Blog Trang 456

Cà gai leo

Cà gai leo (Cà vạnh, Cà cườm, Cà quánh, Cà quýnh)
Cà gai leo (Cà vạnh, Cà cườm, Cà quánh, Cà quýnh)

CÀ GAI LEO

Tên khác: Cà vạnh, Cà cườm, Cà quánh, Cà quýnh.

Tên khoa học: Solanum hainanense Hance. hoặc Solanum procumbens Lour., họ Cà (Solanaceae).

Mô tả: Cây nhỏ sống nhiều năm, mọc leo hay bò dài đến 6m hay hơn. Thân hoá gỗ, nhẵn, phân cành nhiều; cành phủ lông hình sao và rất nhiều gai cong màu vàng. Lá mọc so le, hình bầu dục hay thuôn, xẻ thuỳ không đều, mặt trên có gai, mặt dưới có lông mềm hình sao màu trắng. Cụm hoa hình xim ở nách lá, gồm 2-5 (7-9) hoa màu tím nhạt. Quả mọng, hình cầu, khi chín màu đỏ. Hạt hình thận dẹt, màu vàng. Hoa tháng 4-5, quả tháng 7-9.

Phân bố: Cây mọc hoang ở khắp mọi nơi từ vùng núi thấp đến trung du và đồng bằng ven biển. Các tỉnh có nhiều là Thái Bình, Nam Hà, Thanh Hoá, Nghệ An. Cũng thường được trồng làm hàng rào..

Bộ phận dùng: Rễ (Thích gia căn), dây (Thích gia đằng).

Thu hái: Có thể thu hái rễ và cành lá quanh năm, rửa sạch, thái lát, phơi khô hay sấy khô.

Thành phần hóa học: Rễ và dây có alcaloid (solasodin, solasodinon), rễ còn chứa tinh bột, flavonoid.

Công năng: Tán phong thấp, tiêu độc, tiêu đờm, trừ ho, giảm đau, cầm máu.

Công dụng: Trị cảm cúm, phong thấp, sâu răng, chân răng chảy máu, rắn cắn và dị ứng. Nhân dân còn dùng rễ Cà gai leo xát vào răng khi uống rượu để tránh say rượu; cũng dùng rễ sắc nước cho người bị say uống để giải say.

Cách dùng, liều lượng: Liều dùng 16-20g rễ hoặc thân lá, dạng thuốc sắc, cao lỏng hoặc viên. Dùng ngoài lấy cây tươi giã nát, chiết nước uống và lấy bã đắp.

Bài thuốc:

  1. Chữa rắn cắn, lấy 30-50g rễ Cà gai leo tươi, rửa sạch, giã nhỏ, hoà với khoảng 200ml nước đun sôi để nguội, chiết nước cho người bị nạn uống tức thì. Ngày uống 2 lầ Hôm sau, dùng 15-30g rễ khô, sao vàng, sắc nước cho uống, ngày 2 lần, sau 3-5 ngày thì khỏi hẳn.
  2. Chữa phong thấp, dùng rễ Cà gai leo, vỏ Chân chim, rễ Cỏ xước, Dây đau xương, Dây mấu, rễ Tầm Xuân, mỗi vị 20g, sắc uống

3, Chữa ho, ho gà, dùng rễ Cà gai leo 10g, lá Chanh 30g, sắc uống làm 2 lần trong ngày.

  1. Chữa sưng mộng răng, dùng hạt Cà gai leo 4g, tán nhỏ, cho vào trong cái đồ đồng với một ít sáp ong, đốt lấy khói xông vào chân răng (theo Bách gia trân tàng).

Phòng chống gãy xương khi bị loãng xương

Sự giảm gãy xương không thể đánh giá dựa trên các nghiên cứu đối đầu trực tiếp giữa các thuốc khác nhau. Do đó không thể so sánh hiệu quả điều trị giảm gãy xương giữa thuốc này với thuốc khác một cách trực tiếp. Tuy vậy vẫn có một số nhưng không phải là tất cả các trường hợp các biện pháp can thiệp cho thấy có thể bảo vệ chống gãy xương cột sống và gãy xương khác ngoài cột sống (nhất là gãy cổ xương đùi). Đây là điều quan trọng để phân biệt vì khi gãy xương ở một vị trí nào đó xảy ra thì nguy cơ gãy xương ở bất kì vị trí nào cũng sẽ tăng đáng kể. Việc điều trị phòng, chống gãy xương ở tất cả các vị trí phải được đặt ra nhất là ở cột sống thắt lưng và cổ xương đùi là 2 vị trí hay gặp gãy xương do loãng xương.

Loãng xương làm tăng nguy cơ gãy xương nhất là ở cổ xương đùi và cột sống
Loãng xương làm tăng nguy cơ gãy xương nhất là ở cổ xương đùi và cột sống

Có bằng chứng cho thấy tác dụng bảo vệ chống gãy xương của các thuốc: Alendronate, risedronate, strodium, ralelate ở phụ nữ sau mãn kinh bị loãng xương, và những phụ nữ bình thường điều trị bằng hormone thay thế.

Hiệu quả điều trị bằng thuốc với loãng xương cột sống và ngoài cột sống, cổ xương đùi của một số thuốc.

Thuốc Cột sống Ngoài cột sống Cổ xương đùi
Alendronate + + +
Resedronate + + +
Ibnandronate + +* K
Etidronate + +* K
HRT + K +
Raloxifene + K K
Calcitriol +* K K
Calcitonin +* K K
Teriparatide + + K
PTH (1-84) + K K
Strontium ranelate + + +
Zoledronate + + +

+ Giảm nguy cơ gãy xương

+* Không thống nhất về bằng chứng

K: Không có bằng chứng thích hợp

Khả năng dung nạp và tính an toàn của thuốc là yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn các biện pháp điều trị loãng xương.

Điều trị thường kéo dài (ít nhất là 5 năm) không liên quan nhiều đến thay đổi các triệu chứng của loãng xương, nhưng có thể xuất hiện các biểu hiện tác dụng phụ do thuốc. Do đó cần thiết phải lựa chọn cẩn thận trước khi quyết định các biện pháp điều trị phù hợp.

Chế độ điều trị liên tục có thể lựa chọn cho nhiều phụ nữ.

Các biểu hiện nguy cơ ngoài hệ thống cơ xương, các lợi ích là những yếu tố quan trọng trong khi quyết định điều trị hormone thay thế (HRT) hoặc Raloxifene, vấn đề này sẽ trình bày chi tiết ở phần sau. Tuy vậy các bằng chứng hiện tại cho thấy lợi ích và nguy cơ của biện pháp điều trị hormone thay thế ít thuận lợi hơn so với những gì mà người ta đã tin tưởng trước đây do đó liệu pháp này có vẻ ít được dùng trong điều trị loãng xương.

Giá thành điều trị cũng là vấn đề đối với nhiều bệnh nhân phải điều trị liên tục, kéo dài, là yếu tố cần tính toán khi lựa chọn thuốc điều trị. Các nghiên cứu phân tích giá thành điều trị của các loại thuốc khác nhau cho thấy Biphosphonate, Strontium ranelate và Raloxifene là có giá hợp lý trong điều trị loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh, chưa gãy xương và những người có nguy cơ gãy xương cao.

Cẩn thận để phòng “trẻ ỉa chảy vì sữa bò”

Sữa bò là một loại thực phẩm đồ uống dinh dưỡng phong phú, được mọi người hoan nghênh, nhất là các bậc phụ huynh trẻ. Thế nhưng, nếu không chú ý đến phương pháp và lượng dùng, rất dễ dẫn đến ỉa chảy. Do trong sữa bò ngoài việc có chứa hàm lượng protein, mỡ béo và muối vô cơ với chất lượng cao, còn có chứa một loại đường Lactose mà không được đường ruột hấp thụ trực tiếp.

Loại đường Lactose này phải có sự tham dự của men Lactase, qua sự phản ứng hóa học sinh vật, phân giải thành Galactose và glucose mới có thể được cơ thể hấp thụ. Nhưng hàm lượng men Lactose trong cơ thể người không ổn định, nhất là của trẻ thơ, năng lực tiết ra tương đối yếu. Nếu uống lượng sữa bò nhiều quá, men Lactose tiết ra không cân bằng dễ dẫn đến ỉa chảy. Y học gọi là “trẻ ỉa chảy vì sữa bò”, về mùa xuân, hè thường thấy nhiều nhất.

Do vậy, để phòng ngừa bệnh “trẻ ỉa chảy vì sữa bò” các thầy thuốc kiến nghị lượng sữa uống một lần, không được quá nhiều, mỗi ngày nên khống chế trong khoảng 0,5kg, tốt nhất chia làm 2 – 3 lần uống. Nếu xuất hiện ỉa chảy vì sữa bò, biện pháp hữu hiệu nhất là hãy ngừng uống sữa bò, hoặc là chọn dùng sản phẩm chế tạo bằng sữa khác. Do vì ỉa chảy sữa bò mà không phải bị nhiễm khuẩn, cho nên không cần dùng thuốc kháng khuẩn và thuốc cầm ỉa chảy, chỉ cần chờ cho đi hết chất sữa bò trong đường ruột thì chẳng cần uống thuốc gì cũng hết ỉa chảy.

Cây chổi xể

Cây chổi xể
Cây chổi xể

Cây chổi xể

Tên khác: Chổi sể, Thanh cao, Cây chổi trện.

Tên khoa học: Baeckea frutescens L., họ Sim (Myrtaceae).

Mô tả: Cây bụi, phân nhánh nhiều, cao 50 – 150cm. Lá mọc đối, hình dải hay hình dùi dạng dải, dài 5 – 8mm, rộng 0,4 – 0,6mm, đầu nhọn, không lông, có tuyến mờ nâu, cuống rất ngắn.

Hoa mọc đơn độc ở nách lá, lưỡng tính, màu vàng trắng, đường kính cỡ 2 – 3mm; cuống hoa cỡ 1mm, mang ở giữa 2 lá bắc rất nhỏ, sớm rụng. Đài hoa hình ống, dài cỡ 1mm, chia 5 thùy hình tam giác, tồn tại; cánh hoa 5, gần tròn, dài cỡ 4mm; nhị 10, ít khi 8, ngắn hơn cánh hoa; bầu ha, 3 ô, mỗi ô chứa 2 noãn.

Quả nang nhỏ, dài cỡ 1mm, mở theo đường rách ngang; hạt có cạnh.

Bộ phận dùng: Lá, phần trên mặt đất.

Phân bố: Cây mọc rất nhiều trên các đồi khô miền Trung Du, từ Hà Bắc, Quảng Ninh, Bắc Thái, Vĩnh Phú đến Thừa Thiên – Huế, Quang Nam – Ðà Nẵng, Phú Yên, thường mọc chung với Sim, Mua, Tràm, có khi mọc thành rừng.

Thu hái: Cây lúc đang có hoa, phơi hoặc sấy khô. Có thể cắt lấy tinh dầu mà dùng.

Thành phần hóa học: Toàn cây chứa tinh dầu màu vàng nhạt, thơm gần như dầu khuynh diệp với tỷ lệ 0,5-0,7%. Ở nước ta, tinh dầu Chổi chứa 35% a- thuyon và a- pinen, 4% limonen, 15% cineol, 11% ylangen. Tuỳ xuất xứ mà thành phần có thể khác nhau.

Công năng: Tán phong hàn, khai khiếu, giúp tiêu hoá, thông huyết mạch, sát khuẩn.

Công dụng:

Thân, cành dùng làm chổi và cất dầu thơm để dùng trong y dược.

Người ta thường dùng cây đốt xông khói hoặc nấu nước xông chữa cảm cúm, nhức đầu, đau bụng, vàng da, sởi. Còn dùng chữa chảy máu cam, lở ngứa, kém tiêu, ỉa ra máu và kinh nguyệt không đều.

Rượu chổi dùng xoa bóp chữa thấp khớp. Hoa chổi dùng làm thuốc điều kinh và ăn uống kém tiêu.

Cách dùng, liều lượng: Sắc lá và hoa làm nước uống (6-8g). Đốt cây khô để xông, dùng tinh dầu xoa bóp.

Bài thuốc:

  1. Chữa phong thấp đau xương, đau bụng lạnh dạ, nôn, ỉa, dùng cành và hoa lá Chổi 20-40g sắc uố Ngoài dùng dầu Chổi xoa bóp hoặc dùng cành lá Chổi để đốt xông hơi.
  2. Chữa chân thũng sưng hay lở ngứa; nấu nước cây Chổi để ngâm rử
  3. Chữa kinh bế hay chậm thấy kinh, dùng hoa Chổi, lá Móng tay, mỗi vị 40g; Nghệ đen; Ngải máu, mỗi vị 10-20g sắc uố Cấm dùng cho người có thai.

Bệnh Hemochromatose

Là bệnh do tăng hấp thu sắt ở ống tiêu hóa dẫn đến tích tụ sắt ở các cơ quan (gan, da, tim, tụy, tuyến nội tiết).

Chẩn đoán

Lâm sàng:

  • Mệt.
  • Bệnh xương – khớp.
  • Sạm da.
  • Gan to (cứng).
  • Bệnh cơ tim (xuất hiện muộn).
  • Đái đường.
  • Giảm sinh dục: dạng thường gặp là không có triệu chứng

Cận lâm sàng:

  • Tăng sắt huyết thanh, tăng ferritine, tăng bão hoà sắt Transferrine > 60%.
  • Khảng định bằng tìm đột biến C282Y ỏ gen HFE trên nhiễm sắc thể 6 ở bệnh nhân đồng hợp tử.
  • IRM gan: giảm tín hiệu ở T2.
  • Sinh thiết gan

+ Tế bào gan ứ sắt nhất là quanh khoảng cửa (nhuộm Perls).

+ Chỉ định (dạng tiến triển): feritin máu > 1000 mg/1 + rượu kết hợp.

Di truyền

  • Bệnh di truyền thường gặp (1- 2% dân số).
  • Tỷ lệ nam / nữ =1.
  • Di truyền gen lặn.
  • Đột biến gen c 282 Y gen HFE trên nhiễm sắc thể 6
  • 4 nguyên nhân tử vong + Xơ gan.

+ Ung thư gan.

+ Bệnh tim.

+ Đái đường.

Điều trị

  • 2 biện pháp khởi đầu

+ Cai rượu.

+ Vacxin phòng viêm gan B.

  • Loại bỏ sắt:

+ Chích máu 500 ml / tuần cho tới khi lượng ferritin trong cơ thể trở về bình thường rồi thì chích 500 ml / 2 – 4 tháng. Có hiệu quả vào giai đoạn đầu.

+ Nếu có chống chỉ định (thiếu máu, suy tê bào gan, suy tim): không nên chích máu

+ Dùng thuốc gắp sắt Deferal.

+ Theo dõi lâm sàng nghiêm ngặt khi chích máu.

  • Theo dõi: phát hiện K gan, đái đường suy tim.
  • ứ sắt thứ phát:

+ Bệnh gan do rối loạn chuyển hóa sắt (hépatosiderose).

+ Bệnh gan mạn tính do rượu, virus,xơ gan nặng và K gan.

+ Thừa sắt do điều trị (truyền máu).

+ Porphyrie.

CARDURAN – doxazosin 1 mg

Doxazosin làm giảm huyết áp một cách đáng kể do giảm kháng lực mạch máu toàn thân. Tác dụng này được cho là do ức chế chọn lọc trên a 1-adrenoceptor nằm tại mạch máu. Liều dùng một lần duy nhất trong ngày làm giảm đáng kể huyết áp suốt ngày và sau 24 giờ. Huyết áp giảm từ từ và đạt hiệu quả tối đa sau 2-6 giờ uống thuốc. Bệnh nhân cao huyết áp, điều trị bằng doxazosin có huyết áp tương tự như nhau ở cả hai tư thế nằm và đứng

THUỐC CARDURAN

PFIZER

viên nén 1 mg hộp 10, 28 và 100 viên.

viên nén 2 mg hộp 10, 28 và 100 viên.

viên nén 4 mg hộp 10, 28 và 100 viên – Bảng B.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Doxazosin mesylate, tính theo doxazosin 1 mg
cho 1 viên
Doxazosin mesylate, tính theo doxazosin 2 mg
cho 1 viên
Doxazosin mesylate, tính theo doxazosin 4 mg
Tá dược : muối natri glycolate, microcrystalline cellulose, lactose, magnesium stearate và muối natri lauryl sulfate.

DƯỢC LỰC

Doxazosin có tác dụng giãn mạch thông qua hoạt động ức chế chọn lọc và cạnh tranh ở vị trí sau khớp a 1-adrenoceptor.

Doxazosin làm giảm huyết áp một cách đáng kể do giảm kháng lực mạch máu toàn thân. Tác dụng này được cho là do ức chế chọn lọc trên a 1-adrenoceptor nằm tại mạch máu. Liều dùng một lần duy nhất trong ngày làm giảm đáng kể huyết áp suốt ngày và sau 24 giờ. Huyết áp giảm từ từ và đạt hiệu quả tối đa sau 2-6 giờ uống thuốc. Bệnh nhân cao huyết áp, điều trị bằng doxazosin có huyết áp tương tự như nhau ở cả hai tư thế nằm và đứng. Không giống như các thuốc ức chế chọn lọc a adrenoceptor khác, điều trị lâu dài bằng doxazosin không gây hiện tượng lờn thuốc. Cũng ít thấy hiện tượng tăng hoạt tính renin và nhịp nhanh khi trị liệu lâu dài. Doxazosin có tác dụng tốt trên lipid máu làm tăng đáng kể tỷ lệ HDL/tổng cholesterol, giảm triglycerides và tổng cholesterol. Thuốc có tác dụng thuận lợi hơn so với lợi tiểu và ức chế bêta vì những thuốc đó có thể ảnh hưởng không tốt đến các thông số nói trên. Do có sự liên quan giữa cao huyết áp và lipid máu với bệnh lý mạch vành, tác dụng trị liệu thích hợp của doxazosin trên cả hai huyết áp và lipid máu làm giảm nguy cơ bệnh lý mạch vành.

Trị liệu bằng doxazosin làm giảm phì đại thất trái, ức chế sự kết dính tiểu cầu và thúc đẩy tác dụng hoạt hóa plasminogen mô. Thêm vào đó doxazosin cải thiện tính nhạy cảm với insulin ở bệnh nhân kém nhạy cảm.

Trong một nghiên cứu lâm sàng có kiểm soát trên bệnh nhân cao huyết áp, điều trị bằng doxazosin có liên quan với việc cải thiện tình trạng rối loạn cương dương. Ngoài ra những bệnh nhân uống doxazosin cho biết ít bị rối loạn cương dương so với những bệnh nhân uống các loại thuốc hạ áp khác.

Việc dùng doxazosin cho những bệnh nhân bị bướu lành tiền liệt tuyến cải thiện đáng kể chức năng đường tiểu và những triệu chứng khác. Tác dụng trên bướu lành tiền liệt tuyến được cho là do ức chế chọn lọc a-adrenoceptor nằm trên mô stroma cơ tiền liệt tuyến, bao và cổ bàng quang.

Doxazosin cho thấy có tác dụng ức chế phân nhóm 1A của a1-adrenoceptor, chiếm hơn 70% các phân nhóm trong tiền liệt tuyến. Điều này chứng tỏ tác dụng của doxazosin trên những bệnh nhân bướu lành tiền liệt tuyến.

Doxazosin cũng cho thấy hiệu quả và an toàn khi điều trị lâu dài bướu lành tiền liệt tuyến (trên 48 tháng).

Doxazosin cho thấy không có tác dụng phụ trên chuyển hóa và thích hợp khi sử dụng trên bệnh nhân tiểu đường, hen phế quản, rối loạn chức năng thất trái, bệnh gút và bệnh nhân cao tuổi. Một nghiên cứu in vitro cho thấy đặc tính chống oxy hóa của dạng chuyển hóa 6′ và 7′ hydroxy của doxazosin ở nồng độ 5 mmol.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Hấp thu :

Sau khi uống liều điều trị, doxazosin được hấp thu tốt đạt nồng độ đỉnh vào khoảng hai giờ sau đó.

Chuyển hóa/Thải trừ :

Thải trừ làm hai giai đoạn với thời gian bán thải là 22 giờ, điều này là cơ sở cho việc sử dụng liều duy nhất trong ngày. Ít hơn 5% doxazosin bài tiết dưới dạng không đổi.

Nghiên cứu dược động học trên bệnh nhân cao tuổi và bệnh nhân suy thận không thấy thay đổi đáng kể so với bệnh nhân trẻ có chức năng thận bình thường. Dữ liệu trên bệnh nhân suy gan và tác động của những thuốc ảnh hưởng trên chuyển hóa gan (như cimetidine) còn rất giới hạn. Như đối với tất cả các loại thuốc chuyển hóa hoàn toàn qua gan, việc dùng doxazosin trên bệnh nhân có chức năng gan thay đổi phải cẩn thận (xem phần Thận trọng lúc dùng).

CHỈ ĐỊNH

Cao huyết áp :

Doxazosin được chỉ định trong điều trị cao huyết áp và có thể dùng như loại thuốc kiểm soát cao huyết áp đầu tiên ở phần lớn bệnh nhân. Doxazosin có thể dùng phối hợp với các loại thuốc hạ áp khác như lợi tiểu thiazide, chẹn bêta, ức chế canxi hoặc ức chế men chuyển ở những bệnh nhân không kiểm soát được với một loại thuốc hạ áp đơn thuần.

Bướu lành tiền liệt tuyến :

Doxazosin được chỉ định điều trị tắc nghẽn đường tiểu và các triệu chứng kèm theo của bướu lành tiền liệt tuyến. Doxazosin có thể dùng trên bệnh nhân bị bướu lành tiền liệt tuyến có hay không kèm theo cao huyết áp. Điều trị bằng doxazosin có hiệu quả tốt ở những bệnh nhân bị bướu lành tiền liệt tuyến kèm theo cao huyết áp và không làm thay đổi đáng kể về mặt lâm sàng huyết áp của bệnh nhân bị bướu lành tiền liệt tuyến có huyết áp bình thường.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Doxazosin chống chỉ định ở những bệnh nhân quá mẫn với quinazoline.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Trường hợp suy gan :

Như đối với bất kỳ các loại thuốc nào chuyển hóa hoàn toàn qua gan, việc sử dụng doxazosin cần phải cẩn trọng ở bệnh nhân suy gan (xem phần Dược động học).

Ảnh hưởng trên khả năng lái xe và vận hành máy :

Khả năng lái xe hoặc vận hành máy có thể bị ảnh hưởng, đặc biệt vào lúc bắt đầu điều trị.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Mặc dù không thấy tác động gây quái thai trong các thử nghiệm ở súc vật nhưng khả năng sống sót của phôi thai giảm khi sử dụng liều cực kỳ cao. Liều này xấp xỉ 300 lần liều khuyến cáo tối đa ở người. Vẫn chưa có những nghiên cứu đầy đủ có kiểm soát trên phụ nữ có thai hoăêc cho con bú, tính an toàn của việc sử dụng doxazosin trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú vẫn chưa rõ. Theo đó, trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú chỉ dùng doxazosin khi bác sỹ cho rằng lợi ích điều trị vượt quá nguy cơ có thể có.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Phần lớn doxazosin trong huyết tương dưới dạng gắn kết với protein (98%). Dữ liệu in vitro trên huyết tương người cho thấy doxazosin không ảnh hưởng trong việc gắn kết protein của digoxin, warfarin, phenytoin, hoặc indomethacin. Uống doxazosin không có bất kỳ một tương tác thuốc ngoại ý nào trên lâm sàng với các thuốc lợi tiểu họ thiazide, frusemide, chẹn bêta, các thuốc kháng viêm không steroid, kháng sinh, các thuốc hạ đường huyết dạng uống, các thuốc tăng acid uric niệu hoặc thuốc chống đông.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Cao huyết áp :

Trong các nghiên cứu lâm sàng có kiểm soát, phản ứng thông thường nhất khi dùng doxazosin là hạ huyết áp tư thế (hiếm khi ngất) hoặc không chuyên biệt, gồm cả chóng mặt, nhức đầu, mệt mỏi, khó chịu, chóng mặt tư thế, choáng váng, phù, suy nhược, ngủ gà, buồn nôn và viêm mũi.

Khi thuốc lưu hành, có thêm một số tác dụng ngoại ý dưới đây đã được báo cáo : một số trường hợp hiếm như khó chịu đường tiêu hóa : đau bụng, tiêu chảy, ói mửa, kích động và run. Một số trường hợp cực kỳ hiếm gặp như tiểu không tự chủ có lẽ do tác dụng dược lực của doxazosin.

Một số ca hiếm gặp bị cương đau dương vật và bất lực đã được báo cáo liên quan đến việc dùng thuốc ức chế a-1 kể cả doxazosin. Một số trường hợp khác bị phát ban ngoài da, ngứa ngáy, giảm tiểu cầu, chất xuất huyết, giảm bạch cầu, tiểu máu, ứ mật, vàng da, bất thường men gan, chảy máu mũi và nhìn mờ cũng được báo cáo.

Những tác dụng ngọai ý thêm vào dưới đây đã được báo cáo khi thuốc được lưu hành dùng điều trị bệnh nhân cao huyết áp, nói chung không thể phân biệt với những triệu chứng có thể xảy ra khi không dùng doxazosin : nhịp nhanh, hồi hộp, đau ngực, cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, loạn nhịp tim và nhìn mờ.

Bướu lành tiền liệt tuyến :

Kinh nghiệm trên những cuộc thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát ở bệnh nhân bướu lành tiền liệt tuyến cho thấy các tác dụng ngoại ý tương tự như ở bệnh nhân điều trị cao huyết áp.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Doxazosin có thể uống vào buổi sáng hoặc chiều. Cao huyết áp :

Liều doxazosin có thể thay đổi từ 1-16 mg mỗi ngày. Trị liệu nên bắt đầu với liều 1 mg, mỗi ngày một lần trong 1-2 tuần. Có thể tăng lên 2 mg liều duy nhất mỗi ngày trong 1-2 tuần kế tiếp. Nếu cần thiết liều hàng ngày có thể tăng từ từ mỗi 1-2 tuần lên 4 mg, 8 mg, và 16 mg dựa trên đáp ứng của bệnh nhân để đạt được hiệu quả giảm áp mong muốn. Liều thông thường là 2-4 mg mỗi ngày một lần.

Bướu lành tiền liệt tuyến :

Liều bắt đầu là 1 mg mỗi ngày một lần. Tùy thuộc vào lượng nước tiểu và triệu chứng của bướu lành tiền liệt tuyến ở mỗi bệnh nhân liều lượng có thể tăng lên 2 mg sau đó 4 mg và có thể tăng đến liều tối đa được khuyến cáo là 8 mg. Việc chỉnh liều trong khoảng 1-2 tuần. Liều thông thường là 2-4 mg một lần duy nhất trong ngày.

Trên bệnh nhân suy thận :

Dược động học của doxazosin không thay đổi trên bệnh nhân suy thận và cũng không có bằng chứng cho thấy doxazosin làm nặng thêm tình trạng bệnh lý thận nên có thể dùng liều thông

thường ở những bệnh nhân này.

Đối với trẻ em :

Không có kinh nghiệm sử dụng doxazosin trên trẻ em.

QUÁ LIỀU

Tình trạng quá liều có thể đưa dến tụt huyết áp, nên đặt bệnh nhân nằm ngữa đầu thấp. Những phương pháp hỗ trợ khác nên được thực hiện nếu thấy thích hợp cho từng trường hợp cụ thể. Doxazosin gắn kết với protein cao nên không chỉ định chạy thận nhân tạo.

Thuốc Ayvakit (avapritinib) được sử dụng để điều trị bệnh gì?

Ayvakit (avapritinib) là gì và được sử dụng để làm gì?

Tên thương mại: Ayvakit
Tên chung: avapritinib

Ayvakit là một loại thuốc theo toa được sử dụng để điều trị cho người lớn mắc một loại ung thư dạ dày, ruột hoặc thực quản gọi là u mô đệm tiêu hóa (GIST) không thể điều trị bằng phẫu thuật hoặc đã di căn đến các bộ phận khác của cơ thể (di căn), và do một số gen bất thường của thụ thể tăng trưởng yếu tố xuất phát tiểu cầu alpha (PDGFRA) gây ra.

Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn sẽ thực hiện một xét nghiệm để đảm bảo rằng bạn có gen PDGFRA bất thường này và rằng Ayvakit phù hợp với bạn.

Hiện chưa biết Ayvakit có an toàn và hiệu quả cho trẻ em hay không.

Các tác dụng phụ của Ayvakit là gì?

Tác dụng phụ nghiêm trọng của Ayvakit

Ayvakit có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm:

  • Chảy máu trong não: Chảy máu nghiêm trọng trong não có thể xảy ra trong quá trình điều trị với Ayvakit và có thể dẫn đến tử vong. Ngừng sử dụng Ayvakit và thông báo ngay cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nếu bạn phát triển bất kỳ triệu chứng nào như đau đầu dữ dội, nôn mửa, buồn ngủ, chóng mặt, lú lẫn hoặc yếu nghiêm trọng ở một hoặc nhiều bên của cơ thể.
  • Tác động đến nhận thức: Các tác dụng phụ về nhận thức là phổ biến với Ayvakit và có thể nghiêm trọng. Thông báo cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nếu bạn phát triển bất kỳ triệu chứng nhận thức mới hoặc nghiêm trọng nào, bao gồm:
    • Quên
    • Lú lẫn
    • Bị lạc
    • Khó khăn trong suy nghĩ
    • Buồn ngủ
    • Khó giữ tỉnh táo (ngủ gà)
    • Vấn đề tìm từ
    • Thấy vật thể hoặc nghe những điều không có thật (ảo giác)
    • Thay đổi tâm trạng hoặc hành vi

Các tác dụng phụ phổ biến của Ayvakit

Các tác dụng phụ phổ biến nhất của Ayvakit ở những người mắc GIST bao gồm:

  • Giữ nước hoặc sưng
  • Buồn nôn
  • Mệt mỏi
  • Yếu cơ
  • Nôn mửa
  • Giảm cảm giác thèm ăn
  • Tiêu chảy
  • Tăng tiết nước mắt
  • Đau vùng bụng
  • Táo bón
  • Phát ban
  • Chóng mặt
  • Thay đổi màu tóc
  • Thay đổi trong một số xét nghiệm máu

Các tác dụng phụ phổ biến nhất của Ayvakit ở những người mắc AdvSM bao gồm:

  • Giữ nước hoặc sưng
  • Tiêu chảy
  • Buồn nôn
  • Mệt mỏi
  • Thay đổi trong một số xét nghiệm máu

Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn có thể thay đổi liều lượng của bạn, tạm ngừng hoặc ngừng hoàn toàn điều trị với Ayvakit nếu bạn phát triển một số tác dụng phụ nhất định.

Ayvakit có thể gây ra vấn đề về khả năng sinh sản ở phụ nữ và có thể giảm sản xuất tinh trùng ở nam giới, điều này có thể ảnh hưởng đến khả năng có con của bạn. Hãy nói chuyện với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nếu điều này là một mối quan tâm đối với bạn. Đây không phải là tất cả các tác dụng phụ có thể xảy ra của Ayvakit.

Ayvakit có gây nghiện không?

Không có thông tin nào được cung cấp.

Liều dùng của Ayvakit là gì?

Lựa chọn bệnh nhân cho GIST mang đột biến exon 18 của PDGFRA

Chọn bệnh nhân để điều trị bằng Ayvakit dựa trên sự hiện diện của đột biến exon 18 của PDGFRA. Hiện tại không có xét nghiệm được FDA phê duyệt để phát hiện đột biến exon 18.

Liều dùng khuyến nghị cho GIST mang đột biến exon 18 của PDGFRA

Liều dùng khuyến nghị của Ayvakit là 300 mg uống một lần mỗi ngày ở bệnh nhân mắc GIST. Tiếp tục điều trị cho đến khi tiến triển bệnh hoặc có độc tính không thể chấp nhận.

Liều dùng khuyến nghị cho U tế bào mast toàn thân tiến triển

Liều dùng khuyến nghị của Ayvakit là 200 mg uống một lần mỗi ngày ở bệnh nhân mắc AdvSM. Tiếp tục điều trị cho đến khi tiến triển bệnh hoặc có độc tính không thể chấp nhận.

Điều chỉnh liều cho tác dụng phụ

Điều chỉnh liều cho các phản ứng bất lợi như được nêu trong Bảng 2.

Hướng dẫn sử dụng

Sử dụng Ayvakit uống khi bụng đói, ít nhất 1 giờ trước hoặc 2 giờ sau bữa ăn. Không bù liều đã quên trong vòng 8 giờ trước liều đã lên lịch tiếp theo. Không lặp lại liều nếu nôn xảy ra sau khi uống Ayvakit nhưng tiếp tục với liều đã lên lịch tiếp theo.

Điều chỉnh liều cho các phản ứng bất lợi

Các giảm liều khuyến nghị và điều chỉnh liều cho các phản ứng bất lợi được cung cấp trong Bảng 1 và Bảng 2.

Bảng 1: Các Giảm Liều Khuyến Nghị cho Ayvakit đối với Các Phản Ứng Bất Lợi

Giảm Liều GIST (liều khởi đầu 300 mg)* AdvSM (liều khởi đầu 200 mg)**
Lần đầu 200 mg một lần mỗi ngày 100 mg một lần mỗi ngày
Lần hai 100 mg một lần mỗi ngày 50 mg một lần mỗi ngày
Lần ba 25 mg một lần mỗi ngày
  • Ngừng Ayvakit vĩnh viễn ở những bệnh nhân mắc GIST không thể dung nạp liều 100 mg một lần mỗi ngày. ** Ngừng Ayvakit vĩnh viễn ở những bệnh nhân mắc AdvSM không thể dung nạp liều 25 mg một lần mỗi ngày.

Bảng 2: Các Điều Chỉnh Liều Khuyến Nghị cho Ayvakit đối với Các Phản Ứng Bất Lợi

Phản Ứng Bất Lợi Mức độ* Điều Chỉnh Liều
Bệnh nhân mắc GIST hoặc AdvSM
Xuất huyết nội sọ Bất kỳ mức độ nào Ngừng Ayvakit vĩnh viễn.
Tác dụng phụ nhận thức Mức độ 1 Tiếp tục Ayvakit với liều hiện tại hoặc liều giảm, hoặc tạm ngừng cho đến khi cải thiện về mức độ cơ bản hoặc hồi phục. Tiếp tục với liều hiện tại hoặc liều giảm.
Mức độ 2 hoặc 3 Tạm ngừng Ayvakit cho đến khi cải thiện về mức độ cơ bản, Mức độ 1, hoặc hồi phục. Tiếp tục với liều hiện tại hoặc liều giảm.
Mức độ 4 Ngừng Ayvakit vĩnh viễn.
Khác Mức độ 3 hoặc 4 Tạm ngừng Ayvakit cho đến khi cải thiện xuống mức độ 2 hoặc thấp hơn. Tiếp tục với liều hiện tại hoặc liều giảm, tùy theo tình trạng lâm sàng.
Bệnh nhân mắc AdvSM
Thiếu tiểu cầu <50 X 10^9/L Tạm ngừng Ayvakit cho đến khi số lượng tiểu cầu > 50 X 10^9/L, sau đó tiếp tục với liều giảm (theo Bảng 1). Nếu số lượng tiểu cầu không phục hồi trên 50 X 10^9/L, xem xét hỗ trợ tiểu cầu.
  • Mức độ được định nghĩa bởi Tiêu chí Thuật ngữ Chung về Các Sự kiện Bất lợi của Viện Ung thư Quốc gia phiên bản 5.0.

Sử Dụng Đồng Thời Với Các Chất Ức Chế CYP3A Mạnh Hoặc Vừa

Tránh sử dụng đồng thời Ayvakit với các chất ức chế CYP3A mạnh hoặc vừa. Nếu không thể tránh việc sử dụng đồng thời với một chất ức chế CYP3A vừa, liều khởi đầu của Ayvakit như sau:

  • GIST: 100 mg uống một lần mỗi ngày
  • AdvSM: 50 mg uống một lần mỗi ngày

Các Tương Tác Thuốc với Ayvakit

Tác Động Của Các Thuốc Khác Đến Ayvakit

Chất Ức Chế CYP3A Mạnh và Vừa

Việc sử dụng Ayvakit cùng với một chất ức chế CYP3A mạnh hoặc vừa sẽ làm tăng nồng độ avapritinib trong huyết tương, có thể làm tăng tần suất và mức độ nghiêm trọng của các phản ứng bất lợi của Ayvakit. Tránh sử dụng đồng thời Ayvakit với các chất ức chế CYP3A mạnh hoặc vừa. Nếu không thể tránh việc sử dụng đồng thời Ayvakit với một chất ức chế CYP3A vừa, giảm liều của Ayvakit.

Chất Kích Thích CYP3A Mạnh và Vừa

Việc sử dụng Ayvakit cùng với một chất kích thích CYP3A mạnh hoặc vừa sẽ làm giảm nồng độ avapritinib trong huyết tương, có thể làm giảm hiệu quả của Ayvakit. Tránh sử dụng đồng thời Ayvakit với các chất kích thích CYP3A mạnh hoặc vừa.

Chống Chỉ Định của Ayvakit và An Toàn Trong Thai Kỳ và Cho Con Bú

Trước khi dùng Ayvakit, hãy cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe biết về tất cả các tình trạng y tế của bạn, bao gồm cả khi bạn:

  • Có số lượng tiểu cầu thấp
  • Bị phình hoặc yếu thành mạch máu (phình mạch) hoặc có tiền sử xuất huyết não
  • Có tiền sử đột quỵ trong vòng một năm qua
  • Đang mang thai hoặc có kế hoạch mang thai. Ayvakit có thể gây hại cho thai nhi của bạn.

Đối với phụ nữ có khả năng mang thai:

Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nên thực hiện một xét nghiệm thai trước khi bạn bắt đầu điều trị bằng Ayvakit. Bạn nên sử dụng biện pháp kiểm soát sinh sản hiệu quả trong suốt quá trình điều trị bằng Ayvakit và trong 6 tuần sau liều cuối cùng của Ayvakit. Hãy nói chuyện với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe về các phương pháp kiểm soát sinh sản có thể phù hợp với bạn.

Hãy báo ngay cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bạn nếu bạn mang thai hoặc nghĩ rằng bạn có thể mang thai trong suốt quá trình điều trị bằng Ayvakit.

Đối với nam giới có bạn tình nữ có khả năng mang thai:

Cần sử dụng biện pháp kiểm soát sinh sản hiệu quả trong suốt quá trình điều trị và trong 6 tuần sau liều cuối cùng của Ayvakit.

Đối với việc cho con bú hoặc có kế hoạch cho con bú:

Không biết liệu Ayvakit có đi vào sữa mẹ hay không. Không nên cho con bú trong suốt quá trình điều trị bằng Ayvakit và trong ít nhất 2 tuần sau liều cuối cùng của Ayvakit. Hãy nói chuyện với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe về cách tốt nhất để nuôi con trong thời gian này.

Hãy cho nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe biết về tất cả các loại thuốc bạn đang dùng, bao gồm cả thuốc theo đơn và thuốc không cần kê đơn, vitamin và thực phẩm chức năng.

Ayvakit có thể ảnh hưởng đến cách hoạt động của các loại thuốc khác, và một số thuốc khác cũng có thể ảnh hưởng đến cách hoạt động của Ayvakit. Hãy nói chuyện với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe trước khi bắt đầu một loại thuốc mới.

Tóm Tắt

Ayvakit là một loại thuốc theo đơn được sử dụng để điều trị cho người lớn mắc phải một loại ung thư dạ dày, ruột hoặc thực quản gọi là u mô đệm tiêu hóa (GIST). Các tác dụng phụ nghiêm trọng của Ayvakit bao gồm xuất huyết trong não và các tác động đến nhận thức (như đãng trí, bối rối, bị lạc, và nhiều triệu chứng khác).

Các chỉ số chuẩn về nhịp tim, nhịp thở, huyết áp theo lứa tuổi

Chỉ số nhịp tim, nhịp thở mức an toàn cho trẻ em

(nhịp tim có thể chậm hơn một chút khi ngủ)

Lứa tuổi Nhịp tim/phút Nhịp thở/phút
Sơ sinh 100-160 30-50
0-5 tháng 90-150 25-40
6 – 12 tháng 80-140 20-30
1-3 tuổi 80-130 20-30
3-5 tuổi 80-120 20-30
6-10 tuổi 70-110 15-30
11-14 tuổi 60-105 12-20
15-20 60-100 12-20
Người lớn 50-80 10-20

Chỉ số huyết áp theo lứa tuổi

(chỉ số huyết áp tâm thu hiển thị ở trên và huyết áp tâm trương hiển thị bên dưới)

Lứa tuổi Chỉ số huyết áp (mmHg)
1-12 tháng 75-100/50 – 70
1-4 tuổi 80-110/50-80
3-5 tuổi 80-110/50-80
6-13 tuổi 85-120/55-80
13-18 tuổi 95- 140/60-90

Biến chứng tim mạch của bệnh đái tháo đường

ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ BỆNH

Tổn thương nội mạc sớm-đặc điểm sinh bệnh học của đái tháo đường typ 2

Đây là một thể loại tổn thương ngày càng hay gặp ở người đái tháo đường typ 2 trẻ tuổi. Đặc điểm của nó là sự tổn thương đồng thời của hệ thống mạch máu lớn và nhỏ. Người ta rất khó phân tách nó thuộc nhóm bệnh nào của tổn thương mạch máu.

Lớp áo trong của thành mạch- tên gọi của lớp tế bào biểu mô, khi bị phá huỷ sẽ gây ra rối loạn điều hoà dòng chảy.

Nội mạc mạch máu là một lớp tế bào hình đa diện lót bên trong lòng mạch, tiếp xúc trực tiếp với dòng máu. Nội mạc có diện tích khá lớn và có tổng trọng lượng vào khoảng 2 kg. Trước đây nội mạc chỉ được xem như là một hàng rào bán thấm ngăn cách giữa dòng máu và khoảng kẽ. Hàng rào bán thấm này thuận tiện cho việc trao đổi nước và các phân tử nhỏ theo cơ chế vận chuyển thụ động hoặc chủ động.

Cùng với những tiến bộ của khoa học, đã có nhiều nghiên cứu đưa ra những bằng chứng cụ thể chứng minh rằng nội mạc là một “cơ quan nội tiết” thực sự, lớn nhất trong cơ thể, nó bao gồm tất cả các hoạt động chuyển hóa, tổng hợp và điều hoà rất nhiều chức năng.

Nội mạc đóng vai trò quan trọng trong sự ổn định nội môi của hệ mạch máu thông qua việc giải phóng các chất tự tiết và cận tiết. Nội mạc được xem như là “cơ quan” đầu tiên và quan trọng chống lại sự phát triển của xơ vữa động mạch. Sự toàn vẹn của những tế bào nội mạc là một trong những yếu tố quan trọng cho việc thực hiện chức năng của chúng.

Lớp nội mạc có vai trò bảo vệ thành mạch chống lại sự phát triển của xơ vữa động mạch do chúng có khả năng sản xuất ra một số yếu tố không chỉ điều hoà trương lực mạch máu, ức chế tập kết và bám dính tiểu cầu, mà còn ức chế sự phát triển của tế bào cơ trơn, ức chế sự bám dính của bạch cầu.

Chức năng điều hoà trương lực mạch máu

Nhờ khả năng vừa sản xuất ra các yếu tố co và giãn mạch. Sự cân bằng giữa các yếu tố co mạch và các yếu tố giãn mạch tạo nên trương lực mạch máu.

ở người khoẻ mạnh, tác động giãn mạch chiếm ưu thế. Các yếu tố giãn mạch bao gồm oxid nitric (NO), prostacyclin (PGI2), yếu tố tăng khử cực xuất phát từ nội mạc (EDHF – Endothelium derived hyperpolarizing factor). v.v.

Các yếu tố co mạch gồm có endothelin-1 (ET-1), angiotensinll (AT II), thromboxan A2 (TXA2), prostaglandin H2 (PGH2)…

  • Các yếu tố giãn mạch

– Oxid, nitric (NO).

Furchgott và Zawadzki (1980) đã chứng minh được vai trò không thể thiếu của tế bào nội mạc trong đáp ứng giãn mạch với acetylcholin ngoại sinh ở động mạch được phân lập từ thỏ. Các tác giả này đặt tên cho yêu tô giãn mạch đó là EDRF (Endothelium – derived relaxing factor- yếu tố giãn mạch có nguồn gốc nội mạc).

Năm 1987, Palmer và cộng sự đã xác nhận EDRF chính là NO. Từ đó vai trò sinh học của nội mạc và của NO đã được nghiên cứu rộng rãi trên người và động vật. Cho đến nay người ta thấy rằng NO là yếu tố giãn mạch chính và quan trọng nhất trong hệ thống các yếu tố có khả năng gây giãn mạch có nguồn gốc nội mạc.

Oxid nitric được tạo ra bởi sự oxy hoá L – Arginin dưới tác dụng của enzym nitric oxid-synthase (NOS) và sự hiện diện của NADPH. sản phẩm của sự oxy hoá này gây ra hiện tượng giãn mạch và giãn các tế bào cơ trơn thông qua tác dụng trung gian là protein G. NO tác động lên tế bào cơ trơn với sự có mặt của guanylat cyclase dẫn đến sự gia tăng của guanosin monophosphat vòng (cGMP) nội bào. cGMP làm giảm Ca2 + nội bào và gây giãn mạch.

Ngoài ra, NO còn ức chế tập kết tiểu cầu cũng thông qua tác dụng của cGMP và do đó có tác dụng chống đông máu. NO cũng ức chế sự phát triển của tế bào cơ trơn, ức chế tổng hợp các phân tử bám dính, đôi kháng với endothelin-1 (ETl). Nhờ có trọng lượng phân tử thấp, lan truyền nhanh chóng và có thời gian bán huỷ ngắn (vài giây) cho nên NO thích nghi với sự thay đổi liên tục của thành mạch gây ra bởi tác động của dòng máu.

– Prostacyclin (PGI2):

PGI2 cũng là một yếu tố giãn mạch quan trọng. PGI2 được sản xuất từ acid arachidonic. PGI2 được bài tiết bởi sự kích thích của bradykinin và adenin nucleotid. PGI2 bị hoạt hóa bởi adenyl cyclase và cAMP nội bào. PGI2 có thời gian bán huỷ ngắn và hoạt động trong cả 2 hệ tiểu tuần hoàn và đại tuần hoàn. PGI2 có vai trò quan trọng trong tương tác giữa nội mạc và tiểu cầu, ngăn cản sự hình thành và phát triển huyết khối.

– Yếu tố tăng khử cực nguồn gốc nội mạc (EDHF):

Khi nội mạc bị kích thích bởi các chất trung gian hoá học (như acetylcholin) thì yếu tố tăng khử cực của những tế bào cơ trơn nằm dưới nội mạc được phóng thích gây ra hiện tượng giãn mạch. Qúa trình giãn mạch được lan truyền trong mạch máu và yếu tố làm tăng khử cực này được gọi là “yếu tốtăng khử cực có nguồn gốc nội mạc” – EDHF được sản xuất từ nội mạc và được hoạt hóa khi kênh K+/ATP mở trong tế bào cơ trơn của mạch máu.

  • Các yếu tố co mạch:

Endothelin (ET):

Endothelin là một peptid có 21 acid amin, endothelin có hiệu lực co mạch mạnh. Endothelin có 3 dạng đồng phân, trong đó chỉ có endothelin-1 (ET\) được giải phóng từ những tế bào nội mạc. ETj được giải phóng trong tình trạng giảm oxy huyết và bị kích thích bởi noradrenalin.

Tác dụng sinh học của endothelin thông qua 2 cặp receptor riêng biệt là ETaR và EThR. ETaR nằm trong tế bào cơ trơn, khi ET, gắn vào ETaR sẽ gây tăng calci nội bào dẫn đến co mạch. ETBR có ở cả trong tế bào nội mạc và trong tế bào cơ trơn. Khi ET, gắn vào ETBR trong tế bào nội mạc sẽ gây tăng giải phóng EDHF và PGI2 do đó gây giãn mạch. Ngược lại, khi ETj gắn vào ETBR trên tế bào cơ trơn lại gây co mạch. Tuy nhiên, ETAR có ái lực mạnh với ETj trong khi ETBR gắn với tất cả các loại ET với ái lực ngang nhau. Do đó, tác dụng co mạch của ETi là tác dụng chiếm ưu thế. ETj có thời gian bán huỷ ngắn và nó có nồng độ thấp ở những người khoẻ mạnh. ETj cũng có cơ chế điều hoà ngược để duy trì sức cản ngoại biên.

Angiotensin II:

Angiotensin II được tạo thành từ angiotesin I dưới tác dụng của các men chuyển (Angiotesin converting enzym- ACE) cố định trên màng tế bào nội mạc. Angiotensin(AT) II gắn vào receptor angiotesin của tế bào nội mạc và kích thích sản xuất ET-1 và các chất trung gian khác như PAI (plasminogen activator inhibitor) gây co mạch và kích thích tạo thành huyết khối. Ngoài ra, angiotensin II còn tác động đến sự phát triền của tế bào cơ trơn của mạch máu, tác động làm chậm sự chết của tế bào theo chương trình, sự di trú của tế bào, sự thay đổi của các chất cơ bản. Tất cả các chức năng đó dẫn đến sự tổ chức lại mạch máu và sự biến đổi ở lớp nội mạc.

  • Các yếu tố co mạch nguồn gốc nội mạc (EDCFs-Endothelium Derived Contracting íactor):

Trong những điều kiện nhất định, nội mạc tổng hợp và giải phóng EDCFs gây nên hiện tượng co mạch. EDCFs bao gồm prostaglandin H2 và thromboxan A2, chúng có những receptor đặc hiệu trong tế bào cơ trơn. Ion âm superoxid cũng có tác dụng như một chất co mạch vì chúng làm nhiệm vụ tiêu huỷ NO. Sự sản xuất EDCFs được kích thích bởi tình trạng giảm oxy huyết, huyết áp và các chất trung gian hoá học khác.

  • Các tác nhân kích thích nội mạc:

Các yếu tố thần kinh thể dịch

+ Các chất trung gian hoá học: Acetylcholin, bradykinin và histamin.

+ Các hormon: Catecholamin, vasopressin.

+ Các chất có nguồn gốc từ tiểu cầu: Adenosin diphosphat và serotonin.

+ Thrombin (T).

Các tác nhân này gây giải phóng các yếu tố giãn mạch hoặc co mạch thông qua sự hoạt hóa các receptor đặc hiệu ở nội mạc, từ đó gây ra những thay đổi của trương mạch máu.

  • Các tác nhân vật lý:

Bên cạnh các tác nhân sinh hoá tác động lên thành mạch, các tác động cơ học cũng gây giãn mạch thông qua các receptor cơ học trên bề mặt các tế bào nội mạc.

Kích thích chà xát (shear stress): Lực này song song với thành mạch và được tạo ra bởi sự chà xát giữa dòng máu chảy trong mạch và thành mạch. Như vậy, chỉ có bề mặt của lớp tế bào bên trong của mạch máu tức là lớp nội mạc bị tác động của sự kích thích chà xát này. Kích thích chà xát tác động lên thành mạch trực tiếp vào lớp nội mạc và lớp dưới nội mạc. Do đó, chỉ một thay đổi nhỏ về tốc độ dòng chảy cũng liên quan đến sự hoạt hóa của receptor nhận cảm cơ học.

Áp lực thuỷ tĩnh: Véc tơ lực này vuông góc với thành mạch gây ra bởi áp lực thuỷ tĩnh của máu. Áp lực thuỷ tĩnh tác động lên thành mạch gây ảnh hưởng đến tế bào nội mạc, tế bào cơ trơn, và chất ngoại bào.

  • Tác động bơm máu của tim:

Tương tự như tác động trà sát, khi tim đập, dòng máu chảy trong mạch sẽ tạo ra những kích thích có chu kỳ lên thành mạch, tác động này kích thích nội mạc sản xuất ra các yếu tố hoạt mạch, đặc biệt là các yếu tố co mạch thông qua các tác động cơ học.

  • Sự giảm oxy huyết và thiếu máu:

Tình trạng giảm oxy huyết và thiếu máu sẽ kích thích nội mạc sản xuất NO và prostacyclin do đó có hiện tượng giãn mạch. Người ta đã chứng minh được rằng sự giãn mạch gây ra bơi tình trạng giảm oxy huyết của những mạch máu sẽ bị ức chế đáng kể bởi những chất ức chế tổng hợp NO.

Các chức năng khác của nội mạc

  • Nội mạc là một màng bán thấm:

Trong trạng thái sinh lý, nội mạc sản xuất ra các phân tử bám dính giúp cho tế bào thực hiện được các chức năng khác nhau như: chức năng phát triển, chức năng di trú và chức năng đáp ứng của tế bào với môi trường bên ngoài. Những phân tử bám dính bao gồm selectin, đặc biệt là selectin-E, và hệ thống những tế bào miễn dịch bao gồm những phân tử kết dính nội bào (ICAMs -Intercellular cell adhension molecules), phân tử kết dính tế bào mạch (VCAM-1 – Vascular cell adhension molecule) và những phân tử kết dính tiểu cầu/tế bào nội mạc (PECAM-1 – Pletelet/endothelial cell adhension molecules). Các phân tử này đều có vai trò quan trọng trong sự bám dính và xuyên mạch của các tế bào máu. Điều hoà sự bám dính của bạch cầu vào thành mạch là nhiệm vụ của các integrin-một loại protein được tạo ra từ sự tương tác giữa những tế bào bạch cầu đã được hoạt hóa và ICAMs.

  • Nội mạc sản xuất các chất chống huyết khối và các chất tạo huyết khối:

Nội mạc sản xuất yếu tố hoạt hóa plasminogen tổ chức [tissue-type plasminogen activator = (t-PA)], một chất có hiệu lực phân giải huyết khối. t-PA được tạo ra trong qúa trình đáp ứng với các tác nhân kích thích như noradrenalin, thrombin, vasopressin và sự cả sự ứ trệ không lưu thông của tuần hoàn. Tế bào nội mạc cũng sản xuất các chất PGI2 hoặc thromboxan A2 (TXAọ), các chất này có tác dụng phân giải huyết khối.

Bên cạnh các yếu tố chống huyết khối, tế bào nội mạc có thể sản xuất yếu tố tạo huyết khối và đông máu là von Willebrand (von Willebrand factor = vWF), yếu tố ức chế hoạt hóa plasminogen (plasminogen activator inhibitor-1 (PAI-1)), yếu tố hoạt hóa tiểu cầu (PAF). Các yếu tố này được tạo ra khi có tình trạng viêm hoặc các chất kích thích khác như interleukin-1 (IL-1), yếu tố hoại tử u (TNF-a), lipopolysaccharid và LDL bị oxy hoá.

Như vậy, thông qua các hoạt động chuyển hóa, tổng hợp và điều hoà, sự toàn vẹn của hệ thống nội mạc có vai trò quan trọng đảm bảo sự ổn định nội môi của hệ mạch máu.

Rối loạn chức năng nội mạc

Rối loạn chức năng nội mạc, về mặt hình thái, là sự thay đổi kiểu hình của nội mạc mạch máu từ trạng thái ổn định sang trạng thái không ôn định, không có khả năng thích ứng với những thay đổi của cơ thê. Trạng thái này được đặc trưng bởi mất hoặc rối loạn điều hoà sự ổn định nội môi. Nói cách khác, rối loạn chức năng nội mạc là hậu quả của các tôn thương thực sự của tế bào nội mạc. Những rối loạn này tác động đến chức năng điều hoà trương lực mạch máu, chức năng thấm của nội mạc, sự cân bằng giữa đông máu và phân giải fibrin. Các rối loạn hình thái và chức năng nội mạc cũng tạo ra sự thoát mạch của bạch cầu, sự tăng sinh của các tế bào cơ trơn mạch máu.

Rối loạn chức năng nội mạc làm tăng bám dính ảnh hưởng đến di chuyên của các bạch cầu, các tế bào đơn nhân, đại thực bào, các lipoprotein vào trong thành động mạch. Đây là giai đoạn đầu tiên tạo nên các tế bào bọt trong quá trình xơ vữa động mạch.

Rối loạn chức năng nội mạc làm giảm sản xuất NO và prostacyclin làm tăng khả năng bám dính tiểu cầu và đồng thời là sự tăng sản xuất các yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc tiểu cầu (platelet-derived growth factor – PDGF), yếu tố hoạt hóa tiểu cầu (platelet activating factor – PAF). Hậu quả cuối cùng là co mạch, di trú và tăng sinh của các tế bào cơ trơn.

In vivo, đặc trưng của tổn thương nội mạc khởi đầu bằng sự giảm sút các yếu tố giãn mạch và tăng các yếu tố co mạch. Zeiher và cộng sự đã phát hiện thấy có hiện tượng rối loạn chức năng nội mô trong tuần hoàn vành ở những người bệnh có nguy cơ cao về bệnh tim mạch nhưng không có bất cứ bằng chứng nào của xơ vữa khi chụp mạch. Một số tác giả đã chứng minh rằng sự suy giảm chức năng nội mạc liên quan đến tuổi, tăng cholesterol máu, hút thuốc lá, tăng huyết áp, bệnh đái tháo đường và suy tim. Người ta cũng thây rối loạn chức năng nội mạc xảy ra từ rất sớm, trước khi có tăng huyết áp. Những rối loạn này có cả ở những người khoẻ mạnh không có yếu tố nguy cơ tim mạch nhưng có tiền sử gia đình có bệnh mạch vành. Dấu hiệu xảy ra sớm biêu hiện bằng sự suy giảm các chất giãn mạch có nguồn gốc nội mạc. Như vậy có thể đặt câu hỏi liệu có thể có yếu tố gen trong sinh bệnh học điểu hoà chức năng bài tiết của các tế bào nội mô?.

Như vậy, khi chức năng nội mạc bị rối loạn bởi các tác nhân khác nhau, cân bằng của các chất hoạt mạch bị phá vỡ, sản phẩm NO giảm xuống dẫn đến tăng hiện tượng co mạch, tăng kết dính tiểu cầu, các bạch cầu đơn nhân sẽ bám vào lớp nội mạc và xâm nhập vào lớp dưới nội mạc của thành mạch máu và chuyển thành đại thực bào khi có sự hiện diện của LDL-C đã bị oxy hoá, các tế bào đại thực bào sẽ phóng thích ra các yếu tố tăng trưởng, đưa đến sự hình thành các tổn thương ở lớp nội mạc khởi đầu cho quá trình xơ vữa động mạch.

Đái tháo đường và rối loạn chức năng tế bào nội mạc

Nhiều nghiên cứu cho thây, có sự rổì loạn chức năng nội mạc ở người bệnh đái tháo đường. Đó là quá trình suy giảm tác dụng của NO nội mạc gây ra bởi giảm tổng hợp và tăng giáng hoá. Có một số đặc điểm cần lưu ý:

  • Trong bệnh đái tháo đường quá trình giáng hoá của glucose theo con đường polyol sẽ làm suy giảm tỷ lệ NADPH/NADP+ và tăng tỷ lệ NADH/NAD+ trong bào tương. Chính sự bất thường về các tỷ lệ này làm mất khả năng hồi phục của các phân tử chống oxy hoá và tăng sản xuất các các anion superoxid (02~)-
  • Glucose cao trong máu sẽ tăng phân giải thành diacylglycerol (DAG) và tăng hoạt hóa protein kinase Các chất này sẽ ức chế nitric oxid synthase (NOS) nội mạc và tăng sản xuất các chất prostaglandin. Bên cạnh đó, protein kinase c hoạt hóa cũng gây tăng tổng hợp các yếu tố tăng trưởng có nguồn gốc nội mạc như: VEGF (vascular endothelial growth factor), EGF (epidermal growth factor), TGFp (transíbrming growth factor P) làm thúc đẩy hiện tượng di trú và tăng sinh các tế bào cơ trơn mạch máu. Sự hoạt hóa protein kinase c cũng làm tăng nồng độ ET-1. Ngoài ra, người ta cũng ghi nhận sự tăng nồng độ của PAI-1, Von Willebrand, tăng yếu tố X (yếu tố chưa được biết đến), fibrinogen hoạt hóa đồng thời có sự suy giảm của prostacyclin ở người bệnh đái tháo đường typ 2. Hậu quả của sự rối loạn thăng bằng này là rổì loạn chức năng thành mạch, tạo điều kiện tổn thương lớp tế bào nội mô, tạo mảng xơ vữa.
  • Tăng glucose máu sẽ tạo ra nhiều sản phẩm đường hoá cuối cùng (AGE – advanced glycation end Products) thông qua con đường hoạt hóa protein không cần enzym. AGE gây bất hoạt NO và tăng tính nhạy cảm của LDL-C với sự oxy hoá. Sự tương tác giữa AGE và receptor đặc hiệu của chúng (RAGE) trên tế bào nội mạc dẫn đến tăng thrombomodulin và hoạt hóa các receptor của các cytokin như interleukin-1 (IL-1), yếu tố hoại tử u (TNF a) và các yếu tố tăng trưởng dẫn đến hiện tượng di trú và tăng sinh các tế bào cơ trơn mạch máu.
  • Tình trạng glucose máu tăng cao còn làm tăng nồng độ VCAM-1 trong huyết tương cũng như các phân tử bám dính khác (như E- Selectin) – cơ chế chưa biết rõ. Sự thay đổi tính thấm của mạch máu này thuận lợi cho sự di trú của các tế bào đơn nhân và các monocyte sẽ biến đổi thành các đại thực bào và sau đó là các tế bào bọt.
  • Quá trình tự gluco – oxy hoá, sự đường hoá protein không cần enz.ym và giảm các chất chống oxy hoá trong môi trường đường máu cao dẫn đến tạo ra các gốc tự do (bao gồm superoxid anion, gốc hydroxyl and hydrogen peroxid). Các gốc tự do mới được hình thành gây ức chế hoạt tính sinh học của NO bởi quá trình làm giảm tổng hợp NO tại tế bào nội mạc và bất hoạt NO ở khu vực dưới nội mạc. Hậu quả là ngăn chặn khả năng giãn mạch của các tế bào cơ trơn. NO còn nhanh chóng phản ứng với 02 để tạo thành peroxynitri sản phẩm này thúc đẩy sự oxy hoá LDL.
  • Ở người bệnh đái tháo đường còn có sự suy giảm các tác nhân chống oxy hoá, suy giảm các enzym gây tiêu huỷ các gốc tự do tự nhiên của cơ thể như: SOD (superoxid dismutase), CAT (catalase) và GTP (glutathion peroxidase). Ngoài ra, một số chất chống oxy hoá khác cũng bị suy giảm như ascorbat, tochopherol. Nguyên nhân của sự suy giảm này do sự giảm sút NADPH bởi con đường polyol hoặc do sự đường hoá cũng như sự bất hoạt của các protein chống oxy hoá.
  • Tình trạng kháng insulin thường thấy ở người bệnh đái tháo đường typ 2 cũng là nguyên nhân gây rối loạn chức năng của tế bào nội mô.

Insulin tác động vào chức năng tế bào nội mạc bằng cả 2 cách: trực tiếp hoặc gián tiếp. Trực tiếp là do insulin là chất truyền tin thứ 2 trong quá trình tổng hợp NO cơ sở. Gián tiếp, là vì insulin hoạt hóa tổng hợp NO theo con đường từ L-argynin.

Trong tình trạng kháng insulin, sản phẩm NO giảm xuống. Mặt khác, khi có tình trạng kháng insulin sẽ tăng sản xuất các acid béo tự do càng làm suy giảm chức năng tế bào nội mạc.

Tóm lại, khi hàm lượng glucose máu tăng cao đã kéo theo hàng loạt các biến đổi ngay trong phạm vi môi trường của hệ mạch máu. Hậu quả là bất hoạt các chức năng của hệ thống nội mạc, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển của tổn thương xơ vữa mạch máu.

Lớp áo ngoài của thành mạch

Gồm lớp cơ hoặc mô đàn hồi cũng có thể bị phá huỷ, làm mất khả năng đàn hồi của thành mạch.

Đái tháo đường là một yếu tố nguy cơ độc lập với bệnh lý mạch vành

Đái tháo đường là yếu tố nguy cơ cho nhiều bệnh mạn tính, đặc biệt là bệnh tim mạch, bệnh mắt (mù loà, đục thuỷ tinh thể), suy thận, bệnh lý thần kinh (tự động và ngoại vi), gây tổn thương chi dẫn đến cắt cụt chi.

Người bị mắc bệnh đái tháo đường có nguy cơ bệnh mạch vành tăng từ 2 – 3 lần so với người bình thường. Bệnh lý mạch vành của những phụ nữ bị mắc bệnh đái tháo đường cũng tăng cao, gần như tương đương với nam giới bị mắc bệnh đái tháo đường, ngay cả ở trước tuổi mạn kinh.

  • Ở người dái tháo đường typ 2

Bệnh lý mạch máu lớn (mạch vành, mạch não và mạch ngoại vi) chiếm tới 80% nguyên nhân gây tử vong. Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh mạch máu xuất hiện ở lứa tuổi trẻ hơn (so với người không bị mắc bệnh đái tháo đường)

  • Ở người đái tháo đường typ 1

Mặc dù tỷ lệ tử vong do bệnh mạch vành thấp hơn so với người mắc bệnh đái tháo đường typ 2, nhưng nếu so vâi người cùng tuổi không bị đái tháo đường thì vẫn cao hơn gấp 11 lần. Bệnh động mạch vành tim gây tử vong vào khoảng 25% người đái tháo đường trước 20 tuổi, tử vong do các bệnh lý khác của tim 27%; do đột quỵ 6% ở người đái tháo đường typ 1 dưới 45 tuổi. Bệnh lý thận ở người đái tháo đường typ 1 có tăng huyết áp chiếm một tỷ lệ lớn trong số các nguyên nhân gây tử vong. Các yếu tố khác như tăng huyết áp – tỷ lệ bệnh này cao ở người đái tháo đường typ 1 so với người thường – hút thuốc lá và những bất thường về chuyến hoá lipid, đều làm tăng nguy cơ tổn thương mạch máu.

Những bất thường về chuyển hóa lipid có ảnh hưởng khác nhau, phụ thuộc vào đặc điểm của nhóm quần thể nghiên cứu như tuổi, giới, typ đái tháo đường, mức độ béo phì, tình trạng quản lý glucose máu, thuốc sử dụng và tình trạng các tuyến nội tiết khác như tuyến giáp, tuyến thượng thận. Người bệnh đái tháo đường typ 1 nếu glucose máu được kiếm soát tốt, thì nồng độ lipid không khác với nhóm chứng cùng nhóm tuổi và khả năng tình dục cũng không bị ảnh hưởng.

Thực tế nồng độ cholesterol, tỷ lệ cholesterol toàn phần và HDL-C (CHOLESTEROL/HDL), nồng độ triglycerid, ở người bệnh đái tháo đường typ 1 kiểm soát glucose máu kém đều cao hơn so với người bình thường. Chúng là những yếu tố nguy cơ với bệnh lý mạch vành. Ngay cả khi nồng độ lipid máu ở mức chấp nhận được, sự phân huỷ các lipoprotein bình thường và cả các lipoprotein có kết cấu bất thường khác do đái tháo đường cũng có thể làm nặng thêm quá trình xơ vữa mạch.

Microalbumin niệu dương tính cũng là một yếu tố nguy cơ với bệnh lý mạch vành. Nhiễm toan ceton ở người đái tháo đường có thể có liên quan với tăng nồng độ triglycerid máu cao nhất thời.

Xác định sớm các biến chứng để có can thiệp phù hợp, đóng vai trò quyết định, quan trọng trong việc làm giảm tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ tử vong do biến chứng mạch máu gây ra. Điều mà các nhà thực hành cần nhớ là các triệu chứng của bệnh không giống như người không bị đái tháo đường. Ví dụ, nếu bị bệnh mạch vành thay vì đau ngực người bệnh lại cảm thấy khó thở.

Bệnh mạch vành tim, bệnh mạch máu ngoại vi, bệnh mạch máu não thường xảy ra sớm với các mức độ nặng hơn ở những người đái tháo đường. Chính vì thế, ngày nay người ta coi đái tháo đường là yếu tố nguy cơ bậc nhất với bệnh xơ vữa động mạch vành.

Béo phì và hội chứng chuyển hóa

Ngoài chỉ số BMI khác nhau theo dân tộc, theo vùng địa lý, người ta còn chú ý đến dạng béo phì. Nguy hiểm nhất là thể béo trung tâm – (tỷ lệ W/H trên 0,9 ở nam và trên 0,75 ở nữ). Người béo phì, có W/H cao, có tăng huyết áp, có rối loạn lipid máu thì tỷ lệ bệnh tim mạch cao hơn chỉ có béo phì đơn thuần.

Tăng huyết áp và hút thuốc lá

Là những yếu tố nguy cơ chính của bệnh lý mạch vành. Một điều tra ở lứa tuổi 22 – 44 thấy, có 29% người đái tháo đường có tăng huyết áp, hút thuốc lá có bệnh lý mạch vành (so với 8% bệnh mạch vành ở nhóm người không bị đái tháo đường).

ít hoạt động thể lực

Cũng là yếu tố nguy cơ cho bệnh tim mạch cho cả người bệnh đái tháo đường và không đái tháo đường.

Bệnh lý về thận

Các tổn thương thận, dù mới mắc với mức độ nhẹ như chỉ có microalbumin niệu cũng là dấu hiệu báo trước có yếu tố nguy cơ cho bệnh mạch máu.

Sinh lý bệnh của các biến chứng tim mạch do đái tháo đường.

Tăng nguy cơ bệnh tim mạch ở những người mắc bệnh đái tháo đường được giải thích một phần bằng sự tụ hợp của các yếu tố nguy cơ, nhất là rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, tăng glucose máu mạn tính, tăng insulin máu và rối loạn các yếu tố tiền đông máu.

Mức insulin, đề kháng insulin, và tăng glucose máu

Đề kháng insulin, thường có nhiều năm, thậm chí hàng chục năm, trước khi khởi phát lâm sàng bệnh đái tháo đường. Kháng insulin có liên quan với các yếu tố gây xơ vữa như tăng huyết áp, các bất thường lipid và tình trạng rối loạn tiền đông máu. Các yếu tố này vừa là nguyên nhân, vừa là yếu tố thúc đẩy quá trình xơ vữa động mạch nhiều năm trước khi xuất hiện tăng glucose máu. Một số nghiên cứu đã cho thấy có sự tương quan nghịch giữa độ nhạy cảm insulin và xơ vữa động mạch. Các nhà nghiên cứu sử dụng dữ liệu của nghiên cứu Bruneck đã cho thấy, những yếu tố nguy cơ này có mặt ở 84% người bệnh đái tháo đường týp 2. Một thực tế là, tỷ lệ mắc bệnh tim mạch tăng rõ rệt ở những người bệnh có rối loạn dung nạp glucose và/ hoặc suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói( pre-diabetes) tương tự như ở những người có đái tháo đường týp 2 mới được chẩn đoán. Tuy cho đến nay người ta chưa tìm thấy sự liên quan rõ ràng giữa mức độ hoặc độ nặng của các biến chứng mạch máu lớn với thời gian hoặc mức độ nặng của đái tháo đường týp 2. Muốn tìm được mối liên quan này điều kiện bắt buộc là phải biết khi nào thì xuất hiện đề kháng insulin.

Vấn đề còn là mức insulin huyết tăng có tác động trực tiếp vào tim mạch như thế nào? Mức độ ảnh hưởng phụ thuộc vào những yếu tố nào?. Câu hỏi này được đặt ra khi Despres và cs công bố một nghiên cứu theo dõi 2000 nam giới đái tháo đường không có bệnh tim mạch lâm sàng rõ ràng trong 5 năm; kết quả: những người có biến cố tim mạch thì có mức insulin huyết tăng 18% cao hơn so với nhóm chứng.

Mức glucose huyết tăng là một yếu tố nguy cơ quan trọng với bệnh tim mạch. Anderson và Svardsudd đã chứng minh mức glucose huyết tăng lúc đói liên quan độc lập với tử vong do mọi nguyên nhân và do tim mạch. Nghiên cứu tim San Antonio cũng có kết luận tương tự đối với những đối tượng ở tứ phân vị cao nhất của đường máu, những người có tăng 4,7 lần nguy cơ bệnh tim mạch so với những người ở 2 tứ phân vị thấp nhất gộp lại.

Mốĩ liên quan trực tiếp giữa mức glucose máu và bệnh tim mạch cũng khá chặt chẽ ở người bệnh đái tháo đường týp 1; tăng 1% HbA1c làm tăng gấp đôi khả năng mắc các bệnh tim mạch. Người ta cũng thấy mối liên quan trực tiếp giữa mức glucose huyết với các biến chứng lâm sàng như nhồi máu cơ tim, đột qụy.

Rối loạn lipid máu

Một cơ chế quan trọng trong quá trình phát triển xơ vữa động mạch do đái tháo đường là rối loạn lipid máu. Đặc điểm trung tâm của rối loạn lipid máu đái tháo đường là tăng mức VLDL do cả tăng sản xuất VLDL và giảm dị hóa các lipoprotein giàu Ttriglycerid, bao gồm các chylomicron. Tăng sản xuất VLDL ở gan xảy ra trong quá trình đáp ứng với tăng cung cấp các acid béo tự do. Tăng lượng acid béo tự do thường từ hai nguồn chính là do giảm thu nhận acid béo tự do ở cơ vân và tăng cung cấp acid béo tự do từ mô mỡ( do tăng khốĩ lượng mô mỡ liên quan đến béo trung tâm, béo tạng).

Sự tăng các lipoprotein giàu triglycerid tích tụ lại không chỉ do tăng sản xuất VLDL mà còn do giảm dị hóa các lipoprotein chứa triglycerid. Lipoprotein lipase, có vai trò quan trọng trong chuyển hóa các lipoprotein giàu triglycerid, đặc biệt là các chylomicron. Các Lp bị giảm đi trong bệnh đái tháo đường týp 2, nhất là khi mức glucose máu không được kiểm soát tốt.

Tăng mức các lipoprotein giàu triglycerid còn làm tăng cung cấp cơ chất cho cholesterol ester transíer protein (CETP). Qúa trình này thúc đẩy dòng cholesterol từ các hạt HDL, dẫn đến giảm mức HDL, một đặc điểm thường gặp trong đái tháo đường týp 2. Tuy nhiên các cơ chế khác cần phải được nghiên cứu, vì mức HDL thấp vẫn có thể xảy ra khi không có tăng triglycerid máu. Mức độ giảm HDL thường không liên quan đến mức độ kiểm soát mức glucose máu hoặc với phương pháp điều trị đái tháo đường týp 2. Cơ chế của tác động bảo vệ của HDL chống lại xơ vữa động mạch có thể là khả năng ngăn chặn sự o-xy hóa LDL. Vấn đề khác cũng cần lưu tâm là có thể có những khác biệt về chất lượng của HDL của người bệnh đái tháo đường kiểm soát kém làm cho khả năng hoạt động chổng o-xy hóa của nó ít hiệu quả hơn so với HD1 của người bình thường.

Tuy tăng rõ rệt LDL-c không phải là đặc trưng của rối loạn lipid máu ở người bệnh đái tháo đường typ 2, nhưng có thể có những khác biệt về dưới týp LDL ở những đối tượng này. Cụ thể là LDL nhỏ hơn và đặc hơn so với các hạt LDL điển hình; những hạt LDL nhỏ và đặc hơn này có xu hướng bị o-xy hóa lớn hơn, làm tăng quá trình xơ vữa động mạch.

Tăng stress o-xy hóa trong đái tháo đường

Gần đây có bằng chứng rằng tăng stress o-xy hóa trong đái tháo đường là yếu tố góp phần vào quá trình phát triển của các biến chứng đái tháo đường. Tăng stress có thể là hậu quả do giảm sự có mặt của các chất chống o-xy hóa như acid ascorbic, vitamin E, acid uric và glutathion. Thêm vào đó, có thể có tăng các sản phẩm peroxid hóa lipid và các sản phẩm superoxid anion, điều có thể dẫn đến thay đổi chức năng mạch máu.

Tăng stress o-xy hóa còn có thể là kết quả của một số con đường, tạo ra các sản phẩm tận của glycat hóa mạnh; hình thành LDL nhỏ và đặc; tăng hoạt tính polyol; hoặc mất cân bằng tình trạng o-xy hóa khử. Sự hoạt hóa con đường polyol này có thể do sự chuyển glucose thành sorbitol nhò các aldolase reductase. Các sản phẩm này có liên quan đến các biến chứng vi mạch.

Nghiên cứu đánh giá dự phòng bệnh tim bằng chất chống o-xy hóa- vitamin E với liều 400 UI trong thời gian trung bình 4,5 năm đã không có hiệu quả rõ rệt đối với tử vong và bệnh tim mạch ở cả hai đối tượng, những người bệnh đái tháo đường và người không mắc đái tháo đường. Nhưng trị liệu với liều cao vitamin E (1800 IU /ngày) có khả năng làm bình thường hóa các bất thường huyết động ở võng mạc và cải thiện chức năng võng mạc.

Stress o-xy hóa cũng có vai trò trong sự hình thành một số AGE, bao gồm pentosidin và N-e-carboxymethyllysine (CML), hoạt hóa con đường diacylglycerol-protein kinase c (DAG-PKC).

Các sản phẩm tận của glycat hoá trong đái tháo đường

Các AGE xuất hiện như kết quả của quá trình glycat hóa không enzym các lipid và protein. Ban đầu, một cầu đồng hóa trị không ổn định xuất hiện giữa aldehyde cuả phân tử glucose và chuỗi bên của các amino acid của cả đường và lipid. Cụ thể là glucose được kết nối đồng hóa trị với các gốc lysine trên các protein, tạo thành các gốc fructose- lysine. Phản ứng này dẫn đến sự phát triển của bazơ Schiff, mà đến lượt nó lại gây phản ứng hóa học để tạo thành ketoamine, được gọi là sản phẩm Amadori. Những sản phẩm này gây tổn thương quá trình o-xy hóa, chúng được tích luỹ lại và gây độc đối với các protein. Những sản phẩm này bao gồm CML và pentosidine. Trong thực tế tăng mức pentosidine và CML trong máu luôn có tương quan với mức độ nặng của các biến chứng đái tháo đường, bao gồm bệnh thận, bệnh võng mạc và bệnh mạch máu. Một sản phẩm Amadori là hemoglobin glycat hóa (hoặc glycosyl hóa)Alc(HbA1c), thường được sử dụng để theo dõi chất lượng kiểm soát glucose máu ở người bệnh đái tháo đường. Vì cả o-xy hóa và glycat hóa gốc tự do đều có liên quan đến quá trình tạo ra thành phẩm, các chất này được gọi là các sản phẩm glyoxy hóa( glyoxydation product).

Các AGE liên kết chéo với các protein cấu tạo nên chất ngoại bào và màng đáy của mạch máu; hậu quả là làm giảm độ hòa tan và giảm quá trình giáng hóa bằng enzym. Sự hình thành AGE cũng ngăn chặn sự lắp ráp các protein màng đáy, do đó làm thay đổi chức năng của chúng. Hậu quả này lại làm thay đổi khả năng của các tế bào gắn vào các cơ chất của chúng.

Các AGE có nguồn gốc từ quá trình o-xy hóa các lipid. Các chuỗi bên của các acid béo không bão hòa bị o-xy hóa, sẽ tạo ra các đoạn chứa carbonyl phản ứng [malondialdehyde (MDA), glyoal 4-hydroynonenal (4- HNE)] và sau đó phản ứng với các nhóm amino, chủ yếu là các gốc lysine.

Tăng glycat hóa, o-xy hóa và glyoxy hóa các lipoprotein có thể là nguyên nhân của quá trình phát triển bệnh mạch máu lớn trong bệnh đái tháo đường. Chắc chắn mức LDL-apoprotein và LDL-lipid bị biến đổi bởi AGE ở những người mắc đái tháo đường tăng cao so với những người không mắc đái tháo đường. Cũng có thể suy luận rằng, chất lượng kiểm soát glucose máu và các yếu tố nguy cơ tim mạch khác, sự phát triển của các biến chứng mạch máu sẽ phụ thuộc vào sự khác biệt về stress o-xy hóa cũng như mức( nồng độ) các chất o-xy hóa ở mô.

Vlassara và cs phát hiện ra được một thụ thể của các AGE trên monocyte/đại thực bào, được gọi là RAGE( Receptor for ACEs). Sự tương tác với AGE và thụ thể của nó có thể làm giải phóng các cytokin, yếu tố hoại tử u (TNF) và interleukin-1. Các cytokin khác cũng được tìm thây như yếu tố tổng hợp và giải phóng hoạt tính tiền đông máu và yếu tố hoạt hóa tiểu cầu (PAF)- được bài tiết bởi các tế bào nội mạc, cũng như sự cảm ứng yếu tố tăng trưởng nguồn gốc tiểu cầu (PDGF-AA). Các yếu tố này đều có thể là nguyên nhân gián tiếp gầy tăng sinh nguyên bào sợi và tế bào cơ trơn, ngoài ra, tăng tương tác với thụ thể AGE còn làm tăng khả năng hoạt động của phân tử kết dích mạch (VCAM), dẫn đến tăng xơ vừa động mạch.

Vai trò quan trọng của thụ thể AGE trong quá trình phát triển xơ vữa động mạch ngày càng được quan tâm, nhất là gần đây người ta đã chứng minh được rằng xơ vữa động mạch sẽ nhẹ đi rất nhiều ở chuột bị mất gen apo-lipoprotein E gây xơ vữa – khi chúng được cho dùng đoạn kháng thể trung hòa RAGE.

Huyết khối và ly giải fibrin trong đái tháo đường

Vỡ mảng xơ vữa với huyết khối phủ lên trên là nguyên nhân chủ yếu của các hội chứng mạch vành cấp, nhồi máu cơ tim (MI), đột tử, đột qụy. Vì những người bệnh đái tháo đường týp 1 và đái tháo đường týp 2, đặc biệt là những người mắc đái tháo đường týp 2, có tỷ lệ hội chứng mạch vành cấp cao hơn so với dân số không mắc đái tháo đường, người ta đã đặt câu hỏi rằng các rối loạn trong quá trình tiền đông máu, các phản ứng của cơ thể trong tình trạng trước khi tạo ra huyết khối động mạch có vai trò thế nào trong quá trình phát triển của các biến chứng mạch máu lớn này.

Có những vấn đề thuộc về cơ chế cơ bản của tình trạng rối loạn tiền huyết khối đó là; tăng tính phản ứng của tiểu cầu, tăng hoạt tính tiền huyết khối, giảm hoạt tính chống huyết khối và hoạt tính ly giải íĩbrin. Những thành phần chủ yếu của huyết khối là các tiểu cầu và fibrin. Qúa trình đông máu được khởi phát bởi sự phơi nhiễm của yếu tố mô trong mảng xơ vữa vào lúc mảng xơ vữa bị vỡ. Hoạt hóa yếu tố VlI/VIIa, tạo thành “phức hợp tenase- phức hợp có tính bền vững” với các yếu tố X và V, dẫn đến sự hoạt hóa thrombin. Thrombin kích thích tính phản ứng của tiểu cầu; sự chuyển fibrinogen thành fibrin, sinh ra huyết khối.

Thông thường, ở những người mắc đái tháo đường đều có tăng khôi tiểu cầu lưu hành, tăng khả năng gắn kết của tiểu cầu với thành mạch. Các nghiên cứu in vitro đã chứng minh có tăng ngưng tập tiếu cầu trong đáp ứng các chất đồng vận ADP, collagen và thrombin;, thậm chí là sự ngưng tập tự nhiên tiểu cầu mà không cần có bất kỳ chất đồng vận nào.

Sự đánh giá tính phản ứng của của tiểu cầu in vivo bằng đo các chất chuyên hóa trong máu và nước tiểu được giải phóng từ các tiểu cầu hoạt hóa như thromboxane B2 củng cho thấy có tăng tính phản ứng; khi so sánh với những đối chứng là người khoẻ mạnh bình thường. Người bệnh mắc đái tháo đường có tăng nồng độ íibrinogen, yếu tố Wilebrand và yếu tố VII. Tuy các cơ chế tăng nồng độ các yếu tố này còn phải được chứng minh sự hiện diện của mối tương quan của íĩbrinogen với mức proinsulin và insulin trong máu.

Người ta cũng còn thấy hoạt tính của các yếu tố chống huyết khối, bao gồm protein c và các antithrombin, giảm đi ở những đối tượng mắc đái tháo đường. Hiện tượng này làm tăng cường hơn nữa tình trạng tăng đông.

Qúa trình ly giải íibrin cũng bị rối loạn ở những người mắc đái tháo đường, đặc biệt là những người mắc đái tháo đường týp 2. Những rối loạn này có thể do tăng hoạt tính của PAI-1 trong máu, chống lại hoạt động của chất hoạt hóa plasminogen mô tự nhiên (t-PA) để gây ra ly giải fibrin. PAI-1 tăng lên không chỉ trong trạng thái nghỉ mà còn trong đáp ứng với các kích thích tự nhiên. Mức PAI-1 huyết tương cũng có thể tăng do hậu quả của các rối loạn khác; ví dụ, tăng insulin, lipid và glucose. Một điều chắc chắn là rối loạn hệ thống ly giải íĩbrin sẽ làm nặng thêm quá trình hình thành và phát triển dai dẳng của các huyết khối, dẫn đến tăng nguy cơ tắc mạch.

Chức năng nội mạc trong đái tháo đường

Những thay đổi chức năng nội mạc đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các biến chứng đái tháo đường. Giảm tưới máu ở nhiều cơ quan đã được chứng minh như ở thận, võng mạc và hệ mạch nuôi dưỡng các dây thần kinh ngoại vi. Người bệnh mới mắc đái tháo đường đã có giảm dòng máu đến võng mạc bởi sự tăng kháng trở mạch. Cơ chế của sự tăng kháng trở mạch này còn nhiều tranh cãi; song có thể một phần là do tăng kinase truyền tín hiệu giữa các tế bào, protein kinase c (PKC). Sự tăng PKC này có thể dẫn đến tăng endothelin-1. Người ta đã chứng minh rằng các bất thường về đặc điểm huyết động có trước bệnh thận đái tháo đường khá lâu; cả quá trình tăng lọc cầu thận cũng chịu ảnh hưởng một phần bởi tăng nồng độ glucose máu lên kháng trở tiểu động mạch.

Nội mạc mạch có vai trò quan trọng trong điều việc điều biến tương tác tế bào máu-thành mạch, điều hoà luân chuyển dòng máu, sinh mạch máu, chuyển hóa lipoprotein và vận mạch. Một chất trung gian quan trọng trong duy trì cân bằng nội môi mạch máu là yếu tố thư giãn nguồn gốc nội mạc (endothelium-derived relaxing factor, EDRF), yêu tô này được xem là “tiền thân’’ của nitric oxid. Sự giải phóng nitric oxid guanylate cyclase hòa tan, dẫn đến sự hình thành guanosin monophosphat vòng (cGMP), hoạt hóa các protein kinase phụ thuộc cGMP, làm giãn cơ trơn của mạch. Những thay đổi về biểu lộ, giải phóng hoặc hoạt tính của EDRF đều có thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình khởi phát và tiến triển của cả bệnh mạch máu nhỏ và mạch máu lớn. Tuy cơ chế này chưa được biết rõ, nhưng cho đến nay người ta vẫn cho rằng, tăng đường máu mạn tính có vai trò quan trọng gây rối loạn sự giãn mạch phụ thuộc nội mạc ở cả mạch máu lớn và mạch máu nhỏ. Insulin cũng có vai trò nhất định. Insulin gây ra giãn mạch một phần là do sản xuất nitric oxid. Các thực nghiệm kẹp glucose bằng truyền insulin đã cho thấy những đối tượng mắc đái tháo đường týp 2 ít có khả năng cải thiện tình trạng giãn mạch phụ thuộc nội mạc so với những đối tượng không mắc đái tháo đường.

Một căn nguyên có thể gặp khác của sự rối loạn chức năng nội mạc được tìm thấy ở những người mắc đái tháo đường là sự hình thành chất ức chế cạnh tranh nội sinh với nitric oxide synthase, dimethylarginin không đối xứng (asymmetric dimethylarginine, ADMA); ADMA thường tăng lên ở những đối tượng mắc bệnh đái tháo đường.

MỐI LIÊN QUAN GIỮA BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG VÀ TIM MẠCH

Bệnh tim mạch ở người đái tháo đường

  • Nguy cơ mắc bệnh

Người đái tháo đường cũng dễ bị mắc các bệnh tim mạch, gấp 2 – 4 lần so với người bình thường. Người đái tháo đường có bệnh tim mạch là 45% (so với 25% ở người bình thường).

Nghiên cứu ở người bệnh suy tim sung huyết sau 3 năm thấy 30% xuất hiện đái tháo đường typ 2.

  • Nguy cơ gây tử vong

Nguyên nhân tử vong do bệnh tim mạch chung chiếm 70% tử vong ở người bệnh đái tháo đường.

Một nghiên cứu liên tục trong 9 năm ở Hoa kỳ, lứa tuổi 65 – 74 (số liệu năm 1993) cho thấy:

– Tử vong do bệnh tim – đái tháo đường ở nam là 4,9%, ở nữ là 3,2% (người không đái tháo đường tỷ lệ này ở nam là 1,9%, nữ là 0,9%).

– Tử vong do thiếu máu cục bộ-đái tháo đường là 3,8% ở nam, ở nữ là 2,3% (người không đái tháo đường tỷ lệ này ở nam là 1,3%, nữ là 0,7%).

Nguy cơ tử vong ở người đái tháo đường do bệnh lý mạch vành so với người không bị đái tháo đường cao gấp 3 – 4 lần.

Chất lượng quản lý glucose máu và bệnh tim mạch

Tỷ lệ bệnh tim mạch tăng cao có liên quan đến tình trạng kiểm soát glucose máu kém, người ta đã chứng minh được rằng, cứ tăng 1% HbAjC thì các yếu tố nguy cơ về bệnh lý tim mạch tăng lên từ 10 – 30%.

Các công trình nghiên cứu có giá trị như DCCT và UKPDS, dùng liệu pháp điều trị tích cực nhằm quản lý tốt hàm lượng glucose máu, thấy tỷ lệ biến chứng tim mạch hạ đáng kể.

Trong một nghiên cứu của bệnh viện Nội tiết, kết hợp với viện Lão khoa Việt nam, dùng phương pháp thăm dò không xâm nhập – phương pháp đo đáp ứng giãn mạch qua trung gian dòng chảy ( FMD), để đánh giá, thăm dò chức năng nội mạc. Kết quả cho thấy:

  • Có sự suy giảm có ý nghĩa về chỉ số FMD ở người bệnh đái tháo đường typ 2, so với người bình thường.
  • Có sự suy giảm có ý nghĩa về chỉ số FMD ở những người mắc bệnh đái tháo đường kèm theo các yếu tố nguy cơ khác như tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid so với người mắc bệnh đái tháo đường không kèm theo các yếu tố nguy cơ kể trên.
  • Tình trạng kiểm soát glucose máu, biểu hiện bằng chỉ số HbA1c, có ảnh hưởng đáng kể đến chức năng nội mạc, HbA1c càng cao thì FMD càng giảm.

Qua nghiên cứu này có thể rút ra kết luận rằng, chức năng nội mạc, biểu hiện bằng chỉ số FMD, tăng có ý nghĩa ở nhóm được điều trị tích cực khi so sánh với nhóm điều trị theo kinh điển.

Tuổi thọ người bệnh đái tháo đường và bệnh tim

Tuổi thọ của người mắc bệnh đái tháo đường giảm đi đáng kể khi so.sánh với tuổi thọ trung bình của người không bị mắc bệnh đái tháo đường. Tuổi thọ càng giảm nhiều đặc biệt với người đái tháo đường mắc thêm các bệnh về tim mạch (bảng 13.1).

Bảng 13.1. Nghiên cứu tuổi thọ của người bệnh đái tháo đường sau nhồi máu cơ tim cấp.

Đái tháo đường Không Đái tháo đường Năm

sống

Tỷ lệ tử vong (%)
Tác giả n Tuổi

TB

n Tuổi

TB

Đái tháo đường Không

ĐTĐ

Mak 5944 64 888 61 1 14.5 8.9
Miettinen

Nam

437 56 2699 54 1 44,2 32,6
Nữ 183 58 746 58 1 36,9 20,2
Melchin 194 65 1760 62 10 90.0 65.0
719 69 5957 67 5 62.0 38.0

TB, Trung bình; Đái tháo đường, đái tháo đường

Một phân tích tổng hợp một số nghiên cứu đã ước tính nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch ở người bệnh đái tháo đường týp 2 là 2,58 lần ở nam và 1,85 lần ở nữ. Những số liệu nghiên cứu của của Rancho Bernardo theo dõi các đối tượng tuổi 40 – 79 trong 14 năm; thấy rằng tỷ lệ tử vong tăng ở những đối tượng mắc đái tháo đường, tỷ suất tương đố: hiệu chỉnh theo yếu tố nguy cơ là 3,3 ở nữ và 1,9 ở nam. Các yếu tố liên quan đến tỷ lệ tử vong ở những người mắc đái tháo đường bao gồm giới nam, chủng tộc da đen, thời gian mắc bệnh và việc có phải dùng insulin để cân bằng lượng glucose máu hay không.

Người ta cũng thấy các nguyên nhân tử vong ở người mắc bệnh đái tháo đường týp 2, cũng giống như người bệnh đái tháo đường týp 1, đó là các biến chứng về bệnh tim mạch và suy thận. Bệnh tim mạch, chủ yếu là bệnh động mạch vành và bệnh mạch não, chiếm 65% tử vong.

Về tuổi thọ, với nam giới mắc đái tháo đường sống trung bình ít hơn 9,1 năm và nữ sống trung bình ít hơn 6,7 năm so với những người không mắc đái tháo đường. Haffner và cs đã nghiên cứu tỷ lệ tử vong ở 1000 người mắc đái tháo đường týp 2 và 1300 người không mắc đái tháo đường và đã tìm thấy rằng tỷ lệ tử vong ở những người mắc đái tháo đường tương tự như ở những người không mắc đái tháo đường nhưng bị nhồi máu cơ tim. Những số liệu này đã gợi ý quan niệm cho rằng những người thày thuốc khi chăm sóc, điều trị những người mắc đái tháo đường phải xem như là họ đã bị nhồi máu cơ tim. Mukamal và cs khi nghiên cứu 1935 người bệnh nhập viện do nhồi máu cơ tim cấp đã tìm thấy, tỷ lệ tử vong ở những người mắc đái tháo đường được phát hiện trong giai đoạn theo dõi tuy tương tự như những người không mắc đái tháo đường nhưng bị nhồi máu cơ tim trước đó, nhưng cao gấp hai lần những người không mắc đái tháo đường và bị nhồi máu cơ tim cấp lần đầu. Malmberg và cs khi nghiên cứu các số liệu của đăng kiểm OASIS (Organization to Assess Strategies for Ischemic Syndromes) đã thấy rằng, những người bệnh mắc đái tháo đường phải nhập viện vì đau thắt ngực không ổn định hoặc nhồi máu cơ tim không có sóng Q; có thời gian nằm viện tương tự như ở những người bệnh không mắc đái tháo đường nhưng có bệnh tim mạch đã được chẩn đoán xác định.

Thực tế trong 30 năm qua người ta đã phấn đấu làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong do tim mạch ở Mỹ. Song những thành quả tiến bộ của khoa học kỹ thuật lại hầu như không có tác động gì lên tỷ lệ tử vong của người bệnh đái tháo đường týp 2. Cụ thể, tỷ lệ tử vong ở nam giới không mắc đái tháo đường có bệnh tim mạch giảm 36,4% so với giảm 13,1% ở nam giới mắc đái tháo đường; nữ không mắc đái tháo đường giảm 27% so với tăng 23% ở nữ giới mắc đái tháo đường.

Đánh giá tiên lượng

  • Tỷ lệ mắc và các yếu tố nguy cơ mắc bệnh động mạch vành trong đái tháo đường týp 1

Theo dõi lâu dài người bệnh đái tháo đường týp 1 đã chứng minh rằng những ca bệnh tim mạch biểu hiện lâm sàng đầu tiên, thường xảy ra ở lứa tuổi cuối ba mươi đến đầu bốn mươi, bất kể đái tháo đường lâm sàng xuât hiện ở tuổi thiếu niên hay vị thành niên. Nguy cơ bệnh tim mạch tăng lên nhanh sau tuổi 40; đến tuổi 55 thì 35% người mắc đái tháo đường týp 1 chết vì bệnh tim mạch so với 8%( ở cả hai giới) người không mắc bệnh đái tháo đường. Nữ giới không mắc bệnh đái tháo đường, ở lứa tuổi sau mạn kinh, mất hầu hết khả năng tự bảo vệ vốn có khỏi bệnh tim mạch; nhưng ở phụ nữ có bệnh đái tháo đường thì khả năng này mất ngay từ khi bệnh đái tháo đường xuất hiện .

Tỷ lệ hiện mắc bệnh tim mạch tăng cao trong nhóm người bệnh đái tháo đường có biến thận ( khoảng 30-40% người bệnh đái tháo đường týp 1 có biến chứng thận). Một nghiên cứu ở những người bệnh đái tháo đường có protein niệu dai dẳng – được theo dõi ở Steno Memorial Hospital; kết quả, tỷ lệ tử vong do tim mạch tăng 37 lần cao hơn so với quần thể chung, trong khi những người bệnh đái tháo đường không có protein niệu, tỷ lệ tử vong chỉ cao hơn 4,2 lần. Người bệnh đái tháo đường týp 1 được theo dõi từ khi bắt đầu có microalbumin niệu, cho thấy tỷ lệ mắc bệnh tim mạch nhiều hơn 8 lần so với những người bệnh không có microalbumin niệu. Theo Krolewski và cs, nguy cơ phát triển bệnh tim mạch ở những người bệnh có protein niệu dai dẳng cao gấp 15 lần so với người bệnh không có protein niệu. Các nghiên cứu chụp mạch máu đã cho thấy rằng hầu hết những người bệnh mắc bệnh thận đái tháo đường trên 45 tuổi có một hoặc nhiều chỗ hẹp động mạch vành có ý nghĩa lâm sàng. Dựa trên những kết quả nghiên cứu này, người ta cho rằng microalbumin niệu ở người bệnh đái tháo đường týp 1 không chỉ là dấu hiệu của bệnh thận – đái tháo đường, mà còn là một marker rõ rệt báo hiệu nguy cơ tim mạch- đái tháo đường.

Các kết luận của nhiều nghiên cứu thống nhất rằng, cơ chế góp phần vào quá trình hình thành mảng xơ vữa động mạch người bệnh đái tháo đường có biến chứng thận, sự tăng huyết áp, sẽ nặng hơn rất nhiều. Các yếu tố nguy cơ chính bao gồm tăng huyết áp, các bất thường về lipid, ly giải fìbrin và những thay đổi về đông máu. Điều đáng lưu ý là tất cả các rối loạn này đều có thể được phát hiện ở giai đoạn sớm của bệnh thận đái tháo đường; thậm chí ngay cả khi chức năng thận còn bình thường. Tăng huyết áp thường có ở những người mắc bệnh thận đái tháo đường ngay khi nồng độ creatinin máu vẫn còn bình thường. Ở giai đoạn này tăng huyết áp đã là một yếu tố làm nặng thêm bệnh tim mạch ở những người bệnh đái tháo đường týp 1. Bệnh thận đái tháo đường liên quan đến các lipoprotein gây xơ vữa, bao gồm tăng LDL, tăng VLDL, giảm HDL và tăng Lp(a). Tình trạng tăng đông được đặc trưng bởi tăng yếu tố ức chế yếu tố hoạt hóa plasminogen (PAI-1), yếu tố VII và fibrinogen. Cuối cùng, giảm chức năng thận cũng là nguyên nhân dẫn đến sự tích tụ các AGE trong tuần hoàn và ở mô.

Nguy cơ mắc bệnh thận đái tháo đường typ 1, được xác định một phần bởi chất lượng của việc quản lý lượng glucose máu. Một số nghiên cứu cũng đã xác định rằng sự nhạy cảm gen góp phần vào tỷ lệ mắc cao bệnh tim mạch ở những người bệnh đái tháo đường týp 1 mắc bệnh thận.

Mối liên quan giữa bệnh tim mạch và bệnh thận cũng được nghiên cứu khá kỹ. Bệnh tim mạch là nguyên nhân tử vong thường gặp, gấp 2 lần ở cha mẹ của những người bệnh mắc bệnh thận so với những người bệnh đái tháo đường không mắc bệnh thận. Trong số những người có bệnh thận đái tháo đường, có biến chứng tim mạch, người có tiền sử gia đình có bệnh tim mạch cao gấp 6 lần so với người bệnh thận đái tháo đường nhưng không có biến chứng tim mạch trong tiền sử. Một thống kê khác, tiền sử bệnh tim mạch ở cả cha và mẹ hoặc chỉ ở cha của người bệnh đái tháo đường týp 1 làm tăng nguy cơ bệnh thận ở con cái lên lần lượt 10 lần và ba lần. Ngược lại người ta cũng thấy cha mẹ của những người con có bệnh thận đái tháo đường thường có huyết áp cao hơn so với những người cha mẹ có con mắc đái tháo đường nhưng không mắc bệnh thận.

Những nghiên cứu gần đây về gen đã chỉ ra rằng sự kết hợp tổn thương đa hình thái – chèn/mất ở gen điều hòa men chuyển hệ angiotensin( ACE I/D), có tác động tiềm tàng lên mức angiotensin và kinin ở thận, có thể tác động đến sự phát triển của bệnh thận ở người bệnh đái tháo đường týp 1. Những tổn thương đa hình thái này còn được tìm thấy ở những người bệnh không mắc đái tháo đường có nhồi máu cơ tim, những người bệnh đái tháo đường týp 1, người mắc bệnh đái tháo đường týp 2.

  • Tỷ lệ mắc và các yếu tố nguy cơ bệnh mạch vành trong đái tháo đường týp 2

Đái tháo đường týp 2 làm tăng nguy cơ tương đối với bệnh tim mạch cao gấp từ 2 đến 4 lần so với nguy cơ ở dân số chung. Nguy cơ bệnh tim mạch đặc biệt được chú ý ở phụ nữ; bởi vì khả năng tự bảo vệ chống lại xơ vữa động mạch ở phụ nữ trước tuổi mãn kinh hầu như bị mất hoàn toàn ở phụ nữ mắc đái tháo đường.

Các yếu tố nguy cơ truyền thông đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của xơ vữa động mạch ở những đối tượng mắc đái tháo đường, tỷ lệ tử vong và đau ốm do tim mạch ở những người mắc đái tháo đường. Các yếu tố nguy cơ này bao gồm đề kháng insulin, mức insulin và tăng đường máu. Thực tế đây là những đối tượng bị mắc Hội chứng chuyển hóa (xem thêm mục Hội chứng chuyển hóa).

Những yếu tố tiên lượng chung

Nếu người bệnh đái tháo đường có thêm các yếu tố sau sẽ rất xấu cho bệnh lý tim mạch:

BIỂU HIỆN LÂM SÀNG CỦA BỆNH TIM MẠCH – ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

Một số đặc điểm và phân loại

Đặc điểm chung về sinh iý bệnh

Luôn có một câu hỏi được đặt ra là “Đái tháo đường dẫn đến bệnh tim mạch như thế nào”?

Người ta cho rằng đây là một quá trình này xảy ra lâu dài và liên tục với hai yếu tố Xơ vữa mạch” và “Tăng huyết áp”. Chúng vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của nhau, thúc đẩy nhau tiến triển.

  • Xơ vữa mạch

Hậu quả của quá trình này là phá vỡ lớp áo giữa mạch máu lớn.

Quá trình xơ vữa là sự tương tác của nhiều yếu tố nguy cơ.

  1. Tuổi, giới.
  2. Yếu tố gen.
  3. Tăng huyết áp.
  4. Béo phì.
  5. Phì đại thất trái.
  6. Hút thuốc.
  7. Rối loạn chuyển hóa lipid.
  8. Nghiện rượu.
  9. Kháng insulin.
  10. Lối sống tĩnh tại.
  11. Rối loạn tiền mạn kinh.
  12. Đái tháo đường hoặc rối loạn dung nạp glucose máu (IGT).
  • Tăng huyết áp:

Tỷ lệ người bị đái tháo đường có tăng huyết áp cao gấp đôi so với ngư­ời bình thường. Tăng huyết áp ở người đái tháo đường có các đặc tính:

Tăng thể tích máu.

Giữ muối.

Tăng sức cản mạch máu ngoại vi.

Tăng hoạt tính của renin máu(dù ở nồng độ thấp) và những bất thường khác của hệ thống renin- angiotesin.

Kháng insulin.

Tăng insulin máu.

  • Tăng thể tích tuần hoàn và giữ muối:

Tăng glucose máu làm tăng áp lực thẩm thấu của dịch ngoại bào.

Insulin kích thích tái hấp thu và giữ natri. bằng cách tác dụng trực tiếp lên tế bào ống thận.

Thay đổi bài tiết và/hoặc hoạt động của hormon kiểm tra sự thăng bằng của natri. Việc giữ muối cũng làm tăng huyết áp.

  • Hệ thống renin- angiotensin:

Hệ thống này có vai trò quan trọng gây tăng huyết áp theo nhiều cơ chế khác nhau như vai trò của angiotensin II, làm tăng sức cản ngoại biên, tăng tái hấp thu Na+Ở ông lượn xa, tăng các chất dẫn truyền thần kinh kích thích bài tiết catecholamin. Hệ thống renin-angiotensin còn làm tăng huyết áp bằng cách kích thích hoạt động của renin máu ở ngay nồng độ thấp và/hoặc bình thường, đồng thời thay đổi nhạy cảm của mạch máu với angiotensin II hoặc bradykinin.

Trong bệnh lý tăng huyết áp có 2 yếu tố quan trọng là bệnh lý mạch máu nhỏ và bệnh lý thần kinh tự động:

Bệnh lý mạch máu nhỏ (Microangiopathy): Nguyên nhân chính của tổn thương mao mạch là chất lượng quản lý glucose máu. Tổn thương mao mạch dẫn đến thiếu oxy và giảm dinh dưỡng các mô, huỷ hoại hệ thống vi tuần hoàn ở mắt, thận, thần kinh. Người bệnh đái tháo đường thường vào viện với những triệu chứng biểu hiện tổn thương của những cơ quan này (bảng 13.2).

Bảng 13.2. Tổn thương vi mạch và các biểu hiện lâm sàng.

Bệnh lý Bệnh vi mạch Bệnh thần kinh tự động Tổn thương khác
Tổn thương Huỷ hoại mạch máu nhỏ và tuần hoàn mao mạch Huỷ hoại thần kinh điều hoà nội tạng. Huỷ hoại lớp áo trong và ngoài của mao mạch.
Biểu hiện lâm sàng Bệnh lý võng mạc Bệnh lý thận Bệnh lý thần kinh Bệnh lý bàn chân Các rối loạn về động mạch. Hạ huyết áp tư thế.

Loét bàn chân.

Rối loạn chức năng dạ dày – ruột.

Liệt dương.

Mất khả năng điều hoà dòng máu.

Thành mạch yếu. Làm trầm trọng bệnh lý vi mạch và tăng xơ vữa mạch máu lớn.

– Bệnh lý thần kinh tự động: Do hậu quả trực tiếp của tăng glucose máu mạn tính và/hoặc do tổn thương vi mạch dẫn đến giảm nuôi dưỡng.

Tính chất diễn biến thất thường của tăng huyết áp do đái tháo đường bị chi phối khá nhiều của các tổn thương hệ thần kinh tự động.

Đây có lẽ cũng là nguyên nhân trực tiếp gây tử vong đột ngột ở người mắc bệnh đái tháo đường typ 2.

Phân loại

Biểu hiện lâm sàng của bệnh tim mạch (mạch máu lớn) được chia ra 3 nhóm (bảng 13.3).

  • Bệnh mạch vành (Coronary heart disease).
  • Bệnh mạch máu não (Cerebrovascular disease).
  • Bệnh mạch máu ngoại vi (Peripheral vascular disease), chủ yếu là bệnh mạch máu chi dưới.

Bảng 13.3. Các biểu hiện lâm sàng của bệnh tim mạch ở người bệnh đái tháo đường

Bệnh mạch vành Bệnh mạch não Mạch máu ngoại vi
Cơn đau thắt ngực (bao gồm cả thiếu máu phần vách)

Chết đột ngột

Suy tim

Ngất xỉu

Đột quỵ

Thiếu máu thoáng qua

Mất trí nhớ

Hoại tử

Đau cách hồi, đi khập khễnh

Loét chân

Bệnh mạch vành

Bệnh lý mạch vành có thể gặp các dấu hiệu và triệu chứng:

  • Cơn đau thắt ngực.
  • Thiếu máu cơ tim: Thường là biểu hiện bằng những cơn đau lan lên hàm, cánh tay và vai.
  • Chết đột ngột.
  • Suy tim: Khi cơ tim bị huỷ hoại.

ở người trẻ, bệnh mạch vành có thể kết hợp với đau ngực và/hoặc suy tim sung huyết. Đa số những người đái tháo đường, có thiếu máu cơ tim nhưng không có triệu chứng đau ngực, đặc biệt ở những người có bệnh lý thần kinh thực vật ở tim.

Khi khám lâm sàng thấy tình trạng suy tim sung huyết hoặc việc kiểm soát glucose máu đột nhiên kém đi, phải tiến hành các biện pháp thăm dò đặc biệt như nghiệm pháp gắng sức, ghi xạ hình v.v. phải nghĩ đến bệnh lý mạch vành để tiến hành những thăm dò cần thiết, điều trị kịp thời.

Có thể điều trị nội hoặc ngoại khoa:

Điều trị nội khoa bằng dùng các thuốc như aspirin, nitrat, các thuốc chẹn kênh calci và chẹn kênh beta chọn lọc trên tim.

Chụp mạch vành là cần thiết, nhát là khi có ý đồ đặt cầu nối.

Theo nhiều nghiên cứu thì can thiệp bằng phương pháp bắc cầu có tiên lượng tốt hơn là tạo hình mạch. Phương pháp bắc cầu làm giảm tỷ lệ tử vong do bệnh lý tim mạch, nhưng phương pháp tạo hình mạch thì không. Gần đây người ta còn tiến hành thủ thuật cắt bỏ lớp áo trong của động mạch- nhưng phẫu thuật này chỉ được áp dụng với động mạch lớn, như động mạch cảnh chẳng hạn.

Bệnh mạch não

  • Nguyên nhân

Thường gặp nhất là đột quỵ do:

+ Huyết khối gây tắc mạch.

+ Chảy máu.

+ Nghẽn mạch: Cục máu đông theo dòng máu đến làm tắc mạch gây hoại tử.

  • Các triệu chứng: Có thể gặp cơn hoa mắt, chóng mặt, mất khả năng nhìn thoáng qua, nói lắp, bại hoặc yếu chân hoặc tay, dị cảm ở chân hoặc tay. Có thể nghe thấy tiếng thổi ở động mạch cảnh; thăm dò bằng siêu âm doppler có thể thấy tổn thương xơ vữa ở động mạch cảnh.
  • Điều trị: Có thể dùng aspirin với liều 325mg/ngày để phòng ngừa được những triệu chứng này tái phát. Các chất chổng đông cũng được dùng sau khi người bệnh có triệu chứng mạch máu.

Chụp mạch thường được chỉ định khi có ý định can thiệp bằng phẫu thuật làm cầu nối, song có điều cho đến nay kết quả của biện pháp can thiệp này còn hạn chế.

Bệnh mạch máu ngoại vi

Thường thấy ở những người bệnh có đau ở mông, đùi, bắp chân khi luyện tập, đôi khi cả lúc nghỉ ngơi (dâu hiệu đau cánh hồi) hoặc khi khám bệnh thấy mạch đập yếu ở chi dưới. Để chẩn đoán xác định phải dùng doppler mạch.

Về điều trị người ta thường dùng pentoxifyllin aspirin phốĩ hợp với luyện tập có thể cải thiện được tiên lượng.

Trường hợp có tiên lượng xấu là đau cả khi nghỉ ngơi, hoặc người bệnh có nhiễm trùng, hoại tử, phải xét khả năng phẫu thuật tạo cầu nôi phòng cắt cụt (xem thêm các hình tổn thương bàn chân do đái tháo đường trong phụ bản).

Các tổn thương mạch máu ở người bệnh đái tháo đường sẽ tăng lên nếu kèm thêm các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid hoặc hút thuốc lá. Người thày thuốc lâm sàng phải thăm khám kỹ, phát hiện triệu chứng sớm, can thiệp kịp thời để hạn chế hậu quả xấu do các tai biến gây ra cho người bệnh.

ĐIỀU TRỊ BỆNH TIM MẠCH ở NGƯỜI BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

Bệnh mạch vành

Để đề phòng diễn biến xấu của bệnh lý tim mạch cần theo dõi thường xuyên điện tim. Vì thế có khuyến cáo nên làm nghiệm pháp gắng sức cho tất cả người bệnh đái tháo đường trên 40 tuổi.

  • Với người có cơn đau thắt ngực thường xuyên, ổn định

Nitrat và thuốc chẹn kênh calci có tác dụng kéo dài.

Thuốc chống đông nhẹ aspirin.

Các thuốc chẹn beta giao cảm.

  • Cơn đau thắt ngục không ổn định

Cần đến cơ sở chuyên khoa xét khả năng điều trị đặc biệt

  • Suy tim

Dùng lợi niệu, ACE, thuốc chẹn beta giao cảm, digitalis.

Trong tất cả các trường hợp đái tháo đường bị mắc bệnh tim mạch, bên cạnh việc điều trị các triệu chứng của bệnh lý tim mạch, người ta luôn phải chăm lo sao cho giữ được lượng glucose máu ổn định, gần với hằng số sinh lý. Khó là ở chỗ phải giữ sao cho không được để xảy hạ glucose máu, trong khi phải dùng liệu pháp insulin tích cực để quản lý lượng glucose máu gần với mức sinh lý. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng khi dùng liệu pháp điều trị tích cực bằng insulin ở người mắc bệnh đái tháo đường có mắc bệnh tim mạch, tỷ lệ tử vong do tim mạch đã giảm 24%, theo dõi sau 3,5 năm.

  • Vấn đề điều trị ngoại khoa

Có rất nhiều trường hợp người bệnh đái tháo đường kèm theo các biến chứng tim mạch phải can thiệp ngoại khoa. Đây là những trường hợp rất khó. Nếu không phải là điều trị cấp cứu thì phải điều chỉnh lượng glucose máu ổn định ở mức cho phép mới được can thiệp phẫu thuật (Xem thêm bài 10: Điều trị phẫu thuật ở người bệnh đái tháo đường).

Điều trị bệnh mạch máu ngoại vi

Nguyên tắc:

  • Bảo đảm lượng glucose máu thích hợp, gần điều kiện sinh lý nhất.
  • Nếu buộc phải điều trị nội khoa, thì phải đảm bảo chế độ điều trị tích cực. Nghĩa là phối hợp tốt quản lý đường máu, chống đông, chống tình trạng dễ bị nhiễm trùng, quản lý tốt số đo huyết áp v.v.
  • Trường hợp bắt buộc phải điều trị ngoại khoa phải tuân thủ các qui định về phẫu thuật cho người bệnh đái tháo đường.

PHÒNG VÀ QUẢN LÝ BỆNH TIM MẠCH – ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

Phát hiện và phòng chống các yếu tố nguy cơ

Yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch ở người bình thường có gì khác với người mắc bệnh đái tháo đường?

  • Tuổi > 45.
  • Yếu tố gen.
  • Nghiện bia, rượu.
  • Kháng insulin.
  • Phì đại thất trái.
  • Mãn kinh.
  • Béo phì.
  • Hút thuốc lá.
  • Lối sống tĩnh tại.
  • Giới tính: nam dễ bị bệnh tim mạch hơn nữ.
  • Tăng huyết áp, thường khi người đái tháo đường có số huyết áp > 140 mmHg (nếu có microalbumin niệu thì >135/85mmHg là đã có tăng huyết áp).
  • Rối loạn chuyển hóa lipid: tăng cholesterol toàn phần, tăng triglycerid, hạ HDL-C.

– Tiền sử đã có rối loạn dung nạp glucose hoặc suy giảm dung nạp glucose máu lúc đói và các yếu tố nguy cơ dễ gây tăng glucose máu khác.

Nghiên cứu UKPDS có xếp loại các yếu tố nguy cơ cho bệnh lý mạch vành tim ở người mắc bệnh đái tháo đường theo mức độ nguy hiểm như sau:

+ LDL-C tăng cao.

+ HDL-C hạ thấp, nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng chỉ cần HDL-C < 1,03 mmol/l (tức là < 40 mg/dl) đã là yếu tố nguy cơ cho bệnh mạch vành.

+ Tăng nồng độ HbA1c.

+ Tăng huyết áp tâm thu.

+ Thói quen hút thuốc lá.

Trên 50% các yếu tố nguy cơ gây bệnh lý mạch vành ở người bệnh đái tháo đường có thể được giải thích bởi sự tăng tỷ lệ các yếu tố nguy cơ thường gặp như ở người bình thường khác, nhưng điểm đặc biệt quan trọng là chúng chịu ảnh hưởng rất nhiều của tình trạng kiểm soát glucose máu. Nếu tách ròi từng yếu tố nguy cơ, thì tử vong do bệnh mạch vành ở người bệnh đái tháo đường tăng gấp 3 lần người không bị đái tháo đường, trong cùng một điều kiện.

Người bệnh đái tháo đường typ 1 trên 30 tuổi có cùng yếu tố nguy cơ và tỷ lệ bệnh mạch vành tim như người bệnh đái tháo đường typ 2.

Cùng với sự tiến bộ của các môn khoa học cơ bản, ngày nay người ta còn phát hiện ra nhiều yếu tố nguy cơ phối hợp khác, làm thay đổi hẳn tiên lượng của người bệnh đái tháo đường có tổn thương tim mạch như có microalbmin niệu, homocystein, lipoprotein (a) và protein phản ứng c (C-reactive protein).

Làm thế nào để quản lý tốt người đái tháo đường có mắc bệnh tim mạch?

Để điều trị tốt bệnh tim mạch ở người đái tháo đường phụ thuộc rất nhiều vào sự hiểu biết về bệnh nguyên của nó.

Người ta vẫn theo quan niệm phổ biến cho rằng bệnh tim mạch cũng như đa số các bệnh khác là hậu quả của mối tương tác giữa các yếu tố gen và môi trường.

Các yếu tố môi trường có thể tính đến như hút thuốc lá, ít hoạt động thể lực và các stress. Các yếu tố về gen hay được nhắc đến như tăng huyêt áp, béo phì, tăng cholesterol máu, đái tháo đường nguyên phát, các khác biệt khác nhau về chức năng của các phân tử protein đều có liên quan đến quá trình phá huỷ thành mạch.

Tuy nhiên sự phân chia này chỉ là tương đối, vì có nhiều yếu tố rất khó phân biệt. Ví dụ, như béo phì chẳng hạn, đây là một bệnh có yếu tố gen khá rõ, nhưng bệnh sẽ không phát triển, nếu không có các yếu tố môi trường thuận lợi như chế độ ăn thừa năng lượng hoặc ít vận động. Hút thuốc lá vấn được xem là một yếu tố “hoàn toàn môi trường”, nhiều ý kiến cho rằng đó chỉ là “thói quen” có hại. Ngược lại cũng đã có nghiên cứu chỉ ra rằng “Hút thuốc lá thường xảy ra có tính gia đình và như vậy là có yếu tố gerì’1. Kết luận này dựa trên một chứng cứ khoa học – the San Antonio Heart Study – ở các gia đình người Mỹ có thói quen hút thuốc, cho thấy có 27 – 67% có các yếu tố nguy cơ đến bệnh lý mạch vành như béo phì, đái tháo đường và rối loạn chuyển hóa lipid.

Những kiến thức này sẽ giúp chúng ta không chỉ có biện pháp điều trị tốt mà còn giúp ta đưa ra biện pháp dự phòng có hiệu quả.

Cho đến nay quan niệm điều trị tích cực vẫn là nhằm quản lý tốt lượng glucose máu gần như ở mức sinh lý, kết hợp với điều chỉnh các rối loạn chuyển hóa lipid, các rối loạn đông máu, hạn chế tình trạng dễ viêm nhiễm, cải thiện tình trạng kháng insulin, nhờ tăng hoạt động thể lực, nhờ giảm cân nặng; loại bỏ các thói quen không có lợi cho tiên lượng bệnh như hút thuốc, thói quen ăn trong khi nghỉ ngơi, giành nhiều thời gian cho xem tivi, sử dụng máy vi tính…

Can thiệp thế nào để giảm thiểu các yếu tố nguy cơ?

Nghiên cứu UKPDS đã chứng minh, điều trị tích cực sẽ cải thiện đáng kể tiên lượng bệnh đái tháo đường typ 2. Những mục tiêu cụ thể cần đạt được là:

  • Quản lý, kiểm soát tốt lượng glucose máu.
  • Điều trị rối loạn chuyển hóa lipid: Ngoài việc làm giảm lượng LDL-c, giảm lượng triglycerid, gần đây người ta nói nhiều về việc cần thiết để làm tăng lượng HDL-C. Nghiên cứu UKPDS đã khẳng định cứ tăng được 0,1 mmol/l (tương đương với 4,0 mg/dl) HDL-C, thì giảm đi được 15% yếu tố nguy cơ mắc bệnh tim mạch, giảm từ 2,0-4,0% nguy Cơ mắc bệnh mạch vành ở người mắc bệnh đái tháo đường typ 2.
  • Quản lý tốt số đo huyết áp: nhò các thuốc ACE, chẹn beta, chẹn kênh calci, lợi niệu.
  • Cải thiện tình trạng kháng insulin: nhờ chế độ ăn, chế độ luyện tập, dùng thuốc.
  • Chống thừa cân và béo phì.
  • Lối sống hoạt động: làm giảm béo, tăng HDL, hạ LDL.
  • Bỏ thói quen có hại: như hút thuốc lá, rượu bia, ma tuý…
  • Thường xuyên kiểm tra microalbumin niệu, HbA1c.

Bảng 13.4 cho thấy kết quả của điều trị tích cực ở người đái tháo đường mắc các bệnh của tim mạch. [1]

Bảng 13.4. Kết quả khả quan nhờ quản lý và điều trị tốt đái tháo đường.

Chỉ số Biến chứng Giảm BC % Mục đích
Kiểm soát tốt Tử vong do mạch vành 36 LDL < 1,7 mmol/l
lipid máu Bệnh mạch vành khác 55 HDL> 1,1mmol/l
Xơ vữa mạch 37 TG < 1,7mmol/l
Tổn thương mạch nhỏ 62
Kiểm soát tốt Bệnh tim mạch 51 < 135/85 mmHg
huyết áp Suy tim 56 Có biến chứng thận
Đột quỵ 44 < 125/75 mmì-lg
Chết có liên quan đến đái tháo đường 32
Kiểm soát tốt glucose máu Bệnh lý tim 37 HbA1c < 7%

BC: Biến chứng.

Để tiện cho thực hành lâm sàng, nhiều tác giả đưa ra kiến nghị lấy tiêu chuẩn ABC để phấn đấu làm giảm các biến chứng tim mạch cho người mắc bệnh đái tháo đường; đó là HbA1c < 6,5%, số đo huyết áp < 130/80 mmHg và LDL-C < 1,7 mmol/l (70 mg/dl), tham khảo thêm một số tiêu chuẩn khác được nêu trong bảng 13.5.

Bảng 13.5. Một số tiêu chuẩn đánh giá kết quả điều trị đái tháo đường được dùng phổ biến hiện nay.

Tiêu chuẩn Asia Pacitic – 2005 IDF – 2005 ADA – 2005
Glucose máu –  HbA1c < 6,5%.

–    FPG 4,4-6,1 mmol/l (79-110mg/dl).

–    Glucose máu từ 4,4 đấi 8,0 mmol/l (79-144 mg/dl).

HbA,C , 6,5%

– Glucose máu lúc đói < 6,1 mmol/l (110mg/dl).

–  HbA1c dưới 7,0%.

–  FPG 5,0-7,2 mmol/l (90-130mg/dl).

–    Glucose hai giờ sau ăn ditới 10,0 mmol/l (180 mg/dl).

Huyết áp Dưới 130/80 mmHg. Dưới 130/80 mmHg. Dưới 130/80 mmHg.
Lipid –  TC dưới 4,5mmol/l (174 mg/dl).

–  LDL-C dưới 3,0 mmol/l (116 mg/d).

–    Triglycerid dưới 1,5mmol/l (133 mg/dl).

–  HDL-C trên 1,1mmol/l (43 mg/dl).

–    LDL-C dưới 2,5 mmol/l (95mg/d).

–    Triglycerid dưới 2,3mmol/l (dưới 200 mg/dl).

–    HDL-ctrên 1,0mmol/l (39 mg/dl).

–  LDL-C dưới 2,6 mmol/l (100mg/d).

–    Triglyceriddưới 1,7mmol/l (150mg/dl).

–  HDL-C trên 1,1mmol/l (43 mg/dl).

BMI* Dưới 25 với nam Dưới 23 với nữ Không đề cập. Không đề cập.

*Việt Nam cả nam và nữ đều nhỏ hơn 23; TC; Cholesterol toàn phần; TG: Triglyceríd;

*Nếu có suy thận thi huyết áp tốt nhất là dưới 125/75 mmHg.FPG: Glucose máu lúc đói

*Từ 9/2007IDF khuyến cáo

+ Glucose máu lúc đói < 5,5 mmol

+ Glucose máu sau ăn 2 giờ <7,8 mmol/l

Thuốc chống trầm cảm

Thuốc chống trầm cảm là một loại thuốc được sử dụng để điều trị trầm cảm lâm sàng.

Chúng cũng có thể được sử dụng để điều trị một số tình trạng khác, bao gồm:

  • Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD)
  • Rối loạn lo âu tổng quát
  • Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD)

Thuốc chống trầm cảm đôi khi cũng được sử dụng để điều trị những người có cơn đau mãn tính.

Người ta cho rằng chúng hoạt động bằng cách tăng cường mức độ của các hóa chất trong não gọi là chất dẫn truyền thần kinh. Một số chất dẫn truyền thần kinh nhất định, như serotonin và noradrenaline, có liên quan đến tâm trạng và cảm xúc.

Chất dẫn truyền thần kinh cũng có thể ảnh hưởng đến các tín hiệu đau được gửi bởi các dây thần kinh, điều này có thể giải thích tại sao một số loại thuốc chống trầm cảm có thể giúp giảm cơn đau mãn tính.

Trẻ bị rối loạn lo âu
Trẻ bị rối loạn lo âu

Trong khi thuốc chống trầm cảm có thể điều trị triệu chứng trầm cảm, chúng không luôn giải quyết được nguyên nhân của nó. Đây là lý do tại sao chúng thường được sử dụng kết hợp với liệu pháp để điều trị trầm cảm nặng hoặc các tình trạng sức khỏe tâm thần khác.

Thuốc chống trầm cảm có hiệu quả như thế nào?

Nghiên cứu cho thấy rằng thuốc chống trầm cảm có thể hữu ích cho những người bị trầm cảm vừa phải hoặc nặng.

Chúng thường không được khuyến nghị cho trầm cảm nhẹ, trừ khi các phương pháp điều trị khác như liệu pháp nói không có tác dụng.

Liều lượng và thời gian điều trị

Thuốc chống trầm cảm thường được dùng dưới dạng viên nén. Khi được kê đơn, bạn sẽ bắt đầu với liều thấp nhất được cho là cần thiết để cải thiện triệu chứng của bạn.

Thuốc chống trầm cảm thường cần được uống trong 1 hoặc 2 tuần (không bỏ liều) trước khi cảm nhận được lợi ích. Điều quan trọng là không ngừng dùng thuốc nếu bạn gặp phải một số tác dụng phụ nhẹ ngay từ đầu, vì các tác dụng này thường nhanh chóng giảm đi.

Nếu bạn uống thuốc chống trầm cảm trong 4 tuần mà không cảm thấy có lợi ích nào, hãy nói chuyện với bác sĩ gia đình hoặc chuyên gia sức khỏe tâm thần. Họ có thể khuyên bạn tăng liều hoặc thử một loại thuốc khác.

Một đợt điều trị thường kéo dài ít nhất 6 tháng sau khi bạn bắt đầu cảm thấy tốt hơn. Một số người bị trầm cảm tái phát có thể được khuyên uống thuốc này vô thời hạn.

Tác dụng phụ

Các loại thuốc chống trầm cảm khác nhau có thể có một loạt tác dụng phụ khác nhau. Luôn kiểm tra tờ hướng dẫn đi kèm với thuốc của bạn để xem các tác dụng phụ có thể xảy ra.

Các tác dụng phụ phổ biến nhất của thuốc chống trầm cảm thường nhẹ. Tác dụng phụ nên cải thiện trong vài ngày hoặc vài tuần điều trị, khi cơ thể quen với thuốc.

Đọc thêm về:

  • Các tác dụng phụ có thể xảy ra của thuốc chống trầm cảm
  • Cảnh báo và tương tác của thuốc chống trầm cảm

Ngừng sử dụng thuốc chống trầm cảm
Hãy nói chuyện với bác sĩ trước khi bạn ngừng uống thuốc chống trầm cảm. Điều quan trọng là bạn không được ngừng sử dụng thuốc chống trầm cảm một cách đột ngột.

Khi bạn sẵn sàng ngừng thuốc chống trầm cảm, bác sĩ của bạn có thể sẽ khuyên bạn giảm liều dần dần trong vài tuần – hoặc lâu hơn, nếu bạn đã dùng thuốc trong thời gian dài.

Điều này nhằm giúp ngăn ngừa bất kỳ triệu chứng cai nào mà bạn có thể gặp phải khi ngừng thuốc.

Đọc thêm về việc ngừng hoặc bỏ thuốc chống trầm cảm.

Các loại thuốc chống trầm cảm
Có một số loại thuốc chống trầm cảm khác nhau.

Chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs)

SSRIs là loại thuốc chống trầm cảm được kê đơn phổ biến nhất. Chúng thường được ưa chuộng hơn các loại thuốc chống trầm cảm khác, vì chúng gây ra ít tác dụng phụ hơn. Một lần quá liều cũng ít có khả năng gây nghiêm trọng.

Fluoxetine có lẽ là SSRI nổi tiếng nhất (được bán dưới tên thương hiệu Prozac). Các loại SSRI khác bao gồm citalopram (Cipramil), escitalopram (Cipralex), paroxetine (Seroxat) và sertraline (Lustral).

Chất ức chế tái hấp thu serotonin-noradrenaline (SNRIs)

SNRIs tương tự như SSRIs. Chúng được thiết kế để trở thành một loại thuốc chống trầm cảm hiệu quả hơn SSRIs. Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy SNRIs hiệu quả hơn trong việc điều trị trầm cảm còn chưa chắc chắn. Dường như một số người phản ứng tốt hơn với SSRIs, trong khi những người khác phản ứng tốt hơn với SNRIs.

Ví dụ về SNRIs bao gồm duloxetine (Cymbalta và Yentreve) và venlafaxine (Efexor).

Chất ức chế noradrenaline và serotonin đặc hiệu (NASSAs)

NASSAs có thể hiệu quả đối với một số người không thể uống SSRIs. Tác dụng phụ của NASSAs tương tự như của SSRIs, nhưng chúng được cho là gây ra ít vấn đề về tình dục hơn. Tuy nhiên, chúng có thể cũng gây ra nhiều sự buồn ngủ hơn ngay từ đầu.

Chất NASSA chính được kê đơn ở Vương quốc Anh là mirtazapine (Zispin).

Thuốc chống trầm cảm ba vòng (TCAs)

TCAs là một loại thuốc chống trầm cảm cũ hơn. Chúng không còn thường được khuyến nghị là phương pháp điều trị đầu tiên cho trầm cảm vì có thể nguy hiểm hơn nếu bị quá liều. Chúng cũng gây ra nhiều tác dụng phụ khó chịu hơn SSRIs và SNRIs.

Thỉnh thoảng có những ngoại lệ cho những người bị trầm cảm nặng không phản ứng với các phương pháp điều trị khác. TCAs cũng có thể được khuyên dùng cho các tình trạng sức khỏe tâm thần khác, như OCD và rối loạn lưỡng cực.

Ví dụ về TCAs bao gồm amitriptyline, clomipramine, dosulepin, imipramine, lofepramine và nortriptyline.

Một số loại TCAs, chẳng hạn như amitriptyline, cũng có thể được sử dụng để điều trị đau dây thần kinh mãn tính.

Chất đối kháng serotonin và ức chế tái hấp thu (SARIs)

SARIs không thường là lựa chọn đầu tiên cho thuốc chống trầm cảm, nhưng chúng có thể được kê đơn nếu các loại thuốc chống trầm cảm khác không có tác dụng hoặc đã gây ra tác dụng phụ.

Chất SARI chính được kê đơn ở Vương quốc Anh là trazodone (Molipaxin).

Chất ức chế monoamine oxidase (MAOIs)

MAOIs là một loại thuốc chống trầm cảm cũ hơn và hiếm khi được sử dụng hiện nay.

Chúng có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng, vì vậy chỉ nên được kê đơn bởi bác sĩ chuyên khoa.

Ví dụ về MAOIs bao gồm tranylcypromine, phenelzine và isocarboxazid.

Các phương pháp điều trị khác cho trầm cảm

Các phương pháp điều trị khác cho trầm cảm bao gồm các liệu pháp nói như liệu pháp hành vi nhận thức (CBT).

Người bị trầm cảm vừa phải đến nặng thường được điều trị bằng sự kết hợp giữa thuốc chống trầm cảm và CBT. Thuốc chống trầm cảm có tác dụng nhanh trong việc giảm triệu chứng, trong khi CBT cần thời gian để giải quyết nguyên nhân gây ra trầm cảm và cách vượt qua nó.

Tập thể dục thường xuyên cũng đã được chứng minh là hữu ích cho những người bị trầm cảm nhẹ.

Quả táo mèo – Sơn Tra và những tác dụng chữa bệnh không ngờ tới

Tên khoa học:

Docynia doumeri Schneid. Họ khoa học: Họ Hoa hồng (Rosaceae).

Tên khác:

Táo mèo, Ánh sơn hồng quả, môi mai tử, sơn lê.

Mô tả:

Cây táo mèo thân gỗ cao 10-15m, cành non có gai và có lông. Lá hình trứng mọc so le, đầu nhọn, mép có răng cưa. Cụm hoa màu trắng, hình tán, thường có 3-7 hoa mọc ở nách lá. Quả khi chín có màu vàng, hạt màu nâu sẫm. Quả táo mèo được dùng làm thuốc chữa bệnh.

Cây sơn tra thân gỗ cao 10-15m, cành non có gai và có lông
Cây sơn tra thân gỗ cao 10-15m, cành non có gai và có lông

Phân biệt tính chất, đặc điểm:

Sơn tra miếng dùng làm hàng hoá gọi là “bắc sơn tra”. Sơn tra dại gọi là “nam sơn tra”.

Bắc sơn tra là những miếng cắt ngang, hình tròn, mép thường cong lên, nhăn chun không phẳng. vỏ ngoài màu đỏ, có vân nhăn nhỏ và các chấm nhỏ màu trắng. Cùi quả màu vàng sẫm đến màu nâu nhạt, ở mặt cắt ngang có từ 3 đến 5 hạt màu vàng nhạt, có miếng hạt đã bong ra, để lại những lỗ tròn nhỏ, rỗng, có miếng còn thấy rõ ngấn cuống quả ngắn mà nhỏ, hoặc dấu vết của đài hoa lõm sâu vào. Bắc sơn tra có mùi thơm mát, vị chua hơi ngọt.

Nam sơn tra quả tương đối nhỏ, trông giống hình cầu, đường kính 0,8cm – 1,4cm, có quả đã ép bẹt ra như cái bánh, thường có hạt lòi ra. Bề mặt màu nâu đến nâu đỏ, có vân nhỏ và những chấm nhỏ màu trắng xám, chất rắn, hạt to, cùi mỏng, màu đỏ nâu. Mùi nhẹ, vị chua, hơi chát.

Bắc sơn tra nếu miếng to, vỏ đỏ, cùi dày hạt nhỏ là loại tốt.

Nam sơn tra cứ quả đều, màu be gụ, chất rắn là loại tốt.

Bảo quản :

Để nơi khô ráo, phòng mọt.

Tính vị và công hiệu:

Sơn tra tính hơi ôn, vị chua, ngọt lợi về các kinh tì, thận, can. Có công hiệu tiêu cơm, làm tan máu tụ. Chủ trị các bệnh u cơ, u ổ bụng, đờm loãng báng đá, nuốt hơi chua, tả lị, lượng mỡ trong máu quá cao, tụ máu, thống kinh v.v…

Theo tài liệu khác, quả táo mèo (sơn tra) có vị chua chát, ngọt, tính bình. Tác dụng tiêu tích trệ, hóa đờm, thông ứ trệ, giải độc cá thịt, chữa ăn không tiêu, bụng đầy chướng, đau bụng tiêu chảy, kiết lỵ, phụ nữ đau bụng do ứ huyết sau khi sinh, người bị cao huyết áp, trẻ em cam tích.

Cấm kỵ khi dùng thuốc:

Ăn nhiều quả sơn tra tươi hay sinh ra phiền muộn trong lòng và dễ đói. Khi sử dụng nên cẩn thận. Người bị tổn thương răng, răng sâu nên thận trọng khi sử dụng; sản phụ tụ máu quá nhiều cấm dùng.

Dịch chiết táo mèo có tác dụng ức chế trực khuẩn E.Coli, lỵ, bạch hầu, thương hàn, tụ cầu vàng khá mạnh.

Nghiên cứu hiện đại cho thấy: Táo mèo có tác dụng kháng khuẩn, cường tim, làm giãn mạch vành, chống rối loạn nhịp tim, hạ áp, bảo vệ tế bào gan, tăng cường công năng miễn dịch, trấn tĩnh an thần, ức chế ngưng tập tiểu cầu, điều chỉnh rối loạn lipid máu, xơ vữa động mạch, huyết áp cao, phòng ngừa đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, béo phì, viêm cầu thận cấp và mãn tính, hậu sản, ứ trệ, giảm kích thích ruột, tiêu chảy, lỵ.

Theo các nghiên cứu hiện đại, sơn tra có hàm chứa các chất Ketone, chất phối đường, acid hữu cơ, chất đường, vitamin c v.v… Có tác dụng giãn mạch máu, tăng cường lưu lượng máu trong động mạch cơ tim, hạ thấp huyết áp, hạ thấp đảm cô thuần trong huyết thanh, trợ tim, co tử cung v.v… có tác dụng tăng cường men tiêu hoá trong dịch vị trợ giúp cho quá trình tiêu hoá. Đối với các loại bệnh kiết lị và trực khuẩn mủ xanh có tác dụng ức chế rất rõ rệt.

Quả táo mèo (sơn tra) có tác dụng tiêu tích trệ, hóa đờmQuả táo mèo (sơn tra) có tác dụng tiêu tích trệ, hóa đờm

Những bài thuốc rất hay có tác dụng chữa bệnh từ táo mèo

Bài 1. Thuốc chữa bệnh tích trệ

+ Quả táo mèo 20g

+ Chỉ xác 12g

+ Hậu phác 5g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 500ml nước sạch đun sôi kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh chia đều 3 lần uống hết trong ngày, trước bữa ăn. cần uống liền 3-5 ngày.

Bài 2. Thuốc chữa đi ly ra máu

+ Quả táo mèo                       30g

+ Lá mơ lông                        15g

Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồỉ cùng 500ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 180ml nước đặc. Người bệnh chia đều 3 lần uống hết trong ngày, trước bữa ăn. cần uống liền 9 ngày.

Bài 3. Thuốc chữa bệnh đau bụng do thức ăn không tiêu

+ Quả táo mèo 15g

+ Thanh bì 10g

+ Mộc hương 15g

Các vị thuốc cho vào nồi cùng 450ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 150ml nước đặc. Người bệnh chia đều 3 lần uống hết trong ngày, trước bữa ăn. cần uống liền 9 ngày.

Thuốc chữa bệnh tăng huyết áp từ quả táo mèo
Thuốc chữa bệnh tăng huyết áp từ quả táo mèo

Bài 4. Thuốc chữa bệnh tăng huyết áp

+ táo mèo 30g

+ Lá dâu 10g

+ Hoa cúc 15g

+ Hoa kim ngân 15g

Các vị thuốc cho vào nồi, thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ, khi còn 300ml nước thuốc chắt lấy nước, bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước khi ăn. Cần uống liền 11 ngày là một liệu trình, thời gian nghỉ giữa các liệu trình là 5 ngày, cần dùng 5 liệu trình.

+ táo mèo 300g

+ Hạ khô thảo 300g

+ Hoa cúc 200g

+ Thảo quyết minh (hạt muồng) 250g

+ Câu đằng 250g

Các vị thuốc sấy khô, tán bột nhỏ mịn dùng nước cháo đặc luyện viên bằng hạt ngô, phơi khô đem dùng. Người bệnh uống 3 lần, mỗi lần 15 viên VỚI nước sôi để nguội, trước khi ăn.

+ táo mèo 30g

+ Táo nhân 15g

+ Hạnh nhân 15g

+ Ngũ vị tử 5g

Các vị thuốc cho vào nồi, thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ, khỉ còn 300ml nước thuốc chắt lấy nước, bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước khi ăn. Cần uống liền 21 ngày.

Táo mèo chế biến làm thuốc
Táo mèo chế biến làm thuốc

Bài 5. Thuốc chữa bệnh cảm cúm

+ táo mèo                              30g

+ Lá tía tô                            15g

+ Hoa kim ngân 20g

+ Đường phèn 20g

Các vị thuốc cho vào nồi, thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho sôi kỹ cho thuốc nhừ, khỉ còn 300ml nước thuốc chắt lấy nước, bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước khi ăn. Cần uống liền 3 ngày.

+ táo mèo 130g

+ Hoắc hương 50g

+ Phòng phong 30g

+ Cát căn 40g

+ Hạnh nhân 10g

+ Trần bì 30g

+ Tô diệp 50g

+ Tiền hồ 30g

+ Hương phụ 30g

Các vị thuốc sấy khô, tán bột nhỏ mịn dùng nước cháo đặc luyện viên bằng hạt ngô, phơi khô đem dùng. Người bệnh uống 3 lần, mỗi lần 15 viên với nước sôi ấm, trước khi ăn.

Bài 6. Thuốc chữa trẻ em bị cam tích

+ táo mèo 10g

+ Mạch nha 30g

+ Thần khúc 10g

+ Hoài sơn 30g

Các vị thuốc sao vàng tán bột mịn, dùng nước cháo đặc luyện viên bằng hạt đậu xanh phơi khô đem dùng. Người bệnh uống 3 lần, mỗi lần 10 viên trước khỉ ăn, với nước sôi để nguội.

Các bài thuốc bổ dưỡng thường dùng:

Sơn tra tiễn (thuốc sắc sơn tra)

Sơn tra rang cháy 10g – Đường đỏ vừa phải

Sắc uống, chữa rối loạn tiêu hoá.

Sơn tra băng đường tiễn (thuốc sắc sơn tra, đường phèn)

Sơn tra 6g – Đường phèn vừa phải

Sắc uống. Chữa bệnh cao huyết áp.

Sơn tra chúc (cháo sơn tra)

Sơn tra 30g – Gạo lức 60g

Đường cát 10g

Sơn tra sắc trong nồi đất lấy nước đặc, bỏ bã cho gạo lức, đường cát vào nấu cháo. Dùng cho phụ nữ bị thống kinh.

Sơn tra tán (thuốc bột sơn tra)

Sơn tra 9g  – vỏ trong mề gà 9g

Nghiền chung thành bột. Uống ngày 2 lần, sớm, tối, mỗi lần 9g. Uống liên tục. Chữa phụ nữ bị tắc kinh.

Sơn tra cao (cao sơn tra)

Sơn tra 500g – Mật ong 500g.

Sơn tra rửa sạch, bỏ hạt, thái miếng mỏng, cho nước vừa phải nấu nhừ thành hồ, cho mật ong vào luyện thành cao. Uống ngày 3 lần, mỗi lần nửa thìa. Có thể kiện tỳ tiêu thực. Dùng cho trẻ con bị cam tích, tiêu gầy v.v…

Sơn tra mạch nha trà (trà Sơn tra, mầm lúa mạch)

Sơn tra 10g

Mầm lúa mạch rang 10g

Ủ nước sôi, uống nhiều lần thay trà.

Dùng cho người bị bệnh phát ban, trẻ con bị các loại bệnh mới khỏi, sức tiêu hoá của ruột và dạ dày yếu v.v…

Sơn tra ngân cúc trà (trà sơn tra, cúc hoa, ngân hoa

Sơn tra 10g – Ngân hoa 10g

Cúc hoa 10g

Sắc lấy nước uống thay trà

Dùng cho người bị phát phì, lượng mỡ trong máu cao, cao huyết áp.

Sơn tra ích mẫu cao (Cao sơn tra ích mẫu)

Sơn tra 50g – cỏ ích mẫu 50g

Đường đỏ 100g

Sơn tra, ích mẫu sắc chung, lấy nước khoảng 400ml, cho đường đỏ vào đánh đều, cô đặc lại làm cao. Uống ngày 2 lần, mỗi lần 20ml.

Dùng cho phụ nữ sau khi đẻ ác lộ không dứt, luôn bị đau bụng.

Sơn tra câu kỷ trà (trà sơn tra, câu kỷ tử)

Sơn tra 15g – Câu kỷ tử 15g

Hãm nước sôi 30 phút, uống nhiều thay trà

Dùng cho người bị teo não có tính kê phát.

Khu thao trùng hiệu phương (thuốc sán đặc hiệu)

Sơn tra tươi 1000g (nếu khô cần 250g) trẻ con dùng thì bớt đi.

Rửa sạch, bỏ hạt, coi như 1 thứ hoa quả, ăn bắt đầu từ 3 giờ chiều, cho đến 10 giờ đêm phải ăn hết, cấm ăn com tôi. Sáng sớm hôm sau dùng 100g cau (ăn trầu) cho nước vào sắc lấy 1 chén (chén uống trà), uống 1 lần hết cả chén, sau đó lên giường nằm nghỉ, nếu thấy buồn đại tiện hãy cô nhịn đừng đi ngay, khi nào không nhịn được nữa mới đi, để tống hết sán ra ngoài.

Sơn tra tiêu thực phương (Bài thuốc sơn tra tiêu com)

Sơn tra 20g – Bạch truật 20g

Thần khúc 10g

Sắc 2 nước, trộn đều, uống ngày 1 thang chia 2 lần.

Dùng cho người ăn không tiêu, đầy bụng, đau bụng, ấm ách.

Chí lỵ phương (Bài thuốc kiết lỵ)

Sơn tra nhục 50g. Nghiền thành bột mịn, ngày uống ba lần, mỗi lần từ 3 – 5g. Người bị hồng lỵ thì trộn mật ong vào uống; người bị bạch lị thì dùng đường đỏ hoặc đường trắng trộn vào uống. Người bị lỵ bạch xen lẫn hồng thì dùng nửa mật ong, nửa đường cát trộn vào mà uống. Tất cả đều uống bằng nước sôi, uống lúc đói.

Dùng cho người bị kiết lị, đau bụng.

Quế chi sơn tra hồng đường thang (thang thuốc quế chi sơn tra đường đỏ)

Quế chi 5g – Sơn tra 15g

Đường đỏ 30g

Quế chi sơn tra sắc 2 nước, trộn lần, cho đường vào lại tiếp tục đun sôi 1 lát, uống nóng; ngày 1 thang chia 2 lần.

Bài thuốc này có thể ôn kinh thông mạch, làm tan máu tụ, giảm đau, dùng cho người thống kinh hàn tính.

Giáng môi phương (Phương thuốc hạ hormon)

Sơn tra, ngũ vị tử (lượng bằng nhau), nghiền chung thành bột. Uống ngày 3 lần, mỗi lần 3g, 10 ngày là 1 liệu trình.

Phù hợp với việc chuyển hormon ammonia tăng cao, đối với bệnh viêm gan độc cấp tinh, viêm gan mạn kéo dài đều có công hiệu mạnh.

Cúc tra quyết ninh ẩm (Nước hãm cúc sơn thảo)

Cúc hoa 3g – Sơn tra 5 miếng

Thảo quyết minh 15g

Bỏ cả 3 vị thuốc vào cốc giữ nhiệt, rót nước sôi vào hãm 30 phút, làm trà, uống nhiều lần trong ngày.

Bài thuốc này có thể sơ phong giải độc, thanh gan sáng mắt, hạ huyết áp, tiêu cơm. Chủ yếu dùng cho người bị cao huyết áp và bệnh cơ tim.

Huyệt Tử cung

Tử cung

Tên Huyệt:

Tử Cung = Tử Cấm Cung là nơi bệ ngồi của Thiên Đế. Huyệt ở vị trí ứng với tạng Tâm, Tâm là quân chủ, ý chỉ là nơi Tâm thần cư ngụ (Trung Y Cương Mục).

Xuất Xứ:

Giáp Ất Kinh.

Đặc Tính:

Huyệt thứ 19 của mạch Nhâm.

Vị Trí:

Ở điểm gặp nhau của đường dọc giữa xương ức và đường ngang qua giữa 2 khớp ức – sườn 4.

Giải Phẫu:

Dưới da là xương ức.

Da vùng huyệt chi phối bởi tiết đoạn thần kinh D2.

Chủ Trị:

Trị ngực đau, suyễn, nôn mửa .

Phối Huyệt:

1. Phối Đại (Thái) Khê (Th.3) + Ngọc Đường (Nh.18) trị ho suyễn, tâm phiền (Thiên Kim Phương).

2. Phối Dũng Tuyền (Th.1) + Trung Đình (Nh.16) trị ăn uống không được (Tư Sinh Kinh).

3. Phối Đởm Du (Bàng quang.19) + Trung Đình (Nh.16) trị ăn uống nuốt không xuống (Tư Sinh Kinh).

Châm Cứu:

Châm luồn kim dưới da, sâu 0, 3 – 1 thốn. Cứu 5 – 15 phút.

Ghi Chú: Xương ức nơi trẻ nhỏ rất mềm, vì vậy, cần thận trọng khi châm.

Quả Dưa Chuột và những tác dụng chữa bệnh hiệu nghiệm

Cây dưa chuột thân thuộc loại thảo, mọc leo nhờ giá đỡ, phát triển nhiều nhánh, có cánh và lông, tua cuốn phát triển. Lá to, cuống dài, có lông. Hoa đơn tính mọc ở nách lá, màu vàng, hoa đực nhiều hơn hoa cái. Quả mọng, trên vỏ có nhiều u tròn nhìn như gai, không nhọn. Quả dưa chuột dùng để ăn và làm thuốc chữa bệnh.

Cây dưa chuột thân thuộc loại thảo, mọc leo nhờ giá đỡ
Cây dưa chuột thân thuộc loại thảo, mọc leo nhờ giá đỡ

Theo Đông y, quả dưa chuột có vị ngọt nhạt, tính mát. Tác dụng thanh nhiệt, giải khát, lọc máu, làm tan axít uríc và các urát, lợi tiểu và gây ngủ nhẹ, chữa thống phong dạng khớp, sỏi tiết niệu v.v… Dùng ngoài đắp trị ngứa, nấm ngoài da, làm mặt nạ đắp mặt.

 Thuốc ứng dụng từ quả dưa chuột:

Bài 1. Thuốc chữa bệnh phù thũng

+ Quả dưa chuột 150g

+ Giấm ăn 30ml

Dưa chuột rửa sạch, bổ đôi cho vào bát to đổ giấm vào đun cách thủy. Khỉ chín cho người bệnh ăn, ngày một lần vào lúc đói, cần ăn 3-5 ngày.

+ Quả dưa chuột 100g

+ Rễ cây dâu 30g

+ Lá sen 30g

+ Mộc thông 6g

+ Rau mã đề 30g

+ Gừng tươi 3g

Thuốc cho vào nồi, thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ. Khi còn 300ml nước thuốc chắt lấy nước bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước khi ăn. cần uống liền 11 ngày.

Dưa chuột chữa bệnh kiết lỵ do nhiệt ở trẻ em
Dưa chuột chữa bệnh kiết lỵ do nhiệt ở trẻ em

Bài 2. Thuốc chữa bệnh kiết lỵ do nhiệt ở trẻ em

+ Quả dưa chuột                  100g

+ Mật mía                             50ml

Cho quả dưa chuột và mật mía vào bát đem hấp cách thủy. Khi chín cho người bệnh ăn, ngày 3 lần vào lúc đóỉ. cần ăn liền 5 ngày.

Bài 3. Thuốc chữa đau mắt đỏ

+ Quả dưa chuột 60g

+ Hạt muồng 15g

+ Cúc hoa 6g

+ Long đởm thảo 9g

Thuốc cho vào nồi thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ. Khi còn 300ml nước thuốc chắt lấy nước bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, sau khi ăn. cần uống liền 5 ngày.

Bài 4. Thuốc chữa bệnh thấp khớp

+ Quả dưa chuột 60g

+ Phòng kỷ 30g

+ Ma hoàng 3g

+ Hoàng kỳ 6g

Thuốc cho vào nồi thêm 600ml nước đun nhỏ lửa cho thuốc nhừ. Khi còn 300ml nước thuốc chắt lấy nước bỏ bã. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước khỉ ăn. cần uống liền 11 ngày.

Những lợi ích với sức khỏe đã được khoa học chứng minh

Dưa chuột chứa nhiều dưỡng chất tốt cho sức khỏe

Đặc biệt là nước (chiếm đến 90%), đồng thời trong loại thực phẩm này chứa hầu hết các loại vitamin, khoáng chất tự nhiên bạn cần nạp vào cơ thể hàng ngày bao gồm vitamin C, chất xơ, vitamin B1, vitamin B2, vitamin V3, vitamin B5, vitamin B6, folic acid, vitamin C, canxi, sắt, magie, phốt pho, kali, kẽm,… mà không phải loại thực phẩm nào cũng có được. Chính vì vậy ăn dưa chuột mỗi ngày sẽ là phương pháp tốt nhất, hiệu quả nhất, đơn giản nhất để bạn cung cấp dưỡng chất cho cơ thể đặc biệt là nguồn cung cấp vitamin, khoáng chất tự nhiên hết sức phong phú, cần thiết, ngoài ra dưa chuột còn được sử dụng rộng rãi trong việc đắp mặt làm đẹp da cho chị em phụ nữ.

Dưa chuột chứa nhiều dưỡng chất tốt cho sức khỏe
Dưa chuột chứa nhiều dưỡng chất tốt cho sức khỏe

Dưa chuột giúp phòng ngừa bệnh ung thư rất hiệu quả

Ngày nay do nhiều yếu tố và nguyên nhân tác động khác nhau mà số người mắc bệnh ung thư ngày càng cao, và một trong những biện pháp giúp bạn phòng ngừa bệnh ung thư hiệu quả, dễ làm, dễ thực hiện là ăn và uống nước ép dưa chuột tươi mỗi ngày. Vì trong dưa chuột có chứa lariciresinol, pinoresinol và secoisolariciresinol – 3 lignan có tác dụng ngừa ung thư rất tốt, đặc biệt là ung thư vú, buồng trứng, tử cung và tuyến tiền liệt.

Dưa chuột giúp huyết áp ổn định

Trong dưa chuột chứa nhiều magie, kali và chất xơ, chính vì vậy nó rất tốt cho những người có huyết áp không ổn định, bất kể là huyết áp cao hay huyết áp thấp. Do đó, khi bạn có vấn đề về huyết áp, hãy sử dụng mỗi ngày 1 ly nước ép dưa chuột tươi, có thể cho thêm đường, muối đối với người huyết áp thấp và uống nguyên chất đối với người bị huyết áp cao để giúp huyết áp dần dần ổn định hơn nhé.

Dưa chuột tốt cho sức khỏe răng miệng

Để không ngừng bảo vệ và nâng cao sức khỏe răng miệng, việc làm đầu tiên và đơn giản nhất là hãy ăn dưa chuột tươi mỗi ngày. Vì sao lại như thế? Vì dưa chuột có hàm lượng nước, chất xơ rất dồi dào giúp răng nướu khỏe mạnh, răng trắng sáng, đồng thời chất phytochemcial có trong dưa chuột còn giúp bạn giết chết các vi khuẩn gây hôi miệng hiệu quả nữa đấy.

Dưa chuột tốt cho hệ tiêu hóa

Với hàm lượng nước, chất xơ hết sức dồi dào kết hợp với vị ngọt, tính mát vượt trội, do đó việc ăn dưa chuột tươi hàng ngày sẽ giúp bạn đầy lùi và cải thiện chứng táo bón, ợ chua, đầy hơi, khó tiêu, ợ nóng, đau dạ dày rất hiệu quả. Với tác dụng này bạn sẽ cảm nhận được rất rõ rệt sau khi ăn dưa chuột đều đặn 2-3 ngày đấy.

Tác dụng của dưa chuột trong việc chữa bệnh thông thường

– Chữa mụn nhọt, rôm sẩy, mẩn ngứa, phát sốt cho trẻ em bằng cách sử dụng 500g dưa chuột rửa sạch, thái miếng, ép lấy nước, hòa với 20ml mật ong, uống liên tục trong vòng 5-7 ngày;

– Chữa cổ họng sưng đau: chọn 1 quả dưa chuột già, loại bỏ hết hạt trong quả dưa, cho 20g mang tiêu vào, phết cho đều, phơi trong râm cho đến khô, không phơi ngoài nắng nhé. Khi dùng, cắt từng miếng để ngậm sẽ thấy ngay tác dụng rõ rệt;

– Chữa chứng lỵ ở trẻ em: dùng 10 quả dưa chuột nhỏ non trộn ướp với mật ong cho bé ăn nhé;

– Chữa vàng da phù nề: dưa chuột 250g, mã đề tươi bỏ rễ 30g, nhặt và rửa sạch, thái vừa ăn, nấu dạng canh;

Đái không tự chủ (di niệu) Đông y và pháp, phương thuốc điều trị

Đái không tự chủ là chứng tiểu tiện không tự không chế được thường biểu hiện ở đái khi ngủ (đái dầm) hoặc đái nhiều lần không cầm được.

Đái dầm thường thấy ở trẻ em, đái không cầm được thường thấy ở người già. Nguyên nhân có nhiệt, có hàn, song hàn nhiều hơn nhiệt. Chúng có quan hệ trực tiếp với thận và bàng quang. Thận chủ nhị tiện, bàng quang chủ việc chế ước. Nếu thận khí hư hoặc bàng quang không chế ước được thì sẽ gây nên bệnh. “Bàng quang bất ước là di niệu”. Tố vấn tuyên minh ngũ khí viết: “Hạ tiêu kiệt, tức di niệu thất tiện” “Hư thì di niệu”. Trong điều trị cần bổ thận, củng cố bàng quang.

A. Trẻ em đái dầm:

Từ 3, 4 tuổi trở đi mà còn đái dầm là bệnh lý; cần phải chữa.

Đái dầm do nhiệt

Triệu chứng: nằm mơ thấy đi đái và đái dầm.

Phép điều trị: Thanh nhiệt, cố bàng quang.

Phương thuốc: Thẩm thị muộn tuyền hoàn (Thẩm thị tuân sinh thư tháp).

ích trí nhân                    Phục linh

Bạch truật                      Hắc chi tử

Bạch thược                    Bạch liễm Lượng bằng nhau

Tán mịn làm hoàn mật.

Ích trí nhân (Ích Chí Tử)
Ích trí nhân (Ích Chí Tử)

Đái dầm do hàn.

Triệu chứng: Đêm nằm lạnh, chơi mệt, đái dầm mà không biết.

Phép điều tri: Ôn thận, cố bàng quang.

Phương thuốc: Bài trên bỏ Chi tử, thêm Sơn thù, Phá cố chỉ.

Ý nghĩa: ích trí nhân để ôn thận nạp khí, Bạch truật, Bạch linh để kiện tỳ thảm thấp, Bạch thược để liễm âm, ích huyết liễm can, Chi tử để thanh nhiệt, Sơn thù, Phá cố chỉ để ôn bổ can thận.

Phương thuốc: (Nam dược thần hiệu – Đái dầm)

Nhục quế tán nhỏ, gan gà trống lượng bằng nhau.

Giã nát làm viên bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần dùng 10- 15 viên (tùy trẻ) ngày uống 3 lần.

Ý nghĩa: Quế để ôn thận, phấn chấn bàng quang, gan gà để kích huyết liêm can.

B. Người lớn đái không tự chủ (di niệu).

Hạ nguyên hư hàn.

Triệu chứng: ngủ đái dầm không biết.

Phép điểu tri: Ông nhiếp hạ nguyên.

Phương thuốc: (Trích từ Thuốc nam châm cứu – đái dầm)

Tang phiêu tiêu 40g                        ích trí nhân 20g

Phương thuốc: Phiêu tiêu hoàn (Loại chứng trị tài)

Tang phiêu tiêu 30 tổ Lộc nhung 3 lạng
Hoàng kỳ 3 lạng Mẫu lệ đoạn 2 lạng
Xích thạch chi 2 lạng Nhân sâm 2 lạng

Tán mịn, Hoài sơn làm hoàn uống với nước muối nhạt.

Ý nghĩa: Phiêu tiêu, Lộc nhưng để ôn thận ích tinh, cố bàng quang để hết đái dầm. Sâm Kỳ để bổ nguyên khí. Sơn dược để kiện tỳ. Mẫu lệ, Xích thạch chi để làm hết đái dầm.

Tỳ thận hư tổn.

Triệu chứng: Ngủ đái không biết, mệt mỏi, bải hoải, ăn kém, phân lỏng lưỡi nhợt, mạch hoàn.

Phép điều trị: Bổ khí, có bàng quang.

Phương thuốc: (Trích từ Thuốc nam châm cứu – đái dầm)

Hoài sơn                    40g               Ô dược                    30g

ích trí nhân                30g

Ý nghĩa: ích trí nhân để ôn thận, ích tinh cố bàng quang, Hoài sơn để bổ tỳ, Ô dược để hành khí tán hàn.

Tâm khí bất túc ảnh hưởng đến can thận

Triệu chứng: lo lắng quá, đêm ngủ đái dầm.

Phép điều trị: Bổ ích tâm tỳ

Phương thuốc: Quy tỳ hoàn (Tế sinh phương)

Bạch truật llạng Phục thần llạng
Hoàng kỳ llạng Long nhãn llạng
Toan táo nhân llạng Nhân sâm 0,5 lạng
Cam thảo 2,5 đồng cân Đương quy 1 đồng cân
Viễn chí 1 đồng cân Mộc hương 0,5 lạng

Ý nghĩa: Sâm, Kỳ, Truật, Thảo để bổ tỳ, ích khí. Quy để dưỡng can sinh tâm huyết. Thần, Nhãn. Táo nhân để dưỡng tâm, an thần. Viễn chí để giao tâm thận. Mộc hương để lý khí tỉnh tỳ.

Người già đái dầm, đái không cầm được.

Bàng quang huyết thiểu âm hư hỏa vượng.

Triệu chứng: Đái dầm, ngũ tâm phiền nhiệt, mạch tế sác.

Phép điều trị: Bổ chân âm của thận, bổ tân dịch của bàng quang.

Phương thuốc: Lục vị hoàn gia Mạch môn, Ngũ vị.

Chân dương bất cố

Triệu chứng: Đái són, không cầm được vì hạ nguyên hư hàn, không nhiếp được thủy.

Phép điều trị: Ôn dương cố bàng quang.

Phương thuốc: Cố phù thang (Thẩm thị tuân sinh thư phương)

Tang phiêu tiêu 2 đồng cân Hoàng kỳ 5 đồng cân
Sa uyển tử 2 đồng cân Sơn thù 3 đồng cân
Đương quy 2 đồng cân Phục thần 2 đồng cân
ích mẫu 2 đồng cân Sinh thược 1,5 đồng cân
Thăng ma 0,5 đồng cân Bong bóng dê  1cái.

Phương thuốc: (Trích từ Thuốc nam châm cứu – đái dầm)

Bong bóng lợn một cái, Mâu lệ 40g.

Bột mẫu lệ (nung rồi) nhồi vào bong bóng lợn, khâu lại cho vào nồi nước, nấu chín, bỏ Mâu lệ rửa sạch bong bóng, thái nhỏ cho bệnh nhân ăn.

Ý nghĩa: Tang phiêu tiêu, Sa uyển tử, bong bóng lợn, dê để ôn thận, dưỡng tinh cố bàng quang. Sơn thù, Đương quy, Sinh thược để bổ can thận dưỡng huyết liễm âm. Hoàng kỳ để bổ khí, Thăng ma để thăng đề làm cho không đái són nữa.

Khí của bàng quang bất túc:

  • Đêm đái nhiều lần:

Phép điều trị: Ôn thận

Phương thuốc: Bát vị hoàn gia, Ngũ vị ử.

  • Ngày đái nhiều lần:

Phép điều trị: Ôn cố bàng quang.

Phương thuốc: Súc tuyền hoàn, (Bổ di phương; Nam dược thần hiệu- đái dầm)

Ô dược, ích trí nhân

Lượng bằng nhau tán mịn, dùng Hoài sơn nấu với rượu làm hoàn hồ. Uống với nước muối nhạt.

  • Ngày đêm đái nhiều lần.

Phương thuốc: (Nam dược thần liệu – đái dầm)

  • ích trí nhân 40 hạt nghiền nhỏ, bỏ vào tý muối sắc uống.
  • ích trí nhân, Chỉ xác, sắc, gạn lấy nước thuốc hòa với 1 chén rượu uống nóng lúc đang đói.
  • Vãi dái không cầm được.

Phương thuốc: (Nam dược thần hiệu – đái dầm)

Bong bóng lợn rửa sạch, nấu chung với gạo nếp cho chín nhừ, cho vào chút hạt tiêu. Nấu xong bỏ gạo, thái bong bóng ăn.

  • Bong bóng dê 1 cái, đổ nước vào cho đầy, buộc chặt cuông lại, nướng trên lửa than cho vàng và ăn bong bóng uống nước trong bong bóng. Mỗi sáng 1 cái, ăn 3 cái.

36 bài thuốc dân gian đặc trị táo bón

Táo là do huyết mạch khô ráo, trên thì tân dịch khô kiệt, da dẻ khô nhăn, râu tóc quăn cứng; dưới thì bụng đau, tiểu sẻn đỏ, táo bón; nặng lắm thì cứng đờ. Đây là bệnh táo vì ăn nhiều đồ rán, nướng, cay, sắc dục quá độ, hoặc lúc bệnh uống nhiều thuốc công phạt hoặc cho phát hãn, hạ lợi thái quá, làm khô kiệt tân dịch, tinh huyết hao tổn rồi sinh táo.

Táo bón là không đi cầu được vì đói no thất thường, nhọc mệt quá độ, tổn hại đến vị khí lại còn ăn đồ cay nóng, ngon béo để tạng thận hỏa độc, hỏa độc làm hao tổn chân âm, tân dịch kém sút không thấm nhuần được, nên sinh táo bón.

Nội kinh chia táo bón ra làm 5 chứng phong, khí, hàn, nhiệt, thấp. Lại có người già khí hư, tân dịch không tư nhuận mà táo bón. Lại thêm sinh đẻ mất máu, tân dịch khô kiệt mà táo bón, các chứng đều có nguyên nhân, nên phân biệt mà chữa, mới không làm người bệnh chết oan.

Phép trị chủ yếu là bổ huyết, sinh tân, bổ phế, nhuận tràng.

  1. Huyết hư, phổi ráo, da khô, táo bón

Thiên môn đông, dùng nhiều ngâm với nước sôi cho nở ra, bỏ lõi và vỏ, nấu còn 1/2, dùng khăn vải đùm lại vắt lấy nước rồi cho vào nồi nhỏ, nhỏ lửa, cô thành cao.

Mỗi lần uống 2 – 3 đồng cân, lúc đói với nước trà, dần dần sẽ đỡ.

  1. Phong nhiệt ở đại tràng táo bón, người nhiều tuổi nên uống phương này

Bồ kết (bỏ hạt), Chỉ xác (bỏ ruột) đều nhau, sao tán, luvện mật làm viên bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 70 viên, lúc đói với nước cơm hay cháo rất hay.

  1. Khí kết ngực đầy, khí nghịch xông lên táo bón
  • Chỉ xác (bỏ ruột) sao, Mộc thông sao, Thanh bì (bỏ ruột) sao, Trần bì sao, Tang bạch bì (kỵ sắt, sao mật), hạt Cải củ sao qua, hạt Bìm bìm sao, Hồi hương sao, Nga truật nướng, Tam lăng sao.
  • Các vị đều nhau, tán, giã vắt lấy nước chừng 1/2 bát, khuấy hồ với bột gạo, viên bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 20 viên với nước Trần bì.
  1. Người tráng kiện bị khí huyết kết nhiệt, táo bón
  • Hương phụ sao muôi 2 lạng, Chỉ xác bỏ ruột sao 5 đồng cân, Đào nhân (bỏ vỏ và đầu nhọn) 5 đồng cân, 0 dược 5 đồng cân, hạt Tía tô sao 5 đồng cân, tán chung, mỗi lần uống 2 đồng cân với nước Trần bì lúc đói.
  1. Người già yếu táo bón
  • Hành trắng (cọng và rễ) 10 nhánh, sắc với nước mới múc, bỏ hành, cho 2 đồng cân cao da trâu và 1 chén mật vào nấu cho chảy tan, uống nóng cách bữa ăn.
  • Hạt Tía tô 1/2 cáp, hạt Vừng 1/2 cáp nghiền chung cho nát, đổ 1 bát nước vào khuấy đều, lắng lấy nước cốt, nấu cháo gạo trắng ăn rất hay.
  1. Táo bón
  • Hành trắng (cọng và rễ) 3 nhánh, gừng sống 1 củ bằng ngón tay, Đậu xị 21 hạt, muôi 1 nhúm, giã chung cho nát làm thành bánh hơ nóng chườm trên rốn, nguội lại hơ thì chườm nữa.
  • Quả Bồ kết, cho vào nồi rang, đốt lên khói, ngồi trên miệng nồi mà xông thì hết.
  1. Người yếu do lo rầu quá hại phế khí, phế và đại tràng tương quan biểu lý với nhau cho nên phế có bệnh là đại tràng sẽ bế tắc, hoặc do dùng nhiều đồ cay nóng sinh ra táo bón
  • Trần bì bỏ cùi trắng, Tía tô lấy cành lá non, Chỉ xác bỏ ruột sao qua, Mộc thông bỏ mắt đều nhau, sắc uống nóng.
  1. Phương thuấc nhuận khí lợi ruột, trị táo bón
  • Hạt Tía tô, hạt Gai dầu, đều nhau, giã nhỏ, khuấy nước lọc bỏ bã, nấu cháo gạo ăn.

Đại tiện bí kết đến nỗi hôn mê bất tỉnh

  • Ốc nhồi, 2-3 con, dùng cả vỏ, muôi 1 chén con, cùng giã nát đắp vào rốn dày 1 tấc 3 phân, dùng vải buộc chặt là khỏi.
  1. Táo bón, phân tắc trong ruột sưng đau không thông
  • Đào nhân 1 lạng, luộc chín ăn lúc đói, độ 1/2 ngày thì sôi bụng đi ra hết chất độc.
  1. Bí đại tiện do có thấp nhiệt trong trường vị
  • Binh lang 1 hạt, tán, 1 lần dùng 1 đồng cân, hành 3 củ thái mỏng, nước tiểu trẻ em 1 bát cùng sắc uống

Hoặc dùng Binh lang 3 đồng cân, 1/2 nước, 1/2 mật nấu làm thang uống nóng.

  1. Truyền trị chứng bụng trướng đầy, đại tiện bí kết
  • Nghệ vàng sao khô, tán, mủ cây vú bò, cùng giã nhỏ, viên bằng hạt dậu xanh, 1 lần uống 3 viên.
  1. Truyền trị đại tiện không thông
  • Củ rẽ quạt già 3 đồng cân hòa 1 bát nước, lọc bỏ bã uống
  • Ô mai 10 quả, gỡ bỏ hạt lấy cơm, tẩm nước nóng, viên lại bằng quả táo, đem nhét vào hậu môn.
  1. Truyền trị chứng táo kết bụng trướng lên, mặt vàng

mà sưng, Ợ chua ăn không được

  • Gạo nếp 6 đồng cân, Can khương 1 đồng cân, vỏ quít 5 phân, Ba đậu 2 hạt, cùng sao vàng rồi sàng bỏ Ba đậu, lấy 4 vị kia tán, viên với hồ bằng hạt đậu xanh, 1 lần 5-7 viên uống sau bữa ăn với nước sắc gừng và tía tô.
  1. Táo bón
  • Hòe hoa, phơi khô tán, 1 lần 1 đồng cân, hoặc ăn sống cũng công hiệu.
  1. Táo bón
  • Hành trắng cả rễ 1 nhánh, gừng sống 1 củ, muôi 1 nhúm, đậu xị 2 hạt, cùng giã nát làm thành bánh, nướng nóng đặt vào rốn băng chặt lại, hồi lâu nóng thấu vào là thông, chưa thông lại làm nữa.
  1. Táo bón
  • Chỉ thực sao qua, Bồ kết bỏ hạt và vỏ đen, đều nhau, cùng tán, mỗi lần 1 đồng cân uống với nước cơm hoặc quết với cơm làm thành viên mà uống với nước cơm.

    Vị thuốc Chỉ thực
    Vị thuốc Chỉ thực
  1. Táo bón
  • Mủ trắng cây vú bò, bồ hóng bếp giã chung, viên bằng hạt ngô đồng phơi khô, 1 lần uống 1 viên, sắc 1 lát gừng và 1 bát nước làm thang uống dần, hết thuốc là đi cầu được.

Thuốc này người già không dùng được.

  1. Táo bón
  • Hạt Bìm bìm tán, rây lấy lớp bột dầu, 1/2 sống 1/2 sao, uống với nước gừng, chưa thông lại uống.
  1. Táo bón
  • 1 phương khác gia thêm Chỉ xác sao, đều nhau, tán luyện mật viên bằng hạt ngô đồng, uống 70 – 80 viên với nước nóng.
  1. Đại tiện bí kết
  • Cao da trâu 3 tấc, hành trắng 1 nắm, sắc với 4 bát nước còn 1/2 bát, hòa chén mật uống thì đi cầu được.
  1. Người già bị phong hư mà táo bón
  • Bồ kết lâu ngày, đốt tồn tính, đổ ra đất, úp bát lại 1 đêm, tán, hòa rượu, uổng.
  1. Truyền trị đại tiện bí vì phong
  • Tật lê sao 2 lạng, Tạo giác, tẩm mật hoặc váng sữa, nướng 5 đồng cân, tán 1 lần 1 đồng cân, uống với nước trà hay nước muôi.
  • Phương khác dùng Tạo giác, không dùng Tật lê.
  1. Kinh phương trị đại tiện bí vì phong và khí
  • Hạt củ cải 1 cáp, ngâm nước nghiền nhỏ, hòa với bột Bồ kết 2 đồng cân, uống.
  1. Phép thông khoan bằng dầu
  • Hành trắng, giã nát lấy nước bôi khắp ngoài ống tre, đút vào hậu môn, lại lấy dầu vừng bằng 1/2 phần nước hành, trộn đều đổ vào bong bóng lợn, để người bệnh nằm ngửa, co chân lên, đưa nước thuốc trong bong bóng lợn dốc vào trong ống tre cho chảy vào hậu môn là đi cầu được ngay.
  1. Thông khoan bằng mật
  • Dùng mật cô đặc như keo thừa lúc đang nóng vắt thành thỏi dài bằng ngón tay, chấm bột Tạo giác vào đầu nhọn, nhét vào hậu môn, chốc lát đi cầu được.
  • Dùng hành giã nát bôi vào cuông lá dong rồi đút vào hậu môn.
  1. Thông khoan bằng mật lợn
  • Dùng 1 cái mật lợn để lấy 1 phân nước mật, gia giấm ngon vào trộn đều, dùng ống tre đút vào hậu môn rồi tiếp cái mật vào ống tre cho nước chảy vào.
  1. Thông khoan bằng gừng
  • 1 củ gừng lấy móng tay cạo bỏ vỏ, bôi nước muối vào, đút vào hậu môn, là đi cầu được.
  1. Nhuận tràng
  • Rau mồng tơi 50g – Rau đay tươi 100g
  • Khoai sọ sạch vỏ 1 – 2 củ

Ba vị trên nấu canh ăn hàng ngày, dùng trong 2-3 ngày.

  1. Nhuận tràng
  • Cỏ mực 400g                                – Lá muồng 100g
  • Mắc cỡ 200g                                – Mè đen 200g

Ngày uấng 5 viên vào buổi tối.

  1. Bổ âm nhuận tràng

Công thức do cụ Phó Đức Thành cấp, có:

  • Bột lá dâu bánh tẻ 0,20g – Bột vừng đen 0,15g
  • Mật ong cô lại 0,30g

Dược tính: của 3 dược liệu trên.

  1. Tang diệp: Lá dâu bánh tẻ (không già không non) có tính mát, vị hơi ngọt, trị phong thấp, mát phổi, sáng mắt, trị ho, trị nọc rắn độc, chữa sốt, mồ hôi trộm, cảm mạo, trị đờm, cao huyết áp, trị thổ huyết, hàm miệng mụn nhọt, trị bàn tay lên đinh. Đặc biệt là bổ: ăn được, ngủ được, giảm mệt mỏi, ông Hồ Tăng nói: tằm ăn lá dâu nhả tơ, tơ dệt thành gấm, người ăn lá dâu xanh sống lâu.
  2. Vừng đen: Tây dược lấy dầu vừng thay dầu olive, dầu vừng có ở trong dược điển của Đức và Thụy Sĩ từ 1910, vừng đen bổ âm, mát, nhuận tràng, (ta nấu chế ma phù) ăn dầu vừng với cháo, chấm thịt gà.
  3. Mật ong: lấy ỏ* ong nuôi hay ong rừng, mùa mật ong là mùa hoa, do ong lấy nhị làm mật, có thuyết nói nhị hoa cây độc thì mật độc, lại có thuyết nói ngược lại, nhị hoa cây độc không làm cho mật độc, (thuyết này có lý hơn).

Người ta chưa phân tích được rõ ràng mật ong, chỉ biết đại khái có glucose, levulose (70 – 75%) một ít acide formique, các vị thơm, các chất màu, các chất sáp, chất đạm.

  • Công dụng mật ong: Bổ nhất cho các cháu và người ho. Người ta chưa biết được mật ong có những chất sinh tố gì của hoa mà bổ, mật ong làm mát phổi, nhuận tràng, gần đây còn dùng để trị đau bụng kinh niên.
  • Cách pha chế thuốc hổ âm nhuận tràng: Chọn lá dâu bánh tẻ bỏ lá sâu, vàng thối, rửa sạch, cho vào rổ rũ hết nước, phơi âm can (6 – 7 ngày hay sấy nhẹ độ 40 – 50°, tay rửa cồn, vò, tuốt bỏ cọng lá tán thành bột xanh (lá mạ), đậy kín, nên bảo quản tránh nắng và ẩm, sấy nhẹ lửa (50°C).

Vừng đen rửa sạch, vẩy bớt nước, sấy (60°C) trước khi tán nên rang qua rồi tán với bột lá dâu (lá dâu ngâm dầu vừng).

Mật ong cô lại cho đặc.

3 dược liệu chuẩn bị xong, trộn với nhau luyện làm viên nặng độ 0,65g, sấy nhẹ lửa (60 – 70°C) 3 lần, làm 3 ngày thì tốt. Để nguội cho vào lọ kín (có đựng bông hút nước) hay để vào tủ có vôi miếng để bảo quản tránh ẩm.

  • Liều lượng: Người lớn uống 10 đến 16 viên/lần, ngày 3 lần, liều lượng có thể tăng giảm tùy theo bệnh nhân, nếu bệnh nhân táo quá trước khi uống Bổ âm nhuận tràng nên uống viên mật lợn hay mật bò (độ 8-12 viên 0,lg) 1 ngày.

Kết quả nghiên cứu cho thấy bài thuốc có tác dụng bổ âm và trị táo bón tốt, bệnh nhân ăn được ngủ được làm việc bớt mệt (thí nghiệm trong mùa hè), tuy nhiên có những bệnh nhân bị đầy bụng.

Liều dùng trung bình là 20 ngày.

  • Kết luận: Bổ âm nhuận tràng tốt, rẻ tiền có thể phổ biến sản xuất phục vụ nhân dân.
  • Chú thích: Nếu không có mật ong ta có thể dùng kẹo mạch nha, si rô đơn hay hồ nếp nhưng tác dụng bị giảm (tuy giá thành hạ hơn mà uống lâu không có hại), phụ nữ bị táo bón uống rất hợp.
  1. Bí đại tiện
  • Bồ kết, bỏ hột nướng giòn 30g
  • Xà phòng giặt (cục) 30g

Tán Bồ kết đã xay nhỏ, quết với xà phòng cục làm tọa dược cho vào hậu môn có công hiệu.

  1. Bí đại tiện
  • 8 con ốc lá – Muối đen 1 nhúm – Tiêu 1 nhúm Giã nát, sao nóng, bó sau lưng: Đi tiêu tức thì.
  1. Bí đại tiện
  • Đại hoàng 1 đồng cân – Chỉ xác 1 đồng cân – Cam thảo 5 phân Liều lượng trẻ dưới 5 tuổi dùng 8g trong ngày 5 – 10 tuổi: 12g 10 – 15 tuổi: 16g > 15 tuổi: 20g Thừa khí thang
  • Đại hoàng 1 đồng cân
  • Chỉ thực 1 đồng cân
  • Hậu phác 1 đồng cân
  • Sinh khương 3 lát

Sắc uống.

Thừa khí dưỡng doanh thang.

Như thang trên gia thêm:

  • Tri mẫu, Bạch thược, Đương quy, Sinh địa.
  1. Bí đại tiện (người lớn và trẻ em)

Đau lâu, bí đại tiểu tiện 15 – 20 ngày, linh dược 100%

Cắt rễ Lục bình dưới sống rạch, rửa sạch, để trong 1 cái tô, nghiền cho nhuyễn với vài hột muôi (nhiều/ít tùy người lớn hay nhỏ), banh mỏng ra, đắp từ dưới rốn xuống sát ba đì, 20 – 30 phút sau thấy linh nghiệm liền.

  1. Thuốc xổ thông lợi
  • Đại hoàng 8g – Chỉ xác 12g
  • Chủ trị:
  • Bí đại tiện, táo kết sốt cao mê sảng
  • ứ máu phát sốt, tích kết ngăn trệ ợ hơi, hôi mồm, kiết lỵ
  • Liều dùng:

Người lớn: ngày dùng 3 lần: sáng 10g, trưa 5g, chiều 5g Tả hỏa, hạ nhiệt, thông lợi ứ uất mỗi ngày từ 8g – 12g Trẻ dưới 5 tuổi: dùng 8g trong 1 ngày để xổ 5-10 tuổi: 12g 10 – 15 tuổi: 16g > 15 tuổi: như người lớn

  • Hạ nhiệt:dùng 1/2 hay 2/3 liều trên
  • Cấm dùng: Lạnh dạ, tiêu chảy, phân lỏng không tiêu
  • Ghi chú: Thuốc đắng dễ gây nôn, uống dần từng thìa Nếu nôn hòa thêm đường

Nếu đã đi cầu được không nên uống nữa Thuốc này đi tiểu, nước tiểu vàng đỏ.

Bệnh hội chứng thiên thần (Angelman)

Bệnh hội chứng thiên thần là một tình trạng di truyền hiếm gặp ảnh hưởng đến hệ thần kinh và gây ra các khuyết tật thể chất và học tập nặng nề.

Người mắc bệnh hội chứng thiên thần sẽ có tuổi thọ gần như bình thường, nhưng họ sẽ cần sự hỗ trợ suốt đời.

Đặc điểm của bệnh hội chứng thiên thần

Một đứa trẻ mắc bệnh hội chứng thiên thần sẽ bắt đầu có dấu hiệu chậm phát triển từ khoảng 6 đến 12 tháng tuổi, chẳng hạn như không thể ngồi vững hoặc phát ra âm thanh bập bẹ.

Sau đó, chúng có thể không nói được hoặc chỉ có thể nói một vài từ. Tuy nhiên, hầu hết trẻ em mắc bệnh hội chứng thiên thần có thể giao tiếp bằng cách sử dụng cử chỉ, ký hiệu hoặc các hệ thống khác.

Chuyển động của trẻ em mắc bệnh hội chứng thiên thần cũng sẽ bị ảnh hưởng. Chúng có thể gặp khó khăn trong việc đi bộ do các vấn đề về thăng bằng và phối hợp (ataxia). Tay của chúng có thể run rẩy hoặc di chuyển giật cục, và chân có thể cứng lại.

Nhiều hành vi đặc trưng được liên kết với bệnh hội chứng thiên thần, mặc dù một đứa trẻ mắc bệnh này có thể không có tất cả các hành vi đó. Chúng bao gồm:

  • Cười và mỉm cười thường xuyên, thường với ít kích thích
  • Dễ bị kích thích, thường vung tay
  • Không ngừng nghỉ (hiếu động)
  • Có khoảng chú ý ngắn
  • Khó ngủ và cần ít giấc ngủ hơn những trẻ khác
  • Sự say mê đặc biệt với nước

Khi khoảng 2 tuổi, một cái đầu nhỏ có thể thấy rõ, có thể phẳng ở phía sau (microbrachycephaly) ở một số trẻ mắc bệnh hội chứng thiên thần. Trẻ em mắc bệnh này cũng có thể bắt đầu có các cơn co giật hoặc lên cơn vào khoảng độ tuổi này.

Các đặc điểm khác có thể của hội chứng bao gồm:

  • Xu hướng lè lưỡi
  • Mắt lác (strabismus)
  • Da, tóc và mắt sáng hơn so với các thành viên khác trong gia đình
  • Miệng rộng với răng cách xa nhau
  • Cong cột sống theo chiều ngang (gù)
  • Đi bộ với tay giơ lên

Một số trẻ sơ sinh mắc bệnh hội chứng thiên thần có thể gặp khó khăn trong việc ăn uống vì chúng không thể phối hợp việc mút và nuốt. Trong những trường hợp như vậy, chúng có thể cần được cho ăn qua ống ăn. Trẻ sơ sinh mắc bệnh này có thể cần được điều trị trào ngược.

Nguyên nhân của bệnh hội chứng thiên thần

Trong hầu hết các trường hợp bệnh hội chứng thiên thần, cha mẹ của trẻ không mắc bệnh này và sự khác biệt di truyền gây ra hội chứng xảy ra ngẫu nhiên vào thời điểm thụ thai.

Bệnh hội chứng thiên thần thường xảy ra khi gen được gọi là UBE3A hoặc bị thiếu hoặc không hoạt động đúng cách. Một gen là một đơn vị duy nhất của vật liệu di truyền (DNA) đóng vai trò như một hướng dẫn cho cách một cá nhân được hình thành và phát triển.

Thông thường, một đứa trẻ nhận được 2 bản sao của gen này, một từ mỗi cha mẹ, nhưng chỉ có gen từ người mẹ là hoạt động.

Hầu hết các trường hợp bệnh hội chứng thiên thần xảy ra khi đứa trẻ không nhận được bản sao của gen UBE3A từ mẹ, hoặc gen không hoạt động. Điều này có nghĩa là không có bản sao hoạt động của gen trong não của trẻ.

Trong một số ít trường hợp, bệnh hội chứng thiên thần xảy ra khi một đứa trẻ nhận được 2 bản sao không hoạt động của gen từ cha của chúng, thay vì 1 bản sao từ mỗi cha mẹ.

Đôi khi nguyên nhân của bệnh hội chứng thiên thần không rõ ràng. Hầu hết trẻ em trong những trường hợp không giải thích này có các tình trạng khác liên quan đến các gen hoặc nhiễm sắc thể khác.

Chẩn đoán bệnh hội chứng thiên thần

Bệnh hội chứng thiên thần có thể được nghi ngờ nếu sự phát triển của một đứa trẻ bị chậm và chúng có các đặc điểm đặc trưng của hội chứng.

Một xét nghiệm máu được sử dụng để xác nhận chẩn đoán. Nhiều xét nghiệm di truyền sẽ được thực hiện trên mẫu máu. Những xét nghiệm này tìm kiếm:

  • Bất kỳ nhiễm sắc thể hoặc mảnh nhiễm sắc thể nào bị thiếu
  • Thay đổi trong gen UBE3A của mẹ hoặc cha mà họ có thể đã chuyển cho
  • Thay đổi trong gen UBE3A của đứa trẻ mà sẽ ngăn nó hoạt động

Đối với mỗi trẻ em mắc bệnh hội chứng thiên thần, điều quan trọng là biết sự thay đổi di truyền gây ra tình trạng này. Điều này giúp xác định cơ hội của bạn có một đứa trẻ khác mắc bệnh hội chứng thiên thần.

Hầu hết trẻ em mắc bệnh hội chứng thiên thần được chẩn đoán trong khoảng thời gian từ 9 tháng đến 6 năm, khi các triệu chứng thể chất và hành vi trở nên rõ ràng.

Nếu con bạn được chẩn đoán mắc bệnh hội chứng thiên thần, bạn sẽ có thể nói chuyện với bác sĩ di truyền về những hỗ trợ mà chúng có thể cần.

Quản lý bệnh hội chứng thiên thần

Con bạn có thể được hưởng lợi từ một số phương pháp điều trị và hỗ trợ sau:

  • Thuốc chống động kinh để kiểm soát cơn co giật
  • Vật lý trị liệu có thể cải thiện tư thế, thăng bằng và khả năng đi bộ; nó cũng quan trọng để ngăn ngừa tình trạng cứng khớp vĩnh viễn khi người mắc bệnh hội chứng thiên thần lớn lên
  • Liệu pháp giao tiếp có thể giúp chúng phát triển các kỹ năng ngôn ngữ phi ngôn từ, chẳng hạn như ngôn ngữ ký hiệu và sử dụng hỗ trợ trực quan, hoặc các phương pháp giúp chúng giao tiếp như Signalong, Makaton hoặc PECS; sử dụng ứng dụng iPad và các thiết bị máy tính bảng tương tự cũng có thể giúp
  • Liệu pháp hành vi có thể được khuyến nghị để giúp vượt qua các hành vi mà bạn thấy khó quản lý, chẳng hạn như hiếu động và khoảng chú ý ngắn

Trong thời thơ ấu muộn, các cơn co giật thường cải thiện, mặc dù chúng có thể trở lại trong tuổi trưởng thành. Theo thời gian, người mắc bệnh hội chứng thiên thần trở nên ít hiếu động hơn và có thể ngủ tốt hơn.

Hầu hết người mắc hội chứng sẽ có khuyết tật học tập và khả năng nói hạn chế trong suốt cuộc đời. Ở người lớn, một số khả năng di chuyển có thể bị mất và các khớp có thể cứng lại.

Người mắc bệnh hội chứng thiên thần thường có sức khỏe tổng thể tốt và thường có khả năng cải thiện giao tiếp và tiếp thu các kỹ năng mới.

Mặc dù hiện tại không có phương pháp chữa trị cho bệnh hội chứng thiên thần, nhưng nghiên cứu về các phương pháp điều trị đang được thực hiện ở các quốc gia khác. Cũng có các thử nghiệm lâm sàng đang xem xét điều trị cho một số triệu chứng liên quan đến bệnh hội chứng thiên thần, chẳng hạn như các cơn co giật.

Bệnh cơ tim và Viêm cơ tim

Bệnh cơ tim là những bệnh lý chính yếu của cơ tim. Bảng 124-1 tóm tắt những đặc điểm phân biệt của ba nhóm bệnh cơ tim chính. Bảng 124-2 trình bày những đánh giá ban đầu toàn diện khi nghi ngờ bệnh cơ tim.

BỆNH CƠ TIM DÃN NỞ (CMP)

Dãn thất trái đồng tâm (LV), kết hợp với chức năng tâm thu suy giảm; thất phải (RV) cũng thường bị ảnh hưởng.

BẢNG 124-1 ĐẶC ĐIỂM BỆNH CƠ TIM (BCT) CÓ TRIỆU CHỨNG

BỆNH CƠ TIM

*Triệu chứng sung huyết phổi của tim trái: khó thở khi gắng sức, khi nằm, khó thở kịch phát về đêm. Triệu chứng của tim phải là ứ trệ tĩnh mạch hệ thống: khó chịu khi uốn người, gan to và báng bụng, phù ngoại biên.

Nguyên nhân

Khoảng 1/3 bệnh nhân có tiền căn gia đình, bao gồm các trường hợp do đột biến gen mã hoá sarcomere proteins. Các nguyên nhân khác bao gồm tiền căn viêm cơ tim, nhiễm độc [ethanol, các thuốc hoá trị ung thư (doxorubicin, trastuzumab, imatinib mesylate)], bệnh lý mô liên kết, bệnh loạn dưỡng cơ, “bệnh cơ tim chu sản.” Suy giảm chức năng thất trái do bệnh động mạch vành nặng/nhồi máu hoặc hở van động mạch chủ/van hai lá mãn tính.

ĐÁNH GIÁ BAN ĐẦU BỆNH CƠ TIM

aLevel I Recommendations from ACC/AHA Practice Guidelines for Chronic Heart Failure in the adult.
Source: From SA Hunt et al: Circulation 112: 2005.

Triệu chứng

Suy tim sung huyết (Chương 133); rối loạn nhịp nhanh thuyên tắc mạch máu ngoại vi do huyết khối hình thành trong thất trái.

Khám lâm sàng

Tĩnh mạch cổ nổi (JVD), ran phổi, mỏm tim thất trái to và rối loạn vận động, T3, gan to, phù ngoại biên; âm thổi hở van hai lá và ba lá thường gặp.

Điện tâm đồ

Block nhánh trái và thường gặp bất thường sóng ST-T.

X-quang ngực

Bóng tim lớn, tái phân bố tuần hoàn phổi, tràn dịch màng phổi thường gặp.

Siêu âm, CT và MRI tim

Lớn thất trái và thất phải kết hợp với giảm co bóp cơ tim toàn bộ. Rối loạn vận động vùng gợi ý nguyên nhân do bệnh mạch vành hơn là bệnh cơ tim nguyên phát.

B-Type Natriuretic Peptide (BNP)

Tăng nồng độ trong suy tim/bệnh cơ tim nhưng không gặp ở bệnh nhân khó thở do bệnh lý phổi.

ĐIỀU TRỊ Bệnh cơ tim dãn nở

Phương pháp điều trị suy tim chuẩn: Lợi tiểu khi quá tải thể tích, thuốc dãn mạch kết hợp với ức chế men chuyển (khuyến cáo), ức chế thụ thể angiotensin hoặc phối hợp hydralazine-nitrate cho thấy làm giảm tiến triển bệnh và kéo dài tuổi thọ. Kết hợp thêm beta blocker ở hầu hết bệnh nhân. Thêm spironolactone cho bệnh nhân suy tim tiến triển.

Xem xét liệu pháp kháng đông dài hạn với warfarin có có rung nhĩ (AF), thuyên tắc mạch máu trước đây, hoặc nhồi máu cơ tim thành trước diện rộng. Thuốc chống loạn nhịp (v.d., amiodarone hay dofetilide) có thể có hiệu quả để duy trì nhịp xoang ở bệnh nhân rung nhĩ. Xem xét phẫu thuật đặt máy khử rung tim cho bệnh nhân suy tim ≥ độ III và LVEF <35%. Ở
những bệnh nhân suy tim class III–IV mãn tính, LVEF <35%, và thời gian QRS >120 ms, xem xét đặt máy tạo nhịp hai buồng thất. Có thể thử liệu pháp điều trị ức chế miễn dịch, nếu hiện đang có viêm cơ tim trên sinh thiết thất phải (tác dụng phụ cũng như lợi ích lâu dài chưa được chứng minh). Ở một số bệnh nhân, có thể xem xét ghép tim.

BỆNH CƠ TIM HẠN CHẾ

Cơ tim gia tăng độ cứng làm giảm khả năng giãn của tâm thất; áp suất tâm trương tâm thất gia tăng. Các nguyên nhân bao gồm các bệnh lý thâm nhiễm (amyloid, sarcoid, ứ sắt mô, bạch cầu ái toan), xơ hoá cơ – nội tâm mạc, bệnh Fabry, và tiền căn xạ trị vùng trung thất.

Triệu chứng

Triệu chứng của suy tim, mặc dù suy tim phải thường chiếm ưu thế, với phù ngoại biên và báng bụng.

Khám lâm sàng

Các dấu hiệu chủ yếu của suy tim phải: Tĩnh mạch cổ nổi, gan to, phù ngoại vi, âm thổi hở van hai lá. Tiếng T4 thường gặp.

Điện tâm đồ

Điện thế thấp ở chuyển đạo chi, nhịp nhanh xoang, bất thường sóng STT.

X-quang ngực

Lớn thất trái.

Siêu âm, CT và MRI tim

Lớn hai nhĩ; tăng khối lượng tâm thất, dấu (“lốm đốm”) trong bệnh lý thâm nhiễm, đặc biệt là amyloidosis. Chức năng tâm thu thường bảo tồn nhưng cũng có thể giảm nhẹ.

Thông tim

Tăng áp lực tâm trương thất trái và thất phải với dạng “lõm sâu và bình nguyên”; Sinh thiết thất phải có ích trong phát hiện bệnh lý thâm nhiễm (sinh thiết trực tràng hoặc mỡ bụng có ích trong chẩn đoán amyloidosis).

Lưu ý: Cần phải phân biệt bệnh cơ tim hạn chế và viêm màng ngoài tim co thắt, do có thể can thiệp phẫu thuật. Dày ngoại tâm mạc trong viêm ngoại tâm mạc thường thấy rõ trên CT hoặc MRI.

Giảm muối và dùng lợi tiểu giúp cải thiện tình trạng sung huyết phổi và sung huyết hệ thống; digitalis không được chỉ định trừ khi có suy giảm chức năng tâm thu hoặc có rối loạn nhịp nhĩ. Lưu ý: Amyloidosis làm tăng nhạy cảm với digitalis. Thuốc kháng đông thường được chỉ định, đặc biệt ở bệnh nhân viêm cơ – nội tâm mạc bạch cầu ái toan. Điều trị đặc hiệu đối với bệnh lý ứ sắt mô và sarcoidosis, trong HPIM-18.

BỆNH CƠ TIM PHÌ ĐẠI

Thất trái phì đại rõ; thường không đồng tâm, không kèm theo tăng huyết áp hay bệnh lý van tim. Chức năng tâm thu thường bảo tồn; Sự gia tăng độ cứng thất trái gây hậu quả làm tăng áp lực đổ đầy tâm trương. Hậu quả thường do đột biến sarcomeric proteins (di truyền trội nhiễm sắc thể thường).

Triệu chứng

Thứ phát do tăng áp lực tâm trương, tắc nghẽn đường ra thất trái (nếu có), và loạn nhịp tim; khó thở khi gắng sức, đau ngực, và ngất; đột tử có thể xảy ra.

Khám lâm sàng

Mạch động mạch cảnh mạnh với hai đỉnh nhọn; Tiếng T4, âm thổi tâm thu thô ráp dọc bờ trái xương ức, âm thổi dạng phụt của hở van hai lá ở mỏm tim; âm thổi thay đổi trong nghiệm pháp Valsava và các nghiệm pháp khác.

Điện tâm đồ

Phì đại thất trái với sóng Q “vùng vách” sâu ở chuyển đạo DI, aVL, V5– 6. Rung nhĩ hoặc nhịp nhanh thất thường phát hiện trên Holter điện tâm đồ.

Siêu âm tim

Phì đại thất trái, thường không đối xứng, đặc biệt ở vùng vách và vùng mỏm; Chức năng co bóp thất trái đặc biệt tốt với thể tích cuối tâm trương nhỏ. Nếu có tắc nghẽn đường ra thất trái, Dấu hiệu SAM (chuyển động ra trước của van hai lá trong kì tâm thu) và van động mạch chủ đóng một phần trong kì tâm thu thường gặp. Siêu âm Doppler cho thấy có sự gia tăng lưu lượng máu đầu tâm thu qua đường ra thất trái.

Cần tránh vận động mạnh. Beta blockers, verapamil, hoặc disopyramide dùng đơn độc để giảm triệu chứng. Digoxin, các thuốc cường tim khác, lợi tiểu, và thuốc giãn mạch thường chống chỉ định. Kháng sinh dự phòng viêm nội tâm mạc (Chương 89) chỉ cần thiết ở bệnh nhân có tiền căn viêm nội tâm mạc. Thuốc chống loạn nhịp, đặc biệt amiodarone, có thể giúp ngăn rối loạn nhịp nhĩ hoặc nhịp thất. Tuy nhiên, cần xem xét cấy máy phá rung cho bệnh nhân có nguy cơ cao, v.d., tiền căn bị ngất hoặc ngưng tim, nhịp nhanh thất không kiểm soát, phì đại thất trái lớn (>3 cm), tụt huyết áp khi gắng sức, hoặc tiền căn gia định có đột tử. Ở một số bệnh nhân, sự chênh lệch đường ra thất trái có thể giảm bằng gây nhồi máu vùng vách có kiểm soát bằng cách tiêm ethanol vào nhánh vách động mạch liên thất trước. Phẫu thuật cắt bỏ vách liên thất có thể chỉ định ở bệnh nhân kháng trị với liệu pháp nội khoa.

VIÊM CƠ TIM

Quá trình viêm của cơ tim có thể tiến triển thành bệnh cơ tim dãn nở mãn tính, thường do nhiễm siêu vi cấp (v.d., parvovirus B19, coxsackievirus, adenovirus, Epstein-Barr virus). Viêm cơ tim có thể xảy ra ở bệnh nhân bị nhiễm HIV, Viêm gan siêu vi C hay bệnh Lyme. Bệnh Chagas là nguyên nhân gây viêm cơ tim thường gặp ở một số địa phương, điển hình là Trung Mỹ và Nam Mỹ.

Bệnh sử

Sốt, mệt mỏi, đánh trống ngực; nếu có rối loạn chức năng thất trái, có thể có triệu chứng suy tim. Viêm cơ tim có thể xảy ra sau nhiễm trùng tiểu.

Khám lâm sàng

Sốt, nhịp tim nhanh, T1 nhẹ; thường có T3.

Cận lâm sàng

CK-MB và troponin có thể tăng mặc dù không có nhồi máu. Nồng độ kháng thể kháng virus có thể gia tăng.

Điện tâm đồ

Bất thường sóng ST-T thoáng qua.

X-quang ngực thẳng

Bóng tim lớn

Siêu âm tim, MRI tim

Nghỉ ngơi; điều trị như suy tim; hiệu quả của liệu pháp ức chế miễn dịch (v.d. steroids) chưa rõ ngoại trừ trường hợp đặc biệt như sarcoidosis và viêm cơ tim tế bào khổng lồ. Trong trường hợp tối cấp, ghép tim có thể được chỉ định.

Cơn thần kinh do thiếu máu tủy sống

Sự phân bố mạch máu tủy sống

Sự phân bố động mạch nuôi dưỡng tủy sống thông qua các động mạch rễ. ở vùng cổ, những động mạch rễ tách ra từ đoạn cô của động mạch đốt sống, ớ vùng chuyển tiếp cổ – ngực, phần lớn chúng tách ra từ thân động mạch sườn cổ. ở vùng ngực và thắt lưng, chúng tách ra từ thân động mạch sườn cổ. ở vùng ngực và thắt lưng chúng tách ra từ động mạch chủ. ở vùng cùng, những động mạch rễ lại đi từ các mạch của các động mạch chậu.

Vì các động mạch rễ, kể cả đằng trước và đằng sau đều đi đôi với rễ tủy sống nên có động mạch rễ trước và động mạch rễ sau.

Số lượng của các động mạch rễ trước ở người lớn biến động mạnh từ 5 – 10, mà trong đó kể cả mức của độ cao đường đi vào cũng luôn luôn thay đổi. Động mạch rễ trước lớn nhất được gọi tên tác giả đầu tiên mô tả là Adamkiewicz, chạy kèm một trong những rễ từ Dg – L2. Những động mạch rễ trước tiếp nối với động mạch tủy sống trước đơn độc.

Các động mạch rễ sau chạy tới mặt bên – sau của tủy sống và tiếp thông với động mạch tủy sau cùng bên. Số lượng của động mạch rễ sau cũng biến động vào khoảng từ 10 – 23.

Như vậy tủy sống được bảo đảm nuôi dưỡng bởi 3 động mạch dọc. Hệ động mạch tủy trước nằm ở mặt trước của tủy cổ có thiết diện lớn nhất, chạy trên mặt rãnh trước của tủy sống tới tận vùng tủy cùng. Động mạch tủy trước này bắt nguồn từ sự hợp nhất của hai nhánh tách ra từ hai động mạch sống. Ngoài ra, tủy sống còn được cung cấp thêm máu bởi những động mạch rễ trước.

Phía sau của tủy sống được bảo đảm cung cấp máu bởi hai hệ động mạch tủy sau. Các động mạch tủy trước và tủy sau nôi thông với nhau bằng các động mạch vòng (Aa. circumferentes), hình thành một mạng mạch máu áp sát màng mềm tủy sống.

Việc nuôi dưỡng của phần trước và phần trung tâm của thiêt diện tủy được bảo đảm qua hệ động mạch ở vùng mép trước và rãnh của tủy sống gọi là những động mạch rãnh – mép (Aa. sulcocommissurales). Những động mạch này phân bố dày đặc chạy vào sâu trong rãnh trước và tủy sống mà phần lớn xuyên rẽ xen nhau sang phải hoặc sang trái. Chúng phân bố nuôi dưỡng cho sừng trước và rễ trước. Phần 1/3 sau (phía lưng) của thiết diện tủy, tức là những rễ sau và những bó, cột sau, được nuôi dưỡng bởi động mạch tủy sau, trong khi phần lớn của chất trăng lại được nuôi dưỡng bằng mạng lưới của những động mạch vòng.

Theo những công trình nghiên cứu mới, hướng chảy của dòng máu trong động mạch tủy trước không đồng nhất. Dòng máu chảy có thể theo hướng lên trên (phía đầu) và cả theo hướng xuống dưới (phía chân) nên trong tủy sống có nhiều đơn vị dòng chảy xiên qua, không có ranh giới nhất định, nhiều dạng và chồng chéo lên nhau. Thường hay xảy ra trường hợp thiếu một động mạch rễ thì vùng phân bô đó được bù đầy đủ bởi hai động mạch rễ giáp ranh. Nếu tình trạng đó không được khắc phục, sẽ xuất hiện thiếu máu tại vùng phân bố của động mạch rễ đã bị mất. Trong hoàn cảnh xuất hiện cơn rối loạn huyết động chung, ngược lại thường thấy biểu hiện thiếu máu trước hết ở vùng ranh giới giữa hai động mạch rễ. Dòng chảy tĩnh mạch xuất phát của các mạch đi ra từ thiết diện tủy sống được dẫn theo các hệ thống tĩnh mạch nối dọc nằm ở bề mặt tủy sống và được nối thông nhau bằng những cầu mạch máu.

Những tĩnh mạch nôi dọc quan trọng nhất là:

+ Tĩnh mạch tủy giữa trước (V. spinalis mediana ant) ở mặt trước của tủy sống, giáp ranh trực tiếp với động mạch tủy trước.

+ Những tĩnh mạch trước – bên và những tĩnh mạch sau – bên ở cạnh hoặc giữa các rễ trước hoặc các rễ sau, tĩnh mạch tủy giữa – sau ở đoạn sau của đường giữa thiết diện tủy.

Các chuỗi tĩnh mạch tủy trước và sau nối với các tĩnh mạch nội sọ ở vùng hành tủy và đổ vào xoang đá dưới (sinus pétreux inf) và xoang hang.

Dòng máu – xuất phát đi ra từ những tĩnh mạch nối dọc này của tủy sống chảy qua một số lượng rất khác nhau của tĩnh mạch rễ trước và rễ sau, mà phần lớn chúng thường đi qua màng tủy cùng với một rễ thần kinh. Các tĩnh mạch ngoài màng tủy này có các van đưa máu đổ vào đám rối tĩnh mạch đốt sống trong, đám rối này lại có sự tiếp nối với đám rối tĩnh mạch đốt sống ngoài, cũng như với hai hệ tĩnh mạch – xuất phát trong hộp sọ. Cuối cùng dòng máu được chảy qua các tĩnh mạch đốt sống, liên sườn, thắt lưng và đám rối cùng đổ về tĩnh mạch chủ trên và chủ dưới.

Các bệnh thiếu máu tủy sống

  • Bệnh căn và bệnh sinh

Thiểu năng tuần hoàn tủy sống do hệ động mạch có thể do bệnh nguyên phát của mạch, và cũng có thể do chèn ép mạch gây ra.

Trong các bệnh nguyên phát của mạch, phải tính tới hàng đầu là xơ cứng động mạch, trong đó vị trí tắc mạch có thể nằm trong hoặc ngoài tủy sống.

Như vậy các nhồi máu tủy thường là hậu quả của xơ vữa động mạch chủ, các động mạch liên sườn hoặc của phình động mạch chủ.

Nhuyễn tủy do tắc khí sau chụp động mạch chủ, và các phẫu thuật động mạch chủ cũng là vấn để thường gặp trong lâm sàng.

Xơ cứng động mạch, những biến đổi viêm nhiễm (giang mai, viêm động mạch chủ thể hạt) của các động mạch nội tủy cũng có thể là nguyên nhân của thiểu năng tuần hoàn tủy. Trong những trường hợp này, chụp X quang tủy có thể phát hiện được những tổn thương mạch máu, một nguyên nhân dẫn đến bệnh tủy tiến triển.

Sự chèn ép các động mạch rễ có thể thấy trong thóat vị đĩa đệm. Ngoài ra hẹp ống sống do gai xương, gù kết hợp lệch – vẹo cột sống và các u nội tủy có thể gây nên các triệu chứng tủy do nguyên nhân mạch máu, do cơ chế chèn ép hoặc do gấp khúc mạch máu. ở đây, có thể phân biệt được đoạn tủy do tổn thương mạch máu với đoạn tủy do chèn ép trực tiếp. Những biểu hiện của sự thiêu máu ở vùng ranh giới của hai động mạch rễ là yếu tố quan trọng để giải thích sự khác biệt này.

  • Giải phẫu bệnh lý

Các hoại tử của tủy sống do thiếu máu có những mức độ rộng khác nhau.

Bên cạnh nhuyễn tủy hoàn toàn mặt ngang tủy sống, người ta cũng thấy cả hoại tử từng phần của nó, chủ yếu ở chất xám. Thường thấy xuất hiện ở khu vực nuôi dưỡng bởi động mạch tủy trước một vùng nhuyễn tủy (myélomalacie) điển hình.

Nhuyễn tủy phần lớn thường không dừng lại ở mức độ thiết diện tủy, mà lan lấn tới nhiều đoạn tủy. Trong giai đoạn muộn, người ta còn tìm thấy ở đó những biến đổi thoái hóa các cột của tủy sống.

  • Lâm sàng của hội chúng thiếu máu tủy sống

Cũng giống như cơn thiếu máu não, người ta phân biệt thiêu máu tủy sống tạm thời và thiếu máu vĩnh viễn.

  • Bệnh thiếu máu tủy sổng tạm thời:

Người ta phân biệt khập khểnh gián cách tủy sống (claudicatio intermittens spinalis) với khập khễnh gián cách đuôi ngựa (claudicatio intermittens der cauda equina).

Trường hợp khập khễnh gián cách tủy sống chỉ xuất hiện sau tác động của áp lực trọng tải hội chứng liệt nhẹ hai chân theo kiểu liệt cứng, mà phần lớn có một bên chân liệt rõ hơn, đặc biệt là sau thời gian nghỉ yên tĩnh thì liệt hai chân lại biến mất.

Bệnh nhân cảm thấy rõ là sau khi cột sống chịu đựng trọng tải một cảm giác nặng chân thực sự, đôi khi kèm thêm cảm giác tê bì hoặc đau. Trong lúc này, nếu khám xét kỹ sẽ phát hiện được ở hai chân có tình trạng co cứng, phản xạ gân xương tăng so với chi trên, và thường thường thấy cả dấu hiệu Babinski, có khi xuất hiện đái không kìm lại được (đái dầm), cảm giác sâu ở phần lớn trường hợp còn nguyên vẹn. Thông thường trong một thời gian ngắn sẽ dẫn tới một bệnh cảnh mang tính chất thường xuyên.

Trường hợp khập khễnh gián cách đuôi ngựa, bảng lâm sàng được biểu hiện bằng những cảm giác sai, phụ thuộc theo trong tải của cột sống như cảm giác tê bì, lạnh, cháy hoặc đau ờ hai chân. Khám cảm giác thấy những biểu hiện tăng cảm (hyperesthésie) và đau ở những đoạn tương ứng. Hiếm thấy có rối loạn vận động, phù hợp với tổn thương ở vùng neuron vận động thứ hai, xuất hiện giảm và mất phản xạ và không bao giờ có dấu hiệu bó tháp. Ngược lại với các loại khập khễnh gián cách khác của chân, ở đây mạch chân phần lớn còn sờ thấy.

  • Hội chứng thiếu máu tủy sống vĩnh viễn (nhuyễn tủy):

Những tổn thương tủy sống do thiếu máu vĩnh viễn được biểu hiện bằng 3 hội chứng đặc trưng:

+ Hội chứng cắt ngang tủy hoàn toàn.

+ Hội chứng của động mạch tủy trước.

+ Hội chứng động mạch tủy sau.

Nhuyễn tủy ngang hoàn toàn: thường hay phát triển sau khập khễnh gián cách tủy sống hoặc không có dấu hiệu báo trước. Nó bắt đầu phần lớn bằng đau lưng đột ngột ở đoạn tương ứng với mức của tổn thương và lan xuyên theo rễ. Đồng thời xuất hiện trước tiên liệt mềm hai chân (liệt nhẹ hoặc liệt hẳn hai chân). Hoặc nếu tổn thương ở vùng cổ cũng xuất hiện bại hoặc liệt tứ chi, kèm theo mất phản xạ gân xương. Muộn hơn sẽ xuất hiện liệt cứng với những dấu hiệu tháp dương tính ở dưới vùng tổn thương, trong khi các cơ được chi phối trực tiếp bởi các đoạn tủy nhuyễn bị teo đi và mất phản xạ. Từ khu vực bị tổn thương trở xuống có biểu hiện mất đau và mất cảm giác hoàn toàn, đôi khi ở sát phía trên tổn thương đó lại có tăng cảm giác đau.

Trên lâm sàng, sau khi đã xác định được giới hạn của những rối loạn cảm giác và giảm sút vận động, thì ở tủy sống những ổ hoại tử thực sự đã lan rộng tối nhiều đoạn khác và không phải ở tất cả các đoạn nào vùng hoại tử cũng xâm chiếm hoàn toàn cả mặt cắt ngang của tủy. Do hậu quả của sự suy sụp phó giao cảm nên xuất hiện những rối loạn điểu chỉnh bàng quang và trực tràng. Phần lớn trường hợp lúc đầu bị ứ niệu và sau đó là đái không kìm được (đái dầm). Thường hay kèm theo cả triệu chứng cương đau dương vật (priatpismus).

Trong những trường hợp tổn thương vùng tủy cổ và tủy ngực, còn xuất hiện thêm suy sụp giao cảm, biểu hiện bằng rối loạn điều chỉnh tư thế đứng và thiếu điều hòa thân nhiệt. Cũng có thể có những biến chứng về tim và phổi do rối loạn thần kinh thực vật.

ở những phần cơ thể bị mất sự chi phối thần kinh về vận động và cảm giác, sẽ xuất hiện nhanh những rối loạn dinh dưỡng và cuối cùng dẫn đến loét mục.

Hội chứng động mạch tủy trước: cũng thường xuất hiện đột ngột tùy theo mức, chiều cao của tổn thương mà bệnh nhân bị đột nhiên đau và liệt hai chân hoặc liệt tứ chi; đồng thời xuất hiện những rối loạn cảm giác về nóng, lạnh và đau ở các đoạn tủy tương ứng và phía dưới đó. Trái ngược với hội chứng tủy ngang hoàn toàn là ở những cảm giác về xúc giác và vận động không hoặc chỉ rất ít bị rối loạn. Teo cơ chỉ thấy ở các đoạn mà có hoại tử các tế bào sừng trước.

Liệt trong hội chứng của động mạch tủy trước phần lớn bắt đầu bằng kiểu liệt nhẽo. Nếu phát triển nhanh tới liệt cứng, đó là một dấu hiệu của tiên lượng tốt. Trong hội chứng này cũng cần lưu ý tối những triệu chứng thần kinh thực vật kèm theo.

Hội chứng của động mạch tủy sau: chỉ gặp hết sức hãn hữu. Lâm sàng có đặc điểm là suy sụp chức năng của cột sau tủy sống, thể hiện bằng những rối loạn xúc giác, rối loạn cảm giác sâu.

Ngoài ra cũng thường thấy cả những rối loạn chức năng nhẹ của cột sau bên của tủy sống, tức là đường dẫn truyền bó tháp.

  • Tiên luợng và tiến triển của các bệnh thiếu máu tủy sống

Tiên lượng và tiến triển của bệnh này phụ thuộc vào mức độ của sự thiếu máu cục bộ, độ rộng của thiếu máu trong thiết diện ngang hoặc trong dọc chiều dài của tủy sống. Nhuyễn tủy ngang hoàn toàn đương nhiên có tiên lượng xấu.

Nhuyễn tủy từng phần, ngược lại có thể phục hồi chức năng tốt nhưng thường phải trải qua một thời gian điều trị tích cực và dài ngày.

Mối đe dọa nguy hiểm cho bệnh nhân là những biến chứng như viêm bàng quang, viêm bể thận – thận ngược dòng, loét mục, co cứng khớp thứ phát.

Trong hội chứng tủy ngang vùng tủy ngực và cổ, mặc dù hội chứng liệt vẫn tồn tại và kéo dài nhưng vẫn có khả năng hình thành hoạt động tự động của bàng quang.

  • Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt các bệnh tủy sống

Trên lâm sàng, thường hay gặp khó khăn để phân biệt một cách chắc chắn, giữa nhuyễn tủy sống với chảy máu tủy sống (hématomyélie) và viêm tủy ngang, vì đôi khi trong dịch não – tủy của nhuyễn tủy cũng có tăng lympho bào.

Những u tủy sống được phân biệt phần lớn bởi quá trình tiến triển bệnh kéo dài của những triệu chứng lâm sàng. Chỉ có trường hợp u tủy sống cỡ lớn, người ta mới thấy xuất hiện nghẽn tắc dịch não – tủy và nghiệm pháp Queeckenstedt dương tính điển hình. Tất nhiên chỉ có chụp tủy sống mới có khả năng phân biệt được rõ ràng những quá trình bệnh lý trên.

Hình ảnh trên phim X quang chụp tủy sống cũng còn giúp cho chẩn đoán phân biệt với viêm màng nhện tủy và bọc máu ngoài màng cứng tủy sống.

Quá trình phá hủy đốt sống có thể gây nên chèn ép tủy, có thể phát hiện được bằng chụp X quang thường, cần đặt vấn đề chẩn đoán phân biệt với những bệnh của những bó, những cột của cấu trúc tủy sổng mà ở người già thường hay gặp nhiêu hơn là nhuyễn tủy. Hiện nay chụp cắt lớp vi tính (CT. Scan) và chụp cộng hưởng từ hạt nhân (MRI) có khả năng chẩn đoán phân biệt tôt nhất các bệnh tủy sống.

Cũng cần phân biệt với trạng thái kém hấp thu vitamin B12 được xác định bằng Schilling test.

Cần lưu ý tỏi chẩn đoán phân biệt nhuyễn tủy sống với trường hợp tắc ở chạc đôi động mạch chủ, nhưng không phải khó khăn lắm. Đặc điểm của trạng thái bệnh này có một vài triệu chứng nổi bật là không có mạch (mạch không bắt được), triệu chứng lạnh và có đường vân (marburê) ở hai chân, mà trong nhuyễn tủy sống do thiếu máu đơn độc không bao giờ có.

  • Điều trị các bệnh thiếu máu tủy sống

Về nguyên tắc điều trị đối với thiếu máu tủy sống cũng giống như cơn thiếu máu não. Nếu không thì cho điều trị tiếp theo như tất cả những hội chứng tủy ngang cấp. ở đây chỉ nêu lên những biện pháp điều trị quan trọng đầu tiên, còn không đi sâu vào chi tiết.

Đối với những rối loạn bàng quang, cần đặt ống thông bàng quang cách hồi dưới điều kiện vô khuẩn nghiêm ngặt. Nếu đặt ống thông dẫn lưu bàng quang kéo dài sẽ gây trở ngại cho sự hình thành hoạt động tự động bàng quang do thần kinh, đặc biệt trong hội chứng tủy ngang ở những đoạn tủy cao, còn trong tổn thương vùng nón đuôi ngựa thì không có tự động bàng quang.

Đặc biệt cần phòng chống loét mục do nằm bất động. Cần phải thay đổi tư thế nằm của bệnh nhân, nếu có giường chuyên dụng thì càng tốt. cần phải tiến hành cho tập vận động thụ động, nếu có thể thì một phần chủ động, ngay từ ngày thứ 2. Nếu co cứng cơ mạnh thì cho thêm thuốc giãn cơ, ví dụ như bacloten.

Cuối cùng, cần phải bảo đảm cho bệnh nhân có đủ độ ấm hoặc thải nhiệt khi cần thiết bằng cách không cho đắp chăn. Như vậy có thể tránh được trạng thái sốt do không được tỏa nhiệt đúng mức vì rối loạn điều hòa thân nhiệt thường hay xảy ra ở những bệnh nhân liệt tủy ngang.

Dị dạng mạch máu tủy sống

Về phân loại dị dạng mạch máu tủy sống, cho tới nay vẫn là vấn đề còn bàn cãi.

Có điều chắc chắn là những u động mạch và u hang mạch (cavernome) là những dị dạng mạch máu thường gặp nhất.

Trường hợp u. động – tĩnh mạch, phần lớn có kích thước lớn và ngoằn ngoèo nên dễ lầm với phình tĩnh mạch tủy (varicosis spinalis).

Một thể đặc biệt là nhuyễn tủy loạn sản mạch máu (myélomalacie angiodysgénésique) và còn được gọi là viêm tủy hoại tử Foix – Alajouanine (myelitis necroticans Foix – Alajouanine). Đây là trường hợp u mạch máu ngoài tủy và trong tủy gây nên ứ máu và hoại tử các cột trong tủy sống. Cuối cùng phải kể đến u nguyên bào mạch (angioblastome).

Vê vị trí: các dị dạng mạch máu thường xảy ra ở vùng tủy ngực, cụ thể từ D7 – Dg. Tuy nhiên cũng có thể gặp ở tất cả các đoạn tủy khác. Cũng có nhiều dị dạng mạch máu được hình thành ở nhiều đoạn tủy trên một bệnh nhân.

  • Lâm sàng của dị dạng mạch máu tủy sống

Lứa tuổi có biểu hiện trên lâm sàng thường ở khoảng 30 – 60 và rất hiếm thấy ở lứa tuổi lên 10. Hay gặp ở nam nhiều hơn nữ.

Những triệu chứng lâm sàng có thể gây nên bởi 3 cơ chế sinh lý bệnh sau:

  • Thiếu máu cục bộ tủy sống do dòng máu bị uôn theo những đoạn thông động – tĩnh mạch.
  • Tủy sống bị chèn ép.
  • Chảy máu ở trong tủy và/hoặc chảy máu khoang dưới nhện.

Những triệu chứng do thiếu máu tủy đơn thuần ở giai đoạn đầu thường là thoảng qua. Đầu tiên thường xuất hiện dị cảm ở hai chi dưới. Có thể có những rối loạn vê hoạt động của bàng quang và ruột, ở giai đoạn muộn sẽ hình thành hội chứng tủy ngang một phần hay toàn bộ.

Từ những dị dạng mạch máu có thể dẫn tới chảy máu tủy sống (hématomyélie) và/hoặc chảy máu dưới màng nhện tủy sống. Những thể bệnh xuất hiện trong quá trình tiến triển này thường hay gặp đặc biệt ở trẻ em. Triệu chứng lâm sàng được biểu hiện bằng triệu chứng đau lưng cục bộ ghê gớm, mà phần lớn lan xuyên ra ngang thắt lưng và xuống hai chân. Đồng thời khám thấy phản ứng màng não (mengismus) và dấu hiệu Lasègue dương tính, nhưng lại điển hình và rõ nét hơn là triệu chứng cứng gáy, có thể không có nhức đầu.

Khám thần kinh, thường phát hiện được những biểu hiện tổn thương theo đoạn và ít nhiều tồn tại hội chứng tủy ngang. Có khả năng chảy máu tủy sống tái phát.

  • Chẩn đoán phân biệt dị dạng mạch máu tủy sống

Những cơ sở quan trọng nhất là những triệu chứng về tủy sống hoặc những triệu chứng kết hợp của tủy sống với rễ thần kinh.

Chọc sống thắt lưng có thể phát hiện được dịch não – tủy có lẫn máu trong trường hợp chảy máu dị dạng mạch máu hoặc hội chứng phân ly albumin – tế bào (albumin tăng nhưng tế bào không tăng) trong dịch não – tủy trong trường hợp tắc nghẽn lưu thông dịch não – tủy do những u mạch (nghiệm pháp Queeckenstedt dương tính).

Chụp tủy bằng thuốc cản quang có giá trị quan trọng cho chẩn đoán. Kết quả X quang điển hình là giãn rộng tĩnh mạch tủy sống ở bề mặt sau (phía lưng) của tủy sống và hình ảnh nghẽn tắc cột cản quang trong trường hợp dị dạng mạch máu tủy gây chèn ép.

Việc áp dụng những kỹ thuật chụp mạch máu đã giúp cho chẩn đoán lâm sàng ngày càng tiến bộ. Nhưng nó đòi hỏi phải có trang thiết bị kỹ thuật và kinh nghiệm để tạo được khả năng chẩn đoán tối ưu với những tai biến nguy hiểm tối thiểu.

Về chẩn đoán phân biệt của dị dạng mạch máu tủy sống, cần phải đặc biệt lưu ý tới những u nội tủy, bọc máu ngoài màng cứng, nhuyễn tủy sống, viêm tủy ngang, các bệnh của các cột, bó trong tủy và viêm não – tủy rải rác, đôi khi cả giang mai não – tủy.

Hiện nay ở nước ta, kỹ thuật chẩn đoán bằng hình ảnh như chụp cắt lớp vi tính và chụp cộng hưởng từ hạt nhân có khả năng chẩn đoán chính xác và nhanh nhất các bệnh mạch máu tủy sống và não.

  • Điều trị các dị dạng dộng mạch máu tủy sống

Phương pháp điều trị căn bản nhất là cắt bỏ các dị dạng mạch máu hoặc ít nhất là làm gián đoạn sự lưu thông giữa các mạch máu với những u mạch tích đọng máu.

Chỉ định phẫu thuật: những trường hợp đã có những tổn thương thần kinh vĩnh viễn, độ lớn với mức độ rộng của những u mạch.

Phương pháp điều trị trước kia thường hay áp dụng là giải phóng sự chèn ép bằng cách cắt cung sau đốt sống và chiếu tia X đều không mang lại kết quả mong muốn.