulio kinh điển, Tulio thạch nhĩ.

Hiện tượng Hennebert

Hội chứng tăng chuyển động xương bàn đạp.

  • Hội chứng Ménière

Do nguyên nhân sau mê đạo

  • Viêm dây thần kinh tiền đình: nguyên nhân hiện nay người ta đều cho là do viêm ngược dòng bởi virus
  • U dây VIII: khởi đầu là triệu chứng tiền đình sau đó là suy giảm thính lực từ từ kèm theo ù tai âm cao do chèn ép dây thần kinh ốc tai.
  • U góc cầu tiểu não: u màng não, phình mạch, u nang..

Do nguyên nhân ở trung tâm tiền đình hành não và trên hành não

Bệnh lý mạch máu não

  • Thiểu năng tuần hoàn động mạch cột sống – thân nền: là nguyên nhân thường gặp của triệu chứng chóng mặt ở người trên 50 tuổi do có hiện tượng thiếu máu mê đạo hay thiếu máu vùng thân não. Các triệu chứng bao gồm: ảo giác hoặc nhìn không rõ, song thị, giảm trương lực cơ, rối loạn ngôn ngữ. Các triệu chứng này có thể xuất hiện cùng với đợt chóng mặt hay riêng biệt. Nguyên nhân do xơ vữa động mạch dưới đòn hoặc cột sống thân nền.
  • Hội chứng Wallenberg:do tắc động mạch đốt sống dẫn tới thiếu máu cục bộ hoặc nhồi máu ở góc bên hành não, sau trám hành gây nên tổn thương các nhân tiền đình giữa và dưới.

Bệnh lý u não

  • U tiểu não hoặc áp xe tiểu não
  • U hành cầu não
  • U củ não sinh tư
  • U trên lều tiểu não

Bệnh thần kinh trung ương

  • Bệnh xơ cứng rải rác
  • Bệnh rỗng hành não
  • Bệnh Tabès
  • Bệnh thất điều gia truyền

CHẨN ĐOÁN

Các rối loạn tiền đình tự phát

Chóng mặt

Chóng mặt do thương tổn ở phần tiền đình ngoại biên (mê nhĩ) có đặc điểm sau:

  • Cảm giác bị quay tròn hoặc lắc qua lắc lại. Có thể thấy mọi vật xung quanh quay đảo hoặc chạy qua trước mắt theo một hướng nhất định. Hướng quay có thể ngang hoặc có thể dựng đứng.
  • Chóng mặt thường xuất hiện thành từng cơn, nhất là khi cử động hoặc thay đổi tư thế đầu. Ngoài cơn, người bệnh có thể đi lại được.
  • Chóng mặt thường xuất hiện cùng với các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật: buồn nôn, nôn, da xanh tái, huyết áp hạ..
  • Chóng mặt có thể kèm theo ù tai, điếc tiếp nhận và các triệu chứng này hợp thành hội chứng tiền đình.

Động mắt

  • Động mắt tự phát: là hiện tượng hai nhãn cầu cùng bị giật về một hướng. Động mắt bao gồm hai động tác chiều hướng trái ngược nhau: hướng giật chậm và hướng giật nhanh. Người ta qui ước mọi hướng giật nhanh là hướng động mắt. Động mắt tự phát là động mắt xuất hiện khi bệnh nhân ngồi mắt nhìn thẳng về phía trước, mở mắt hoặc nhắm mắt. Động mắt thường có ba chiều hướng: hướng ngang, hướng đứng và hướng chéo.

Động mắt tự phát chia làm ba loại:

  • Động mắt tiền đình: có đủ hai pha giật nhanh và chậm, là loại động mắt ngang. Động mắt này có đặc điểm là tốc độ pha chậm của động mắt sẽ bị chậm lại khi mở mắt trong ánh sáng và nhìn cố định vào một điểm so với khi nhắm mắt. Bất cứ loại động mắt nào không có ít nhất từ một trong ba tính chất trên thì đó là loại động mắt trung ương hoặc động mắt thị giác.
  • Động mắt trung ương: không có ba tính chất của động mắt tiền đình nêu trên.
  • Động mắt thị giác là động mát có tính chất nghề nghiệp như động mắt của người thợ mỏ…
  • Động mắt tư thế: chỉ xuất  hiện khi thay  đổi tư  thế của đầu đơn thuần hoặc cả thân mình, chia làm hai loại:
  • Động mắt tư thế tĩnh: xuất hiện khi người bệnh nằm ngửa, nghiêng phải hoặc trái.

Động mắt này kéo dài nếu người bệnh vẫn giữ nguyên tư thế nằm.

  • Động mắt tư thế kịch phát: chỉ xuất hiện khi thay đổi tư thế đột ngột và biến mất sau 30 giây đến 1 phút.

Lệch ngón tay: có hai nghiệm pháp.

  • Nghiệm pháp chỉ thẳng ngón tay:

người bệnh không thể giữ cho hai ngón tay của mình thẳng với ngón tay thầy thuốc khi họ nhắm mắt. Nếu bệnh nhân có thương tổn mê nhĩ thì hướng lệch của ngón tay sẽ đối lập với hướng động mắt gọi là mê nhĩ ngoại biên.

  • Nghiệm pháp đặt lại ngón tay chỉ:

bệnh nhân và thầy thuốc ngồi đối diện nhau. Bảo bệnh nhân nhắm mắt và dùng ngón tay trỏ phải chỉ vào đầu gối mình và chỉ vào ngón tay cái trái của thầy thuốc. Sau đó lại dùng ngón tay trỏ trái chỉ đầu gối mình và chỉ ngón tay cái phải của thầy thuốc. Trong trường hợp bệnh lý, người bệnh sẽ chỉ ngang sang phải hoặc sang trái.

Mất thăng bằng

Nghiệm pháp Romberg: bệnh nhân đứng thẳng, hai chân chụm lại, nhắm mắt. Nếu có rối loạn thăng bằng, bệnh nhân sẽ nghiêng người về một bên hoặc ngã về một bên.

  • Nghiệm pháp Foix-The’venard: để bệnh nhân đứng thẳng trong tư thế “nghiêm”, thầy thuốc dùng ngón tay đẩy khẽ vào ngực bệnh nhân làm cho bệnh nhân mất thăng bằng. Bình thường cơ cẳng chân trước và cơ duỗi chung ngón chân sẽ co lại và làm cho các ngón chân nhấc lên khỏi mặt đất. Nếu bệnh nhân bị giảm trương lực cơ thì các ngón chân sẽ không nhấc lên và nếu đẩy mạnh hơn bệnh nhân sẽ ngã về phía sau.
  • Nghiệm pháp Babinski-weill (nghiệm pháp đi hình sao): bệnh nhân nhắm mắt đi thẳng và giật lùi 6 lần, mỗi lần 8 bước từ điểm A đến điểm B. Nếu người bình thường sẽ đi thẳng đến điểm B và lùi về đúng điểm A. Người bệnh sẽ đi lệch về phía bên mê nhĩ bị tổn thương. Đường đi của người bệnh sẽ vẽ thành hình ngôi sao trên mặt đất.

Đánh giá kết quả

  • Tổn thương tiền đình ngoại biên: động mắt đánh về bên tai đối diện, các nghiệm pháp tiền đình tự phát lệch về bên tai bệnh. Các nghiệm pháp này đều xuất hiện một cách đầy đủ. Người ta gọi tập hợp các triệu chứng xuất hiện như vậy là đầy đủ và hài hòa.
  • Tổn thương tiền đình trung ương: các triệu chứng tiền đình tự phát xuất hiện không đầy đủ và không hài hòa chẳng hạn động mắt lại đánh về cùng bên với hướng ngã trong nghiệm pháp Romberg hoặc lệch ngón tay chỉ.

Các nghiệm pháp kích thích tiền đình

Các nghiệm pháp tiền đình tự phát có giá trị định tính đối với các cơ quan tiền đình thì các nghiệm pháp khám kích thích cơ quan tiền đình mang tính định lượng.

  1. Nghiệm pháp nhiệt: người thử nghiệm nằm trên bàn khám, đầu được nâng lên 30o. Tai phải và tai trái của người thử nghiệm lần lượt được bơm nước 44o và 30o mỗi lần bơm cách nhau 15 phút, khối lượng nước bơm là 200ml trong 30 giây. Những thông số được đánh giá: thời gian tiềm tàng (bình thường 20-30 giây); Thời gian động mắt (bình thường 60-90 giây).
  2. Nghiệm pháp quay giao động: người thử nghiệm ngồi trên ghế quay, đầu cố định trong tư thế cúi 30o và đeo kính Ghế sẽ quay sang phải rồi sang trái với biên độ giảm dần (dao động tắt dần kiểu con lắc). Động mắt xuất hiện sẽ được ghi lại bằng máy điện động nhãn kế (Electronystagmographe).
  3. Thử nghiệm OKN (Optokinéticus nystagmus: động mắt thị vận) là nghiệm pháp gây kích thích động mắt bằng ánh sáng. Các sọc sáng chuyển động được chiếu lên một màn ảnh sẽ gây ra động mắt cho người thử nghiệm khi quan sát sự chuyển động của các sọc sáng đó và được gọi là động mắt OKN.
Chẩn đoán Ngoại biên Trung ương
Động mắt Ngang Quay, đứng
Chóng mặt Quay Mất cảm giácthăng bằng
Rối loạn nghiệm pháp tự phát Đầy đủ Không đầy đủ
Hài hòa Không hài hòa

ĐIỀU TRỊ

Mục đích điều trị là cắt cơn chóng mặt.

Điều trị nội khoa

Điều trị cơn chóng mặt cấp

Người bệnh được đặt trong phòng tối yên tĩnh, tránh các cử động, các kích thích tâm lý.

  • Thuốc: huyết thanh ngọt ưu trương.
  • Thuốc chống nôn: atropin, metoclopramid, dimenhydrinat..
  • Thuốc chống chóng mặt: tanganil..
  • Thuốc an thần: seduxen..

Điều trị chặn cơn chóng mặt kịch phát:

  • Tránh các kích thích tâm lý, tránh di chuyển bệnh nhân, thay đổi tư thế đột ngột, nơi ồn ào nhiều ánh sáng, tránh tắm lạnh.
  • Chế độ ăn: tránh ăn socola, lạp xường, xúc xích, mì chính, tránh uống rượu, cocacola, café.
  • Thuốc: lợi tiểu, tanakan, duxil, cinarizin, serc, kháng histamin, steroid, an thần, aspirin…

Điều trị nguyên nhân

Tùy theo nguyên nhân chóng mặt mà chọn phương pháp điều trị thích hợp.

Điều trị cơn chóng mặt kịch phát lành tính: điều trị bảo tồn dùng phương pháp đổi thế nằm đưa thạch nhĩ về vị trí ban đầu hoặc phẫu thuật bít lấp ống bán khuyên sau không cho thạch nhĩ rơi vào vùng này (nếu điều trị bảo tồn không mang lại kết quả).

Điều trị nguyên nhân nhiễm độc: ngừng ngay các tác nhân gây nhiễm độc, huyết thanh ngọt ưu trương (Glucose 30%) tiêm truyền tĩnh mạch. Sử dụng thuốc steroid, lợi tiểu, thuốc phục hồi tế bào, thần kinh tiền đình (Nevramin, B1, B12 liều cao).

Rò ngoại dịch tai trong do chấn thương: phẫu thuật bít lấp đường rò.

Viêm tai trong có mủ: khoét mê nhĩ hủy diệt tiền đình kết hợp kháng sinh liều cao.

Viêm tai giữa: phẫu thuật giải quyết bệnh tích viêm kết hợp bít lấp rò ống bán khuyên.

Điều trị ngoại khoa

  • Phẫu thuật thần kinh sọ não: phình mạch, mảng vôi hóa thành mạch hoặc thoái hóa đốt sống cổ gây chèn ép động mạch đốt sống…
  • Phẫu thuật thuộc phạm vi tai mũi họng: điều trị bệnh Ménière như mở túi nội dịch, cắt dây thần kinh tiền đình, phẫu thuật hủy diệt mê nhĩ..

Kava Kava (Thuốc Thảo Dược) là gì?

Kava Kava là một phương thuốc thảo dược được làm từ rễ của cây Piper methysticum — một loại cây có nguồn gốc từ các hòn đảo ở Thái Bình Dương. Tên của nó có nghĩa là “hạt tiêu gây say.” Những người sống trên các đảo Thái Bình Dương như Fiji và Tonga đã sử dụng nó trong hàng trăm năm trong các buổi họp mặt xã hội và y học truyền thống. Họ phơi khô rễ cây hoặc nghiền chúng thành bột, sau đó thêm nước và uống hỗn hợp đó.

Cách sử dụng?

Kava kava (gọi tắt là “kava”) chứa các chất gọi là kavapyrones. Chúng hoạt động tương tự như rượu đối với não của bạn, giúp bạn cảm thấy bình tĩnh, thư giãn và vui vẻ. Cây này cũng được cho là có tác dụng giảm đau, ngăn ngừa co giật và thư giãn cơ bắp.

Bạn có thể mua kava như một thực phẩm chức năng trực tuyến và trong các cửa hàng thực phẩm sức khỏe. Nó có sẵn dưới dạng viên nang, viên nén hoặc tinh chất (có nghĩa là nó được hòa tan trong rượu).

Kava đã được sử dụng để điều trị một số tình trạng, bao gồm:

  • Lo âu — bao gồm cả rối loạn lo âu tổng quát (GAD)
  • Căng thẳng
  • Vấn đề về giấc ngủ
  • Hội chứng tiền kinh nguyệt (PMS) — các triệu chứng thể chất và cảm xúc xảy ra trước khi có kinh nguyệt

Nó có an toàn không?

Các bác sĩ không chắc chắn về liều lượng kava an toàn. Nếu bác sĩ cho phép, hãy sử dụng liều nhỏ nhất có thể. Không nên sử dụng nó lâu hơn 3 tháng và tránh uống rượu trong thời gian sử dụng.

Kava có thể gây ra tác dụng phụ. Những tác dụng phụ phổ biến nhất bao gồm:

  • Đau đầu
  • Chóng mặt
  • Mệt mỏi
  • Trầm cảm
  • Tiêu chảy
  • Vấn đề về da
  • Da khô, tróc vảy hoặc vàng (ở những người sử dụng một lượng lớn)

Mối quan tâm nghiêm trọng nhất đến từ các báo cáo về tổn thương gan ở một số người đã sử dụng kava. Năm 2002, FDA đã phát hành một thông báo cho người tiêu dùng cảnh báo về nguy cơ bệnh gan liên quan đến các thực phẩm chức năng này. Thảo dược này được liên kết với xơ gan (sẹo gan), viêm gan (kích ứng gan) và suy gan (điều này dẫn đến việc cấy ghép gan hoặc tử vong ở một số bệnh nhân).

Chưa rõ liệu kava có gây ra tổn thương gan hay không, hay liệu các loại thuốc hoặc thảo dược khác mà những người đó sử dụng có gây ra tổn thương đó hay không. Hầu hết thời gian, tổn thương cải thiện trong vài tháng sau khi họ ngừng sử dụng kava.

Một vài quốc gia, bao gồm Pháp và Canada, đã cấm kava do nguy cơ nó gây ra cho gan. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể mua nó ở Hoa Kỳ và trực tuyến.

Nó cũng có thể gây nghiện, nhưng điều này vẫn chưa được chứng minh.

Trước khi sử dụng

Nói chuyện với bác sĩ của bạn nếu bạn đang nghĩ đến việc dùng kava. Hãy cho họ biết về tất cả các loại thuốc bạn đang sử dụng. Thảo dược này có thể tương tác với một số loại thuốc, bao gồm:

  • Thuốc kháng retrovirus dùng để điều trị HIV/AIDS
  • Benzodiazepines và barbiturates điều trị lo âu
  • Các loại thuốc dùng để điều trị bệnh Parkinson

Không nên sử dụng kava nếu bạn có bệnh gan, đang mang thai hoặc cho con bú, hoặc có trầm cảm hoặc rối loạn lưỡng cực.

Khi nào thì nên gọi bác sĩ của bạn

Hẹn lịch khám nếu bạn dùng kava và có bất kỳ dấu hiệu nào sau đây của tổn thương gan:

  • Mệt mỏi
  • Buồn nôn, nôn
  • Vàng da và vàng mắt (vàng da)
  • Đau bụng
  • Mất cảm giác thèm ăn

Tăng áp động mạch phổi – Chẩn đoán, điều trị

CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ TĂNG ÁP LỰC ĐỘNG MẠCH PHỔI

Các chữ viết tắt
TA ĐMP (PAH): Tăng áp động mạch phổi
PH: Tăng áp mạch phổi
PPA: Tăng áp động mạch phổi tiên phát
IPAH: Tăng áp động mạch phổi vô căn
PCH: Tăng áp động mạch phổi do bệnh u mạch phổi
PVOD: Tăng áp động mạch phổi do bệnh lý tắc nghẽn mạn tính tĩnh mạch phổi
APAH: Tăng áp động mạch phổi liên quan tới yếu tố nguy cơ hoặc tình trạng đi kèm
CTEPH: Tăng áp động mạch phổi do tắc mạn tính mạch phổi
FPAH: Tăng áp động mạch phổi có yếu tố gia đình
NYHA: Mức khó thở theo Hội Tim mạch New York
WHO: Tổ chức Y tế Thế giới
PPHN: Tăng áp động mạch phổi tồn tại ở trẻ sơ sinh

1. GIỚI THIỆU

1.1. Tổ chức của Hội đồng và phân độ mức khuyến cáo
‒ Xuất phát từ tình hình bệnh tim mạch ở Việt Nam và nhu cầu thực tế trong thực hành, Ban Chấp hành và Hội đồng Khoa học của Hội Tim mạch Việt Nam đã quyết định soạn thảo để lấy ý kiến và đưa ra những Khuyến cáo trong việc chẩn đoán và điều trị Tăng áp lực Động mạch phổi (TAĐMP).
‒ Các vấn đề nêu ra trong khuyến cáo được đúc kết chủ yếu từ những kết quả các nghiên cứu trong nước và trên thế giới đã được công bố, từ những thực tiễn trong thực hành thường ngày, từ tham khảo các khuyến cáo của các tổ chức ở các nước
có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này và có xét tới việc ứng dụng trong hoàn cảnh thực tiễn ở Việt Nam.
Phân độ mức khuyến cáo:
‒ Độ I: Có chỉ định, tức là có các bằng chứng và/hoặc nhất trí chung cho rằng biện pháp áp dụng, thủ thuật hoặc điều trị là có lợi và có hiệu quả.
‒ Độ II: Chỉ định cần cân nhắc tới hoàn cảnh thực tế, tức là tình trạng trong đó có các bằng chứng đối lập và/hoặc ý kiến phải được thảo luận về lợi ích/hiệu quả của thủ thuật hoặc điều trị.
+ Độ IIa: Nghiêng về có áp dụng
+ Độ IIb: Nghiêng về không áp dụng
‒ Độ III: Không có chỉ định, tức là tình huống trong đó có các bằng chứng và/ hoặc ý kiến chung cho rằng thủ thuật/điều trị không có lợi ích và hiệu quả, thậm chí trong một vài trường hợp có thể có hại.
Phân loại mức độ bằng chứng dựa trên các nghiên cứu lâm sàng:
‒ Mức bằng chứng A: Có các số liệu của nhiều nghiên cứu lớn ngẫu nhiên hoặc nghiên cứu tổng hợp.
‒ Mức B: Dựa trên một nghiên cứu ngẫu nghiên hoặc nhiều nghiên cứu không ngẫu nhiên.
‒ Mức C: Dựa trên kinh nghiệm hoặc nghiên cứu hồi cứu, nghiên cứu thực tế lâm sàng.
1.2. Mở đầu
TAĐMP được định nghĩa là một nhóm bệnh đặc trưng bởi sự gia tăng tiến triển kháng trở mạch phổi dẫn đến suy tim phải và tử vong sớm. Từ giữa những năm 80, khi chưa có thuốc điều trị đặc hiệu bệnh thì đời sống trung bình của người bệnh kể từ lúc được chẩn đoán Tăng áp lực Động mạch phổi không rõ căn nguyên, hay còn gọi là Tăng áp lực Động mạch phổi tiên phát, là 2,8 năm. Tăng áp lực Động mạch phổi bao gồm Tăng áp lực Động mạch phổi tiên phát và Tăng áp lực Động mạch phổi có liên quan đến một số bệnh khác như bệnh mô liên kết, bệnh tim bẩm sinh có luồng thông chủ‒phổi, tăng áp tĩnh mạch cửa và nhiễm virus HIV.Tất cả những bệnh này đều có cùng một cơ chế làm tắc/nghẽn các vi mạch máu phổi và là một tiến trình sinh bệnh học chung gây ra Tăng áp lực Động mạch phổi.Trong những thập kỷ qua, chúng ta đã có những bước tiến đáng kể trong hiểu biết về cơ chế bệnh sinh, sự tiến triển của bệnh, về tiến trình chẩn đoán và điều trị Tăng áp lực Động mạch phổi. Đặc biệt các phân loại mới lâm sàng của Tăng áp lực Động mạch phổi cho phép tiếp cận bệnh nhân hiệu quả hơn.

2. ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI

2.1. Định nghĩa Tăng áp lực Động mạch phổi
Tăng áp động mạch phổi Tăng áp lực Động mạch phổi được định nghĩa khi áp lực động mạch phổi trung bình >25mmHg lúc nghỉ hoặc >30mmHg khi gắng sức.
2.2. Phân loại lâm sàng Tăng áp động mạch phổi
Trong thực tế, phân loại TAMP đã được bàn cãi nhiều. Hiện nay, phân loại Tăng áp mạch phổi được thống nhất rộng rãi là phân loại Venice và được trình bày ở Bảng 1.
Bảng 1. Phân loại lâm sàng của tăng áp động mạch phổi – Venice
1. Tăng áp động mạch phổi
1.1 Vô căn (nguyên phát) 1.2 Có tính gia đình
1.3 Phối hợp với:
1.3.1 Bệnh mô liên kết
1.3.2 Bệnh tim bẩm sinh có luồng thông trái‒phải
1.3.3 Tăng áp tĩnh mạch cửa
1.3.4 Nhiễm HIV
1.3.5 Thuốc và ngộ độc
1.3.6 Các Bệnh khác (rối loạn chức năng tuyến giáp, bệnh tích lũy glycogen, bệnh Gaucher, dãn mao mạch chảy máu di truyền, bệnh huyết cầu tố, rối loạn tăng sinh tủy, cắt lách).
1.4 Phối hợp với bệnh tĩnh mạch và mao mạch
1.4.1 Bệnh tắc nghẽn tĩnh mạch phổi
1.4.2 U máu mao mạch phổi
1.5 Tăng áp động mạch phổi cố định ở trẻ sơ sinh
2. Tăng áp động mạch phổi đi kèm với bệnh tim bên trái
2.1 Bệnh của tâm nhĩ hoặc thất trái
2.2 Bệnh van tim bên trái
3. Tăng áp động mạch phổi đi kèm với bệnh phổi và/hoặc giảm oxi máu
3.1. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
3.2. Bệnh phổi kẽ
3.3. Rối loạn hô hấp liên quan đến giấc ngủ
3.4. Giảm thông khí phế nang
3.5. Ở quá lâu trên vùng cao
3.6. Bất thường phát triển tâm thần
4. Tăng áp động mạch phổi do tắc mạch phổi mạn tính
4.1. Huyết khối gây tắc động mạch phổi đoạn gần
4.2. Huyết khối gây tắc động mạch phổi đoạn xa
4.3. Tắc động mạch phổi không do huyết khối (u, kí sinh trùng, thai lạc chỗ)
5. Bệnh lý khác
Bệnh sarcoidose, bệnh mô bào X, u bạch huyết, chèn ép mạch phổi (bệnh lý hạch, khối u, viêm trung thất xơ hóa)
Trước đây, TAMP đã từng được phân thành hai loại: TAMP tiên phát và TAMP thứ phát tùy thuộc vào việc có hay không có các nguyên nhân hoặc yếu tố nguy cơ.3,17 Chẩn đoán TAMP tiên phát là chẩn đoán loại trừ các nguyên nhân khác gây TAMP.
Năm 1998, trong Hội nghị thế giới lần thứ hai về TAMP được tổ chức tại Evian‒ Pháp, một phân loại lâm sàng của TAMP đã được đề xuất.18 Mục tiêu của “phân loại Evian” là để tách biệt các phạm trù khác nhau trong cơ chế sinh lý bệnh, biểu hiện lâm sàng và điều trị. Hội nghị thế giới lần thứ ba năm 2003 về TAĐMP được tổ chức tại Venice‒Ý mang lại cơ hội đánh giá tác động và hiệu quả của phân loại Evian và đề xuất một số sửa đổi. Do vậy, phân loại Venice được ứng dụng rộng rãi trên lâm sàng trong thực hành hiện nay.
Trong phân loại này, người ta cũng quyết định giữ lại khung nội dung và phần sinh lý học của phân loại Evian. Tuy nhiên, có một số sửa đổi chính là: bỏ khái niệm “Tăng áp lực Động mạch phổi tiên phát (primary pulmonary hypertension)” và thay thế bằng “Tăng áp lực Động mạch phổi vô căn (idiopahthic pulmonary artery hypertension)”, phân loại lại bệnh tắc tĩnh mạch phổi và u mao mạch máu phổi, cập nhật các yếu tố nguy cơ và các yếu tố có liên quan đến Tăng áp lực Động mạch phổi, đưa ra một số hướng dẫn để cải thiện phân loại bệnh tim có luồng thông chủ phổi bẩm sinh (bảng 1). Mục tiêu của những sửa đổi này là để “phân loại lâm sàng Venice” dễ hiểu hơn, dễ thực hành và có thể được ứng dụng rộng rãi.
2.2.1. Tăng áp lực Động mạch phổi vô căn
Thuật ngữ Tăng áp lực Động mạch phổi được giữ lại trong phân loại Evian bởi vì nó được dùng thông dụng và gần gũi và bởi vì nó đã từng là biểu tượng của các nghiên cứu khoa học và lâm sàng của 50 năm trước đây. Tuy nhiên, cách dùng thuật ngữ “tiên phát” dễ gây liên tưởng đến thuật ngữ “thứ phát” là thuật ngữ đã bị sửa bỏ trong hội nghị Evian bởi vì nó dùng để diễn tả các nguyên nhân khác nhau. Để tránh nhầm lẫn, hội nghị Venice đã quyết định dùng thuật ngữ “Tăng áp động mạch phổi – TAĐMP” bao gồm 3 nhóm nguyên nhân chính: [1.1] Tăng áp lực Động mạch phổi vô căn [1.2], Tăng áp lực Động mạch phổi có tính gia đình [1.3] TAĐMP có liên quan đến các yếu tố nguy cơ hoặc các bệnh khác có liên quan.
2.2.2. Tăng áp lực Động mạch phổi có các yếu tố nguy cơ và các bệnh kết hợp
Các yếu tố nguy cơ của TAĐMP là bất kỳ yếu tố hoặc bệnh nào nghi ngờ có vai trò gây ra hoặc tạo thuận lợi cho sự phát triển của bệnh. Các yếu tố nguy cơ có thể bao gồm thuốc và hóa chất, các bệnh hoặc kiểu hình (tuổi, giới). Thuật ngữ “ các bệnh có liên quan” được dùng khi tỷ lệ mắc TAĐMP gia tăng một cách có ý nghĩa thống kê cùng với các yếu tố gây bệnh hiện có, tuy không đáp ứng được “tiêu chuẩn Kock” về mối quan hệ nhân quả. Các yếu tố nguy cơ được phân ra: “Rõ ràng” có nghĩa là xác định được một mối liên quan dựa trên một số quan sát phù hợp bao gồm một nghiên cứu có kiểm chứng lớn hoặc một nghiên cứu dịch tễ trên diện rộng“Rất có khả năng” chỉ ra rằng có mối liên quan thông qua một vài quan sát phù hợp (bao gồm một loạt các trường hợp lâm sàng hoặc các nghiên cứu ) mà không đóng vai trò vào việc xác định nguyên nhân gây bệnh; “Có khả năng” có nghĩa là có mối liên quan dựa trên một loạt các ca lâm sàng, sổ đăng ký hoặc ý kiến chuyên gia; “Rất ít khả năng” chỉ ra các yếu tố nguy cơ bị nghi ngờ nhưng các nghiên cứu có kiểm chứng đều không thể hiện mối liên quan nào.
2.2.3. Bệnh tắc tĩnh mạch phổi và u máu mao mạch phổi
Theo phân loại Evian, bệnh tắc tĩnh mạch phổi được tính trong hạng mục tăng áp tĩnh mạch phổi, hạng mục này bao gồm chủ yếu bệnh suy tim trái và u máu mao mạch phổi được tính đến sau cùng và nhóm hỗn hợp tăng áp mạch phổi gây ra do nhiều nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến mạch máu phổi. Đặc điểm bệnh học và lâm sàng tương tự, cùng với khả năng xuất hiện phù phổi cấp trong suốt liệu trình điều trị epoprostenol, đã gợi ý rằng những rối loạn này có thể chồng chéo nhau.
2.2.4. Phân loại bệnh tim bẩm sinh có luồng thông chủ ‒ phổi
Phân loại bệnh tim bẩm sinh có luồng thông chủ ‒ phổi được đề xuất dựa trên kiểu lỗ thông và kích thước, các bất thường ngoài tim khác kèm theo và sự tự sửa chữa (Bảng 3). Tất cả những yếu tố này có liên quan tới sự phát triển của tăng áp phổi và hiện tượng Eisenmenger sinh lý và tiên lượng.
1. Loại
Đơn giản
Thông liên nhĩ
Thông liên thất
Còn ống động mạch
Bất thường chỗ đổ về của tĩnh mạch phổi một phần hay toàn bộ
Kết hợp
Mô tả tổn thương phối hợp và chỉ rõ đặc điểm hay gặp nếu có thể
Phức tạp
Thân chung đại động mạch
Tim một thất
Thông sàn nhĩ thất
2. Kích thước lỗ thông
Nhỏ (Thông liên nhĩ ≤ 2.0 cm và thông liên thất # 1.0 cm)
Lớn (Thông liên nhĩ > 2.0 cm và thông liên thất > 1.0 cm)
3. Các bất thường ngoài tim phối hợp
4. Tình trạng sửa chữa
Không sửa chữa
Sửa chữa một phần (tuổi)
Sửa chữa: tự sửa chữa hoặc phẫu thuật (tuổi)
Hội chứng Eisenmenger có thể gây ra do các bệnh tim bẩm sinh đơn giản hoặc phức tạp (khoảng 30% các trường hợp).27
Trong số những dị tật đơn giản, thông liên thất hay gặp nhất, sau đó là thông liên nhĩ và còn ống động mạch.27 Người ta tính rằng 10% bệnh nhân trên 2 tuổi bị thông liên thất với kích thước lỗ thông khác nhau tiến triển thành hội chứng Eisenmenger so với 4‒6% bệnh nhân bị thông liên nhĩ. 28,29 Bệnh nhân có lỗ thông lớn gặp phần lớn trong các trường hợp thân chung đại động mạch, 50% các trường hợp có thông liên thất và 10% có thông liên nhĩ tiến triển thành tăng áp động mạch phổi và bệnh mạch máu phổi.30 Ở các bệnh nhân có thông liên nhĩ, các dị tật này đi kèm bất thường xoang tĩnh mạch có tỷ lệ mới mắc tăng áp động mạch phổi (16%) cao hơn hẳn so với dị tật lỗ thông thứ nhất hoặc thứ hai (4%).31
Sự phát triển của tăng áp động mạch phổi cùng bệnh mạch phổi dường như có liên quan đến kích thước lỗ thông, với các lỗ thông liên thất kích thước bé đến trung bình chỉ có 3% bệnh nhân tiến triển thành tăng áp phổi.32,33 Ngược lại, với các lỗ thông kích thước lớn thì 50% số bệnh nhân bị ảnh hưởng (đường kính >1.5cm). Trong trường hợp lỗ thông bé (thông liên thất < 1cm và thông liên nhĩ < 2cm trên siêu âm) vai trò rõ ràng của các dị tật này trong sự phát triển tăng áp động mạch phổi vẫn chưa được biết.
Một số bệnh nhân bị tăng áp động mạch phổi nặng phát hiện ra sau khi can thiệp sửa chữa “thành công” dị tật. Trong nhiều trường hợp, tổn thương mạch phổi không phục hồi đã có trước khi phẫu thuật can thiệp hay do quá trình tiến triển của bệnh ngay cả khi phẫu thuật thành công là không rõ ràng. Thường thì sửa chữa dị tật ngay từ giai đoạn sớm sẽ ngăn chặn được sự tiến triển thành tăng áp động mạch phổi sau này.

3. SINH LÝ BỆNH TĂNG ÁP LỰC ĐỘNG MẠCH PHỔI

Tăng áp động mạch phổi gồm nhiều thể khác nhau với nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng có các triệu chứng lâm sàng tương tự nhau, và trong nhiều trường hợp có đáp ứng điều trị cũng giống nhau. Những thay đổi mô bệnh học trong các thể khác nhau của tăng áp mạch phổi là giống nhau về định tính5 nhưng định lượng khác nhau trong sự phân phối và các thay đổi bệnh học thường gặp ở các thành phần khác nhau của giường mạch phổi (động mạch, mao mạch hoặc tĩnh mạch). Sự phân loại bệnh học cập nhật sau đây được đưa ra tại
Hội nghị thế giới lần thứ 3 về Tăng áp động mạch phổi tổ chức tại Venice (Bảng 4).
3.1. Bệnh lý mạch máu động mạch phổi
Đặc điểm mô bệnh học chính của bệnh lý mạch máu động mạch phổi bao gồm phì đại lớp áo giữa, dày nội mạc, dày ngoại mạc và tổn thương phức hợp.
Phì đại lớp áo giữa là sự tăng sinh diện cắt ngang của lớp áo giữa phần trước và trong tuyến nang của động mạch phổi. Đây là do sự phì đại và tăng sản các sợi cơ trơn cũng như sự tăng sinh chất cơ bản của mô liên kết và sợi chun trong phần giữa của lớp cơ động mạch.
Dày nội mạc có thể là dày đồng tâm theo lớp, dày lệch tâm hoặc đồng tâm không theo lớp. Siêu cấu trúc và hóa mô miễn dịch các tế bào nội mạc cho thấy đặc điểm của các nguyên bào sợi, nguyên bào cơ sợi và tế bào cơ trơn.
Dày ngoại mạc xảy ra trong hầu hết các trường hợp tăng áp động mạch phổi nhưng rất khó đánh giá.
Tổn thương phức hợp tổn thương phức hợp này là sự tăng sinh cục bộ của các kênh tế bào nội mạc bị gây ra do nguyên bào cơ sợi, tế bào cơ trơn và chất liên kết các mô cơ bản. Những tổn thương này thường ở tại chỗ phân chia các nhánh động mạch hoặc ở vị trí xuất phát của các động mạch phụ, ở xa nên sự tắc nghẽn do dày lớp nội mạc thường không có ảnh hưởng tới các động mạch lớn. Tần số tổn thương phức hợp trong tăng áp động mạch phổi vẫn chưa xác định được. Viêm động mạch có thể liên quan tới phức hợp tổn thương và nó được đặc trưng bởi sự hoại tử của thành động mạch với sự tích lũy fibrin và sự thâm nhiễm các tế bào viêm.
Tất cả các sự thay đổi trên đây đều rất điển hình và thường gặp trong các phân loại lâm sàng (Bảng 1) nhóm 1.1 (Tăng áp động mạch phổi vô căn), 1.2 (Tăng áp động mạch phổi có tính gia đình) và 1.3 (Các bệnh có liên quan).
3.2. Bệnh lý tắc nghẽn tĩnh mạch phổi
Bệnh tắc nghẽn tĩnh mạch phổi chiếm một phần tương đối nhỏ trong các trường hợp tăng áp phổi; các đặc điểm mô bệnh học chính bao gồm sự tắc nghẽn kéo dài và lan rộng của các tĩnh mạch nhỏ và lớn ở nhiều kích cỡ. Tắc nghẽn này có thể cứng chắc và lệch tâm. Thêm vào đó, lớp trung mạc cũng có thể bị dày lên. Trong bệnh tắc nghẽn tĩnh mạch phổi, một lượng lớn heamosiderin được tìm thấy cả ở trong tế bào chất của các đại thực bào phế nang và tế bào phổi loại 2, cũng như trong khoảng kẽ. Các mao mạch bị ứ máu và căng phồng lên uốn lượn ngoằn ngoèo giống như u máu mao mạch phổi. Các động mạch phổi nhỏ có thể có hiện tượng tái cấu trúc do phì đại lớp trung mô và xơ hóa lớp nội mạc. Tổn thương phức hợp và viêm động mạch dạng xơ hóa không được miêu tả trong bệnh tĩnh mạch phổi tắc nghẽn. Khoảng kẽ của phổi thường ở trong tình trạng ứ dịch khoảng gian tiểu thùy, có thể dẫn đến xơ hóa khoảng kẽ. Mạch bạch huyết trong phổi và màng phổi cũng bị dãn rộng. Những thay đổi này có thể thấy rất điển hình trong phân loại lâm sàng nhóm 1.4.1 (Bảng 1).
3.3. Bệnh lý vi mạch phổi (còn gọi là bệnh u máu mao mạch phổi)
Bệnh vi mạch phổi là một bệnh hiếm gặp khác đặc trưng bởi sự tăng sinh mao mạch cục bộ trong phổi. Sự phân bố bệnh vi mạch phổi không đều và không theo logic. Sự quá sản bất thường của các mao mạch phổi thâm nhiễm vào thành động mạch và tĩnh mạch, xâm lấn cả vào lớp cơ trơn thành mạch và làm tắc nghẽn dòng chảy. Trong phạm vi vùng mao mạch quá sản, cũng thấy hiện tượng phổi bị nhiễm haemosiderin, đặc trưng bởi các đại thực bào và các tế bào phổi týp 2 chứa đầy heamosiderin. Tương tự như bệnh tĩnh mạch phổi tắc nghẽn, động mạch phổi trong bệnh vi mạch phổi có sự phì đại cơ và dày nội mạc đáng kể. Những thay đổi này có thể thấy điển hình trong nhóm 1.4.2 trong phân loại lâm sàng (Bảng 1).
Cuối cùng, những bệnh không phân loại với các đặc điểm mô bệnh học không điển hình hoặc sự thu thập mẫu không đủ.
3.4. Sinh bệnh học của tăng áp động mạch phổi
Cho đến nay, tiến trình khởi đầu của những thay đổi bệnh học trong tăng áp động mạch phổi vẫn chưa được biết chính xác ngay cả khi hiện nay chúng ta đã có những hiểu biết rõ ràng hơn về các cơ chế liên quan. Người ta nhận thấy rằng tăng áp phổi có cơ chế bệnh học phức tạp liên quan đến nhiều con đường sinh hóa và các kiểu tế bào khác nhau. Sự gia tăng kháng trở mạch phổi có liên quan đến nhiều cơ chế khác nhau bao gồm sự co mạch, tái cấu trúc tắc nghẽn của thành mạch phổi, nhiễm trùng huyết khối.
Sự co mạch phổi được cho là một thành phần trong tiến trình tăng áp động mạch phổi ở giai đoạn sớm.34 Sự co mạch thái quá cũng có liên quan tới bất thường chức năng và hoạt động của kênh canxi trong các tế bào cơ trơn35 cũng liên quan tới rối loạn chức năng nội mạc.10 Giảm nồng độ các chất gây dãn mạch và các chất chống lại sự quá sản trong huyết tương như loại Peptide hoạt hóa mạch của ruột cũng được phát hiện trong bệnh nhân tăng áp động mạch phổi.
Rối loạn chức năng nội mạc dẫn đến sản sinh các sản phẩm có hại gây dãn mạch mạn tính kéo dài như nitric oxide (NO) và prostacyclin cùng với sự thái quá của các chất gây co mạch như thromboxane A2 (TxA2) và endothelin‒1 (ET‒1).10 Các bất thường này cùng làm tăng trương lực thành mạch và đẩy mạnh quá trình tái cấu trúc mạch.
Quá trình tái cấu trúc mạch phổi liên quan mọi lớp của thành mạch và được đặc trưng bởi sự quá sản và tắc nghẽn có liên quan đến một số tế bào bao gồm tế bào nội mạc, cơ trơn và nguyên bào sợi.6,7 Thêm vào đó, khi vỡ mạch máu có sự tăng sinh các sản phẩm bên ngoài tế bào ty thể bao gồm collagen, elastin, fibrin, và tenascin.37 Angiopoietin‒1, một chất cần thiết cho sự phát triển mạch phổi, dường như tăng hơn trong các trường hợp tăng áp mạch phổi có liên quan trực tiếp đến độ nặng của bệnh.
Ngoài ra, quá trình viêm và đông máu với các tế bào viêm và tiểu cầu có thể đóng vai trò quan trọng trong tăng áp phổi. Thực tế, tế bào viêm có mặt ở khắp mọi nơi trong sự thay đổi bệnh học của tăng áp động mạch phổi và các cytokines tiền viêm cũng tăng trong huyết tương của bệnh nhân tăng áp động mạch phổi.39 Sự thay đổi trong con đường chuyển hóa serotonin, một chất gây co mạch phổi chứa trong tiểu cầu cũng được phát hiện trong bệnh nhân tăng áp động mạch phổi.40
Bất thường tiền huyết khối cũng được phát hiện trong bệnh nhân tăng áp động mạch phổi 41 và huyết khối ton tại cả ở các vi mạch nhỏ và các động mạch lơn cấu tạo bởi các sợi chun.6 Trong thực tế, nồng độ fibrinopeptide A phản ánh hoạt động thrombin,42 và nồng độ thromboxane A2 đều tăng trong bệnh tăng áp động mạch phổi tiên phát.
Mặc dù có sự xác nhận sự đột biến gen BMPR2 trong phần lớn các trường hợp tăng áp động mạch phổi có tính gia đình,8,9 sinh bệnh học liên quan giữa bất thường gen này và sự phát triển bệnh tăng áp mạch phổi cũng không được rõ ràng. Một số gen khác nữa cũng liên quan đến con đường BMP/TGF‒âvcũng đã được tìm ra.

4. TIẾP CẬN CHẨN ĐOÁN BỆNH NHÂN TĂNG ÁP ĐỘNG MẠCH PHỔI

Quy trình chẩn đoán của tăng áp phổi bao gồm các đánh giá kỹ lưỡng về lâm sàng, các thăm dò cận lâm sàng, đánh giá mức độ, phân loại TA ĐMP. Trong thực hành lâm sàng, có thể tiếp cận bệnh nhân theo 4 giai đoạn (Hình 2):
A. Lâm sàng nghi ngờ tăng áp phổi
B. Xác định tăng áp phổi
C. Phân loại lâm sàng tăng áp phổi
D. Đánh giá tăng áp động mạch phổi (loại, khả năng gắng sức, tình trạng huyết động)
4.1. Đánh giá lâm sàng nghi ngờ tăng áp mạch phổi
Trên lâm sàng, tăng áp phổi nên được nghĩ đến ở bất kỳ trường hợp nào khó thở mà không có triệu chứng đặc hiệu nào của bệnh tim/phổi hoặc ở bệnh nhân có bệnh tim hoặc phổi nền nhưng có khó thở tăng lên mà không giải thích được bằng các bệnh sẵn có. Các triệu chứng lâm sàng thường gặp của PH48 có thể bao gồm: mệt mỏi, yếu, đau ngực, ngất, và chướng bụng. Triệu chứng xảy ra lúc nghỉ thường gặp ở những ca bệnh đang tiến triển.
Thăm khám thực thể ở bênh nhân PH48 có thể thấy các dấu hiệu như: bờ trái xương ức nhô cao, tiếng T2 mạnh ở ổ van động mạch phổi, tiếng thổi tâm thu do phụt ngược do hở van ba lá, tiếng thổi tâm trương do hở van động mạch phổi và tiếng T3 ở thất phải. Tĩnh mạch cổ nổi, gan to, phù ngoại biên, cổ trướng và đầu chi lạnh là những đặc điểm gặp ở bệnh nhân mắc bệnh đang tiến triển nặng với tình trạng suy tim phải luc nghỉ. Tím trung tâm (và đôi khi tím ngoại biên và hỗn hợp) cũng có thể gặp. Nghe phổi phần lớn là bình thường.
Lâm sàng nên nghi ngờ hơn khi các dấu hiệu và triệu chứng xảy ra ở những bệnh nhân có các bệnh khác liên quan đến tăng áp động mạch phổi như bệnh mô liên kết, tăng áp tĩnh mạch cửa, nhiem HIV và tim bẩm sinh với luồng thông chủ‒phổi. Khi có mặt của những bất thường này, các chuyên gia khuyên nên kiểm tra sàng lọc định kỳ để phát hiện những bệnh nhân không có triệu chứng ở giai đoạn sớm của tăng áp phổi49 (xem phần Các trường hợp đặc biệt dưới đây).
4.2. Xác định tăng áp phổi
Giai đoạn này đòi hỏi những thăm dò thêm để có thể xác định chẩn đoán PH, bao gồm điện tim đồ, Xquang tim phổi, và siêu âm Doppler tim qua thành ngực
4.2.1. Điện tâm đồ
Điện tâm đồ có thể cung cấp những gợi ý hoặc những bằng chứng của tăng áp phổi thông qua hình ảnh tăng gánh thất phải và sự dãn nhĩ phải. Tăng gánh thất phải trên điện tim gặp ở 87% và trục phải gặp ở 79% bệnh nhân có tăng áp động mạch phổi tiên phát.48 Tuy nhiên, điện tâm đồ không đủ độ nhạy (55%) và độ đặc hiệu (70%) để được coi là một công cụ trong chẩn đoán sàng lọc bệnh tăng áp động mạch phổi. Điện tim bình thường không loại trừ được bệnh tăng áp động mạch phổi nặng.

4.2.2. Chụp Xquang tim phổi
Có tới 90% bệnh nhân tăng áp động mạch phổi tiên phát có phim chụp tim phổi bất thường vào thời điểm chẩn đoán. Những bất thường này bao gồm: dãn động mạch phổi trung tâm tương phản với sự mất/giảm các mạch máu ngoại biên. Nhĩ phải và thất dãn to hay gặp ở những ca bệnh tiến triển. Chụp tim phổi cũng cho phép loại trừ một cách hợp lý những ca bệnh phổi trung bình đến nặng hoặc tăng áp lực tĩnh mạch phổi do bất thường tim trái. Tuy nhiên, một phim phổi bình thường cũng không cho phép loại trừ tăng áp sau mao mạch phổi nhẹ bao gồm bệnh tim trái hoặc bệnh tắc tĩnh mạch phổi.
4.2.3. Siêu âm Doppler tim qua thành ngực
Siêu âm Doppler tim qua thành ngực là một biện pháp sàng lọc không xâm nhập rất có giá trị cho các bệnh nhân nghi ngờ tăng áp phổi. Siêu âm Doppler tim qua thành ngực ước tính được áp lực tâm thu động mạch phổi và có thể cung cấp thêm thông tin về nguyên nhân và hậu quả của tăng áp phổi. Áp lực tâm thu động mạch phổi tương đương với áp lực tâm thu thất phải (ALTTTP) khi không có sự tắc nghẽn đường ra của phổi. Áp lực tâm thu thất phải được tính toán bằng cách đo vận tốc dòng phụt ngược qua van ba lá (v) và áp lực nhĩ phải (ALNP) theo công thức: ALTTTP = 4v2 + ALNP. Áp lực nhĩ phải là một giá trị được chuẩn hóa hoặc là giá trị được ước tính từ các giá trị của tĩnh mạch chủ dưới51 hoặc từ tĩnh mạch cổ. Dòng phụt ngược qua van ba lá có thể bắt gặp và được sử dụng để ước tính áp lực động mạch phổi (74%) ở phần lớn các trường hợp tăng áp phổi.52 Hầu hết các nghiên cứu đều cho thấy một mối liên quan chặt chẽ (0.57‒0.93) giữa siêu âm qua thành ngực và thông tim phải để đo áp lực tâm thu động mạch phổi.53 Tuy nhiên, để giảm tối đa sự dương tính giả54 thì quan trọng là phải xác định được giá trị đặc hiệu của tăng áp phổi khi đánh giá bằng siêu âm tim qua thành ngực.
Giá trị bình thường của áp lực tâm thu thất phải của nhóm chứng khỏe mạnh cũng đã được nghiên cứu. Trong một nghiên cứu khá lớn với cả hai giới từ 1 đến 89 tuổi, áp lực tâm thu thất phải đã được báo cáo là 28 ± 5 mmHg (phạm vi từ 15‒57mmHg). Áp lực tâm thu thất phải tăng lên theo tuổi và trọng lượng cơ thể.55Theo những số liệu này thì tăng áp động mạch phổi nhẹ có thể được xác định khi áp lực tâm thu động mạch phổi xấp xỉ 3655mmHg hoặc vận tốc dòng phụt ngược qua van ba lá lúc nghỉ là 2,8‒3,4m/s (với kháng trở động mạch phổi bình thường là 5mmHg). Những đối tượng không có triệu chứng (NYHA I) thì bệnh mô liên kết kèm theo cần được loại trừ và siêu âm tim nên được làm lại trong 6 tháng. Nên chú ý rằng, xác định mức độ gia tăng áp lực tâm thu thất phải không phải là xác định điểm ngưỡng mà tại đó sự gia tăng áp lực tâm thu thất phải là một dấu hiệu lâm sàng quan trọng, cũng không phải xác định điểm ngưỡng mà tại đó có sự tiên lượng và/hoặc yêu cầu sự điều trị đặc biệt. Ngoài ra, khả năng âm tính giả của siêu âm Doppler tim nên được xem xét trong trường hợp nghi ngờ cao trên lâm sàng56.
Các thông số siêu âm tim và Doppler khác rất quan trọng cho xác định chẩn đoán và đánh giá độ nặng của tăng áp phổi bao gồm kích thước và chức năng thất phải, thất trái, bất thường van ba lá, van hai lá và van động mạch phổi, khả năng tống máu thất phải và khả năng đổ đầy thất trái, kích thước tĩnh mạch chủ dưới và lượng dịch tràn màng ngoài tim.57,58
Bên cạnh việc chẩn đoán tăng áp phổi, siêu âm tim qua thành ngực còn cho phép chẩn đoán phân biệt với các nguyên nhân khác gây khó thở. Siêu âm tim qua thành ngực có thể phát hiện các bệnh van tim bên trái và bệnh cơ tim gây ra tăng áp lực tĩnh mạch phổi (Phân loại lâm sàng 2), và bệnh tim bẩm sinh có luồng thông chủ‒phổi cũng có thể nhận ra dễ dàng (Phân loại lâm sàng 1.3.2). Siêu âm tim cản âm có thể giúp phát hiện ra lỗ bầu dục hoặc tĩnh mạch xoang nhỏ ở vách liên nhĩ. Siêu âm tim qua thực quản (TEE) thường dùng để xác nhận sự tồn tại của lỗ thông, đánh giá chính xác tình trạng, và kích cỡ của thông liên nhĩ lỗ nhỏ.
4.3. Đánh giá phân loại lâm sàng tăng áp mạch phổi
Sau khi xác định chẩn đoán tăng áp mạch phổi, là phân loại tăng áp phổi theo phân độ lâm sàng đã được đưa ra tại hội nghị tại Venice (bảng 1).1 Phân loại này được thực hiện thông qua những xét nghiệm cơ bản như siêu âm tim (như đã nêu ở trên), đo chức năng hô hấp (bao gồm cả khí máu động mạch), đo thông khí và tưới máu phổi. Nếu cần thiết, trong những trường hợp đặc biệt cần thêm các xét nghiệm như chụp cắt lớp vi tính lồng ngực độ phân giải cao (HRCT), chụp CT xoắn ốc và chụp mạch phổi.
4.3.1. Đo chức năng hô hấp và khí máu động mạch
Đo chức năng hô hấp và khí máu động mạch có thể phát hiện bệnh đường thở hay của nhu mô phổi. Bệnh nhân PAH thường có giảm khả năng khuếch tán khí CO (điển hình trong khoảng 40‒80%) và giảm nhẹ đến vừa dung tích phổi. Áp lực oxy động mạch (PaO2) bình thường hoặc hơi giảm so với bình thường và áp lực CO2 động mạch (PaCO2) giảm là kết quả của sự tăng thông khí phổi. Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là một nguyên nhân gây PH giảm oxy máu, được chẩn đoán dựa trên bằng chứng rối loạn thông khí tắc nghẽn không hồi phục (59), thường đo bằng thể tích thở ra tối đa trong một giây (FEV1). Những bệnh nhân này thường có PaCO2 bình thường hoặc tăng cùng với thông khí hạn chế và tăng thể tích khí cặn, giảm khả năng khuếch tán CO. Khí phế thũng hiện nay cũng được chẩn đoán nhờ chụp cắt lớp vi tính độ phân giải cao. Giảm dung tích phổi cùng với giảm khả năng khuếch tán CO là dấu hiệu chỉ điểm bệnh phổi kẽ. HRCT lại được dùng để chẩn đoán xác định bệnh phổi kẽ60. Nếu lâm sàng nghi ngờ, theo dõi oxy trên monitor qua đêm và đồ thị đánh giá nhiều thông số khi ngủ (polisomnography) sẽ giúp loại trừ chứng ngừng thở khi ngủ và giảm độ bão hòa oxy về đêm.
4.3.2. Thăm dò thông khí và tưới máu phổi (V/Q)
Trong PAH thăm dò thông khí tưới máu phổi có thể hoàn toàn bình thường. Tuy nhiên, cũng có thể thấy những khuyết vách nhỏ ngoại biên khi chụp tưới máu phổi. Những trường hợp này có thông khí bình thường và do đó có sự bất tương xứng giữa thông khí và tưới máu. Thăm dò thông khí tưới máu phổi rất có giá trị trong chẩn đoán tăng áp phổi do huyết khối mạn tính (phân loại lâm sàng nhóm 4)61. Trong tăng áp phổi do huyết khối mạn tính, sự giảm tưới máu thường thấy ở thùy phổi và ở các vùng bị tắc nghẽn. Vì những vùng này thông khí bình thường, sự giảm tưới máu được mô tả như là sự bất tương xứng với thông khí. Thăm dò thông khí và tưới máu phổi có độ nhạy 90‒100% và độ đặc hiệu 94100% khi dùng để phân biệt tăng áp động mạch phổi tiên phát và tăng áp phổi do huyết khối mạn tính.61 Cũngcó thể thấy sự bất tương xứng giữa thông khí và tưới máu trong bệnh tắc nghẽn tĩnh mạch phổi. Những bệnh nhân này cần những thăm dò sâu hơn (xem phần chụp cắt lớp độ phân giải cao). Ở bệnh nhân bị bệnh nhu mô phổi, sự giảm tưới máu tương xứng với sự giảm thông khí.
4.3.3. Chụp cắt lớp vi tính phổi độ phân giải cao
Chụp cắt lớp vi tính phổi độ phân giải cao cung cấp các hình ảnh chi tiết về nhu mô phổi và giúp cho chẩn đoán bệnh phổi kẽ và khí phế thũng dễ dàng hơn. Hình ảnh mờ lan tràn từ vùng trung tâm là dấu hiệu bệnh phổi kẽ và giống như trong suy tim trái tiến triển; sự dầy lên của vách gian thùy gợi ý đến bệnh tắc tĩnh mạch phổi; các bất thường khác có thể gặp là bệnh hạch bạch huyết, tràn dịch màng phổi.62 Sự dày lên của vách gian thùy và sự có mặt của những nốt mờ nhỏ, giới hạn không rõ, ở trung tâm thùy phổi gợi ý bệnh u máu mao mạch phổi.
4.3.4. Chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc có tiêm thuốc cản quang, chụp động mạch phổi và chụp cộng hưởng từ hạt nhân (MRI)
Chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc có tiêm thuốc cản quang được chỉ định ở bệnh nhân tăng áp mạch phổi mà khi chụp xạ hình thông khí và tưới máu phổi có hình khuyết tưới máu phổi trong khi thông khí bình thường, nghĩa là có bằng chứng của sự bất tương xứng giữa thông khí và tưới máu phổi, và có thể là biểu hiện của tắc mạch phổi mạn tính. Trên phim chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc có tiêm thuốc cản quang, đặc điểm của bệnh huyết khối mạn tính là tắc hoàn toàn động mạch phổi, tổn thương hẹp lệch tâm cùng với sự có mặt của huyết khối, tự tái thông, hẹp nham nhở.
Chụp mạch phổi truyền thống qua đường ống thông vẫn được chỉ định trong tăng áp phổi mạn tính do huyết khối để xem có thể có chỉ định can thiệp hoặc phẫu thuật khơi thông động mạch61. Chụp mạch phổi phát hiện được chính xác các trường hợp tắc mạch phía xa và được chỉ định trong những trường hợp không kết luận được bằng chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc có tiêm thuốc cản quang ở bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng và chụp xạ hình phổi nghi ngờ tăng áp phổi mạn tính do huyết khối. Thủ thuật này có thể được thực hiện an toàn do các chuyên gia giàu kinh nghiệm ngay trên cả những bệnh nhân bị tăng áp phổi nặng. Những chi tiết kỹ thuật bao gồm việc sử dụng thuốc cản quang, tiêm chọn lọc nhánh chính phải và trái, và chụp ở nhiều góc độ.
Chụp cộng hưởng từ hạt nhân (MRI) được áp dụng ngày càng phổ biến ở những bệnh nhân tăng áp động mạch phổi nhằm đánh giá sự thay đổi bệnh lý và chức năng của tim và tuần hoàn phổi63. Tuy nhiên, cần có thời gian và nhiều kinh nghiệm hơn nữa trước khi coi đây là phương pháp đánh giá thường quy cho các bệnh nhân tăng áp động mạch phổi.
4.4. Đánh giá bệnh nhân tăng áp động mạch phổi (phân loại, khả năng gắng sức, tình trạng huyết động)
Sau khi đã xác định được phân loại lâm sàng của PAH (Bảng phân loại lâm sàng nhóm 1), cần làm thêm những thăm dò sâu hơn để có thể nhận định chính xác loại PAH và để đánh giá khả năng gắng sức và huyết động.
4.4.1. Xét nghiệm máu và miễn dịch
Xét nghiệm sinh hóa, huyết học và chức năng tuyến giáp cần được kiểm tra một cách hệ thống. Các xét nghiệm sàng lọc các bệnh gây tăng đông máu và huyết khối nên được thực hiện bao gồm: kháng thể kháng phospholipid (kháng đông lupus, kháng thể kháng cardiolipin). Bệnh mô liên kết được chẩn đoán cơ bản dựa các tiêu chuẩn lâm sàng, xét nghiệm và một số xét nghiệm sàng lọc khả năng tự miễn gồm có kháng thể kháng nhân, bao gồm kháng thể kháng đoạn trung tâm, kháng SCL70 và Rung nhĩP. Khoảng 1/3 bệnh nhân bị tăng áp động mạch phổi tiên phát có kết quả dương tính nhưng nồng độ kháng thể kháng nhân thấp (≤ 1:80 pha loãng).65 Bệnh nhân có kháng thể kháng nhân cao thực sự và/hoặc nghi ngờ lâm sàng cần làm thêm xét nghiệm huyết thanh học sâu hơn và hội chẩn khớp. Cuối cùng, tất cả bệnh nhân nên được làm xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán HIV.
4.4.2. Siêu âm ổ bụng
Siêu âm bụng giúp loại trừ xơ gan và/hoặc tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Siêu âm màu Doppler cũng cho phép phân biệt giữa tăng áp tĩnh mạch cửa thụ động do suy tim phải, với tăng áp lực cửa do tăng chênh áp tĩnh mạch qua gan trong xơ gan. Có thể làm siêu âm với tiêm chất cản âm để giup chẩn đoán chính xác hơn.66Tăng áp lực cửa có thể được xác định bằng cách xác định chênh áp lực giữa áp lực tĩnh mạch gan bình thường và áp lực tĩnh mạch gan bít khi làm thông tim phải (xem tăng áp phổi‒cửa).67
4.4.3. Đánh giá khả năng gắng sức
Mục tiêu quan trọng để tiến hành nghiệm pháp gắng sức ở bệnh nhân PAH là để đánh giá độ nặng của bệnh68,69 và hiệu quả điều trị70,71 Nghiệm pháp hay được sử dụng nhất trong đánh giá tăng áp mạch phổi là test đi bộ 6 phút và test khả năng gắng sức tim phổi có đánh giá sự thay đổi nồng độ các chất khí.
Test đi bộ 6 phút (6MWT:) là một kỹ thuật đơn giản và rẻ tiền nên được làm thường quy72. Nó giúp tiên lượng khả năng sống còn trong tăng áp động mạch phổi tiên phát và có mối tương quan nghịch với phân độ NYHA68. 6MWT thường dùng cùng thang điểm Borg để đánh giá mức khó thở khi gắng sức. Nếu bão hòa oxy máu động mạch giảm >10% trong 6MWT sẽ tăng nguy cơ tử vong 2,9 lần trong thời gian trung bình 26 tháng.73 6MWT là một biện pháp đánh giá cơ bản và thường quy trong những thử nghiệm lâm sàng được thực hiện ở bệnh nhân PAH.70
Test gắng sức tim phổi (CPET) cho phép đo chức năng thông khí và những thay đổi trong nồng độ chất khí trong suốt bài tập, cung cấp thêm thông tin “sinh lý bệnh” ngoài các thông tin đã được rút ra từ những test gắng sức tiêu chuẩn. Bệnh nhân PAH thường giảm thể tích O2 đỉnh, giảm tốc độ làm việc đỉnh, giảm tỷ lệ giữa sự gia tăng thể tích O2 và sự gia tăng tốc độ làm việc, giảm ngưỡng kỵ khí và giảm đỉnh oxy trong mạch; đồng thời, bệnh nhân PAH cũng tăng thể tích khí thở ra và đường dốc của thể tích CO2 cho thấy khả năng thông khí kém hiệu quả69. Nồng độ O2 đỉnh có mối tương quan với tiên lượng bệnh nhân PAH.69
CPET được sử dụng trong các thử nghiệm đa trung tâm nhưng nó không xác nhận những cải thiện được quan sát trong 6MWT.74,75 CPET là kỹ thuật khó hơn 6MWT và kết quả của nó có thể bị ảnh hưởng bởi kinh nghiệm thực hiện tại các trung tâm.
4.4.4. Thông tim Thăm dò huyết động
Thông tim thăm dò huyết động cần được làm để xác định chẩn đoán PAH, để đánh giá độ nặng của rối loạn huyết động và để kiểm tra phản ứng của mạch phổi. Thông tim phải là thăm dò cơ bản để đánh giá. Những thong số huyết động cần quan tâm là: nhịp tim, áp lực nhĩ phải, áp lực động mạch phổi (tâm thu, tâm trương và trung bình), áp lực mao mạch phổi bít, cung lượng tim (đo bằng phương pháp pha loãng nhiệt, hoặc bằng phương pháp Pick trong trường hợp có luồng thông chủ phổi), huyết áp động mạch, kháng trở mạch phổi và hệ thống, độ bão hòa oxy máu động mạch và tĩnh mạch (và độ bão hòa tĩnh mạch chủ trên trong trường hợp có luồng thông chủ phổi).
PAH được xác định khi áp lực động mạch phổi trung bình (mean PAP) >25mmHg khi nghỉ hoặc >30mmHg khi gắng sức, khi áp lực mao mạch phổi bít ≤ 15mmHg và khi sức cản động mạch phổi > 3mmHg/l/phút (đơn vị Wood).
Thông tim trái cũng cần được tiến hành trong những trường hợp hiếm mà áp lực mao mạch phổi bít thật sự không thể đo được.
Thông tim phải là chỉ định quan trọng và giúp đánh giá trường hợp bệnh nhân có triệu chứng (NYHA II và III) mà chỉ có tăng áp phổi mức độ nhẹ trên siêu âm Doppler tim (xem phần trên). Đánh giá áp lực mao mạch phổi bít có thể cho phép phân biệt giữa tăng áp động mạch phổi và tăng áp tĩnh mạch phổi ở bệnh nhân có bệnh tim trái kèm theo.
Thông tim phải cũng rất quan trọng ở bệnh nhân tăng áp phổi trung bình đến nặng bởi vì những một số thông số về mặt huyết động có liên quan đến tiên lượng.2
Những bệnh nhân tăng áp động mạch phổi tiên phát có áp lực trung bình nhĩ phải, áp lực trung bình động mạch phổi tăng cao và bão hò O2 ở tĩnh mạch trung tâm và cung lượng tim thấp sẽ có tiên lượng xấu. Các thông số huyết động được dùng để đánh giá diễn biến tự nhiên của tăng áp động mạch phổi tiên phát ở một bệnh nhân cụ thể, thông qua một công thức dự báo2 dùng để đánh giá khả năng sống còn của phương pháp điều trị mới76,78. Tuy nhiên, công thức này được rút ra từ những bệnh nhân điều trị theo phác đồ quy ước trong khoảng 15‒20 năm trước và không đại diện cho một nhóm chứng thích hợp cho những người bị tăng áp động mạch phổi hiện nay trong cộng đồng.
Một số nghiên cứu không đối chứng cho rằng việc sử dụng lâu dài thuốc chẹn kênh calci đã kéo dài sự sống ở một số ít trường hợp bệnh nhân đáp ứng nhanh so với những bệnh nhân không đáp ứng với thuốc.79. Nhìn chung, có thể cho rằng những bệnh nhân đáp ứng tốt khi điều trị thuốc chẹn kênh calci kéo dài thì có cũng đáp ứng tốt với test dãn mạch cấp được thực hiện khi thông tim phải80. Tuy nhiên, những bệnh nhân này vẫn cần phải xác nhận cả hai đáp ứng (1) đáp ứng dương tính phản ứng dãn mạch cấp và (2) đáp ứng bền bỉ đối với quá trình điều trị thuốc chẹn kênh calci kéo dài.81
Test dãn mạch cấp chỉ nên được thực hiện bằng các thuốc dãn mạch có tác dụng ngắn ngay lúc bắt đầu thông tim phải ở những trung tâm có kinh nghiệm nhằm giảm thiểu nguy cơ tiềm tàng.82 Hiện nay, các thuốc được sử dụng trong test dãn mạch cấp đường tĩnh mạch bao gồm prostacylin hoặc adenosin và nitric oxide dạng khí dung.83,84. Thời gian bán huỷ, liều lượng, dược động học của những thuốc này được đề cập ở Bảng 5.
Bảng 5. Đường uống, thời gian bán thải, liều dùng, tăng dần liều, thời gian tác dụng 

Thuốc Đường dùng Thời gian bán thải Liều lượng Tăng liều Thời gian tác dụng
Epoprostenol Tĩnh mạch 3 phút 2‒12 ng/kg/ph 2 ng/kg/ph 10 ph
Adenosine Tĩnh mạch 5‒10s 50‒350 ìg/kg/ph 50 ìg/kg/ph 2 ph
Nitric oxide Khí dung 15‒30s 10‒20 ppm 5 phd

những tiêu chuẩn này.81,83 Phản xạ dãn mạch cấp dương tính cho thấy khả năng đáp ứng duy trì với điều trị thuốc chẹn kênh calci liều cao kéo dài và chỉ ở nhóm bệnh nhân này mới có thể an toàn khi điều trị theo phác đồ này. Không nên điều trị theo kinh nghiệm với thuốc chẹn kênh calci khi không có test phản ứng mạch cấp do có thể gặp nhiều tác dụng phụ nặng nề.
Đáp ứng kéo dài dương tính với liều cao thuốc chẹn kênh calci được xác nhận khi bệnh nhân có NYHA I hoặc II với huyết động gần như bình thường sau vài tháng điều trị thuốc chẹn kênh calci đơn độc. Chỉ khoảng một nửa số bệnh nhân tăng áp động mạch phổi tiên phát có phản xạ dãn mạch cấp dương tính cũng đáp ứng tốt81 với thuốc chẹn kênh calci và chỉ trong những trường hợp này việc tiếp tục điều trị đơn độc thuốc chẹn kênh calci là được khuyến cáo.
Sự hữu ích của test phản ứng mạch cấp và điều trị dài hạn thuốc chẹn kênh calci ở bệnh nhân tăng áp động mạch phổi có phối hợp với những bệnh như bệnh mô liên kết hoặc bệnh tim bẩm sinh là không rõ ràng như ở nhóm bệnh nhân tăng áp động mạch phổi tiên phát81,86 Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng trong những trường hợp này cần làm test dãn mạch cấp và theo dõi đáp ứng kéo dài với thuốc chẹn kênh calci ở những đối tượng thích hợp.
4.4.5. Sinh thiết phổi
Mở lồng ngực hoặc soi sinh thiết phổi có thể có nguy cơ mắc bệnh và tử vong cao. Do khả năng chẩn đoán và điều trị thấp, việc sinh thiết phổi không được khuyến khích cho bênh nhân PAH.
4.5. Đánh giá mức độ nặng của bệnh
Một vài thông số được dùng để tiên lượng bệnh tăng áp động mạch phổi vô căn dựa vào đánh giá ban đầu hoặc sau điều trị71. Có rất ít thông tin cho các trường hợp bệnh tăng áp động mạch phổi phối hợp với các bệnh khác như bệnh mô liên kết, bệnh tim bẩm sinh có luồng thông chủ phổi, nhiễm HIV hoặc tăng áp tĩnh mạch cửa. Trong những trường hợp này, những yếu tố khác sẽ góp phần vào bệnh cảnh chung. Trong thực tế, tăng áp động mạch phổi kết hợp với bệnh mô liên kết có tiên lượng tồi hơn bệnh nhân tăng áp động mạch phổi tiên phát, trong khi bệnh nhân bị tăng áp động mạch phổi kết hợp với bệnh tim bẩm sinh có luồng thông chủ phổi thì tiến triển chậm hơn bệnh nhân tăng áp động mạch phổi tiên phát.
4.5.1. Những thông số trên lâm sàng
Trong những thông số trên lâm sàng, phân độ NYHA được coi là một thông số có giá trị đánh giá và tiên lượng ở bệnh nhân tăng áp động mạch phổi tiên phát điều trị theo quy ước2. Tại hội nghị về PAH ở Evian, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đề cập tới phân loại mức độ triệu chứng cơ năng đối với bênh nhân PAH. Về cơ bản, sự phân loại này là sự thông qua NYHA trong tăng áp động mạch phổi. Các nhà lâm sàng thống nhất đề nghị gọi chung là phân loại chức năng NYHA/WHO (Bảng 7).11,12
Bảng 6. Các thông số có giá trị tiên lượng ở bệnh nhân tăng áp động mạch phổi vô căn
Các thông số lâm sàng
Phân loại NYHA
Phân loại NYHA sau điều trị kéo dài epoprostenol
Tiền sử suy tim phải
Khả năng gắng sức
Khoảng cách đi bộ trong 6 phút
Khoảng cách đi bộ trong 6 phút sau điều trị epoprostenol mạn tính
Nồng độ Oxy đỉnh
Các thông số siêu âm tim
Tràn dịch màng ngoài tim
Kích thước nhĩ phải
Chỉ số dày lệch tâm thất trái
Chỉ số Tei thất P
Huyết động
Áp lực nhĩ P
Áp lực động mạch phổi trung bình
Cung lượng tim
Bão hòa oxy máu tĩnh mạch pha trộn
Đáp ứng test dãn mạch dương tính
Giảm kháng trở mạch phổi >30% khi điều tri bằng epoprostenol
Xét nghiệm máu
Tăng acid uric máu
Peptide lợi niệu não
Peptide lợi niệu não sau 3 tháng điều trị
Troponin, đặc biệt các trường hợp tăng kéo dài
Norepinephrine huyết tương
Endothelin‒1 huyết tương
Bảng 7. Phân loại NYHA/WHO cho bệnh nhân tăng áp động mạch phổi 

Phân loại Mô tả
I Bệnh nhân tăng áp động mạch phổi nhưng không hạn chế khả năng gắng sức hàng ngày, hoạt động gắng sức không gây ra khó thở, đau ngực, hoặc tiền ngất.
II Bệnh nhân tăng áp động mạch phổi có hạn chế nhẹ khả năng gắng sức. Không có khó thở khi nghỉ, nhưng hoạt động sinh lý bình thường có thể gây ra sự khó thở, mệt mỏi, đau ngực hoặc tiền ngất.
III Bệnh nhân tăng áp phổi có hạn chế đáng kể hoạt động gắng sức.
Không có khó thở khi nghỉ, nhưng các hoạt động nhẹ cũng có thể làm tăng sự khó thở, mệt mỏi, đau ngực hoặc tiền ngất.
IV Bệnh nhân có tăng áp động mạch phổi không thể thực hiện các hoạt động gắng sức và có dấu hiệu của suy tim phải lúc nghỉ. Khó thở và/hoặc mệt có thể gặp lúc nghỉ và các triệu chứng gia tăng ở hầu hết các hoạt động sinh lý.

4.5.2. Khả năng gắng sức
Nhiều tác giả cho rằng 6MWT là một thông số đánh giá và tiên lượng tốt trong PAH: Miyamoto và cộng sự68cho rằng bệnh nhân IPAH đi bộ ít hơn 332m trong 6 phút thì có tỷ lệ sống sót ít hơn những người đi bộ xa hơn. Một số nghiên cứu khác đã tính toán rằng có sự giảm 18% nguy cơ tử vong nếu đi thêm 50m ở bệnh nhân IPAH73. Số liệu sơ bộ chỉ ra rằng lượng oxy không bão hòa máu động mạch > 10% trong quá trình 6MWT thì tăng tỷ lệ tử vong lên 2.9 lần khi theo dõi trong 26 tháng73. Bệnh nhân có NYHA III hoặc IV đi bộ ≤ 250m trước khi bắt đầu epoprostenol hoặc < 380m sau 3 tháng dùng epoprostenol thì có tiên lượng tồi hơn so với bệnh nhân đi bộ xa hơn87. Sự thay đổi khoảng cách 6MWT khi dùng epoprostenol không được coi là một thông số có giá trị tiên lượng.
Thể tích O2 đỉnh < 10.4ml/kg/phút được đánh giá bởi test gắng sức tim phổi cũng có giá trị và có mối tương quan với tiên lượng xấu ở bệnh nhân tăng áp phổi.69
4.5.3. Các thông số siêu âm tim
Số lượng dịch trong tràn dịch màng ngoài tim khi được đánh giá bằng siêu âm tim qua thành ngực có liên quan rõ ràng đến tiên lượng bệnh nhân IPAH88,89. Thêm vào đó, kích thước nhĩ phải và phì đại thất trái lệch tâm của thất trái cũng có ý nghĩa tiên lượng trong IPAH.89

Chỉ số Doppler thất phải90, cũng như chỉ số Tei, là một thông số mà đánh giá cả chức năng tâm thu và tâm trương của thất phải cũng liên quan đến tiên lượng PAH.91
4.5.4. Thông số huyết động
Áp lực trung bình nhĩ phải và áp lực động mạch phổi tăng cao ở mức ranh giới, cũng như giảm cung lượng tim và độ bão hòa O2 tĩnh mạch trung tâm, là tiên lượng tồi nhất cho những bệnh nhân IPAH2. Bệnh nhân đáp ứng dương tính với test dãn mạch cấp thì có tiên lượng tốt hơn khi so với nhóm không đáp ứng.79,83,92
Theo các phân tích đơn biến, các thông số huyết động trước điều trị (thông số ban đầu) có liên quan với tiên lượng xấu ở bệnh nhân IPAH điều trị với epoprostenol được báo cáo gồm: áp lực nhĩ phải > 12mmHg, và áp lực động mạch phổi trung bình < 65mmHg87 và kết quả cuối cùng này đã được xác nhận bởi những nghiên cứu tiếp theo77. Sau 3 tháng điều trị epoprostenol, sức cản động mạch phổi giảm < 30% so với ban đầu có liên quan đến tiên lượng xấu.87
4.5.5. Xét nghiệm máu
Tăng acid uric máu xảy ra với tần số cao ở bệnh nhân PH và có liên quan với bất thường huyết động, ví dụ tăng áp lực nhĩ phải và tăng tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân IPAH93. Peptide lợi niệu của não tăng lên khi quá tải áp lực thất phải và có tương quan với độ nặng của suy chức năng thất phải và tỷ lệ tử vong ở PAH.94
Nồng độ một số hormon thần kinh cũng có tương quan với tỷ lệ sống còn, ví dụ norepinephrine95 và ET‒196. Nồng độ troponin gần đây97 lúc đầu và sau điều trị đều được tìm thấy có liên quan đến tiên lượng ở bệnh nhân PAH.

5. CHIẾN LƯỢC ĐIỀU TRỊ TĂNG ÁP ĐỘNG MẠCH PHỔI

Trong những năm gần đây có nhiều tiến bộ trong điều trị TAĐMP. Tuy vậy, điều trị TAĐMP vẫn còn nhiều vấn đề bàn cãi. Trong khuyến cáo này chúng tôi đề cập đến một số gợi ý về điều trị đã được ứng dụng trên lâm sàng. Một số tóm tắt về khuyến cáo điều trị hiện nay được liệt kê trong các bảng sau:
Biện pháp điều trị Mức khuyến cáo Mức bằng chứng 

I IIa IIb
Biện pháp chung X C
Chống đông uống X C
Lợi tiểu X C
Digoxin X C
Oxygen X C
Chẹn calci X C
Epoprostenol X A
Treprostinil X B
Iloprost (hít) X B
Iloprost (truyền) X C
Beraprost X B
Bosentan X A
Sitasentan B
Ambrisentan C
Sildenafil X A
Kết hợp thuốc X B
Nong vách liên nhĩ X C
Ghép tim phổi X C

Bảng 11. Các thuốc được thông qua sử dụng tại các quốc gia trong điều trị bệnh nhân tăng áp động mạch phổi

Điều trị Quốc gia Chỉ định đã được thống nhất
Nguyên nhân NYHA/WHO
Thuốc chống đông đường uống  –  –  –
Lợi tiểu  –  –  –
Digoxin  –  –  –
Oxygenb  –  –  –
Chẹn kênh canxic  –  –  –
Epoprostenol Châu Âu TAĐMPTP III‒IV
Mỹ, Canada TAĐMPTP,CTD III‒IV
Trepostinil Mỹ TAĐMP II‒III‒IV
Ilopros (khí dung) Châu Âu TAĐMP TP III
Australia III‒IV
Iloprost (tĩnh mạch) New Zealand TAĐMP III‒IV
Beraprost Nhật, Hàn Quốc TAĐMP TP II‒III‒IV
Bosentan Châu Âu TAĐMP III
Mỹ‒Canada TAĐMP III‒IV
Sitaxsentane  –  –  –
Ambrisentane  –  –  –
Sildenafil  –  –  –
Phương pháp kết hợp  –  –  –
Phá vách liên nhĩ  –  –  –
Ghép phổi  –  –  –

CPD: Bệnh chất tạo keo
5.1. Một số biện pháp chung
Các biện pháp chung được khuyến cáo ở mức độ IIa bằng chứng C
Các biện pháp chung cần chú ý là:
• Hoạt động thể lực: vẫn khuyến khích hoạt động thể lực thông thường nhưng không được gắng sức nhiều, và đặc biệt khi đã có triệu chứng.
• Du lịch độ cao: không khuyến khích bệnh nhân TAĐMP đi du lịch ở độ cao trên 1.500 m. Khi đi máy bay cao từ 1.600 – 2.500m có thể yêu cầu cung cấp thêm ô xy.
• Ngăn ngừa nhiễm khuẩn: Nguy cơ nhiễm khuẩn phổi có thể xảy ra ở bệnh nhân TAĐMP và là nguyên nhân gây tử vong ở 7% số bệnh nhân. Cần dùng kháng sinh đường tĩnh mạch đầy đủ.
• Vấn đề thai nghén, kiểm soát sinh đẻ và thay thế hormon ở tuổi mãn kinh. Thai nghén và sinh đẻ ở bệnh nhân TAĐMP làm tăng nguy cơ tử vong, đặc biệt với những bệnh nhân tăng áp nhiều thì nguy cơ tử vong lên đến 50%. Do vậy, đối với bệnh nhân TAĐMP, không nên mang thai sinh đẻ và nên áp dụng các biện pháp tránh thai phù hợp. Vấn đề dùng thuốc tránh thai còn bàn cãi, nhưng có thể có nguy cơ làm nặng bệnh. Không nên dùng các hormon thay thế ở tuổi mãn kinh.
• Theo dõi mức hemoglobin. Bệnh nhân TAĐMP thường nhạy cảm với mức thay đổi hemoglobin, do vậy cần chú ý điều trị mức độ thiếu máu dù mới xảy ra. Ở một khía cạnh khác, đối với những bệnh nhân TAĐMP lâu ngày, đặc biệt những bệnh nhân có shunt phải – trái, thường có sự tăng hematocrit và tăng số lượng hồng cầu. Khi bệnh nhân có triệu chứng như đau đầu, giảm tập trung mà có mức hematocrit trên 65% thì cần rút bớt máu và truyền dịch.
• Các thuốc dùng kèm theo. Cần thận trọng khi phải điều trị các bệnh khác đi kèm bằng các thuốc có ảnh hưởng đến đông máu hoặc chảy máu đường tiêu hóa. Trong đó chú ý việc dùng các thuốc như giảm viêm chống đau hoặc các thuốc gây chán ăn. Các thuốc điều trị suy tim hoặc bệnh tim mạch khác như ức chế men chuyển hoặc chẹn beta giao cảm vẫn có thể được dùng, tuy nhiên chưa rõ những ảnh hưởng.
• TAĐMP và bệnh nhân cần Phẫu thuật có kế hoạch: Việc phẫu thuật ở bệnh nhân TAĐMP có nguy cơ cao hơn ở những bệnh nhân có mức độ chức năng nặng. Hiện nay, các nghiên cứu cũng chưa cho thấy rõ nên gây mê toàn thân hay gây tê tủy sống, mà cần dựa trên từng bệnh nhân cụ thể để quyết định. Để khống chế những biến cố liên quan, trước, trong và sau phẫu thuật, bệnh nhân nên được dùng các thuốc nhóm giống Prostaglandin dạng truyền tĩnh mạch. Đối với những bệnh nhân phải nằm lâu, cần chú ý thuốc chống đông đầy đủ.
5.2. Điều trị bằng thuốc
5.2.1. Các thuốc chống đông đường uống
• Đối với TAĐMP vô căn, nên dùng thuốc chống đông đường uống và duy trì mức INR từ 2 ‒3 hoặc thấp hơn nếu có nguy cơ chảy máu: Mức độ khuyến cáo
= IIa, mức bằng chứng = C.
• Đối với các trường hợp tăng áp động mạch phổi khác, vẫn nên cho chống đông tùy từng trường hợp và chưa rõ bằng chứng lợi ích. Độ khuyến cáo = IIb, mức bằng chứng = C.
Cơ sở cho việc điều trị thuốc chống đông bằng đường uống ở những bệnh nhân có tăng áp động mạch phổi dựa trên sự có mặt của các yếu tố nguy cơ gây huyết khối thuyên tắc tĩnh mạch như suy tim, lối sống tĩnh tại ít hoạt động, cũng như sự có mặt của các yếu tố kích phát sự hình thành huyết khối41,42 và của những thay đổi về đông máu trong các vi mạch phổi 5,6 và ở các động mạch phổi có khả năng co dãn.110
Chỉ số INR cần đạt được ở những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi tiên phát khác nhau tùy từng khu vực, dao động trong khoảng 1.5 – 2.5 ở hầu hết các trung tâm thuộc Bắc Mỹ, và trong khoảng 2.0 – 3.0 ở các trung tâm tại châu Âu.
Bằng chứng ủng hộ cho việc dùng chống đông ở những bệnh nhân tăng áp động mạch phổi tiên phát cũng có thể được suy cho những bệnh nhân tăng áp động mạch phổi khác, nhưng cần phải cân nhắc kỹ càng giữa lợi ích và nguy cơ.
5.2.2. Thuốc lợi tiểu
• Thuốc lợi tiểu nên được dùng khi bệnh nhân TAĐMP mà có suy tim ứ huyết rõ. Độ khuyến cáo = I, mức bằng chứng =A.
Những bệnh nhân suy tim phải mất bù gây ứ dịch dẫn đến tăng áp lực tĩnh mạch trung tâm, gây sung huyết các tạng trong ổ bụng, gây phù ngoại bien, và trong những trường hợp bệnh đang tiến triển có thể gây cổ chướng. Điều trị thuốc lợi niệu thích hợp trong những trường hợp suy tim phải sẽ giúp cải thiện triệu chứng và mang lại nhiều lợi ích lâm sàng ở những bệnh nhân có tăng áp động mạch phổi, mặc dù chưa có những nghiên cứu lâm sàng ngẫu nghiên có kiểm chứng nào cụ thể được công bố. Trong các nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm chứng gần đây về các mục tiêu điều trị mới, 49% đến 70% bệnh nhân đã được điều trị bằng các loại thuốc lợi niệu. Tuy nhiên, do còn thiếu các thử nghiệm về các nhóm thuốc lợi niệu cụ thể dùng cho tăng áp động mạch phổi, cũng như sự đáp ứng khác nhau của từng cá thể, do đó việc lựa chọn loại thuốc và liều dùng đối với những trường hợp cụ thể còn tùy vào kinh nghiệm của bác sĩ. Những bệnh nhân dùng thuốc lợi niệu cần phải theo dõi sát điện giải đồ và chức năng thận.
5.2.3. Oxygen
• Nên theo dõi bão hòa ô xy khi ngủ cho bệnh nhân bị TAĐMP ban đầu và để theo dõi điều trị (Độ khuyến cáo = IIa, mức bằng chứng =C).
• Liệu pháp thở Ô xy nên được chỉ định cho mọi bệnh nhân TA ĐMP để duy trì PaO2 > 8 kPa. Độ khuyến cáo = IIa, mức bằng chứng =C.
• Điều trị Ô xy liên tục có thể cho bệnh nhân nặng, chưa rõ lợi ích (Độ khuyến cáo = IIa, mức bằng chứng =C).
• Đối với bệnh nhân TA ĐMP mà SaO2 < 95% hoặc mức triệu chứng cơ năng theo WHO nặng độ III – IV, nên cung cấp ô xy khi di chuyển bằng máy bay.
Hầu hết các bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi (trừ những bệnh nhân có kèm thêm bệnh tim bẩm sinh) chỉ biểu hiện giảm oxy máu động mạch lúc nghỉ ở mức độ nhẹ. Cơ chế sinh lý bệnh của hiện tượng này bao gồm sự bão hòa oxy ở máu pha trộn thấp ‒ mà nguyên nhân là do giảm cung lượng tim và do sự thay đổi không tương xứng giữa thông khí và tưới máu. Những bệnh nhân có giảm oxy máu từ trước, có thể thấy sự mở thứ phát của lỗ bầu dục. Những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi kèm với bất thường tim bẩm sinh, giảm oxy máu liên quan tới sự đảo chiều của luồng thông trái phải và liên quan sự kháng lại quá trình tăng nồng độ oxy hít vào. Hiện tại không có bằng chứng chắc chắn nào về tác dụng của điều trị oxy kéo dài đối với tăng áp động mạch phổi. Tuy nhiên, nhìn chung nên duy trì mức SaO2 bằng hoặc trên 90% ở bất cứ thời điểm nào. Hiệu quả của điều trị oxy liên tục cũng vẫn chưa rõ ràng.
5.2.4. Digitalis và Dobutamine
• Digoxin có thể cho ở bệnh nhân TA ĐMP mà có suy tim, đặc biệt có rung nhĩ.
Độ khuyến cáo = IIb, mức bằng chứng =C.
• Không rõ lợi ích khi dùng lâu dài.
Do sự giảm co bóp cơ tim dường như được cho là một trong những sự kiện khởi đầu của quá trình suy tim phải, các thuốc có tăng co bóp cơ tim được cân nhắc sử dụng để điều trị trong trường hợp này. Sử dụng ngắn hạn digoxin đường tĩnh mạch ở bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi tiên phát làm tăng vừa phải cung lượng tim và làm giảm đáng kể lượng norepinephrine trong máu115. Tuy nhiên, không có báo cáo nào về tác dụng của việc điều trị lâu dài digoxin. Theo đó, việc sử dụng digitalis ở những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi có suy tim phải mạn tính dai dẳng được dựa chủ yếu trên sự suy xét của các nhà lâm sàng, chứ chưa dựa vào các bằng chứng khoa học. Digitalis có thể được sử dụng ở những trường hợp hiếm gặp hơn: đó là bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi có kèm rung nhĩ hoặc cuồng nhĩ nhằm làm giảm nhịp thất. Digoxin được dùng trong 18% đến 53% bệnh nhân trong các nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên gần đây về tăng áp lực động mạch phổi. Những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi giai đoạn cuối được điều trị bằng dobutamine đường tĩnh mạch ở hầu hết các trung tâm chuyên khoa116. Cách điều trị này thường mang lại cải thiện lâm sàng đáng kể và có thể kéo dài trong khoảng thời gian không cố định, giống như trong suy tim trái tiến triển.
5.2.5. Thuốc chẹn kênh canxi
• Thuốc chẹn kênh calci loại Nifedipine tác dụng kéo dài hoặc Diltiazem nên được cho ở bệnh nhân tăng áp động mạch phổi vô căn. Độ khuyến cáo = I, mức bằng chứng =C
• Lợi ích của chẹn kênh calci chưa rõ ở các trường hợp tăng áp động mạch phổi khác. Độ khuyến cáo = IIb, mức bằng chứng =C
Bằng chứng về hiện tượng phì đại đồng tâm ở những động mạch phổi nhỏ cùng với hiện tượng giảm kháng trở mạch phổi khi dùng các thuốc dãn mạch ‒ đã đưa Paul Wood đến giả thuyết “co mạch”34từ nhiều năm trước đây như là một nền tảng cho những hiểu biết về bệnh nguyên và bệnh sinh của tăng áp lực động mạch phổi tiên phát. Thuốc chẹn kênh calci có tác dụng dãn mạch phổi.
Tác dụng lâm sàng và tiên lượng khả quan khi dùng liều cao thuốc chẹn kênh canxi ở những bệnh nhân có đáp ứng nghiệm pháp dãn mạch cấp(xem thêm phần Chẩn đoán và đánh giá để biết về khái niệm đáp ứng dãn mạch cấp tính dương tính) có tăng áp lực động mạch phổi tiên phát đã được chỉ ra ở những nghiên cứu đơn trung tâm, không ngẫu nhiên và không có kiểm chứng81,79,92,117.
Các thuốc chẹn kênh canxi được sử dụng chủ yếu trong các nghiên cứu gần đây là nifedipine và diltiazem, và việc lựa chọn có thể dựa trên nhịp tim của bệnh nhân (bệnh nhân nhịp hơi chậm có thể thích hợp với nifedipine, và bệnh nhân nhịp hơi nhanh có thể thích hợp với diltiazem). Liều dùng của các thuốc này thường là tương đối cao để có tác dụng trong tăng áp lực động mạch phổi tiên phát, có thể tới 120‒240 mg/ngày với nifedipine, và 240‒720 mg/ngày với diltiazem79. Đối với những bệnh nhân có phản ứng dãn mạch, nên bắt đầu bằng liều thấp (ví dụ như liều 30 mg nifedipine loại phóng thích chậm dùng 1 lần trong ngày, hoặc liều 60 mg diltiazem dùng 2 lần trong ngày), sau đó tăng liều dần dần một cách thận trọng trong các tuần tiếp theo cho đến khi đạt đến liều tối đa có thể dung nạp được. Trong một số trường hợp, có thể giảm tác dụng phụ của thuốc chẹn kênh canxi bằng cách cho thêm digoxin và/hoặc lợi tiểu119. Chưa có báo cáo nào về tác dụng, khả năng dung nạp và về liều hiệu quả của những thuốc chẹn kênh canxi thế hệ mới như amlodipine và felodpine.
Chỉ có khoảng 10% đến 15% những trường hợp tăng áp lực động mạch phổi tiên phát đủ đạt các chỉ tiêu về “đáp ứng dãn mạch cấp dương tính”, và chỉ khoảng một nửa trong số đó có đáp ứng lâu dài về mặt lâm sàng và về mặt huyết động khi điều trị bằng thuốc chẹn kênh canxi. Người ta thường chấp nhận rằng chỉ trong những trường hợp như thế này, việc tiếp tục dùng thuốc chẹn kênh canxi như là một đơn trị liệu mới nên được áp dụng.
Lợi ích của test phản ứng dãn mạch cấp, và của điều trị lâu dài bằng thuốc chẹn kênh canxi ở những bệnh nhân có tăng áp lực động mạch phổi kèm thêm bệnh của mô liên kết hoặc kèm thêm bệnh tim bẩm sinh không rõ ràng bằng lợi ích ở những bệnh nhân có tăng áp lực động mạch phổi tiên phát.81,86 Tuy nhiên, các chuyên gia đề xuất trong những trường hợp này cũng nên áp dụng test phản ứng dãn mạch cấp cho bệnh nhân, và tiến hành điều trị một cách thận trọng cho những bệnh nhân có test dương tính bằng thuốc chẹn kênh canxi đường uống, theo dõi sát bệnh nhân để đánh giá về cả hiệu quả và tính an toàn của liệu pháp này. Những kết quả khả quan về việc sử dụng lâu dài các thuốc chẹn kênh canxi liều cao cũng được ghi nhận ở những trẻ em có tăng áp lực động mạch phổi tiên phát.118
5.2.6. Các thuốc Prostacyclin tổng hợp và các chất tương tự prostacyclin
Prostacyclin được sản xuất chủ yếu bởi các tế bào nội mạch và có tác dụng dãn mạch mạch. Hợp chất này là một yếu tố chống ngưng kết tiểu cầu nội sinh mạnh nhất, và đồng thời có cả tác dụng bảo vệ tế bào và tác dụng chống lại sự quá sản120. Các con đường chuyển hóa prostacyclin không đúng quy tắc đã được tìm thấy ở bệnh nhân có tăng áp lực động mạch phổi, thể hiện qua sự thiếu hụt prostacyclin synthetase ở các động mạch phổi và sự thiếu hụt prostacyclin trong sản phẩm chuyển hóa trong nước tiểu13. Mặc dù người ta chưa chứng minh được rằng các con đường chuyển hóa prostacyclin bất quy tắc như vậy là nguyên nhân hay chỉ là hậu quả của tăng áp lực động mạch phổi, nhưng việc dùng prostacyclin cho bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi là có cơ sở thuyết phục. Đầu tiên, việc sử dụng prostacyclin trên lâm sàng, như epoprostenol, được dựa trên khả năng dãn của động mạch phổi, điều này đã được chứng minh trong những nghiên cứu ngắn hạn, và tính chất này hiện tại được áp dụng trong test phản xạ dãn mạch phổi. Mặt khác, thậm chí ở những bệnh nhân không có đáp ứng dãn mạch cấp tính với epoprostenol, việc điều trị lâu dài vẫn cho thấy có sự cải thiện về mặt lâm sàng và huyết động121. Trên thực tế, dùng epoprostenol đường tĩnh mạch dài ngày làm giảm sức cản mạch phổi xuống dưới mức sức cản mạch phổi đạt được trong test phản ứng dãn mạch cấp tính84. Giả thuyết này giải thích được sự phục hồi một phần các chức năng đã thay đổi của hệ vi mạch phổi thông qua đặc điểm của prostacyclin có tác dụng ức chế đối với sự phát triển của mạch máu, chống tái cấu trúc và chống thuyên tắc. Tuy nhiên cơ chế hoạt động chính xác của prostacyclin trong các trường hợp tăng áp động mạch phổi vẫn còn chưa được biết rõ, và có vẻ như còn do nhiều yếu tố khác. Các yếu tố khác có thể bao gồm sự dãn cấp tính các tế bào cơ trơn mạch máu, sự ức chế ngưng kết tiểu cầu, bình thường hóa các bất thường của quá trình ngưng kết, phân tán các yếu tố ngưng kết tiểu cầu, củng cố các tế bào nội mô bị tổn thương, ức chế sự xâm nhập và tăng sinh của các tế bào mạch máu tạo thuận lợi cho tái cấu trúc của mạch máu phổi, cải thiện chức năng đào thải endothelin – 1 của phổi, tác dụng hướng cơ tim trực tiếp, tăng cường sử dụng O2 ngoại biên nhờ các cơ trơn và cải thiện tình trạng huyết động khi tập luyện.13
Việc sử dụng prostacyclin ở những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi đã được phổ biến hơn nhờ sự tổng hợp được các chất có dược lực khác nhau, nhưng lại có dược động học tương tự nhau. Về cơ bản, thực nghiệm trên người thu được epoprostenol thực chất là một muối tổng hợp của prostacyclin.
5.2.6.1. Epoprostenol
• Epoprostenol nên được dùng cho bệnh nhân tăng áp động mạch phổi vô căn và tăng áp phổi kèm theo bệnh mô liên kết. Độ khuyến cáo = I, mức bằng chứng = A.
• Đối với các trường hợp tăng áp động mạch phổi khác, thuốc này cũng có thể được dùng một cách có hiệu quả. Độ khuyến cáo = IIa, mức bằng chứng =C.
Epoprostenol là một hợp chất ổn định, dạng khô đông lạnh, cần phải có dung dịch đệm kiềm tính (glycine) để hòa tan, từ đó mới có dạng dung dịch để tiêm tĩnh mạch. Epoprostenol có thời gian bán thải ngắn trong hệ tuần hoàn, khoảng từ 3 đến 5 phút, và nhanh chóng chuyển thành sản phảm giáng hóa ổn định hoặc chất chuyển hóa, và ổn định ở nhiệt độ phòng chỉ trong 8 tiếng. Điều này giải thích tại sao thuốc cần được dùng đường tĩnh mạch liên tục bằng: bơm tĩnh mạch và đặt catheter lâu dài (Hickman). Epoprostenol được bảo quản lạnh trong các gói lạnh, cho phép sự dùng thuốc có thể thay đổi hàng ngày. Cách dùng các mũi thuốc dự trữ dưới da (dùng trong điều trị ngắt quãng) không được khuyến khích.
Hiệu quả của dùng epoprostenol đường tính mạch liên tục đã được kiểm tra trong 3 thử nghiệm lâm sàng không mù đôi, có kiểm chứng về tăng áp lực động mạch phổi nguyên phát121,122 và về tăng áp lực động mạch phổi đi kèm với bệnh xơ cứng bì113, được tổng hợp trong Bảng 12. Epoprostenol cải thiện triệu chứng, khả năng tập luyện và tình trạng huyết động ở cả hai hoàn cảnh lâm sàng nêu trên, và được coi là điều trị duy nhất có thể cải thiện tỷ lệ sống sót ở những trường hợp tăng áp lực động mạch phổi tiên phát.
Bảng 12: Các thử nghiệm lâm sàng về điều trị epoprostenol tĩnh mạch liên tục ở những bệnh nhân có tăng áp lực động mạch phổi 

Thử nghiệm Tăng áp động mạch phổi tiên phát (122) Tăng áp động mạch phổi tiên phát (121) Tăng áp động mạch do xơ cứng bì (113)
Số bệnh nhân 23 81 111
Thời gian (tháng) 2 3 3
Phân độ NYHA (%)
II 9 5
III 65 75 78
IV 26 25 17
Bệnh nguyên (%)
IPAH 100 100
CTD 100
CHD
HIV
Hiệu quả điều trị
Thay đổi của test 6 phút đi bộ (m) +45 +47 +94
Huyết động Cải thiện Cải thiện Cải thiện
Tình trạng lâm sàng Giảm Giảm
(cải thiện sống sót)
Không đổi

Gần đây, hai nhóm lớn những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi tiên phát điều trị bằng epoprostenol đã được công bố77,87. Số liệu cho thấy chỉ có 65% sống sót sau 3 năm và có mối liên quan tới mức độ nặng của bệnh lúc ban đầu, cũng như liên quan tới đáp ứng điều trị trong 3 tháng. Các tác giả cho rằng cần cân nhắc ghép phổi cho nhóm bệnh nhân có NYHA III hoặc IV hoặc ở những bệnh nhân không thể cải thiện được khả năng gắng sức và tình trạng huyết động sau 3 tháng điều trị bằng epoprostenol, hoặc cả hai.
Điều trị lâu dài bằng epoprostenol được bắt đầu với liều dao động từ 2 đến 4 ng/kg/phút và tăng liều tiếp theo tùy vào sự xuất hiện của các tác dụng phụ (bừng mặt, đau đầu, tiêu chảy, đau chi). Liều cần đạt trong 2 đến 4 tuần đầu tiên thường trong khoảng 10 15 ng/kg/phút và tăng liều định kỳ nhằm đạt hiệu quả tối ưu và duy trì kết quả, vì còn tùy vào khả năng dung nạp thuốc. Liều tối ưu thay đổi giữa các cá thể khác nhau, và phần lớn thường trong khoảng từ 20 đến 40 ng/kg/phút nhưng chiến lược tăng liều hiện tại còn khác nhau giữa các trung tâm. Trong hai nhóm lớn bệnh nhân nghiên cứu mới công bố gần đây, khi điều trị bằng epoprostonol, liều trung bình lần lượt là 21±7 và 27±8 ng/kg/phút.77,87
Tác dụng không mong muốn khi điều trị kéo dài bằng epoprostenol khá thường gặp và bao gồm cảm giác bừng mặt, đau hàm, tiêu chảy, đau đầu, đau lưng, đau chân và bàn chân, đau quặn bụng, buồn nôn, và hiếm gặp là tụt huyết áp. Tỷ lệ gặp các tác dụng phụ này còn tùy thuộc vào việc liều thuốc được sử dụng thế nào. Việc giảm liều chỉ cần đặt ra nếu tác dụng phụ ở mức trung bình đến mức độ nặng. Sự tái xuất hiện của các tác dụng phụ có thể gặp sau khi tăng liều thuốc, nhưng thường là nhẹ và thường tự hết mà không cần điều chỉnh lại liều thuốc. Trong một vài trường hợp, có thể gặp cổ chướng, có thể là do epoprostenol làm tăng tính thấm của phúc mạc. Các tác dụng không mong muốn liên quan tới hệ thống vận chuyển thường nặng nề hơn, và đặc biệt đi kèm với rối loạn chức năng bơm, nhiễm khuẩn tại chỗ, tắc catheter và tình trạng nhiễm trùng. Trong hai nghiên cứu lớn 77,87 thấy lần lượt là 0,14 và 0,19 đợt nhiễm trùng cho mỗi bệnh nhân‒năm, và 8 trường hợp tử vong (2,8%) trong tổng số 340 có liên quan trực tiếp tới nhiễm khuẩn catheter. Các nhiễm khuẩn khu trú có thể xảy ra ví dụ như các phản ứng tại đường ra, nhiễm khuẩn đường hầm và viêm tế bào. Các hiện tượng hiếm gặp hơn như tràn khí màng phổi và tràn máu màng phổi do đặt catheter. Việc ngừng đột ngột epoprostenol cũng cần tránh, vì ở một số bệnh nhân, điều này có thể gây nên hiện tượng hồi ứng, làm nặng thêm tình trạng tăng áp lực động mạch phổi và thậm chí gây tử vong. Việc điều trị epoprostenol lâu dài cho bệnh nhân cần phải có một kế hoạch điều trị rõ ràng với sự góp mặt của bác sĩ và y tá giàu kinh nghiệm.
Các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm chứng gần đây mới chỉ nói về áp dụng của epoprostenol ở các trường hợp tăng áp lực động mạch phổi tiên phát và tăng áp lực động mạch phổi đi kèm với bệnh xơ cứng bì. Những cũng các kết quả khả quan cũng đã được thấy ở những nghiên cứu khác về tăng áp lực động mạch phổi tiên phát ở trẻ em118, bệnh lupus ban đỏ hệ thống123 và các bệnh mô liên kết khác124, tăng áp lực động mạch phổi đi kèm với bất thường tim bẩm sinh có shunt đã sửa chữa hoặc không124,125,trong tăng áp tĩnh mạch cửa, 124,126 trong tăng áp lực động mạch phổi đi kèm với bệnh Gaucher127 và kèm với nhiễm HIV128. Vẫn chưa có sự thống nhất giữa các nhà lâm sàng về hiệu quả của điều trị epoprostenol ở những bệnh nhân thuyên tắc phổi mạn tính không có khả năng mổ129 mặc dù đã có một vài lợi ích được báo cáo.
Epoprostenol được dùng khá rộng rãi tại châu Âu và bắc Mỹ cho các trường hợp tăng áp lực động mạch phổi tiên phát và tăng áp lực động mạch phổi liên quan đến bệnh của mô liên kết có NYHA và WHO III và IV.
Bốn thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm chứng về các chất giống prostacyclin được tổng kết trong Bảng 13.
Bảng 13: Các thử nghiệm lâm sàng về việc dùng các dẫn xuất mới của prostacyclin ở những bệnh nhân tăng áp động mạch phổi 

Thử nghiệm Treprostinil(130) Beraprost‒ EU (133)
 
Beraprost –
USA (74)
Iloprost(135)
 
Số bệnh nhân 469 130 116 203
Đường dùng thuốc Dưới da Uống Uống Dạng hít
Thời gian (tháng) 3 3 12 3
Phân độ NYHA (%)
II 11 49 53
III 82 51 47 59
IV 7 41
Bệnh nguyên (%)
IPAH 58 48 74 54
CTD 19 7 10 17
CHD 24 21 16
CTEPH 28
HIV 7
P‒PH 16
Hiệu quả điều trị
VO2 đỉnh (% ước
đạt)
Không có dữ liệu Không có dữ liệu Xu hướng tăng Không có dữ liệu
Thay đổi của test 6 phút đi bộ (m) 16 25 31 36
Huyết động Cải thiện Không đổi Không đổi Cải thiện
Tình trạng lâm sàng Giảm Không đổi Giảm Giảm

5.2.6.2. Treprostinil
• Treprostinil có thể dùng cho bệnh nhân TA ĐMP. Độ khuyến cáo = IIa, mức bằng chứng = B.
Treprostinillà một dẫn xuất của epoprostenol loại benzidene ba vòng,với tính chất hóa học ổn định thích hợp cho việc sử dụng trong điều kiện nhiệt độ của môi trường xung quanh và trong một dung dịch sinh lý. Những đặc điểm này cho phép sử dụng hợp chất này bằng đường tĩnh mạch cũng như theo đường tiêm dưới da. Tiêm dưới da treprostinil có thể được thực hiện nhờ máy bơm tĩnh mạch liều nhỏ, catheter dưới da nhỏ tương tự catheter sử dụng tiêm dưới da insulin cho bệnh nhân đái tháo đường. Trong trường hợp này, những vấn đề liên quan tới đường truyền tĩnh mạch trung tâm đặt lâu ngày, chẳng hạn như nhiễm khuẩn, đã tránh được, và việc điều trị cũng đỡ khó khăn hơn.
Tác dụng của việc tiêm dưới da liên tục treprostinil ở những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi đã được nghiên cứu trong thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm chứng lớn nhất, và chỉ ra có sự cải thiện trong khả năng gắng sức, tình trạng huyết động và biểu hiện lâm sàng130. Sự cải thiện khả năng gắng sức thấy rõ rệt nhất ở những bệnh nhân có thích nghi ban đầu tốt hơn và ở những bệnh nhân có thể dung nạp được liều thuốc > 13,8 ng/kg/phút. Một nghiên cứu vệ tinh trước đó dùng treprostinil ở 26 bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi và xu hướng thấy có cải thiện khoảng cách đi bộ trong 6 phút, và thấy có giảm sức cản mạch phổi.131
Đau tại vùng tiêm là tác dụng phụ hay gặp nhất khiến phải ngừng điều trị treprostinil trong 8% trường hợp đang điều trị, và làm hạn chế việc tăng liều ở một phần các bệnh nhân. Tỷ lệ tử vong toàn bộ là 3% và không có sự khác biệt giữa các nhóm điều trị. Một số báo cáo nhận định khả năng có thể chuyển bệnh nhân từ điều trị epoprostenol đường tĩnh mạch sang dùng treprostinil đường dưới da.32
Vào năm 2002, FDA đã công nhận việc sử dụng treprostinil ở những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi có NYHA II, III và IV.
5.2.6.3. Sodium beraprost
• Sodiun Beraprost có thể cho bệnh nhân tăng áp động mạch phổi vô căn. Độ khuyến cáo = IIb, mức bằng chứng = B.
Sodium beraprostlà dẫn xuất prostacyclin đầu tiên có tính chất hóa học ổn định và có hiệu quả qua đường uống. Thuốc phân hủy nhanh chóng khi cơ thể trong tình trạng đói, nồng độ đỉnh đạt sau 30 phút và thời gian bán hủy là 35 đến 40 phút sau một liều uống.
Beraprost đã được đánh giá ở những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi trong hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm chứng tại châu Âu133 và tại Mỹ74 (Bảng 2). Trong nghiên cứu đầu tiên, thuốc được dùng theo đường uống 4 lần/ngày ở liều cao nhất có thể dung nạp (liều trung bình là 80 microgram 4lần/ngày), và tăng khả năng gắng sức chỉ thấy ở những bệnh nhân có tăng áp lực động mạch phổi tiên phát sau 3 tháng điều trị. Trong nghiên cứu thứ hai kéo dài 12 tháng, sự cải thiện khả năng gắng sức quan sát thấy tại thời điểm 3 và 6 tháng, nhưng không thấy sau thời điểm này. Nghiên cứu này cũng không thấy có sự cải thiện về mặt huyết động trong suốt quá trình nghiên cứu, các triệu chứng lâm sàng chỉ giảm vào thời điểm đánh giá lúc 6 tháng.
Beraprost được công nhận tại Nhật Bản và Hàn Quốc cho những trường hợp tăng áp lực động mạch phổi tiên phát, nhưng sự phát triển của Beraprost bị dừng lại tại Mỹ và châu Âu.
5.2.6.4. Iloprost dạng hít
• Iloprost dạng hít nên được dùng cho bệnh nhân tăng áp động mạch phổi vô căn. Độ khuyến cáo = IIa, mức bằng chứng = B.
Iloprost là một dẫn xuất của prostacyclin có tính chất hóa học ổn định, có thể dùng đường tĩnh mạch, đường uống hoặc đường hít. Dùng Iloprost dạng hít để điều trị tăng áp lực động mạch phổi là một khái niệm gây được chú ý, có những lợi điểm về mặt lý thuyết là thích hợp đối với tuần hoàn phổi. Trên thực tế, do các mạch máu phổi chạy giữa các phế nang, được bao quanh rất gần bởi các đơn vị phế nang, các mạch máu này có thể dãn ra nhờ sự lắng đọng của chất gây dãn mạch tại phế nang. Điều quan trọng là chúng phải có kích thước đủ nhỏ (đường kính từ 3 đến 5 micromet) để đảm bảo có thể lắng đọng trong phế nang.
Sau khi hít một liều Iloprost, người ta quan sát thấy có giảm 10% đến 20% áp lực trung bình động mạch phổi và hiện tượng này kéo dài trong vòng 45 đến 60 phút134. Do tác dụng của thuốc ngắn nên đòi hỏi phải hít thuốc liên tục (từ 6 đến 12 lần mỗi ngày) để đạt được hiệu quả ổn định. Với máy khí dung Jettác dụng của mỗi lần hít thuốc kéo dài khoảng 15 phút; với các thiết bị thay thế khác như máy khí dung siêu nhỏthời gian có thể giảm xuống chỉ còn 5 phút.
Iloprost dạng hít đã được đánh giá trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm chứng, trong thử nghiệm này, hít iloprost nhắc lại nhiều lần (6 tới 9 lần, 2,5 – 5 microgram/lần, trung bình 30 microgram/ngày) được so sánh với nhóm placebo ở những bệnh nhân có tăng áp lực động mạch phổi và thuyên tắc phổi mạn tính135 (Bảng 13). Thử nghiệm cho thấy có sự cải thiện khả năng gắng sức, cải thiện về triệu chứng, về sức cản mạch phổi và tình trạng lâm sàng chỉ ở những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi tiên phát. Nhìn chung, iloprost dạng hít dung nạp tốt: ho, bừng mặt, đau đầu hay xảy ra ở nhóm dùng iloprost.
Một nghiên cứu kéo dài, không kiểm chứng trên 25 bệnh nhân có tăng áp lực động mạch phổi tiên phát điều trị ít nhất 1 năm với iloprost dạng hít liều 100‒150 microgram/ngày cũng đã được công bố136: kết quả cho thấy mức tăng trung bình 85m trong test 6 phút đi bộ, mức giảm 7mmHg áp lực trung bình động mạch phổi, và mức tăng chỉ số tim là 0,6 l/phút/m2. Trong một nghiên cứu nhỏ tiến hành trên 8 bệnh nhân có tăng áp lực động mạch phổi và xơ phổi, khi dùng iloprost dạng hít cấp gây dãn mạch phổi đáng kể, trong khi vẫn duy trì được sự trao đổi khí và áp lực máu động mạch cho thấy hiệu quả có thể có ở nhóm bệnh nhân cụ thể này.
5.2.6.5. Iloprost đường tĩnh mạch
• Iloprost dạng truyền tĩnh mạch có thể dùng được cho bệnh nhân tăng áp động mạch phổi. Độ khuyến cáo = IIa, mức bằng chứng =C.
Dùng iloprost đường tĩnh mạch liên tục tỏ ra có hiệu quả ngang với epoprostenol ở một nhóm nhỏ những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi và thuyên tắc phổi mạn tính.
138,139
Iloprost có ưu điểm là ổn định ở nhiệt độ phòng mà không cần phải bảo quản lạnh.
5.2.7. Chất đối kháng receptor của Endothelin‒1 (ET‒1)
ET‒1 là một peptide được sản xuất chủ yếu bởi các tế bào nội mạc mạch máu, được đặc trưng bởi khả năng gây co mạch mạnh và là chất gây gián phân đối với các tế bào cơ trơn14. ET‒1 gắn với 2 loại receptor: ETAvà ETB ‒ ETA receptor thấy ở các tế bào cơ trơn trong khi ETB receptor thấy ở cả các tế bào nội mạch và ở các tế bào cơ trơn. Sự hoạt hóa của ETA và ETB receptor trên tế bào cơ trơn gây tác dụng co mạch và gây gián phân của ET‒1. Kích thích ETreceptor ở tế bào nội mạc làm mất ET‒1 và phóng thích NO và prostacyclin.
Sự hoạt hóa hệ thống ET‒1 được thấy cả trong máu và trong mô phổi ở những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi141. Mặc dù người ta chưa rõ ET‒1 trong máu tăng là nguyên nhân hay là hậu quả của tăng áp lực động mạch phổi140, nhưng những nghiên cứu về các mô ET hệ thống ủng hộ vai trò đáng kể của ET‒1 trong bệnh sinh của tăng áp lực động mạch phổi.14
Bằng chứng rõ ràng về sự hoạt hóa của hệ thống ET trong tăng áp lực động mạch phổi đã tạo nên một cơ sở thuyết phục để tiến hành nghiên cứu các chất đối kháng ET‒1 ở những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi. Các thích hợp nhất để đối kháng lại hệ thống ET‒1 là sử dụng các chất đối kháng ET‒1 mà có thể chẹn được hoặc là receptor ETA hoặc cả 2 receptor ETA và ETB.
Hiện tại có nhiều thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có kiểm chứng về chất đối kháng receptor của ET‒1 đã được tiến hành ở những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi (Bảng 14).
Bảng 14: Các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên về điều trị thuốc đối kháng receptor endothelin‒1 cho bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi. 

Thử nghiệm Bosentan pilot(143) Bosentan pivotal(144) Sitaxsentan(75)
Số bệnh nhân 32 213 178
Đường dùng Uống Uống Uống
Thời gian (tháng) 3 4 3
Điểm dừng ban đầu đi bộ 6 phút đi bộ 6 phút VO2 đỉnh
Phân độ NYHA
II 33
III 100 91 66
IV 9 1
Bệnh nguyên (%)
IPAH 85 70 53
CTD 15 30 24
CHD 24
HIV
Hiệu quả điều trị
VO2 đỉnh (% ước đạt) Thay đổi của test 6
phút đi bộ (m)
Không có dữ liệu Không có dữ liệu +3%
+76 +44 +34
Huyết động Cải thiện Không có dữ liệu Cải thiện
Tình trạng lâm sàng Giảm Giảm Giảm

5.2.7.1. Bosentan
• Bosentan nên được cho bệnh nhân tăng áp động mạch phổi vô căn NYHA (hoặc WHO) III và tăng áp động mạch phổi đi kèm xơ cứng bì mà xơ hóa phổi chưa nhiều. Độ khuyến cáo = I, mức bằng chứng = A.
• Bosentan có thể cho ở bệnh nhân tăng áp động mạch phổi vô căn NYHA (hoặc WHO) IV trở lên và tăng áp động mạch phổi đi kèm xơ cứng bì mà xơ hóa phổi chưa nhiều. Độ khuyến cáo = IIa, mức bằng chứng = B.
Bosentan là chất đối kháng cả hai receptor ETA vàETB, hiệu quả bằng đường uống, và là phân tử đầu tiên của nhóm thuốc này được tổng hợp142. Bosentan được đánh giá trong tăng áp lực động mạch phổi ở hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đã cho thấy có sự cải thiện khả năng gắng sức, tình trạng huyết động, các chỉ số trên siêu âm và Doppler, và cải thiện thời gian ổn định cho đến khi lâm sàng tiến triển xấu đi58,143,144Theo nghiên cứu lớn BREATHE‒1, bệnh nhân được phân ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1:1:1 vào nhóm placebo, hoặc nhóm điều trị 62,5 mg bosentan 2lần/ngày trong 4 tuần tiếp sau đó dùng bosentan 125mg 1 lần/ngày hoặc 250mg 1 lần/ngày trong ít nhất 12 tuần. Mặc dù cả hai cách dùng liều bosentan đều có tác dụng điều trị đáng kể, sự cải thiện có xu hướng nhiều hơn ở nhóm dùng 250mg 2 lần/ngày hơn là nhóm dùng 125mg 2 lần/ngày (hiệu quả điều trị lần lượt là 54m và 35m trong khoảng thời gian đi bộ 6 phút). Tuy nhiên, chưa thể xác định được liều chuẩn có hiệu quả. Hiệu quả điều trị tương tự cũng đạt được ở những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi tiên phát và ở những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi kèm với bệnh xơ cứng bì, bosentan cải thiện khoảng cách đi bộ trong 6 phút ở những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi tiên phát (+46 m trong nhóm dùng bosentan so với ‒5 m trong nhóm placebo), trong khi bosentan làm khoảng cách đi bộ trong 6 phút không giảm đi ở những bệnh nhân có xơ cứng bì (+3 m trong nhóm bosentan so với ‒40m trong nhóm placebo). Tăng men gan gặp ở 10% trường hợp, và còn phụ thuộc vào liều thuốc, có thể thay đổi nếu giảm liều thuốc hoặc ngừng thuốc. Trên thực tế, chức năng gan bất thường hay gặp và nặng ở nhóm dùng liều 250mg và giảm nồng độ transaminase được thấy ở tất cả các trường hợp mà có giảm liều bosentan. Dựa trên những kết quả này, liều bosentan điều trị cần đạt được khuyến cáo là 125mg/ngày. Cơ chế làm tăng men gan có vẻ hợp lý nhất là sự cạnh tranh phụ thuộc vào liều giữa bosentan và những sản phẩm chuyển hóa của nó trong muối mật, gây ra sự giữ muối mật có thể gây độc cho tế bào gan145.
Hai mươi chín bệnh nhân điều trị bosentan trong một nghiên cứu mở rộng: bệnh nhân được đánh giá sau 6 tháng điều trị vẫn cải thiện khoảng cách đi bộ, và điều trị bosentan lâu dài >1 năm đi kèm với sự cải thiện các chỉ số huyết động và cải thiện mức độ NYHA (146).
Bosentan đường uống gần đây được đề xuất là cách điều trị chuyển đổi áp dụng cho những bệnh nhân có các tác dụng phụ mạnh hoặc không chịu đựng được khi điều trị bằng các dẫn xuất prostacyclin, bao gồm cả tình trạng nhiễm trùng do dùng epoprostenol đường tĩnh mạch.147
Nghiên cứu BREATHE‒3 là một nghiên cứu không kiểm chứng, đã được thông qua, ở những trẻ em từ 4 đến 17 tuổi có tăng áp lực động mạch phổi để đánh giá về dược lực, khả năng dung nạp và tính an toàn của bosentan đường uống. Trong nghiên cứu này, người ta thấy tình trạng huyết động được cải thiện sau 12 tuần điều trị thấy ở 18 trẻ điều trị hoặc bằng riêng bosentan hoặc phối hợp với epoprostenol148.
Do có nguy cơ gây tăng men gan, FDA yêu cầu cần phải kiểm tra chức năng gan ít nhất mỗi tháng 1 lần ở những bệnh nhân dùng bosentan. Thêm vào đó, EMEA cũng đề xuất nên theo dõi chức năng gan hàng tháng. Hemoglobin và haematocrit nên kiểm tra thường xuyên vì sử dụng bosentan có thể gây thiếu máu nhưng thường là nhẹ. Hiện tượng ứ dịch và phù chân ở những bệnh nhân điều trị bosentan cũng đã được báo cáo. Hết sức chú ý sử dụng biện pháp tránh thai thích hợp cho những phụ nữ đang trong độ tuổi sinh nở vì bosentan có thể gây quái thai. Thêm vào đó, bosentan có thể làm giảm hiệu quả của các biện pháp tránh thai bằng hormon, do đó không nên dùng biện pháp tránh thai này đơn lẻ. Chất đối kháng thụ thể endothelin có thể gây phì đại tinh hoàn và ảnh hưởng khả năng sinh sản của nam giới. Do đó nam giới trẻ tuổi cần phải được tư vấn về vấn đề này trước khi cân nhắc dùng thuốc.
5.2.7.2. Sitaxsentan
• Độ khuyến cáo =hiện chưa có, mức bằng chứng = B
Sixtaxsentan là một chất đối kháng chọn lọc receptor ETA hiệu quả đường uống, và đã được đánh giá trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên ở 178 bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi NYHA II, III và IV75. Bệnh nguyên bao gồm tăng áp lực động mạch phổi tiên phát và tăng áp lực động mạch phổi đi kèm với bệnh mô liên kết hoặc bệnh tim bẩm sinh. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1:1:1 vào nhóm dùng placebo, nhóm dùng sitaxsentan 100mg, hoặc sitaxsentan 300mg đường uống mỗi ngày 1 lần trong vòng 12 tuần. Nghiên cứu cho thấy có sự cải thiện khả năng gắng sức, cải thiện tình trạng huyết động và triệu chứng lâm sàng75. Tỷ lệ các trường hợp có bất thường chỉ số chức năng gan là 0% với nhóm dùng 100mg, là 9,5% với nhóm dùng 300 mg. Một nghiên cứu vệ tinh trong 20 bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi cũng chỉ ra kết quả tương tự 149.
Sitaxsentan có thể làm tăng INR hoặc PT, do ức chế enzyme CYP2C9 P450 – enzyme chủ yếu ở gan có vai trò chuyển hóa warfarin. Có thể giảm liều warfarin để đạt được chỉ số INR cần thiết.
Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên thứ 2 hien tại đang được tiến hành để nghiên cứu sâu hơn về hiệu quả cũng như tác dụng phụ của sitaxsentan, và để có được sự chứng nhận từ phía đơn vị có thẩm quyền cho phép lưu hành. Chưa có khuyến cáo về sử dụng sitaxsentan nào được đưa ra vì các thông tin mới chỉ ở mức độ các thư nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên.
5.2.7.3. Ambrisentan
Ambrisentan là một chất đối kháng chọn lọc receptor ETA hiệu quả đường uống, đã được đánh giá trong một nghiên cứu vệ tinh, nghiên cứu mù đơn so sánh liều ở 64 bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự cải thiện khả năng gắng sức và huyết động tương tự như kết quả nghiên cứu trong các ERAs khác150. Hai thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đang được tiến hành đối với ambrisentan để nghiên cứu rõ hơn về hiệu quả và tác dụng phụ của thuốc, cũng như là để đạt được sự công nhận cho lưu hành từ phía cơ quan quản lý. Chưa có khuyến cáo về sử dụng ambrisentan nào được đưa ra vì các thông tin mới chỉ ở mức độ các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên.
5.2.8. Chất ức chế phosphodiesterase type 5
Sildenafil
• Sidenafil nên được dùng ở bệnh nhân TA ĐMP mà không có chỉ định điều trị bằng các biện pháp khác hoặc các biện pháp khác thất bại. Mức khuyến cáo = I; Mức bằng chứng =A.
Sidenafil là một chất ức chế chọn lọc cGMP‒phosphodiesterase type 5 (PDE), hiệu quả bằng đường uống, tác dụng dược lý thông qua làm tăng nồng độ GMP vòng bên trong tế bào151. Việc tăng nồng độ của nucleotide có tác dụng làm dãn ra và chống tăng sinh đối với các tế bào cơ trơn mạch máu152. PDE‒5 đặc biệt có mặt rất nhiều trong tuần hoàn phổi153,154 và dấu ấn và hoạt động của gene PDE‒5 tăng lên trong tăng áp lực động mạch phổi mạn tính155,156 Điều này gợi ý rằng sildenafil có thể có tác dụng có lợi đối với mạch máu tại phổi.

Một số các nghiên cứu đã báo cáo về tác dụng khả quan của sildenafil trong tăng áp lực động mạch phổi157‒159, trong thuyên tắc phổi mạn tính160 và trong tăng áp lực động mạch phổi có xơ phổi161. Thuốc dùng với liều từ 25mg tới 75mg 2 lần/ngày cho thấy có thể cải thiện được tình trạng huyết động và khả năng gắng sức. Những nghiên cứu này báo cáo khá ít những tác dụng phụ của thuốc (như đau đầu, ngạt mũi, rối loạn nhìn). Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên: sildenafil 25‒100mg 2 lần/ngày dùng cho 22 bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi có NYHA II và III giúp cải thiện triệu chứng sau 6 tuần, khả năng gắng sức đánh giá theo phương pháp Naughton đi trên thảm lăn (từ 475 ±168 giây đi bộ trên thảm lăn ở cuối giai đoạn dùng placebo cho tới 686.224 ở cuối giai đoạn dùng sildenafil), và đánh giá về tình trạng huyết động15. Kết quả của thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên trên 278 bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi NYHA II và III gần đây được báo cáo tại hội nghị của American College of Chest Physicians tháng 10/2004. Kết quả cho thấy hiệu quả trung bình nhóm placebo so với nhóm điều trị đối với test đi bộ 6 phút trong khoảng 45m khi dùng 20,40 và 80mg sildenafil 3 lần/ngày. Tất cả cách dùng liều sildenafil đều làm giảm 3‒5 mmHg áp lực động mạch phổi trung bình ở tuần 12. Tại thời điểm viết bài này, điều trị bằng sildenafil vẫn chưa được công nhận để điều trị tăng áp lực động mạch phổi162. Hiện tại, điều trị sildenafil có thể cân nhắc đối với bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi, những bệnh nhân này đã điều trị theo cách khác thất bại hoặc không được dùng các cách điều trị khác.
5.2.9. Điều trị phối hợp
• Đối với bệnh nhân TA ĐMP mà không đáp ứng với một loại thuốc thì có thể phối hợp thuốc (IIb, C).
• Nên được theo dõi chặt chẽ và nên đưa vào các nghiên cứu đối với những bệnh nhân được phối hợp thuốc điều trị.
Điều trị phối hợp là một lựa chọn đáng lưu ý vì nó nhấn mạnh nhiều cơ chế sinh lý bệnh khác nhau cùng hiện diện trong tăng áp lực động mạch phổi. Điều trị phối hợp có thể là dùng cùng lúc hai hoặc nhiều thuốc, hoặc thêm thuốc thứ 2 (hoặc 3) vào thuốc đang điều trị chưa có hiệu quả. Cách phối hợp điều trị nào là lựa chọn đúng đắn nhất hiện vẫn chưa được biết.
Hiệu quả và tính an toàn trong việc điều tri cùng lúc bosentan và epoprostenol được nghiên cứu ở 33 bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi NYHA III và IV, phân ngẫu nhiên bệnh nhân vào nhóm điều trị epoprostenol+placebo hoặc vào nhóm epoprostenol+bosentan (BREATHE‒2). Cả hai nhóm đều thấy có sự cải thiện về huyết động, khả năng gắng sức, và phân độ NYHA. Kết quả cũng cho thấy nhóm điều trị epoprostenol + bosentan có xu hướng cải thiện nhiều hơn các chỉ số huyết động, mặc dù chưa có ý nghĩa163. Tuy nhiên, các tác dụng phụ của thuốc gặp nhiều hơn ở nhóm dùng phối hợp hai thuốc hơn là nhóm dùng epoprostenol riêng lẻ.
Các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đang được tiến hành sẽ giúp tìm hiểu tốt hơn về tác dụng của việc điều trị thêm sildenafil cho những bệnh nhân đang dùng epoprostenol. Nghiên cứu STEP năm 2006 và COMBI cho thấy hiệu quả phần nào của việc phối hợp thuốc.
Những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi tiến triển xấu đi mặc dù đã điều trị kéo dài bằng các dẫn xuất của prostacyclin không phải dùng đường uống, việc thêm bosentan164 hoặc sildenafil165 vào thuốc điều trị mang lại sự cải thiện khả quan về chỉ số huyết động học và khả năng gắng sức, điều này được ghi nhận ở một số nghiên cứu không kiểm chứng.
5.3. Các phương pháp can thiệp
5.3.1. Phá (nong) vách liên nhĩ
• Biện pháp phá vách liên nhĩ nên được chỉ định cho bệnh nhân TA ĐMP nặng mà không đáp ứng với điều trị nội khoa hoặc là biện pháp điều trị bắc cầu để chuẩn bị cho phẫu thuật ghép tim phổi. Độ khuyến cáo = IIa, mức bằng chứng = C.
• Nên được thực hiện ở trung tâm can thiệp tim mạch có nhiều kinh nghiệm.
• Không nên chỉ định ở bênh nhân đã có áp lực nhĩ phải trên 20 mmHg và bão hòa ôxy động mạch < 80%.
Một vài quan sát trên thực nghiệm166 và trên lâm sàng167 đã chỉ ra rằng một lỗ thông ở vách liên nhĩ có thể có lợi trong trường hợp tăng áp lực động mạch phổi nặng. Trên thực tế sự có mặt của lỗ thông liên nhĩ sẽ gây shunt phải ‒ trái làm tăng cung lượng tim và làm tăng vận chuyển oxy trong hệ thống, mặc dù có sự giảm bão hòa oxy máu động mạch. Hơn thế nữa, luồng thông ở tâm nhĩ sẽ làm giảm áp lực ở nhĩ phải và thất phải, từ đó làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng của suy tim phải.
Vai trò của kỹ thuật phá vách liên nhĩ bằng bóng trong điều trị bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi còn chưa rõ ràng, vì hiệu quả của nó mới chỉ được báo cáo ở những ca lâm sàng, tổng cộng khoảng 120 ca được công bố168,169. Trong hầu hết các tình huống, kỹ thuật này được tiến hành trên bệnh nhân thể trạng rất yếu, như là một bước nối trước khi tiến đến ghép phổi, với tỷ lệ tử vong từ 5 đến 15%. Bên cạnh việc cải thiện triệu chứng và tình trạng huyết động còn thấy tăng tỷ lệ sống sót cho bệnh nhân so với nhóm chứng.76 Hiện tại, kỹ thuật phá vách liên nhĩ bằng bóng được chỉ định cho những bệnh nhân NYHA III, IV có ngất nhiều lần và/hoặc suy tim phải dù đã điều trị bằng các biện pháp khác. Phá liên nhĩ có thể như là một bước đệm trước khi tiến hành ghép phổi, hoặc là điều trị duy nhất khi cách điều trị khác không còn dùng được169. Phá vách liên nhĩ bằng bóng cần được tiến hành ở các trung tâm giàu kinh nghiệm để giảm nguy cơ cho thủ thuật.
5.3.2. Ghép phổi hoặc ghép tim phổi
• Phẫu thuật ghép phổi hoặc ghép tim phổi có lợi ích ở bệnh nhân TAĐMP nặng không đáp ứng các biện pháp điều trị khác. Độ khuyến cáo =I, mức bằng chứng = C.
Ghép phổi và tim ở những trường hợp tăng áp lực động mạch phổi chỉ được đánh giá ở những nghiên cứu dọc chưa kiểm chứng169. Bởi vì những nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng dường như là không phù hợp đạo đức y học khi mà bệnh nhân không có sự lựa chọn điều trị khác.169
Tỷ lệ sống sót sau 3 năm và 5 năm sau ghép phổi và ghép tim phổi là khoảng 55% và 45%170.
Ghép phổi một bên hoặc hai bên đã được tiến hành cho tăng áp lực động mạch phổi tiên phát, và có thể kèm với sửa chữa dị tật tim bẩm sinh trong hội chứng Eisenmenger. Tỷ lệ sống sót tương tự nhau sau ghép một bên phổi và ghép hai bên phổi và nếu kỹ thuật có thuận lợi đi nữa thì phẫu thuật không phải là lựa chọn có thể chấp nhận được cho hầu hết các trường hợp tăng áp lực động mạch phổi. Tuy nhiên, nhiều trung tâm hiện nay hay ghép phổi cả hai bên một phần do như vậy sẽ có ít biến chứng sau mổ hơn. Những bệnh nhân có hội chứng Eissenmenger và những bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối, lựa chọn ghép tim phổi cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng. Đối với những bất thường phức tạp, và trong các trường hợp có thông liên thất, cho thấy có tăng tỷ lệ sống sót sau ghép tim phổi.
Ghép phổi và ghép tim phổi được chỉ định ở những bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi NYHA III và IV mà không đáp ứng được với các phương pháp điều trị bằng thuốc hiện có.
5.4. Phác đồ điều trị
Phác đồ điều trị dựa trên cơ sở của độ khuyến cáo và mức bằng chứng xuất phát từ các thử nghiệm lâm sàng, được trình bày tóm tắt trong Hình 3.
Phác đồ điều trị được áp dụng giới hạn cho những bệnh nhân NYHA III hoặc IV vì họ chiếm phần lớn đối tượng nghiên cứu của các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên.
Đối với những bệnh nhân NYHA I hoặc II, có rất ít dữ liệu và phương cách điều trị thích hợp nhất vẫn còn trong quá trình tìm hiểu, và có thể sẽ được cụ thể hóa trong các nghiên cứu cụ thể. Hiện tại, những bệnh nhân NYHA I và II nên được điều trị theo phương pháp cơ bản, và nếu có phản ứng dãn mạch, thì điều trị bằng thuốc chẹn kênh Canxi. Trong những trường hợp có nhiều yếu tố tiên lượng tốt (xem phần Đánh giá mức độ nặng) thì nên áp dụng chiến lược “ngóng‒chờ” hoặc tham gia trong các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên.
Cách thức điều trị khác biệt chỉ được đề cập chủ yếu đối với những trường hợp tăng áp lực động mạch phổi tiên phát, tăng áp lực động mạch phổi liên quan đến xơ cứng bì, hoặc do dùng các thuốc làm giảm ngon miệng. Cần thận trọng khi suy ra áp dụng cho các trường hợp tăng áp lực động mạch phổi khác (xem thêm phần Các trường hợp cụ thể)
Cách tiếp cận ban đầu, sau khi chẩn đoán tăng áp lực động mạch phổi, là phải bắt đầu các bước điều trị chung cơ bản bao gồm: thuốc chống đông đường uống (nếu không có chống chỉ định), thuốc lợi niệu nếu có ứ dịch, thở oxy nếu có hạ oxy máu, và dùng digoxin nếu có suy tim phải dai dẳng và/hoặc có rối loạn nhịp trên thất.
Do sự phức tạp của các bước đánh giá hỗ trợ cũng như của các lựa chọn điều trị hiện có, bệnh nhân có tăng áp lực động mạch phổi nên được gửi tới các trung tâm chuyên khoa.
Test phản xạ dãn mạch cấp cần được tiến hành ở tất cả các bệnh nhân có tăng áp lực động mạch phổi, mặc dù bệnh nhân tăng áp lưc động mạch phổi tiên phát và bệnh nhân tăng áp lực động mạch phổi do dùng thuốc giảm ngon miệng thường hay có phản ứng dãn mạch dương tính, và thường đáp ứng tốt với điều trị chẹn kênh canxi liều cao.
Những bệnh nhân có test dãn mạch dương tính cần được điều trị bằng thuốc chẹn kênh canxi tới liều tối đa có thể dung nạp; duy trì sự đáp ứng (được định nghĩa là NYHA I hoặc II và huyết động gần bình thường) cần đạt được sau 3 đến 6 tháng điều trị.
Những bệnh nhân có test dãn mạch âm tính và có NYHA I, II cần tiếp tục điều trị chung cơ bản và theo dõi lâm sàng sát.
Những bệnh nhân có test dương tính hoặc âm tính có NYHA III cần được cân nhắc điều trị với chất đối kháng receptor của endothelin, hoặc với prostacyclin. Hiện tại chất đối kháng receptor của endothelin duy nhất được công nhận và có mặt trên thị trường là bosentan. Dùng epoprostenol đường tĩnh mạch liên tục có thể áp dụng cho những bệnh nhân NYHA III mà không đáp ứng với thuốc đối kháng receptor của endothelin hoặc các loại prostacyclin khác. Một vài tác giả vẫn coi epoprostenol là hàng đầu cho những bệnh nhân NYHA III, do cải thiện được tỷ lệ sống sót.
Sự lựa chọn thuốc phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm sự chứng nhận của cơ quan quản lý, đường dùng của thuốc, các tác dụng phụ của thuốc, sự dung nạp của bệnh nhân, và cả kinh nghiệm của người thầy thuốc. Sildenafil – thuốc ức chế phosphodiesterase type 5 đường uống, hiện chưa được các cơ quan quản lý công nhận trong điều trị tăng áp lực động mạch phổi, và việc sử dụng thuốc này nên cân nhắc ở những bệnh nhân điều trị thất bại hoặc không điều trị được bằng các phương pháp được công nhận khác.
Vai trò của thuốc này sẽ được tìm hiểu rõ hơn sau khi có các đánh giá của các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên của cơ quan quản lý.
Mặc dù bosentan và treprostinil được chứng nhận dùng cho bệnh nhân NYHA IV, nhưng chỉ có một số lượng ít các bệnh nhân NYHA IV có mặt trong các thử nghiệm lâm sàng của các thuốc này. Theo đó, hầu hết các chuyên gia đều cân nhắc điều trị cho những bệnh nhân quá nặng. Mặc dù không có thử nghiệm lâm sàng nào tiến hành đối với việc dùng iloprost đường tĩnh mạch, New Zealand vẫn công nhận loại prostacyclin này.
Điều trị phối hợp có thể cân nhắc cho những bệnh nhân không cải thiện hoặc tiến triển xấu đi trong khi điều trị, mặc dù những dữ liệu về vấn đề này còn rất hạn chế. Cách dùng thích hợp: thời gian dùng, liều dùng làm sao để hạn chế tác dụng phụ khi phối hợp điều trị vẫn còn đang được nghiên cứu.
Phá vách liên nhĩ bằng bóng và/hoặc ghép phổi được chỉ định cho những trường hợp tăng áp lực động mạch phổi điều trị thuốc thất bại hoặc không điều trị được bằng thuốc. Những kỹ thuật này nên được tiến hành ở những trung tâm có kinh nghiệm.

Hình 3. Phác đồ điều trị Tăng áp lực động mạch phổi

Bệnh Lao phổi – Điều trị và chăm sóc

Lao phổi là bệnh rất phổ biến do Mycobacterium tuberculosis gây ra. Bệnh có thể cấp tính hay mạn tính, khu trú ở phổi hay lan rộng ra các cơ quan khác như da, màng não, thận, xương, khớp, ruột…

MẦM BỆNH

Mycobacterium tuberculosis là trực khuẩn dài, mảnh, có khi hơi cong. Chúng kháng lại sự xâm nhập của các phẩm nhuộm vì có nhiều lipid. Để quan sát được vi khuẩn, người ta thường nhuộm Ziehl- Neelsen, trong đó phẩm carbol fuchsin ngấm vào vi khuẩn nhờ hơ nóng tiêu bản, khi đã bắt màu vi khuẩn rất khó bị tẩy bằng hỗn hợp acid- cồn, do đó được gọi là vi khuẩn kháng acid.

Mycobacterium tuberculosis dề kháng với sự khô ráo, các hoá chất tẩy khuẩn (phenol 5%, hypochlorid…). Vi khuẩn có thể tồn tại trong dòm hàng tháng. Các vi khuẩn có trong những hạt nhỏ lơ lửng trong không khí có khả năng lây nhiễm cho người khác trong 8-10 ngày.

Người ta thường cấy bệnh phẩm trên môi trường trứng như Loweinstein – Jensen. Mycobacterium tuberculosis yếm khí, mọc rất chậm (6-8 tuần), vì thời gian nhân đôi 15-22 giờ, so với các vi khuẩn khác 20 -30 phút.

DỊCH TỄ

  • Nguồn bệnh

Người đang bị lao phổi tiến triển, nếu điều trị đúng và đầy đủ sau 2 tháng thì không còn khả năng lây.

  • Đường truyền nhiễm

Chủ yếu là đường hô hấp: Hít phải những hạt đờm nhỏ có Mycobacterium tuberculosis lơ lửng trong không khí, do tiếp xúc gần gũi với người bệnh.

ít gặp: Qua da, đường tiêu hoá (uống sữa của con bò bị bệnh lao…)

Bệnh phát triển song song với tình trạng suy nhược. Lao động nhiều , dinh dưỡng kém, điều kiện sống thiếu vệ sinh. Bệnh phổ biến ở Việt Nam, cũng như nhiều nước đang phát triển .

BỆNH SINH

Tổn thương tuỳ thuộc độc lực vi khuẩn và phản ứng của cơ thể, có 2 loại:

  • Tổn thương tiết dịch

Đó là phản ứng viêm, xảy ra chủ yếu ở nơi nhiễm đầu tiên trong phổi.

  • Tổn thương viêm hạt

Phần trung tâm của tổn thương là những tế bào khổng lồ chứa vi khuẩn lao, xung quanh là những tế bào giống thượng bì. Một cục nhỏ (Tubercle) là một vùng viêm hạt bao bọc bởi mô sợi, vùng trung tâm đã hoại tử bã đậu. Các cục nhỏ sẽ lành, được thay thế bởi mô sợi và sự hoá vôi.

Vi khuẩn phát tán theo 2 cách:

  1. Cục nhỏ vd vào một phế quản, chất bã đậu lan ra các nơi khác trong phổi, hoặc được nuốt xuống ruột, hoặc được khạc ra ngoài gây nhiễm cho người khác.
  2. Từ phổi, vi khuẩn xâm nhập vào máu và được đưa đi khắp cơ thể.

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

Không có triệu chứng lâm sàng đặc thù, cần lưu ý 2 điểm: ho dai dẳng quá 15 ngày và suy sụp toàn thân.

Lao sơ nhiễm

Triệu chứng không rõ, khó nhận biết:

Gồm:

  • Tình trạng gần như cảm cúm kéo dài 2-3 tuần.
  • Sốt nhẹ, mệt nhọc, sút cân.
  • Chán ăn, ho khan, có khi đau tức ngực.

X quang: Đám mờ thâm nhiễm ở phổi cùng với hạch trung thất to.

Lao tiến triển

Các triệu chứng tiến triển dần:

  1. Triệu chứng toàn thể:

Gần như một tình trạng cảm cúm kéo dài.

Sốt nhẹ vào chiều tối, kèm vã mồ hôi.

Mệt mỏi, sút cân, biếng ăn làm tổng trạng suy sụp nhanh.

  1. Triệu chứng cơ năng:

Ho: Ho khan hay ho có đờm buổi sáng, cơn ho tăng dần.

Đờm: Màu trắng đục, sau có màu xanh vàng, đôi khi đờm có máu.

Ho ra máu: Thường ra ít, thành tia lẫn trong dòm. Đôi khi ra máu nhiều.

Đau: Nếu tổn thương ở màng phổi, đau khi hít vào mạnh.

Khó thỏ do xơ hoá (lâu ngày), tràn khí màng phổi.

  1. Các triệu chứng khác:

Khám: Có thể gặp các hội chứng tràn dịch màng phổi, tràn khí màng phổi, hội chứng đông đặc hay hình ảnh co kéo biến dạng lổng ngực.

CHẨN ĐOÁN

Dựa vào các yếu tố sau:

Lâm sàng

  • Ho kéo dài quá 15 ngày
  • Tổng trạng suy sụp.

Dịch tễ

Tiếp xúc với người bệnh lao.

  • X quang có hình ảnh tổn thương.
  • Phản ứng nội bì với Tuberculin rõ rệt.
  • Xét nghiệm:
  • Máu: Tốc độ lắng máu cao.
  • Phản ứng nội bì Tuberculin (+).
  • BK (+) khi soi đờm trực tiếp, hoặc sau khi nuôi cấy (vừa để chẩn đoán vừa làm kháng sinh đồ).

ĐIỀU TRỊ

Mục đích điều trị

  • Diệt Mycobacterium tuberculosis hoàn toàn, càng nhanh càng tốt, tránh lây lan.
  • Tránh hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc.

Nguyên tắc

  • Đa hoá trị liệu: Dùng 3 – 4 loại thuốc trong giai đoạn đầu, 2 – 3 loại trong giai đoạn hai.
  • Dùng đúng liều, đúng thời gian, tránh tái phát.

Các loại thuốc

  • Streptomycin
  • Isoniazid (INH)
  • Pyrazinamid
  • Ethambutol
  • Rifampicin

Các thuốc được phối hợp và sử dụng theo nhiều phác đồ khác nhau.

Các giai đoạn điều trị

  • Giai đoạn tấn công: 2-3 tháng đầu.

Dùng 3 loại + Pyrazinamid.

Bệnh nhân nên nằm viện để mau hồi phục, tránh lây lan.

  • Giai đoạn củng cố: 6 tháng.

Dùng 2 loại, ví dụ INH + Ethambutol hoặc INH + Rifampicin.

Việc đánh giá phân loại và phác đồ điều trị thuộc quyền của chuyên khoa lao. Dưới đây là một phác đồ để tham khảo:

Nhóm 01: BK (+) mới điều trị.

Giai đoạn I: 3 tháng:  Hàng ngày

Streptomycin lg

INH 300 mg

Pyrazinamid 1,5g

Giai đoạn II: 6 tháng: Tuần 2 lần.

Streptomycin 1g

INH 600 mg

Pyrazinamid

Nhóm 02: BK (+) đã điều trị theo 01, tái phát:

Giai đoạn I: 3 tháng:

Rifampicin 300mg                    Hàng ngày.

Ethambutol 1200 mg

Giai đoạn II: 6 tháng:  Rifampicin 600mg

Ethambutol 2400 mg 2 ngày/ tuần. Có thể phối hợp thêm pyrazinamid.

DỰ PHÒNG

Giáo dục sức khoẻ.

Phát hiện, chẩn đoán, điều trị sớm và đúng.

Tiêm BCG theo lịch.

Quản lý tốt bệnh nhân để tránh lây lan.

CHĂM SÓC

Nhận định

  • Tình trạng hô hấp:

Giai đoạn đầu của bệnh:

Mệt mỏi.

Cảm thấy yếu.

Sụt cân nhanh.

Sốt về chiều.

Đổ mồ hôi trộm.

Giai đoạn lao phổi nặng:

Ho kéo dài: Lúc đầu ho khan sau ho có đờm.

Bệnh nhân nặng có biến chứng ho ra máu, mất máu nhiều gây khó thở.

Khó thở.

Khạc ra máu.

Nếu bệnh nhân suy hô hấp cần thông khí và cho thở Oxy.

Để cung cấp lượng Oxy cần thiết.

  • Tình trạng tuần hoàn:

Mạch.

Huyết áp.

Tuỳ tình trạng từng bệnh nhân.

Theo dõi mạch, huyết áp 30 phút/ lần, 1 giờ/ lần, 3 giờ/ lần.

  • Tình trạng chung:

Đang điều trị mà nhiệt độ vẫn tăng phải theo dõi nhiệt độ ngày 2 lần (sáng, chiều).

Cân nặng: Bệnh nhân lên cân là điều trị có đáp ứng.

Theo dõi khạc ra máu, ho ra máu.

Bệnh tiến triển nặng hơn.

Bệnh nhân ăn ngủ được, diễn biến tốt.

Tình trạng ngày càng nặng hơn.

Xem bệnh án để biết:

+ Chẩn đoán.

+ Chỉ định thuốc.

+ Xét nghiệm.

+ Các yêu cầu theo dõi khác.

+ Chế độ ăn.

Để thực hiện kịp thời, chính xác các xét nghiệm cơ bản.

Để bồi dưỡng bệnh nhân đúng mức.

Có kế hoạch chăm sóc thích hợp.

Lập kế hoạch chăm sóc

Bảo đảm thông khí.

Theo dõi tuần hoàn.

Theo dõi diễn biến bệnh.

Thực hiện y lệnh của bác sỹ.

Chăm sóc hệ thống cơ quan nuôi dưỡng.

Giáo dục sức khoẻ.

Thực hiện kế hoạch

Bảo đảm thông khí.

Đặt bệnh nhân nằm ngửa, đầu nghiêng sang một bên.

Cho thở Oxy.

Theo dõi nhịp thở, tình trạng khạc ra máu, ho ra máu.

Hút đờm dãi.

Theo dõi tuần hoàn:

Lấy mạch, huyết áp, nhiệt độ ngay khi tiếp nhận bệnh nhân, báo cáo ngay bác sĩ.

Chuẩn bị dịch truyền tuỳ tình trạng của bệnh nhân.

Theo dõi mạch, huyết áp 30 phút/lần, 1 giờ/lần, 3 giò/lần.

Theo dõi diễn biến bệnh:

Nếu điều trị có đáp ứng tốt, bệnh nhân giảm và hết sốt, bệnh nhân lên cân, tình trạng khạc ra máu, ho ra máu thưa dần và hết hẳn.

Theo dõi các biến chứng xẹp phổi, lao thứ phát.

Thực hiện y lệnh của bác sĩ:

  • Thuốc: Uống

Tiêm, truyền

  • Xét nghiệm: Máu

Đờm

Nước tiểu

X quang.

Đề phòng hít phải chất nôn, chất xuất tiết.

Nếu có suy hô hấp.

Tuỳ số lượng máu mất nhiều hay ít.

Tuỳ tình trạng bệnh nhân.

Bệnh nhân tiếp tục sụt cân là dấu hiệu xấu.

Báo bác sĩ để xử lý kịp thời

Giải thích để bệnh nhân an tâm điều trị (các phản ứng phụ khi dùng thuốc nếu có).

Lưu ý lấy đờm đúng kỹ thuật.

Theo dõi các dấu hiệu sinh tồn.

Bệnh nhân nặng theo dõi biến chứng.

Chăm sóc hệ thống cơ quan:

Nghỉ ngơi: Giai đoạn bệnh tiến triển cần nghỉ ngơi tối đa.

Cho bệnh nhân nhập viện điều trị trong 3 tháng.

Tránh lây lan.

Cần tạo điều kiện cho giấc ngủ: Đêm ngủ 7-8 giờ, trưa ngủ 1-2 giờ.

Mang khẩu trang khi tiếp xúc với người khác.

Thay quần áo, tắm giặt hàng ngày.

Ho khạc vào ống nhổ cá nhân chứa dung dịch sát khuẩn.

Chăm sóc những bệnh nhân không tự làm vệ sinh được.

Bệnh ổn định có thể vận động nhẹ nhàng: Tập thể dục, đọc sách…

Nuôi dưỡng: Bệnh nhân thường ăn ít, ăn không ngon nên phải nấu ăn hợp khẩu vị và động viên bệnh nhân ăn nhiều.

Giáo dục sức khoẻ:

Khi bệnh nhân mới vào viện, phải hướng dẫn nội quy khoa phòng cho bệnh nhân và thân nhân của bệnh nhân.

Sau khi xuất viện cần theo dõi và khám tại địa phương theo hướng dẫn của bác sĩ điều trị về thuốc, chế độ nghỉ ngơi, lao động…

Bệnh nhân phải được biết rằng bệnh lao không phải nan y, nhưng cần điều trị lâu dài và đầy đủ thuốc.

Nên cho chế độ ăn uống riêng.

Cần tăng cường khẩu phần ăn, đảm bảo cung cấp nhiều năng lượng đủ calo trong ngày.

Bệnh nhân lao phải điều trị lâu dài nên tâm lý trị liệu cần được quan tâm.

Giáo dục bệnh nhân biết cách xử lý đờm (ngâm trong dung dịch diệt khuẩn),các biện pháp tránh lây lari cho người nhà.

Giải thích ích lợi của việc điều trị tiếp tục để bệnh nhân tin tưởng.

Đánh giá

Được đánh giá là chăm sóc tốt, nếu:

Theo dõi các xét nghiệm cần thiết và X quang liên tục để đánh giá quá trình điều trị.

Tổng trạng chung khá dần, lên cân, X quang, da hồng hào, hết sốt, hết ho, hết khạc ra máu.

Tuy nhiên sau 3 tháng điều trị tại bệnh viện, nếu bệnh nhân đáp ứng tốt với thuốc phải tiếp tục điều trị tại địa phương cho đủ liều thuốc theo công thức đã điều trị tại bệnh viện, từ 9-12 tháng.

Lưỡi đỏ rực (đỏ tươi, đỏ sẫm) – Triệu chứng bệnh Đông y

Khái niệm

Sắc lưỡi so với lưỡi bình thường sẫm hơn đỏ nhạt, biểu hiện đỏ tươi hoặc đỏ sẫm gọi là chứng lưỡi đỏ rực.

Lưỡi hồng với lưỡi đỏ rực nói đúng ra là hai loại lưỡi khác nhau, chủ bệnh cũng khác nhau nhất định. Như sách Thiệt giám biện chứng viết: “Sắc đỏ sẫm (tức đỏ rực) là khí huyết nhiệt, sắc đỏ hồng (tức là đỏ tươi) là tạng phủ đều nhiệt”. Nhưng lưỡi đỏ hồng với lưỡi đỏ rực nói chung đều là nhiệt chứng. Hai loại chỉ chia ra mức độ nặng nhẹ mà thôi. Lưỡi đỏ rực là một bước phát triển của lưỡi đỏ hồng. Cơ chế hình thành và ý nghĩa lâm sàng gần giống nhau, vì vậy mục này giới thiệu chung làm một loại.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Lưỡi đỏ rực do dương thịnh thực nhiệt: Phần nhiều gặp ở bệnh Ôn nhiệt trong giai đoạn tà nhiệt quá thịnh, hình thể thịnh mà chính khí chưa suy. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là chất lưỡi đỏ rực mầu sắc tươi sáng, phát nhiệt phần nhiều là sốt cao, tâm phiền trằn trọc, thậm chí xuất hiện tinh thần hôn mê nói sảng, ban chẩn nổi lờ mờ, khát nước uống lạnh, mạch Hồng Sác có lực.
  • Lưỡi đỏ rực do ăm khuy hư nhiệt: Phần nhiều gặp ở bệnh ôn nhiệt và thời kỳ cuối ở một số bệnh mạn tính, chính khí hư, tà khí suy. Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là chất lưỡi đỏ rực, sắc trạch tối sạm, triều nhiệt, mặt đỏ, hồi hộp, mồ hôi trộm, ngũ tâm phiền nhiệt, tinh thần mỏi mệt, mạch Tế Sác.Chứng lưỡi đỏ rực do dương thịnh thực nhiệt:

Nguyên nhân hình thành là tà nhiệt bành trướng, doanh nhiệt tràn lan, nhiệt hun đốt doanh âm, chất lưỡi từ đỏ hồng chuyển sang đỏ hắt báo hiệu xu thế nhiệt dần dần nặng hơn. Chất lưỡi đỏ rực nói chung cho là dấu hiệu nhiệt vào doanh huyết. Sách Biện thiệt chỉ nam viết: “Khi tà nhiệt truyền vào doanh, sắc lưỡi phải đỏ rực. Đỏ rực có nghĩa là đỏ sẫm. Tâm chủ doanh chủ huyết, rêu lưỡi tía khô là tà đã vào doanh huyết”. Yếu điểm biện chứng là lưỡi đỏ rực, mầu sắc hơi tươi tắn hoặc kèm theo đỏ mà có gai, bề mặt lưỡi khô nứt, sắc rêu lưỡi phần nhiều vàng xốp hoặc đèn khô, xu thế nhiệt so với loại âm khuy hư chứng là thịnh hơn, có thể kiêm khát nước, tinh thần hôn mê nói sảng, mạch Hồng Đại có lực… Điều trị nên thanh doanh lương huyết, chọn dùng các phương Thanh doanh thang, Tê giác địa hoàng thang.

Chứng Lưỡi đỏ rực do âm khuy hư nhiệt: Nguyên nhân hình thành là do tà nhiệt quấy rối lâu ngày hun đốt âm dịch hoặc là một số bệnh mạn tính nào đó dằng dai bỏ lỡ cơ hội điều trị đến nỗi âm khuy dịch hao hoặc là vì dùng quá tay thuốc hãn hạ, sai lầm dùng thuốc táo nhiệt dẫn đến tổn hại âm dịch, hư hỏa bốc lên. Những nhân tố nói trên tạo nên phần âm tổn thương mà phản ánh hiện tượng lên lưỡi thấy xuất hiện chất lưỡi đỏ rực. Chứng Lưỡi đỏ rực do dương thịnh thực nhiệt cũng nói lên hiện tượng tổn thương phần âm nhưng nếu phân tích riêng lẻ bệnh tình thì tà nhiệt cang thịnh là mâu thuẫn chủ yếu với loại lưỡi đỏ do âm khuy hư nhiệt thì lấy âm hư là chủ yếu, có chỗ hư thực khác nhau. Lại phân tích theo hiện tượng của lưỡi thì chứng âm khuy hư nhiệt lưỡi đỏ rực phần nhiều tối xạm không tươi nói chung là không có rêu, bề mặt lưỡi khô mà ít tân dịch. Lâm sàng còn có trường hợp có chứng trạng âm hư phát nhiệt như: triều nhiệt về buổi chiều, tuy khát mà không muốn uống, mạch Tế Sác vô lực, có thể qua đó mà chẩn đoán phân biệt, về điều trị nên tuân theo nguyên tắc: “tráng chủ của thủy để chế dương quang”. Nếu nói theo ôn bệnh thì “giữ được một phần âm dịch là giữ được một phần sự sống” chọn dùng các phương ích Vị thang, Gia giảm Phục mạch thang. Nếu chất lưỡi đỏ rực, bề mặt lưỡi sáng trơn như gan lợn, khô quắt hoặc khô mềm phần nhiều nói lên âm dịch của Vị và Thận sắp kiệt hết, như sách Biện thiệt chỉ nam viết: “Lưỡi tuy đỏ rực mà không tươi, khô khan teo quắt là Thận âm đã cạn”. “Nếu lưỡi đỏ rực mà sáng bóng là Vị âm vong” cần mau chóng dùng thuốc bổ âm liều cao, nếu không thì tiên lượng rất xấu.

Những điều giới thiệu ở trên là bệnh chứng chẩn đoán phân biệt toàn thể cái lưỡi đều có mầu sắc đỏ rực, trên lâm sàng có khi vì mầu sắc đỏ rực xuất hiện ở lưỡi có bộ vị khác nhau, chủ bệnh cũng không giống nhau cũng nên chẩn đoán phân biệt. Như chỉ có riêng đầu lưỡi đỏ rực đó là Tâm hỏa thịnh. Diệp Thiên Sĩ chủ trương “dùng Đạo xích tán để tả phủ”, ven lưỡi đỏ rực là Can nhiệt có thể chọn dùng Tư Thanh hoàn để thanh tả Can hỏa. Gốc lưỡi đỏ rực là Thận hỏa nên dùng Tri bá địa hoàng hoàn để tư Thận thanh hỏa. Lưỡi đỏ rực mà ở giữa lưỡi khô là Vị hỏa làm thương tân dịch như Diệp Thiên Sĩ viết trong Ngoại cảm ôn nhiệt thiên: “Sắc lưỡi đỏ rực mà giữa lưỡi lại khô đó là Tâm Vị hỏa hun đốt làm khánh kiệt tân dịch, những vị thuốc như Hoàng liên, Thạch cao cũng có thể cho uống”. Lưỡi đỏ rực mà có những nốt hồng to, đó là nhiệt độc lấn Tâm có thể chọn dùng Hoàng liên giải độc thang để tả hỏa giải độc.

Trích dẫn y văn

Đỏ rực đơn thuần, sắc tươi tắn đó là Bao lạc mắc bệnh nên dùng Tê giác, Sinh địa tươi, Liên kiều, uất kim Thạch xương bồ (Ôn nhiệt kinh vĩ – Diệp Hương Nham ngoại cảm ôn nhiệt thiên).

Lưỡi đỏ rực mà có rêu trắng là ăn uống bị trúng phong hàn hoặc do nhiệt tích mà uống lạnh, rêu trắng mà dầy là bên trong có túc thực. Trúng phong hàn thì dùng Cát căn thang, thích uống lạnh thì dùng Trúc diệp, Thạch cao gia Nhị trần thang. Lưỡi đỏ rực có rêu đầy nhớt và khô, rêu trắng là biểu lý hợp tà, rêu vàng là tà nhiệt nội kết. Hợp tà thì dùng Hoàng liên thang, nội kết thì dùng Giải độc thang gia Đại hoàng, Tần Phác. Lưỡi đỏ rực mà có rêu đen sạm hoặc là rêu nhớt, tuy có chứng tự lợi mạch sắc cũng nên dùng thuốc lạ lấy đại tiểu tiện được làm chuẩn. Nếu rêu khô ráo nên công hạ và lương huyết, còn trường hợp có nếp nhăn nứt và nổi gai là rất khó chữa, tuy dùng thuốc cực mát để công hạ cũng khó mà cứu sống (Thiệt thai thống chí).

Bệnh ở ống thận

Tên khác: bệnh thận do ống thận.

Định nghĩa

Gồm nhiều bệnh khác nhau trong đó các ống thận bị tổn ‘ thương bẩm sinh hay do mắc phải và có rối loạn các chức năng bài tiết, chức năng tái hấp thu acid amin, glucose, bicarbonat và phosphat.

Bệnh có thể là nguyên phát (ở tại các ống thận)’hoặc thứ phát (do rối loạn chuyển hoá, do nội tiết hay do nhiễm độc).

Một số bệnh ở ống thận

TỔN THƯƠNG KHÔNG CHỌN LỌC Ở ỐNG LƯỢN GẦN

  • Hội chứng Fanconi (xem bệnh này): nguyên phát di truyền lặn theo nhiễm sắc thể thân) hay thứ phát (rối loạn chuyển hoá cystin, u tuỷ, nhiễm độc).
  • Hội chứng Albright: di truyền trội theo nhiễm sắc thể thân. Nhiễm acid có tăng clo huyết dẫn đến lùn và còi xương ở trẻ và nhuyễn xương ở người lớn.
  • Hội chứng mắt-não-thận của Lowe: rối loạn di truyền lặn liên quan với giới tính, chỉ có ở con trai, kèm theo có glucose niệu, acid amin niệu, chậm phát triển trí tuệ, đục nhân mắt, lùn và còi xương.
  • Hội chứng giả thiểu năng tuyến cận giáp.

TỔN THƯƠNG CÓ CHỌN LỌC Ở ỐNG LƯỢN GAN (rối loạn di truyền lặn theo nhiễm 3ắc thể thân):

  • Bicarbonat: nhiễm acid typ II do ống lượn gần.
  • Cystin → cystin niệu.
  • Glucose: tiểu đường do thận (xem bệnh này).
  • Acid amin: acid amin niệu.
  • Calci: calci niệu cao không rõ nguyên nhân.
  • Phospho: phospho huyết thấp di truyền (còi xương có phospho huyết thấp). Rối loạn chuyển hoá phospho-calci (ưu năng tuyến cận giáp nguyên phát và thứ phát).

TỔN THƯƠNG Ở ỐNG LƯỢN XA

  • Nhiễm acid typ I do ống lượn xa.
  • Tiểu nhạt có nguyên nhân tại thận.
  • Hội chứng bài tiết không phù hợp hormon chống bài niệu.

Nguyên nhân tại sao tôi lại bị mất tiếng?

Có thể bạn nhận thấy điều gì đó không ổn khi giọng nói trong trẻo của bạn trở nên khàn khàn. Chẳng bao lâu, tất cả những gì bạn bè nghe thấy là tiếng khò khè khi bạn cố gắng nói to. Bạn tự hỏi có phải do hát quá nhiều trong phòng tắm hay có điều gì nghiêm trọng hơn?

Hãy xem qua những nguyên nhân có thể giải thích tại sao bạn bị khàn giọng.

Cảm lạnh

Khi bạn nói, không khí đi qua hộp thanh âm trong cổ họng của bạn và chạm vào hai dây gọi là dây thanh. Giọng nói của bạn phát ra âm thanh khi chúng rung.

Cảm lạnh có thể gây rối loạn cho cơ chế hoạt động trơn tru này. Cổ họng của bạn bị viêm và đau. Sau đó, dây thanh bị sưng lên, ảnh hưởng đến cách chúng rung. Kết quả cuối cùng: Bạn bị khàn giọng.

Hãy nghỉ ngơi cho giọng nói của bạn và uống nhiều chất lỏng. Âm lượng của bạn sẽ trở lại khi bạn hồi phục.

Nguyên nhân mất tiếng
Nguyên nhân mất tiếng

Bạn sử dụng giọng nói quá nhiều

Mỗi lần bạn nói hoặc hát, bạn sử dụng các cơ khác nhau, bao gồm một số ở miệng và cổ họng. Giống như các cơ khác trong cơ thể, việc sử dụng quá mức những cơ giúp bạn nói có thể dẫn đến mệt mỏi, căng thẳng và chấn thương. Kỹ thuật không đúng cũng có thể gây ra khàn giọng.

Dưới đây là một số thói quen phổ biến mà bạn có thể đang làm sai:

  • Nói, hát, la hét, hoặc ho quá nhiều
  • Sử dụng tông giọng cao hơn hoặc thấp hơn bình thường khi bạn nói
  • Kẹp điện thoại giữa đầu và vai

Hút thuốc

Khói thuốc lá gây kích ứng cho dây thanh của bạn, có thể dẫn đến các vấn đề về giọng nói lâu dài. Các nghiên cứu cho thấy rằng những người hút thuốc hiện tại và trước đây có khả năng mắc các rối loạn giọng nói cao gấp ba lần so với những người chưa bao giờ hút thuốc.

Hút thuốc cũng có thể làm tăng nguy cơ phát triển một khối u nhỏ, không ung thư gọi là polyp trên dây thanh. Nó có thể khiến giọng nói của bạn trở nên trầm, khò khè và khàn khàn.

Dị ứng

Khi bạn nghĩ về dị ứng, bạn có thể nghĩ đến chảy nước mũi, ngứa mắt và hắt hơi. Nhưng chúng cũng có thể ảnh hưởng đến giọng nói của bạn theo nhiều cách:

  • Phản ứng dị ứng có thể khiến dây thanh của bạn sưng lên.
  • Chảy mũi sau — khi chất nhầy di chuyển từ mũi vào cổ họng — có thể gây kích ứng cho dây thanh của bạn.
  • Ho và làm sạch cổ họng có thể gây căng thẳng cho dây thanh của bạn.
  • Thuốc kháng histamin cho dị ứng có thể làm khô chất nhầy trong cổ họng. Điều này có thể làm hại dây thanh của bạn, mà cần độ ẩm để hoạt động.

Viêm khớp dạng thấp

Đây là một bệnh tự miễn dịch gây ra đau đớn, sưng và cứng khớp. Khoảng 1 trong 3 người bị viêm khớp dạng thấp gặp phải các vấn đề về giọng nói, bao gồm đau họng và mất tiếng. Điều này là vì tình trạng này có thể ảnh hưởng đến các khớp nhỏ trong mặt và cổ họng của bạn, dẫn đến các vấn đề với việc thở và cách mà dây thanh hoạt động.

Vấn đề với tuyến giáp

Tuyến giáp hình bướm này ở cổ họng dưới của bạn bơm ra một hormone điều khiển nhiều chức năng trong cơ thể. Khi tuyến giáp của bạn không sản xuất đủ hormone, một triệu chứng bạn có thể gặp là giọng nói khàn.

Nếu bạn bị bướu cổ — khi tuyến giáp của bạn lớn hơn — bạn có thể ho nhiều và gặp vấn đề với giọng nói. Một khối u trên tuyến giáp, hay còn gọi là nốt, cũng có thể ảnh hưởng đến cách bạn nói.

GERD

Đây là một tình trạng khiến axit dạ dày trào ngược lên thực quản, một ống dẫn vào cổ họng của bạn. Triệu chứng chính là ợ nóng, nhưng GERD cũng có thể làm yếu giọng nói của bạn.

Axit dạ dày có thể kích ứng dây thanh, cổ họng và thực quản của bạn. Điều này dẫn đến giọng nói khàn khàn, thở khò khè và quá nhiều chất nhầy trong cổ họng của bạn.

Viêm thanh quản

Đây không phải là một bệnh, mà là một từ chung chỉ việc bạn đã mất tiếng. Nếu nó xảy ra đột ngột, nó được gọi là viêm thanh quản cấp tính. Bạn có thể mắc phải điều này do cảm lạnh hoặc sử dụng giọng nói quá mức.

Bạn có thể mắc viêm thanh quản lâu dài nếu bạn hít phải thứ gì đó gây kích ứng, như khói hoặc hơi hóa chất. Nó cũng phát triển nếu bạn bị nhiễm nấm ở dây thanh, điều này có thể xảy ra nếu bạn sử dụng bình xịt hen suyễn hoặc có vấn đề với hệ miễn dịch, hệ thống phòng vệ của cơ thể chống lại vi khuẩn.

Nốt, Polyp và U

Mặc dù các chuyên gia không chắc chắn lý do tại sao, nhưng các khối u không ung thư có thể xuất hiện trên dây thanh của bạn. Họ tin rằng việc sử dụng giọng nói quá mức, chẳng hạn như la hét hoặc nói quá nhiều, có thể là một nguyên nhân. Có ba loại:

  • Nốt. Những hình thành giống như chai này thường phát triển ở giữa dây thanh. Chúng có xu hướng biến mất nếu bạn cho giọng nói của mình đủ thời gian nghỉ ngơi.
  • Polyp. Những khối u này thường xuất hiện ở một bên dây thanh. Chúng có nhiều kích thước và hình dạng khác nhau. Khác với nốt, chúng thường cần phải được loại bỏ bằng phẫu thuật.
  • U. Đây là những khối mô chứa chất lỏng hoặc bán rắn phát triển gần hoặc bên dưới bề mặt dây thanh của bạn. Nếu chúng gây ra thay đổi nghiêm trọng cho giọng nói của bạn, bác sĩ của bạn có thể sẽ đề nghị phẫu thuật để loại bỏ chúng.

Bệnh về hệ thần kinh

Một tình trạng ảnh hưởng đến các dây thần kinh của bạn, như bệnh Parkinson, có thể ảnh hưởng đến các cơ trên mặt và cổ họng của bạn. Gần 90% người mắc bệnh Parkinson gặp một dạng rối loạn về giọng nói hoặc phát âm nào đó.

Bệnh Parkinson làm cho các phần của não điều khiển chuyển động và phối hợp giảm sút. Điều này có thể có nghĩa là bạn không còn khả năng kiểm soát các cơ cần thiết để phát âm.

Ung thư thanh quản

Giọng nói khàn hoặc mất tiếng kéo dài có thể là dấu hiệu của ung thư họng. Các triệu chứng khác của bệnh này bao gồm:

  • Đau khi nuốt
  • Đau tai
  • Khó thở
  • Có khối u ở cổ

Nếu các vấn đề về giọng nói của bạn kéo dài hơn 2 tuần, hãy gặp bác sĩ.

Điều trị Cơn tăng huyết áp

Vũ Văn Đính

ĐẠI CƯƠNG

Đặc điểm:

  • Cơn tăng huyết áp là tình trạng huyết áp tăng đột ngột hơn trước, tối đa tăng hơn con số cũ 40 mmHg, số tối thiểu thường cao hơn 110 mmHg.
  • Mức độ cấp cứu liên quan tới các biến chứng phủ tạng: Thần kinh, tim mạch, thận, phổi…
  • Cơn tăng huyết áp có biến chứng cần phải được vận chuyển bằng xe cấp cứu tim mạch đến trung tâm cấp cứu.

Chẩn đoán:

  • Đo huyết áp ở cả 2 tay, 2 lần, bệnh nhân nằm ngửa, sau 10 phút nghỉ.
  • Cơn tăng huyết áp đơn thuần: Huyết áp tăng đột ngột (theo định nghĩa) thường kèm theo các dấu hiệu cơ năng: Nhức đầu, hoa mắt, chóng mặt.
  • Cơn tăng huyết áp ác tính: Các biểu hiện hôn mê, co giật, khó thở (do phù phổi cấp, suy tim trái), cơn đau thắt ngực… cần phải được xử trí ngay.

Xét nghiệm

  • Soi đáy mắt: Phù gai, xuất huyết võng mạc
  • Điện tim, chụp phổi, protein niệu, tế bào

Tìm kiếm các nguyên nhân thuận lợi hoặc gây bệnh.

  • Do thuốc: Ostrogen, thuốc gây chán ăn, thuốc co mạch để nhỏ mũi hoặc mắt (naphazolin), thuốc kháng viêm, corticoid, cam thảo, các chất gây kiềm.
  • Do u tuỷ thượng thận, u cận bạch hạch, hẹp động mạch thận.

XỬ TRÍ

  1. Người có tuổi, có cơn tăng huyết áp chưa có biến chứng
  • Không cần nằm viện: Ngậm nifedipin 5 mg dưới lưỡi (nang nước chọc thủng).
  • Người có tuổi doạ phù phổi cấp: tiêm Lasix 20 mg X 2 ống tĩnh mạch, thở oxy mũi. Sau đó uống nifedipin chậm 10 mg 1 – 6 v/ngày.
  1. Tăng huyết áp có biến chứng
  • Tại chỗ: Ngậm một viên nifedipin 5 – 10 mg dưới lưỡi. Tiêm bắp diazepam 10 mg nếu có biểu hiện ở não và cho thở Oxy.
  • Trên ô tô cấp cứu và ở khoa HSCC:

Nếu vẫn tăng huyết áp, truyền tĩnh mạch natrinitroprussiat (Niprid) tĩnh mạch 3 mcg/kg/ph (0,5 – 8) hoặc nicardipin truyền tĩnh mạch (Loxen): 5 – 10 mg trong glucose 5%, tốc độ 1 mg/h. Có thể truyền nhiều lần/ngày.

Điều trị duy trì bằng các loại thuốc hạ áp thông thường.

Chú ý: TBMN, PPC (huyết áp hơi tăng, không quá 180) không nên dùng thuốc hạ áp.

Đau vùng đáy chậu sau sinh là gì?

Đau sau sinh là gì?

Đau sau sinh xảy ra sau khi một người phụ nữ sinh con và có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau.

Thông thường, khi một người phụ nữ sinh con, cô ấy hoặc là bị rách vùng đáy chậu hoặc bác sĩ phải cắt vùng này để làm rộng đường vào âm đạo, được gọi là episiotomy. Các vết rách vùng đáy chậu và episiotomy dẫn đến thời gian phục hồi sau sinh có thể khó chịu hoặc thậm chí rất đau đớn tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của chấn thương.

Rách vùng đáy chậu là gì?

Da kéo dài giữa âm đạo và hậu môn của bạn được gọi là vùng đáy chậu. Trong quá trình sinh thường, khu vực đáy chậu này phải chịu áp lực lớn và thường bị rách. Để giúp hồi phục, nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn có thể sẽ khâu lại, và các mũi khâu này sẽ tự tiêu sau vài tuần để không cần phải gỡ bỏ. Việc nhìn thấy một số mảnh khâu trên băng vệ sinh hoặc giấy vệ sinh khi đi vệ sinh là bình thường.

Nếu vết rách rất nhỏ, bạn có thể được để tự hồi phục mà không cần khâu. Tùy thuộc vào độ dài và độ sâu của vết rách vùng đáy chậu, quá trình hồi phục của bạn có thể kéo dài từ bốn đến sáu tuần. Cơn đau sẽ ở mức tồi tệ nhất ngay sau khi sinh; bạn có thể cảm thấy khó chịu khi đi bộ, ngồi, đi tiểu và đại tiện trong khoảng một tuần.

Hãy nhớ rằng cơ thể của mỗi người phụ nữ, vết rách và quá trình hồi phục là độc nhất. Hãy thường xuyên liên lạc với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn trong quá trình chăm sóc cơ thể của mình.

Các triệu chứng bình thường sau sinh

Việc tập trung vào đứa trẻ mới sinh của bạn là điều tự nhiên sau khi bạn sinh con, nhưng cũng quan trọng không kém là chăm sóc bản thân về mặt thể chất và tinh thần. Hãy để ý đến những triệu chứng bình thường sau sinh mà thường đi kèm với cơn đau vùng đáy chậu sau sinh:

  • Dịch âm đạo: Cơ thể bạn sẽ loại bỏ một lớp niêm mạc có máu sau khi sinh. Ban đầu, nó sẽ có màu đỏ và xuất hiện thường xuyên, nhưng sau vài tuần, nó sẽ trở nên giống nước hơn và cuối cùng sẽ biến mất.
  • Co thắt: Còn được gọi là cơn co sau sinh, bạn sẽ có những cơn co thắt không thường xuyên trong vài ngày sau khi sinh con, đặc biệt nếu bạn cho con bú. Chúng có thể cảm thấy giống như cơn đau kinh nguyệt, nhưng thực tế chúng là cách cơ thể bạn ép các mạch máu trong tử cung để ngăn ngừa chảy máu.
  • Tiểu không kiểm soát: Cơ bắp sàn chậu của bạn sẽ bị kéo căng và mệt mỏi sau khi mang thai, sinh nở. Do đó, bạn có thể bị rò rỉ một lượng nhỏ nước tiểu khi bạn hắt hơi, cười, ho hoặc làm một điều gì đó tương tự. Nếu điều này xảy ra, hãy sử dụng băng vệ sinh và tìm hiểu về các bài tập sàn chậu mà bạn có thể làm để kiểm soát bàng quang tốt hơn.
  • Trĩ: Nếu việc đại tiện rất đau, hãy kiểm tra xem có sưng ở gần hậu môn không. Trĩ là các tĩnh mạch sưng trong khu vực này gây ra sự khó chịu lớn. Đừng tránh đại tiện vì sợ làm trầm trọng thêm tình trạng trĩ! Hãy uống nhiều nước, ăn thực phẩm giàu chất xơ và sử dụng thuốc không kê đơn khi cần thiết.
  • Ngực đau: Sữa của bạn có thể sẽ về sau vài ngày sau khi sinh, khiến ngực bạn cứng và nhạy cảm. Nếu bạn quyết định cho con bú, hãy thường xuyên cho con bú để tránh tình trạng căng sữa. Núm vú có thể khó khăn cho em bé khi cố gắng bám vào nếu quầng vú và núm vú của bạn bị căng. Nếu chúng bị căng, hãy dùng tay để vắt một ít sữa ngay trước khi cho con bú.
  • Thay đổi tâm trạng: Trong một thời gian ngắn, hormone của bạn sẽ thay đổi liên tục. Bạn có thể thường cảm thấy lo lắng, buồn nhanh, khó ngủ hoặc trải qua nhiều cảm xúc mạnh mẽ khác. Nếu những điều này không biến mất trong vài tuần, hãy liên hệ với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn để nói về trầm cảm sau sinh và các nguồn có thể khác gây ra sự thay đổi tâm trạng của bạn.

Quản lý đau vùng đáy chậu sau sinh

Nếu bạn đã trải qua một vết rách vùng đáy chậu, hãy thử những mẹo này để quản lý cơn đau vùng đáy chậu sau sinh:

  • Đặt một túi đá hoặc vật lạnh lên vùng đáy chậu của bạn để giảm sưng và đau.
  • Đặt một cái gối hoặc vòng đệm dưới bạn khi ngồi.
  • Đặt một miếng băng vệ sinh chứa witch hazel vào quần lót của bạn.
  • Đổ đầy một chai xịt nước ấm và rửa vùng đáy chậu khi bạn đi tiểu.
  • Đổ đầy bồn tắm với đủ nước ấm để che hông của bạn và ngâm trong vài phút. Nếu nước ấm không thoải mái, hãy sử dụng nước lạnh.
  • Sử dụng thuốc giảm đau không kê đơn.
  • Xịt hoặc thoa kem gây tê lên vùng đáy chậu.
  • Uống thuốc làm mềm phân hoặc thuốc nhuận tràng để giảm táo bón và làm cho việc đại tiện ít đau hơn.
  • Thử kem hoặc thuốc đặt trĩ không kê đơn có chứa hydrocortisone để điều trị trĩ.
  • Tắm nước ấm hoặc đặt một khăn ấm lên ngực của bạn để giảm đau do căng sữa.

Mặc dù đau đớn là điều bình thường đối với những người đang phục hồi sau vết rách vùng đáy chậu, nhưng không phải là điều bình thường khi cảm thấy đau đớn tê liệt hoặc ngày càng gia tăng. Những triệu chứng như vậy có thể báo hiệu một căn bệnh nhiễm trùng và cần được điều trị ngay lập tức. Hãy liên hệ với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nếu bạn nghĩ rằng sự khó chịu của bạn đáng lo ngại.

Hoạt động thể chất với đau vùng đáy chậu sau sinh

Bạn có thể cần phải hạn chế hoạt động thể chất cho đến khi cơn đau vùng đáy chậu sau sinh hoàn toàn hồi phục. Hãy thử những lời khuyên này để giảm triệu chứng:

  • Ưu tiên giấc ngủ. Khi bạn cảm thấy mệt, hãy nghỉ ngơi nếu bạn có thể.
  • Đi bộ một chút mỗi ngày để tăng lưu thông máu, ngăn ngừa viêm phổi và chống táo bón.
  • Không thực hiện bất kỳ bài tập nào mạnh mẽ, như đạp xe, chạy bộ, nâng tạ hoặc các hoạt động tương tự.
  • Tránh nâng bất kỳ thứ gì nặng hơn em bé của bạn, nếu có thể.
  • Lau khô vùng đáy chậu của bạn sau khi tắm hoặc tắm vòi sen.
  • Ngừng lái xe trừ khi nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn cho phép.
  • Tránh quan hệ tình dục cho đến khi nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn kiểm tra và nói rằng bạn đã hoàn toàn hồi phục.

Khi nào nên gặp nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe

Trong quá trình hồi phục sau sinh, hãy cẩn thận và ý thức về tình trạng của bạn. Nếu cảm thấy có điều gì đó không ổn, hãy liên hệ với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn ngay lập tức, chỉ để an toàn. Mặc dù khó chịu là điều bình thường, nhưng nó là một phần của quá trình hồi phục và các triệu chứng của bạn không nên trở nên tồi tệ hơn. Hãy gặp nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nếu:

  • Bạn có chảy máu âm đạo nặng đến mức cần thay băng vệ sinh hơn một lần trong một giờ.
  • Bạn bị ra máu cục lớn hơn một đồng xu.
  • Bạn bị ớn lạnh và sốt trên 100.4℉.
  • Bạn liên tục cảm thấy choáng hoặc chóng mặt.
  • Bạn có cơn đau đầu dữ dội không hết.
  • Thị lực của bạn thay đổi.
  • Dịch âm đạo của bạn có mùi mạnh, bất thường.
  • Bạn bị đau ngực, nhịp tim nhanh hoặc khó thở.
  • Bạn nôn mửa thường xuyên.
  • Vết rách hoặc vết mổ của bạn bị sưng và có mủ.
  • Bạn có đau bụng không đỡ.
  • Ngực của bạn đỏ và cảm thấy nóng.
  • Bạn có đau chân kèm theo đỏ và sưng.

Phục hồi sau sinh

Hãy kiên nhẫn trong quá trình hồi phục sau sinh của bạn. Hãy tìm sự giúp đỡ từ bạn bè, gia đình hoặc các chuyên gia nếu bạn có lý do để lo lắng hoặc cảm thấy không thể tự chăm sóc bản thân.

Bé từ 2 tuổi rưỡi đến 3 tuổi: đặc điểm và tâm lý trẻ

Bé biết gì hơn ở độ tuổi này ?

Điều đầu tiên Bé đã nhận biết được là MẸ. Rồi cạnh mẹ, thường có một người nữa là Bố. Bây giờ, Bé lại nhận được thêm một nhân vật nữa : chính là BÉ và vị trí của Bé trong gia đình. Không phải bất chợt Bé nhận ra điều này, mà phải qua một thời gian- dài. Nhưng phải từ 2 tuổi rưỡi tới 3 tuổi, Bé mới nhận được một cách đầy đủ mình cũng là một con người giống như bao nhiêu người khác chung quanh mình.

BÉ 2 TUỔI RƯỠI TỚI 3 TUỔI

  1. Bé có thể bước lên cầu thang, có thể đi trên đầu ngón chân, có thể chụm 2 chân lại và nhảy bước một.
  2. Bé biết chồng nhiều hộp lên mau. Biết cầm bút viết bằng ngón tay.
  3. Bé biết sỏ giày lấy, nhung hay đi nhầm bên trái sang bên phải.
  4. Bé biết đi xe đạp 3 bánh, vừa đạp, vừa lái. Như- vậy, là Bé biết phối hạp nhiều động tác trong cùng một lúc.

Tới 3 tuổi, Bé biết mình là con trai hay con gái; con trai khác con gái và Bé giống bố hay mẹ ở điểm gì : màu tóc, mắt, mũi v.v… vì Bé đã biết soi gương từ lâu rồi.

Bé biết tên mình, biết xưng “con” hay “Bé”, biết phân biệt bố, mẹ với các người khác.

Khi xưng là “Bé” hay “Con”, tức là Bé tự xác định được cá nhân mình. Bé tự biết mình khác người khác, mình có thể nói để người khác nghe.

Khi không đồng ý việc gì, Bé biết tỏ ý chống lại bằng cách nói : KHÔNG. Bây giờ, Bé đồng ý với bố rằng : “Bé đá lớn rồi”.

Chỉ có 3 năm trôi qua, mà từ một đứa trẻ mới lọt lòng, không có ý thức về sự hiện hữu của mình, không biết được bàn tay mình đang chơi và đang nhìn lại chính là của mình, trở thành một nhân vật biết rõ cơ thể mình và vai trò của mình có liên quan thế nào với mọi người, là một bước đi rất lớn.Trẻ em Không nên đi giày chật quá

Bé soi gương

Khi đưa một đứa trẻ lại trước tấm gương soi, chúng ta vẫn thường nghĩ : “Không biết Bé có nhận được mình không ?”.

Khi còn nhỏ, nhìn vào gương Bé tưởng rằng có một đứa Bé khác trong đó. Phải tới 18 tháng, Bé mới có khả năng nhận biết rằng đứa Bé mà mình vẫn nhìn thây bao nhiêu lần trong gương kia, chính là mình. Việc phát hiện mới này làm Bé rất thích thú. Bé bắt đầu nhăn mặt. bĩu môi, cười và làm đủ trò trước gương.

Nhận được mình trong gương là một tiến bộ lớn. Mới đầu, Bé chỉ biết hình dáng khuôn mặt mình một cách chung chung. Dần dần, Bé chú ý tđi các đặc điểm của từng nét mặt, từng bộ phận mắt, mũi… Bé gái thích cười để thây mình xinh đẹp hơn, thích mặc quần áo đẹp và xoay người đủ kiểu ở trước gương. Bé trai cũng thích soi gương, thích mặc quần áo đẹp nhưng trước gương thường nhăn mặt, trợn mắt để làm đủ trò.

Ngoài việc nhận biết được mình trong gương, Bé còn nhận diện được mình và các người thân trong các tấm hình chụp nữa .

Bé muốn làm một mình

Bắt đầu từ tuổi lên 3, khi đã nhận thức được về bản thân mình, Bé có thể nảy sinh một tính tình mới : phản đối lại các mệnh lệnh của người lớn. Chúng ta vẫn thường nhìn thấy cảnh môt đứa trẻ giằng tay với bố ở ngoài công viên, nhất định không chịu đi thêm một bước nào nữa. Trong nhà, khi được hỏi : “Bé có đi chơi không ?” hoặc khi mẹ bảo : “Bé, ăn cơm đi”, “đi ngủ đi”… Bé có thể trả lời : “Bé không đi đâu”.

Người lớn có nên buồn vì thái độ bướng bỉnh, không nghe lời của Bé không ? Trước tiên, nên hiểu nguyên nhân sự chống đối của Bé : Bé muốn tự quyết định công việc, như người lớn.

Thí dụ : Chưa muốn đi tắm ngay để còn thời giờ tự cởi quần áo; không đi ngủ ngay vì chưa tìm thấy cái nơ thắt trên cổ con gấu… Tóm lại, Bé đã tới tuổi muốn được hành động tự do một chút. Tâm lý Bé lúc này, có 2 điều trái ngược với nhau : nửa muốn làm một mình, nửa muốn có sự giúp đđ, như tâm trạng người nửa muốn đi, nửa muốn ở lại. Cuộc khủng hoảng tâm lý này kéo dài độ vài ngày với các biểu hiện sinh hoạt bất thường như hôm nay ngủ tốt, mai lại trằn trọc, hôm nay ăn nhiều, mai không chịu ăn…

Thời gian này, Bé có thể hay vòi, hay khóc để “thử” dò thái độ của người lớn. Bởi vậy nếu chú ý, chúng ta có thể thấy rằng để được ăn kẹo một đứa trẻ làm nũng với bà chỉ khóc 5 phút; đối với người giúp việc : 10 phút; với mẹ : 15 phút. Nhưng đối với bố, khi bố không cho thì thôi không khóc gì cả, vì biết rằng có khóc cũng chẳng ăn thua gì !

Bởi vậy, thái độ của người lớn là :

  • Không nên nhượng bộ khi trẻ em đòi những điều gì không hợp lý ! Đã nói không là không. Người lớn chịu “thua” trẻ em một lần có thể sẽ là thua mãi mãi.
  • ở ngoài công viên, có thể cho trẻ chạy chơi “tự do” trong một phạm vi nào đó mà mình quy định.
  • Nếu các cháu muốn làm lây một việc gì, hãy chỉ dẫn cho cháu, và để cháu thực hiện. Thí dụ : cháu muốn buộc dây giày lấy, cứ để cháu buộc rồi mình sẽ buộc lại. Không nên từ chối, không để cháu làm bất cứ việc gì, lấy cđ rằng cháu chưa biết làm hoặc sẽ làm hỏng. Như vậy, sẽ làm các cháu mất tự tin. Nhược điểm của người lđn là hay làm hộ các cháu vì nhìn các cháu làm lấy, hay sốt ruột, kém kiên nhẫn, muốn mình làm cho nhanh.
  • Khi trẻ nói : “Không”, chưa chắc là các cháu không chịu nghe người lớn đâu, mà đó là các cháu muốn bắt chước người lớn đấy. Vì từ khi các cháu tập đi, muốn sờ mó vào các thứ, các cháu đã được nghe người lớn nói bao nhiêu lần : “Không được… thế này, không được… thế kia”. Bây giờ, Bé thấy bố bảo : “Bé đã lớn rồi !” nên Bé cũng muốn xử sự như người lớn vậy.

Muốn Bé đổi ý kiến, nên tìm cách hướng sự chú ý của Bé sang một việc khác; trước khi Bé phản ứng với ý định của người lớn. Thí dụ : •

  • Bé, lại rửa tay nào.
  • Không !
  • Thôi được. Mang con gấu lại đây. Mẹ và Bé rửa tay cho gấu vậy.

hoặc :

  • Hồi con còn nhỏ xíu, con không dám rửa tay đâu.
  • Vậy, bây giờ Bé lớn chưa ?
  • Rồi. Lại đây nào.

Đôi khi, muốn cho Bé cảm thấy vui, vì đã là người lớn, hay cho Bé chơi với các đồ vật thông dụng của người lớn như : một cái ví cũ để Bé đựng giấy tờ như ba, một cái bút bi… Nếu ba đi công tác xa, hãy gửi về cho Bé một tấm bưu ảnh. Tuy chưa biết chứ, nhưng nếu được người đưa thư gọi tên để ra nhận thư như người lớn, Bé sẽ rất hãnh diện.

Chúng ta nên nhớ : 3 tuổi là độ tuổi người lớn của trẻ con.

Chấn thương ngực – triệu chứng, điều trị

Hai cơ quan chính nằm trong lồng ngực là tim và phổi. Khi bị thương tổn thì ảnh hưởng lẫn nhau. Trong điều trị chấn thương chủ yếu là lặp lại thăng bằng sinh lý hô hấp và tuần hoàn, giải phẫu là thứ yếu.

CÁC YẾU TỐ ĐẢM BẢO CHỨC NĂNG HỒ HẤP BÌNH THƯỜNG

Có 3 yếu tố:

Thành ngực

  • Thành ngực: di động theo chiều trước sau, khi bị gẫy xương sườn bệnh nhân không thở sâu được, ảnh hưởng đến chức năng hô hấp.

Cơ hoành: di động theo chiểu lên xuống đảm bảo 60% thông khí ở phổi. Khi bị thương tổn cơ hoành hoặc trưóng bụng thì ảnh hưởng hoạt động cơ hoành sẽ ảnh hưởng đến chức năng hô hấp.

Đường hô hấp

Phải đảm bảo thông suốt khi có chấn thương ngực kèm chấn thương sọ não sẽ tăng tiết đờm rãi hoặc có máu gây tắc đường hô hấp. Lợi dụng đường hô hấp trên để làm giảm sức cản đường hô hấp có thể tiến hành mở khí quản.

Áp lực âm tính màng phổi:

ở người bình thường phổi nở được là do thay đổi áp lực âm tính trong khoang màng phổi, khác với hô hấp nhân tạo phổi nở được là do thay đổi áp lực dương tính trong lòng phế nang.

CÁC THƯƠNG TỔN VÀ CÁCH XỬ TRÍ

Gầy xương sườn

Phát hiện bằng cách tìm điểm đau chói hay tiếng lạo sạo của gẫy xương khi nắn dọc theo khung xương sườn.

Chụp X quang để phát hiện gẫy xương sườn và các biến chứng của nó gây ra. Điều trị:

  • Toàn thân cho các thuốc an thần, giảm đau
  • Tại chỗ: phong bế ổ gẫy bằng thuốc tê: xylocain, novocain…
  • Cố định gãy sườn bằng băng dính to bản băng nửa ngực trong thì thở ra tôi đa và băng trên và dưới xương sườn gẫy một xương.

Mảng sườn di động

Điều kiện để có mảng sườn di động là phải gẫy 3 xương liên tiếp trỏ lên và gẫy 2 đầu. Hậu quả chính là gây hô hấp đảo ngược và trung thất di động.

Điều trị: 2 phương pháp:

+ Cố định ngoài (có mổ): cố định xương sườn gẫy bằng khâu mũi chữ X ô gãy, cố định bằng kim Kirchner…

Nhược điểm: cố định không tốt, dễ nhiễm trùng.

Ưu điểm: nhân tiện xử lý các thương tổn bên trong lồng ngực thì cố định sườn luôn.

+ Cố định trong bằng thở máy: cho bệnh nhân thuốc dãn cơ, đặt nội khí quản hoặc mở khí quản rồi thở máy trong thời gian 3 tuần.

Ưu điểm: cố định rất tốt

Nhược điểm: dễ nhiễm trùng hô hấp, tôn công sức (thở máy) và cần có phương tiện (thở máy)

Tràn khí màng phổi: giống phần vết thương ngực hở

Tràn máu màng phổi: như trên

Gãy xương ức: thường đây là một chấn thương mạnh, trực tiếp vào vùng xương ức.

Sau tai nạn bệnh nhân khó thở, khám thấy điểm đau chói hay tiếng lục cục của gãy xương trong khi thở.

Xử lý bằng kết hợp xương hoặc kéo liên tục với chỉ thép luồn mặt sau xương ức.

Trong chấn thương gãy xương ức đặc biệt phải chú ý phát hiện các thương tổn trong trung thất vì đây là một chấn thương mạnh.

Các phương pháp điều trị trĩ hiệu quả hiện nay

Các biện pháp được áp dụng trong điều trị trĩ được xếp thành hai nhóm phương pháp điều trị gồm Điều trị bảo tồn: Điều trị nội khoa (Chế độ ăn nhiều chất sơ, thuốc uống hướng tĩnh mạch, thuốc đặt tại chỗ) và Điều trị can thiệp: Thủ thuật (Tiêm xơ, nong hậu môn, thắt trĩ, các biện pháp vật lý như là đốt điện, liệu pháp lạnh, liệu pháp hồng ngoại, ứng dụng laser); Phẫu thuật. Tùy theo điều kiện ở từng nơi (trang thiết bị, thầy thuốc) và mức độ bệnh mà chọn phương pháp điều trị thích hợp.

Điều trị bảo tồn:

Các biện pháp chung:

  • Chống táo bón, chống các đợt ỉa chảy:

–   Chế độ ăn : Ăn các chất dễ tiêu, tránh đồ ăn kích thích như rượu, cà phê, ớt … gây táo bón. Khi táo bón đại tiện phải rặn, khi rặn áp lực trong ổ bụng tăng lên nhiều lần, áp lực trong ổ bụng tăng lên là điều kiên thuận lợi phát sinh ra bệnh trĩ. Khuyên bệnh nhân ăn nhiều chất xơ, hoa quả mỗi ngày, uống nước đều đặn. Đại tiện ngày từ 1-2 lần.

  • Tập thói quen đi đại tiện hàng ngày đúng giờ giấc. Không cố đi đại tiện khi chưa mót rặn.
  • Chế độ sinh hoạt: Làm việc vừa sức, cố tránh những công việc nặng nhọc, những động tác phải gắng sức nhiều làm áp lực ổ bụng tăng lên. Tránh nhữmgcông việc phải đứng lâu, phải ngồi nhiều. Tránh thức khuya, tránh căng thẳng thần kinh. Có thể dùng thuốc an thần, chống rối loạn thần kinh thực vật.
  • Chữa viêm đại tràng: Viêm đại tràng bắt bệnh nhân khi đi đại tiện phải rặn. Chữa viêm đại tràng bằng các thuốc trị amip cấp tính và mạn tính như Flagyl, Entetri… kết hợp với các kháng sinh và các thuốc chống co thắt, hoặc điều chỉnh rối loạn ruột bằng Debridat,..

Thuốc: sử dụng các loại thuốc có tác dụng toàn thân hoặc tại chỗ:

  • Thuốc toàn thân: Đặc biệt tốt cho các đợt kịch phát, các thuốc có tác dụng tăng trương lực tĩnh mạch và tăng sức bền thành mạch, tăng dẫn lưu bạch huyết, bảo vệ tuần hoàn vi mạch do tác dụng của noradrenalin. Thành phần chủ yếu của các thuốc này là: yếu tố P (Rutin), Flavonoide, Ginkgo Giloba. Các biệt dược: Daflon, Ginkoproto, Ginko fort, Cyclo 3 fort… Phần lớn là thuốc ngoại nhập, giá thành đắt.
  • Thuốc tại chỗ: Trong trường hợp trĩ có có biến chứng như viêm ,đau sưng .. có thể dùng thuốc chống viêm, giảm đau, giảm phù nề như: dùng thuốc bôi và đặt tại chỗ có tác dụng bôi trơn giảm đau,đỡ căng tức chống viêm, chống tắc mạch và nhiễm trùng như các loại thuốc mỡ Mydi, Protolog, Ginkor…

Điều trị bảo tồn nội khoa chữa phần lớn người bệnh trĩ (từ 70-80%) . Phương pháp này có tác dụng hiệu quả tốt với các đợt trĩ cấp tính ở các mức độ tổn thương độ 1,2,và phần lớn độ 3. Tuy nhiên các thuốc điều trị bảo tồn nội khoa ở trong nước hầu như chưa có, phần lớn đều phải nhập ngoại giá thành đắt.

Điều trị thủ thuật

Tiêm xơ búi trĩ

Người đầu tiên thực hiên phương pháp này là Morgan ( 1869) ở Dublin. Lúc đầu sử dụng Persunfate sắt. sau này người ta dần thay thế bằng các thuốc tiêm xơ khác như axit carbolic 10-20% cân bằng với glyxerin hoặc trong dầu oliu quinin clohydrat ure 5% kép, cồn pha novocain1%, phenol, huyết thanh nóng. Mục đích của tiêm xơ có tác dụng làm ngừng chảy máu, cố định trĩ nhờ tạo nhân xơ và làm búi trĩ bé lại hạn chế hiện tượng sa búi trĩ. Chỉ định của phương pháp này cho trĩ nội độ I,II, và một số độ III chảy máu. Chống chỉ định đối với các đợt trĩ cấp tính, các cơn đau cấp tính vùng hậu môn [34]. Tỉ lệ của trĩ tái phát từ 38-68% sau 5 năm. Tai biến có thể gặp : rối loạn phản xạ đại tiện, hoại tử nơi tiêm, chảy máu nơi tiêm nếu tiêm không đúng kỹ thuật.

Thắt búi trĩ

Barron (1963) đã sử dụng vòng cao su thắt chân búi trĩ, sử dụng dụng cụ ở đầu có lắp 2 vòng cao su. Qua ống soi hậu môn kéo búi trĩ vào lòng ống soi, sử dụng dụng cụ bấm,lẫy, bật các vòng cao su vào gốc búi trĩ gây thiếu máu và hoại tử. Búi trĩ sẽ dụng sau 5-7 ngày, cùng với dụng búi trĩ nó sẽ tạo nên nhân xơ

Phương pháp này chỉ áp dụng cho trĩ có cuống và thường không lấy hết chân trĩ (không thực hiện khi búi trĩ chân rộngvà đã sa thành vòng), dễ thực hiện khi các búi trĩ còn phân cách nhau. Tai biến thường gặp như: đau, chảy máu, loét, hoặc hoại tử lan rộng xuống vùng lược.

Nong hậu môn:

Là phương pháp của Lord nêu ra (1968) cho rằng sự co thắt của cơ vòng là nguyên nhân gây ra trĩ nội gây trở ngại cho việc đại tiện, tăng áp lực trong trực tràng và nghẽn mạch. Tác giả sử dụng phương pháp nong hậu môn bằng 4 ngón tay và cả 2 bàn tay dưới gây mê. Sau khi nong đưa vào hậu môn một vật xốp cao su phòng ngừa tụ máu dưới niêm mạc và dìa hậu môn. Phương pháp này đau kém hiệu quả có 3 biến chứng  rạn nứt vùng rìa hậu môn, sa lồi niêm mạc và đại tiện mất tự chủ, hiện nay không còn được sử dụng.

Điều trị bằng liệu pháp vật lý

  • Liệu pháp làm lạnh: Được Lewis ứng dung năm 1973; chất làm lạnh bằng Nitơ lỏng hay protoxyt nitơ với nhiệt độ thấp làm kết tinh nước ở khu vực ngoài tế bào và trong tế bào làm tắc nghẽn mạch máu gây hoại tử, sau một tuần búi trĩ bị hoại tử, kết quả 50%.
  • Đốt tia hồng ngoại: Được Nath và cộng sự áp dụng từ năm 1977 – chiếu tia hồng ngoại làm búi trĩ đông lại, thời gian chiếu từ 1-2 giây mỗi chỗ. Sau 1-2 tuần tạo nên vết loét và liền sẹo, hiệu quả tương tự như phương pháp tiêm xơ và thắt trĩ.
  • Chiếu Laser: Với công nghệ tiên tiến- chiếu laser vào búi trĩ chính xác với điều kiện điều chỉnh cường độ độ sâu và vị trí búi trĩ. Biến chứng của phương pháp này là: hoại tử và chảy máu sau điều trị.
  • Phương pháp điện từ trưòng: Dưới tác dụng của dòng điện có cường độ điện 16mA – 20mA búi trĩ sẽ tự đông lại, phương pháp này chỉ áp dụng đối với trĩ nội độ I,II,III và đòi hỏi máy phương tiện phức tạp

Điều trị ngoại khoa

Phẫu thuật điều trị bệnh trĩ là phương pháp điều trị triệt để nhất. Tuy vậy phẫu thuật chỉ đặt ra khi các biện pháp điều trị khác thất bại hoặc bệnh quá nặng, thường là trĩ độ 3,4 búi trĩ bị sa thường xuyên có nghẽn mạch. Các phương pháp mổ trĩ luôn được cải tiến và được áp dụng trong 2 nhóm: Các kỹ thuật áp dụng cho cắt các búi trĩ riêng lẻ và kỹ thuật áp dụng để cắt bỏ toàn bộ vòng trĩ

Phẫu thuật cắt từng búi trĩ :

Điển hình là phương pháp Milligan và Morgan ở bệnh viện St. Marks (London) , cắt các búi trĩ riêng rẽ, có kèm theo hoặc không kèm theo tạo hình  hậu môn, là phương pháp triệt để nhất ít có tái phát, tránh rủi ro hẹp hậu môn

Phẫu thuật cắt trĩ vòng toàn bộ:

Phẫu thuật Whitehead.W (1882), áp dụng để phẫu thuật trĩ vòng và búi trĩ to chi chít xung quanh hậu môn. Phẫu thuật Whitehead còn gọi là phẫu thuật cắt cụt, cắt vòng tròn, cắt toàn bộ, cắt tạo hình hậu môn, kỹ thuật không đơn giản và điều trị triệt căn. Nhược điểm: mất nhiều máu, nhiễm trùng, áp xe hậu môn, viêm phúc mạc, mất tự chủ hậu môn, hẹp hậu môn, biến dạng hậu môn, lộn niêm mạc trực tràng… Các biến chứng di chứng đó gọi chung là bệnh Whitehead. Do các biến chứng như vậy Toupet cải tiến phương pháp cắt trĩ bảo tồn vùng da- niêm mạc hậu môn. áp dung cho các trường hợp trĩ vòng .

Riêng đối với máu tụ do trĩ có thể rạch mổ lấy cục máu tắc: áp dụng cho các loại trĩ sa tắc mạch, có thể làm ngay trong cấp cứu.