Blog Trang 492

Lý do cần cho trẻ ăn bổ sung

Khi trẻ lớn lên, mức độ hoạt động của trẻ cũng gia tăng. Đến khi trẻ được 1 tuổi, nếu chỉ bú sữa mẹ, nhu cầu dinh dưỡng sẽ không được đáp ứng đầy đủ. Chính vì vậy, từ 6 tháng tuổi trở đi, trẻ sẽ cần bổ sung thức ăn để lấp đầy “khoảng thiếu” dinh dưỡng giữa lượng dinh dưỡng cung cấp từ sữa mẹ và nhu cầu thực tế của cơ thể.

Khi trẻ lớn hơn, mức năng lượng cần thiết cũng tăng theo. Theo đó, năng lượng được cung cấp từ sữa mẹ (nếu bú đều) sẽ bắt đầu không đủ từ sau 6 tháng tuổi, dẫn đến “khoảng thiếu” ngày càng lớn.

Thức ăn bổ sung sẽ giúp cung cấp đủ năng lượng cần thiết cho trẻ. Số lượng thức ăn bổ sung cũng cần tăng lên theo tháng tuổi của trẻ. Nếu không cung cấp đủ năng lượng, trẻ sẽ phát triển chậm lại hoặc không phát triển được.

Khi xem xét việc cung cấp sắt cho trẻ, nhu cầu sắt hằng ngày của trẻ theo từng nhóm tháng tuổi. Nhu cầu sắt giảm dần khi tháng tuổi tăng lên, điều này phản ánh sự cần thiết về lượng máu mà cơ thể trẻ cần tạo ra. Trong năm đầu, cơ thể trẻ tạo ra nhiều máu hơn so với năm thứ hai. Do đó, khoảng thiếu sắt giữa nhu cầu và lượng sắt do sữa mẹ cung cấp cần được lấp đầy bằng thức ăn bổ sung.

Lượng sắt từ sữa mẹ là rất nhỏ, vì vậy nhu cầu sắt cao trong năm đầu sẽ khó đáp ứng nếu không có bổ sung từ nguồn thực phẩm khác. Trẻ sơ sinh đủ tháng có một lượng sắt dự trữ, nhưng chỉ đủ cho 6 tháng đầu.

Tuổi càng nhỏ, nhu cầu cần Protein càng nhiều
Tuổi càng nhỏ, nhu cầu cần Protein càng nhiều

Kết luận:

  • Thức ăn bổ sung giàu sắt cần thiết cho trẻ từ 6 tháng tuổi trở đi.
  • Nếu không bù đắp đầy đủ khoảng thiếu này, trẻ sẽ dễ bị thiếu máu, đặc biệt trong giai đoạn 6-12 tháng.
  • Nguy cơ thiếu máu cũng cao hơn ở trẻ sinh thiếu tháng hoặc có cân nặng sơ sinh thấp. Do đó, nên cho trẻ uống dung dịch sắt khi được 2 tháng tuổi trở lên.

Nhìn chung, đối với hầu hết các chất dinh dưỡng, khoảng thiếu sẽ tăng lên khi trẻ lớn hơn. Đặc biệt, đối với canxi và sắt, khoảng thiếu trong năm thứ hai sẽ nhỏ hơn, nhưng số lượng cần thiết vẫn khá lớn.

Những thông tin trên chỉ ra rằng tất cả trẻ em đều có nhu cầu dinh dưỡng khác nhau, nhưng đều xoay quanh mức trung bình về năng lượng và các chất dinh dưỡng. Một số trẻ có nhu cầu rất cao, trong khi một số khác có nhu cầu thấp hơn. Tuy nhiên, với tất cả trẻ em, những khoảng thiếu này rất khó bù đắp đầy đủ.

Khi nào cần cho trẻ ăn bổ sung?

Khi sữa mẹ không đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng và dinh dưỡng, thời điểm bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung thường rơi vào khoảng 4-6 tháng tuổi. Đây là thời kỳ hệ thần kinh và các cơ của trẻ đã phát triển đầy đủ, giúp trẻ có khả năng nhai và cắn thức ăn.

Trước 4 tháng tuổi, trẻ thường đẩy thức ăn ra ngoài vì chưa điều chỉnh được chuyển động của lưỡi. Trong giai đoạn 4-6 tháng, trẻ đã có khả năng ăn cháo nấu đặc hoặc thức ăn nghiền nhờ vào khả năng điều khiển lưỡi và hoạt động nhai.

Việc ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn đều không tốt. Nên cho trẻ ăn bổ sung khi:

  • Trẻ ít nhất 4 tháng tuổi.
  • Trẻ vẫn được bú đều đặn nhưng có dấu hiệu đói sớm.
  • Trẻ không tăng cân đều.

Trẻ cần được nuôi bằng sữa mẹ ít nhất trong 6 tháng đầu, nếu có thể, nên kéo dài từ 18-24 tháng. Sữa mẹ cung cấp đầy đủ năng lượng và chất dinh dưỡng, bao gồm cả kháng thể giúp trẻ tránh khỏi các bệnh nhiễm khuẩn.

Cho trẻ ăn bổ sung quá sớm có thể dẫn đến:

  • Trẻ chưa cần thức ăn, ăn sẽ làm trẻ bú mẹ ít đi và sữa mẹ cũng sẽ giảm.
  • Trẻ không nhận được đầy đủ kháng thể từ sữa mẹ, gia tăng nguy cơ mắc bệnh.
  • Thức ăn bổ sung không sạch sẽ gây tiêu chảy cho trẻ.
  • Thức ăn lỏng dễ khiến dạ dày trẻ đầy nhanh nhưng lại thiếu dinh dưỡng.

Ngược lại, nếu cho trẻ ăn bổ sung quá muộn sẽ gây ra:

  • Trẻ không nhận được đầy đủ dinh dưỡng, dẫn đến kém phát triển.
  • Trẻ có nguy cơ cao bị suy dinh dưỡng và thiếu vi chất dinh dưỡng.

Chọn thức ăn bổ sung

Khi chọn thức ăn bổ sung cho trẻ, cần đảm bảo:

  • Thức ăn giàu năng lượng, protein và vi chất dinh dưỡng (sắt, kẽm, canxi, vitamin A, C, folate).
  • Thức ăn sạch và an toàn, không nhiễm khuẩn, không hóa chất độc hại, không quá cay hay mặn.
  • Dễ chế biến và hấp dẫn cho trẻ.

Trong việc chế biến thức ăn cho trẻ, cần chú ý:

  • Các loại lương thực chính như gạo, khoai tây có thể nấu thành cháo. Tuy nhiên, cháo loãng sẽ chứa nhiều nước, cung cấp ít năng lượng và chất dinh dưỡng.
  • Thức ăn động vật là nguồn thực phẩm giàu chất dinh dưỡng như protein, sắt và kẽm, trong khi các loại rau củ cũng cung cấp vitamin và khoáng chất.

Khi cho trẻ ăn bổ sung, trẻ cần được cung cấp một hỗn hợp thức ăn phù hợp trong ngày để đáp ứng đủ năng lượng và vi chất dinh dưỡng. Cần cho trẻ ăn thường xuyên và chia bữa ăn thành nhiều lần trong ngày, với cả bữa chính và bữa phụ.

Bữa phụ

Bữa phụ là cách bổ sung dinh dưỡng giữa các bữa chính, giúp trẻ có thêm năng lượng và vi chất. Bữa phụ nên đơn giản và cung cấp đầy đủ năng lượng và chất dinh dưỡng. Một số ví dụ cho bữa phụ là:

  • Trái cây nghiền như chuối, đu đủ, lê.
  • Sữa chua, bánh sữa.
  • Bánh mì với bơ hoặc mật.
  • Bánh đậu hoặc khoai tây nấu chín.

Đồ uống

Đồ uống cho trẻ cần sạch và an toàn. Không thay thế thức ăn đặc hay sữa mẹ bằng đồ uống. Nước hoặc sữa cần được nấu sôi trước khi cho trẻ uống. Cần tránh các đồ uống có ga hay có chứa cafein trong bữa ăn.

Cho trẻ ăn bao nhiêu và số bữa ăn hằng ngày?

Mùi vị của thức ăn mới có thể khiến trẻ cảm thấy lạ. Khuyến khích các bà mẹ bắt đầu cho trẻ ăn một hoặc hai thìa nhỏ hai lần mỗi ngày, từ từ tăng lượng thức ăn và đa dạng hóa. Thời gian ăn cần phải thư giãn và vui vẻ để trẻ cảm thấy thoải mái.

  • Trẻ dưới 4 tháng tuổi: Chỉ cần bú mẹ theo nhu cầu.
  • Trẻ từ 4 đến 6 tháng tuổi: Bú mẹ và bắt đầu cho ăn bổ sung 1-2 lần/ngày.
  • Trẻ từ 6 đến 12 tháng tuổi: Bú mẹ theo nhu cầu, ăn đủ khẩu phần các loại thực phẩm.

Khuyến khích trẻ ăn

Thèm ăn là dấu hiệu cho thấy trẻ cần dinh dưỡng. Khi trẻ không còn thèm ăn, có thể trẻ đang gặp vấn đề. Cần theo dõi thời gian ăn và khuyến khích trẻ ăn đúng giờ. Không nên ép trẻ ăn, vì có thể làm trẻ thêm căng thẳng và giảm sự thèm ăn.

Cai sữa

Sữa mẹ cung cấp năng lượng và chất dinh dưỡng quan trọng cho trẻ đến 2 tuổi. Khi trẻ 3 tuổi, trẻ có thể dễ dàng ăn thức ăn gia đình. Dần dần, việc cai sữa có thể thực hiện để trẻ tiếp nhận dinh dưỡng từ các nguồn khác, đặc biệt khi trẻ gặp phải tình huống khó khăn như ốm hoặc mệt mỏi.

Vết thương mạch máu – chẩn đoán và điều trị

Vết thương mạch máu là một thương tổn thường gặp không những trong chiến tranh mà còn cả trong thời bình. Nói chung mạch máu chi dưới chiêm tỷ lệ cao hơn so với chi trên.

Có nhiều hình thái lâm sàng khi mạch máu bị thương tổn: loại vết thương có chảy máu thành tia không đặt thành vấn đê chẩn đoán mà chỉ là sơ cứu kịp thời. Phần lớn vết thương khi đến viện đều không còn chảy máu, ngay cả không có vết thương ngoài da. Chính vì vậy mà rất dễ bỏ sót.

Là một cấp cứu số một, đòi hỏi phải chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời, thời gian đóng vai trò hết sức quan trọng trong kết quả điều trị.

Nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật mổ xẻ, nhất là nhò khả năng vận chuyển nhanh chóng nạn nhân đến cơ sở điều trị thực thụ nên trong những năm gần đây kết quả thu được hơn hẳn so với những thống kê từ hồi đại chiến thứ 2, thể hiện bằng tỷ lệ cắt cụt đã giảm từ 50% xuống còn 8%.

GIẢI PHẪU BỆNH LÝ

Động mạch gồm 3 lớp: vỏ ngoài gồm tổ chức liên kết, dai, lớp giữa gồm những sợi cơ nhẵn và lớp nội mạc gồm tế liên bào cắt lát. Vì lớp nội mạc dễ nát lại có tác dụng ngăn các tiểu cầu ngưng tập nên rất dễ bị thương tổn và hình thành máu cục. Trong khi lớp vỏ ngoài gồm các tổ chức liên kết, khó đứt nên nhìn bên ngoài ngay cả khi đã phẫu tích động mạch, tưởng là bình thường nhưng bên trong (lớp nội mạc) thì đã bị máu cục bịt kín lòng mạch).

Vết thương bên là vết thương hay gặp nhất, do lớp cơ bị đứt không hết một chu vi nên co lại theo 2 chiều, làm miệng vết thương càng rộng khó có khả năng tự cầm máu.

Vết thương đứt đôi làm cho mạch máu co lại: khẩu kính mạch nhỏ lại máu cục dễ bịt kín, 2 đầu động mạch cách xa nhau nên khó tìm thấy khi mổ. Bên cạnh đó 1 thương tổn nặng hơn là mất đoạn, bắt buộc phải có 1 đoạn ghép nếu muốn khâu phụ hồi lưu thông dòng máu.

Khi có chấn thương kín, 2 thương tổn thường gặp là co thắt và đụng dập lớp nội mạc gây máu cục trong lòng mạch. Máu cục này tăng dần xuôi theo dòng máu nếu can thiệp càng muộn cục máu có thể đứt đoạn trôi đi xa, càng làm cho tình trạng thiếu máu nặng hơn.

Vết thương mạch máu

LÂM SÀNG

Tuỳ theo thương tổn giải phẫu mà hình thái lâm sàng khác nhau.

  • Vết thương chảy máu

Do động mạch bị đứt hoàn toàn hay 1 phần chu vi. Máu chảy ra ngoài da: nếu tổ chức dưới da ít nghĩa là động mạch nông (thí dụ động mạch đùi chung ngay vùng bẹn) máu có thể chảy thành tia, nhưng thông thường vì vướng lóp cơ và tổ chức dưới da nên máu chảy thấm ướt chứ không thành tia.

  • Vết thương không chảy máu

Nhìn bên ngoài chỉ là một vết thương phần mềm: do sơ cứu hoặc do vết thương tự cầm nên không còn chảy máu ra ngoài da. Rất dễ bỏ sót thương tổn động mạch, chỉ xử trí như vết thương phần mềm. Hậu quả là vết thương sẽ chảy máu thứ phát do nhiễm trùng hoặc do áp lực động mạch hồi phục làm bật máu cục ở vết thương mạch máu. Nếu không thường để lại di chứng như phồng động mạch hoặc thông động mạch tĩnh mạch.

Để chẩn đoán xác định, cần phải tìm các dấu hiệu của thiếu máu phía ngoại biên, thể hiện bằng: mạch giảm biên độ hoặc không có mạch, chi lạnh, nhợt, cảm giác và vận động giảm. Đây là hội chứng có giá trị để xác định chẩn đoán.

  • Máu tụ dưới da

Máu từ lòng mạch chảy ra ngoài nhưng do không có vết thương ngoài da hoặc do tổ chức bao quanh mạch máu nhiều, làm thành 1 khối máu tụ dưới da. Khối này to lên nhanh chóng phụ thuộc lớp bao quanh lỏng lẻo hay chặt. Nếu ở vùng bắp chân thường làm thành 1 khôi máu tụ nằm trong cơ dép, tạo thành 1 máu tụ dưới áp lực ngăn cản cả giờng máu động mạch lẫn tĩnh mạch như kiểu 1 garô nên gọi là garô bên trong, cẳng chân lúc này không nhợt mà tím. Nếu ở vùng lỏng lẻo khối máu tụ to lên nhanh chóng, diễn biến theo từng giờ.

KHÁM NGHIỆM CẬN LÂM SÀNG

Hai khám nghiệm có giá trị thường được sử dụng: một loại không chảy máu, một loại có chảy máu.

  • Siêu âm Doppler

Dùng đầu dò siêu âm Dopler đặt dọc theo đường đi của động mạch dễ dàng phát hiện tiếng dòng máu chảy, dựa trên cường độ mà biêt lưu lượng có băng bên bình thường hay không. Nếu có ghi ra giấy sẽ dễ dàng đo được biên độ.

Đây là một thăm dò dễ thực hiện làm ngay tại giường bệnh nhân, cho kêt quả tức thời, nhất là khi còn nghi ngờ có thể làm nhiều lần đê so sánh.

  • Chụp động mạch

Bơm thuốc cản quang vào trong lòng động mạch chụp hàng loạt sẽ dê dàng phát hiện thương tổn mạch máu, ngoài ra nó còn cho ta biết tình trạng tuần hoàn phía ngoại vi.

Đây là một thăm dò có giá trị nhất nhưng không phải lúc nào cũng thực hiện: một mặt đòi hỏi phải có phương tiện, mặt khác nhiều khi chẩn đoán xác định đã quá rõ ràng, chụp mạch máu chỉ làm mất thêm thời gian trước khi phẫu thuật.

CHẨN ĐOÁN

Hai hoàn cảnh lâm sàng đòi hỏi phải chẩn đoán có thương tổn mạch máu hay không loại có vết thương ngoài da và loại không có vết thương ngoài da (chấn thương kín)

Ngoài những dấu hiệu phía ngoại biên là hội chứng rất có giá trị để quyết định chẩn đoán: mạch giảm biên độ hoặc không có mạch, chi nhợt, lạnh, cảm giác và vận động giảm.

Vị trí vết thương chỉ là một gợi ý: nếu vết thương ngoài da trên đường đi thì không được loại trừ ngay từ đầu.

Hai loại gầy xương dễ có thương tổn động mạch là: gẫy trên lồi cầu xương cánh tay và gẫy trên lồi cầu xương đùi.

Khi đã nghi ngò có vết thương mạch máu thì thái độ chung là phải tìm mọi cách chẩn đoán xác định hoặc loại trừ, không nên theo dõi lâu sẽ đê lại hậu quả xấu do đòi hỏi các triệu chứng rõ ràng. Chính vì vậy mà nên mổ thăm dò còn hơn theo dõi (khi không có các phương tiện khác để xác định như chụp động mạch).

BIẾN CHỨNG VÀ DI CHỨNG

Ngoài những biến chứng tại chỗ, còn những biến chứng toàn thân.

  • Tử vong

Có nhiều nguyên nhân gây tử vong

Rõ ràng nhất là do mất máu ồ ạt và đột ngột. Tình trạng này phụ thuộc vào: kích thưóc mạch máu bị thương tổn, các mô bao bọc xung quanh có đủ khả năng ngăn cản chảy máu hay không, sơ cứu ban đầu.

Truỵ tim mạch khi thả garô: sau khi sơ cứu cầm máu tạm thời bằng garô, thả garô sau một thời gian dài hoặc không chuẩn bị phương tiện và thuốc hồi sức kịp thời ngay khi tháo garô, bệnh nhân có thể truỵ tim đột ngột và tử vong.

  • Hoai tử chi

Chi bị thiếu máu do động mạch cung cấp máu vùng đó thuộc loại ít tuần hoàn phụ: động mạch đùi chung, động mạch khoeo…

Nguyên nhân thiếu máu là do: thắt động mạch, động mạch bị đứt hoặc tắc do máu cục nhưng không được xử trí. Garô quá lâu. Thông thường là hoại tử khô, nhưng nếu có bội nhiễm sẽ có thể chuyển sang hoại tử ướt, phải xử trí câp cứu mới cứu được tính mạng.

  • Chảy máu thứ phát

Vết thương đã cầm máu (do tự cầm hoặc do đã được xử trí), nay chảy máu lại, thông thường trong khoảng tuần đầu. Nếu như xảy ra sớm hơn (1 – 2 ngày đầu) thì thường là do mạch, huyết áp được phục hồi làm bật cục máu đông ở vết thương động mạch.

Những nguyên nhân gây chảy máu thứ phát: nhiễm trùng là nguyên nhân hàng đầu. Cục máu đông bong ra, miệng khâu nối phục hồi lưu thông dòng máu bị bục.

  • Phồng động mạch

Đây là loại phồng giả nghĩa là thành túi phồng không có cấu trúc của thành mạch máu. Túi phồng thường là hình thoi.

Sau một thời gian bị thương (có khi bệnh nhân không còn nhớ tiền sử này) thấy nổi lên 1 cục, to dần, đau, hạn chế vận động. Khám thấy u này đập theo nhịp tim, dãn nở, có thể có tiếng thổi tâm thu.

Túi phồng to dần, bên trong thường có cục máu đông, dẫn đến tắc mạch do 1 cục máu bong ra trôi đi hoặc túi phồng vỡ dưói da làm mất ranh giới của u.

  • Thông động tĩnh mạch

Giữa động mạch và tĩnh mạch có 1 luồng máu chảy tắt không qua lưới mao mạch nữa. Luồng máu này có thể xuất hiện ngay sau khi bị thương nhưng cũng có khi phải 1 thời gian sau.

Do luồng máu chảy tắt mà gây những hậu quả cả tại chỗ (ngoại biên) lẫn trung tâm (toàn thân): Phía hạ lưu của động mạch bị thiếu máu động mạch nhưng lại ứ máu tĩnh mạch, gây nên những rối loạn dinh dưỡng ở chi. Phía trung tâm do dòng máu tắc mà làm tim phải bị tăng nhanh, phía ngoại biên vì thiêu máu động mạch nên tim đập nhanh hơn để bù. Hậu quả dẫn đên suy tim toàn bộ.

THIẾU MÁU NUÔI DƯỠNG CHI

Do động mạch bị thương làm hẹp động mạch hoặc làm tắc mà chi thiêu máu nhất là khi gắng sức.

Điếu trị

Mục đích điều trị nhằm

  • Cầm máu

Khi sơ cứu chỉ cầm máu tạm thời. Tôt nhất là băng ép. Không nên dùng

garô.

Bất đắc dĩ mới thắt hai đầu động mạch. Garô chỉ nên áp dụng khi: P cầm máu mỏm cụt, chi đã dập nát không còn khả năng bảo tồn, chờ mô hoặc nêu để vận chuyển trong khoảng 1 giờ.

Thắt ống động mạch là một động tác cầm máu bảo đảm nhất nhưng sẽ có nguy cơ hoại tử và nếu chỉ là để cầm máu rồi chuyển đi đên nơi điểu trị thực thụ hoàn toàn nên thắt, sẽ gây khó khăn khi mổ.

  • Hồi sức

Trong trường hợp mất máu nhiều, hồi sức đóng vai trò rất quan trọng để cứu tính mạng đồng thời cứu chi khỏi cắt cụt.

Tốt nhất là ngay trong khi vận chuyển đã được bù khối lượng tuần hoàn bằng máu hay bằng dung dịch thay thế.

  • Chống nhiễm trùng

Phải dùng kháng sinh sớm nhất khi có thể. Một điều cần nhớ là cắt lọc vết thương cho tốt là biện pháp chống nhiễm trùng tốt nhất. Nếu như không cắt lọc vết thương phần mềm thì chắc chắn chỗ khâu mạch máu hoặc ngay cả đã thắt động mạch cũng sẽ bục.

  • Phục hồi lưu thông dòng máu

Khâu phục hồi lưu thông dòng máu là cách điểu trị lý tưởng, nhưng muốn làm được thì phải có phương tiện kỹ thuật. Nếu không có đủ điều kiện thì tốt nhất là không nên làm.

Tuỳ theo thương tổn động mạch mà dùng phương pháp khâu phục hồi thích ứng.

Vết thương bên thì khâu hay dùng tĩnh mạch vá lại. vết thương đứt đôi thì sau khi cắt lọc hai đầu, khâu nối lại. Nếu thiếu thì dùng một đoạn tĩnh mạch ghép vào giữa

vet-thuong-mach-mau-2

  • Điều trị thương tổn phối hợp

Bao giờ cũng có thương tổn khác kèm theo vết thương động mạch, nhiều khi do chính những thương tổn này mà bắt buộc phải cắt cụt chi.

Phải điểu trị thương tổn phối hợp cho tốt thì chi đó mới có đủ chức năng cần thiết, nếu không thì tác dụng có khi không bằng chi giả.

Trong các thương tốn phối hợp có vết thương phần mềm (da cơ), vết thương tĩnh mạch, vết thương thần kinh và xương. Mỗi một vết thương đều có tầm quan trọng của nó. Một điều cần phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định bảo tồn chi đó và bảo tồn tính mạng bệnh nhân, nếu không nhận định đúng thì có khi khâu nối động mạch rất tốt nhưng bệnh nhân tử vong.

  • Chỉ định cắt cụt ngay từ đầu

Đánh giá thương tổn tại chỗ (chi và toàn thân để quyết định cắt cụt ngay nhằm cứu tính mạng nạn nhân.

  • Choáng không hồi phục
  • Vết thương phổi hợp nặng
  • Vết thương tại chỗ nặng
  • Garô đã quá 5 giờ
  • Có những dấu hiệu thiếu máu không hồi phục: các cơ cứng và đau, nổi nốt phỏng, không còn cảm giác sờ mó.

Thuốc Amiloride – Đường uống, Midamor

TÊN THUỐC: AMILORIDE – ĐƯỜNG UỐNG (a-MIL-oh-ride)
TÊN THƯƠNG MẠI: Midamor

Cảnh báo

Thuốc này có thể gây ra mức kali cao trong máu (tăng kali huyết). Hiệu ứng này có khả năng xảy ra nhiều hơn ở người cao tuổi và ở những bệnh nhân có bệnh thận, tiểu đường hoặc bệnh lý nghiêm trọng. Mức kali phải được theo dõi chặt chẽ thường xuyên trong khi sử dụng thuốc này. Nếu không được điều trị, mức kali rất cao đôi khi có thể gây tử vong. Hãy cho bác sĩ của bạn biết ngay lập tức nếu bạn phát triển bất kỳ triệu chứng nào của mức kali cao, bao gồm yếu cơ, nhịp tim chậm/không đều, tê/ngứa da.

CÔNG DỤNG

Amiloride được sử dụng cùng với các loại thuốc lợi tiểu khác (như furosemide, thiazide như hydrochlorothiazide) để điều trị huyết áp cao (tăng huyết áp), suy tim hoặc sự tích tụ dịch thừa trong cơ thể (phù). Amiloride cũng giúp điều trị hoặc ngăn ngừa mức kali thấp trong máu do các thuốc lợi tiểu khác gây ra. Việc giảm huyết áp cao giúp ngăn ngừa đột quỵ, cơn đau tim và các vấn đề về thận. Amiloride được gọi là “thuốc lợi tiểu” và giúp cơ thể loại bỏ lượng muối và nước thừa, đồng thời ngăn ngừa thận loại bỏ quá nhiều kali.

CÁCH SỬ DỤNG

Hãy uống thuốc này bằng miệng cùng với thức ăn, thường là một lần mỗi ngày hoặc theo chỉ dẫn của bác sĩ. Nếu bạn uống thuốc này quá gần giờ đi ngủ, bạn có thể cần phải thức dậy để đi tiểu. Do đó, tốt nhất là uống thuốc này ít nhất 4 giờ trước giờ đi ngủ của bạn. Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào về cách và thời gian uống thuốc này, hãy hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ. Liều dùng phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe và phản ứng với điều trị. Hãy sử dụng thuốc này thường xuyên để có lợi ích tối đa từ nó. Để giúp bạn nhớ, hãy uống thuốc vào cùng một thời điểm mỗi ngày. Quan trọng là tiếp tục sử dụng thuốc này ngay cả khi bạn cảm thấy khỏe. Hầu hết mọi người có huyết áp cao không cảm thấy bị ốm. Hãy cho bác sĩ biết nếu tình trạng của bạn không cải thiện hoặc xấu đi (chẳng hạn như chỉ số huyết áp của bạn vẫn cao hoặc tăng).

TÁC DỤNG PHỤ

Đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, nôn mửa, mất cảm giác thèm ăn, đau bụng, đầy hơi hoặc tiêu chảy có thể xảy ra. Nếu bất kỳ tác dụng nào trong số này kéo dài hoặc xấu đi, hãy thông báo cho bác sĩ hoặc dược sĩ ngay lập tức.

Hãy nhớ rằng bác sĩ của bạn đã kê đơn thuốc này vì họ đã đánh giá rằng lợi ích đối với bạn lớn hơn rủi ro của các tác dụng phụ. Nhiều người sử dụng thuốc này không gặp tác dụng phụ nghiêm trọng.

Khi dùng cùng với các thuốc lợi tiểu khác, amiloride có thể gây mất quá nhiều nước trong cơ thể (mất nước) và muối/khoáng chất. Hãy cho bác sĩ biết ngay lập tức nếu bạn có bất kỳ triệu chứng nào hiếm gặp nhưng nghiêm trọng sau đây của mất nước hoặc mất khoáng: miệng rất khô, khát nước dữ dội, chuột rút cơ, yếu, nhịp tim nhanh, chóng mặt nghiêm trọng, nhầm lẫn, lượng nước tiểu giảm bất thường, ngất xỉu, co giật.

Hãy cho bác sĩ biết ngay lập tức nếu bất kỳ tác dụng phụ hiếm gặp nhưng nghiêm trọng nào xảy ra: vàng da/mắt, nước tiểu sậm màu, buồn nôn/nôn mửa kéo dài.

Phản ứng dị ứng rất nghiêm trọng với thuốc này là hiếm. Tuy nhiên, hãy tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào của phản ứng dị ứng nghiêm trọng: phát ban, ngứa/sưng (đặc biệt là ở mặt/lưỡi/họng), chóng mặt nghiêm trọng, khó thở.

Đây không phải là danh sách đầy đủ tất cả các tác dụng phụ có thể xảy ra. Nếu bạn nhận thấy các tác dụng khác không được liệt kê ở trên, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc dược sĩ.

CÁC BIỆN PHÁP CẢNH GIÁC

Trước khi sử dụng amiloride, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết nếu bạn bị dị ứng với thuốc này; hoặc nếu bạn có bất kỳ dị ứng nào khác. Sản phẩm này có thể chứa các thành phần không hoạt động, có thể gây ra phản ứng dị ứng hoặc các vấn đề khác. Hãy nói chuyện với dược sĩ của bạn để biết thêm chi tiết.

Trước khi sử dụng thuốc này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết về tiền sử bệnh của bạn, đặc biệt là: mất cân bằng muối/khoáng chưa được điều trị (như mức kali cao, mức natri thấp), bệnh thận, bệnh gan, tiểu đường, mất quá nhiều nước trong cơ thể (mất nước).

Trước khi phẫu thuật, hãy cho bác sĩ hoặc nha sĩ biết về tất cả các sản phẩm bạn đang sử dụng (bao gồm thuốc kê đơn, thuốc không kê đơn và sản phẩm thảo dược).

Thuốc này có thể khiến bạn cảm thấy chóng mặt. Không lái xe, sử dụng máy móc hoặc thực hiện bất kỳ hoạt động nào yêu cầu sự tỉnh táo cho đến khi bạn chắc chắn rằng có thể thực hiện những hoạt động đó một cách an toàn. Hạn chế uống đồ có cồn.

Mất nước đáng kể từ việc ra mồ hôi quá nhiều, nôn mửa hoặc tiêu chảy cũng có thể làm giảm huyết áp của bạn và làm trầm trọng thêm tình trạng chóng mặt. Uống nhiều nước để ngăn ngừa những tác dụng này và tình trạng mất nước. Nếu bạn đang phải hạn chế lượng nước tiêu thụ, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để biết hướng dẫn thêm. Liên hệ với bác sĩ nếu bạn không thể uống nước hoặc nếu bạn bị tiêu chảy/nôn mửa kéo dài.

Thuốc này có thể làm tăng mức kali trong máu của bạn. Hạn chế thực phẩm có hàm lượng kali cao như chuối và nước cam. Tham khảo ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ trước khi sử dụng bất kỳ sản phẩm nào chứa kali (như thực phẩm bổ sung kali, các loại muối thay thế).

Trong thời kỳ mang thai, thuốc này chỉ nên được sử dụng khi thật sự cần thiết. Thảo luận về những rủi ro và lợi ích với bác sĩ của bạn.
Hiện chưa biết liệu thuốc này có vào sữa mẹ hay không. Hãy thảo luận về những rủi ro và lợi ích với bác sĩ của bạn trước khi cho con bú.

TƯƠI THỨC THUỐC

Tác động của một số loại thuốc có thể thay đổi nếu bạn dùng các loại thuốc hoặc sản phẩm thảo dược khác cùng một lúc. Điều này có thể làm tăng nguy cơ xảy ra các tác dụng phụ nghiêm trọng hoặc có thể khiến thuốc của bạn không hoạt động đúng cách. Những tương tác thuốc này có thể xảy ra, nhưng không phải lúc nào cũng xảy ra. Bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn thường có thể ngăn ngừa hoặc quản lý các tương tác bằng cách thay đổi cách bạn sử dụng thuốc hoặc bằng cách theo dõi chặt chẽ.

Để giúp bác sĩ và dược sĩ cung cấp cho bạn sự chăm sóc tốt nhất, hãy chắc chắn cho họ biết về tất cả các sản phẩm bạn sử dụng (bao gồm thuốc kê đơn, thuốc không kê đơn và sản phẩm thảo dược) trước khi bắt đầu điều trị với sản phẩm này. Trong khi sử dụng sản phẩm này, không bắt đầu, ngừng hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào bạn đang sử dụng mà không có sự chấp thuận của bác sĩ.

Một số sản phẩm có thể tương tác với thuốc này bao gồm: lithium, sản phẩm phosphate natri, các sản phẩm khác có thể làm tăng mức kali (như eplerenone, tacrolimus, cyclosporine, thuốc tránh thai chứa drospirenone, thuốc lợi tiểu giữ kali như spironolactone/triamterene, thuốc ức chế ACE như benazepril/captopril, đối kháng thụ thể angiotensin như losartan/valsartan).

Kiểm tra nhãn trên tất cả các loại thuốc của bạn (như sản phẩm trị ho và cảm lạnh, thuốc hỗ trợ chế độ ăn kiêng, thuốc chống viêm không steroid – NSAID để giảm đau/sốt) vì chúng có thể chứa các thành phần có thể làm tăng huyết áp của bạn (như pseudoephedrine, phenylephrine) hoặc làm giảm tác dụng của thuốc này (như ibuprofen, naproxen). Hãy hỏi dược sĩ của bạn về cách sử dụng những sản phẩm đó một cách an toàn.

Thuốc này có thể can thiệp vào một số xét nghiệm trong phòng thí nghiệm (bao gồm xét nghiệm dung nạp glucose), có thể gây ra kết quả xét nghiệm giả. Hãy chắc chắn rằng nhân viên phòng thí nghiệm và tất cả bác sĩ của bạn biết rằng bạn đang sử dụng thuốc này.

Tài liệu này không chứa tất cả các tương tác thuốc có thể xảy ra. Hãy giữ một danh sách về tất cả các sản phẩm bạn sử dụng. Chia sẻ danh sách này với bác sĩ và dược sĩ của bạn để giảm thiểu nguy cơ xảy ra các vấn đề nghiêm trọng liên quan đến thuốc.

Leucodinine B

Thuốc Leucodinine
Thuốc Leucodinine

LEUCODININE B 10%

Thuốc mỡ 10%: tube 30 g.

 THÀNH PHẦN

cho 100 g
Méquinol 10 g

DƯỢC LỰC

Tác nhân làm giảm sắc tố.

Méquinol có tên hóa học là monomethyl therehydroquinone, có tác động làm giảm sắc tố do ức chế sự tổng hợp mélanine (còn gọi là hắc tố).

CHỈ ĐỊNH

Điều trị tại chỗ các trường hợp tăng sắc tố mélanine mắc phải, đặc biệt trong: chứng da đồi mồi ở người lớn tuổi, nhiễm hắc tố sau phẫu thuật hoặc do hóa chất (nước hoa).

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Quá mẫn cảm với méquinol.

Trẻ em dưới 12 tuổi.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Tránh phơi ra nắng những chỗ da bị tăng sắc tố, và cần bảo vệ tốt vùng da này bằng quần áo hoặc dùng kem chống nắng trong thời gian điều trị.

Không được bôi lên niêm mạc hoặc vào mắt.

LÚC CÓ THAI

Trên lâm sàng, cho đến nay không có trường hợp nào được ghi nhận bị dị dạng hoặc độc tính trên bào thai do dùng thuốc. Tuy nhiên, các số liệu về sử dụng méquinol trong suốt thời gian mang thai thì chưa đủ để có thể loại trừ hết tất cả những nguy cơ.

Do đó, vì thận trọng, không nên bôi thuốc khi có thai.

LÚC NUÔI CON BÚ

Do còn thiếu số liệu, không nên bôi thuốc trong thời gian nuôi con bú.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Các phản ứng kiểu gây kích thích hoặc quá mẫn với méquinol (hiếm gặp).

Hiếm gặp: tăng hắc tố sau viêm, chứng da lang trắng đen không đồng nhất với những đốm trắng ở nơi bôi thuốc và một vài trường hợp gây giảm hắc tố ở xa nơi bôi thuốc cũng được ghi nhận.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Bôi thuốc hai lần/ngày.

Có thể giảm số lần bôi thuốc tùy theo các dấu hiệu cải thiện của bệnh. Khi sắc tố đã giảm như mong muốn, nên tiếp tục bôi thêm ít nhất mỗi tuần một lần. Cần bảo vệ chỗ bôi thuốc, không để tiếp xúc với ánh nắng mặt trời hoặc tia tử ngoại.

TƯƠNG KỴ

Tránh pha trộn với những loại kem hoặc thuốc mỡ khác (có thể gây bất tương hợp, đặc biệt với những chế phẩm có tính oxy hóa hoặc các phức hợp kim loại).

Châm cứu chứng phúc thống (đau bụng)

Phúc thông tức là đau bụng; nơi đau gồm vùng trên rốn, xung quanh rốn và vùng hạ vị. Đau bụng là một triệu chứng cơ năng có thể gặp trong rất nhiều bệnh. Trên lâm sàng đau bụng có thể phân ra làm hai tình huống cấp thống và cửu thống. Cấp thống có nghĩa là sự đau xảy ra một cách đột nhiên, mức độ đau có thể rất nặng; cửu thống đến rất lâu và chậm, có khi đau, khi không, mức độ đau có thể hoà hoãn. Nguyên nhàn gây bệnh rất nhiều như: ngoại cảm lạnh, thường ăn những thức àn sống lạnh làm ảnh hưởng đến sự truyền đạo vận hoá của tỳ vị, hoặc do trong người vốn đã bị hàn lãnh cảm vào làm đau, có thể do bên trong uất kết thấp nhiệt làm trở trệ sự sơ tiết của can mộc và sự vận hoá của tỳ thổ, có thể do giun sán tích bên trong quấy động, có thể do can uất khí trệ, huyết ứ đình tụ… Tất cả làm cho kinh khí của tam âm kinh không còn thông xướng, uât kết không thông mà bất thông thì thống (không thông thì đau).

TRỊ LIỆU

Chứng trạng: Vùng bụng bị đau, bên trên lên đến trung quản, bên dưới xuống đến vùng hạ vị, đau đến không chịu nổi, ngồi đứng không yên hoặc đau ngấm ngầm, khi đau khi dứt, hoặc làm cho nôn mửa, đại tiện bí, bụng bị trướng, thích ấm, mạch thì huyền hoặc trầm thực, rêu lưỡi dày có hạt.

Phép trị: Sơ thông khí cơ, đuổi tà, dứt đau.

Xử phương: Dùng mai hoa huyệt vùng rốn gia thêm các huyệt khác.

Phép châm cứu: Châm trung quản 5 phân, khí hải 5 phân, cứu thiên xu thuỷ phân đều 5 tráng; châm quan nguyên, túc tam lý đều 5 phân; châm đại trường du, tam tiêu du đều 3 phân. Hư chứng và hàn chứng thì bổ, kiêm cả cứu; nhiệt chứng và thực chứng thì tả, không cứu, không lưu kim.

Phép gia giảm : Nếu đau đầu châm thêm tả thái dương, phong trì đều 3 phân, nếu đầu choáng váng tăng thêm thượng tinh, bách hội đều 2 phân, bổ. Nếu đau vùng bụng dưới châm thêm tam âm giao, đại cự hư đều 5 phân tả pháp.

CẤM KỴ

Kỵ dầu mỡ chiên, thức ăn lạnh hoặc cứng.

Y ÁN

Thí dụ 1 : Khí trệ phúc thống

Bà Lư … 62 tuổi, làm ruộng, khám ngày 21-4…

Khám lần 1: Đau quanh rốn và vùng bụng đã hơn mấy tháng, khi đau khi dứt, tuy đau không dữ dội lắm những khi bệnh phát lên thì đứng ngồi không yên, trướng bụng, không muốn ăn uống. Bà đã từng điều trị tại bệnh viện nhiều lần nhưng chưa tìm ra nguyên nhân. Hơn nữa gần đây mỗi lần bệnh phát tác thì kèm theo mắt hoa và tối sầm, đầu choáng váng, tai kêu…

Thể chất ngày càng suy nhược, mệt mỏi, mất sức, mạch thôn quan huyền đại, xích lại nhược, lưỡi đỏ nhạt, rêu it. Đây thuộc chứng can uất khí trệ, thận dương hư suy.

+ Phép trị: Sơ can, kiện tỳ, ôn bổ hạ nguyên.

+ Xử phương : Châm bể bách hội 3 phân; tả thượng tinh 3 phân; châm thái dương 3 phân, bình bổ bình tả; châm trung quản 5 phân tiền tả hậu bổ; bổ khí hải 5 phân, cứu 3 tráng; châm túc tam lý 1 thốn, tiền tả hậu bổ; tả nội quan 5 phân, cứu thiên khu 3 tráng.

Khám lần 2 (25 tháng 4): Sau khi châm chứng hoa mắt đầu choáng váng thấy giảm, ăn khá hơn, số lần đau bụng giảm xuống.

+ Xử phương : Sửa lại dùng phép cứu mai hoa vùng rốn và bụng, tức là cứu thủy phân, khí hải, thiên khu, thần khuyết mỗi huyệt 5 tráng; châm bổ quan nguyên 5 phân; châm túc tam lý 1 thôn bình bổ bình tả; châm bổ bách hội, ấn đường đều 3 phân.

Khám lần 3 (30 tháng 4): Sau khi châm lần trước, bụng đau được giảm hơn phân nửa, ăn nhiều hơn, theo phép đó tiếp tục châm và cứu.

Khám lần 4 (3 tháng 5): Các chứng đều bình phục, thể chất ngày càng khoẻ hơn; tiếp tục cứu trung quản, khí hải, thiên khu, túc tam lý mỗi huyệt 9 tráng nhằm củng cố hiệu quả của trị liệu, saụ đó tiếp tục cứu 3 lần nữa, bệnh khỏi.

Thí dụ 2 : Chứng phúc thống do hàn trệ

Bà Trương Thị Q … 24 tuổi, làm ruộng, khám ngày 29-4…

Khám lần 1: Sáng nay thình lình bà bị đau bụng, đi khám bệnh và được uống thuốc nhưng vẫn không khỏi. Tối nay bệnh tình đau dữ dội, đau đến muốn đứt hơi, người nhà xin được châm cứu. Khám thấy: bệnh nhân bụng to như cái trống, như có hình khối u to bằng nắm tay, trong bụng trên dưới đều như thế, mắt trừng miệng há, mồ hôi và đầm đìa, tay chân lạnh như đá, đại tiện ra chất phân lỏng có nước, mạch trầm trì, lưỡi vàng, rêu lưỡi dày. Đây là thuộc chứng hàn thấp ngưng kết, khí huyết ứ trệ.

+ Phép trị: Kiện tỳ tiêu trệ, ôn trung lý khí, chỉ thống.

+ XỬ phương: Châm bổ trung quản 5 phân; bổ khí hải 5 phân, bổ thuỷ phân 1 phân, cứu 5 tráng; cứu thần khuyết và thiên khu đều 5 tráng; tả túc tam lý 1 thốn, cứu 3 tráng; tả đại trường và tiểu trường du 3 phân; tả xích trạch, uỷ trung đều 5 phân; tả thừa sơn, tam tiêu du đều 1 thốn. Sau khi châm khoảng 10 phút thì cơn đau dứt nhưng bụng vẫn còn trướng to; sau đó châm thêm tả nội quan, nội đinh, tam âm giao đều 5 phân.

Khám lần 2 (30 tháng 4): Sau khí châm cơn đau dứt, bệnh trướng tiêu, tiêu chảy cũng dứt; châm theo phép trên và cứu, gia giảm, châm được 5 lượt nữa, các chứng đều khỏi.

Phương pháp điều trị thay thế thuốc chống trầm cảm

Có một số phương pháp điều trị có thể được sử dụng thay thế cho thuốc chống trầm cảm trong việc điều trị trầm cảm và các vấn đề sức khỏe tâm thần khác.

Liệu pháp trò chuyện

Liệu pháp hành vi nhận thức

Liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) là một loại liệu pháp trò chuyện đang ngày càng được sử dụng trong điều trị trầm cảm. Hầu hết các chuyên gia khuyến nghị rằng những người bị trầm cảm từ mức độ vừa đến nặng nên được điều trị bằng sự kết hợp giữa CBT và thuốc chống trầm cảm.

Liệu pháp trò chuyện
Liệu pháp trò chuyện

Tuy nhiên, nếu bạn không thể hoặc không muốn uống thuốc chống trầm cảm, bạn có thể nhận CBT một mình.

CBT giúp bạn hiểu rõ suy nghĩ và hành vi của mình, cũng như cách chúng ảnh hưởng đến bạn. Nó giúp bạn nhận ra rằng những sự kiện trong quá khứ có thể đã ảnh hưởng đến bạn, nhưng nó tập trung chủ yếu vào cách bạn có thể thay đổi cách nghĩ, cảm nhận và hành động của mình trong hiện tại. Nó cũng dạy bạn cách vượt qua những suy nghĩ tiêu cực.

CBT thường có sẵn trên NHS, mặc dù danh sách chờ thường khá dài. Bạn thường sẽ tham gia một khóa học ngắn gọn, thường là 6 đến 8 buổi, trong 10 đến 12 tuần, theo hình thức 1:1 với một nhà trị liệu được đào tạo về CBT. Trong một số trường hợp, bạn có thể được đề nghị tham gia CBT nhóm.

CBT trực tuyến

CBT qua máy tính hoặc trực tuyến là một hình thức CBT hoạt động thông qua màn hình máy tính, thay vì gặp mặt trực tiếp với một nhà trị liệu.

Những liệu pháp này có thể được bác sĩ hoặc chuyên gia sức khỏe tâm thần kê đơn và được thực hiện với sự tư vấn và hỗ trợ của họ.

Hãy hỏi bác sĩ của bạn để biết thêm thông tin hoặc đọc thêm về các liệu pháp tự giúp.

Liệu pháp tương tác

Liệu pháp tương tác (IPT) tập trung vào các mối quan hệ của bạn với người khác và các vấn đề mà bạn có thể gặp phải trong các mối quan hệ đó, chẳng hạn như khó khăn trong giao tiếp hoặc đối phó với sự mất mát.

Một khóa học IPT thường được cấu trúc giống như một khóa học CBT.

Có một số bằng chứng cho thấy IPT có thể hiệu quả như thuốc chống trầm cảm hoặc CBT, nhưng cần có thêm nghiên cứu.

Tư vấn

Tư vấn là một hình thức trị liệu giúp bạn suy nghĩ về những vấn đề bạn đang gặp phải trong cuộc sống để tìm ra những cách mới để đối phó với chúng. Các nhà tư vấn hỗ trợ bạn tìm giải pháp cho vấn đề nhưng không nói cho bạn biết phải làm gì.

Tư vấn trên NHS thường bao gồm 6 đến 12 buổi, mỗi buổi kéo dài một giờ. Bạn sẽ nói chuyện một cách tự tin với một nhà tư vấn, người sẽ hỗ trợ bạn và đưa ra những lời khuyên thực tiễn.

Tư vấn là lý tưởng cho những người khỏe mạnh nhưng cần giúp đỡ để đối phó với một cuộc khủng hoảng hiện tại, chẳng hạn như cơn giận dữ, vấn đề trong mối quan hệ, sự mất mát, thất nghiệp, vô sinh hoặc sự khởi đầu của một bệnh nghiêm trọng.

Liệu pháp trò chuyện trên NHS

Bạn có thể nhận các liệu pháp trò chuyện như tư vấn cho trầm cảm và liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) trên NHS.

Bạn có thể tự mình giới thiệu đến dịch vụ liệu pháp trò chuyện của NHS mà không cần phải được giới thiệu từ bác sĩ.

Đọc thêm về các liệu pháp trò chuyện trên NHS.

Tập thể dục

Nghiên cứu cho thấy rằng tập thể dục thường xuyên có thể là một phương pháp điều trị hiệu quả hơn cho trầm cảm nhẹ so với thuốc chống trầm cảm.

Tập thể dục giúp tăng cường mức độ các hóa chất gọi là serotonin và dopamine trong não, điều này có thể nâng cao tâm trạng của bạn.

Tập thể dục thường xuyên có thể tăng cường lòng tự trọng và sự tự tin, giúp giảm triệu chứng trầm cảm.

Đọc về việc bắt đầu tập thể dục và tập thể dục cho trầm cảm.

Nhóm tự giúp

Trò chuyện về cảm xúc của bạn có thể rất hữu ích. Bạn có thể trò chuyện với một người bạn hoặc người thân, hoặc bạn có thể yêu cầu bác sĩ của bạn gợi ý một nhóm tự giúp gần đó. Cũng có các phòng chat trên internet cung cấp hỗ trợ.

Đọc thêm về các nhóm hỗ trợ cho trầm cảm.

Lithium

Nếu bạn đã thử nhiều loại thuốc chống trầm cảm khác nhau mà không thấy cải thiện, bác sĩ của bạn có thể đề nghị cho bạn một loại thuốc gọi là lithium, bên cạnh phương pháp điều trị hiện tại của bạn.

Nếu nồng độ lithium trong máu của bạn trở nên quá cao, nó có thể trở nên độc hại. Vì vậy, bạn sẽ cần xét nghiệm máu mỗi vài tháng để kiểm tra nồng độ lithium trong khi bạn đang sử dụng.

Bạn cũng cần tránh ăn kiêng ít muối vì điều này cũng có thể khiến lithium trở nên độc hại. Hãy hỏi bác sĩ của bạn về chế độ ăn uống của bạn.

Các tác dụng phụ của lithium bao gồm:

  • Khô miệng
  • Vị kim loại trong miệng
  • Một chút run nhẹ ở tay
  • Tiêu chảy

Các tác dụng phụ này thường sẽ giảm dần theo thời gian khi cơ thể bạn quen với thuốc.

Điều trị sốc điện

Đôi khi một phương pháp điều trị gọi là liệu pháp sốc điện (ECT) có thể được khuyến nghị nếu bạn bị trầm cảm nặng và các phương pháp điều trị khác không hiệu quả, vì nó có thể rất hiệu quả.

Trong ECT, trước tiên bạn sẽ được gây mê và cho thuốc để thư giãn cơ bắp. Sau đó, bạn sẽ nhận một dòng điện đến não qua các điện cực được đặt trên đầu bạn.

Bạn có thể được thực hiện một loạt các buổi ECT. Thường thì ECT được thực hiện hai lần một tuần trong 3 đến 6 tuần.

Hiện chưa rõ cách ECT hoạt động, nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy nó có thể giúp giảm kết nối trong một vùng não liên quan đến trầm cảm.

Đối với hầu hết mọi người, ECT là tốt để giảm nhẹ trầm cảm nặng, nhưng tác dụng có lợi có xu hướng mất dần sau vài tháng.

Một số người gặp tác dụng phụ không dễ chịu, bao gồm đau đầu ngắn hạn, vấn đề về trí nhớ, buồn nôn và đau cơ.

Nhưng những rủi ro này cần được cân bằng với các rủi ro của các phương pháp điều trị khác và những tác động của việc không điều trị trầm cảm.

Stilnox

Thuốc Stilnox 10mg
Thuốc Stilnox 10mg

STILNOX

SANOFI SYNTHELABO VIETNAM

viên nén dễ bẻ 10 mg: hộp 20 viên.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Zolpidem hémitartrate 10 mg
(Lactose)

DƯỢC LỰC

Stilnox là thuốc ngủ thuộc nhóm dẫn xuất của imidazopyridine, có các đặc tính của nhóm benzodiazépine: tác dụng an thần kinh với liều thấp hơn so với liều cần thiết để gây chống co giật, giãn cơ hay chống lo âu.

Ở liều điều trị, Stilnox chủ yếu có tác dụng gây ngủ.

Các tác dụng của thuốc có liên quan đến tác động đồng vận đặc hiệu trên những thụ thể “GABA-oméga phân tử lớn” (còn được gọi là BZD1 và BZD2) có chức năng điều chỉnh sự mở kênh chlore.

Tuy nhiên, zolpidem là một chất đồng vận có ái tính trên phân nhóm oméga 1 (BZD1).

Ở người, zolpidem rút ngắn thời gian dỗ giấc ngủ, giảm số lần thức giấc trong đêm, kéo dài tổng thời gian ngủ và cải thiện chất lượng giấc ngủ.

Hiệu quả của thuốc đi kèm với đường biểu diễn điện não đồ đặc trưng, khác với đường biểu diễn của các benzodiazépine. Các nghiên cứu ghi trong giấc ngủ đêm cho thấy rằng zolpidem kéo dài giai đoạn II cũng như các giai đoạn của giấc ngủ sâu (III và IV). Ở liều khuyến cáo, zolpidem không ảnh hưởng lên tổng thời gian của giấc ngủ nghịch (REM).

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Hấp thu:

Sau khi uống, zolpidem có sinh khả dụng khoảng 70% và đạt nồng độ tối đa trong huyết tương sau 0,5 đến 3 giờ.

Phân phối:

Ở liều điều trị, động học của thuốc có liên quan tuyến tính với liều dùng. Gắn kết với protéine huyết tương khoảng 92%.

Đào thải:

Zolpidem được đào thải dưới dạng chất chuyển hóa không có hoạt tính (chuyển hóa ở gan), chủ yếu qua nước tiểu (khoảng 60%), và qua phân (khoảng 40%). Zolpidem không có tác dụng gây cảm ứng các enzyme ở gan. Thời gian bán hủy đào thải trong huyết tương trung bình là 2,4 giờ (0,7-3,5 giờ).

Ở người già, sự thanh thải thuốc giảm. Nồng độ đỉnh trong huyết tương tăng khoảng 50% nhưng không làm tăng đáng kể thời gian bán hủy (trung bình khoảng 3 giờ).

Ở bệnh nhân suy thận, có làm thẩm phân hay không, đã quan sát thấy sự thanh thải thuốc có giảm vừa phải. Các thông số động học khác không thay đổi.

Ở bệnh nhân suy gan, sinh khả dụng của zolpidem tăng, thanh thải thuốc giảm và thời gian bán hủy đào thải kéo dài (khoảng 10 giờ).

CHỈ ĐỊNH

– Mất ngủ tạm thời.
– Mất ngủ ngắn hạn.
– Mất ngủ kinh niên.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Tuyệt đối:
– Mẫn cảm với zolpidem.
– Suy hô hấp nặng.
– Suy gan nặng.

Tương đối:
– Trẻ em dưới 15 tuổi.
– Chứng nhược cơ.
– Phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú: xem Lúc có thai và Lúc nuôi con bú.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG

Lệ thuộc thuốc:

Có nhiều yếu tố dường như thuận lợi cho việc dẫn đến tình trạng lệ thuộc thuốc, như:

  • thời gian điều trị,
  • liều lượng,
  • phối hợp với benzodiazepine,
  • uống rượu,
  • có tiền sử bị lệ thuộc một loại thuốc hoặc không.

Việc sử dụng thuốc benzodiazepine có thể gây hiện tượng lệ thuộc thuốc, nhưng điều này không xảy ra với zolpidem (liều điều trị).

Mất ngủ phản hồi:

Các nghiên cứu được thực hiện cho đến nay cho thấy rằng zolpidem không gây hiện tượng mất ngủ phản hồi (bị mất ngủ trở lại với mức độ nặng hơn) trong các điều kiện sử dụng bình thường. Hiện tượng này có thể xảy ra sau khi ngưng đột ngột một điều trị kéo dài hoặc với liều cao hơn liều khuyên dùng.

Thời gian điều trị không nên vượt quá 4 tuần lễ.

Mặc dù các nghiên cứu lâm sàng thực hiện ở liều điều trị không cho thấy làm hỏng tiến trình nhận thức, không nên loại trừ khả năng gây quên về trước có liên quan đến liều dùng, đặc biệt khi giấc ngủ bị gián đoạn (dậy sớm do một biến cố bên ngoài) hoặc ngủ trễ sau khi uống thuốc.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

– Nguyên nhân gây mất ngủ và cả những yếu tố nguy cơ cần được xác định nếu có thể được trước khi kê toa.
Yếu tố nguy cơ:
– Sử dụng benzodiazepine.
– Rượu.
– Suy hô hấp.
– Suy gan nặng.
– Người già trên 65 tuổi.
– Nhược cơ.
– Các nghiên cứu dược lý trên người và động vật không cho thấy có bất kỳ tác động nào trên trung tâm hô hấp. Tuy vậy vẫn nên thận trọng khi dùng Stilnox trong suy hô hấp.
– Trong những trường hợp nhược cơ: vì có khả năng làm tăng nhược cơ nên chỉ dùng zolpidem trong điều kiện có giám sát y tế chặt chẽ.
– Trong trường hợp suy gan: giảm liều.
– Lái xe và vận hành máy móc: nên lưu ý các tài xế và công nhân điều khiển máy vì khả năng bị choáng váng khi dùng thuốc.

LÚC CÓ THAI

Mặc dù không có một tác dụng gây quái thai hay độc trên phôi thai nào được ghi nhận ở động vật thử nghiệm, do thận trọng (cũng như đối với tất cả các loại thuốc mới), không nên dùng thuốc này cho phụ nữ có thai.

LÚC NUÔI CON BÚ

Mặc dù zolpidem được bài tiết rất yếu qua sữa mẹ, không được dùng thuốc này khi cho con bú mẹ.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Không nên phối hợp:

  • Alcool: tránh uống rượu và thuốc có chứa alcool, do rượu làm tăng tác dụng an thầ Việc giảm sự tập trung và cảnh giác đôi khi có thể gây nguy hiểm cho người lái xe và vận hành máy móc.

Lưu ý khi phối hợp:

  • Morphine, barbiturate: nguy cơ tăng suy hô hấp.
  • Các thuốc khác gây ức chế hệ thần kinh trung ương (dẫn xuất của morphine giảm đau và chống ho), barbiturate, một vài thuốc chống trầm cảm, thuốc kháng histamine H1 gây ngủ, nhóm benzodiazépine, thuốc an thần kinh, clonidine và các thuốc cùng họ: tăng tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương có thể gây hậu quả nghiêm trọng nhất là đối với người lái xe và vận hành máy móc.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Sự xuất hiện của các tác dụng này liên quan tới liều và sự nhạy cảm của mỗi cá nhân (đặc biệt ở những người cao tuổi) và thường xảy ra trong vài giờ sau khi uống thuốc nếu bệnh nhân không đi ngủ ngay (xem Liều lượng và Cách dùng):
– Lú lẫn.
– Rối loạn trí nhớ (mất trí nhớ trước).
– Song thị.
– Buồn ngủ ban ngày. Hiếm hơn, có thể gây:
– Mệt.
– Rối loạn tiêu hóa.
– Thay đổi về libido.
– Phát ban ở da, ngứa.
– Cảm giác chóng mặt, choáng váng, suy nhược.
– Lệ thuộc thuốc.
– Mất ngủ phản hồi.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Liều lượng:

Trong mọi trường hợp, chỉ dùng thuốc ngay trước khi đi ngủ.

  • Người lớn dưới 65 tuổi: liều lượng nên phù hợp với từng cá nhân. Liều thông thường là 1 viên 10 mg. Có thể tăng liều đến 15 hoặc 20 mg (1 viên rưỡi hoặc 2 viên) tùy theo đáp ứng của bệnh nhân.
  • Người già trên 65 tuổi: nên bắt đầu điều trị với 5 mg (nửa viên), liều lượng không nên vượt quá 1 viên 10 mg.

Cách dùng:

Thời gian điều trị: càng ngắn hạn càng tốt và không được vượt quá 4 tuần kể cả giai đoạn giảm liều.

Người lớn:

  • Mất ngủ tạm thời: điều trị từ 2 đến 5 ngày ;
  • Mất ngủ ngắn hạn: điều trị từ 2 đến 3 tuần ;
  • Mất ngủ kinh niên: điều trị dài hạn chỉ khi có ý kiến của bác sĩ chuyên khoa. Cách ngưng thuốc:
  • Điều trị ngắn ngày: không cần giảm liều trước khi ngưng thuốc.
  • Việc ngưng thuốc từ từ đối với điều trị kéo dài hoặc với liều cao giúp làm giảm nguy cơ gây mất ngủ phản hồi.

QUÁ LIỀU

Các triệu chứng ngộ độc do zolpidem chủ yếu là rối loạn hệ thần kinh trung ương, biểu hiện bởi ngủ gật đến hôn mê.

Trường hợp nhẹ: lú lẫn tâm thần có thể được ghi nhận.

Trường hợp nặng: mất điều hòa vận động, hạ huyết áp, suy hô hấp, hôn mê, hiếm khi tử vong. Trường hợp ngộ độc do dùng zolpidem kèm với thuốc chống trầm cảm hệ thần kinh trung ương hay alcool: triệu chứng nặng hơn, tiên lượng xấu.

Trường hợp quá liều, nên dùng các biện pháp xử lý thông thường: chuyển tới các bệnh viện chuyên khoa, rửa dạ dày và theo dõi các thông số tim mạch-hô hấp.

Dùng flumazénil có thể có lợi để chẩn đoán và/hoặc điều trị quá liều do cố ý hoặc do ngộ độc zolpidem.

Sự đối kháng của flumazénil với tác dụng của zolpidem có thể làm dễ dàng xuất hiện các rối loạn thần kinh (co giật).

Cấp cứu chấn thương cột sống

I.   ĐẠI CƯƠNG

Chấn thương cột sống là một chấn thương thường gặp và là tình trạng cấp cứu đe dọa tính mạng, có thể để lại biến chứng, di chứng suốt đời. Ở Hoa Kỳ, tỷ lệ chấn thương cột sống xấp xỉ 50000 trường hợp một năm. Ở Việt Nam chưa có con số thống kê chính thức, tuy nhiên với tỷ lệ tai nạn giao thông rất cao ở nước ta chắc chắn tỷ lệ chấn thương cột sống không phải là nhỏ.

Theo các thống kê, đa số các bệnh nhân bị chấn thương cột sống đều đang ở trong độ tuổi lao động, chính vì vậy cấp cứu chấn thương cột sống nhanh chóng, đúng cách có thể giúp hạn chế tỷ lệ tàn tật, di chứng.

Các nguyên nhân thường gặp dẫn đến chấn thương cột sống:

  • Tai nạn giao thông 48%
  • Ngã cao 21%
  • Xung đột 15%
  • Chấn thương trong thể thao 14% Trong đó
  • Chấn thương cột sống cổ 55%
  • Cột sống ngực 15%
  • Cột sống thắt lưng: 15%
  • Cùng cụt 15%

Cơ chế chấn thương

  • Ưỡn cột sống quá mức
  • Ngửa cột sống quá mức
  • Do lực tác động từ bên vào cột sống
  • Do lực ép xuống theo chiều dọc cột sống
  • Do lực kéo dãn theo chiều dọc cột sống

II.   CHẨN ĐOÁN

2.1. Nguyên tắc khám cấp cứu trường hợp nghi ngờ chấn thương cột sống

  • Trong tất cả các trường hợp chấn thương cần coi như có chấn thương cột sống cổ
  • Khi khám cần bộc lộ và khám toàn bộ cột sống
  • Các bệnh nhân có thay đổi ý thức, say rượu, đa chấn thương cần duy trì các phương tiện cố định cột sống cổ cho đến khi có bằng chứng chắc chắn loại trừ chấn thương

2.2.  Triệu chứng lâm sàng

  • Đau vùng cột sống, đau tăng khi sờ nắn cột sống
  • Biến dạng cột sống
  • Các dấu hiệu đụng dập, bầm tím vùng cột sống
  • Liệt:

+ Tứ chi: cột sống cổ

+ Liệt 2 chi dưới

+ Liệt cơ hô hấp

+ Rối loạn cơ tròn

+ Cương dương

– Mất/giảm vận động, cảm giác ở chi

2.3.  Định khu tổn thương tủy sống

Vị      trí tổn thương  

Vận động

Cảm giác Phản xạ
C4 Cơ hoành/hô hấp Trên hõm ức  
C5 Cơ delta/nhún vai Dưới xương đòn Nhị đầu
C6 Cơ nhị  đầu/gấp khuỷu tay/ngửa cổ tay Ngón cái Nhị đầu
C7 Cơ   tam   đầu/        duỗi khuỷu tay Ngón giữa Tam đầu
C8 Cơ gấp/gấp ngón tay Ngón út  
T1 Gian đốt/ xòe ngón Mặt trong cánh tay  
T4 Cơ gian sườn/hô hấp Núm vú  
T8   Mũi ức  
T10 Cơ thẳng bụng Rốn  
T12   Gò mu  
L1/L2 Cơ     đái         chậu/duỗi hông Vùng trên đùi  
L3 Cơ tứ đầu/duỗi gối Vùng giữa đùi Bánh chè
L4 Cơ tứ đầu/duỗi gối Ngón chân cái Bánh chè
L5 Cơ duỗi ngón chân/gấp ngón chân cái Ngón giữa  bàn chân  
S1 Cơ nhị đầu và cơ dép/ duỗi bàn chân Ngón chân út Gân Achilles
S2/S3/S4 Cơ thắt hậu môn/ruột và bàng quang Đáy chậu Co  thắt hậu môn

2.4. Đánh giá chức năng vận động

Điểm                       Biểu hiện lâm sàng

0    Liệt hoàn toàn

  1. Nhìn thấy cơ mấp máy hoặc sờ thấy cơ vận động
  2. Không thể vận động kháng trọng lực
  3. Có thể vận động kháng trọng lực
  4. Giảm nhẹ, phát hiện khi bệnh nhân co cơ kháng trở lực
  5. Bình thường

2.5 Định khu tổn thương cột sống dựa vào Chức năng hô hấp

Mức độ giảm dung tích sống (VC)        Vị trí tổn thương cột sống tương ứng

95%                                                       Cột sống cổ, đoạn cao: C1-C4

75%                                                       Cột sống cổ, đoạn thấp: C5-C7

50%                                                       Cột sống ngực đoạn cao: N1-N9

0%                                                        Thấp dưới đốt ngực 10

2.6.  Các hội chứng tổn thương tủy sống

Hội chứng trung tâm:

  • Tổn thương trung tâm tủy sống
  • Tổn thương cảm giác vận động chi trên nhiều hơn chi dưới
  • Tổn thương vận động gốc chi nhiều hơn ngọn chi
  • Cảm giác bỏng rát ở hai chi trên

Hội chứng Brown-Sequard

  • Tổn thương một nửa tủy sống
  • Hay gặp trong vết thương xuyên thấu tủy sống hoặc u chèn ép ½ tủy sống
  • Mất vận động, nhận cảm rung, cảm giác bản thể cùng bên với tổn thương tủy
  • Mất cảm giác đau và cảm nhận nhiệt độ đối bên với tổn thương tủy

Hội chứng sừng trước

  • Tổn thương sừng trước tủy sống
  • Liệt vận động ( nhiều mức độ) và mất cảm giác đau ở vùng dưới tổn thương
  • Còn cảm nhận được rung động và cảm giác bản thể

Hội chứng sừng sau

  • Hiếm gặp
  • Tổn thường sừng sau tủy sống
  • Mất cảm giác ở vùng dưới tổn thương
  • Chức năng vận động ít bị ảnh hưởng

Hội chứng chóp tủy

  • Tổn thương tủy sống vùng cùng cụt
  • Bí đái do mất phản xạ bàng quang
  • Liệt vận động và mất cảm giác hai chi dưới ( nhiều mức độ)

Hội chứng đuôi ngựa

  • Do tổn thương các rễ thần kinh xuất phát từ cột sống thắt lưng cùng
  • Bí đái do mất phản xạ bàng quang
  • Liệt vận động và mất cảm giác hai chi dưới ( nhiều mức độ)
  • Mất phản xạ hai chi dưới

Hội chứng sốc tủy (spinal shock)

  • Thường xuất hiện sau khi tổn thương tủy sống 24h
  • Nguyên nhân do tổn thương tủy sống hoàn toàn
  • Mất toàn bộ phản xạ, cảm giác vận động dưới tổn thương
  • Đại tiện không tự chủ, bí đái, cương dương
  • Không liên quan đến giảm thể tích
  • Có thể phục hồi hoặc không phục hồi

Hội chứng sốc Thần kinh (Neurogenic shock)

  • Tổn thương tủy sống từ đốt ngực 6 trở lên
  • Tổn thương tủy sống gây mất trương lực giao cảm thành mạch và tụt huyết áp
  • Nhịp tim bình thường hoặc chậm
  • Biểu hiện dãn mạch ngoại biên

2.7.  Cận lâm sàng

  • Ngoài các xét nghiệm thường quy, các thăm dò chẩn đoán hình ảnh có giá trị lớn trong chẩn đoán và xử trí chấn thương cột sống
  • Các thăm dò chẩn đoán hình ảnh cần làm là:

+ Chụp XQ thường 3 tư thế: thẳng, nghiêng, há mồm

+ Chụp cắt lớp vi tính cột sống

+ Chụp cộng hưởng từ cột sống

+ Siêu âm phát hiện các tổn thương khác: Tràn dịch tràn máu màng phổi, chấn thương tạng, tràn máu ổ bụng

III.   XỬ TRÍ CẤP CỨU CHẤN THƯƠNG CỘT SỐNG

3.1. Xử trí cấp cứu tại khoa cấp cứu

a. Bất động cột sống cổ

  • Bất cứ trường hợp chấn thương nào cũng nên coi như có chấn thương cột sống cổ
  • Không nên vì các tổn thương “bắt mắt” khác như chảy máu, biến dạng chi mà quên cột sống, đặc biệt là cột sống cổ
  • Bất động cột sống cổ bằng nẹp cổ hoặc các phương tiện cố định tương đương

b. Khám ban đầu (thì 1) chú trọng vào đường thở, hô hấp, tuần hoàn (ABCDE) để phát hiện và xử trí ngay các tình trạng đe dọa tính mạng bệnh nhân

Xử trí đường thở:

  • Bảo đảm cột sống được bất động trong khi xử trí cấp cứu
  • Đặt nội khí quản (miệng/mũi), mặt nạ thanh quản
  • Mở khí quản cấp cứu qua màng nhẫn giáp nếu cần

Hỗ trợ hô hấp:

  • Phát hiện tràn khí màng phổi và chọc hút dẫn lưu khí cấp, nếu có
  • Bóp bóng qua nội khí quản
  • Thông khí nhân tạo
  • Oxy liệu pháp

Hỗ trợ tuần hoàn:

  • Đặt đường truyền tĩnh mạch. Trong trường hợp bệnh nhân nặng có thể đặt hai đường truyền lớn (14 – 16 G) hoặc đặt catheter TM trung tâm hoặc đường truyền trước xương chày
  • Truyền dịch tinh thể, dịch cao phân tử để bù khối lượng tuần hoàn trong trường hợp số Truyền máu và các chế phẩm máu trong trường hợp mất máu nặng
  • Cầm máu: băng ép, bất động chi gãy, garo …

Đánh giá tình trạng tinh thần kinh

Bộc lộ toàn bộ bệnh nhân, tránh bỏ sót tổn thương

c. Khám chi tiết (thì 2)

  • Khám chấn thương từ đầu đến chân, không bỏ sót các tổn thương khác
  • Tiến hành các xét nghiệm, chiếu chụp để xử trí tiếp
  • Hội chẩn với chuyên khoa ngoại chấn thương, chuyên khoa ngoại cột sống.

3.2.  Thuốc

  • Hiện nay chưa có thuốc điều trị giúp cải thiện tiên lượng của tổn thương tủy sống
  • Mục đích sử dụng các thuốc chủ yếu để hỗ trợ dự phòng tổn thương tủy sống thứ phát do giảm tưới máu, phù tủy…
  • Việc sử dụng corticoid trong chấn thương cột sống hiện vẫn còn chưa thống nhất và có nhiều ý kiến tranh cãi
  • Một số tác giả ủng hộ việc sử dụng corticoid rằng corticoid có thể giúp làm giảm tình trạng phù nề tủy sống nếu dùng liều cao trong 8 giờ đầ Liều lượng Methylprednisolone: Bolus 30mg/kg/15ph, duy trì 5,4 mg/kg/h x 23 h (The National Association of Spinal Cord Injury Studies)

3.3.  Các phương tiện cố định cột sống

  • Nẹp cổ

Luôn nhớ bất động cột sống cổ cho các trường hợp chấn thương, đặc biệt những chấn thương do lực tác động lớn, bệnh nhân thay đổi ý thức, trẻ em, người già, có triệu chứng nghi ngờ tổn thương cột sống

Trước khi đeo nẹp cổ: luôn bất động cột sống cổ bằng cách dùng hay tay giữ vững đầu và cổ bệnh nhân

Phải chọn cỡ nẹp cổ phù hợp. Nẹp cổ cỡ lớn quá không bảo đảm bất động cột sống, nẹp cổ cỡ nhỏ quá có thể làm tổn thương thêm cột sống

Nẹp cổ mềm không có tác dụng cố định cột sống

Khi tháo nẹp cổ, cần tuân thủ chặt chẽ các protocol

  • Cáng cứng

KHÔNG dùng cáng mềm để vận chuyển bệnh nhân chấn thương.

Sử dụng kỹ thuật log-roll để đặt bệnh nhân lên cáng cứng

Khi đặt bệnh nhân trên cáng cứng cần phải có các phương tiện (dây, đai) cố định (buộc) bệnh nhân chắc chắn. Lưu ý khi cố định phải cố định thân mình của bệnh nhân trước sau đó mới đến cố định đầu

Khi đến bệnh viện, chuyển bệnh nhân ra khỏi cáng cứng càng sớm càng tố Bệnh nhân nằm cáng cứng lâu hơn 2 giờ có nguy cơ cao bị loét do tỳ đè

  • Phương tiện cố định đầu

Chỉ dùng nẹp cổ không đủ hiệu quả bất động cột sống cổ Cần kết hợp nẹp cổ, cố định đầu và cáng cứng

Khi không có sẵn phương tiện cố định đầu, có thể sử dụng hai cuộn khăn tắm ( hoặc ga) để hai bên đầu bệnh nhân sau đó cố định bằng băng cuộn hoặc băng dính

3.5. Tháo bỏ các phương tiện cố định cột sống cổ tại khoa cấp cứu

a. Các bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng

Phải  có  đủ  các  tiêu  chuẩn  sau  mới  được  tháo  nẹp  cổ  (NEXUS Guidelines)

  • Không có các chấn thương gây chú ý khác (ví dụ chảy máu ngoài, gãy chi…
  • Không say rượu
  • Không có dấu hiêu TK khu trú
  • Không đau, nhạy cảm/cảm ứng cột sống cổ
  • Tỉnh đáp ứng tốt

b. Các bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng:

  • Luôn duy trì các phương tiện bất động cột sống cổ cho đến khi có bằng chứng loại trừ tổn thương

– Cần tiến hành các thăm dò chẩn đoán hình ảnh để xác định tổn thương

+ XQ 3 tư thế: trước-sau, bên, há mồm

+ CT

+ MRI

– Hội chẩn chuyên khoa ngoại chấn thương, phẫu thuật thần kinh, cột sống

c. Các bệnh nhân không đánh giá được

  • Các bệnh nhân này bao gồm

+ Bệnh nhân hôn mê

+ Bệnh nhân đặt NKQ, an thần

+ Bệnh nhân say rượu

+ Có vết thương chấn thương gây chú ý

Luôn duy trì các phương tiện bất động CS cổ cho đến khi có bằng chứng loại trừ đồng thời Theo dõi lâm sàng, Tiến hành các thăm dò chẩn đoán hình ảnh và Hội chẩn chuyên khoa tiến hành các thăm dò chẩn đoán hình ảnh

Tiêu chuẩn tháo phương tiện bất động cột sống cổ dựa vào lâm sàng (chỉ áp dụng cho bệnh nhân tỉnh hoàn toàn, Glassgow >14)

Vikas V. Patel, Evalina Burger 2010

Ghép phổi – Chỉ định và chống chỉ định

Chỉ định

Chỉ định ghép phổi được đặt ra vào giai đoạn cuối của một bệnh phổi hoặc bệnh mạch máu-phổi khi mà bệnh nhân (a) bị khó thở, (b) khó khăn mới chạy hết quãng đường 500-600m trong 12 phút, (c) chất lượng đời sống ngày càng xấu hơn, và (d) tuổi thọ ước lượng có thể được từ 6-18 tháng và tất cả mọi biện pháp điều trị khác đều không thể giải quyết nổi. Có 3 biện pháp phẫu thuật được xem xét: ghép tim-phổi, ghép một phổi, hoặc ghép hai phổi lần lượt.

Những bệnh có thể phải chỉ định ghép phổi

BỆNH PHỔI HẠN CHẾ

  • Bệnh xơ phổi vô căn với dung tích sống và dung tích toàn phổi (dung tính tổng cộng) < 40-50% , tăng huyết áp động mạch phổi thứ phát, đã được điều trị bằng các thuốc ức chế miễn dịch trong 6 tháng mà không hiệu quả.
  • Bệnh sarcoid.
  • Bệnh mô bào X.

CÁC BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN

  • Giãn phế nang trên cơ địa thiếu hụt alpha-l-antitrypsin
  • Bệnh phế quản-phổi tắc nghẽn mạn tính với lưu lượng thở ra đỉnh sau khi cho thuốc giãn phế quản đạt < 20-25% giá trị bình thường, tăng khí CO2 trong máu, PaO2 < 7,3 kPa, phải điều trị bằng liệu pháp oxy lâu ngày.
  • Bệnh nhày nhớt với lưu lượng thở ra đỉnh sau khi cho thuốc giãn phế quản đạt < 20-25% giá trị chuẩn, tăng khí CO2 trong máu, PaO2 < 7,3 kPa, liệu pháp oxy lâu ngày, ho ra máu nặng, gầy mòn.
  • Viêm tiểu phế quản tắc nghẽn.
  • Bệnh u bạch huyết-cơ trơn (bệnh của phụ nữ trong thời kỳ sinh đẻ, với các u cơ trơn phát triển trong phổi, trong các hạch bạch huyết và ống ngực).

NHỮNG TRƯỜNG HỢP CHỈ ĐỊNH KHÁC

  • Giãn phế quản cả hai bên.
  • Tăng huyết áp động mạch phổi nguyên phát với chỉ số tim < 2,01/phút/m2, huyết áp động mạch phổi trung bình > 60-80 mmHg, áp lực trong tâm nhĩ phải > 15 mmHg, bị ngất, và có những đợt suy tim nặng và tái diễn nhiều lần.
  • Hội chứng Eisenmenger.

Chống chỉ định

Suy thận (hệ số thanh thải creatinin < 50 ml/phút), suy gan (bilirubin > 35 pmol/l), suy tim trái, bệnh tạo keo, ung thư.

Biến chứng: phản ứng loại mảnh ghép (xem bài này), viêm tiểu phế quản tắc nghẽn mạn tính, điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch.

Tiên lượng: tỷ lệ sống thêm 1 năm là 70% , và sống thêm 3 năm là 55%.

Lây nhiễm bệnh Sổ mũi ngựa (tỵ thư) và phòng chống

Sổ mũi ngựa (tỵ thư) là một bệnh nhiễm khuẩn truyền từ động vật móng sang người.

TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀ CHẨN ĐOÁN BẰNG XÉT NGHIỆM

  1. Tác nhân gây bệnh là Actinobacillus mallei. Đó là một trực khuẩn nhỏ, đa dạng dài 5-7p không bắt màu Gram. Phát triển tốt trên môi trường dinh dưỡng thông thường và trên huyết thanh Loeffler phát triển tốt hơn trên môi trường có glyxerin. Không phát triển ở nhiệt độ dưới 20° và trên 45°.

Ở ngoài cơ thể người và động vật. Trực khuẩn Malleomyces mallei không bền vững. Trong nước và trong xác đang thối rữa, chúng sống 2 tuần trên các đồ vật và trong phân, chúng sống vài ngày, trong máu, mủ, chất nhày chúng sống vài tháng.

Trực khuẩn sổ mũi ngựa chết tương đối nhanh dưới ảnh hưởng của những yếu tố lý học và hoá học. Nếu phơi khô trong không khí thì vi khuẩn chết sau một vài ngày ; ở nhiệt độ 55°, chúng chết sau 10 phút. Trực khuẩn sổ mũi ngựa rất nhạy cảm với clorua vôi, cloramin, phenol.

+ Bệnh sinh và biểu hiện lâm sàng: Tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể người qua da bị tổn thương và qua niêm mạc (mắt, mũi, miệng) ; nghĩa là các niêm mạc nhìn thấy được. Các phương thức lây bệnh khác nhau ở người và động vật. Trong điều kiện tự nhiên, động vật thường bị lây qua đường tiêu hoá trong thực nghiệm, có thể làm lây bệnh cho chúng bằng những đường khác nhau ; qua da bị tổn thương, dưới da, tĩnh mạch.

Từ chỗ khu trú đầu tiên, tác nhân gây bệnh theo các đường bạch huyết vào dòng máu, sau đó đến sinh sản chủ yếu ở da và niêm mạc mũi và phế nang, gây ra những u hạt đặc trưng (nodula).

Người bị lây bệnh sổ mũi ngựa do tay bị nhiễm khuẩn. Sinh bệnh học ở người và sinh bệnh học ở động vật học đều giống nhau.

+ Bệnh có thể diễn biến cấp tính hoặc mạn tính. Trong thể cấp diễn (ở người) thời kỳ ủ bênh là từ 3-5 ngày đến 3 tuần, thông thường là 2 tuần. Trong thể kinh điển, thời kỳ ủ bệnh không thể tính được, vì không theo dõi được bệnh bắt đầu từ lúc nào. Trong thời kỳ ủ bệnh, người (và động vật) không làm lây bệnh.

+ Diễn biến lâm sàng khác nhau ở người và động vật. ở người, số trường hợp cấp diễn và kinh diên gần bằng nhau, ở động vật (ngựa) chủ yếu là thể kinh diễn (90%) tổng số các trường hợp mắc bệnh. Tại nơi xâm nhập của tác nhân gây bệnh, sẽ tạo ra một hạt nhỏ (nodula). Trong quá trình tiến triển của bệnh, hạt nhỏ qua các giai đoạn nốt sần màu đỏ tía, mụn nước, mụn mủ và nốt loét. Có viêm mạch hạch huyết và đôi khi có viêm bạch hạch. Nếu quá trình lại khu trú trong miệng hoặc mũi, thì sẽ có hiện tương viêm chảy, tiết ra rất nhiều chất nhầy đặc. Đồng thời có rét run và đau đầu, đau cơ, đau xương và khớp.

Trong giai đoạn mụn mủ và nốt loét, tác nhân gây bệnh bài xuất ra ngoài, cho nên người ốm có thể làm lây bệnh. Trước kia, tỷ lệ chết ở thể bệnh cấp diễn là 100% và ở thể kinh diễn là 40-50%.

  1. Chẩn đoán bằng xét nghiệm:

Lấy mủ và mảnh nội tạng để nuôi cấy và tiêm truyền cho chuột lang và mèo. Còn có thể làm phản ứng kết hợp bổ thể. ở động vật, người ta sử dụng phản ứng dị ứng với mallein.

QUÁ TRÌNH TRUYỀN NHIỄM

  1. Nguồn truyền nhiễm

Là các động vật ốm, chủ yếu là động vật một móng (ngựa, lừa) đôi khi là các thú rừng thuộc họ mèo (féline). Bệnh thường truyền từ ngựa sang người, tuy rằng đã có trường hợp bệnh lây từ người sang người (người chăm sóc bệnh nhân). Nguồn truyền nhiễm chủ yếu là ngựa, vì bệnh sổ mũi là bệnh phổ biến nhất ở ngựa ; bệnh ở ngựa thường là mạn tính (đôi khi không có biểu hiện rõ rệt) và người hay tiếp xúc với ngựa.

Thời kỳ ngựa (và người) làm lây bệnh bắt đầu từ khi có các biểu hiện lâm sàng (thời kỳ phát bệnh) cho đến lúc khỏi hoàn toàn những tổn thương ở da và niêm mạc (thời kỳ bệnh khỏi)

  1. Đường truyền nhiễm

Bệnh sổ mũi ngựa truyền từ động vật sang động vật qua thức ăn và nước uống. Bệnh sổ mũi ngựa không truyền qua không khí.

  1. Tính cảm thụ và tính miễn dịch

Trong điều kiện tự nhiên, loài người, động vật một móng (ngựa, lừa, la, ngựa vằn), động vật ăn thịt (họ mèo) và chuột lang đều tiếp thụ được

Miễn dịch sau khi khỏi bệnh chỉ là tương đối. ở động vật có trường hợp mắc bệnh lại, nhưng bệnh nhẹ hơn.

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ

Do cơ chế truyền bệnh từ động vật sang người phức tạp. Cho nên các trường hợp mắc bệnh sổ mũi ngựa có tính chất đơn phát. ít khi người bị mắc bệnh hàng loạt từ một nguồn lây.

Nghề nghiệp có vai trò rất rõ rệt trong việc lây bệnh. Người bị lây bệnh là do tiếp xúc trực tiếp với động vật ốm (coi ngựa, đánh xe ngựa, cưỡi ngựa, thú y sĩ, bác sĩ và y tá).

Tỷ lệ mắc bệnh cao ở đàn ông (80%) và ở lứa tuổi đang lao động. Điều này có liên quan đến việc hành nghề.

BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ CHỐNG BỆNH

  1. Phòng chống bệnh ở ngựa là quan trọng nhất. Các trạm vệ sinh phòng dịch phải có quan hệ chặt chẽ với các cơ quan thú y để tổ chức công tác chống bệnh.

Tại những vùng có bệnh, phải tiến hành công tác phát hiện ngựa bị bệnh sổ mũi. Nếu động vật có những biểu hiện lâm sàng rõ rệt, thì phải giết ngay. Để phát hiện ngựa bị bệnh tiềm tàng, kinh diễn, thì phải dùng các phương pháp xét nghiệm kết hợp khám cả đàn.

Có ý nghĩa thực tế hơn cả là thử nghiệm dị ứng với mallein (dịch lọc nước canh thang có 4% glyxerin, trong đó đã nuôi cấy actinobacillus mallei trong 4-8 tháng). Người ta dùng phản ứng mắt hoặc tiêm dưới da, trong da. Cơ thể bị lây bệnh sẽ cho một phản ứng tại chỗ rõ rệt khi tiêm mallein. Người ta còn dùng phản ứng kết hợp bổ thể và tiêm truyền cho chuột lang đực, nếu có nhiễm khuẩn thì sau 2-3 ngày, sẽ có viêm tinh hoàn.

Tất cả ngựa có phản ứng dương tính đều phải đưa vào trang trại nuôi riêng, ở đó chúng được theo dõi cách ly và đồng thời vẫn được sử dụng. Bất luận lúc nào, thể bệnh tiềm tàng ở chúng cũng có thể chuyển sang thể bệnh rõ rệt. Khi ấy, lập tức phải giết con vật mắc bệnh.

Nhân viên ở trại cách ly, theo dõi phải tuân thủ chế độ vệ sinh như mặc quần áo công tác, đi găng tay V.V..

  1. Đối với người bệnh

Phải đăng ký và phải cách ly ở bệnh viện tại phòng riêng của khu truyền nhiễm cho đến khi khỏi hết các triệu chứng lâm sàng.

Phải tẩy uế quần áo lót, chăn màn và đồ dùng của người bệnh. Những người chăm sóc người bệnh phải mặc quần áo công tác và đi găng tay. Khi bệnh nhân ra viện hoặc chết, thì phải tiến hành tẩy uế kết thúc.

Vì thể bệnh tiềm tàng có khả năng chuyển sang thể bệnh rõ rệt, cho nên những người ra viện phải được theo dõi y tế trong vòng một năm. Còn những người tiếp xúc với người bệnh cần phải theo dõi trong 15 ngày.

Triệu chứng dengue xuất huyết thể điển hình (độ II)

Triệu chứng Lâm sàng Sốt xuất huyết rất đa dạng vì những lý do sau:

  • Ở vùng có virut dengue lưu hành, virut dengue có thể gây nhiều thể bệnh: dengue cổ điển, Sốt xuất huyết thể nhẹ không điển hình (độ I theo TCYTTG), Sốt xuất huyết thể có xuất huyết (độ II theo TCYTTG), Sốt xuất huyết thể sốc nông và sâu (độ III và IV theo TCYTTG);
  • Một số địa phương vừa có virut dengue và virut Chikungunya lưu hành, như Thái Lan, Campuchia, Ấn Độ (HĐKHKT Bộ Y tế, 1969); trong một số vụ dịch phân lập được cả virut dengue và Chikungunya, như-vụ dịch 1963-1964 ở Cancuta có 2 đỉnh cao: đỉnh tháng 7-1963 do D2, đỉnhtháng 3-19 do Chikungunya; virut Chikungunya gây bệnh cảnh tương tự dengue cổ điển, nhẹ hơn Sốt xuất huyết.
  • Bản thân dịch Sốt xuất huyết cũng khác nhau ở mỗi nước, trong mỗi vụ dịch: ở Thái Lan, Malaixia gặp nhiều gan to hơn Philipin, và ít chảy máu cam nặng như Philipin; tại vụ dịch Sốt xuất huyết năm 1977 ở Bắc Việt Nam, xuất huyết niêm mạc và phủ tạng nhẹ hơn vụ dịch Sốt xuất huyết năm 1969, đau vùng gan và nôn cũng ít gặp hơn; tới nay chưa biết được đầy đủ Virus xuất huyết còn có bao nhiêu typ.
  • Do việc phân lập virut dengue và chẩn đoán huyết thanh chưa được ứng dụng rộng rãi, cho nên một số bệnh khác vẫn có thế nhầm với Sốt xuất huyết thể không điển hình.

Trong phần này, chúng tôi sẽ mô tả Sốt xuất huyết thể thông thường điển hình với những hội chứng chủ yếu của Sốt xuất huyết: nhiễm virut, xuất huyết, tim mạch, tiêu hoá và gan, thần kinh…

THỜI GIAN NUNG BỆNH

Nói chung ý kiến tương đối thống nhất: trung bình 4- 10 ngày theo Craig và Faust, 5-9 ngày theo Manson, 5-8 ngày theo Sabin, ngắn nhất là 3 ngày, dài nhất là 15 ngày; theo TCYTTG (hướng dẫn kỹ thuật, 1980): từ 3 đến 10 ngày, trung bình 4-6 ngày hoặc 2-7 ngày (TCYTTG, 1997). Ở Việt Nam, thời gian này trên thực tế thường là 4-8 ngày, dài nhất 15 ngày: trong vụ dịch dengue 1960, có 13 bệnh nhân là những người mới từ nước ngoài tới Hà Nội hoặc mới ở các tỉnh biên giới – nơi không có dịch – về Hà Nội từ 5 đến 8 ngày thì mắc bệnh (Bùi Đại, 1961); trong vụ dịch Sốt xuất huyết năm 1975, có 8 đơn vị bộ đội vừa đến đóng quân tại địa phương có dịch được 5 đến 15 ngày thì xuất hiện người bệnh đầu tiên, Võ An Dậu trong vụ dịch ở bản CR và bản ĐP (Tây Nguyên) năm 1972, gặp 2 trường hợp quân nhân về làng (ổ dịch) ngày 15-7 và 20-7, sau đó quay lại đơn vị ngày 17-7 và 23-7 và phát bệnh ngày 22-7 và 26-7 (nung bệnh 6-8 ngày với bệnh nhân 1, và 4-7 với bệnh nhân 2).

HỘI CHỨNG NHIỄM KHUẨN

Sốt là triệu chứng tiêu biểu nhất, có ở hầu hết bệnh nhân với 6 đặc điểm của sốt dengue.

 

Khởi phát tương đối đột ngột, có tiền chứng ngắn, sốt cao 38°c ngay từ ngày đầu và đạt nhanh đỉnh cao 39°-40°C sau 1 -2 ngày.

Triệu chứng bệnh sốt xuất huyết
Triệu chứng bệnh sốt xuất huyết

Thời gian sốt ở bệnh nhân dengue xuất huyết (tỷ lệ trên tổng số bệnh, nhân và số ngày sốt… Tổng kết tại 4 cơ sở điều trị, 1975).

  • Đại đa số sốt từ 39o trở lên (70-90%), tuy cũng có bệnh nhân chỉ sốt 38o.
  • Nhiệt độ thường dao động hoặc liên tục cao, xu hướng tăng về chiều và đêm (BS Nguyễn Hữu Bình, 1970…).
  • Khi giảm sốt, nhiệt độ giảm từ từ, hoặc có thể tụt nhanh trong một buổi, hoặc một ngày, có một số bệnh nhân (4-10%) nhiệt độ tụt xuống < 35°c
  • Một số bệnh nhân có sốt đợt 2 (10-20%) sau khoảng 1-2 ngày, sốt đợt 2 ngắn ngày hơn (2-3 ngày) và thấp hơn (38-3EP) so với đợt 1.

Những triệu chứng kèm theo sốt.

Kèm theo sốt, một số bệnh nhân có rét, tuy không thành cơn (72,5%; Đỗ Trọng Hải và cs. 1975), đại đa số có giãn mạch ngoại vi, mắt có tia đỏ (93-95%), mặt và da toàn thân ửng đỏ như người vừa tắm nước nóng già – dấu hiệu này chỉ rõ trong 1-2 ngày đầu, hầu hết đều kêu nhức đầu vùng trán và thái dương (92%), trong số này 76% có nhức đầu trong 1-3 ngày đầu, số còn lại nhức đầu kéo dài hơn (BS Bình, Khoa truyền nhiễm Bệnh viện Bạch Mai); có trường hợp vật vã vì nhức dữ dội hai hố mắt (BV 5/8, 1976); nhiều bệnh nhân chóng mặt choáng váng (20-60%; Đỗ Trọng Hải, 1975), tại Bệnh viện B trong 1546 bệnh nhân, có 60% phải dìu mới đi được do choáng váng chóng mặt (Bùi Xuân Bách và cs, 1970); choáng váng chóng mặt thường kèm theo vã mồ hôi và thấy ở những trường hợp sốt dao động, gần hầu hết đau ê ẩm mình mẩy, nhất là trong 2 ngày đầu (100%), chủ yếu đau mỏi ở cơ khớp chân tay và dọc sống lưng; Bệnh viện 5-8 gặp 34,1% bệnh nhân đau co rút cột sống hạn chế đi lại.

Theo tài liệu của QĐx, đau dọc lưng gặp ở 41,9%, đau gáy, cổ ở 17,9% và đau các khớp ở 20,6%, cộng lại có 80,4% bệnh nhân đau cơ khớp. Ngoài ra, một số bệnh nhân kêu hơi rát họng, đại đa số có họng đỏ – do xung huyết và giãn mạch chứ không phải viêm (Thông báo kỹ thuật về Sốt xuất huyết, TCYTTG, 1975, 1980, 1986). Triệu chứng hạch limphô sưng đau – một dấu hiệu phổ biến ở dengue cổ điển (98,4%) (Bs Nguyễn Châu, 1961, Bùi Đại và cs., 1961), nhưng ở dengue xuất huyết thì chưa được đề cập nhiều và tài liệu chưa thật thống nhất: tỷ lệ bệnh nhân Sốt xuất huyết có hạch sưng đau dao động từ 9% (Viện 108, 1969) đến 18,3% và 20,3% (Viện 5-8, 1975 và Bệnh viện B, 1969) cho tới 26,6% và 30% (Bệnh viện Bạch Mai, 1969 và Viện 175, 1975).

HỘI CHỨNG XUẤT HUYẾT

Xuất huyết dưới da

xuất huyết dưới da có 3 dạng: đốm xuất huyết phổ biến nhất, tiếp đến mảng xuất huyết (ecchymose), hãn hữu gặp u huyết (hématome).

  • Đốm xuất huyết bằng đầu ghim, màu đỏ, đường kính < 1 mm, có thể mọc thưa nhưng thường mọc dày. Đốm xuất huyết thưa mọc rải rác khắp cơ thể. Đôm xuất huyết mau mọc chủ yếu ở tứ chi, nhất là cẳng chân, cẳng tay, rất đều như đi tất. Có trường hợp đôm xuất huyết tập trung tụ lại thành từng đám dầy nhưng vẫn còn phân biệt được từng đốm. Hãn hữu có trường hợp xuất huyết dưới da theo dọc các tĩnh mạch tứ chi (Nguyễn Thượng Liễn, Nguyễn Hữu Lộc và cs, 1970).

Vị trí đốm xuất huyết phổ biến ở tứ chi, rồi đến ngực lưng bụng, ít hơn ở cổ mặt. Theo Bệnh viện Việt Nam-Cuba (Nguyễn Thượng Liễn và cs, 1970) và Võ An Dậu (1973), đốm xuất huyết thấy ở tứ chi 49%-60%, ở ngực lưng bụng 25,3-40%, ở cổ 10% và ở mặt 3,3-8%.

Đốm xuất huyết mọc chủ yếu trong giai đoạn toàn phát đang sốt cao vào ngày thứ 2-5; ở một số không ít bệnh nhân vào lúc nhiệt độ tụt xuống bình thường (ngày thứ 6,7,8) mới xuất hiện đồng loạt những đốm xuất huyết mọc dày Tất đều d cẳng chân, cẳng tay.

Quan sát 153 bệnh nhân tại QĐx thấy: đốm xuất huyết mọc trong 1-2 ngày đầu ở 61,4% bệnh nhân, trong ngày thứ 3-4 ở 27,4%, số còn lại 11,2% bệnh nhân có ban xuất huyết mọc từ ngày thứ 5 đến thứ 10. Hãn hữu có bệnh nhân mọc tới 3 đợt ban (Bùi Đại và cs, 1961).

Đốm xuất huyết lặn trung bình sau từ 2-4 ngày kể từ khi mọc (Viện 5-8, 1976), có 39,3% bệnh nhân đốm xuất huyết lặn ngày thứ 3-6 của bệnh, 49% vào ngày 7-10 của bệnh, và ở 11,7% mãi tới ngày thứ 11-16 mới lặn (BS Thiêm và Tụ, 1975). Sau khi lặn thường không để lại dấu vết trên da.

  • Mảng xuất huyết (ecchymose) là những đám xuất huyết bầu dục hoặc dài, có ranh giới tương đối rõ, đường kính 3-5cm có khi 10cm hay hơn, màu đỏ tím bầm, đôi khi hơi sưng, sờ rắn chắc. Ĩ.UỊ nhức, hay xuất hiện đ cẳng tay, cánh tay, bả vai, cẳng chân, đùi… chủ yếu quanh những mũi tiêm, những đoạn đo huyết áp, những vùng va chạm, những nơi gãi hoặc đánh gió. Mảng xuất huyết xuất hiện thường trong 2-5 ngày đầu, nhưng xuất hiện rải rác, không cùng một đợt như đốm xuất huyết; khác với đốm xuất huyết, mảng xuất huyết chuyển dần qua các màu tím xanh, vàng đậm, nhạt… và sau khi hết sốt hàng tuần mới lặn hẳn. Dạng đốm xuất huyết phổ biến hơn hẳn mảng xuất huyết, nhất là ở bệnh nhi mảng xuất huyết gặp ít hơn so với người lớn: trong 1546 bệnh nhi ở Bệnh viện B trong vụ dịch 1969 (Bùi Xuân Bách và cs, 1970), đốm xuất huyết có 91,4% và mảng xuất huyết chỉ gặp ở 2,7%; ngược lại trong 150 bệnh nhân người lớn ở Bệnh viện Việt Nam-Cuba, cũng trong vụ dịch 1969 (Nguyễn Thượng Liễn và cs, 1970), có 66,7% là đốm xuất huyết và 14,7% là mảng xuất huyết; trong vụ dịch 1975, tỷ lệ có mảng xuất huyết cao hơn so với vụ dịch 1969: tại bệnh xá Ex, trong 160 bệnh nhân người lớn gặp đốm xuất huyết ở 95,6%, mảng xuất huyết ở 58,1% (đều kết hợp với đốm xuất huyết), có 4,4% đến 12,7% bệnh nhân chỉ có da, niêm mạc ửng đỏ (QĐx 1975; Bệnh viện 5-8, 1976).
  • u huyết (hématóme): hãn hữu mới gặp; u huyết sưng vồng lên, đau, mặt da không đổi màu; Bệnh viện 5-8 năm 1976 gặp u huyết ở chi dưới khiến bệnh nhân không đi được, dễ nhầm với một viêm tắc tĩnh mạch. Bệnh viện B gặp một số bệnh nhân có u huyết ở đầu, khuỷu tay, cổ chân – nơi tiêm tĩnh mạch – làm hạn chế cử động (Bùi Xuân Bách và cs, 1970). u huyết là một triệu chứng có điều kiện tác động từ bên ngoài.
  • Kèm theo xuất huyết dưới da, nhiều bệnh nhân có dấu hiệu dây thắt hoặc véo da dương tính; một số bị ngứa gãi và đau rát từ 8,5% đến 20% (Nguyễn Lung, 1975; Đỗ Trọng Hải và cs, 1975) thậm chí 31,4% trong vụ dịch ở TSN (Nguyễn Xuân Nguyên, 1974).

Đáng lưu ý trong bất cứ một vụ dịch Dengue xuất huyết nào, đều có những trường hợp chỉ có da ửng đỏ toàn thân, không có xuất huyết dưới da, đây là thể nhẹ không điển hình; và có một số trường hợp chỉ có ban dát sẩn không,có xuất huyết dưới da (8% tại Viện 108 trong vụ dịch 1969 và 22,8% tại vụ dịch TSN, Bùi Đại và cs, 1970, Nguyễn Xuân Nguyên, 1974), đây là thể dengue cổ điển gặp ở những trường hợp nhiễm virut dengue lần đầu.

Bảng PHÂN BIỆT CÁC DẠNG XUẤT HUYẾT DƯỚI DA Ở BỆNH NHÂN DENGUE XUẤT HUYẾT

Dạng xuất huyết dưới da Đặc diểm Đốm xuất huyết Mảng xuất huyết u huyết
1 2 3 4
Mức độ phổ biến Phổ biến nhất 91,4%(a) 66,7% (b) Ú hơn, kết hợp với đốm xuất huyết 2,7% (a) 14,7% (b) Hiếm
Hình dạng Đầu ghim, đỏ, 1mm. Thưa hoặc dây Hình bầu dực tròn, đài 3-5- 10cm, đỏ tím hơi đau Khối, vồng, đau, da bình thường
Vị trí mọc Khắp toàn thân, chủ yếu ở tứ chi Vùng hay va chạm, nơi đo huyết áp, quanh mũi tiêm Chủ yếu ở nơi tiêm
Thời gian và cách xuất hiện Lúc sốt cao (ngày thứ 2,5) hoặc khi nhiệt độ tụt(ngày thứ 6,7,8) Mọc cùng 1 đợt Lúc sốt cao (ngáy thứ 2,5). Không cùng 1 đợt, thường có điều kiện va chạm Sau khi tiêm, ở thời kỳ sốt cao
1 2 3 4
Lặn Sau khoảng 2-4 ngày khi nhiệt độ giảm, không để lại dấu tích Chuyển dàn qua máu tim, xanh, vàng… lặn dần sau khi hết sốt nhiều ngày
Triệu chứng kèm theo Hay ngứa, dát Hay ngứa dát, có thể đau Ấn đau

Ghi chú.

(a) bệnh nhi (Bệnh viện R, 1969, Bùi Xuân Bách, 1970).

(b): ở bệnh nhân người lớn bệnh viện Việt Nam – Cuba; Nguyễn Thượng Liễn, 1970).

Xuất huyết niêm mạc

Là loại xuất huyết đứng thứ hai sau xuất huyết dưới da. Vị trí Xuất huyết niêm mạc theo thứ tự từ nhiều đến ít là: mũi, lợi, răng, lưỡi, mắt … Xuất huyết niêm mạc xuất hiện chủ yếu vào giai đoạn toàn phát từ ngày thứ 2 đến thứ 5, ít khi xuất hiện sau khi nhiệt độ đã trở về bình thường như một số trường hợp xuất huyết dưới da.

  • Phổ biến nhất là chảy máu cam: máu có khi rỉ ra rất nhanh, đa số chảy ở điểm mạch Kisselbach, nơi tập trung các mao quản đi sát niêm mạc mũi nhất; cũng có khi điểm xuất huyết lan toả, hoặc do thủ thuật: đặt ông thở oxy, ông hút đờm rãi đã cọ sát gây điểm xuất huyết ở mũi sau; lượng máu cam trung bình 100-200ml, có khi nửa lít, khó cầm máu bằng nhét bấc đơn thuần mũi trước, thường phải nút chặt từ hai phía
  • cả mũi sau, thậm chí dùng cả gelaspon và kết hợp điều trị nội khoa. Máu cam có thể tái diễn nhiều lần khi gặp điều kiện thuận lợi: cơn sốttăng, sốc phục hồi, mỗi lần đặt ống thông qua mũi… Có trường hợp bệnh nhi nuốt máu cam vào dạ dày, khi nôn ra thấy máu đọng đen kèm theo những cục máu dài như con giun (Bùi Xuân Bách).
  • Chảy máu lợi và chân răng hiếm hơn, gặp ở 1,7 đẽn 5,4% bệnh nhân.

Nếu tính trong tổng số bệnh nhân người lớn của toàn vụ dịch thì Xuất huyết niêm mạc chiếm từ 14% đến 23%: 15,7% bệnh nhân tại vụ dịch 1974 và Tàn Sơn nhất, 14% ở QĐa, 19,1% trong tổng số 4ÍT81 bệnh nhân của QĐc, 18-23% bệnh nhân ở QCf tại vụ dịch 1975, 22% bệnh nhân tại vụ dịch 1972-1973 ở Tây Nguyên (Nguyễn Xuân Nguyên, 1974; Võ An Dậu, 1973; Nguyễn Lung, 1975; Đỗ Trọng Hải, 1975).

Nếu chỉ tính trong số bệnh nhân người lớn điều trị tại một số bệnh viện thì tỷ lệ bệnh nhân có Xuất huyết niêm mạc hơi cao hơn, từ 19% đến 33%: 19% ở Viện 108 năm 1969 (Bùi Đại và cs, 1970), 25% ở K43 năm 1975 (Bs Phi, 1975), 26% ở Bệnh viện Việt Nam-Cuba, 1969, 33% ở ĐDT16.

ở bệnh nhi, tỷ lệ có Xuất huyết niêm mạc không cao hơn rõ rệt so với bệnh nhân người lớn: 5,4% chảy máu lợi và 28,3% chảy máu cam trong số 1545 bệnh nhi điều trị tại Bệnh viện B trong vụ dịch 1969 (Bùi Xuân Bách và cs, 1970); 1,7-2,2% chảu máu lợi và 16-31% chảy máu cam trong số 3625 bệnh nhi nằm tại nhiều trại của Bệnh viện nhi đồng 1 trong vụ dịch 1972-1973 ở miền Nam (Kỷ yếu Bệnh viện nhi đồng 1, 1974).

Xuất huyết phủ tạng

Nói chung ở bệnh nhân người lớn gặp ít hơn so với bệnh nhi, chiếm 1,9 đến 5,7% ở toàn vụ dịch và 13 đến 36% ở bệnh viện, đứng hàng thứ ba sau xuất huyết dưới da và Xuất huyết niêm mạc; có vụ dịch Sốt xuất huyết hoàn toàn không gặp Xuất huyết phủ tạng ở bệnh nhân người lớn (Nguyễn Xuân Nguyên, 1974); nhưng ở trẻ em thì Xuất huyết phủ tạng thường phổ biến hơn và chiếm từ 20,3% đến 42,1% hoặc hơn nữa (Bệnh viện B, 1969). Xuất huyết phủ tạng xuất hiện nhiều nhất ở ống tiêu hoá (nôn và ỉa ra máu), tiếp đến ở đường tiết niệu (đái ra máu), đường hô hấp (ho ra máu), tử cung (băng huyết, kinh nguyệt kéo dài), ở não và màng não (xuất huyết đốm ở não, màng não). Một số trường hợp nôn, ỉa ra máu đã lầm với loét dạ dày – tá tràng xuất huyết hoặc máu do nuốt phải máu cam, máu lợi. Phụ nữ đến kỳ kinh nguyệt mà bị Sốt xuất huyết dễ có kinh nguyệt kéo dài tới 7-10 ngày có khi trên 10 ngày vẫn chưa sạch kinh. Một số trường hợp đái ra máu đã nhầm là viêm cầu thận, sỏi thận.

xuất huyết phủ tạng thường xảy ra vào thời kỳ toàn phát của bệnh (ngày thứ 3,6), có khi xuất hiện sớm, từ ngày thứ 1,2 hoặc muộn với tiên lượng nặng ở những trường hợp sốc kéo dài.

Trong vụ dịch 1975, tại một đội điều trị của QCx, có 12% bệnh nhân Sốt xuất huyết ỉa ra máu, 6,6% nôn ra máu, 2% đái ra máu, 1,6% ho ra máu, và trong 8 bệnh nhân nữ đã có 3 bị hành kinh nhiều và kéo dài như băng huyết (Nguyễn Dung và cs, 1975). Trong vụ dịch 1969, Viện 108 có 13% xuất huyết phủ tạng bao gồm chủ yếu nôn ra máu, ỉa ra máu và 1 xuất huyết màng não, 1 xuất huyết não, 1 rối loạn kinh nguyệt (Bùi Đại và cs, 1970); tại Bệnh viện Việt Nam-Cuba có 14,7% bệnh nhân ỉa ra máu, 6,7% rong kinh và 4% đái ra máu. ở bệnh nhi, xuất huyết phủ tạng gặp nhiều hơn: tại vụ dịch năm 1973, trong 166 bệnh nhi của 1 trại thuộc Bệnh viện Nhi đồng 1, có 46,6% nôn ra máu. 64,4% ỉa phân đen (Nguyễn Tường Vân, 1974).

Kinh nghiệm cho thấy

  • Có một số trường hợp không Xuất huyết dưới da hoặc xuất huyết dưới da kín đáo, chỉ thấy da ửng đỏ, dễ nhầm với cúm.
  • Nhiều trường hợp có Xuất huyết kết hợp, xuất huyết dưới da có thể đơn thuần hoặc có thêm Xuất huyết niêm mạc và/hoặc Xuất huyết phủ tạng; Xuất huyết niêm mạc và Xuất huyết phủ tạng thường có kết hợp xuất huyết dưới da.
  • Nhưng đôi khi chỉ thấy Xuất huyết niêm mạc hoặc Xuất huyết phủ tạng đơn thuần mà không có xuất huyết dưới da, hoặc ngoài da chỉ là những đốm Xuất huyết thưa thớt nhưng bên trong là một Xuất huyết phủ tạng nặng lan toả d nhiều phủ tạng kể cả tim, não.
  • xuất huyết phủ tạng thường là tiên lượng nặng hơn Xuất huyết niêm mạc và xuất huyết dưới da; Xuất huyết phủ tạng muộn có tiên lượng dè dặt; tiên lượng của xuất huyết dưới da không tuỳ thuộc vào đốm Xuất huyết thưa hay mau; nhiều trường hợp xuất huyết dưới da rất thưa nhưng kèm theo sốc, và ngược lại có khi xuất huyết tiêu hóa mà không sốc.
  • Không thể coi nhẹ Xuất huyết niêm mạc, vì đã có trường hợp chảy máu cam ồ ạt gây tử vong sau 4 tiếng (BS Hải, Viện X, Nha Trang, 1975).

Bảng THỜI GIAN XUẤT HIỆN HỘI CHỨNG XUẤT huyết ở BỆNH NHÂN Sốt xuất huyết (So sánh xuất huyết dưới da, Xuất huyết niêm mạc, Xuất huyết phủ tạng)

Tại viện 108, 1969

Ngày 1 2 3 4 5 6 7 8> 9 Cộng
xuất huyết dưới da 19 20 19 9 67
xuất huyết niêm mạc 11 5 0 1 17
xuất huyết phủ tạng 7 4 0 2 13
Cộng 37 29 19 12 97
Tại Bệnh viện Bạch Mai, 1969

Ngày 1 2 3 4 5 6 7 8≥ 9 Cộng
xuất huyết dưới da 0 15 10 10 13 10 0 0 0 58
xuất huyết niêm mạc 0 15 26 16 13 3 3 0 0 77
xuất huyết phủ tạng 0 7 11 11 9 4 4 0 0 43
Cộng 37 47 37 35 17 5 178

Bảng TÌNH HÌNH HỘI CHỨNG XUẤT HUYẾT Ở BỆNH NHÂN Sốt xuất huyết (%)

Địa phương Tác giả %
Xingapo Goldsmith 65
Rudnick 62
Băng Cốc omchittlamsa Ard 70
Thành phố Vũ Thị Thoa Bệnh viện 70,6
Hồ Chí Minh nhi đồng, 1973 60-80
Hà Nội Đào Đình Đức 59
Bùi Đại và cs 68

Xem tiếp:

  1. Chẩn đoán, điều trị sốt dengue và sốt xuất huyết dengue
  2. Sốt xuất huyết thể không điển hình và điển hình
  3. Phân loại thể bệnh sốt xuất huyết
  4. Sốt xuất huyết thể sốc ( Dengue độ 3 và 4 )
  5. Sốt xuất huyết thể xuất huyết phủ tạng (độ 2b)
  6. Sốt xuất huyết thể não
  7. Sốt xuất huyết thể suy gan cấp
  8. Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố (hct)
  9. Những biến chứng của Sốt xuất huyết xuất
  10. Tiên lượng bệnh sốt xuất huyết
  11. Chẩn đoán bệnh sốt xuất huyết
  12. Nguyên tắc điều trị sốt xuất huyết
  13. Điều trị sốt xuất huyết độ 1 -2 (không có sốc)
  14. Điều trị sốt xuất huyết độ 1-2 bằng thuốc nam y học cổ truyền
  15. Triệu chứng hô hấp trong bệnh sốt xuất huyết
  16. Những biến đổi thể dịch của bệnh sốt xuất huyết
  17. Biện pháp phòng dịch sốt xuất huyết
  18. Đường lây truyền bệnh sốt xuất huyết dengue
  19. Cơ chế lây truyền bệnh sốt xuất huyết
  20. Triệu chứng dengue xuất huyết thể điển hình (độ II)
  21. Triệu chứng thần kinh trong sốt xuất huyết
  22. Hội chứng tim mạch trong sốt xuất huyết
  23. Triệu chứng tiêu hoá trong sốt xuất huyết

Triệu chứng, chẩn đoán, xử trí Sốc chấn thương

Sốc chấn thương là tình trạng suy sụp toàn thân kéo dài, xảy ra sau các chấn thương hoặc mổ xẻ lớn, thể hiện rõ nét trên lâm sàng bằng một hội chứng suy sụp tuần hoàn, trong đó lưu lượng tim thấp dẫn đến tình trạng không cung cấp đủ oxy cho tổ chức, cho nhu cầu cơ thể. Đây là một hội chứng cấp cứu ngoại khoa thường gặp, nếu không được xử lý kịp thời thì tỷ lệ tử vong khá lớn. Để điều trị một cách đúng đắn và tích cực sốc chấn thương, đòi hỏi phải có phương tiện thuốc men, dịch truyền, mổ xẻ và một kiến thức đầy đủ về bệnh nguyên và bệnh sinh của Sốc chấn thương .

MỘT VÀI NÉT VỀ SINH LÝ BỆNH CỦA SỐC CHẤN THƯƠNG

Có nhiều thuyết được nêu ra để giải thích sinh bệnh Sốc chấn thương

  • Thuyết tuần hoàn: cho sự giảm khối lượng tuần hoàn là yếu tố chủ yếu. Điển hình là mất máu, dịch do vỡ tạng đặc, gãy xương lớn; bỏng, trong mổ…
  • Thuyết nhiễm độc: sốc xuất hiện khi tháo ga rô, do tổ chức giập nát tiết ra chất độc tác động trực tiếp lên mạch máu, thần kinh.
  • Thuyết thầm kinh nội tiết: dưới tác dụng của strees gây ra phản ứng thần kinh – nội tiết, lúc đầu là phản ứng bảo vệ; sau đó stress kéo dài hoặc quá nhanh thì phản ứng mất bù và bị ức chế. Người mệt mỏi, căng thẳng, sợ hãi dễ bị sốc khi bị chấn thương.

Thuyết chu kỳ Moon: chia sốc làm 4 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Suy tuần hoàn do mất máu, nhiễm độc…

Giai đoạn 2: Cơ thể bù trừ bằng các phản ứng bảo vệ.

Giai đoạn 3: Mất bù, tuần hoàn lại suy sụp trầm trọng gây thiếu oxy tổ chức.

Giai đoạn 4: Thiếu oxy làm giải phóng độc chất, tác động lên mạc và thần kinh làm giãn mạch. Tăng thấm làm giảm tiếp khối lượng tuần hoàn.

Các rối loạn chức năng các cơ quan trong Sốc chấn thương

Tất cả các cơ quan trong cơ thể đều bị ảnh hưởng.

  • Tuần hoàn

Giảm khối lượng tuần hoàn là yếu tố quan trọng, đồng thời giảm cả dịch ngoại bào. Vì vậy điều trị phải nhanh chóng bù lại máu, dịch.

Rối loạn vi tuần hoàn: Chính ở vi tuần hoàn diễn ra những quá trình cơ bản của sốc. Các cơ thắt trước mao mạch co lại, các shunt động mạch mở ra, máu qua tổ chức ít, gây thiếu oxy, ứ đọng CO2, ứ đọng acid lactic nên mạch máu lại bị giãn trở ra, làm dòng máu chảy chậm lại, gây ngưng tụ huyết cầu, tăng thấm mạch, thoát dịch (gây cô máu). Sự co mạch và tăng độ nhớt máu sẽ làm tăng sức cản ngoại vi, làm tăng hậu gánh tim.

Hoạt động của tim: sốc kéo dài gây suy tim, do nhiều yếu tố: giảm lưu lượng mạch vành; cơ tim giảm đáp ứng với catecholamin; tăng ngưỡng nhậy cảm với thiếu O2 và sự có mặt của chất ức chế cơ tim (MDF) trong sốc. Do vậy trong Sốc chấn thương phải truyền dịch để máu bớt cô, không dùng thuốc co mạch mà có khi phải dùng thuốc giãn mạch.

  • Sự trung tâm hoá tuần hoàn để bảo vệ các tạng máu ưu tiên qua não; tim; co mạch ở phổi, thận; ruột, ngoài da.
  • Hô hấp

Co mạch và tăng áp mạch phổi → thoát dịch (phù phổi tắc mạch phổi do mỡ, xẹp phổi và phổi sốc).

  • Thận

Co mạch thận làm giảm lượng máu tối thận, áp lực lọc giảm gây thiểu hoặc vô niệu. Đồng thời do đông máu trong mạch thận nhanh chóng dẫn tới suy thận cấp.

  • Gan

Do co mạch làm gan thiếu oxy làm giảm khả năng chống độc, lọc vi khuẩn, và rối loạn quá trình đông máu.

  • Thần kinh và nội tiết

Do thiếu máu não, phản ứng của hệ limbic – dưới đồi – tuyến yên; sự tăng tiết Catecholamin cortisone… và môt loat các hormon khác.

Rối loạn đông máu

Thể hiện bằng tiêu sợi huyết CIVD nên khi điều trị và truyền máu tươi; cho A.Epsilon amino caproic

CHẨN ĐOÁN

Việc chẩn đoán xác định Sốc chấn thương phải hết sức nhanh chóng, đồng thời với nguyên nhân gây sốc để có thái độ xử trí thích hợp ngay, không để sốc kéo dài sẽ chuyển sang giai đoạn không hồi phục, điều này rất quan trọng trong chấn thương hàng loạt trong thời chiến hay thời bình.

Chẩn đoán xác định

Chủ yếu dựa vào lâm sàng. Các xét nghiệm chỉ nhằm theo dõi điều trị và kết quả. Chia 2 giai đoạn.

Sốc nguyên phát

Xảy ra sau chấn thương 10 phút hay 15 phút. Các triệu chứng thể hiện sự kích thích: bệnh nhân tỉnh nhưng vật vã nói nhiều. Da toát mồ hôi, lúc nhợt nhạt, lúc đỏ hồng.

Tăng phản xạ: tăng cảm giác đau. Phản xạ đồng tử tăng.

Huyết áp động mạch tăng cả tối đa và tối thiểu.

Huyết áp mạch tăng

Chẩn đoán giai đoạn này nói chung khó và ít giá trị trong thực tế.

Sốc thứ phát

Có thể sau sốc nguyên phát: hoặc xuất hiện từ đầu. Là loại sốc thường gặp. Bệnh nhân nằm yên, lờ đờ, thờ ơ với ngoại cảnh

Sốc mũi lạnh, tay chân lạnh, nhớp mồ hôi.

Huyết áp động mạch giảm và kẹt, có khi không đo được huyết áp tĩnh mạch trung ương (CVP) làm giảm các tĩnh mạch ngoại biên, tĩnh mạch cổ, bẹn… xẹp xuống.

  • Mạch nhanh nhỏ, khó bắt.
  • Giảm cảm giác, giảm phản xạ và trương lực cơ
  • Giảm thân nhiệt.
  • Đái ít hay vô niệu.
  • Bấm móng tay lâu hồng trở lại (rối loạn tuần hoàn vi mạch). Dựa vào các triệu chứng, nhâ’t là huyết áp động mạch chia sốc 3 cấp từ nhẹ tới nặng.
  • Sốc nhẹ: toàn trạng bình thường mạch 90-100 1/phút. Huyết áp HA tối đa 80-100 mmHg. Sốc có thể tự mất đi.

Sốc vừa: bệnh nhân bị ức chế, lờ đò, da niêm mạc nhợt, cảm giác và phản xạ giảm, huyết áp 40-80 mmHg, mạch 100-140 1/phút. Loại này không tự hồi phục nếu không điều trị kịp thời sẽ nhanh chóng chuyển sang thể nặng.

Sốc nặng: HA < 40 mmHg > 140 1/phút, thân nhiệt < 35° bệnh nhân nằm yên thời ơ ngoại cảnh hoặc mất tri giác, da niêm mạc nhợt nhạt; giảm phản xạ; đồng tử phản xạ giảm hoặc mất; thở nhanh nông hoặc loạn nhịp thở, thở Cheyne – stock tĩnh mạch toàn thân xẹp hết.

Cận lâm sàng

  • ít có tác dụng chẩn đoán xác định, chủ yếu để điều trị, theo dõi. Tuỳ điều kiện có thể làm từ đơn giản đến phức tạp.
  • CTM: HC ↓ Hb ↓ ; Hematocritt ↑ – nhóm máu, TS, TC số lượng tiểu cầu,
  • Glycemit: US; điện giải đồ.
  • pH máu ↓  pa CO2 ↑ paO2  ↓ ; dự trữ kiềm  ↓
  • Xét nghiệm đông máu: TEG, Vonlaulla; Etanol.
  • Các xét nghiệm này phải làm nhiều lần để theo dõi tiến triển của sốc và kết điều trị.

Chẩn đoán nguyên nhân

Thực tế thì thường do nhiều nguyên nhân cùng phối hợp.

Sốc mất máu

Có thể do mất máu ra ngoài (chảy máu tiêu hoá, vết thơng mạch máu, gãy xương lớn (đùi, chậu) hoặc chảy máu trong (vỡ gan, vỡ lách. GEU; vỡ tim… Thường mất 30% máu tươi mới thể hiện sốc. Tuy nhiên còn tuỳ thuộc tốc độ mất máu. Lâm sàng nổi bật là tình trạng mất máu da xanh, niêm mạc nhợt, mạch nhanh; HC giảm, đòi hỏi phải điều trị bằng cầm máu và truyền máu là chính.

Sốc do chấn thương chi thể

Có đa chấn thương, giập nát cơ rộng lớn. Các yếu tố giảm sốc là đau, mất máu, mất dịch. Điều trị bằng giảm đau, truyền máu và truyền dịch.

Sốíc trong chấn thương ngực phổi, ngoài nguyên nhân mất máu còn do rối loạn hô hấp, chèn ép tim (tràn máu, tràn khí màng phổi, màng tim); kích thích các trung tâm phản xạ ở phổi, màng phổi, cuông phổi.

Sốc do tháo garô

Thường khi đặt garô trên 2 giờ

Cũng chú ý trường hợp shock do tụ máu lớn sau phúc mạc. Ngoài yếu tố mất máu, ở đây còn do khối máu tụ kích thích vào phúc mạc là nơi có rất nhiều thần kinh (đám rối rụng dây giảm cảm)… Khối máu tụ còn gây trương bụng, cản trở hô hấp, do vậy sốc nặng thêm.

XỬ TRÍ

Nguyên tắc chung phải điều trị nhanh, sớm toàn diện và kiên trì. Việc theo dõi trong quá trình điều trị là hết sức quan trọng.

Ngay tại tuyến đầu: nơi chưa có nhiều phương tiện

Quan trọng là phòng sốc và không cho sốc nặng thêm

  • Chống suy hô hấp: bệnh nhân nằm ngửa, đầu nghiêng.

+ Móc sạch đất cát đờm rãi ở miệng mũi

+ Kéo lưỡi (nếu có tụt lưỡi) và đẩy xương hàm ra trước.

+ Hàm hơi thổi ngạt nếu tím tái, ngừng thở.

+ Bịt kín vết thương ngực hở bằng tay, gạc pince bằng nút Depage với vết thương ngực rộng.

  • Cầm máu tạm thời: băng ép, garô
  • Bất động: rất quan trọng các trường hợp gãy xương, vỡ tạng. Có thể bất động bằng nẹp, bằng băng gạc. Đây cũng là một cách giảm đau.
  • Giảm đau

Nhất là các trường hợp gãy xương, giập nát cơ lớn: tiêm Morphin; Dolargan; Aminazin hoặc phong bế tại chỗ: novocain, xylocain

  • Vận chuyển

Hết sức nhẹ nhàng, nhanh chóng và chỉ thực hiện sau khi 4 bưốc trên đã được làm tốt.

Điều trị thực thụ

Thứ tự việc cần làm ngay khi bệnh nhân vào viện

  • Đặt bệnh nhân ở tư thế an toàn: đầu thấp, nghiêng một bên (để tăng lượng máu lên não, tránh tắc mạch do khí khi đặt Catheter tĩnh mạch cảnh).
  • Lập ngay đường truyền tĩnh mạch, có thể 2 và 3 đường tĩnh mạch cảnh, tim bẹn; tim dưới đòn, tim chằng trước.
  • Lấy máu tĩnh mạch và động mạch thử hồng cầu Hb, Hematocrit, nhóm máu pH, P02, PC02

Đặt sonde đái theo dõi nước tiểu/giờ

  • Khám bệnh nhân một cách toàn diện nhưng phải hết sức nhanh chóng, không bỏ sót thương tổn, để quyết định thái độ xử trí ngay. Có khi phải vừa chống shock và mổ ngay (vết thương tim, vỡ tạng đặc và phải thăm dò kỹ cả trước và trong khi mổ).
  • Chống suy hô hấp

Thông đường hô hấp: hút sạch đờm rãi trong miệng, đặt canyl Mayo chống tụt lưỡi để đầu lưỡi, để đầu ngửa tối đa.

Giải phóng chèn ép phổi:

Đặt sonde dạ dày

Cố định mảng sườn di động và sườn gãy

Chọc hút, dẫn lưu khí, máu khoang màng phổi.

Mở ngực cấp cứu khi có chỉ định (rách khi phế quản lớn…)

Khi cần phải đặt nội khí quản hay mở khí quản.

  • Đảm bảo tuần hoàn

Lập 2-3 đường truyền tĩnh mạch, kim to. Tuy nhiên nếu bệnh nhân sốc nhẹ và không có chống chỉ định thì bù dịch bằng đường uống.

Nguyên tắc bù máu – dịch là mất bao nhiêu truyền bấy nhiêu, lượng truyền còn căn cứ vào huyết áp tĩnh mạch trung ương (CVP); Hematocrit, lượng nước tiểu và các điện giải máu.

Thường bắt đầu truyền dịch vì

  1. Dịch là phổ biến và có nhiều hơn máu
  2. Bao giờ trong sốc cũng có mất nhiều dịch.

Truyền máu có những nguy hiểm của nó, (sốíc do nhầm nhóm, viêm gan virus…)

Có nhiều loại dịch truyền khác nhau:

Tốt nhất là dịch Ringer Lactat (Na+, Ca++, Cl, lactat) với lượng = 5% trọng lượng cơ thể. ở bệnh nhân nặng khoảng 50 kg thì truyền khoảng 2000 – 2.500ml. Đây là dịch có thành phần giống dịch ngoại bào nên tác dụng chống sốc rất tốt.

Nếu không có Ringer thì dùng dung dịch muối đẳng trương ở viện Việt Đức, dùng dung dịch đẳng trương gồm NaCl 25g, glucose lOOg, nước cất vừa đủ lOOml

Có thể dùng dunị; dịch glucose ưu trương 30%, 50-100ml (cứ 5g gluocse cho thêm 1 đơn vị iníỉulin). Nhược điểm là đưa vào tĩnh mạch nhỏ, dễ gây viêm tắc tĩnh mạch, đái nhiều làm mất kali, hoặc dùng dung dịch cao phân tử Dextran.

Truyền máu và chế phẩm máu (Plasma khô, Plasma đông lạnh, Fibrinogen, Albumin).

Chỉ truyền máu khi có thiếu máu thật sự, Hematocrit < 30%

Tốt nhất truyền máu cùng nhóm.

Nếu không có, phải truyền máu 0 nhưng cho dưới 500ml; hoặc truyền khối hồng cầu 0. Tốt nhất là truyền máu tươi cùng nhóm vì ngoài hồng cầu chúng còn có các yếu tố đông máu; và chất 2-3 diglyxerophosphat cần cho việc nhả và giữ oxy của huyết cầu tố cho tổ chức.

  • Tốc độ và lượng truyền:

+ Khi HA động mạch và nước tiểu đều thiếu thì phải truyền nhanh, có khi cho thuốc trợ tim, hoặc có tràn khí, tràn máu màng phổi, màng tim phải được dẫn lưu ngay, giảm tốc độ truyền.

+ Nếu HA động mạch, CVP sau khi truyền đã lâu, ổn định nhưng sau đó lại tụt xuống, chứng tỏ chưa truyền đủ máu và dịch vẫn tiếp tục mất.

Trợ tim:

Khi đã bù dịch mà huyết áp động mạch vẫn thấp, CVP cao thì thường do suy tim. Phải dùng trợ tim liều trung bình: Uabain 1/4 mg; Digoxin 0,5mg. Nên dùng các thuốc này như một nguyên tắc đối với người có bệnh tim từ trước, với người già.

Nếu tuần hoàn chưa tốt lên, phải dùng isuprel, dopamie.

+ Isuprel, (isoproterenol: liều 0,1 µgkg/phút. Không dùng khi nhịp tim >130 1/phút.

+ Dopamine: 5-10 µ kg/phút. Dùng khi nhịp tim > 120 1/phút. Chú ý phải giảm thuốc từ từ.

  • Chống suy thận

Đặt sonde bàng quang: vô trùng tốt.

Khi HA ổn. CVP đã tốt mà chưa có nước tiểu: dùng lasix, có thể tới 19-24 ống/ngày, hoặc Manitol 20%, glycose ưu trương.

  • Nếu vẫn không được, phải ngừng truyền, hạn chế đưa dịch vào cơ thể.

Chạy thận nhân tạo khi us > 2 g/1; Creatinin máu lớn hơn 65 mg/1; K+ máu > 65 mEg/1. Không dùng thuốc kháng sinh, thuốc mê hại thận.

  • Điều chỉnh rối loạn kiểm toan, điện giải và đông máu

Trong sốc thường có toan chuyển hoá, sốc càng nặng thì toàn hoá càng nặng.

Khi có cả suy hô hấp thì có toan hỗn hợp.

Phải điều chỉnh khi pH < 7,3;

Thường dùng dung dịch natribicarbonat 8,4% (100ml); 5% (200ml); dung dịch THAM (300ml).

Rôi loạn đông máu: dựa vào tỷ lệ Prothrombin, Fibrinogen, Hovell; nghiệm pháp Von Kaulla, étamol TGE, TS, TC, tiểu cầu.

Truyền máu tươi cấp các yếu tố đông máu.

Heparin với CIVD.

  • Chống nhiễm khuẩn

Các thủ thuật đảm bảo vô trùng (sonde đái catheter).

Chỉ dùng kháng sinh khi có triệu chứng nhiễm khuẩn.

Tốt nhất có kháng sinh đồ. Nếu không có thì dùng kháng sinh phổ rộng

  • Mổ giải quyết nguyên nhân sốc

Các trường hợp không thể trì hoãn được, phải vừa hồi sức chống sốc vừa mổ ngay: vỡ gan lách, đứt mạch máu lớn, thủng tim, vỡ khí quản, xoắn ruột.

Các trường hợp trì hoãn được, tốt nhất là hồi sức cho sốc đi qua sau đó mối mổ: gãy xương lớn, dập nát phần mềm, thủng tạng rỗng.

Trong khi mổ không bỏ sót tổn thương là nguyên nhân làm sốc nặng thêm sau này.

  • Phòng bệnh

Thực hiện tốt công tác sơ cứu chống sốc ở ngay tuyến đầu sẽ giúp ngăn chặn sốc xảy ra hoặc không làm sốc nặng thêm.

Điều trị sốc một cách toàn diện, kịp thời. Nhất là không được bỏ sót thương tổn.

Xét thêm:

Cấp cứu ban đầu sốc chấn thương ở người lớn

Sốc chấn thương

KẾT LUẬN

Sốc chấn thương là cấp cứu ngoại khoa thường gặp. Để xử lý được tốt, giảm I tỉ lệ tử vong do sốc chấn thương, đòi hỏi phải có một kiến thức tổng hợp vững vàng về bệnh cũng như việc tăng cường trang thiết bị, thuốc men cho các cơ sở ngoại 11, khoa cũng là yếu tố quan trọng, góp phần cải thiện kết quả điều trị sốc chấn thương.

Ung thư thanh quản – Hạ họng

Trong bài này, đầu tiên chúng tôi đề cập đến những vấn đề chung của ung thư thanh quản và hạ họng như giải phẫu, sinh lý, dịch tễ, bệnh sinh, khám lâm sàng, khám cận lâm sàng, chẩn đoán, các nguyên tắc điều trị chung. Sau đó chúng tôi đề cập riêng từng loại ung thư với những đặc điểm của chúng.

  1. Đại cương

Ung thư thanh quản và ung thư hạ họng là những loại ung thư rất phổ biến trong Tai mũi họng, bệnh không những ảnh hưởng trầm trọng đến các chức năng thở, nuốt và nói mà còn có thể nguy hại đến tính mạng. Nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời có thể hạ thấp tỉ lệ tử vong một cách đáng kể.

  • Giải phẫu vùng hạ họng – thanh quản – cổ

1.1.1. Hạ họng

Họng là ngã tư giữa đường ăn và đường thở, gồm có 3 phần: họng mũi, họng miệng và hạ họng.

Hạ họng có ranh giới như sau: Phía trên là đỉnh của thanh thiệt, thông với họng miệng. Phía dưới thông với thực quản. Thành trước liên quan với thanh thiệt và thanh quản. Thành sau tương ứng với đốt sống cổ C4, C5, C6. Hai bên liên quan với các phần mềm ở cổ: cơ, mạch máu, thần kinh.

Cấu tạo của hạ họng từ trong ra ngoài, gồm 4 lớp:

  • Lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ở trong cùng, có chứa một số lượng lớn tuyến nhầy và nang lympho.
  • Lớp cân hầu trong.
  • Lớp cơ khít hầu.
  • Lớp cân hầu ngoài ở ngoài cùng.

1.1.2. Thanh quản

Thanh quản là một phần của đường hô hấp và là bộ phận chủ yếu của sự phát âm.

Thanh quản nằm ở giữa và phía trước của vùng cổ, dưới xương móng, trên khí quản. ở người lớn, bờ dưới thanh quản tương ứng với bờ dưới đốt sống cổ thứ 6.

Cấu tạo của thanh quản gồm có:

  • Khung sụn.
  • Các khớp và dây chằng.
  • Các cơ của thanh quản.
  • Niêm mạc.

1.1.3. Cổ

Cổ được phân chia khái quát thành 2 phần: phần cổ trước và phần cổ sau.

Phần cổ sau còn gọi là gáy, gồm các đốt sống cổ và các cơ liên quan.

Phần cổ trước còn gọi là khoang cổ, chính phần này mới liên quan đến Tai mũi họng.

Phần cổ trước được phân chia thành 2 tam giác cổ bởi các cơ vùng cổ, xương hàm dưới và xương đòn: tam giác cổ trước và tam giác cổ sau.

  • Tam giác cổ trước: gồm tam giác dưới hàm, tam giác cảnh và tam giác cơ.
  • Tam giác cổ sau: gồm tam giác chẩm và tam giác vai đòn.

1.2. Sinh lý vùng hạ họng – thanh quản

  • Hạ họng: có các chức năng nuốt, thở, phát âm.
  • Thanh quản: có các chức năng thở, phát âm và bảo vệ.

1.3. Giải phẫu bệnh học

  • Trên 95% là ung thư biểu mô dạng biểu bì (carcinome épidermoide).
  • Khoảng 5% còn lại bao gồm: u lympho ác tính không hodgkin, ung thư biểu mô tuyến.
  1. Dịch tể học

    • Ở Việt Nam

Cũng như ở các nước Âu Mỹ, ở Việt Nam ung thư thanh quản gặp nhiều hơn ung thư hạ họng với tỷ lệ xấp xỉ 3/1. Ung thư thanh quản – hạ họng đứng hàng thứ 2 sau ung thư vòm và chiếm tỉ lệ khoảng 20% trong các ung thư đường tiêu hóa-hô hấp trên.

Riêng ung thư thanh quản chiếm 4% trong các loại ung thư. Tuổi hay gặp nhất từ 45 – 65 tuổi. Nam gặp nhiều hơn nữ với tỉ suất là 5/1. Nghề nghiệp làm ruộng bị mắc bệnh cao, chiếm tỉ lệ đến 95%. Nông thôn gặp nhiều hơn ở thành thị.

  • Ở Pháp

Ung thư thanh quản: Chiếm 25% ung thư đường tiêu hóa-hô hấp trên, chiếm 2% tất cả các loại ung thư, chiếm 5% ở nam giới. Nam giới chiếm 93% K thanh quản.

Ung thư hạ họng: Chiếm 12% ung thư tiêu hóa-hô hấp trên.

  1. Các yếu tố nguy cơ

Ngoài các giả thuyết chung về ung thư, K thanh quản và hạ họng có các yếu tố nguy cơ sau:

  • Thuốc lá.
  • Rượu.
  • Loạn sản niêm mạc.
  • Có tiền sử tia xạ vùng cổ.
  • Các yếu tố khác: vệ sinh răng miệng kém, dinh dưỡng kém, virus, di truyền, nghề nghiệp có tiếp xúc với các chất độc hại.

4. Chẩn đoán

4.1. Tình huống phát hiện

Các dấu hiệu chung giúp phát hiện ung thư thanh quản, hạ họng tùy thuộc vào vị trí và sự lan tràn của khối u, bao gồm:

  • Đối với ung thư thanh quản: Khàn tiếng kéo dài là dấu hiệu quan trọng nhất. Khó thở khi khối u đã to. Nếu khối u lan vào hạ họng sẽ có thêm các triệu chứng của ung thư hạ họng và được gọi là ung thư thanh quản – hạ họng.
  • Đối với ung thư hạ họng: nuốt khó, nuốt đau, đau tai phản xạ. Nếu khối u lan vào thanh quản sẽ có thêm các triệu chứng của ung thư thanh quản và được gọi là ung thư hạ họng – thanh quản.
  • Chung cho 2 loại ung thư: hạch cổ, thể trạng gầy sút.

Nhất là khi các dấu hiệu trên xuất hiện ở người lớn tuổi (nhất là nam giới), nghiện thuốc lárượu, không đáp ứng với các điều trị thông thường.

4.2. Khám lâm sàng

Trước hết cần khám tổng quát, khám mũi, khám tai, khám vòm mũi họng, khám răng; sau đó khám hạch cổ và khám họng-thanh quản.

  • Khám hạch cổ

Mô tả chi tiết vị trí, kích thước, mật độ, tính nhạy cảm, tính chất di động của hạch cổ. Các dãy hạch cổ cần khám kỹ gồm: dãy cảnh, dãy dưới hàm và dưới cằm, dãy gai, dãy cổ ngang, các hạch giữa trước thanh-khí quản. Sau đó phân loại hạch cổ theo TNM.

Thanh quản, nhất là tầng thanh môn, có mạng lưới bạch huyết nghèo nàn. Do đó, trong ung thư thanh quản, hạch cổ thường bị di căn muộn, tiên lượng khá hơn.

Hạ họng có mạng lưới bạch huyết phong phú. Khi ung thư, hạch cổ thường bị di căn sớm nên tiên lượng xấu.

Chú ý:

+ Một hạch > 3 cm luôn luôn vỡ bao về mặt mô học.

+ Cần khám tuyến giáp khi khám cổ.

  • Khám họng-thanh quản
  • Soi thanh quản-hạ họng gián tiếp.
  • Một số trường hợp đặc biệt, cần dùng đến ống soi mềm đặt qua mũi.

Khi soi cần quan sát kỹ mọi bất thường của niêm mạc để phát hiện khối u, sự di động của đáy lưỡi, sự di động của dây thanh và sụn phễu.

  • Chú ý khám ngăn giáp-móng-thanh thiệt và đánh giá tình trạng răng miệng.

4.3. Khám cận lâm sàng

  • Nội soi toàn bộ

Dùng ống soi cứng với gây mê để nội soi toàn bộ gồm: hạ họng, thanh quản, thực quản, phế quản, vòm mũi họng; qua đó tiến hành sinh thiết u.

Chú ý phát hiện khối ung thư thứ hai, nhất là ở thực quản và phế quản.

  • Sinh thiết

Chẩn đoán xác định ung thư phải dựa vào sinh thiết để xét nghiệm giải phẫu bệnh.

  • Chọc hạch cổ

Chọc hạch cổ xét nghiệm tế bào để xác định sự di căn của khối u vào hạch.

  • Chẩn đoán hình ảnh
  • Chụp CT scan vùng cổ là xét nghiệm rất có giá trị để đánh giá khối u và sự xâm lấn đến các tổ chức ở sâu (sụn giáp, khoang giáp-móng-thanh thiệt), đồng thời có thể phát hiện được các hạch nhỏ ở vùng cổ.
  • Chụp phim phổi để phát hiện di căn phổi.
  • Chụp phim răng toàn cảnh để đánh giá tình trạng răng.
  • Phim X quang vùng cổ ít có giá trị.

4.4. Chấn đoán phân biệt

Cần phân biệt ung thư thanh quản với u nhú , lao hoặc giang mai ở thanh quản và hạ họng.

  1. Nguyên tắc điều trị

Có sự phối hợp của 4 phương pháp điều trị: phẫu thuật, tia xạ, hóa chất và miễn dịch.

5.1. Phẫu thuật

  • Đối với khối u: Ưu tiên hàng đầu là cắt bỏ rộng khối u cả khối, tôn trọng ranh giới an toàn, kế đến là bảo tồn hoặc phục hồi tái tạo chức năng của vùng họng-thanh quản.

Trường hợp đặc biệt: ung thư 1/3 giữa ở một dây thanh còn di động tốt, không có hạch cổ. Điều trị: Cắt dây thanh đơn thuần hoặc xạ trị với 70 Gy, kết quả khoảng 90% sống trên 5 năm.

  • Đối với hạch cổ: Phẫu thuật nạo vét hạch cổ cùng một thì với cắt bỏ khối u.
    • Tia xạ

Xạ trị từ xa với 70 Gy ở liều điều trị và 50 Gy ở liều bổ sung.

  • Hóa chất

Hiệu quả của hóa chất trong điều trị ung thư thanh quản – hạ họng vẫn còn đang tranh cãi. Hai hóa chất thường được dùng là Cisplatine và 5 Fluoro-uracyl, chuyền TM, liều lượng 4-6 ngày / tuần / 3 tuần.

  • Miễn dịch trị liệu

Hiện nay chưa có phương pháp điều trị miễn dịch đặc hiệu đối với 2 loại ung thư này.

Điều trị miễn dịch không đặc hiệu nhằm làm tăng sức đề kháng chung của bệnh nhân.

  1. Một số đặc điểm của ung thư thanh quản

    • Yếu tố nguy cơ

Ngoài thuốc lá và rượu, cũng như các yếu tố nguy cơ đã nêu ở phần chung, cần chú ý các thương tổn sau: các bệnh lý thanh quản mạn tính, bạch sản hoặc sừng hóa thanh quản, u nhú thanh quản, polype dây thanh ở người già.

  • Triệu chứng cơ năng

Khàn tiếng kéo dài là dấu hiệu quan trọng nhất. Khó thở thanh quản chỉ xuất hiện khi u đã to. Khó nuốt chỉ xuất hiện khi khối u đã lan ra hạ họng.

  • Triệu chứng thực thể
  • Soi TQ gián tiếp, nội soi TQ bằng ống soi mềm hoặc cứng: nhằm đánh giá sự lan rộng của khối u, sự di động của 2 dây thanh và 2 sụn phễu.
  • Hạch cổ chỉ thấy ở giai đoạn muộn, thường ở dãy cảnh giữa cùng bên với tổn thương.
    • Triệu chứng toàn thân

Khó thở tăng dần làm bệnh nhân gầy sút, thiếu oxy, nhiễm độc.

  • Các thể lâm sàng theo vị trí

Thanh quản được chia thành 3 tầng: Trên thanh môn, thanh môn và hạ thanh môn.

Sự phân bố của ung thư theo vị trí: Trên thanh môn 45%, thanh môn 45%, hạ thanh môn 5%, phối hợp nhiều tầng 5%.

  1. Một số đặc điểm của ung thư hạ họng

    • Triệu chứng cơ năng

Bệnh bắt đầu bằng nuốt khó, nuốt đau. Khàn tiếng và khó thở khi khối u lan rộng vào thanh quản.

  • Triệu chứng thực thể
  • Soi TQ gián tiếp, trực tiếp: giai đoạn đầu thấy xoang lê ứ đọng nước bọt và có tổ chức K. Giai đoạn muộn u lan rộng ra toàn bộ xoang lê, hạ họng và lan vào thanh quản.
  • Khối u cũng có thể lan rộng, ngoài thâm nhiễm vào cánh sụn giáp và da vùng cổ.
  • Hạch cổ thường xuất hiện sớm ngay từ giai đoạn đầu của bệnh, thường ở vị trí dãy cảnh giữa ngang tầm xương móng.
    • Triệu chứng toàn thân

Thể trạng suy kiệt dần do ăn uống kém, do thiếu oxy, do nhiễm độc bởi ung thư.

  • Các thể lâm sàng theo vị trí

Hạ họng được chia thành 3 vùng: Xoang lê, vùng sau nhẫn-phễu, thành sau.

Sự phân bố của ung thư theo vị trí: Xoang lê 85%, vùng sau nhẫn-phễu 1-2% (thường xâm lấn đến miệng thực quản), thành sau 5-10%.

  1. Tiên lượng

Nếu ung thư còn khu trú thì tiên lượng tốt. Ung thư thanh quản có tỉ lệ sống > 5 năm từ 6085%. Ung thư hạ họng có tiên lượng xấu hơn ung thư thanh quản 3-4 lần.

  1. Phòng bệnh

Ngoài các biện pháp dự phòng nói chung như đối với ung thư vòm, cần chú ý đối với những người trên 40 tuổi bị khàn tiếng, nuốt vướng và nuốt đau kéo dài trên 3 tuần, không có triệu chứng viêm nhiễm hoặc đã điều trị 1 đợt kháng sinh không đỡ thì phải cảnh giác một ung thư thanh quản hoặc ung thư hạ họng. Ngoài ra, cần hạn chế thuốc lá và rượu.

Thuốc amprenavir là gì và nó hoạt động như thế nào (cơ chế tác dụng)?

Thuốc này đã bị ngừng sản xuất kể từ tháng 10 năm 2007.

Amprenavir là một loại thuốc uống được sử dụng để điều trị nhiễm trùng virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV). Nó thuộc một nhóm thuốc gọi là ức chế protease, trong đó có indinavir (Crixivan), nelfinavir (Viracept), ritonavir (Norvir) và saquinavir (Invirase, Fortovase). Khi nhiễm HIV, virus HIV nhân lên bên trong các tế bào của cơ thể. Các virus được giải phóng từ các tế bào và lan ra khắp cơ thể, nơi chúng lây nhiễm cho các tế bào khác. Theo cách này, nhiễm HIV được duy trì trong số các tế bào mới mà cơ thể liên tục sản xuất. Trong quá trình sản xuất các virus, các protein mới được tạo ra. Một số protein là protein cấu trúc, tức là những protein tạo thành cơ thể của virus. Các protein khác là enzyme sản xuất DNA và các thành phần khác cho các virus mới. Protease là enzyme tạo thành các protein cấu trúc và enzyme mới. Amprenavir chặn hoạt động của protease và dẫn đến sự hình thành các virus khuyết tật không thể lây nhiễm vào các tế bào của cơ thể. Kết quả là, số lượng virus trong cơ thể (tải lượng virus) giảm xuống. Tuy nhiên, amprenavir không ngăn chặn việc truyền HIV giữa các cá nhân và không chữa khỏi nhiễm HIV hoặc AIDS. Amprenavir được FDA phê duyệt vào tháng 4 năm 1999.

Tên thương mại nào có sẵn cho amprenavir?

Agenerase (Đã ngừng sản xuất)

Amprenavir có sẵn dưới dạng thuốc generic không?

GENERIC CÓ SẴN: Không

Tôi có cần đơn thuốc để sử dụng amprenavir không?

Tác dụng phụ của amprenavir là gì?

Các tác dụng phụ phổ biến nhất bao gồm đau đầu, yếu ớt, tiêu chảy, buồn nôn và đau bụng. Amprenavir cũng có thể gây ra các phản ứng da nghiêm trọng và làm tan huyết. Propylene glycol trong dung dịch uống có thể gây ra co giật, hôn mê, nhịp tim tăng, rối loạn chuyển hóa và suy thận. Giống như các ức chế protease khác, việc sử dụng amprenavir có thể liên quan đến sự phân phối lại hoặc tích tụ mỡ trong cơ thể, tăng cholesterol và làm trầm trọng thêm bệnh tiểu đường.

Liều lượng cho amprenavir là gì?

Liều khuyến cáo dựa trên độ tuổi, cân nặng và dạng bào chế. Những cá nhân từ 4-12 tuổi hoặc từ 13-16 tuổi và nặng dưới 50 kg nên nhận 22,5 mg/kg hai lần mỗi ngày hoặc 17 mg/kg ba lần mỗi ngày của dung dịch uống hoặc 20 mg/kg hai lần mỗi ngày hoặc 15 mg/kg ba lần mỗi ngày của viên nang.

Những cá nhân từ 13-16 tuổi nặng 50 kg trở lên và những người lớn hơn 16 tuổi nên nhận 1400 mg hai lần mỗi ngày của dung dịch uống hoặc 1200 mg hai lần mỗi ngày của viên nang.

Liều tối đa hàng ngày là 2800 mg. Viên nang và dung dịch amprenavir không thể thay thế cho nhau theo tỷ lệ mg. Dung dịch uống chỉ nên được sử dụng khi không thể dùng viên nang.

Amprenavir có thể được dùng cùng hoặc không cùng với thức ăn. Tuy nhiên, các loại thực phẩm giàu chất béo có thể làm giảm khả năng hấp thụ amprenavir và nên được tránh.

Amprenavir có an toàn để sử dụng khi tôi đang mang thai hoặc cho con bú không?

Chưa rõ liệu amprenavir có được bài tiết vào sữa mẹ hay không. Tuy nhiên, các bà mẹ nhiễm HIV không nên cho con bú vì nguy cơ lây truyền HIV cho một đứa trẻ không nhiễm bệnh.

Tôi còn cần biết gì khác về amprenavir?

Các dạng bào chế của amprenavir có sẵn:

  • Viên nang: 50 mg và 150 mg
  • Dung dịch: 15 mg/ml

Tôi nên bảo quản amprenavir như thế nào?

Viên nang và dung dịch uống nên được bảo quản ở nhiệt độ phòng, từ 20°C đến 25°C (68°F đến 77°F).

Tóm tắt

Amprenavir (Agenerase – thương hiệu đã ngừng sản xuất) là một loại thuốc được chỉ định để điều trị các nhiễm trùng do virus suy giảm miễn dịch ở người (HIV). Các tác dụng phụ, tương tác thuốc và thông tin an toàn khi mang thai nên được xem xét trước khi sử dụng loại thuốc này.

Phát hiện gãy xương do loãng xương qua Xquang

Chụp X quang quy ước là phương pháp đánh giá tình trạng mất xương và loãng xương có độ đặc hiệu thấp. Tuy nhiên X quang quy ước có vai trò quan trọng chẩn đoán gãy xương.

Khi mật độ xương đạt đến đỉnh cao nhất bắt đầu có xu hướng giảm dần tại thời điểm nào đóXác định chẩn đoán gãy xương trên phim chụp X quang vùng cổ tay, cổ xương đùi, khung chậu, và xương đùi là tương đối đơn giản, không khó.

Việc chẩn đoán xác định gãy cột sống khó khăn hơn vì các lý do sau:

-Phần lớn các bệnh nhân gãy xương đốt sống do loãng xương không có triệu chứng và thường không được khám và chụp phim X quang để chẩn đoán.

-Hình dạng của thân đốt ở vùng giữa và phía trước – sau khác nhau, do đó không dễ xác định sự biến đổi có tính chất bệnh lý của thân đốt, biến đổi đó có ý nghĩa về lâm sàng và sinh lý bệnh học của loãng xương.

Có 3 thể gãy đốt sống:

-Gãy kiểu thấu kính 2 mặt lõm.

-Gãy hình chèm.

-Xẹp lún toàn bộ đốt sống.

Thực tế lâm sàng những thay đổi hình dạng cột sống có thể quan sát được khi khám có ý nghĩa quan trọng. Nhưng những biến đổi kín đáo, mức độ biến dạng nhẹ rất khó xác định.

Những tình huống khác cũng có thể gây gãy lún đốt sống như viêm lồi cầu, thoái hóa khớp cũng cần phải chẩn đoán loại trừ. Trên phim chụp cũng có thể thấy hình ảnh giảm mật độ xương chứng tỏ có hiện tượng mất xương. Mặc dù đây là sự đánh giá mang tính ước lượng, phụ thuộc nhiều yếu tố kỹ thuật như: sự tiếp xúc, cùng độ tia chụp v.v…

Giảm mật độ xương thường là dấu hiệu của mất xương mới.

Tìm hiểu sâu sắc về Phương thuốc Bổ của y học cổ truyền

Bổ ích tễ chủ yếu là điều trị hư chứng, chính là dùng thuốc tư bổ, cường tráng tạo thành, để bổ ích khí, huyết, âm dương của cơ thể, từ đó mà bài thuốc khiến tiêu trừ hoặc cải thiện 1 loại hư chứng. Đây là khái niệm tạo ra thành phần bài thuốc, tác dụng của bài thuốc để điều trị hư chứng, có thể là loại trừ một phần hoặc khỏi hoàn toàn, có thể mức độ cải thiện khác nhau.

Căn cứ lý luận hướng dẫn của thuốc bổ ích, “hư giả bổ chi”, “tổn giả ích chi”, “hình bất túc giả ôn chi dĩ khí, tinh bất túc giả bổ chi dĩ vị”. Căn cứ biện chứng phân biệt khí huyết âm dương tân dịch tinh, vì chỗ bất túc mà tạo thành các loại chứng bệnh, thì thông qua bổ ích tễ để tiến hành điều trị. Ở đây giải thích được câu “ Lao giả ôn chi”. Vì lao thì thương khí, tiêu hao khí, “lao tắc khí hao”, nên phải dùng thuốc cam ôn để bổ khí.

Phân loại của thuốc bổ ích khá nhiều, có thể căn cứ vào nguyên tắc phối ngũ phân làm 4 loại.

Vừa bàn về mục đích của bổ ích tễ là trị hư chứng, thành phần của nó là lấy thuốc tư bổ cường tráng là chính. Trong phương tễ cũng phần nhiều dùng đến thuốc bổ, bắt đầu từ thuốc giải biểu, trong nhiều bài thuốc cũng dùng thuốc bổ ích. Ví dụ trong thuốc phù chính giải biểu cũng có thuốc ích khí, trợ dương, tư âm, bổ huyết. Trước đây khi nói đến vấn đề này cũng nói quá lên chút, trong bài thuốc như vậy dùng thuốc bổ ích không phải là bổ hư, mà là vì chính khí hư mà có ngoại tà, xem xét không qua thuốc bổ ích phù trợ chính khí để khứ tà, hoặc xem xét dùng bài thuốc khứ tà tuy khứ bệnh, nhưng khiến chính khí thêm hư. Phối ngũ thuốc bổ ích đều là từ mục đích như vậy mà xem xét. Do đó trước đây thuốc bổ ích trong sách vở đều thuộc khứ ta. Từ lý luận trên mà nói, không chỉ xác định chính xác vị trí phối ngũ của nó, càng là trên vị trí phối ngũ quyết định đến lượng dùng của nó. Ví dụ: trong công bổ kiêm thi luôn đề cập đến làm sao phối ngũ nhân sâm và đại hoàng, tỷ lệ lượng dùng đều đưa ra 1 số ở giữa để tham khảo, số ở giữa này, căn cứ của nó, xuất phát điểm của nó là để giải quyết khi thực tà, tuy một mặt tồn tại chính khí hư, nhưng không phải qua phương tễ như vậy, ứng dụng cái gọi là phương pháp công bổ kiêm thi tức khứ tà, mà bổ hư chỉ là qua phối hợp phù chính để đạt mục đích khứ tà. Như vậy vấn đề này hoàn toàn khác với bổ ích tễ. Mục đích của bổ ích tễ rất rõ ràng, chính là trị hư. Nếu không, mục đích không rõ,  chọn thuốc, định lượng để tạo thành phương tễ đều có vấn đề, hoặc để lại điều trị sai, mà lại là nguyên nhân bệnh chứng ngày càng nặng.

Bổ ích tễ trên lâm sàng điều trị là một phương pháp lớn
Bổ ích tễ trên lâm sàng điều trị là một phương pháp lớn

Bổ ích tễ trên lâm sàng điều trị là một phương pháp lớn, là một phương diện lớn. Vì khi cơ thể hư, nếu không hiểu được dùng phương pháp bổ, không biết dùng bổ ích tễ để điều trị, thì hư sẽ không phục hồi được, hư không hồi phục được, không đơn giản chỉ là vấn đề sức khỏe còn có thể nguy hiểm đến tính mạng. Trước đây có câu “Bất năng trị kỳ hư, an vấn kỳ dư ?”  Đương nhiên câu nói này nói quá tính quan trọng của Bổ ích tễ. Các phương pháp chữa bệnh đều có đặc điểm, giá trị riêng, nhưng có thể giải thích từ đây, bổ ích tễ điều trị hư chứng trên lâm sàng rất thường dùng, trong điều trị là một trong các phương pháp điều trị chủ yếu. Ngoài ra còn cần suy xét một chút, trước đây cũng đưa ra nhiều lần, chúng ta khi điều trị một bệnh, cần suy xét đến hai phương diện. Hư chứng tất nhiên dùng bổ, cái này rất rõ ràng, Nhưng không phải hư chứng tức tái gọi là “ đại thực hữu luy trạng” và một bộ vị nào đó hư cũng cần suy xét vấn đề. Trước đây đưa ra một nguyên tắc trị “hữu giả cầu chi, vô giả cầu chi, thịnh giả tác chi, hư giả tắc chi”, khi xem một bệnh đều cần xem xét bệnh nhân có hư chứng không, hư ở đâu? Chỉ sau khi xem xét rõ cái này, khi dùng thuốc tâm lý mới có thể khác được. Trước đây trong các phương tễ thương đưa ra, có phương tễ không thể muốn là được ngay, muốn bệnh nhân mau phục hồi mà thêm lượng nhiều, đó là phiến diện, lại tạo thành hiệu quả không tốt. Ví dụ: phát hãn quá nhiều gây ra vong dương, thương khí, thương tân. Tả hạ cũng như vậy, đặc biệt khi nhiệt kết, một mặt chính hư không xét ra, chỉ lo xét trong bụng có nhiệt kết, mà dùng lượng lớn đại hoàng, vốn nên dùng 3 tiền, sau khi sử dụng bội thêm thì đau giảm, nhưng một khi ta hạ xong chính khí cũng theo đó mà thoát ra. Nên khi điều trị, cần qua kinh nghiệm nhiều lần. Ngoài ra, cụ thể dùng thuốc cũng nhiều lần đề cập đến, thuốc có 1 vấn đề chia làm 2, thuốc trong điều trị có đặc thù của nó, có khi tác dụng không chỉ là một, do đó còn cần xem xét tác dụng khác của nó và điều trị hiện tại có đều thích hợp không. Nếu như bản thân thuốc dùng quá thì chính là khuyết điểm. Do đó vấn đề này đều là câu hỏi mang tính nguyên tắc. Trong khi học phương tễ, làm sao lĩnh hội, làm sao nẵm rõ kinh nghiệm dùng thuốc của tiền nhân, cũng chính là nói đến quy luật phối ngũ, ở phương diện này đều cần xét kỹ. Do vậy hôm nay đưa ra vấn đề này, 1 là nói rõ ý nghĩa quan trọng của bổ ích tễ trị hư, 1 là nói rõ trong điều trị nên làm sai nhìn nhận hư.

Bên dưới đơn giản bàn 1 chút về bổ có mấy phương pháp, chính là giảng nghĩa phần trên đã đưa ra, có bình bổ, tuấn bổ, chính bổ, tương sinh bổ.

Đầu tiên bàn một chút câu “tổn kỳ phế giả ích kỳ khí” trong “ Nội kinh”. Căn cứ ngũ tạng tiến hành bổ là một phương pháp chính bổ, chính là nói nơi nào hư thì bổ nơi đó. Vì phế chủ khí toàn thân, người khí hư đầu tiên phế khí bất túc, vì phế cơ thể có thể nhân chân khí của trời, lại không thể khiến tinh vi trong đồ ăn hóa thành khí, khí của nó vốn ở tỳ, vị, nguồn từ thận. Do đó khí một khi hư, nguồn của nó một khi bất túc, đầu tiên biểu hiện là phế khí bất túc, nên trên góc độ này đưa ra “ Tổn kỳ Phế giả ích kỳ khí”, đồng thời cần chú ý “hư tắc bổ kỳ mẫu”. Đây là dựa vào đặc điểm của công năng ngũ tạng mà đưa ra. Ngoài ra, vấn đề này không thể lý giải phiến diện, đối với Trung y mà nói cần lý giải trong mối liên hệ đa phương diện. Ví dụ: Bách hợp cố kim thang, Mạch môn đông thang, Phế có vấn đề gì không? Phế ngoài khí ra còn có vấn đề phế âm không? có vấn đề của Âm hư phế táo không? Nên ở đây nhấn mạnh đặc điểm của nó, “tổn kỳ Phế giả ích kỳ khí” chính là đưa ra đặc điểm, là phương diện chủ yếu cần suy xét, nhưng không phải là phương diện duy nhất. Câu này đều là như vậy. Ở đây cần bàn về cái gọi là “ tương sinh bổ” có phải là chính bổ. Từ câu vừa nói trên cũng lý giải được, Bách hợp cố kim thang là bổ gì vậy? Ngoài trừ đàm chỉ khái huyết ra, nó là phế thận âm hư, nó là bổ phế thận. Ngoài bổ phế ra, đầu tiên là dùng Sinh địa, Thục địa bổ thận, đây chính là dựa vào vấn đề liên quan tạng phủ mà ra. Ví dụ, vừa nói đến “ Tổn kỳ Phế giả ích kỳ khí”, có khí không bổ phế mà bổ tỳ, vì thổ có thể sinh kim, nên áp dụng phương pháp bổ thổ (tỳ) sinh kim (phế). Còn tiết tả lâu ngày của tỳ hư hàn, không cùng biện pháp kiện tỳ, mà dùng biện pháp ôn thận dương, bổ hỏa mệnh môn, tức phương pháp bổ hỏa sinh thổ. Trong thuật ngữ này có nội dung cụ thể của nó. Nội dung cụ thể chính là dựa vào liên hệ tương sinh tương khắc của tạng phủ, mối liên hệ này vô cùng mật thiết. Đây cùng chính là vận dụng lâm sàng thuyết “ chỉnh thể thống nhất” và “ khi trị bệnh lấy người làm gốc” của Trung y.

Còn có 1 loại chính là không phải trực tiếp bổ vào bộ phận có bệnh, hư nhược mà là bổ bộ phận khác, khiến bộ phận này đầy đủ, phục hồi. Đây là dựa vào lý luận tương quan tạng phủ, cũng là chính là cái gọi là học thuyết tương sinh mà ra. Đây là phương pháp thường dùng trong bổ ích tễ. Ngoài ra, còn có vấn đề bình bổ. Bình bổ chính là hoãn bổ, là bệnh tuy nghiêm trọng nhưng không nguy cấp, có thể đồng thời áp dụng thủ pháp bình hòa, xem xét mọi mặt, khiến cơ thể hư nhược dần có thể sung thực, khỏe lại. Ví dụ, Trước đây nói về tứ nghịch thang trong hồi dương cứu nghịch, nói nó là bổ tễ cũng được, nó cũng là bổ dương, nó là tình trạng âm thịnh dương vi, dương khí muốn thoát. Trong tình trạng như vậy rất nguy hiểm, cần cấp tốc cứu nguy. Nhưng trong tình trạng bình thường thì cần suy xét mối tương quan của nó.  Bổ âm và dương có mối liên hệ gì, bổ khí và huyết có mối liên hệ gì? Vừa rồi liên tục đề cập đến, thuốc thường có lọi thì cũng có hại, cái lợi của nó dùng thái quá cũng là cái xấu. Dùng thuốc nhiệt của bổ dương tất nhiên thương âm, khi không cần thiết, nếu dùng lượng nhiều thì dẫn đến âm hư. Trước đây cũng nói qua về vấn đề này. Có khi âm hư mà dương phục hồi là còn tốt, nếu âm hư mà dương còn chưa phục hồi thì sẽ biến thanh một vấn đề lớn.

Vấn đề thứ hai, có những thứ bổ một chút là được, có những thứ không phải bổ một chút mà sinh ra. Bổ âm cũng tốt, bổ huyết cũng tốt, vật hữu hình không phải là vừa bổ cái là có thể sung thực, phục hồi được, nó là từ từ mà sinh ra, nên gọi “ huyết hữu hình không thể sinh ra nhanh, khí vô hình làm vững mau được” . Trong tình trạng này, cũng chỉ có áp dụng phương pháp bình bổ, khiến nó từ từ hồi phục. Ngoài ra, vừa nhắc đến tứ nghịch thang, hãy giải thích tại sao chia nó thành khứ hàn tễ mà không chia là bổ dương tễ? từ mấy điểm điều trị hư chứng vừa nói, mục đích điều trị của nó khác nhau. Tác dụng của tứ nghịch thang là hồi dương cứu thoát, và không thể khiến hư dương của nó thoáng cái đã phục hồi, đã sung thực. Do đó khi dùng bổ, Trung y dùng trung dược nhấn mạnh Vương đạo, thái quá bất cập đều là bệnh, không thể thiên (nghiêng về), không đến khi nguy cấp, dùng thuốc bổ lại gây bất túc, không gây hữu dư. Thực tế trong các phương tễ điều trị đều là tình trạng này. Trước đây đưa ra đại độc trị bệnh, thường độc trị bệnh, tiểu độc trị bệnh, vô độc trị bệnh. Vô độc trị bệnh cũng chỉ là 10 bỏ đi chín, chính là dưới sự trợ giúp của dược lực khiến bệnh nhân dần khôi phục công năng bản thân, từ đó hoàn toàn khỏe lại. Đây chính là vì sao cần dùng thuốc bình bổ, không phải tuấn bổ, chính là nói trong tình trạng khác nhau áp dụng thủ pháp khác nhau. Thương đều áp dụng phương pháp bình bổ, khi nguy cấp cần cấp trị, như vậy mới cần tuấn bổ.

Ngoài ra còn bổ sung quan điểm một vài cá nhân. Trung dược gọi là bổ, “ Hình bất túc giả ôn chi dĩ khí” cũng tốt, “ tinh bất túc giả bổ chi dĩ vị” cũng tốt, một vài thuốc “ huyết nhục hữu tình chi phẩm” trong Trung dược có thể bổ được tinh huyết của con người cũng tốt, mục đích chủ yếu là đó, Trung y trị bệnh là duy trì, khôi phục, tăng thêm năng lực sinh trưởng. Khí hư cũng khỏi, Huyết hư cũng khỏi, Dương hư cũng khỏi, Âm hư cũng khỏi, nói lợi dùng khả năng của tự cơ thể bạn khiến cơ thể bạn duy trì, phục hồi, nâng cao sức khỏe lên, nhưng không phải bạn nói bạn thiếu máu tôi cho bạn máu, cũng không phải là nói vị thuốc này có mối liên hệ trực tiếp nào đó với thành phần huyết dịch, phương tễ bổ huyết nói ở đây chính là như vậy. Do đó nó khiến sinh cơ, chính khí tức công năng sinh lý của cơ thể từ từ hồi phục lại. Cũng chính vì vậy nên hiệu quả của điều trị hư chứng bền vững. Ví dụ đơn giản như: khi điều trị thiếu máu thiếu sắt bằng Trung y, vị thuốc nào có sắt không biết được, nhưng căn cứ biện chứng luận trị, sau khi cho thuốc lập phương, hồng cầu sẽ tăng lên, đồng thời tăng lên không ngừng, cho đến khi khôi phục bình thường, đồng thời ổn định thì dừng, không dễ tái phát lị. Trung y dùng thuốc không phải là thiếu cái gì thì cho cái đó, mà xem xét đến nguyên nhân thiếu gì, từ nguyên nhân để điều chỉnh, khiến nó trở lại bình thường, để nâng cao lên. Đây cũng  là nguyên nhân vì sao mọi người bàn về tuấn bổ và bình bổ. Do đó có khi vội vàng không được, chỉ là vội vàng còn sinh ra cái xấu.

Còn có tình trạng Trung y dùng phương pháp bổ có 1 tranh luận, rút cục là tiên thiên là chỉ hay hậu thiên là chủ? Rút cục là bổ tỳ hay bổ thận là tốt? Vì trong học phái của Trung y có 2 loại, một là nhấn mạnh bổ tỳ không bằng bổ thận, vì hậu thiên cần dựa vào tiên thiên, chính là đề cao vấn đề hỏa sinh thổ, nhưng cũng có người nói, tiên thiên được dựa vào hậu thiện, vì hậu thiên đồ ăn hóa thành tinh khí. Do đó, đối với vấn đề này với cách giảng nghĩa của Trình Chung Linh trong “ y học tâm ngộ” nói khá đáng tin, chính là không lý luận trên khái niệm hư luận, mà là khi điều trị lấy chứng là xuất phát điểm, là dựa vào khách quan. Nếu thận không hư chí là tỳ hư, thì bổ thận, tuy tỳ thận có liên quan, nhưng không phải nói tỳ hư thì tất nhiên thận hu, hoặc ngược lại nói thận hư tất nhiên tỳ hư, đây đều không phải là tất nhiên.  Do đó cần lấy chứng là chủ, không hư thì không bổ, cái gì hư bổ thì bổ cái đó, cả hai đều hư thì bổ đồng thời cả hai.

Bên dưới bàn vấn đề vận dụng thuốc bổ ích tễ nên chú ý. Điểm thứ nhất, cần chú ý thực sự là hư chứng dùng thuốc bổ ích. Trong cơ sở lý luận cũng nói đến vấn đề giả hàn, giả nhiệt. “ Đại thực có thể trạng gầy” tức bệnh đại thực có thể sản sinh ra chứng trạng giả hư, nên nhấn mạnh cần biện rõ ràng nguyên nhân ở đây.  Đặc biệt hư cũng có thể sinh ra tình trạng giả thực, lấy tình trạng ở trên mà nói, như Đới dương tận quản là giả nhiệt, nhưng rất giống thực chứng, nhiệt quyết rất giống hư chứng. Nên vấn đề này cần xem xét rõ ràng. Vì ở đây liên quan đến vấn đề cần lưu ý thứ 2. Sau khi biện chứng chính xác hư chứng, cần xem có ngoại tà không. Thường nói nên tiên khứ tà hậu bổ hư, trong tình trạng nào đó, cũng có thể hư thực cùng chữa. Ví dụ này trước đây đã nói rồi. Trước đây nhấn mạnh phù chính giải biểu cũng khỏi, công bổ kiêm trị cũng khỏi, sau đó 1 vài phương tễ khác cung đều đều tình trạng này, tức trị hư cùng trị thực. Nhưng có 1 điểm, không phải quên trị thực, mà là nói không quên khứ tà, không phải dùng bổ hư thuần túy. Chỉ có hư chứng thuần túy mới có thể cùng bổ ích tễ, có tà thường khứ tà trước, khi cần thiết mới dùng, nên dùng đồng thời cùng thuốc khứ tà. Trong tình trạng đặc thù mới có thể bổ hư để cố thoát, chính là nói khi bệnh đã nguy cấp rồi, để cáp cứu có thể bổ hư trước. Còn 1 trường hợp đặc thù, chính là hư của bệnh nhân khá nghiêm trọng, nhưng bị tà không nặng, cã ngoại tà nhưng ngoại tà không nghiêm trọng, thông qua bổ hư thì có thể khứ tà. Như bổ trung ích khí thang thì có thể trị khí hư ngoại tà.

Còn cần vấn đề là bổ hư, bổ hư một khi bất đầu thì cần đặt ra vấn đề khí, huyết, âm, dương. Danh từ trên có thể phân chia, để tiện cho  việc học tập cũng như có thể phân chia nó rõ ràng, thực tế trên lâm sàng bệnh không xuất hiện dựa trên phân chia, đây là 1 vấn đề. Vấn đề thứ hai, qua lý giải nhiều lần chúng ta đã biết khí huyết âm dương thứ tương hỗ nhau. Khí huyết vốn là khác từ cùng loại, âm dương cũng chuyển hóa lẫn nhau, do đó bệnh khí huyết âm dương là ảnh hưởng lẫn nhau. Khi nó xuất hiện rõ chứng bệnh, thì cần kiêm trị, khi chưa xuất hiện chứng trạng cần chú ý bổ khí không thương huyết, bổ âm không thương dương. Ngược lại cũng như vậy, bổ huyết không thương khí, bổ dương không thương âm. Cân chú ý là khi khí huyết đều hư, hoặc âm dương đều hư, trong điều trị cần phân rõ chủ thứ. Trên thực tế lấy mấy điểm quy kết làm 1, chính là cần phân rõ chủ thứ, biện chứng cần chính xác, mới có thể khiến bổ ích tễ được mạnh hơn, được chuẩn hơn.

Lại có điểm này, “ bổ” có tranh luận bổ tỳ bổ thận. Ý này cần phải hiểu, chính là nói dùng bổ cần bảo vệ vị khí. Chúng ta thường nói bổ khí phòng ủng, tư âm phòng trệ. Thuốc bổ âm thì trệ, thuốc bổ khí nhiều vị cam ôn, cam hoãn thì khí ủng, sau khi khí ủng sự thăng giáng bị ảnh hưởng, sau khi tư trệ sự thu nạp và vận hóa bị ảnh hưởng. Sự thăng giáng, thu nạp bị ảnh hưởng, đầu tiên chính là tác dụng của thuốc phát huy bình thường, nhiều lần sẽ ảnh hưởng đến sự hấp thu thủy cốc tinh vi. Vừa rồi nhấn mạnh bổ ích là để duy trì nó, khôi phục nó, nâng cao nó khiến nó tự sinh, đây là chủ yếu. Nếu công năng chủ yếu của “ tự sinh” sau khi ảnh hưởng  liên tiếp thì không đạt được mục đích, thậm chí sinh thêm cái xấu khác, nên cần chú ý bảo vệ vị khí.

Trước đây đã nói đến dùng bổ trung ích khí có tiêu chí khách quan, ngoài tự khôi phục ra, là cần quan sát ngay bệnh nhân ăn cơm, nhìn ăn cơm là thấy tăng thêm hay giảm đi rồi.

Tăng thêm rồi thì rõ ràng hiệu quả tốt, rõ ràng thuốc dùng đúng rồi, nếu sau khi uống thuốc bổ rồi không muốn ăn cơm, nếu không phải do nguyên nhân khác, thì xem xét là nguyên nhân ở chỗ nào. Gọi cái đó là nguyên nhân khác, là chỉ bệnh nhân vốn vị không tốt mà lại bị lạnh, hoặc vì vui vẻ ăn nhiều, còn do vị không tốt lại ăn quá nhiều…tạo thành cảm giác không muốn ăn gì. Loại bỏ các nguyên nhân này, nếu không phải do nguyên nhân khác thì cần xem xét có phải thuốc dùng quá mức không, hoặc là thuốc dùng không đúng rồi. Vì Trung y rất nhấn mạnh ăn uống, trước đây có câu “ tướng chúc nhập vị tắc hư giả hoạt”. Bệnh nhân hư, chỉ cần ăn cháo thì có thể sống, rõ ràng vị khí anh ta vẫn còn. Còn có câu “an cốc tắc xương”. Còn “vô độc trị bệnh, thấp khứ kỳ cửu, cốc nhục quả thái, ẩm dưỡng tận chi. Vô sử quá chi, thương kỳ chính dã.” Điểm này là cần chú ý. Một là khi điều trị hư chứng, cần bảo bệnh nhân chú ý nơi sinh hoạt, thận trọng ăn uống, giữ tinh thần, tránh giận dữ. Dùng câu nói này chính là làm việc và nghỉ ngơi hợp lý, cảm xúc thư sướng, không nói nghỉ ngơi tuyệt đối, nhưng làm việc và nghỉ ngơi căn cứ vào tình trạng thể dục của anh ta cần nghiêm túc, mức độ tùy người mà khác. Nên bệnh nhân có thời gian tự rèn luyện được không, khi này cần căn cứ vào tình trạng thể chất bệnh nhân mà tiến hành tập luyện. Không phải vừa nghe chạy đường dài tốt là bảo bệnh nhân mỗi ngày chạy 10km, nên cần căn cứ vào tình trạng cụ thể của bệnh nhân mà định. Đây chính là cái gọi là giữ tinh thần. Giữ tinh thần, trước đây còn có câu “ thanh tâm quả dục”, chính là không vọng tưởng, một là không tư tưởng không phân tán, một là làm không làm chuyện không tưởng, mà không phải kêu gọi người ta tu thân học đạo, thoát ly hồng trần. Thận trọng ăn uống chính là định thời, định lượng, hàn nhiệt thích hợp, không ăn quá nhiều một thứ.

Chú ý cuối  cùng  của dùng thuốc bổ chính là thời gian dùng thuốc. Trước đây phương tễ cũng có nói vấn đề thời gian dùng thuốc, cách uống thuốc, trong bài thuốc nào đó đều cần chú ý. Ví dụ, thuốc Trung y giải biểu, tả hạ đều là thuốc khứ tà, nếu thuốc giải biểu sáng sớm uống 1 lượt, đợi đến tối trước khi ngủ uống thêm 1 lượt, khoảng cách là mười mấy tiếng, thì không cách nào đạt được mục đích phát hãn.Vì hiệu lực lần sắc đầu tiên và lần 2 nối tiếp không được. Thuốc tả hạ cũng như vậy. Bệnh nhân có nhiệt tích, ở đây chúng ta dùng là đại thừa khí thang, nhưng lần sắc đầu tiên của đại thừa khí thang chỉ là một phần công hiệu, thuốc uống 1 lần hiệu lực chưa đạt được, vậy cần bao lâu thì được uống lần 2, tác dụng của hai lần sắc thuốc có thể cùng hợp lại mà phát sinh, đạt được tác dụng tả hạ. Tích sẽ hết, nhiệt sẽ thanh. Nếu thời gian cách nhau quá dài thì không thể được. Cái này có thể giải thích khá dễ, ví dụ nói có người có thể uống rượu nhưng uống nửa cân rượu đã say, nhưng nếu như đem nửa cân rượu chia 2 lần uống, sáng sớm uống 1 lần, tối uống 1 lần, thì anh ra 1 chút cũng không sao. Đạo lý chính là vậy. Nên có khi dùng thuốc giải biểu, hãn không ra biểu không giải, khi khám lại không hỏi rõ uống thuốc đã qua bao lâu thì lại cho anh ta tăng thêm lượng, sau khi thêm lượng thì sắc lần hai thuốc 1 khối uống, thì sẽ ra mồ hôi quá nhiều mà khí âm lưỡng thương. Nhưng dùng thuốc bổ tại sao phải chú ý thời gian dùng thuốc? Vì bên trước đã nói qua, thuốc bổ dễ sinh hiện tượng ủng trệ, mặc cho phối ngũ của bạn tốt, nhưng bệnh nhân uống thuốc rất tùy tiện, hoặc uống thuốc rất mau, hoặc cách 1 khoảng thời gian dài, đây là không tốt.

Còn 1 điểm cần đưa ra, chính là thói quen uống thuốc rất xấu, tức trong đêm khi ngủ uống 1 lần, sáng sớm dậy uống 1 lần, bụng rỗng uống thuốc, sau đó nhanh chóng ăn cơm, nhanh chóng ra của đi làm, đi học, kết quả bệnh không trị khỏi, lại xuất hiện thêm bệnh dạ dày. Đồng thời thuốc như vậy khoảng cách 1 đêm thời gian là quá dài. Ngoài ra, còn có tình trạng cần nói với mọi người là kinh nghiệm mà ra, không có lý luận nhiều, chính là cơ thể người thuốc hấp thu rồi phát huy tác dụng chủ yếu là khi nửa đêm, khi 11 giờ đêm đến 2 giờ sáng, tức tử thời. Với cách nói của Trung y trước đây, khi đó khí của thiên địa âm dương giao hoán, khí của thân thể con người đang tiến hành một loại giao hoán, chỉ có điều đây là học thuyết không phải thực nghiệm trên cơ thể người mà chứng thực được. Tuy nhiên có vài thí nghiệm kiểm chứng một loại thuốc nào đó khi nào uống hiệu quả khá tốt, nhưng đó là thí nghiệm dược vật cá biệt, những điều mà ta nói trên phần nhiều là từ thực tiễn phát hiện ra, đặc biệt là bệnh ngoại cảm, nó bước ngoặt thực sự thường là khi đó, do đó thuốc như vậy thường mau chóng uống trước tử thời thì khá tốt. Đây là nhân tiện nói về thuốc bổ ích đề cập vấn đề này. Nên nhất định cần nói cho bệnh nhân cần dựa theo lời dặn của thầy thuốc mà uống thuốc. Mà bản thân thầy thuốc cũng phải hiểu được điều này.

Yohimbin Yohimbine (Houdé) -thuốc giãn mạch sinh dục trong chứng bất lực

Yohimbin

Yohimbine (Houdé).

ức chế các thụ thể alpha 2 tiết adrenalin được dùng như thuốc giãn mạch sinh dục trong chứng bất lực của nam giới và trong hạ huyết áp tư thế với liều 6-12mg/ngày chia 3 lần.

CÁC TƯƠNG TÁC VỀ THUỐC

Tương tác về thuốc là sự thay đổi các tác dụng được nhận thấy khi hai hay nhiều thuốc được cho dùng đồng thời hay lần lượt. Các tương tác có thể là thuận lợi (sự phối hợp làm tăng kết quả điều trị về tổng quan và/hoặc giảm các tác dụng phụ) hay bất lợi (sự phối hợp làm giảm hiệu quả và/ hay tăng các tác dụng phụ).

Sự hứng khỏi của các thầy thuốc cho việc dùng nhiều thuốc đã được biết rõ ràng trong một số bệnh viện, người bệnh nhận được một lúc không dưới 5-6 loại thuốc. Vấn đề các tương tác của thuốc phải được tiếp cận với một ý nghĩ xây dựng bởi danh mục vô tận của các tương tác, có thật hay giả định, được công bố hay tích lũy trong bộ nhố của máy điện toán và việc tham khảo chúng có thể dẫn đến cảnh giác quá mức do thông tin quan trọng bị chìm trong mố dữ liệu không được đánh giá.

Về những gì liên quan đến các tương tác, giá trị tiên đoán của các thí nghiệm trên động vật bị giới hạn do sự khác biệt gắn liền với chủng loại.

Tương tác có thể xảy ra ở mỗi giai đoạn của chu trình thuốc, từ khi uống vào cho tới khi cố định lên các thụ thể của tổ chức.

Ở MỨC HẤP THU ĐƯỜNG TIÊU HOÁ

Sự thay đổi của pH các dịch dạ dày – ruột.

Sự thay đổi của nhu động và tốc độ vận chuyển của dạ dày – ruột.

Việc tạo thành các phức hợp không hấp thu được trong nhung mao ruột như colestyramin làm giảm hấp thu các digitalin và metoclopramid tạo thuận lợi cho hấp thu propanolol.

Tác dụng của thức ăn: chúng có thể làm chậm hay giảm sự hấp thu thuốc; vì vậy người ta khuyên uống một số kháng sinh trước bữa ăn 1 – 2 giờ.

Ở MỨC PHÂN BỐ THUỐC

Loại tương tác này liên quan chính đến các thuốc mà việc gắn với protein huyết tương vượt quá 80%. Tỷ lệ phần tự do của một thuốc, là phần duy nhất chịu trách nhiệm về tác dụng lên các thụ thể của tô chức, có thể tăng đáng kể sự chuyển dịch của liên kết protein sau khi dùng một thuốc khác. Các tương tác như vậy “do chuyển dịch cạnh tranh” có thể có những hệ quả lầm sàng trầm trọng, như với các thuốc chống đông coumarin (nguy cơ tăng xuất huyết).

Ở MỨC CHUYỂN HOÁ THUỐC

Khi dùng đồng thời hay lần lượt hai loại thuốc, những ảnh hưởng tương hỗ có thể xảy ra trên sự chuyển hoá của gan với mỗi chất. Thật vậy, việc sinh chuyển hoá các thuốc là dưới sự kiểm soát của các men của vi thể, có thể được hoạt hoá (cảm ứng men) hay ức chế.

Cảm ứng men:các chất cảm

ứng men là các thuốc làm tăng hoạt động của một số men gan dẫn đến sự thay đổi chuyển hoá bình thường của chúng cũng như thay đổi hoạt tính của thuốc phối hợp trong các thuốc cảm ứng men gan có thể kể đến các loại thuốc sau: barbituric, acid valproic, chống trầm cảm ba vòng, isoniazid, rifampicin, chlopromazin, carbamazepin, phenytoin, griseofulvin, meprobamat, clofibrat.

Nếu độc tính của một số thuốc liên đới với một chất chuyển hoá ví dụ paracetamol nó sẽ tăng lên do phối hợp với một loại cảm ứng men.

Ức chế men: việc cho dùng 2 thuốc ức chế men làm giảm tốc độ chuyển hoá sinh học của gan và người bệnh phải chịu nguy cơ của tác dụng phụ do kéo dài thời gian bán thải huyết thanh của một trong hai loại thuốc; cũng do vậy, một vài loại sulfamid ức chế sự chuvển hoá sinh học của phenytoin làm thời gian bán thải bị kéo dài.

Sự ức chế men có thể là cạnh tranh hay tương đối đặc hiệu cho hai thứ thuốc hay tất cả và ảnh hưởng lên mọi chức năng chuyển hoá sinh học.

Ở MỨC THẢI TRỪ TẠI THẬN

Những thay đổi của phần tự do, phần duy nhất có thể được lọc ở mức các tiểu cầu thận.

Những thay đổi về pH nước tiểu có thể tác động lên của phần phân ly và thay đổi quá trình tái hấp thu của ống thận với một số thuốc.

Cạnh tranh ở mức bài tiết của ống thận; ví dụ, sự loại trừ của thận với digoxin được tăng lên do levodopa và giảm đi do spironolacton.

Sự thay đổi về vận chuyển tích cực: probenecid làm tăng và kéo dài nồng độ trong huyết thanh của penicilin và các thuốc tương tự bằng chẹn bài tiết ở ống thận; đây là một tương tác thuận lợi đã được ứng dụng trong điều trị.

Ở MỨC CÁC THỤ THỂ ĐẶC HIỆU

Loại tương tác này lệ thuộc vào những cơ chế phức tạp như: digitalin được cho dùng với một thuốc chẹn beta gây ra chậm nhịp tim và những rối loạn về dẫn truyền.

 

Lưỡi Bản Đồ Là Gì? Nguyên nhân, triệu chứng và điều trị

Lưỡi Bản Đồ là một tình trạng gây ra các vết đỏ xuất hiện trên lưỡi hoặc trong các khu vực khác của miệng.

Nó có tên như vậy vì các vết này trông giống như một bản đồ. Các bác sĩ đôi khi gọi nó là viêm lưỡi di trú lành tính.

Các vết này có thể xuất hiện và biến mất, cũng như thay đổi hình dạng. Thời gian tồn tại của chúng có thể từ vài ngày đến vài năm.

Lưỡi bản đồ ảnh hưởng đến khoảng 1%-3% người. Nó là lành tính, có nghĩa là không gây hại. Nó không liên quan đến nhiễm trùng hay ung thư. Nó cũng không lây nhiễm, vì vậy bạn không thể mắc phải từ người khác hoặc truyền cho người khác. Thường thì nó không có triệu chứng và thường tự biến mất.

Triệu Chứng của Lưỡi Bản Đồ

Triệu chứng chính của lưỡi bản đồ là sự xuất hiện của các vết đỏ không đều trên bề mặt, bên cạnh và dưới lưỡi. Mặc dù hiếm, nhưng chúng cũng có thể xuất hiện trên lợi, bên trong má hoặc trên nóc miệng. Những vết này có thể:

  • Có viền trắng hoặc màu sáng
  • Thay đổi kích thước, hình dạng và màu sắc
  • Bắt đầu ở một khu vực rồi di chuyển đến khu vực khác
  • Bề mặt trơn nhẵn, không giống như các mụn nhỏ (nhú lưỡi) thường phủ trên lưỡi

Bạn có thể không biết mình có lưỡi bản đồ cho đến khi nha sĩ hoặc bác sĩ phát hiện ra nó trong quá trình kiểm tra miệng.

Không phổ biến, nhưng một số người có lưỡi bản đồ có thể cảm thấy nóng rát hoặc đau. Điều này thường do:

  • Thức ăn nóng, cay hoặc có tính axit
  • Khói thuốc lá
  • Kem đánh răng

Bạn cũng có thể có hạch bạch huyết sưng ở dưới hàm.

Nguyên Nhân của Lưỡi Bản Đồ

Các bác sĩ không chắc chắn nguyên nhân gây ra lưỡi bản đồ. Nó có thể liên quan đến một số vấn đề sức khỏe nhất định, chẳng hạn như:

  • Eczema và psoriasis
  • Một số loại viêm khớp
  • Tiểu đường loại 1

Lưỡi bản đồ thường có tính di truyền trong gia đình, vì vậy có thể nó cũng có liên quan đến gen của bạn.

Ngoài ra, việc không có đủ các chất dinh dưỡng này có thể gây ra lưỡi bản đồ:

  • Sắt
  • Kẽm
  • Axit folic
  • Vitamin B6 và B12

Các yếu tố khác có thể gây ra nó bao gồm căng thẳng, thay đổi hormone và dị ứng.

Lưỡi bản đồ cũng liên quan đến một tình trạng gọi là lưỡi nứt, gây ra các rãnh trên lưỡi. Các bác sĩ không biết nguyên nhân gây ra lưỡi nứt, nhưng nó phổ biến hơn ở người lớn tuổi.

Yếu Tố Nguy Cơ của Lưỡi Bản Đồ

Lưỡi bản đồ có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào, nhưng nó thường phổ biến hơn ở thanh niên. Nó cũng thường gặp hơn ở phụ nữ so với nam giới. Các yếu tố khác làm tăng nguy cơ mắc lưỡi bản đồ bao gồm:

  • Eczema
  • Psoriasis
  • Tiểu đường loại 1
  • Một số loại viêm khớp
  • Tiền sử gia đình mắc lưỡi bản đồ
  • Không đủ sắt, kẽm, axit folic, và vitamin B6 và B12
  • Có lưỡi nứt
  • Sử dụng biện pháp tránh thai nội tiết
  • Căng thẳng nhiều
  • Dị ứng

Chẩn Đoán Lưỡi Bản Đồ

Nha sĩ hoặc bác sĩ của bạn sẽ hỏi về triệu chứng của bạn và kiểm tra miệng và lưỡi của bạn. Trong quá trình kiểm tra, bác sĩ có thể:

  • Yêu cầu bạn di chuyển lưỡi theo các hướng khác nhau
  • Chạm vào lưỡi để cảm nhận sự thay đổi về kết cấu
  • Kiểm tra xem có sự nhạy cảm nào không
  • Xem có dấu hiệu nhiễm trùng nào không, chẳng hạn như hạch bạch huyết sưng ở cổ

Bạn có thể cần làm các xét nghiệm để loại trừ các tình trạng y tế khác.

Điều Trị Lưỡi Bản Đồ

Bất kỳ cơn đau hoặc khó chịu nào thường sẽ cải thiện tự nhiên. Nhưng nếu bạn cảm thấy đau dữ dội và liên tục, thuốc có thể giúp ích. Bác sĩ hoặc nha sĩ của bạn có thể kê đơn:

  • Thuốc giảm đau không kê đơn
  • Thuốc chống viêm
  • Nước súc miệng có chứa thuốc gây tê
  • Corticosteroid bôi lên lưỡi
  • Thực phẩm chức năng chứa kẽm

Ngoài ra, hạn chế hoặc tránh những thứ như:

  • Thuốc lá
  • Thức ăn nóng, cay, có tính axit hoặc các loại hạt khô, mặn
  • Kem đánh răng có chất phụ gia (như sodium lauryl sulfate), chất làm trắng, hoặc hương liệu mạnh (kem đánh răng cho răng nhạy cảm là lựa chọn tốt hơn).