Blog Trang 545

Điều trị viêm tụy cấp

Viêm tụy cấp được điều trị tại bệnh viện, nơi bạn sẽ được theo dõi chặt chẽ để phát hiện các dấu hiệu của những vấn đề nghiêm trọng và được cung cấp các phương pháp điều trị hỗ trợ, chẳng hạn như truyền dịch và oxy.

Những người bị viêm tụy cấp nhẹ thường bắt đầu cảm thấy khá hơn trong vòng một tuần và không gặp phải vấn đề nào thêm hoặc các vấn đề sẽ cải thiện trong vòng 48 giờ.

Nhiều người cảm thấy đủ sức khỏe để xuất viện sau vài ngày.

Những người bị viêm tụy cấp nặng có thể phát triển các biến chứng cần điều trị thêm và có thể cần được nhập viện vào đơn vị chăm sóc đặc biệt hoặc phòng hồi sức (ICU). Thời gian phục hồi từ viêm tụy cấp nặng có thể mất nhiều thời gian hơn, và có nguy cơ có thể dẫn đến tử vong.

Đọc về các biến chứng của viêm tụy cấp để biết thêm thông tin về các trường hợp nghiêm trọng.

Dịch truyền

Viêm tụy cấp có thể gây ra tình trạng mất nước, vì vậy dịch truyền sẽ được cung cấp qua một ống vào tĩnh mạch của bạn (dịch truyền tĩnh mạch hoặc “IV”) để ngăn ngừa mất nước.

Oxy

Để đảm bảo cơ thể bạn nhận đủ oxy, bạn có thể được cung cấp oxy qua các ống trong mũi. Các ống có thể được tháo ra sau vài ngày khi tình trạng của bạn cải thiện.

Nếu bạn bị viêm tụy cấp nặng, thiết bị thở có thể được sử dụng để hỗ trợ hô hấp của bạn.

Thuốc giảm đau

Viêm tụy cấp thường gây ra cơn đau bụng dữ dội, vì vậy bạn có thể cần thuốc giảm đau. Một số loại thuốc này có thể khiến bạn cảm thấy rất buồn ngủ.

Nếu bạn đang thăm một người đang nằm viện vì viêm tụy cấp, đừng hoảng sợ hoặc lo lắng nếu họ có vẻ buồn ngủ hoặc không phản ứng.

Kháng sinh

Bạn có thể cần dùng kháng sinh nếu bạn bị nhiễm trùng cùng với viêm tụy – ví dụ, nếu bạn bị nhiễm trùng phổi hoặc đường tiết niệu.

Hỗ trợ dinh dưỡng

Nếu bạn bị viêm tụy cấp nhẹ nhưng không cảm thấy buồn nôn hoặc nôn và không có cơn đau bụng, bạn thường có thể ăn uống bình thường.

Nhưng nếu tình trạng của bạn nghiêm trọng hơn, bạn có thể được khuyên không nên ăn thực phẩm rắn trong vài ngày hoặc lâu hơn. Điều này là do việc cố gắng tiêu hóa thực phẩm rắn có thể đặt quá nhiều áp lực lên tụy của bạn.

Nếu bạn cần tránh thực phẩm rắn, bạn có thể được cung cấp một hỗn hợp thực phẩm lỏng đặc biệt, với các chất dinh dưỡng cần thiết, qua một ống vào bụng (dinh dưỡng qua đường ruột).

Điều trị nguyên nhân gây bệnh

Khi tình trạng được kiểm soát, nguyên nhân gây bệnh cần được điều trị.

Sỏi mật Nếu một viên sỏi mật gây ra viêm tụy của bạn, bạn có thể cần thực hiện một thủ tục gọi là nội soi ngược dòng tụy mật (ERCP), hoặc có thể cần phải cắt bỏ túi mật của bạn.

Nếu bạn cần thực hiện ERCP, bạn sẽ có một ống dài và mỏng chứa camera (nội soi) được đưa vào miệng bạn vào bụng. Điều này được sử dụng để giúp loại bỏ sỏi mật.

Phẫu thuật cắt túi mật có thể được thực hiện khi bạn đang nằm viện hoặc được lên kế hoạch cho vài tuần sau.

Việc cắt bỏ túi mật không nên ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của bạn, nhưng có thể làm khó khăn hơn trong việc tiêu hóa một số loại thực phẩm nhất định, chẳng hạn như thực phẩm béo hoặc cay.

Lý tưởng nhất, túi mật nên được cắt bỏ trong vòng 2 tuần kể từ khi bạn bị viêm tụy, trừ khi bạn quá yếu để phẫu thuật.

Sử dụng rượu Sau khi hồi phục từ viêm tụy cấp, bạn nên hoàn toàn tránh rượu nếu đây là nguyên nhân gây ra tình trạng của bạn.

Một số người bị viêm tụy cấp có sự phụ thuộc vào rượu và cần sự giúp đỡ và hỗ trợ để ngừng uống. Nếu điều này đúng với bạn, hãy gặp bác sĩ để nhận được sự hỗ trợ.

Điều trị cho sự phụ thuộc vào rượu bao gồm:

  • Tư vấn một kèm một
  • Các nhóm tự giúp đỡ, chẳng hạn như Alcoholics Anonymous
  • Sử dụng một loại thuốc gọi là acamprosate có thể giảm cơn thèm rượu

Đọc thêm về việc điều trị lạm dụng rượu.

Hytrol

THUỐC HYTROL

SUN PHARMA

Viên nén 5 mg: vỉ 10 viên, hộp 10 vỉ.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Enalapril maleate 5 mg
Tá dược: Acid maleic USP, tinh bột khô BP,

lactose khan USP, talcum BP, silicon dioxid keo NF, magnesi stearat BP.

DƯỢC LỰC

Tác dụng dược lý:

Thuốc Hytrol, một chất ức chế Enzym chuyển loại mới, điều trị hiệu nghiệm trên diện rộng các tình trạng cao huyết áp thường gặp và suy tim xung huyết mãn tính.

Tác dụng lên chứng cao huyết áp:

Thuốc Hytrol hạ thấp sức kháng tiểu động mạch hệ thống và huyết áp trung bình tâm trương và tâm thu trong những trạng thái cao huyết áp khác nhau. Mặc dù sự giảm ban đầu có xu hướng tương quan dương tính với hoạt tính huyết tương (PRA) và nồng độ Angiotensin II trước điều trị, điều trị tiếp theo với Thuốc Hytrol làm giảm huyết áp đáng kể và do đó tác dụng chống cao huyết áp của Thuốc Hytrol tương quan một phần hoặc không liên quan tới kết quả PRA trước điều trị. Huyết áp giảm cao điểm trong khoảng 4-5 giờ sau khi uống Thuốc Hytrol.

Tác dụng lên suy tim xung huyết mãn tính:

Thuốc Hytrol gây giãn tiểu động mạch hệ thống dẫn đến giảm hậu tải tăng hiệu suất tim, chỉ số tim và cả chỉ số công năng, thể tích tâm thu.

Thuốc Hytrol giảm rõ rệt kháng mạch thận và do đó tăng lưu lượng máu thận. Natri-niệu gây ra bởi sự tăng lưu lượng máu thận và giảm kích thích chế tiết Aldosterone bằng Angiotensin II. Thể tích dư của dịch cơ thể co bóp dẫn đến giảm lượng trở về tim phải qua tĩnh mạch. Thuốc Hytrol ức chế men chuyển gây giãn tĩnh mạch cũng đóng góp thêm vào sự giảm này. Đáp ứng đối với Thuốc Hytrol cũng liên quan tới sự giảm áp suất động mạch phổi, áp suất đầy động mạch trái và thất trái (Tiền tải). Quá trình huyết động tốt hơn sẽ làm tăng khả năng gắng sức.

Cơ chế tác động:

Thuốc Hytrol là một liều thuốc mà bản thân nó không có hoạt tính cao. Nó được hủy phân thành Acid- dicarboxylic gốc Enalaprilat hoạt động. Tác dụng cần thiết của Thuốc Hytrol lên hệ thống Angiotensin Renin là ức chế sự chuyển hóa Angiotensin II hoạt động. Ngăn chặn khả năng kích thích tiết Aldosterone của Angiotensin I.

Enalaprilat liên kết chặt với enzym chuyển và tồn tại lâu trong huyết tương dẫn đến kéo dài thời gian của thuốc nên chỉ dùng một liều đơn Thuốc Hytrol mỗi ngày.

CHỈ ĐỊNH

Thuốc Hytrol chỉ định để kiểm soát các loại cao huyết áp và suy tim xung huyết mãn tính khác nhau.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Quá mẫn với các THÀNH PHẦN của thuốc.

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Chú ý đề phòng:

Bệnh nhân phải được nhắc nhở báo lại những cơn nhức đầu nhẹ, đặt biệt trong những ngày đầu trị liệu. Không chống chỉ định khi có sự hạ huyết áp tạm thời, có thể tiếp tục điều trị một khi áp huyết tăng sau sự giãn nở thể tích.

Bệnh nhân phải được nhắc nhở báo ngay bất kỳ dấu hiệu viêm nhiễm nào (viêm họng, sốt) mà có thể là dấu hiệu của giảm bạch cầu trung tính. Với những bệnh nhân có bệnh keo mạch hay bệnh thận phải theo dõi theo chu kỳ số lượng bạch cầu do chứng mất bạch cầu hạt và suy tủy xương có thể xảy ra, đặc biệt ở những bệnh nhân này.

Ở những bệnh nhân trải qua phẫu thuật lớn hoặc đang gây mê bằng tác nhân gây giảm áp, Thuốc Hytrol ngăn chặn sự hình thành Angiotensin II thứ phát đối với việc giải phóng Renin bù trừ. Nếu xảy ra giảm huyết áp và được xem như gây bởi cơ chế này, nó có thể được hiệu chỉnh nhờ sự giãn nở thể tích.

Bệnh nhân được nhắc nhở không sử dụng những dẫn xuất muối có chứa Kali nếu không có ý kiến bác sỹ

Ghi chú:

Tương tự như các thuốc khác, phải bảo đảm những điều căn dặn rõ ràng đối với các bệnh nhân được điều trị với Thuốc Hytrol. Các thông tin này nhằm đảm bảo tính an toàn và hiệu quả của thuốc. Nó không phải là ngoại ý đối với những tác động ngoại ý có thể và đã biết.

Thận trọng lúc dùng:

Cẩn thận sử dụng Thuốc Hytrol trong trường hợp huyết áp thấp và loạn chức năng thận. Chỉ sử dụng Thuốc Hytrol trong thời gian mang thai và cho con bú khi mà lợi ích điều trị lớn hơn những nguy hiểm tiềm tàng đã đề cập.

Về mức độ an toàn và hiệu quả của Thuốc Hytrol nơi trẻ em chưa được kiểm chứng.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Tác dụng giảm áp huyết của Thuốc Hytrol tăng nhờ những tác nhân chống cao huyết áp giải phóng Renin như thuốc lợi tiểu. Thuốc Hytrol có thể làm giảm sự mất Kali do thuốc lợi tiểu loại thiazid.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Thuốc Hytrol không phải là một hợp chất Sulfuhydryl, do đó tỷ lệ tác dụng không mong muốn là nhỏ hơn. Phần lớn những trường hợp ngoài mong muốn là nhẹ và tạm thời về bản chất, phản ứng đáng kể nhất chỉ là đau đầu, hoa mắt và mệt mỏi.

Để giảm tần suất, Thuốc Hytrol thỉnh thoảng gây ra những tác dụng sau:

  • Tim mạch: nhồi máu cơ tim và tai biến mạch máu não, có thể thứ cấp đối với giảm huyết áp nhiều ở bệnh nhân nguy hiểm cao, ngất, hạ huyết áp đứng, đánh trống ngực, đau ngực.
  • Dạ dày – ruột: buồn nôn, tắc ruột, viêm tuyến tụy, viêm gan hoặc vàng da ứ mật, đau bụng, ói mửa, loạn tiêu hóa, táo bón.
  • Thần kinh / Tâm thần: căng thẳng, lẩn thẩn, ngủ gà, mất ngủ, hồi hộp, dị cảm.
  • Thận: suy chức năng thận, giảm niệu, loạn chức năng thận.
  • Hô hấp: co thắt phế quản, khó thở, chảy mũi.
  • Những phản ứng khác: nổi ban, phù mạch (có thể phù thanh quản), chuột rút, tăng tiết mồ hôi, liệt dương, ngứa, suy nhược, mẫn cảm ánh nắng, rụng lông tóc, đỏ mặt, rối loạn vị giác, ù tai, viêm lưỡi, rối loạn tạo máu.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Dùng uống.

Người lớn: 10 – 40 mg/lần/ngày hoặc theo hướng dẫn của bác sỹ. Liều lượng ban đầu cho bệnh nhân đang dùng thuốc lợi tiểu là 2,5 mg và bệnh nhân không dùng thuốc lợi tiểu là 5 mg. Liều lượng này có thể điều chỉnh từ từ theo phản ứng của huyết áp. Có thể sử dụng Thuốc Hytrol kèm với các ức chế thụ thể Beta (b-adernergic), methydopa, nitrat, calci, hydrelazin và prazosin mà không có phản ứng ngoại ý có ý nghĩa y tế bào.

Đối với bệnh nhân suy thận: liều lượng Thuốc Hytrol được điều chỉnh theo giá trị thanh thải Creatinine.

Thanh thải Creatinine > 30 ml/ phút (S. Creatinine 3 mg/dl): liều không thay đổi. Thanh thải Creatinine < 30 ml/ phút (S. Creatinine > 3 mg/dl): khởi đầu dùng liều 2,5 mg/lần/ngày, tối đa 40 mg/ngày.

Đối với các bệnh nhân thẩm tách, liều lượng ban đầu và liều lượng trong những ngày thẩm tách 2,5 mg/ngày. Liều trong các ngày không thẩm tách điều chỉnh tùy theo đáp ứng huyết áp.

BẢO QUẢN

Nơi thoáng mát, tránh ánh sáng.

Những tác dụng chữa bệnh của Quả Me

Còn có tên khoa hoc: Tamarindus indica L.

Thuộc họ Đậu – Fabaceae

Cây me thuộc loại thân gỗ to, cao 15-20m, lá kép lông chim, gồm 10-12 cặp lá chét có gốc không cân xứng. Chùm hoa mọc ở ngọn, các nhánh nhỏ có từ 8-12 hoa, có 3 cánh hoa, màu vàng, gân đỏ. Quả dài mọc thõng xuống, hơi dẹt, thường chứa 3-5 hạt màu nâu sẫm, thịt quả chua. Quả me được dùng để ăn, nấu canh chua v.v… và làm thuốc chữa bệnh.

Cây me thuộc loại thân gỗ to, cao 15-20m
Cây me thuộc loại thân gỗ to, cao 15-20m

Cùi thị, lá và vỏ thân cây me đều có tác dụng trong y học. Như tại Philippines, lá được dùng để giảm sốt rét. Là thành phần chủ yếu trong đồ ăn của người dân ở miền Nam Ấn Độ, tại đây, me được sử dụng để làm sambhar (gia vị trong súp đậu lăng với nhiều loại rau), cơm pilihora và nhiều loại tương ớt. Me có sẵn trong mọi cửa hàng ăn theo ẩm thực người Ấn Độ trên khắp thế giới.

Nó được bán như một loại kẹo ở México (ví dụ: loại kẹo pulparido) và xuất hiện trong nhiều dạng đồ điểm tâm ở khu vực Đông Nam Á (quả khô ướp muối hay quả khô tẩm đường trong đồ uống lạnh, kem que…). Do chứ các hoạt chát y học nên me được dùng nhiều trong Ayurveda để điều trị một số bệnh liên quan đến dạ dày hay đường ruột, như:

  1. Tiêu hóa: Bột trái me chín có tác dụng trong điều trị nôn mửa, đầy hơi và khó tiêu. Người ta có thể pha bột me trong nước để uống, có tác dụng chữa chứng mất cảm giác ngon miệng và kén ăn.
  2. Tăng cường khả năng miễn dịch: Do giàu vitamin C nên me giúp tăng cường khả năng miễn dịch cho cơ thể, hạn chết các nguy cơ mắc bệnh nhiễm trùng.
  3. Chữa cảm lạnh: Bột va thịt me có thể làm món súp nóng dùng để trị bệnh cảm lạnh theo như cách chữa bệnh cổ truyền của người Ấn Độ.
  4. Chữa Sốt: Bột me khô rất hữu ích trong việc trị sốt.
  5. Chữa đau họng: Súc miệng nước me hàng ngày có thể giảm đau rát họng.
  6. Chữa suy nhược

    Quả me tác dụng thanh nhiệt, giải say nắng
    Quả me tác dụng thanh nhiệt, giải say nắng

Theo Đông y, quả me có vị chua, tính mát. Tác dụng thanh nhiệt, giải say nắng, giúp tiêu hóa, lợi trung tiện, nhuận tràng, chống hoại huyết, đau gan vàng da và chống nôn ọe, chữa đau dạ dày mân tính, phụ nữ có thai bị nôn mửa.

Thuốc ứng dụng từ quả me:

Bài 1. Thuốc chữa phụ nữ có thai bị nôn mửa

+ Quả me xanh                     100g

+ Gừng                                 5g

+ Đường phèn                       50g

Các thứ cho vào nồi cùng 400ml nước đun sôi kỹ, chắt lấy 150ml nước đặc. Người bệnh chia 3 lần uống hết trong ngày, trước bữa ăn. cần uống vài ba ngày liền.

Bài 2. Thuốc chữa bệnh táo bón

+ Quả me 100g

+ Mật ong 50ml

Quả me cạo vỏ, cùng mật ong cho vào bát hấp cách thủy, sau đó dầm nhỏ chia 3 phần, phần vào buổi sáng sớm.

Người bệnh mỗi ngày ăn một

Bài 3. Thuốc chữa bệnh đau dạ dày

+ Quả me 50g

+ Nghệ vàng 100g

+ Mật ong 50ml

Quả me cạo vỏ, nghệ rửa sạch, thái mỏng. Cho cả ba thứ vào bát hấp cách thủy cho chín. Dầm nát me và nghệ, chia đều làm 3 phần. Mỗi ngày ăn một phần vào sáng sớm, trước bữa ăn.

Chẩn đoán và điều trị giảm CALCI máu sơ sinh

Gọi là giảm calci máu khi:

  • Calci toàn phần < 7,5mg% (l,8mmol/l).
  • Calci < 3mg% (0,75mmol/l)

CHẨN ĐOÁN

Lâm sàng: Triệu chứng thường không điển hình:

  • Cơn ngừng thở.
  • Co giật, run giật.
  • Tăng trương lực cơ, co cứng.
  • Co thắt thanh quản.
  • Dấu hiệu bàn tay sản khoa (ít gặp).

Chú ý: Dấu hiệu lâm sàng của hạ calci sớm thường ít gặp, nhẹ. Hạ calci muộn thường có co giật.

Xét nghiệm

  • Hạ calci máu: đối tượng cần được theo dõi calci máu sớm sau đẻ bao gồm:

+ Đẻ non: định lượng calci lúc 24 giờ, 48 giờ sau sinh.

+ Trẻ có nguy cơ cao: con của bà mẹ đái tháo đường, nhiễm trùng máu… định lượng lúc 12 giờ, 24 giờ, 48 giờ.

  • Điện tâm đồ: QT kéo dài > 0,4 phút; loạn nhịp.
  • Các xét nghiệm khác:

+ Phosphat huyết thanh tăng (Alkaline phosphatase > 225 UI/1 -> suy thận, suy giáp).

+ Magiê máu < 0,8mg% -» giảm magiê máu tiên phát.

ĐIỀU TRỊ

Chú ý: Tiêm calci TM nhanh có thể gây loạn nhịp, chậm nhịp tim.

  • Nếu tiêm qua TM rốn dễ gây hoại tử tế bào gan (nếu ống sonde rơi vào tĩnh mạch gan).
  • Nếu tiêm vào động mạch (ĐM) rốn dễ gây co thắt ĐM rốn, hoại tử ruột.
  • Nếu dùng calciclorua dễ gây tăng clo máu.
  • Nếu tiêm calci vào tổ chức dễ gây hoại tử hay calci hoá.

Các dạng calci:

+ Calcium gluconat 10% có 9mg Ca/lml: tiêm.

+ Calci sandoz (0,68g Ca/5ml): tiêm.

+ Calcium Chlorid 10% có 27,2mg Ca/lml: tiêm.

+ Calcium glubionat syrup CÓ 23,6mgCa/lml: uống.

Điều trị hạ calci máu sớm

  • Trẻ đẻ non hạ calci máu không có triệu chứng, cho uống hoặc không cần điều trị.
  • Nếu trẻ ít cân, calci máu < l,8mmol/l: duy trì calci TM, liều ban đầu 45mg/kg, có thể tăng dần cho tới khi calci máu đạt > 2mmol/l. Không cần cho Vitamin
  • Liều duy trì chung: 300mg/kg/ngày.

Điều trị hạ calci máu có triệu chứng (khi Ca toàn phần < 1,2mmol/l)

  • Calci gluconat 10% 100 – 200mg/kg (l-2ml/kg), tiêm TM chậm 20 phút.
  • Calci sandoz lml/kg.

Chú ý: Theo dõi tần số tim, nhắc lại liều sau 10 phút nếu không thấy đáp ứng, sau liều ban đầu để duy trì calci máu có thể truyền TM hay cho uổng.

Hạ calci máu có triệu chứng, không đáp ứng điều trị có thể do hạ magiê máu

Nếu Mg < l,2mg% -> cho 0,l-0,2ml/kg magiê sulphat 50% TM, TB. Chú ý: Có thể nhắc lại liều sau 6-12 giờ.

Sau liều ban đầu có thể duy trì bằng uống magiê sulphat 50% 0,2ml/kg/ngày.

Chăm sóc người bệnh xơ gan

Xơ gan là hậu quả của tình trạng tế bào gan bị thoái hoá, hoại tử. Ngược lại tổ chức xơ phát triển rất mạnh. Gan xơ rất cứng, mặt lần sần da cóc (nhân xơ), màu gan vàng nhạt, loang lổ, khối lượng gan nhỏ lại có khi chỉ còn 200 – 300 gam.

Về mặt vi thể: các múi gan teo nhỏ lại, có một vỏ xơ dày bao bọc chung quanh bóp nghẹt các múi gan. Khoảng cửa cũng bị tổ chức xơ phát triển mạnh lan cả vào trong tiểu thuỳ và tạo thành các nhân xơ tân tạo.

NGUYÊN NHÂN GÂY XƠ GAN

Do viêm gan virut: nhất là virut viêm gan B, C ở nước ta là nguyên nhân chính dẫn đến xơ gan.

Viêm gan mạn tính tự miễn hay viêm gan mạn tính tiến triển. Cơ thể sinh ra kháng thể chống lại gan.

Viêm gan do rượu: nếu mỗi ngày uống 200ml rượu liên tục, ít nhất trong 2 năm sẽ dẫn đến viêm gan và sau đó là xơ gan.

Do tắc mật lâu ngày: sỏi mật, teo đường mật.

Do suy dinh dưỡng: ăn uống thiếu thốn nhất là thiếu protid.

Xơ gan do sán lá gan, rối loạn chuyển hoá sắt, đồng.

TRIỆU CHỨNG CỦA XƠ GAN

Lâm sàng

Thường tiến triển qua 2 giai đoạn.

Giai đoạn tiềm tàng hay xơ gan còn bù:

  • Rối loạn tiêu hoá: ăn kém, khó tiêu, trướng bụng, đầy hơi, đi ngoài phân sống hoặc nát.
  • Phù: phù nhẹ ở cả mặt và chi, tái phát nhiều lần, có thể kèm theo đi tiểu ít.
  • Đau hoặc cảm giác nặng nề hạ sườn phải.
  • Da: da xạm lại, các vết sẹo cũng xạm lại, có sao mạch hoặc giãn mạch, lòng bàn tay đỏ.
  • Toàn thân: gầy sút, mệt mỏi.
  • Khám có thể thấy:

+ Vàng da, vàng mắt nhẹ hoặc đậm.

+ Gan to, chắc.

+ Lách to.

Giai đoạn mất bù Biểu hiện bởi hai hội chứng:

  • Hội chứng tăng áp lực tĩnh mạch cửa:

+ Cổ trướng: trong ổ bụng có dịch tự do, lượng dịch thường nhiều (3 – 10 lít), dịch màu vàng chanh, rivanta (-), albumin < 25 gam/lít.

+ Tuần hoàn bàng hệ: các tĩnh mạch nổi lên ở dưới da bụng, thường xuất hiện cùng với cổ trướng.

+ Lách ngày càng to.

+ Giãn tĩnh mạch thực quản: phát hiện bằng chụp X quang thực quản, nội soi thực quản bằng ống soi mềm.

  • Hội chứng suy tế bào gan:

+ Thể trạng gầy sút, suy nhược, chán ăn, chậm tiêu, sút cân.

+ Phù, cổ trướng.

+ Vàng da: lúc đầu kín đáo, về sau ngày càng đậm.

+ Chảy máu cam, chảy máu chân răng, chảy máu dưới da.

+ Thiếu máu.

Cận lâm sàng

Các men Transaminase có thể tăng ít hoặc nhiều:

+ SGOT (Serum Glutamate Oxaloacetate Transaminase). Bình thường: 1,31 ± 0,38 mmol/l.

+ SGPT (Serum Glutamate Pyruvate Transaminase), bình thường: 1,1 ± 0,45 mmol/l.

Protid máu giảm, albumin máu giảm nặng.

Điện di protein: globulin tăng, đặc biệt gamma globulin tăng nhiều làm cho tỷ lệ A/G < 1 (bình thường: 1,3 – 1,8).

Tỷ lệ prothrombin giảm, bình thường: 80% – 100%.

Soi ổ bụng và sinh thiết gan thấy màu sắc gan thay đổi. Mặt gan mất tính chất nhẵn bóng, có thể mấp mô, bờ gan sắc mỏng.

TIẾN TRIỂN VÀ BIẾN CHỨNG

Tiến triển

Giai đoạn còn bù tiến triển chậm trong nhiều năm, có khi hàng chục năm. Khi xơ gan mất bù tiến triển nhanh hơn, kéo dài trung bình khoảng 3 – 4 năm. Tuy nhiên tiến triển nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào nguyên nhân và những biến chứng xảy ra trong quá trình bệnh.

Biến chứng của xơ gan

  • Chảy máu tiêu hoá do vỡ tĩnh mạch thực quản: thường gây mất máu nặng, dễ gây tử vong nhanh chóng.
  • Hôn mê gan.
  • Ung thư hoá.
  • Nhiễm trùng.
  • Suy kiệt.

CÁCH ĐIỀU TRỊ

  • Không lao động nặng. Không được uống rượu. Nghỉ ngơi khi có đợt tiến triển.
  • Ăn nhiều đạm, đường, vitamin, hạn chế mỡ, hạn chế muối hoặc ăn nhạt khi có phù và cổ trướng. Hạn chế đạm khi có đe doạ hôn mê gan.
  • Sử dụng một số thuốc:

+ Các vitamin như: B1, B6, B12, C, K.

+ Các axit amin, nước nhân trần, actiso.

+ Lợi tiểu, corticoid: tùy từng trường hợp cụ thể.

  • Điều trị ngoại khoa: cắt lách, nối tĩnh mạch cửa – chủ hoặc lách – thận.

CHĂM SÓC

Nhận định chăm sóc

Nhận định xem bệnh nhân ở giai đoạn nào của xơ gan để có kế hoạch chăm sóc thích hợp. Dựa vào khai thác các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng.

Lập kế hoạch chăm sóc

  • Đảm bảo dinh dưỡng cho bệnh nhân, tăng cường chức năng gan.
  • Làm giảm phù và cổ trướng.
  • Theo dõi và phát hiện biến chứng chảy máu tiêu hoá.
  • Theo dõi đề phòng hôn mê gan.
  • Giáo dục sức khoẻ.

Thực hiện kế hoạch chăm sóc

Đảm bảo dinh dưỡng và tăng cường chức năng gan:

    • Chế độ ăn uống:

+ Giàu calo từ 2500-3000 kcalo/ngày.

+ Đảm bảo đạm, đường, vitamin, hạn chế mỡ, không được uống rượu. Hạn chế đạm khi xơ gan mất bù vì có nguy cơ hôn mê gan. Ngừng cung cấp đạm khi có những dấu hiệu rối loạn chức năng não.

+ Cho ăn làm nhiều bữa trong ngày, động viên bệnh nhân ăn hết khẩu phần.

  • Vệ sinh mũi, miệng sạch sẽ, đặc biệt là khi có chảy máu cam, chảy máu chân răng để đề phòng nhiễm khuẩn và tạo cảm giác ngon miệng.
  • Thực hiện thuốc theo y lệnh chính xác, kịp thời:

+ Tiêm hoặc uống vitamin Bp B6, B12, K.

+ Truyền dịch, truyền đạm theo y lệnh.

  • Phát hiện những biểu hiện chán ăn, chậm tiêu để có biện pháp nuôi dưỡng kịp thời. Theo dõi cân nặng bệnh nhân hang tuần.

Giảm phù và cổ trướng

  • Để bệnh nhân nghỉ ngơi tuyệt đối khi có phù và cổ trướng.
  • Ăn hạn chế muối hoặc ăn nhạt hoàn toàn khi có phù và cổ trướng nhiều.
  • Thực hiện y lệnh thuốc lợi tiểu (phối hợp furosemid và aldakton).
  • Chuẩn bị đầy đủ cho bệnh nhân, dụng cụ, thuốc, phụ giúp thầy thuốc chọc tháo bớt dịch cổ trướng (thực hiện xét nghiệm dịch cổ trướng nếu thầy thuốc yêu cầu).
  • Theo dõi sát dấu hiệu sinh tồn trước, trong và sau chọc dịch cổ trướng.

Theo dõi phát hiện và xử trí biến chứng chảy máu tiêu hoá

Nếu có xuất huyết tiêu hoá xảy ra:

  • Cho bệnh nhân nằm nghỉ tuyệt đối, đầu thấp.
  • Tạm ngừng cho bệnh nhân ăn bằng đường miệng.
  • Ủ ấm cho bệnh nhân, theo dõi sát mạch, huyết áp.
  • Phụ giúp thầy thuốc đặt Catether và theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm.
  • Truyền dịch, truyền máu khẩn trương theo y lệnh.
  • Đặt ống thông hút hết máu còn ứ đọng trong dạ dày.
  • Rửa dạ dày bằng nước lạnh.
  • Thụt tháo phân để loại trừ nhanh chóng máu đã xuống ruột ra ngoài.

Theo dõi đề phòng hôn mê gan

  • Theo dõi sự thay đổi tính tình: bệnh nhân có thể đang vui rồi lại buồn, thờ ơ với xung quanh.
  • Có những biểu hiện rối loạn về trí nhớ, mất phương hướng về thời gian và không gian, mất khả năng tập trung tư tưởng.
  • Bàn tay run do rối loạn trương lực cơ. Nếu đặt cẳng tay thẳng góc với cánh tay và mặt giường sẽ thấy bàn tay run không đều.
  • Khi phát hiện ra các dấu hiệu này, người điều dưỡng phải báo cáo ngay với thầy thuốc để có biện pháp xử trí kịp thời.

Giáo dục sức khoẻ

  • Tránh lao động nặng, nghỉ ngơi hoàn toàn khi bệnh tiến triển.
  • Tuyệt đối không được uống rượu.
  • Ăn hạn chế mỡ, tăng đường, đạm, vitamin. Hạn chế muối, ăn nhạt hoàn toàn khi có phù.
  • Theo dõi sức khoẻ tại tuyến y tế cơ sở.

Đánh giá chăm sóc

Việc chăm sóc bệnh nhân được coi là có hiệu quả khi:

  • Tuần hoàn bàng hệ giảm. Cổ trướng giảm. Vàng da không còn.
  • Không có chảy máu cam, chảy máu chân răng, chảy máu dưới da.
  • Bệnh nhân ăn ngon miệng, không sút cân.
  • Bệnh nhân không uống rượu, nếu nghiện thì bỏ được.
  • Không để xảy ra biến chứng.
  • Bệnh nhân yên tâm thoải mái khi nằm viện và có sự hiểu biết nhất định về bệnh, đề phòng bệnh tiến triển khi về nhà.

BENADRYL – Chống say xe

Điều trị dứt cơn ho, chống phù nề hắt hơi do những kích thích nhỏ ở họng và phế quản trong những trường hợp dị ứng, cảm lạnh, viêm phế quản hoặc hít phải những chất kích thích ; Viêm mũi dị ứng ; Ngứa, nổi mề đay ; Mất ngủ ; Say tàu xe ; Chóng mặt.

THUỐC BENADRYL

PFIZER

Sirô : chai 60 ml, thùng 24 chai.

THÀNH PHẦN

cho 5 ml
Diphenhydramine HCl 12,5 mg
Ammonium chlorure 125 mg
Sodium citrate 50 mg

DƯỢC LỰC

Diphenhydramine là thuốc kháng histamine, có tác dụng ức chế muscarinic và an thần. Ngoài hiệu lực trên các triệu chứng dị ứng thông thường, thuốc cũng được sử dụng để điều trị chứng ho do kích thích. Ngoài ra, diphenhydramine còn có tác dụng làm giảm buồn nôn, nôn, chóng mặt do say tàu xe.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Thuốc được hấp thu tốt qua đường tiêu hóa. Thời điểm bắt đầu tác dụng sau khi uống thuốc là 15 đến 30 phút, và nồng độ đỉnh đạt được sau 2-4 giờ. Khoảng thời gian tác dụng từ 4-6 giờ.

Tác dụng an thần cao nhất đạt được trong khoảng 1-3 giờ. Diphenhydramine có độ gắn kết cao với protein. Thuốc được phân phối rộng trong mô và dịch cơ thể. Thuốc qua được nhau thai và được bài tiết qua sữa mẹ.

Diphenhydramine được chuyển hóa ở gan, tạo thành diphenylmethoxyacetic acid, sau đó chuyển thành dạng liên hợp, ngoài ra còn tạo thêm một số dạng chuyển hóa khác. Thời gian bán hủy trong huyết tương là 2-8 giờ. Hầu hết phần thuốc chưa chuyển hóa và các sản phẩm đã chuyển hóa được bài tiết qua thận trong vòng 24-48 giờ khi dùng một liều.

CHỈ ĐỊNH

Điều trị dứt cơn ho, chống phù nề hắt hơi do những kích thích nhỏ ở họng và phế quản trong những trường hợp dị ứng, cảm lạnh, viêm phế quản hoặc hít phải những chất kích thích ; Viêm mũi dị ứng ; Ngứa, nổi mề đay ; Mất ngủ ; Say tàu xe ; Chóng mặt.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Dị ứng với các thành phần của thuốc.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Cẩn thận vì thuốc có chứa 5% cồn.

Người đang lái xe hay điều khiển máy móc cần thận trọng khi sử dụng do thuốc có thể gây ngầy ngật.

Tránh uống rượu khi dùng thuốc.

Thận trọng khi chỉ định cho trẻ em dưới 2 tuổi.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Thận trọng khi phối hợp với các thuốc tác dụng lên hệ thần kinh trung ương như dẫn xuất phenothiazine, benzodiazepine, IMAO, thuốc chống trầm cảm 3 vòng.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Người lớn : 25-50 mg (2-4 muỗng cà phê), uống mỗi 4-6 giờ.

Trẻ em : 1,25 mg/kg, uống mỗi 4-6 giờ. Không quá 300 mg / ngày. Cụ thể như sau : Trẻ dưới 10 kg cân nặng : 1/2-1 muỗng cà phê, uống mỗi 4-6 giờ.

Trẻ trên 10 kg cân nặng : 1-2 muỗng cà phê, uống mỗi 4-6 giờ.

Hội chứng Guillain-barré (Viêm đa rễ – dây thần kinh cấp tính nguyên phát)

  1. Đại cương.

Hội chứng này do Guillain Barré và Strohl phát hiện năm 1916. Năm 1949, Hagmarker và Kernohan đã trình bày 50 trường hợp tử vong.

Bệnh thường xảy ra ở tuổi 20, đôi khi gặp ở tuổi 40 – 50, rất hiếm gặp ở trẻ con và người già.

  1. Bệnh căn.

Chưa rõ ràng, giả thuyết cho là nhiễm khuẩn (do virut hướng thần kinh), do ngộ độc (ví dụ sulfamide) hoặc dị ứng sau khi tiêm các loại protein (vacxin, sérum) hoặc do rối loạn chuyển hoá. Giả thuyết được công nhận hiện tại là do cơ chế miễn dịch.

3. Triệu chứng

  • Dấu hiệu báo trước:

Vài tuần trước đó, mũi, họng bị viêm nhiễm hoặc có tiêm chủng phòng bệnh.

  • Khởi đầu: Thường không có sốt, có các biểu hiện rõ ràng rối loạn cảm giác chủ quan, kiến bò ở ngọn chi hoặc quanh môi, đau mới ở nhiều nơi, nhức đầu, đau lưng, đau các bắp thịt hoặc đau theo dây thần kinh hông to.
  • Giai đoạn bệnh cấp.

+ Liệt thường khởi đầu ở hai chi dưới, sau đó liệt hai tay. Đặc điểm nổi bật là liệt mềm, đối xứng.

+ Liệt cơ thân: liệt cơ bụng, các cơ hô hấp (cơ gian sườn, cơ hoành) gây tình trạng suy hô hấp.

+ Liệt các dây thần kinh sọ não: dây VII (tỷ lệ 69%), thường liệt cả hai bên, dây IX, dây X (tỷ lệ tương đương với dây VII) gây liệt họng hầu kèm theo liệt dây thanh âm một hoặc cả hai bên. Các dây III, VI, VII, dây V vận động ít bị hơn.

+ Rối loạn cảm giác:

  • Chủ quan: cảm giác kiến bò, mỏi cơ, tê cóng, hiếm gặp đau kiểu rễ.
  • Khách quan: giảm cảm giác nông ở ngọn chi, rối loạn cảm giác sâu (mất cảm giác tư thế, mất cảm giác rung).

+ Rối loạn cơ thắt: bí tiểu tiện, giảm hoặc mất cảm giác đi tiểu 5 – 10 ngày sau thì hồi phục, táo bón.

+ Rối loạn thần kinh thực vật: mồ hôi nhiều ở mặt hoặc ngón chi, da tái, mạch nhanh, huyết áp tăng, phù nề tại chỗ liệt.

Triệu chứng cận lâm sàng:

  • Dịch não tuỷ: phân ly đạm và tế bào có thể xảy ra ngay từ tuần đầu của bệnh hoặc có thể muộn hơn. Đạm ở khoảng 50mg% (theo Guillain, đạm tăng cao nhất là từ ngày 25 – 45 của bệnh; theo Thieffry từ ngày thứ 10 – 20, đạm ở khoảng 175mg% – 300mg%). Một trường hợp cá biệt Guillain và Mendoza thấy đạm tăng cao tới 1600mg%. Điều quan trọng là lượng đạm tăng cao hay thấp không nói lên tiên lượng của bệnh. Đạm thường trở về mức bình thường rất chậm, có thể vài tháng hoặc hàng năm sau, cá biệt có trường hợp đạm trở về rất nhanh khoảng ngày thứ 19 của bệnh lúc mà vận động chưa bình phục hoàn toàn.

Ure huyết có thể tăng.

Điện di Protein huyết thanh gamma tăng. Công thức bạch cầu: eosinophils tăng.

Nước tiểu: có đạm vết.

Điện cơ: biểu hiện giảm kích thích ở cơ.

  1. Tiến triển.

Bệnh thường hồi phục dần từ tuần thứ 3, 14 – 16% còn để lại di chứng. Các thể có rối loạn hô hấp, rối loạn nuốt, tiên lượng đe doạ cuộc sống, cần can thiệp hô hấp có điều khiển, mở khí quản, tránh tử vong do ngạt và tắc khí quản. Có thể gặp một số biến chứng khác kết hợp: rối loạn tim mạch, rối loạn huyết áp, mạch nhanh, thương tổn giao cảm, dây X, viêm mạch, có nguy cơ bị tắc động mạch phổi.

Có những trường hợp bệnh nhân bị chết do các biến chứng liên quan đến hồi sức kéo dài, trong các thể nguy kịch tỷ lệ tử vong khoảng 16%.

Hồi phục vận động kéo dài từ vài tuần đến nhiều tháng, thời gian tiến triển kéo dài từ 6 – 18 tháng.

Dựa vào các đặc điểm lâm sàng. Dịch não tuỷ phân ly đạm và tế bào.

  1. Chẩn đoán.

Chẩn đoán bệnh:

Dựa vào các đặc điểm lâm sàng. Dịch não tuỷ phân ly đạm và tế bào.

Chẩn đoán phân biệt:

Viêm đa dây thần kinh: hội chứng Guillain – Barré có phân ly đạm tế bào trong dịch não tuỷ albumin tăng (chủ yếu là IgG) mà không tăng tế bào (dưới 20 lâm ba cầu/microlit).

+ Bệnh Heine – Médin.

  • Liệt xuất hiện trong giai đoạn còn sốt.
  • Tiến triển rất nhanh.
  • Thương tổn không đối xứng.
  • Không có rối loạn cảm giác chủ quan và khách Trong những ngày đầu thường không có phản ứng tế bào trong dịch não tuỷ.

+ Bệnh Porphyrine cấp: một số thể lâm sàng có hiện tượng phân ly albumin tế bào.

+ Bạch hầu.

+ Ngộ độc asen

+ Viêm tuỷ.

+ Các nguyên nhân gây phân ly albumin – tế bào trong dịch não tuỷ.

  1. Điều trị.

Điều trị như đối với viêm nhiều dây thần kinh.

Chủ yếu nhằm dự phòng các biến chứng của suy hô hấp cấp và các rối loạn của hệ thần kinh thực vật. Thường là đám trước được và không liên quan đến cường độ liệt và dẫn đến tử vong. Rối loạn hoạt động của hệ thần kinh thực vật (hoạt động quá mức hoặc ức chế giao cảm cũng như đối giao cảm cũng dẫn đến các cơn thay đổi kịch phát về huyết áp, tụt huyết áp), rối loạn nhịp tim (tăng nhanh, chậm; sóng t dẹt hoặc đảo ngược trên điện tâm đồ), tăng tiết ở phế quản và phổi, liệt ruột cơ năng, bí tiểu tiện.

Trường hợp cao huyết áp kịch phát có thể điều trị bằng những thuốc giảm áp có thời gian tác dụng ngắn. Tụt huyết áp thường thứ phát sau khi giảm lượng máu tĩnh mạch trở về tim do giảm mạch ngoại vi, do đó các bệnh nhân thở máy rất dễ bị biến chứng này. Thường đẩy mạnh truyền tĩnh mạch là đã có thể nâng được huyết áp. Tuy nhiên, một số trường hợp phải dùng đến thuốc vận mạch.

Các rối loạn nhịp tim nặng đôi khi đưa đến tử vong, có thể xuất hiện trong quá trình diễn biến do đó cần thiết phải theo dõi sát người bệnh. Các cơn nhịp chậm, đáp ứng tốt với atropine, tuy nhiên sử dụng atropine phải thận trọng vì các cơn nhịp chậm thường xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn và atropine có tác dụng phụ nguy hiểm.

Trong tất cả các trường hợp ta phải tìm và điều trị các yếu tố gây rối loạn nhịp tim, bổ sung nước, điện giải.

Não trơn (Lissencephaly) là gì?

Các loại

Não trơn là một tình trạng hiếm gặp khiến não của trẻ phát triển không đúng cách trong thai kỳ. Trẻ mắc bệnh có thể có khuôn mặt bất thường hoặc gặp khó khăn trong việc nuốt, cùng nhiều vấn đề sức khỏe khác.

Mức độ phát triển của trẻ mắc bệnh này rất khác nhau. Một số trẻ có thể phát triển gần như bình thường, trong khi những trẻ khác không vượt qua được mức phát triển của một đứa trẻ 5 tháng tuổi. Hiện không có cách chữa trị, nhưng việc chăm sóc hỗ trợ có thể giúp ích trong một số trường hợp. Tình trạng này có thể đe dọa tính mạng đối với một số trẻ, trong khi những trẻ khác có thể lớn lên đến tuổi trưởng thành.

Do có nhiều biến chứng khác nhau, bạn nên tìm kiếm sự tư vấn từ các chuyên gia về tình trạng này.

Các loại não trơn

Trong thai kỳ, não của trẻ sơ sinh nên phát triển nhiều nếp gấp và nếp nhăn. Những nếp gấp này cho phép não hoạt động bình thường. Trong một số trường hợp hiếm gặp, trong khoảng thời gian từ tuần thứ 9 đến tuần thứ 12, sự phát triển này không xảy ra. Não chủ yếu mịn và chỉ hình thành một ít nếp nhăn.

  • Trẻ sơ sinh có thể mắc tình trạng này một cách độc lập. Bác sĩ có thể gọi nó là “chuỗi não trơn biệt lập”.

Một số trẻ khác có thể mắc não trơn do các tình trạng khác, chẳng hạn như:

  • Hội chứng Miller-Dieker: Trẻ mắc hội chứng này thường có trán lớn, hàm nhỏ và các vấn đề về mặt khác. Chúng có thể phát triển chậm và gặp vấn đề về hô hấp.
  • Hội chứng Norman-Roberts: Các biến chứng có thể bao gồm mắt xa nhau, co giật và khả năng trí tuệ giảm.
  • Hội chứng Walker-Warburg: Hội chứng này gây ra yếu cơ nghiêm trọng và lãng phí.

Nguyên nhân

Khoảng 1 trong 100.000 trẻ sơ sinh sinh ra mắc não trơn.

Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng một vấn đề trong bất kỳ gen nào trong số nhiều gen khác nhau có thể gây ra tình trạng này. Hầu hết những thay đổi về gen này không nhất thiết được di truyền từ cha mẹ. Thay vào đó, chúng có thể xuất hiện ngẫu nhiên trong cấu trúc di truyền của một người khi không có tiền sử gia đình về tình trạng này.

Một số người mắc bệnh não trơn không có thay đổi trong bất kỳ gen nào được biết đến có liên quan đến tình trạng này. Họ có thể có những bất thường trong các gen mà các nhà nghiên cứu chưa xác định được, hoặc tình trạng của họ có thể có các nguyên nhân chưa được biết đến.

Một số nghiên cứu cho thấy nhiễm trùng tử cung trong thai kỳ có thể gây ra tình trạng này. Cũng có thể một em bé trong bụng mẹ bị đột quỵ dẫn đến tình trạng này.

Triệu chứng

Não trơn có mức độ nghiêm trọng và triệu chứng khác nhau.

Tình trạng này có thể làm chậm sự phát triển của não. Trẻ sơ sinh có thể có đầu nhỏ bất thường khi sinh ra hoặc trong một khoảng thời gian sau đó. Các dấu hiệu và triệu chứng khác có thể bao gồm:

  • Khó khăn trong việc nuốt
  • Co thắt cơ
  • Thách thức về tinh thần và thể chất nghiêm trọng

Một số trẻ có thể không bao giờ có khả năng ngồi, đứng, đi lại hoặc lăn. Chúng có thể có tông cơ kém và các ngón tay, bàn tay hoặc bàn chân có thể bị biến dạng.

Tuy nhiên, một số trẻ khác có thể phát triển bình thường và chỉ có ít dấu hiệu của khuyết tật học tập.

Cơn co giật

Co giật trẻ em, một loại cơn co giật, rất phổ biến ở trẻ mắc não trơn. Khoảng 8 trên 10 trẻ sơ sinh sẽ có cơn co giật này.

Những cơn co giật này có thể không được phát hiện hoặc không có vẻ nghiêm trọng. Chúng không gây ra các cơn co giật kiểu như người ta thường tưởng tượng. Nếu trẻ của bạn có co giật trẻ em, có thể trông như chúng bị giật mình hoặc gặp phải tình trạng colic hoặc trào ngược. Nhưng chúng có thể nghiêm trọng hơn các cơn co giật thông thường. Chúng có thể gây tổn thương não và cản trở sự phát triển của trẻ. Do đó, quan trọng là cần tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức.

Khoảng 9 trên 10 trẻ mắc não trơn sẽ phát triển bệnh động kinh, một loại rối loạn não cũng gây ra cơn co giật, trong năm đầu đời.

Chẩn đoán

Bác sĩ sử dụng các phương pháp quét não để chẩn đoán tình trạng này. Những phương pháp này có thể bao gồm chụp CT hoặc MRI.

Sau khi bác sĩ xác nhận chẩn đoán, xét nghiệm di truyền có thể tìm ra một đột biến gây ra tình trạng này.

Cuộc sống với bệnh

Hiện không có cách chữa trị cho não trơn, nhưng một số người có thể cải thiện theo thời gian. Các bác sĩ và phụ huynh tập trung vào việc kiểm soát và giải quyết các triệu chứng.

Vật lý trị liệu, trị liệu nghề nghiệp và trị liệu ngôn ngữ có thể giúp trong một số trường hợp. Những người sống với tình trạng này có thể cần dùng thuốc để kiểm soát cơn co giật.

Trẻ có thể ngồi trong xe lăn hoặc ghế giữ cho chúng thẳng đứng. Một số trẻ có thể cần ống thông dinh dưỡng nếu chúng gặp khó khăn trong việc nuốt.

Biến chứng

Khó thở và khó khăn trong việc nuốt — và co giật — là những nguyên nhân phổ biến gây tử vong ở những người mắc não trơn.

Phụ huynh nên nhớ rằng mỗi trường hợp là khác nhau. Mặc dù một số trẻ mắc bệnh này không sống quá 10 tuổi, nhưng những trẻ khác có thể trở thành người lớn. Bạn nên tìm kiếm một chuyên gia để cung cấp thêm thông tin về tình trạng của trẻ và các dịch vụ hỗ trợ.

Cấp cứu ban đầu sốc chấn thương ở người lớn

Sốc là một tình trạng giảm tưới máu tổ chức, với nhiều hiện lâm sàng như rối loạn huyết động và suy tạng. Ở cấp độ tế bào, sốc là hậu quả của thiếu hụt chuyển hóa cơ bản, đặc biệt là oxy dẫn tới chuyển hóa yếm khí.

Trong chấn thương, mất máu là nguyên nhân thường gặp nhất dẫn đến sốc. Các nguyên nhân tham gia vào thúc đẩy quá trình này gồm có thiếu oxy, tắc nghẽn cơ học (ép tim cấp, tràn khí màng phổi áp lực), chấn thương cột sống cổ nặng và suy tim. Sốc là một nguyên thường gặp và có thể cứu sống được ở các bệnh nhân chấn thương và nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ hai sau chấn thương sọ não trong chấn thương

SINH LÍ BỆNH VÀ PHÂN LOẠI

  1. Sinh lí bệnh

Bất tương xứng giữa cung cấp và nhu cầu ô xy là cơ chế tiên phát của sốc. Đáp ứng bù trừ của sinh lí mất máu là cố gắng đảm bảo cung cấp oxy mô. Kích thích hệ thần kinh giao cảm dẫn đến tăng nhịp tim, co mạch và tăng co bóp cơ tâm thất.

Khi sốc diễn tiến, tưới máu các tạng quan trọng ( tim, não) được ưu tiên đảm bảo và giảm ở các cơ quan khác ( da, ruột, thận…). Nếu quá trình này không được khôi phục dẫn đến toan chuyển hóa nặng hơn, do tăng lactat máu, cùng với thiếu oxy là nguyên nhân dẫn đến mất khả năng co mạch ngoại vi và trụy mạch.

Hằng năm, trên toàn thế giới có hơn 2,5 triệu người chết do chấn thương nặng và các tai nạn giao thông. Hầu hết các trường hợp chết do chấn thương xẩy ra trong những giờ đầu sau chấn thương, 34 – 50% tử vong xẩy ra tại các bệnh viện. Kiểm soát tối ưu chấn thương có thể làm giảm phòng tránh được tử vong lên đến 76%.

  1. Phân loại. Theo Advanced Trauma Life Support (ATLS)

Chia sốc máu máu do chấn thương thành 4 loại với các đặc điểm nhấn mạch triệu chứng sớm của tình trạng sốc. Lưu ý, Trong chấn thương huyết áp chỉ hạ thấp khi mất quá 30% thể tích máu của cơ thể.

CHỈ SỐ ĐỘ I ĐỘ II ĐỘ III ĐỘ IV
Lượn g máu mất (ml) 1  

 

< 750

 

 

750-

1500

 

1500

– 2000

 

 

>200

0

Lượn g máu mất (%tổng  

< 15%

 

15-

30%

 

30-

40%

 

>40

%

 lượng máu)
Nhịp tim (lần/ phút)  

< 100

 

 

>100

 

 

>120

 

 

>140

Huyết áp Bình thườ ng Bình thườ ng  

¯

 

¯¯

Áp lực mạch (mm

Hg)

Bình thường hoặc

­

 

 

¯

 

 

¯¯

 

 

¯¯

Nhịp thở (lần/ phút)  

14-

20

 

20-

30

 

30-

40

 

 

> 35

Nước tiểu (ml/h

)

 

 

>30

 

20-

30

 

 

5-15

Không đáng kể
 

 

Ý

thức

 

Hơi lo lắng

Lo lắng, kích thích Kích thích và lẫn lộn Lú lẫn và lờ đờ
 

Bù dịch

 

Tinh thể

 

Tinh thể

Tinh thể và máu Tinh thể và máu

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

1. Triệu chứng lâm sàng

Mất máu là nguyên nhân thường gặp nhất trong sốc chấn thương. Các vị trí có thể chảy máu nặng: trong ổ bụng, khoang sau phúc mạc, khoang màng phổi và mất máu ra ngoài.

Phải nhận biết sốc chấn thương từ trước khi có dấu hiệu tụt huyết áp. Các dấu hiệu của sốc chấn thương tùy thuộc vào tốc độ, thể tích và thời gian chảy máu. Ngoài ra còn có các triệu chứng cấp tính khác kèm theo như: tràn khí màng phổi, thiếu máu cơ tim

  • Các triệu chứng của mất máu:

+ Mạch nhanh, nhỏ, huyết áp hạ

+ Áp lực tĩnh mạch trung tâm thấp

+ Da niêm mạc nhợt nhạt, lạnh. đầu gối có mảng tím nếu mất máu nhiều.

+ Tim môi và đầu chi thường khó thấy khi mất máu nhiều

+ Khám lâm sàng để tầm soát các tổn thương, nguyên nhân và vị trí chảy máu: trong ổ bụng, trong cơ, khoang sau phúc mạc, màng phổi…

  • Các biểu hiện khác:

+ Vật vã, lờ đờ, rối loạn ý thức, hôn mê. Các rối loạn ý thức có thể do sốc, cũng có thể do say rượu hoặc liên quan đến chấn thương sọ não

+ Thở nhanh, khó thở, suy hô hấp

+ Khát nước, đái ít, vô niệu (lượng nước tiểu < 0,5 ml/kg/h)

+ Hạ thân nhiệt

+ Gãy xương….

Sốc chấn thương không do mất máu thường khó chẩn đoán ( ép tim cấp với tam chứng Beck: tụt huyết áp, tĩnh mạch cổ nổi và tiếng tim mờ thường biểu hiện muộn).

Tràn khí mạng phổi áp lực thường có biểu hiện: suy hô hấp, mất rì rào phế nang một bên, tràn khí dưới da, khí quản bị đẩy lệch về một bên, tụt huyết áp là hậu quả của giảm tiền gánh do chèn ép vào tĩnh mạch chủ dưới.

Ở những bệnh nhân chấn thương tủy cổ cao có thể gặp sốc thần kinh. Tụt huyết áp thường nhẹ, hậu quả của giảm trương lực mạch ngoại vi.

2.  Cận lâm sàng

  • Xét nghiệm công thức máu và hóa sinh cơ bản, bicarbonate và lactat máu.
  • Siêu âm ổ bụng
  • Xquang hoặc cắt lớp vi tính: ngực, bụng, khung chậu…

3.  Chẩn đoán phân biệt

Mất máu là nguyên nhân thường gặp nhất trong sốc chấn thương.

Cần phải chẩn đoán phân sốc mất máu với:

  • Ép tim cấp
  • Tràn khí màng phổi áp lực
  • Đụng dập phổi
  • Nhồi máu cơ tim cấp
  • Tắc mạch mỡ hoặc mạch hơi

KIỂM SOÁT CHẤN THƯƠNG

1. Cấp cứu ngoại viện

Vận chuyển nhanh bệnh nhân tới bệnh viện là quan trọng và không làm mất thời gian vào những thao tác thừa.

  • Ba nhiệm vụ quan trọng cần phải làm:

+ Đối với từng nạn nhân: phát hiện các chấn thương nặng và chấn thương đe dọa tính mạng

+ Đối với nhiều nạn nhân: Phân loại ( triage) các điều trị ngay lập tức cứu sống nạn nhân

+ Đảm bảo đường thở, hô hấp – tuần hoàn và vận chuyển tới bệnh viện đủ điều kiện chẩn đoán, điều trị đa chấn thương

– Cần tìm kiếm các triệu chứng giảm tưới máu từ trước khi có tụt huyết áp.

2. Kiểm soát ban đầu sốc chấn thương

  • Nguyên tắc điều trị: tập trung vào:

+ Hồi phục thể tích lòng mạch

+ Thở oxy

+ Cầm máu

  • Đánh giá và điều trị chấn thương phải được thực hiện đồng thời (phác đồ). Đánh giá theo trình tự A ( Airway), B (Breathing), C ( Circulation) và tình trạng chảy máu và can thiệp ngay lập tức:

+ Nẹp cố định cột sống cổ

+ Tối ưu hóa oxy máu

+ Đặt đường truyền lớn để truyền dịch

+ Cầm máu

+ Lấy máu làm xét nghiệm và định nhóm máu

2.1.  Cầm máu

  • Băng ép nếu có chảy máu ra ngoài hoặc dùng clam để kẹp các mạch máu khi nhìn thấy, không kẹp mù.
  • Garô để cầm máu trong cắt cụt chi, đặc biệt khi các biện pháp khác không thể cầm máu được. Để tránh thiếu máu, ga rô phải được nới lỏng định kỳ ( sau mỗi 45 phút).
  • Siêu âm đánh giá dịch ổ bụng, tìm nguồn chảy máu. Siêu âm thay thế cho phần lớn trường hợp chọc rửa ổ bụ
  • Gãy xương chậu mất vững và chấn thương mạch máu là nguyên nhân dẫn đến sốc mất máu. Bất động cố định xương chậu để làm giảm chảy máu.

2.2.  Bù dịch

  • Bù 2000 ml dịch NaCl 0,9% qua đường ngoại vi ( kim luồn 16G ) hoặc catheter tĩnh mạch trung tâm. Ngoài ra có thể dùng dung dịch cao phân tử.
  • Truyền ngay chế phẩm máu nếu có. Truyền máu với tỉ lệ huyết tương/ khối tiểu cầu / khối hồng cầu = 1/1/1
  • Mục tiêu của hồi sức dịch dựa vào đáp ứng của bệnh nhân. Huyết áp trung bình (HATB) khoảng 65mmHg và huyết áp tâm thu khoảng 90 mmHg trừ trường hợp có chấn thương sọ não kèm theo phải đưa HATB > 105 mmHg và huyết áp tâm thu > 120 mHg.

2.3. Thuốc vận mạch

Sử dụng thuốc vận mạch sớm ngay từ đầu, khi chưa bù đủ dịch trong sốc mất máu thường làm nặng hơn.

3. Kiểm soát sốc chấn thương không do mất máu

  • Tràn khí màng phổi: thường có cả chấn thương ngực kín và chấn thương thấu ngực.

+ Xử trí tràn máu hoặc tràn khí màng phổi do chấn thương: đặt dẫn lưu lớn ( 36F)

+ Xử trí tràn khí màng phổi áp lực có tụt huyết áp: ngay lập tức hút dẫn lưu khí bằng kim 12 hoặc 14 G, vị trí chọc khoang liên sườn 2 đường giữa đòn.

  • Ép tim cấp: có thể do chấn thương thấu ngực hoặc chấn thương ngực kín nặng

+ Chẩn đoán : siêu âm tại giường có thể thực hiện ngay lập tức, nhanh chóng và chính xác.

+ Xử trí: chọc tháo dịch màng tim. Khi khôi phục được huyết áp, tình trạng lâm sàng cải thiện cần chỉ định mở ngực cấp cứu để dẫn lưu máu khoang màng tim

4. Theo dõi

Đảm bảo các chỉ số:

  • Huyết áp: HATV > 65 mmHg trong chấn thương hở và > 105 mmHg đối với chấn thương kín.
  • Nhịp tim: 60 – 100 lần/ phút
  • Bão hòa oxy ( SPO2): > 94%.
  • Nước tiểu: duy trì > 0,5 ml/kg/h
  • CVP: 8 – 12 mmHg
  • Lactat , kiềm thiếu hụt và độ bão hòa oxy máu tĩnh mạch trộn: theo dõi mỗi 4h để đảm bảo tưới máu tạng thích hợp hoặc cải thiện khi hồi sức.
  • Truyền máu:

+ Truyền 2 đơn vị khối hồng cầu nếu hemoglobin (Hb) < 80g/l nếu bệnh nhân không có nguy cơ mạch vành cấp hoặc nếu Hb < 100 g/l nếu có nguy cơ bệnh mạch vành cấp

+ Truyền một khối tiểu cầu máy hoặc 6 đơn vị tiểu cầu thường khi tiểu cầu < 50 G/l

+ Truyền 2 đơn vị huyết tương tươi động lạnh khi INR > 2

+ Truyền 10 đơn vị cryo nếu fibrinogen < 100 mg/dl

55 bài thuốc nam chữa rắn độc cắn hàng đầu

  1. Thuốc rắn cắn
  • Bào sơn giáp 4 đồng cân – Ngũ linh chi 4 đồng cân

-> Tiêu tích phá độc

  • Xuyên bối mẫu 6 đồng cân – Nam tinh 6 đồng cân

—> Hạ đờm

  • Thanh phàn 6 đồng cân – Bạch phàn 6 đồng cân
  • Hùng hoàng 5 đồng cân

-> Tiêu đờm, giải độc, giữ huyết

  • Nghệ răm 1 lạng      – Hà thủ ô 1 lạng
  • Bồ cu vẻ 1 lạng       – Trầu không 100g
  • Hạt ổ quạ 50g -> Phá nọc

Ngâm 200g/l lít trong 10 ngày

  • Củ hoặc lá bòng bong giã với tỏi đắp và vắt nước uống.
  • Cây sồi tía: Rắn cạp nong.
  1. Rắn cắn
  • Bạch chỉ 1g – Bạch thược 1g
  • Bạch đậu khấu 1g
  • Bán hạ (tẩm nước gừng sao) 1g
  • Xuyên sơn giáp (sao phồng) 1g
  • Hà thủ ô đỏ (đồ mềm, thái mỏng, tẩm rượu sao) 1,6g
  • Quế thanh 1g – Xuyên bối mẫu 1,6g
  • Hùng hoàng lg – Rượu trắng 20ml
  1. Rắn cắn
  • Lá quít rừng, cô nhọ nồi, phèn chua, rễ đu đủ đực.
  1. Rắn cắn
  • Vỏ Hoàng nàn 100g – Hùng hoàng 15g
  • Bạch phàn phi 100g – Củ nén (hành tăm) 50g
  1. Rắn cắn

Buộc garô

Hút nọc với kim

Lá chìa vôi 1 lạng – Lá cỏ mọi 5 đồng cân

  • Củ cỏ gấu 3 đồng cân         – Lá Bạc thau 3 đồng cân
  • Lá duối non 5 đồng cân     – Lá phèn đen 3 đồng cân
  • Củ cỏ gừng 3 đồng cân
  1. Vết thương bị thôi: rửa nước trầu không, mỏ quạ, hàn the. Rắn cắn
  • Xuyên sơn giáp 3 chỉ – Châu Hùng hoàng 5 chỉ
  • Tri mẫu 3 chỉ – Ngũ linh chi 3 đồng cân
  • Xuyên bối mẫu 3 chỉ – Phèn phi 5 chỉ
  • Chánh Quảng Mộc hương 3 chỉ
  • Bạch chỉ 3 chỉ
  • Tán bột
  • Mỗi lần cho uống độ 5g
  • Nếu đổ thuốc cho uống bị nôn ói là bị rắn có chửa cắn, phải cho uống 1 tí phèn phi trước mổi cho uống thuốc sau.
  • Cách lấy nọc: Cạo lấy tinh tre xanh, rỉ sắt, giấm thanh, xào cho sôi để nguội đắp lên chỗ rắn cắn.
  1. Rắn độc cắn
  • Lá cây Bồ cu vẻ 100g, giã nát, thêm nước vào, vắt lấy nước cốt uống, còn bã đắp vào vết rắn cắn.
  1. Thuốc trừ nọc rắn

Cỏ Mần trầu, nhai nhuyễn nuôi nước, xác đắp chỗ rắn cắn

  • Hùng hoàng 2 chỉ – Bạch chỉ 4 chỉ
  • Xuyên bối mẫu 4 chỉ – Ngũ linh chi 4 chỉ
  • Phèn trắng phi 2 chỉ

Tán bột, cho uống 1 muỗng cà phê.

  1. Toa thuốc rắn
  • Sơn đừng (dây) 30 kg – Chùm hôi đỏ (dây) 15 kg
  • Vò vẽ sẻ (dây) 15 kg – Mãng cầu rừng (dây) 10 kg
  • Sấu đực (dây) 10 kg – Ngành ngạnh (dây) 10 kg
  • Hà thủ ô (củ) 5 kg                       – Mã tiền (chế – hột) 2 kg
  • Phèn chua (phi) 3 kg                  – Cây ba lá (lá) 10 kg
  • Cách hào chế: Rửa sạch, cạo meo bên ngoài, băm nhỏ, nấu cao dạng dẻo.
  • Tá dược: Dùng lá cây vò vẽ trâu, lá lấu, lá mãng cầu rừng, thái nhỏ, sao vàng, tán bột nhồi với cao làm viên khoảng lg (dùng vỏ đậu làm viên), sấy hoặc phơi khô dóng gói 6 viên (1 liều)
  • Cách dùng: Khi bị rắn độc cắn, uống mồi lần 2 viên, dùng cách nhau 2 giờ. Tại dấu cắn, giã nhỏ viên thuốc, trộn nước và đắp tại chỗ, tùy theo nặng nhẹ dùng liên tục từ 3-5 ngày.
  • Công dụng: Trị tất cả các loại rắn và các loại nọc khác: rít, bò cạp, ong vò vẽ…
  1. Thuốc rắn
  • Sòng sọng gai (cây chanh chó, bồ cu vẻ), lá tròn như vảy ốc con sâu hay bò thành vệt ở trên lá, giã nhỏ với muối đắp 1/2 giờ.
  • Hạt mào gà trắng, hạt cau già, Hùng hoàng, hạt chanh già, tán bột làm viên, khi bị rắn cắn mài ra uống.
  1. Thuốc rắn
  • Củ hoặc lá bòng bong ở rừng Cà Mau và ở bụi rất nhiều, giã với tỏi đắp và vắt nước uống.
  1. Rắn cắn
  • Rắn “trung” cắn:
  • Rau húng cây 1 nắm – cỏ mực 1 nắm Hai thứ giã nhỏ vắt nước uống, bã đắp.
  • Rít chui vô lỗ tai:
  • Đâm gừng hoặc lá hẹ, vắt nước, nhểu vô tai.
  1. Thuốc rắn
  • Hùng hoàng, Biển đậu, Bạch chỉ, Cam thảo, Khổ luyện tử.
  1. Chữa rắn cắn
  • Buộc garo cách vết rắn cắn 5-10
  • Quả trứng gà đập ra cho vào để rút nọc.
  • Thuốc uống: mắt mèo, bậu trắc, đinh đất, giã vắt nước uống, bã rịt vết thương.
  1. Chữa rắn cắn
  • Binh lang 4 đồng cân
  • Nhũ hương 3 đồng cân
  • Quế chi 4 đồng cân
  • Ngũ linh chi 4 đồng cân
  • Hoàng tinh 3 đồng cân
  • Hoàng bá 3 đồng cân
  • Đại hoàng 5 đồng cân
  • Ngân hoa 5 đồng cân
  • Cam thảo 2 đồng cân
  • Uy linh tiên 4 đồng cân
  • Đương quy vĩ 4 đồng cân
  • Xuyên Hồng hoa 5 phân
  • Kim nhĩ hoàng 1 đồng cân
  • Tô diệp 3 dc
  • Bạc hà 2 đồng cân
  • Kinh giới 3 đồng cân
  • Hoàng cầm 3 đồng cân
  • Tế tân 3 đồng cân
  • Xuyên khung 3 đồng cân
  • Thổ phục linh 2 đồng cân

* Trị: Bất cứ rắn gì, chỗ bị cắn hay sưng đỏ tê ngứa, nhức dầu, ù tai thì có thể đắp.

Nếu là rắn hổ lửa thêm, khổ qua đắng 2 đồng cân.

  1. Rắn hổ đất có chửa cắn

Nhàu rừng ta lấy vô này Vỏ cây chanh giấy là thầy hổ mang Hai thứ đâm nhỏ liền thang Nước uống xác đặt lẹ làng bệnh lui.

  1. Rắn hổ đất có chửa cắn

Ngô công 1 chỉ hơ lùi

Lưu hoàng 1 chỉ có mùi hăng hăng

Xạ hương nửa chỉ đã từng

Các thứ tán nhỏ đặt chồng vít lui.

  1. Rắn hổ đất đẻ cắn

Đọt thơm 1 nắm chớ khi Húng đất 2 nắm cũng thì quý thang Hai thứ đâm uống rất hay Xác thì đem đặt nơi này bị đau.

  1. Rắn hổ đẻ cắn truyền mau

Nọc nó chuyển chạy rạt rào nơi nơi

Rắn hổ hành cắn

Hà thủ ô 7 chỉ này

Phèn chua 2 chỉ cho đầy trị an

Tán nhỏ 2 chỉ trà thang

Đỡ ngay tánh mạng tìm sang thầy lành

Ai ai cũng biết hổ hành

Nọc độc của nó chạy nhanh chết người.

  1. Rắn hổ lai cắn

Xuyên bối mẫu 5 chỉ thôi

Bạch chỉ 4 chỉ để rồi Tế tân

Cải trời ra sao cùng cân

Dền tía sao cháy đều tay mới mần

Các vị tán mạt cho mau

Mỗi lần 2 chỉ trà tàu tông hơi

Đoạn rồi thầy rắn tìm nơi

Hổ lai rắn độc tìm mời thầy ta.

  1. Rắn hổ lửa cắn

Bạch chỉ 7 chỉ không xa

Tế tân 5 chỉ phụ khoa Hùng hoàng

Hùng hoàng 3 chỉ sẵn sàng

Rắn cũng sợ anh chàng rắn co

Tán mạt 3 chỉ uống vô

Trà tàu rót uống để chờ giải nguy

Đoạn rồi hổ lửa thứ uy

Chuyên môn ngừa trị có chi ưu phiền.

  1. Rắn lục cườm cắn

Chàm nhuộm vài lượng xanh lè Lá tre 7 chỉ phơi se đủ rồi Hàn the 2 chỉ vừa thôi Các thứ tán nhỏ cho rồi trà thang.

  1. Rắn hổ mây cắn Cây đọt sành 5 chỉ liền

Ngải hổ 4 chỉ nhớ phiền phơi khô

Châu sa 2 chỉ đưa vô

Ngũ linh chi những đồ cứu nguy

Tán mạt 4 chỉ uống đi

Sau tìm thầy rắn chuyên thì trị cho.

  1. Rắn hổ đòa cân cắn

Ô ngựa trời 2 chỉ thôi

Ngải hổ 4 chỉ cùng thời lấy vô

Bcín chỉ cây móng tay khô

Thủ ô cũng vậy ta cho nó vào

Tán nhỏ uống với trà tàu

Tạm thời cứu cấp về sau tìm thầy.

  1. Rắn lục xanh cắn

Vạy vóc một nắm đọt mau

Đâm vắt lấy nước uống sau êm lần

Tìm thầy mà trị cho êm

Lục xanh mà cắn không hiền lành đâu.

  1. Rắn lục xanh cắn

Thạch hộc một nắm cho mau

Nhai cho nát nhỏ phun sâu họng người

Rắt đầu đàm hạ thở hơi

Tìm thầy chuyên trị mọi nơi rước về.

  1. Rắn lục đỏ đuôi

Một củ hùng mà danh vang

Giác tía nắm lá lại càng hiệu thang

Một chút muối đen cầm tay

Cả 3 đâm nhô nước này uống mau

Xác thì đem đặt nơi đau

Rắn lục đuôi đỏ từ lâu đã trừ.

  1. Rắn lửa cắn

Bảy chỉ sừng trâu trắng dư

Một chén rượu trắng bấy chừ nấu chung

Nấu xong còn lại 7 phân

Cho người ấy uống đàm lần hạ lui

Cứu cấp đã được tỉnh rồi

Rắn lửa mà cắn đi mời thầy hay.

  1. Rắn mỏ vọ cắn

Châu sa 4 chỉ cho tròn

Đu đủ tía hột cũng còn cân nhau

Hà thủ ô 3 chỉ mau

Ba chỉ Xuyên bối gom lần tán cho

Tán xong 3 thứ trà đưa

Uống rồi tìm thuốc để ngừa hậu tai

Rắn mỏ vọ rất hại tai

Nếu không cấp cứu ai tài khoanh tay.

  1. Rắn hổ ngựa cắn

Vú rau dừa một nắm to

Nước miếng mèo một chút lo tìm ra

Muối đen một chút để pha

Đâm chung uôlig nước mặt đà tỉnh bơ

Rắn hổ ngựa có sẵn chờ

Cắn thì có thuốc ta nhờ tìm ra.

  1. Rắn hổ ngựa cắn

Dây Cát lồi khô tay ta

É tía cùng thế thêm và Chỉ thiên

Cây bọ xít phơi khô liền

Các thứ tán nhỏ theo phicn 2 lần

Uống với nước trà tuyệt luân

Thuốc này hổ ngựa lại gần chẳng sao

Cứu cấp ta uống cho mau

Rồi ra tìm thuốc chuyên màu trị sau.

  1. Rắn rồng cắn

Củ u du 5 chỉ mà hay

Cỏ ống một mớ cỏn nay Bạch phàn

Bạch phàn 2 chỉ nên bàn

Với trà ta uống hóa đàm thật hay

Làm phép cấp cứu thuốc này

Tìm thầy trị rắn chuyên diệt là.

  1. Rắn râu cắn

Rau muống mớ rễ tay này Nga lau mấy đọt thật hay ai ngờ.

  1. Rắn râu cắn

Cặt bầu non một khúc to

Đâm nước cho uống đặt vô xác này.

  1. Rắn mái gầm cắn

Bần biển nắm lá trong tay Mái gầm nắm lấy mới hay trị người Muối đen một chút mà thôi Ba thứ hiệp giã vắt rồi uống ngay Xác thời đắp ở vết này.

  1. Rắn mái gầm cắn

Khổ qua 20 hột đây

Hùng hoàng 1 chỉ tán này uống ngay

Đàm hạ là thuốc rất hay

Rắn mái gầm cắn tìm thầy chuyên môn.

  1. Rắn vú nàng cắn

Củ du du 1 lượng thật là

Trầm hương 5 chỉ trừ tà cũng hay

Bạch chỉ 4 chỉ đều tay

Dùng trà mà uống thuốc này tán xong

Uống rồi thấy thuốc có công

Thầy chuyên môn trị mới xong cứu người.

  1. Rắn hổ đất cắn Cỏ ống 1 củ gần đây

Sục sạc nhúm cho đầy chớ nghi

Rau húng đất nắm tức thì

Lưỡi đồng dây nhúm có gì chẳng ra

Đâm nhỏ các thứ nước pha

Cho uống nước ấy xác ta đắp vào.

  1. Rắn hổ đất cắn

Một nhúm xương khô đem sao (cây)

Đủ ngô mớ rễ đem vào cũng phơi

Nén khô 3 hột mà thôi

Muối đen một chút đi đôi Thanh phàn

Đâm nước uống, xác đặt tan

Chỗ nào có vít nó hàn được ngay.

  1. Rắn hổ đất cắn

Rễ bồ ngót khô nắm tay Cây đồi mồi từng ray y trang?

Phèn 2 chỉ thủ ô cần Thủ ô 4 chỉ là phần ta cân Tán uống cứu cấp từng lần Rồi lo giải độc là phần lương y.

  1. Rắn hổ đất cắn

Ta lấy nắm hột mần trị

Tán bột cho uống thứ ni cứu người

Ta còn thổi thuốc một hơi

Vào mũi người bệnh một hồi tỉnh ngay.

  1. Rắn độc cắn

Rắn độc cắn rồi đàm ngay Đó là rắn độc cao tay tìm thầy

Khổ qua nắm hột rất hay Nhai đi mót nước bã này đắp vô.

  1. Rắn độc cắn

Cây chân vịt cả rễ khô

Nhổ đi rửa sạch nhai vô an toàn

Nước thì đem nuốt cho an

Bã thì đem đặt nơi can vết này.

  1. Rắn độc cắn

Mực xạ 1 cây rất hay

Chặt mài đầu đặt cho ngay vết xà

Đặt rồi nó rút nọc ra

Ta bỏ cây ấy quăng xa khỏi dầm.

  1. Rắn độc cắn

Bị rắn độc cắn bất thần

Xé vải cột chận nọc cần dời đi

Bóp nặn máu độc tức thì

Miếng sắt đốt sẵn áp vào chỗ đau

Nọc bị hút ra rất mau

Trầu bà 7 lá, Quế khâu cũng màu

Lại thêm củ gừng, trái cau

Chế chút nước lạnh dầm mau nát nhừ

Vắt lấy nước uống để hờ

Mỗi vít đắp xác 1 giờ thì êm.

  1. Rắn độc cắn

Rắn độc cắn lựa chỗ mềm Nọc nó chạy thẳng để tìm vào tim Sôi đàm ngất xỉu chết im Thuốc cứu cho sống khó tìm ai ơi Hùng hoàng vi quảng đương thời Hai chỉ lựa tốt cho người gặp may Hai chỉ Bạch khấu cũng hay Trần bì, Ngũ linh chi rày bằng nhau Hoàng bá chỉ rưỡi rất mầu Đại hoàng 2 chỉ nó bùng xổ cho Bạch thược, Quan quế chi to Ô dước, Bạch chỉ cũng so cho đồng

Các thứ 1 chỉ suốt thông

Bạch phàn, Hương phụ còn hòng Trầm hương

Tế tân, Thạch cao phi thường

Cát căn hạ nhiệt còn phương tây bì

Xuyên khung đầu thông chờ khi

Nam dược một số đầy thì sắc phơi

Rang vàng khử thổ có nơi

Toàn yết một mớ dây rồi Nga lau

Sục sạc lấy cây cho mau

Nhàu rừng mớ rễ toàn thân về nhà

Liễu đỏ mớ lá lê tha

Nén thì mớ đọt sao qua lồng đèn

Lài dây, Thạch hộc cũng quen

Giác tía mớ lá còn chen mái gầm

Rau muống, chanh giấy vỏ cần

Cỏ làng cỏ quý ta lùng cũng ra

É tía mớ cây cũng là

Cườm gạo, Bàng biển mấy mà mới thôi

Nam dược tán mạt hiệp rồi

Bắc nam hai thứ ta nhồi hiệp chung

Tán mạt ta tới hàng cùng

Hồ viên cho lớn phỏng chừng 10 gam

Ai mà bị rắn cắn phàm

Bài này rắn độc cho làm uống ngay

Uống thời với rượu cho say

Ngủ đi một giấc thuốc rày hết đau.

  1. Rắn độc cắn

Xuyên đại hoàng 1 chỉ mau

Tán nhỏ đổ rượu nhiệm màu uống hay.

  1. Thuốc hội độc xà

Các thứ rắn độc cắn thì

Thuốc này giúp đỡ nhiều khi cứu người

Thầy thuốc rắn không dễ ngươi

Có thứ thuốc ấy trong người khi nguy

Nó là thuốc hội cấp kỳ

Ai mà bị cắn dù thì rắn chi

Thanh phàn 1 chỉ cũng thì

Ngũ bội 2 chỉ không bì cùng nhau

Hùng hoàng 2 chỉ đứng đầu

Vảy đồi mồi 2 chỉ để hầu đồng cân

Vỏ bầu thúng 2 chỉ cần

Đồi mồi bầu thúng chung cân tán lần

Mấy vị kia hợp mật trăn

Quết cho nhuần nhuyễn viên bằng hạt đậu xanh Mỗi khi có rắn độc hành Đem ra mà uống 1 lần 2 viên.

  1. Rít cắn

Con còng lật yếm gạch thường Móc gạch mà trét vết thương thì vừa Rít cắn

Ta lấy đọt non me chua

Đâm với cục gừng đặt vừa chỗ đau

Rít cắn

Con dòi phơi khô để lâu Mài ra mà xức đâu đấy lành.

  1. Rít cắn

Xương rồng lấy mủ cho nhanh Thoa nơi vết cắn mà lành ai ơi.

  1. Rít cắn

Mắm sống một con lấy rồi Đem đặt chỗ vết thì thôi đau liền.

  1. Rít cắn

Nước miếng gà rất là hiền Quẹt vào vết cắn ắt liền tan ngay.

  1. Rít có chửa cắn

Trâm bầu mớ đọt nắm tay

Đâm chung uống sống đặt này chỗ đau.

54- Rệp cắn

Mù u 10 trái hái xong

Đập dập bỏ lửa đem xông dưới giường.

  1. Thằn lằn cắn

Dùng dao tre đào rễ dâu tươi Rửa sạch nhai kỹ một hồi nhổ ra Nước thì hãy nuốt cho qua Bã thì đem đắp chỗ ta bị hành.

Lây bệnh Sởi và cách phòng chống dịch

Sởi là một bệnh nhiễm virut cấp tính đường hô hấp, gây những vụ dịch bùng nổ, gây tử vong cao ở trẻ em.

Sydenham (thế kỷ XVIII) đã phân biệt bệnh sởi với bệnh tinh hồng nhiệt và Trousseau (thế kỷ XIX) đã phân biệt bệnh này với các bệnh sốt khác có kèm theo mẩn ban.

TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀ CHẨN ĐOÁN

  1. Tác nhân gây bệnh:

Tác nhân gây bệnh sởi là một virut có thể gây bệnh thực nghiệm cho khỉ, thỏ và chó con. Virut sởi mọc trên phôi gà và tế bào nuôi cấy của người và khỉ, gây nên những tổn thương ở tế bào. Virut sởi là một trong những virut có sức chịu đựng kém nhất, chúng chết ở ngoại cảnh trong vòng 30 phút, và chỉ có thể bảo quản bằng đông khô.

Virut xâm nhập vào phần trên đường hô hấp (mũi, họng) cùng với các giọt chất nhầy bắn từ người bệnh vào không khí qua niêm mạc vào máu, rồi đến sinh sản ở các tổ chức đường hô hấp và da gây sốt, viêm đường hô hấp và mẩn ban.

Thời kỳ ủ bệnh thường là 12-14 ngày, nhưng có thể kéo dài 21 ngày. Diễn biến của sởi trong đa số trường hợp là điển hình, ở trẻ em nhỏ tuổi (1-2% các trường hợp) sởi có thể diễn ra dưới dạng viêm mao phế quản hoặc dưới dạng không có ban. Dạng này cũng thấy ở những người đã dùng gamma-globulin.

Bệnh sởi nguy hiểm nhất đối với trẻ em nhỏ tuổi (dưới 3 tuổi). Bệnh sởi làm suy yếu sức đề kháng của cơ thể như trong bệnh cúm. Cho nên sởi kèm theo những biến chứng (như phế quản phế viêm, viêm tai, ỉa chảy) gây nên bởi những vi khuẩn gây bệnh có điều kiện; những nhiễm khuẩn kết hợp với bệnh sởi (như bạch hầu và sởi) diến biến rất nặng.

  1. Chẩn đoán lâm sàng:

Là phương pháp thường dùng. Bệnh sởi thường bị chẩn đoán chậm, ở thời kỳ mẩn ban. Chẩn đoán sớm ở thời kỳ đầu rất có ích, vì bệnh sởi rất dễ lây. Cho nên, khi thấy trẻ em sốt 38°, và chảy nước mắt, nước mũi thì phải tìm nốt ban ơ miệng (nốt Koplick). Ngay khi đó, người bệnh đã gieo rắc bệnh ở xung quanh, vì virut sởi có cả trong nước mũi, nước mắt.

Có thể chẩn đoán bằng cách phân lập virut từ nước mũi họng hoặc từ máu. Kháng thể trung hoà virut tăng dần ở trong máu. Nhưng những phương pháp xét nghiệm này chỉ dùng trong những trường hợp đặc biệt vì khá phức tạp và không cần thiết.

QUÁ TRÌNH TRUYỀN NHIỄM

  1. Nguồn truyền nhiễm:

Nguồn truyền nhiễm duy nhất là người, trong đó người bệnh là nguồn truyền nhiễm duy nhất.

Virut sởi được giải phóng ra ngoài cùng với chất nhầy của phần trên đường hô hấp. Người bệnh truyền bệnh ngay từ khi mới sốt, nghĩa là 2-3 ngày trước khi nổi ban, còn lây trong suốt thời kỳ mẩn ban (3-5 ngày). Như vậy thời kỳ lây bệnh sởi dài khoảng 7-8 ngày.

Không có tình trạng người khỏi mang virut

Cũng không có tình trạng người lành mang virut

  1. Đường truyền nhiễm:

Bệnh sởi lây bằng những giọt nhỏ chất nhầy bắn từ mũi họng người bệnh vào không khí, trong khi ho và hắt hơi. Bệnh rất dễ lây, đến nỗi trẻ em cảm thụ chỉ vào qua buồng bệnh một chốc lát cũng mắc bệnh. Do virut sởi có thể phân tán rộng, cho nên không loại trừ khả năng truyền bệnh trong nội bộ một nhà ở.

Virut sởi rất yếu d môi trường bên ngoài, cho nên thực tế bệnh sởi không lây bằng đồ dùng và thực phẩm vì chỉ sau vài giờ, đồ dùng đã hết nguy hiểm.

  1. Tính cảm thụ và miễn dịch:

Trong những tháng đầu, hài nhi còn có miễn dịch của mẹ. Miễn dịch vững chắc trong 6 tháng đầu. Vào tháng thứ sáu miễn dịch đã giảm nhiều, nếu trẻ em tiếp xúc với người bệnh, thì có thể mắc bệnh nhẹ. Tuy vậy, bệnh cũng để lại miễn dịch chắc chắn và lâu bền. Điều này giải thích tại sao có một số ít người không cảm thụ mà lại quả quyết rằng chưa bao giờ lên sởi. Bệnh sởi gây miễn dịch rất vững bền, ít khi bị tái nhiễm. Miễn dịch tồn tại suốt đời, và được củng cố bởi tiếp xúc với người bệnh.

Trẻ em dưới 3 tuổi dễ mắc bệnh sởi. Người lớn ít khi lên sdi, đôi khi người lớn cũng mắc bệnh, đó là những người sống ở các bản làng hẻo lánh nên chưa bao giờ bị lây. Như vậy, người lớn được bảo vệ là vì trước kia đã lên sởi.

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ

Do mọi người đều tiếp thu bệnh và do phương thức truyền nhiễm (theo giọt nước hạt nhỏ) rất dễ dàng, cho nên trẻ nhỏ bị lây bệnh ngay từ khi bắt đầu tiếp xúc với các trẻ em khác. Vì thế mà người ta gọi bệnh sởi là bệnh của trẻ em. Cũng như đối với các bệnh nhiễm trùng khác của lứa tuổi nhỏ, lý do không phải là đặc tính sinh lý của cơ thể trẻ em có tính tiếp thụ cao bệnh sởi, mà là mọi người đều mắc bệnh khi còn nhỏ. Các trường hợp mắc bệnh sởi ở trẻ em dưới 5 tuổi là 50% và ở trẻ em dưới 8 tuổi là 75% tổng số các trường hợp mắc bệnh.

+ Ở các thành phố lớn, những trường hợp bệnh có thể xảy ra suốt năm, mức độ mắc bệnh có tính theo mùa tăng lên trong mùa đông-xuân và giảm xuống trong mùa hè-thu. Lý do chính của sự thay đổi theo thời tiết của mức độ mắc bệnh sởi không phải là sức đề kháng của mũi họng bị giảm sút trong các tháng lạnh và ẩm, vì dịch sởi có thể xảy ra bất cứ mùa nào, kể cả mùa hè, khi thời tiết không lạnh và ẩm. Lý do là sự thay đổi về cách sinh hoạt của trẻ em: trong những tháng lạnh và tháng nhập học, trẻ em và học sinh nhỏ sống trong các nhà trẻ và lớp học, do đó sự tiếp xúc mật thiết với nhau làm tăng mức độ mắc bệnh. Trong những tháng nóng thì tình hình ngược lại, và ngoài ra trong nắng hè virut sởi chết nhanh chóng, tuy yếu tố này không quan trọng bằng điều kiện sinh hoạt.

Bệnh sởi có tính chu kỳ. Mức độ mắc bệnh cứ 3-4 năm lại tăng lên một lần và tiếp sau đó lại giảm. Tính chu kỳ này phù hợp với sự phát triển tự nhiên của lớp trẻ em không có miễn dịch trong dân chúng. Khi số này lớn, thì có đủ điều kiện cho dịch phát triển. Dịch sởi có tính bùng nổ, cho nên đa số lớp trẻ em cảm thụ đều mắc bệnh và có miễn dịch.

Mức độ mắc bệnh giảm xuống trong những năm sau. Nhưng trong 3-4 năm, số trẻ em cảm thụ lại tăng đến mức nguy hiểm và một vụ dịch khác lại bùng nổ. Cố nhiên nhịp điệu và cường độ các vụ dịch thay đổi theo điều kiện sinh hoạt và những điều kiện xã hội ở một nơi nhất định.

Tuổi (tháng) Số người ốm (%) Tuổi (năm) Số người ốm (%) Tuổi (năm) Số người ốm (%)
1 0,01 1 10,1 12 0,6
2-3 0,09 2 11,9 13 0,4
4-6 0 08 3 11,9 14 0,2
7-9 1,80 4 13,3 15-19 0,3
10-11 1,60 5 11,9 20-29 0,1
6 9,8 30 0,1
7 8,4
8 8,9
Tổng số dưới một tuổi 4,30 9 4,6
10 2,1
11 1,0

CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ CHỐNG DỊCH

  1. Các biện pháp chống sởi:

Phải khai báo cho trạm vệ sinh phòng dịch biết mỗi khi có bệnh sởi.

Phải cách ly người bệnh từ khi mới sốt (2-3 ngày) và trong suốt thời kỳ mẩn ban (4-5 ngày). Sau thời gian này, bệnh hết nguy hiểm. Thường cách ly nhà ở nhà. Chỉ đưa vào bệnh viện nếu bệnh nặng hoặc nhà chật chội và có trẻ nhỏ. ở bệnh viện, phải nằm trong các buồng riêng, để tránh những biến chứng (như viêm phế quản-phổi).

Bắt buộc phải tẩy uế trong thời kỳ phát bệnh, không phải là để giết virut sởi (rất yếu) mà là để giết những vi khuẩn liên hiệp và những vi trùng gây bệnh có điều kiện, vì chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc gây nên các biến chứng của bệnh sởi. Thường chỉ tẩy uế mũi họng. Không cần tẩy uế buồng bệnh khi khỏi bệnh, vì virut sởi rất yếu ở ngoại cảnh; chỉ cần làm thoáng khí phòng và lau chùi đồ đạc bằng khăn lau ẩm.

Cần cách ly những trẻ em đã tiếp xúc với trẻ ốm trong 8-14 ngày, kể từ ngày tiếp xúc.

  1. Biện pháp phòng bệnh chung:

Cần phải đề phòng trẻ em lành tiếp xúc với trẻ em mắc bệnh ở các phòng khám bệnh. Đặc biệt phải khám cẩn thận khi tiếp nhận các em mới vào nhà trẻ, lớp mẫu giáo để ngăn chặn việc đưa bệnh từ ngoài vào. Nhiều tác giả còn nghi ngờ lợi ích của việc sử dụng những toa xe riêng cho các bà mẹ và trẻ em trên các tuyến giao thông (đường sắt).

Ở bệnh viện nhân viên y tế phải đeo khẩu trang bằng gạc

  1. Biện pháp phòng bệnh đặc hiệu:

Miễn dịch lâu bền phát sinh ra sau khi bị sởi cho phép nghĩ rằng phương pháp tạo miễn dịch chủ động cho dân chúng có tính quyết định.

Một số vacxin đã được ứng dụng trong các vụ dịch (vacxin chế bằng virut sởi cấy trên phôi gà và trên các tế bào nuôi cấy), và có kết quả phòng bệnh rất hữu hiệu. Vacxin đã giảm tỷ lệ tử vong và ngăn ngừa dịch xảy ra ở trẻ em dưới 3 tuổi (là tuổi mà bệnh đặc biệt nguy hiểm) nghĩa là đẩy lùi bệnh sởi lên lứa tuổi lớn hơn và ở thể bệnh nhẹ hơn. Người ta cũng đã gây miễn dịch thụ động bằng cách tiêm huyết thanh chống sởi cho trẻ em dưới 3 tuổi chưa lên sởi, trong khi gia dinh hoặc nhà trẻ có bệnh sởi.

  • Huyết thanh người mới khỏi. Lấy huyết thanh từ ngày thứ bẩy đến ngày thứ mười lăm, sau khi khỏi bệnh; để cho được chắc chắn nên trộn nhiều huyết thanh, vì tác dụng của huyết thanh không đều. Tiêm bắp 3ml cho trẻ em tiếp xúc dưới 3 tuổi, và 1ml cho mỗi tuổi lớn hơn. Sẽ tăng liều lượng nếu tiêm muộn (quá 5 ngày sau khi tiếp xúc)

Nếu tiêm huyết thanh trong 5 ngày đầu thì sẽ ngăn ngừa hoàn toàn bệnh sởi; nếu tiêm muộn (cuối thời kỳ ủ bệnh) thì bệnh sẽ nhẹ hơn. Thời gian miễn dịch là 25 ngày. Tuy nhiên, nếu 3-4 ngày sau khi tiêm lại xảy ra một trường hợp sởi khác, thì cần tiêm thêm một phát nữa. Ngoài ra, hình như huyết thanh không có tác dụng nếu tiêm trước khi tiếp xúc.

  • Máu me: nếu huyết thanh người mới khỏi, thì phải dùng máu mẹ. Tiêm bắp để khỏi phát tìm nhóm máu. Tiêm 10ml, nếu không lấy được máu mẹ, thì có thể dùng máu của bất kỳ người lớn nào khoẻ mạnh (để không mắc bệnh giang mai, sốt rét…) vì các kháng thể có tính bảo vệ chống sởi thực tế tồn tại ở tất cả những người lớn tuổi.
  • Gamma-globulin: gần đây, người ta thay thế huyết thanh người bằng gamma-globulin, là một thành phần của huyết thanh có chứa kháng thể sởi. Người ta chế gamma-globulin từ huyết thanh người lớn, nhưng thường là từ máu rau thai nhi vì dễ cũng cấp và rẻ tiền hơn. Tiêm bắp hoặc dưới da 3-5ml cho trẻ em từ 3 tháng đến 4 tuổi và các trẻ em lớn tuổi hơn nhưng yếu. Nếu tiêm trong 3 ngày đầu, kể từ khi tiếp xúc thì có thể ngăn ngừa bệnh sởi; nếu tiêm muộn hơn, từ ngày thứ tư đến ngày thứ bảy thì bệnh sẽ nhẹ hơn.

Theo số liệu của nhiều tác giả, thì mức độ mắc bệnh sởi ở những người được tiêm chủng giảm xuống 3-4 lần và ở những thể bệnh nặng cũng giảm 3-4 lần ở những người mắc bệnh đã tiêm chủng. Nếu dùng kịp thời gama-globulin thì tỷ lệ tử vong hầu như không có.

Ưu điểm của gama-globulin là chỉ cần tiêm một liều lượng nhỏ 10 lần ít hơn so với huyết thanh (đáng lẽ là 30ml huyết thanh, thì chỉ cần 1-3ml gama-globulin 10%). Ngoài ra, dùng gama-globulin bảo đảm hơn đối với việc truyền bệnh viêm gan truyền nhiễm. Hơn nữa, không có chống chỉ định tiêm chủng gama-globulin.

Hiệu quả của việc phòng bệnh bằng cách tạo miễn dịch thụ động rất rõ ràng, nhưng lại ngắn hạn. Phương pháp này chỉ có thể đẩy lùi bệnh sởi ở trẻ nhỏ lên lứa tuổi lớn hơn, chứ không thể hoàn toàn ngăn ngừa mắc bệnh sởi. Tuy vậy, ý nghĩa dịch tễ học của việc dùng huyết thanh rất lớn, vì nhờ phương pháp này có thể thanh toán hoàn toàn tỷ lệ tử vong do sởi và ngăn ngừa bệnh sởi ở những trẻ em còn non yếu.

Ngày nay, với vacxin sởi sống áp dụng trong chương trình tiêm chủng mở rộng, chúng ta có thể hạn chế, tiến tới thanh toán dịch sởi.

Huyệt đặc biệt trên kinh và tính năng chủ trị

Huyệt trên kinh là những huyệt nằm trên 12 kinh chính và những huyệt ở mạch nhâm, mạch đốc. Một số huyệt vì tính năng chủ trị của nó mà được gọi là huyệt đặc biệt.

Những huyệt trên kinh có tính chất, vị trí, tác dụng gần giống nhau được xếp thành nhóm và có tên gọi riêng.

Huyệt nguyên

Đại diện cho đường kinh, nơi khí huyết tập trung nhiều nhất so với các vùng huyệt khác. Các huyệt này nằm ở ngay hoặc gần cổ tay, cổ chân; mỗi kinh chính có một huyệt nguyên.

Đặc tính : Huyệt nguyên có quan hệ mật thiết với tam tiêu. Tác động vào đó có thể thúc đẩy chức năng của các cơ quan, điều hoà hoạt động nội tạng. Vì thế bệnh của ngủ tạng, lục phủ đều lấy huyệt nguyên của chúng để điều trị. Huyệt nguyên có tác dụng chữa các chứng hư hay thực của tạng phủ thuộc kinh mạch của huyệt. Ngoài ra qua nó có thể chẩn đoán được bệnh của tạng phủ và kinh lạc.

Huyệt lạc

Nơi tương thông của các kinh dương, kinh âm có quan hệ biểu lý.

Có 15 huyệt lạc, 14 huyệt thuộc 12 kinh chính, hai mạch nhâm – đốc và một huyệt lạc thuộc đại lạc của tỳ (tổng lạc).

Đặc tính : Huyệt lạc dùng để trị bệnh trên kinh thuộc huyệt và kinh có quan hệ biểu lý. Ngoài ra có thể dùng phôi hợp với huyệt nguyên của bản kinh để tăng tác dụng chữa bệnh.

Huyệt du ở lưng

Là những huyệt ở vùng lưng tương ứng với các tạng phủ, nơi khí của mỗi tạng phủ thẩm thấu tới. Các huyệt này đều nằm trên kinh túc thái dương bàng quang chạy dọc hai bên cột sống và đều mang tên tạng phủ tương ứng, trừ huyệt du ở lưng của tâm bào được gọi là quyết âm du.

Đặc tính : Huyệt du để chữa các chứng âm dương quá vượng của tạng phủ. Châm vào du huyệt có tác dụng rất lớn đến những hoạt động của tạng – phủ tương ứng. Ngoài ra, có thể dựa vào phản ứng không bình thường của huyệt du đế chẩn đoán bệnh của tạng phủ.

Huyệt mộ

Nơi khí của tạng phủ hội tụ lại trên vùng bụng, ngực. những huyệt mộ nằm trên đường kinh đi qua ngực bụng. Khi tạng phủ có bệnh thì vùng huyệt mộ tương ứng thường xuất hiện những phản ứng không bình thường.

Đặc tính : Các huyệt mộ để điều chỉnh hoạt động quá hưng phấn hoặc quá ức chế của tạng phủ. Qua những phản ứng bất thường của huyệt mộ có thể chẩn đoán được bệnh ở tạng phủ tương ứng.

Huyệt khích

Nơi kinh khí tụ lại, nằm sâu trong khe gân xương. Mỗi kinh chính có một huyệt khích, ngoài ra các mạch âm duy, dương duy, âm kiểu, dương kiểu cũng có một huyệt khích. Tổng cộng có 16 huyệt khích.

Đặc tính : Huyệt khích dùng để điều trị với hiệu quả cao những chứng bệnh cấp tính của các kinh hoặc các tạng phủ của kính đó. Khi tạng – phủ thuộc đường kinh mang tên tạng phủ có bệnh thì những thay đổi cảm giác (đau, trướng…) được biểu hiện ở huyệt khích nên cũng có thể dùng nó để chẩn đoán những bệnh cấp tính.

Huyệt ngũ du (bản du)

Là 5 loại huyệt phân bố từ đầu mút các chi tới khuỷu tay và đầu gối, đại diện sự vận hành kinh khí của từng kinh chính. Huyệt ngủ du được phân bố theo thứ tự : Tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp.

Kinh khí vận hành trong kinh lạc được ví như dòng nước chảy mạnh, yếu, lớn, nhỏ, nông, sâu ở từng chỗ khác nhau.

Huyệt tỉnh : Nơi mạch khí khởi đầu giống như nước đầu nguồn bắt đầu chảy ra mạch khí nông, nhỏ.

Huyệt huỳnh : Mạch khí chảy qua giống như nước đã thành dòng, mạch khí hơi lớn.

Huyệt du : Mạch khí dồn lại giống như nước chảy liên tục, mạch khí to và sâu hơn.

Huyệt kinh : Mạch khí chảy giống như dòng nước xiết, mạch khí sâu.

Huyệt hợp :Mạch khí tụ lại hợp thành dòng vừa to, vừa sâu, như cả dòng suối hợp lại thành sông.

Đặc tính : Dùng để trị bệnh thuộc đường kinh của huyệt với hiệu quả cao. Mồi loại huyệt tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp có tác dụng chữa bệnh riêng.

Nội kinh viết : “tỉnh chu tâm dưới đầy; huỳnh chủ thân nhiệt; du chủ thân thể nặng nề, khớp đau; kinh chủ hen suyễn, hàn nhiệt; hợp chủ khí nghịch, ỉa đái nhiều…” Huyệt ngũ du được phân loại theo học thuyết ngũ hành. Vì vậy ta có thể vận dụng qui luật tương sinh, tương khắc của học thuyết này để mở rộng khả năng chữa bệnh của huyệt.

Tám huyệt hội

Tám huyệt này nằm trên các kinh chính và mạch nhâm, mỗi huyệt là nơi tụ hội một chức năng chính của 8 tổ chức : Tạng, phủ, khí, huyết, xương, tuỷ, gân, mạch.

Đặc tính : Dùng để chữa bệnh thuộc 8 tổ chức trên cơ thể với hiệu quả cao.

Huyệt giao hội của 8 mạch

Là những huyệt ở nơi giao nhau của 8 mạch khác với 12 kinh chính. những huyệt này đều nằm ở tứ chi.

Đặc tính : Dùng để trị bệnh thuộc cả 12 kinh chính và 8 mạch.

Huyệt giao hội

Những huyệt ở nơi giao nhau của hai đường kinh trở lên.

Đặc tính : Có thể dùng để chữa bệnh của kinh có liên quan đến huyệt. Một huyệt có thể có tác dụng đến nhiều kinh.

kinh mạch Du Mộ Khích lạc
Phế 1 Phế du VI-13 Trung phủ 1-1 Khổng tối I-6 Liệt khuyết I-7
Đại trường II Đại trường du Vll-25 Thiên khu 11-25 Ôn lưu II-7 Thiên lịch II-6
Vị III VỊ du VII-21 Trung quản XIV-12 Lương khẩu m-34 Phong long III-40
IV Tý đu VII-20 Chương môn XII-13 Địa cơ IV-e Công tôn IV-4
Tâm V Tâm du VII-15 Cự khuyết XIV-14 Âm khích v-6 Thông lý V-5
Tiểu trưởng VI Tiểu trưởng du VH-27 Quan nguyên XIV-4 Dưỡng lão VI-6 Chi chinh VI-7
Bàng quang VII Bàng quang du VII-28 Trung cực XIV-3 Kim môn VII-63 Phi dương VII-58
Thận VIII Thận du VII-23 Kinh môn XI-25 Thủy tuyền VIII-5 Đại chung VII-4
Tâm bào IX Quyết ám du Vll-14 Đản trung XIV-17 Khích mốn IX-4 Nội quan IX-6
Tam tiẻu X Tam tiêu du Vll-22 Thạch môn XlV-5 Hòi tông X-7 Ngoại quan X-5
Đởm XI Đỏm du VII-19 Nhật nguyệt XI-24 Ngoại kháu XI-36 Quang minh XI-37
Can XII Can du VII-18 Kỹ môn Xll-14 Trung đô Xll-6 Lãi câu XII-5
Đổc XIII           Trường cường XIII-1
Nhàm XIV           Cưu vĩ XIV-15
Dương kiểu         Phụ dương VII-59  
Âm kiểu         Giao tin VIll-8  
Dương duy         Dương giao XI-35  
Âm duy         Trúc tàn VII-9  

BẢNG HUYỆT GIAO HỘI TÁM MẠCH

Kinh

IV

Tàm bào IX Tiểu trưởng VI Bàng quang VII Đỏm

XI

Tamtièu

X

Phế

I

Thận

VIII

Huyệt Còng tòn Nội quan Hậu khê Ttiânmach Lâm khấp Ngoại quan Liệt khuyết Chiếu hàí
giao hội IV-4 IX-6 VI-3 VII-62 XI-41 X-5 I-7 VIII-6
Mạch Xung Àm duy Đốc Dưong kiểu Đới Ouong duy Nhăm Âm kiểu
  XV XX XIII XVII XVI XIX XIV XVIII

BẢNG TÁM HUYỆT HỘI

Tám loại hội Phủ Tang Khí Huyết Cốt Tủy Cân Mạch
Tên

huyệt

Trung quản XIV-12 Chương

môn

XII-13

Đản

trung

X1V-17

Cách du VII-17 Đai trử

vin 1

Huyễn chung XI-39 Dương lãng tuyén XI 34 Thái

yyên

í-9

Kinh

Huyệt

Thù

Thái

Túc

âm

Thù / Túc Thiếư âm Thủ / Túc Quyết âm
  Phé Ty Tâm Thận Tâm bào Can
Tỉnh Thiếu Ấn bạch Thiếu xung Dũng tuyền Trung xung Đạl đỏn
(kim) thương

1-11

IV-1 V-9 Vlll-1 XI-9 XII-1
Huỳnh Ngư tế Đại đô Thiếu phủ Nhiên cổc Lao cung Hành gian
(hoả) 1-1 ữ IV-2 V-8 VllI-2 IX-8 XII-2
Du, Nguyên Thái uyên Thái bạch Thần môn Thái khê Đại lăng Thái xung
(lhfi) 1-9 IV-3 V-7 VIII-3 IX-7 XII-3
Kinh Kinh cử Thương Linh đạo Phục lưu Giàn sử Trung
(kim) 1-8 khâu

IV-5

V4 VIII-7 IX-5 phong

XII-4

Hợp Xích trạch Âm lăng thiếu hải Âm cốc Khúc trạch Khúc tuyến
(thủy) 1-5 tuyền

IV-9

V-3 VIII-10 IX-3 XII-8

BẢNG HUYỆT NGU DU 6 KINH DƯƠNG

\ Kinh Huyệt\ Thủ / Túc Thái dương Thủ / Túc Thái dương Thủ / Túc Thiếu dương
\ Đại trường Vị Tiểu trường Bàng quang Tam tiẽu Đỏm
Tình Thương Lệ đòai III- Thiếu trạch Chí âm VII- Quan xung Khiếu âm
(kim) dương II-1 45 VM 67 X-1 XI-44
Huỳnh Nhị gian Nội đình Tiền cốc VI- Thông cốc Dịch môn Hiệp khè
(thủy) II 2 III-44 2 VII-66 X-2 Xt-43
Du Tâm gian Hãm cốc Háu khê VI- Thức cốt Trung chữ Túc làm kháp
(mộc) II-3 III-43 3 VII-65 X-3 Xi-43
Nguyên Hợp cốc Xưng dương Uyển cốt VI- Kinh cốt Dương tri Khâu khư
  H-4 III 42 4 VII-64 X-4 XI-40
Kinh Dương khê Giải khê Dương cốc Côn lôn Chi câu Dương phụ
(hoà) II 5 III-41 VI 5 VII-60 X-6 XI-38
Hơp Khúc tri Túc tam tỳ Tiểu hài ủy trung Thiên tỉnh Dương
(thổ) II-11 III-36 VI-8 VII-40 x-to lăng tuyền XI-34

 

 

Uống nước giải khát có vô hại như bạn tưởng?

Hiện nay có nhiều người đã dần hiểu ra được là nước uống loại côla có ảnh hưởng không tốt đối với cơ thể cho nên chuyển sang uống nước giải khát có ga. Họ cho rằng trong nước giải khát có ga này không có caffeine, cho nên không có hại gì đối với sức khỏe.

Nước giải khát có gas
Nước giải khát có gas

Nước giải khát có ga không những được coi là đồ uống tinh khiết, giải được khát, tiêu được nhiệt, làm mát lạnh con người, mà còn thường được đưa lên các bàn tiệc rượu làm đồ uống thay rượu. Có một số bố mẹ khi thấy mình uống bia rượu thì cũng rót cho con trẻ uống nước giải khát có ga trong bữa ăn. Nếu uống quá nhiều loại nước giải khát có ga này, nhất lại là uống nhiều nước giải khát có ga trước hoặc trong bữa ăn cũng rất có hại đối với sức khỏe.

Sau khi uống nước giải khát có ga, nhiệt độ lên cao, sẽ tỏa ra dioxide carbon, thông qua ợ hơi trong cổ họng mà thở ra, mang theo một phần nhiệt lượng trong cơ thể ra, do đó, gây tác dụng thoát nhiệt, hạ nhiệt độ cơ thể, làm cho con người có cảm giác mát mẻ dễ chịu. Uống nó vào trước khi ăn cơm lúc còn đói trong dạ dày đang có lượng dịch vị nhất định, dịch vị đó chủ yếu là do chlorydric acid, pepsin và chất dịch nhầy hợp thành. Chlorydric acid có tác dụng sát khuẩn và tiêu hóa tốt thức ăn. Tác dụng chủ yếu của pepsin là tiêu hóa chất protein trong thức ăn, nó chỉ có thể phát huy được tác dụng trong điều kiện có tính acid, nếu chlorydric acid trong dịch vị loãng quá thì chất pepsin sẽ không có cách gì phát huy tác dụng được tốt. Còn tác dụng của chất dịch nhày trong dạ dày là bảo vệ cho niêm mạc dạ dày. Trong khi đó, nếu lượng lớn nước giải khát có ga vào trong dạ dày thì sẽ làm loãng dịch vị, không những sẽ ảnh hưởng đến tác dụng tiêu hóa thức ăn của chlorydric acid và của chất pepsin trong dạ dày, mà còn sẽ ức chế sự tiết ra các chất nhày trong niêm mạc dạ dày, không lợi cho việc bảo vệ niêm mạc dạ dày. Đồng thời, bản thân dioxide carbon và citric acid trong nước giải khát có ga có tác dụng kích thích niêm mạc dạ dày, khi lượng lớn dioxide carbon được sản sinh ra trong dạ dày sẽ còn làm cho áp lực trong dạ dày và ruột đột nhiên tăng cao. Điều này đối với những người bị loét dạ dày và hành tá tràng sẽ có nguy cơ tạo nên thủng ở thành trước bầu tròn của dạ dày và hành tá tràng. Trong nước giải khát có ga còn có chứa thành phần đường, uống nhiều còn ảnh hưởng đến sự thèm ăn nữa.

Nước giải khát cocacola
Nước giải khát cocacola

Do đó có thể thấy uống nhiều nước giải khát có ga sẽ ảnh hưởng không tốt đến sự thèm ăn và đến công năng tiêu hóa của cơ thể, đồng thời tạo ra những kích thích đối với dạ dày và ruột, sẽ gây hại lớn cho dạ dày và ruột, ảnh hưởng không tốt đối với tiêu hóa. Những trường hợp như thế lại càng thể hiện rõ trên cơ thể trẻ nhỏ. Nếu uống rượu đồng thời với uống nước giải khát có ga hoặc hòa lẫn hai thứ vào nhau, hoặc nước giải khát có ga đổ lẫn vào với bia để uống thì lại càng bất lợi hơn nữa. Vì khí dioxide carbon trong nước giải khát có ga sẽ làm tăng thêm nhanh chóng độ nặng của chất rượu cồn có trong bia, rượu, gây hại thêm cho cơ thể. Còn thành phần chủ yếu trong nước giải khát có ga là nước, khí dioxide carbon, citric acid, đường, hoặc đường hóa học, tinh dầu thơm v.v…; ngoài lượng nhỏ đường ra, những thành phần khác đều không có giá trị dinh dưỡng gì đối với cơ thể cả. Cho nên, bất luận là trong bữa ăn hay lúc bình thường cũng đều không nên uống nhiều nước giải khát có ga, vì như vậy chỉ có hại chứ không có ích lợi gì đáng kể cho cơ thể

Nguyên nhân Bệnh Giun Móc và phòng chống dịch

TÁC NHÂN GÂY BỆNH VÀ CHẨN ĐOÁN BẰNG XÉT NGHIỆM

  1. Tác nhân gây bệnh:

Là giun móc ankylostoma-duodenalis và necator americanus, giống nhau về mặt hình thái và mặt sinh học. Cả hai đều là những giun tròn nhỏ, sống ở tá tràng. Chiều dài của giun cái là 1.0-1.8cm (ankylostoma duodenalis) và l,0-l,3cm (nécator americanus) giun đực nhỏ hơn.

Trứng theo phân ra ngoài, phát triển thành ấu trùng khi có nhiệt độ thích hợp, độ ẩm cao và không khí. Nhiệt độ thuận lợi là 15-35° (tối thiểu là 30-32°) ở điều kiện này, sau 24-36 giờ thì ấu trùng chín và rời khỏi vỏ bọc.

Ấu trùng theo phân ra ngoài, phát triển thành ấu trùng khi có nhiệt độ thích hợp, độ ẩm cao và không khí. Nhiệt độ thuận lợi là 15-35° (tối thiểu là 30-32°) ở điều kiện này, sau 24-36 giờ thì ấu trùng chín và rời khỏi vỏ bọc.

Ấu trùng (larve) sống ở trong đất bằng chất hữu cơ và lột xác hai lần trong vòng 5-10 ngày, từ ấu trùng có túi phình ở thực quản (larve rhabditoide).

Ấu trùng strongyloide nếu gặp điều kiện không thuận lợi ở môi trường bên ngoài, có thể có một vỏ bọc mỏng, sáng óng ánh (ấu trùng có kén).

Ấu trùng strongyloide là ấu trùng nhiễm (invasive State) nghĩa là có khả năng xâm nhập cơ thể người.

Trứng và ấu trùng giun móc chịu đựng rất kém những điều kiện bất lợi của môi trường bên ngoài. Những ấu trùng có kén có sức chịu đựng tốt hơn, và có thể sống trong đất từ 3 tuần đến vài tháng d nhiệt độ dưới 10° và trên 50° thì chúng không phát triển được.

Nước tiểu của người có tác dụng giết chết trứng và ấu trùng giun móc, ở các hố xí, đa số trứng giun móc đều chết nhanh chóng, tuy còn một số ấu trùng sông đến 14 tuần.

Trứng và ấu trùng giun móc chịu đựng kém tác dụng của các chất tẩy uế

  • Dung dịch clorua Na bão hoà giết chết chúng sau 15-20 phút, dung dịch clorua Na 5% sau 5-6 giờ.
  • Ấu trùng nhiễm chết trong dung dịch clorua thuỷ ngân 1% dung dịch íbcmalin, dung dịch phenol sau một vài giờ.

Bệnh sinh: ấu trùng nhiễm xâm nhập vào cơ thể người qua đường tiêu hoá cùng với rau quả bị ô nhiễm hoặc qua da hay niêm mạc, rồi theo dòng máu đến phổi. Chúng xâm chiếm phế nang, đi ngược phế quản tới miệng, rồi bị nuốt xuống ruột non; ở đây sau 1 đến 1,5 tháng, chúng sẽ phát triển đầy đủ về mặt sinh dục. Khi nuốt phải ấu trùng cùng với rau quả bẩn thì ấu trùng không nhất thiết phải di cư và đa số phát triển sinh dục một cách trực tiếp.

Giun móc đã phát triển bám vào niêm mạc ruột bằng những răng hình móc câu. Vì thế trên niêm mạc ruột sẽ xuất hiện những vết loét chẩy máu rất nhỏ. Số lượng vết loét ít hay nhiều tuỳ thuộc theo giun đổi chỗ bám và số giun. Âu trùng di cư, cũng như giun lớn sống bằng máu; các giun trưdng thành còn sống bằng chất chứa trong ruột non. Chấn thương do giun gây ra và các chất do giun tiết ra để làm cho máu chậm đông, đều làm cho người mất máu. Kết quả là cơ thể bị thiếu máu nhược sắc và thiếu protid. Tác dụng độc và dị ứng của những sản phẩm trao đổi của giun, sự nhiễm giun ở những vết loét, ảnh hưởng thần kinh phản xạ, sẽ dẫn đến những biến đổi lớn trong cơ thể.

Biểu hiện lâm sàng:

  • Ở thể nặng, bệnh giun móc làm cho người mất khả năng lao động, ảnh hưởng đến tâm trạng, làm chậm trễ phát triển trí thông minh của trẻ em.
  • Ở thể nhẹ, bệnh giun móc làm giảm rõ rệt khả năng lao động và làm phát sinh những bệnh khác.

Bệnh giun ankylostoma duodénalis nặng hơn bệnh Necator americanus.

  1. Chẩn đoán bằng xét nghiệm:

Chẩn đoán bệnh giun móc dựa vào khám lâm sàng và phát hiện trứng giun ở trong phân.

QUÁ TRÌNH TRUYỀN NHIỄM

  1. Nguồn truyền nhiễm:

Nguồn truyền nhiễm giun móc là người. Người mắc bệnh giun móc giải phóng ra cùng với phân rất nhiều trứng, trứng nở thành ấu trùng sau 24 giờ. ở trong đất, ấu trùng này phát triển thành “ấu trùng nhiễm” có khả năng xâm nhập vào cơ thể sau 5-10 ngày.

  1. Yếu tô truyền nhiễm:

Những yếu tố và sinh hoạt như sàn nhà bằng đất, đi chân đất, ăn rau quả không rửa sạch, dùng phân tươi để bón cây đều có một vai trò lớn trong việc làm lây bệnh.

ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC

Bệnh giun móc phổ biến rộng rãi ở các nước nhiệt đới, và cận nhiệt đới. Bệnh phổ biến ở nông thôn, ở các nước có khí hậu ôn hoà và lạnh, thì bệnh có thể thấy ở các mỏ than, có nhiệt độ cao và độ ẩm cao tương đối ổn định. Ở châu Âu, cũng như ở các mỏ than, chủ yếu là bệnh giun ankylostoma duodenalis. Còn ở các nơi khác (châu Á, châu Phi, châu Mỹ) chủ yếu là bệnh giun Nécator améri- canus. Những ổ dịch phân bố ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới.

PHÒNG VÀ CHỐNG BỆNH GIUN MÓC

  1. Phòng bệnh:

Thực hiện các biện pháp vệ sinh nhằm bảo vệ đất không bị nhiễm phân, diệt trứng và ấu trùng ở môi trường bên ngoài.

Cần phải cải thiện tình trạng vệ sinh của nhân dân và ở các hầm mỏ bằng cách xây dựng các hố xí tốt. Tiêu diệt trứng và ấu trùng trong đất bằng cách xử lý những vùng xung quanh hố xí bằng dung dịch clorua vôi 20% trong hố xí bằng vôi cục (1 phần vôi và 2 phần phân theo thể tích) sẽ có vôi tôi 20%.

– Cấm dùng phân tươi để bón ruộng, đặc biệt trong mùa xuân và mùa hè. Nếu phát hiện có ấu trùng giun móc trong đất của hầm mỏ, thì phải xử lý bằng muối kết tinh (0,5-1kg muối cho 1m2 tuỳ theo nhiệt độ và độ ẩm, 5-10 ngày một lần). Đề phòng đưa bệnh giun móc vào hầm mỏ và để thanh toán bệnh giun móc ở hầm mỏ, phải khám tất cả những người mới vào làm và phải khám tất cả các công nhân ở hầm mỏ ở đó có nhiệt độ cao hơn 15°. Hàng năm phải khám cho công nhân một lần ở các hầm mỏ có nhiệt độ dưới 20°, và hai lần nếu nhiệt độ cao hơn 20°. Nếu phát hiện ra người bị nhiễm giun, thì phải tẩy giun, và đưa lên làm việc trên mặt đất cho tới khi khỏi hoàn toàn.

  1. Điều trị:

Bệnh giun ankylostoma duodenalis bằng dầu chenopot, bệnh giun nécator américanus bằng tetraclorua cacbon.

Nếu bị thiếu máu, thì ngoài việc điều trị đặc hiệu, còn dùng các chế phẩm có sắt và campolon.

Tầm quan trọng của việc bổ sung vitamin trước khi sinh trong thai kỳ

Vitamin trước khi sinh là gì?

Vitamin trước khi sinh là các loại thực phẩm bổ sung dành cho phụ nữ mang thai để cung cấp cho cơ thể các vitamin và khoáng chất cần thiết cho một thai kỳ khỏe mạnh. Bác sĩ có thể khuyên bạn nên bắt đầu dùng chúng khi bạn có kế hoạch mang thai và trong suốt thai kỳ.

Việc ăn uống lành mạnh luôn là một ý tưởng tốt, đặc biệt là trong thai kỳ. Tuy nhiên, cũng nên uống vitamin bổ sung để bù đắp cho những thiếu hụt dinh dưỡng có thể có trong chế độ ăn uống của bạn. Hãy trao đổi với bác sĩ trước khi dùng bất kỳ loại vitamin, thực phẩm bổ sung, hoặc thảo dược nào trong thời gian mang thai.

Các loại vitamin trước khi sinh tốt nhất

Vitamin trước khi sinh giúp đảm bảo bạn nhận được đủ các chất dinh dưỡng cần thiết cho một thai kỳ khỏe mạnh. Các loại vitamin trước khi sinh tốt nhất nên có:

  • Axit folic: 400 microgam (mcg)
  • Vitamin D: 600 đơn vị quốc tế (IU)
  • Canxi: 1.000 miligam (mg)
  • Vitamin C: 80 mg
  • Thiamine: 1,4 mg
  • Riboflavin: 1,4 mg
  • Niacin: 18 mg
  • Vitamin B12: 2,6 mcg
  • Vitamin B6: 1,9 mg
  • Vitamin E: 15 mg
  • Kẽm: 11 mg
  • Sắt: 27 mg
  • Vitamin A: 770 mcg

Khi chọn vitamin trước khi sinh, hãy đảm bảo chúng chưa hết hạn hoặc sắp hết hạn. Nếu bạn có dị ứng hoặc nhạy cảm với thực phẩm, hãy kiểm tra thành phần để đảm bảo chúng không có những thành phần gây dị ứng như ngô, trứng, hoặc lúa mì. Nếu bạn lo ngại về chất lượng của vitamin trước khi sinh, hãy hỏi bác sĩ xem có thương hiệu nào họ khuyến nghị không.

Trong một số trường hợp, bác sĩ sẽ kê đơn một loại vitamin trước khi sinh cụ thể hoặc khuyên bạn nên bổ sung thêm các loại thực phẩm bổ sung khác.

Lợi ích của vitamin trước khi sinh

Vitamin trước khi sinh, khác với các loại vitamin thông thường, cung cấp thêm dinh dưỡng để giúp bạn duy trì sức khỏe và đảm bảo sự phát triển của thai nhi. Một số vitamin và khoáng chất quan trọng nhất trong thai kỳ bao gồm axit folic, sắt, canxi và i-ốt.

Axit folic

Nếu bạn có khả năng mang thai, bạn nên uống axit folic. Axit folic có thể ngăn ngừa các dị tật bẩm sinh ảnh hưởng đến não và tủy sống của thai nhi. Các dị tật ống thần kinh phát triển từ rất sớm trong thai kỳ, trước khi nhiều người biết mình đang mang thai; một nửa số thai kỳ đều không có kế hoạch trước. Vì vậy, bác sĩ khuyến nghị tất cả phụ nữ có khả năng mang thai nên uống 400 mcg axit folic hàng ngày, bắt đầu từ trước khi thụ thai và tiếp tục trong 12 tuần đầu của thai kỳ.

Nếu bạn từng sinh con có dị tật ống thần kinh, hãy thảo luận với bác sĩ về việc dùng axit folic. Các nghiên cứu cho thấy việc uống liều cao hơn (lên đến 4.000 mcg) ít nhất 1 tháng trước và trong ba tháng đầu có thể giúp ích trong trường hợp này. Tuy nhiên, hãy trao đổi với bác sĩ để xác định liều lượng phù hợp.

Các thực phẩm giàu axit folic bao gồm:

  • Rau lá xanh
  • Các loại hạt
  • Đậu
  • Trái cây họ cam quýt
  • Nhiều thực phẩm được bổ sung axit folic

Dù bạn có thể nhận axit folic từ thực phẩm, việc bổ sung thêm cũng là một ý tưởng tốt.

Canxi

Canxi cũng rất quan trọng trong thai kỳ. Nó có thể giúp ngăn ngừa việc mất mật độ xương của bạn khi thai nhi sử dụng canxi để phát triển xương.

I-ốt

I-ốt rất quan trọng cho chức năng tuyến giáp khỏe mạnh trong thai kỳ. Thiếu i-ốt có thể gây sảy thai hoặc thai chết lưu và có thể khiến bé:

  • Chậm phát triển thể chất
  • Bị khuyết tật trí tuệ nặng
  • Điếc

Sắt

Sắt giúp cơ thể bạn tạo ra thêm tế bào hồng cầu. Các tế bào này vận chuyển oxy đến thai nhi để hỗ trợ quá trình phát triển của bé.

Còn các chất dinh dưỡng khác thì sao?

Còn có các chất dinh dưỡng khác có thể cải thiện sức khỏe thai kỳ. Bác sĩ của bạn có thể giúp bạn quyết định xem bạn có cần bổ sung các loại dưỡng chất này không:

  • Omega-3: Các chất béo này, bao gồm DHA (axit docosahexaenoic) và EPA (axit eicosapentaenoic), có nguồn gốc từ thực phẩm như cá béo và các loại hạt. Hải sản ít thủy ngân — 8-12 ounces mỗi tuần — được khuyến nghị trong thai kỳ.
  • Choline: Choline rất cần thiết cho sự phát triển não bộ của thai nhi, nhưng không có mặt trong tất cả các loại vitamin trước khi sinh.
  • Protein: Bạn cần thêm protein trong thai kỳ vì bạn đang phát triển mô mới, nhau thai và một cuộc sống mới. Cần bổ sung thêm khoảng 10 gram mỗi ngày trong tam cá nguyệt thứ ba.

Khi nào nên bắt đầu uống vitamin trước khi sinh?

Thời điểm tốt nhất để bắt đầu uống vitamin trước khi sinh là trước khi thụ thai. Dù vitamin không giúp bạn dễ mang thai, chúng giúp cung cấp dinh dưỡng cần thiết để chuẩn bị cho thai kỳ.

Tác dụng phụ của vitamin trước khi sinh

Một số loại vitamin có thể gây buồn nôn. Nếu việc uống vitamin trở nên khó khăn, hãy thảo luận với bác sĩ về các loại khác, chẳng hạn như:

  • Viên nhai
  • Dạng lỏng

Sắt trong vitamin cũng có thể gây táo bón, bạn có thể:

  • Ăn chế độ giàu chất xơ
  • Uống nhiều nước
  • Tập thể dục nếu bác sĩ cho phép

Tổng kết

Vitamin trước khi sinh là một phần quan trọng trong thai kỳ khỏe mạnh. Chúng có thể được mua không kê đơn hoặc theo đơn từ bác sĩ.

Bệnh do Papillomavirus – Chẩn đoán và điều trị

Papilloma virus hay “Virus papilloma người” (Human Papilloma Virus, HPV) CÓ 50 typ, là các virus ADN thuộc họ papovavirus.

Các virus này xâm nhập vào tế bào biểu mô da và niêm mạc. Kém vệ sinh, ẩm ướt và kích thích tại chỗ là điều kiện tốt cho mắc bệnh.

Sùi mào gà

Tên khác: mào gà sinh dục, mào gà, mụn cóc sinh dục, sùi hoa liễu.

Căn nguyên: nhiễm papilloma­virus typ 16 (HPV 16); đôi khi còn do các typ 5, 6, 8, 11, 18. Các typ 16, 18, 31, 35 thường có vai trò trong ung thư cổ tử cung.

Triệu chứng: tổn thương ở xung quanh hậu môn, âm hộ hay viêm niêm mạc bao quy đầu; bề mặt sùi không đều (như mào gà). Nhiễm virus do tiếp xúc trực tiếp, thời kỳ ủ bệnh từ 1 đến 6 tháng. Do nguy cơ dẫn đến ung thư tổ tử cung cao, nên điều trị sớm phụ nữ bị mắc. Các tổn thương có thể ở nhiều nơi nếu bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch.

Thuốc diệt thể phân liệt trong máu

Là cơ sở của điều trị cơn sốt rét cấp và một vài thuốc cũng được dùng để dự phòng. Trong số này có các amino-4 quinolein (chloroquin và amodiaquin) và các arylamino-ălcol (mefloquin và quinin). Các thuốc này diệt các thể vô tính của ký sinh trùng trong máu nhưng không có tác dụng lên cac thế trong gan. không chữa được bệnh do Plasmodium vĩvax va p. ovale là các thể mà ký sinh trùng có thể nằm yên nhiều tháng, thậm chí nhiều năm.

Nhiều thuốc chống chất chuyển hoá cũng có tác dụng diệt thể phân liệt (nhất là pyrimethamln, các sulfamid và các sulfon); một vài thuốc kháng sinh cũng có tác dụng này (đặc biệt là các tetracyclln). Các thuốc này có tác dụng chậm hơn và ít có ý nghĩa nếu được chỉ sử dụng một mình.

Ngược lại, một số thuốc chống chất chuyển hoá kết hợp với nhau lại có tác dụng hiệp đồng: pyrimethamln kết hợp với một sulfamid (Fansidar®) hay với một sulfon cổ tác dụng diệt thể phân liặt mạnh.

Người ta chủ yếu dùng các tetracyclln để bổ trợ cho qulnin trong trường hợp p. falciparum kháng lại nhiều thuốc.

Thuốc diệt thể phân liệt ở mô

Proguanll và chlorproguanil (một thuốc tương tự, có thời gian bán huỷ dài hơn nhiều) là những tiền châĩ, khi vào gan biên đổi thành cycloguanil là một chất có hoạt tính. Các thuốc này được coi là có tác dụng phòng ngừa từ căn nguyên vì có tác dụng lên các thể trong gan trước khi vào hổng cầu của ký sinh trung, nhẩt là các thể của p. falciparum. Hiện nay, người ta đăng nghiên cứu liều dung của 2 thuốc này va đang tìm cách xác định sự nhậy cảm (ít nhât là tạm thời) cua các thể non trong gan của p.vivax và của p. malariae với thuốc. Các thể nằm yên của p. ovale và p. vivax trong gan không nhậy cảm với các thuốc này.

Trái VỚI proguanil, prlmaquin có tác dụng loại trừ các thể nằm yên của p. ovale và của p. vivax vẫn còn trong gan. Sau khi đa được điều trị bang chloroquin. Tuy vậy, do độc tính của thuốc và nhất là do nguy cơ gay tan huyết ố người bị thiếu glucose-6-phosphat dehydrogenase nên prlmaquln không được dùng để phòng bệnh.

Các tetracyclin có tác dụng lẽn các thể ngoại tế bào và trong tế bào của p. falciparum. Tác dụng này ít có ứng dụng lâm sàng do độc tính nội tại của thuốc, nhất la đối với thai và trẻ nhỏ và vì thuốc diệt vi khuẩn chí bình thường ở ruột. Tuy vậy, người ta đã dùng doxycyclin để phòng bệnh ngắn hạn cho người lớn (trừ phụ nữ có marig) phải đen vung có sốt rét kháng nhiều thuốc.

Điều trị cơn sốt rét
Tất cả các thể, trừ thể do p. falciparum kháng ohloroquin Chloroquin, liều ban đầu 600 mg (base), 6 giờ sau dùng 300 mg, 300 mg/ngày trong 2 ngày sau (1,5 g trong 3 ngày

Để phòng tái phát do p.vivax hay do p. ovale, sau trị liệu này cần điều trị triệt để.

Thể do p. falciparum kháng chloroquin Quinln 600 g (base) 8 giờ một lần, trong 3 ngày. Ngày thứ 4 uống một liều suy nhất sultădoxin (500 mg) + pyrimethamin(25mg); hoặc Medoquin 2 viên 250 mg, 8 giờ một lần; ngày 3 lần (tất ca là 6 viên hay 1,5 g); nếu cân nặng dưới 60 kg uống 2 viên+2 viên+1 viên cách nhau 8 giở (tất cả là 5 viên hay 1, 25 g).

Không cần thiết phải điều trị triệt để.

Thể ác tính Nếu bệnh nhân không nuốt được, truyền quinin vào tĩnh mạch 10/kg (base) trong 4 giờ. Cứ 8-12 giờ một lần. Pha thuốc trong dung dịch glucose. Cho tre nhỏ: 25 mg/kg trong 24 giờ; nếu suy thận, giảm 30- 50% liều.

Thời gian Q -T trên điện tâm đồ kéo dài cho biết là quá liều.

Bù nước, điều chỉnh rối loạn điện giải; truyền tĩnh mạch dexamethason 10-20 mcỊ/24 giờ nếu bị sốc và /hoặc có phù não. Thẩm phân thận nếu thieú niêu. Không dùng quinln trorg sốt nôn ra mặt, đái ra hemoglobin.

Phòng bị nhiễm: trước kia, người ta cho rằng phòng sốt rét bằng thuốc là biện pháp có ích và không có tác dụng phụ nghiêm trọng. Dịch tễ học hiện nay và việc thiếu các thuốc phòng bệnh hoàn toàn chắc chắn và có hiệu quả đã cho thấy tầm quan trọng của việc phòng bị nhiễm:

Từ lúc hoàng hôn cho đến bình minh: phải mặc quần áo dài, bôi trẽn các phần da hỏ thuốc bôi có permethrin. Không nên đi chơi sau khi măt tròi lăn.

Ban đêm, đóng các cửa và cửa chớp nếu không có lưới che; phun thuốc diệt sâu bọ trong buồng ngủ; ngủ trong màn lành lăn và dắt kỹ; phải tẩm màn với thuốc là dẫn xuất của pỷythre (permethrin).

Chống các vectơ truyền bệnh tại các vùng có bệnh lưu hành: diệt các ổ bọ gậy, muỗi anopheles trưởng thành bằng thuốc diệt cỏn trùng và loại bỏ các ổ nước đọng.

Phòng bằng thuốc: uống thuốc phòng 1 tuần trước khi tới vùng có sốt rét, uống trong thời gian ở đó và sau khi đã rời khỏi vùng có sốt rét phải uống tiếp 4 tuần nữa.

Điều trị cấp cứu: trong trường hợp không có thầy thuốc trong vòng 24 giờ, nếu thấy có rét run, sốt, kèm theo nhức đầu, đau cơ, đau khớp, cần phải uống các “thuốc dự phòng” mang theo. Sau đó phải tớĩ bác sĩ để đảm bảo là đã qua cơn và không có bệnh khác tiềm ẩn. Những ai hay phải đến các vùng có sốt rét cần mang theo “thuốc dự phòng”.

Bệnh do Papillomavirus

 

2 viên 250 mg 8 giờ một lần, uống 3 lần (tổng cộng 6 viên hay 1,5 g)

600 mg (base) sau đó 6 giờ uống 300 mg; 2 ngày  tiếp theo uống 300 mg/ngày (tổng cộng 1,5 g)

Các vùng sốt rét lây truyền yếu- phòng bệnh bằng cách uống thuốc không cần thiết cho người đến

các vùng ít sốt rét và các trung tâm chẩn đoán và điều trị dễ tiếp cận. Nên mang theo“Túi thuốc dự phòng” .

Vùng p. falciparum còn nhậy cảm với thuốc- nên dự phòng bằng chloroquin (300 mg/tuần) ở những vùng p. falciparum còn nhậy cảm với thuốc và ở các vùng chỉ có p.vlvax và/ hay p. malariae.

Vùng còn nhiều nguy cơ bị nhiễm p. falciparum nên phòng bằng chloroquln 300 mg/ tuần hoặc kết hợp chloroquin 300 mg/tuần + proguanil 200 mg/ngày và một “thuốc dự phòng” ở vùng có nhiều nguy cơ bị nhiễm p. falciparum. Dự phòng bằng thuốc có thể không có tác dụng ở một số vùng thuộc Đông Phi và Trung Phi. Nếu có thể bảo vệ được cơ thể không bị muỗi đốt thì không cần phải uống thuốc dự phòng nhưng nên mang theo “thuốc dự phòng” thích hợp.

Vùng có nguy cơ cao bị nhiễm p.falciparum kháng nhiều thuốc rất khó cho lời khuyên nên uống thuốc gi cho những người tới các vùng này, hơn nữa chưa biết rõ về tác dụng phòng bệnh của thuốc. Nếu có thể bảo vệ được cơ thể không bị muỗi đốt thì không cần phải uống thuốc dự phòng nhưng nên mang theo “thuốc dự phòng” thích hợp.

Xét nghiệm cận lâm sàng: tìm papillomavirus: có các “tế bào lõm” điển hình trên tiêu bản phiến đồ âm đạo được nhuộm Papanicolaou, các phương pháp miễn dịch – hoá học mô, PCR cho phép phát hiện hệ gen của virus trong tế bào.

Điều trị: podophyllotoxin (xem thuốc này) hay bôi fluoruracyl tại chỗ. Đốt lạnh bằng nitơ lỏng, đốt điện hay cắt lọc bằng phẫu thuật. Interferon đang được thử nghiệm. Theo dõi bệnh nhân được điều trị và các người có quan hệ tình dục với bệnh nhân để tránh bệnh lan truyền.

Mụn cóc

Tên khác: loạn sản biểu mô dạng mụn cóc.

Căn nguyên: nhiễm papilloma virus (typ 1, 2, 4 hoặc 7)

Triệu chứng: mụn cóc thông thường là một u nhú và tăng sừng hoá có ranh giới rõ ràng, lớn bằng đầu ghim đến bằng hạt đậu to, rắn, màu xám, bề mặt nhô, khu trú ở mu bàn tay hay gan bàn chân, đôi khi quanh móng (mụn cóc quanh móng). Có thể chỉ có một hay có nhiều mụn cóc (tự nhiễm); nói chung thoái lui sau vài tháng.

Điều trị: đốt lạnh, đốt điện, phẫu thuật bằng tia laser.

Nhức Đầu – Nguyên nhân và điều trị

Nhức đầu hay đau đầu là một triệu chứng gặp trong rất nhiều bệnh.

Chẩn đoán nguyên nhân thường khó khăn.

Tính chất của nhức đầu: cần hỏi nhức đầu từ bao giờ, nhức ở đâu, một bên hay hai bên, mức độ đau và nơi đau, giờ giấc bị đau, đau trong bao lâu và tần số cơn nhức đầu, các yếu tố gây nhức đầu và có tiền triệu gì không. Cần chú ý đặc biệt đến nhức đầu mới xuất hiện hay đột ngột.

  • Cơn đau cấp duy nhất: nhức đầu hai bên, có buồn ngủ và cứng gáy có thể là do viêm màng não, viêm não hay xuất huyết dưới khoang nhện (trường hợp này có nhức đầu đột ngột).
  • Nếu nguyên nhân gây nhức đầu không rõ thì cần phải khám thần kinh và soi đáy mắt, nếu cần thì đo trường nhìn hay khám tai mũi họng (tìm ở ổ xoang). Nếu nghĩ đến nguyên nhân trong sọ hay trong trường hợp bị nhức đầu đột ngột mà không có sung huyết gai thị thì cần chọc dò tủy sống.
  • Xét nghiệm thường quy: nước tiểu, máu (kể cả đo tốc độ máu lắng). Ngoài ra, nếu nghi ngờ có tổn thương rộng trong não thì chụp X quang, chụp cắt lớp sọ, ghi điện não.

Căn nguyên

DO MẠCH MÁU

  • Đau nửa đầu:thường gặp ở phụ nữ, đau một bên, thành cơn dài từ 2 đến, 6 giờ; có các tiền triệu báo trước và có triệu chứng khác đi kèm (buồn nôn, nôn, sợ ánh sáng); thể trạng vẫn bình thường giữa các cơn; chẩn đoán xác định bằng điều trị thử với ergotamin. Chi tiết -> xem đau nửa đầu.
  • Đau nửa mặt do mạch:có các cơn đau bao giờ cũng ở một nửa đầu, nhất là vào ban đêm, kéo dài 1-2 giò; mạch ở vùng đau bị giãn, chảy nước mũi, nước mắt,
  • Viêm động mạch thái dương của Horton:xuất hiện lúc ngoài 50 tuổi, đau vùng thái dương hay vùng trước hốc mắt, có sưng đau động mạch thái dương; giảm thị lực. Tốc độ máu lắng tăng; sinh thiết thấy viêm động mạch có tế bào khổng lồ. Các corticoid có tác dụng nhanh.
  • Nhức đầu do vận mạch:thể này thuộc về nhức đầu trong các bệnh nhiễm khuẩn, sốt, thiếu oxy, đói, ngộ độc rượu cấp và các tình trạng ngộ độc khác (urê huyết cao, nhiễm độc co, chì, arsen, nghiện thuốc lá).
  • Huyết áp cao:hay gặp nhức đầu ở người bị huyết áp cao nặng: theo mạch đập, vào buổi sáng sớm, thường mất đi vào ban ngày; có thể thấy tổn thương ở đáy mắt. Nhức đầu có thể kèm theo các cơn cao huyết áp kịch phát.
  • Nhiễm độc:rượu, urê huyết cao, nhiễm độc chì, arsen, oxyd carbon.

DO NGUYÊN NHÂN TRONG SỌ

  • U não:lúc đầu là không thường xuyên, rồi thành thường xuyên, thường nhức cả hai bên, bại từ từ một bên; có các triệu chứng tăng áp lực nội sọ (rối loạn thị giác, sung huyết gai thị, nôn); nhức đầu xuất hiện hay mất đi khi thay đổi tư thế của đầu; nếu nhức một bên thì tổn thương thường ở bên bị nhức.
  • Apxe não:cũng giống như trên; có tiền sử viêm tai, viêm xoang, giãn phế quản.
  • Xuất huyết dưới khoang nhện:nhức đầu dữ dội, khởi phát đột ngột, sụp mi, bệnh nhân ngủ gà hay bị hôn mê.
  • Máu tụ dưới màng cứng:có tiền sử chấn thương sọ não, tri giác bị rối loạn nhiều hay ít, sung huyết gai thị, hai đồng tử mở không đều nhau.
  • Viêm màng não cấp tính:nhức đầu nhiều, có cứng gáy và có dấu hiệu Kernig. Chẩn đoán bằng chọc dò dịch não tuỷ.
  • Viêm màng não mạn tính:giang mai, lao, bệnh do cryptococcus, bệnh sarcoid, ung thư. Nhức đầu âm ỉ.
  • Dị dạng động, tĩnh mạch não.
  • Tách động mạch trước não và tách động mạch cảnh.

DO SỌ (xương sọ bị biến đổi):

  • Bệnh Paget:đầu to dần, sọ đau khi bị ấn, chẩn đoán bằng điện quang sọ.
  • U xương di căn: có khối u ở da đầu, tổn thương các dây thần kinh sọ, hiếm gặp.
  • Tổn thương dây thần kinh cảm giác:đau theo đường đi của dây thần kinh, ấn lên dây thần kinh thấy đau; tăng cảm giác đau ở vùng da do dây thần kinh chi phối; có thể tiến triển tới zona (có các mụn nước).
  • Đau dây thần kinh sinh ba, đau dây thần kinh lưỡi-hầu:nhức đầu thành từng cơn.

DO NGUYÊN NHÂN NGOÀI SỌ

  • Mắt:thiên đầu thống (glôcôm), rối loạn khúc xạ (cận thị, loạn thị), viêm mông mắt; nhức đầu ở vùng trán, nhức đầu tăng lên khi cố nhìn; nhãn cầu bị đau khi sờ, khám mắt để chẩn đoán.
  • Tai:viêm tai giữa, viêm xương chũm; cảm giác đầy tai, điếc, ù tai, thường nhức một bên thái dương thành cơn; ấn vào xương chũm gây đau. Chẩn đoán bằng khám tai hoặc chụp X quang nếu viêm xương chũm.
  • Viêm xoang trán, xoang mũi hay xoang sàng:trong trường hợp bị viêm xoang mạn tính, nhức đầu chủ yếu vào sáng sớm, lạnh làm nhức đầu tăng; có tiền sử bị viêm nhiễm nhiều lần đường hô hấp, mũi chảy mủ. Nhức đầu có thể đi kèm với viêm xoang cấp. Chẩn đoán bằng thăm khám tai mũi họng, chụp xoang, rọi xoang.
  • Tổn thương ở miệng: bệnh răng, ít khi do bệnh lưỡi hay họng.
  • Thoái hoá khớp cột sống cổ hay đốt sống lưng trên: nguyên nhân rất hay gặp ở người thuộc lứa tuổi 50 (xem thoái hoá đốt sống cổ).

DO CÁC NGUYÊN NHÂN KHÁC

  • Chấn thương sọ:hội chứng sau chấn thương thường có nhức đầu khu trú ở chỗ bị tổn thương hay nhức toàn bộ đầu; xúc cảm, stress và khi thay đổi tư thế đầu là tăng đau đầu. Nhức đầu sau chấn thương có thể là loạn tâm thần phản ứng. Khám lâm sàng và thần kinh thường thấy bình thường.
  • Nhức đầu sau chọc dò tủy sống:có thể phòng ngừa được bằng cách dùng kim càng mảnh càng tốt và để bệnh nhân nằm sấp 1-2 giờ sau khi chọc dò; và bắt bệnh nhân nằm tại giường trong 24 giờ nếu bị nhức đầu.
  • Thiếu máu:nhức đầu do thiếu oxy huyết gặp trong thiếu máu nặng; hết nhức đầu khi nồng độ hemoglobin trở về bình thường.
  • Thiếu oxy mạn tính:suy hô hấp mạn tính, lên cao.
  • Viêm các cơ cổ:chủ yếu nhức ở vùng chẩm. Có khi sờ thấy các hạch to và bị đau ở chỗ các cơ bám vào cổ.
  • Nhức đầu có nguyên nhân tại cổ:trong các bệnh về đĩa đệm hay tổn thương dây chằng ở một hay nhiều đốt trong 4 đốt cổ đầu tiên, có nhức đầu khu trú hay bắt đầu từ vùng gáy hoặc vùng chẩm.
  • Nhức đầu do căng thắng hay do nguyên nhân tâm lý:hay gặp nhức đầu trong lo âu, loạn tâm thần, đôi khi có kèm theo tim nhanh, tăng huyết áp tâm thu, rối loạn vận mạch ngoại vi. Những vấn đề gia đình và xã hội bị trầm trọng thêm do các vấn đề về nghề nghiệp là các cơ ở đầu căng (ít nhiều là có ý thức), các cơ ở cổ khó giãn và gây ra thể nhức đầu chẩm (nhức đầu do stress), rất hay gặp ở bệnh nhân ngoại trú. Nhức đầu chẩm xuất hiện lúc sáng, khi ngủ dậy và tăng lên vào CUỐI ngày. Nhức đầu lan mọi nơi và có thể kèm theo tiếng rít, ù tai, chóng mặt.
  • Nhức đầu lúc ngủ:thường làm bệnh nhân thức giấc vào một giờ nhất định, kéo dài 30-60 phút.
  • “Nhức đầu do thức ăn”:dùng để nói về nhức đầu liên quan đến một số thức ăn. Có thể xác định nhức đầu do dị ứng bằng cách kiêng thức ăn nghi ngờ, làm test bì và phát hiện các IgG đặc hiệu.
  • Tăng áp lực nội sọ lành tính:gặp ởphụ nữ trẻ, không có tổn thương nội sọ hay tắc nghẽn não thất hoặc dưới khoang nhện. Nhức đầu kèm theo rối loạn thị giác, phù gai thị; tiến triển thường lành tính. Điều trị: nên dùng

Điều trị nhức đầu

ĐIỀU TRỊ NHỨC NỬA ĐẦU: xem bệnh này.

ĐIỀU TRỊ CĂN NGUYÊN nếu xác định được nguyên nhân gây nhức đầu

BIỆN PHÁP CHUNG

  • Một số trường hợp nhức đầu sẽ giảm nếu được nghỉ ngơi về thể xác và về tinh thần.
  • Thuốc ngủ và an thần yếu: thường có kết quả đối với nhức đầu do tâm lý nhưng cần tránh dùng thuốc lâu dài.
  • Thuốc giảm đau: aspirin rất có tác dụng với nhức đầu có sốt. Aspirin và paracetamol có thể có kết quả với nhức đầu do tâm lý.
  • Có thể làm giảm nhức đầu nặng do tăng áp lực nội sọ bằng chọc dò tủy sống nhưng cần phải thận trọng.
  • Nhức đầu mạn tính hay nhức đầu tái phát: dùng thuốc chống trầm cảm loại ba vòng hay benzodiazepin. Không nên dùng thuốc giảm đau kéo dài.
  • Dùng các kỹ thuật thư giãn đối với nhức đầu do bị căng thẳng.
  • Liệu pháp vận động và châm cứu có thể làm giảm hội chứng đau, nhất là nhức đầu mạn tính do tăng trương lực cơ.

Hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS)

Hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS) là một bệnh đe dọa tính mạng có thể xảy ra khi phổi của bạn không hoạt động đúng cách. ARDS thường là một biến chứng của các tình trạng nghiêm trọng khác và được điều trị tại bệnh viện.

Ai có nguy cơ mắc hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS)?

Hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS) thường ảnh hưởng đến những người đã có sức khỏe yếu.

Nguyên nhân của ARDS có thể bao gồm:

  • Nhiễm trùng huyết (sepsis)
  • Nhiễm trùng như viêm phổi
  • Viêm tụy cấp
  • Hít phải thức ăn hoặc nôn mửa
  • Đuối nước
  • Hít phải khói
  • Chấn thương nặng
  • Truyền máu
  • Ghép phổi

Triệu chứng của hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS)

Triệu chứng của hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS) bao gồm:

  • Khó thở
  • Thở ngắn, nhanh

Hành động ngay lập tức cần thực hiện: bạn lên đến bệnh viện ngay khi có triệu chứng sau.

  • Khó thở nghiêm trọng, chẳng hạn như không thể nói thành câu, nghẹt thở hoặc thở hổn hển
  • Xuất hiện khó thở đột ngột kèm theo đau ở cánh tay, lưng, cổ hoặc hàm
  • Khó thở đột ngột kèm theo cảm giác ngực bị chèn ép hoặc nặng nề
  • Khó thở đột ngột và cảm thấy buồn nôn hoặc đang nôn
  • Khó thở đột ngột và ho ra máu
  • Khó thở đột ngột và có đau hoặc sưng ở một trong hai chân

Tìm phòng cấp cứu gần nhất

Thông tin: Không lái xe đến phòng cấp cứu. Hãy nhờ ai đó lái xe cho bạn hoặc gọi 999 và yêu cầu một chiếc xe cấp cứu.

Mang theo bất kỳ loại thuốc nào bạn đang sử dụng.

Điều trị hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS)

Hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS) được điều trị tại bệnh viện, thường là ở đơn vị chăm sóc tích cực (ICU).

Điều trị có thể bao gồm:

  • Oxy, mà bạn hít vào bằng cách sử dụng mặt nạ
  • Thông khí, nơi một máy móc được sử dụng để thở thay cho bạn
  • Thuốc, như kháng sinh để điều trị nhiễm trùng
  • Dung dịch truyền qua tĩnh mạch

ARDS là một tình trạng đe dọa tính mạng và không phải lúc nào cũng có thể chữa khỏi. Có khả năng người mắc bệnh có thể tử vong.

Biến chứng của hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS)

ARDS có thể có những ảnh hưởng lâu dài, chẳng hạn như:

  • Khó thở
  • Yếu cơ
  • Đau đớn