Blog Trang 542

Phác đồ điều trị Sốt xuất huyết Dengue mới nhất

Sốt xuất huyết Dengue là bệnh truyền nhiễm do vi rút Dengue gây nên. Vi rút Dengue có 4 týp thanh là DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-4. Vi rút truyền từ người bệnh sang người lành do muỗi đốt. Muỗi Aedes aegypti là côn trùng trung gian truyền bệnh chủ yếu.

Bệnh xảy ra quanh năm, thường gia tăng vào mùa mưa. Bệnh gặp ở cả trẻ em và người lớn. Đặc điểm của sốt xuất huyết Dengue là sốt, xuất huyết và thoát huyết tương, có thể dẫn đến sốc giảm thể tích tuần hoàn, rối loạn đông máu, suy tạng, nếu không được chẩn đoán sớm và xử trí kịp thời dễ dẫn đến tử vong.

DIỄN BIẾN LÂM SÀNG BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE

Bệnh sốt xuất huyết Dengue có biểu hiện lâm sàng đa dạng, diễn biến nhanh chóng từ nhẹ đến nặng. Bệnh thường khởi phát đột ngột và diễn biến qua ba giai đoạn: giai đoạn sốt, giai đoạn nguy hiểm và giai đoạn hồi phục. Phát hiện sớm bệnh và hiểu rõ những vấn đề lâm sàng trong từng giai đoạn của bệnh giúp chẩn đoán sớm, điều trị đúng và kịp thời, nhằm cứu sống người bệnh.

Giai đoạn sốt

1. Lâm sàng

– Sốt cao đột ngột, liên tục.

– Nhức đầu, chán ăn, buồn nôn.

– Da xung huyết.

– Đau cơ, đau khớp, nhức hai hố mắt.

– Nghiệm pháp dây thắt dương tính.

– Thường có chấm xuất huyết ở dưới da, chảy máu chân răng hoặc chảy máu cam.

Triệu chứng bệnh sốt xuất huyết
Triệu chứng bệnh sốt xuất huyết

2. Cận lâm sàng.

– Dung tích hồng cầu (Hematocrit) bình thường.

– Số lượng tiểu cầu bình thường hoặc giảm dần (nhưng còn trên 100.000/mm3).

– Số lượng bạch cầu thường giảm.

Giai đoạn nguy hiểm: Thường vào ngày thứ 3-7 của bệnh

1. Lâm sàng

a) Người bệnh có thể còn sốt hoặc đã giảm sốt.

b) Có thể có các biểu hiện sau:

– Biểu hiện thoát huyết tương do tăng tính thấm thành mạch (thường kéo dài 24-48 giờ):

+ Tràn dịch màng phổi, mô kẽ, màng bụng, nề mi mắt, gan to, có thể đau.

+ Nếu thoát huyết tương nhiều sẽ dẫn đến sốc với các biểu hiện vật vã, bứt rứt hoặc li bì, lạnh đầu chi, da lạnh ẩm, mạch nhanh nhỏ, huyết áp kẹt (hiệu số huyết áp tối đa và tối thiểu ≤ 20 mmHg), tụt huyết áp hoặc không đo được huyết áp, tiểu ít.

– Xuất huyết:

+ Xuất huyết dưới da: Nốt xuất huyết rải rác hoặc chấm xuất huyết thường ở mặt trước hai cẳng chân và mặt trong hai cánh tay, bụng, đùi, mạng sườn hoặc mảng bầm tím.

Hình ảnh xuất huyết dưới da trong bệnh sốt xuất huyết
Hình ảnh xuất huyết dưới da trong bệnh sốt xuất huyết

+ Xuất huyết ở niêm mạc: Chảy máu mũi, lợi, tiểu ra máu. Kinh nguyệt kéo dài hoặc xuất hiện kinh sớm hơn kỳ hạn.

+ Xuất huyết nội tạng như tiêu hóa, phổi, não là biểu hiện nặng.

c) Một số trường hợp nặng có thể có biểu hiện suy tạng như viêm gan nặng, viêm não, viêm cơ tim. Những biểu hiện nặng này có thể xảy ra ở một số người bệnh không có dấu hiệu thoát huyết tương rõ hoặc không sốc.

2. Cận lâm sàng

– Hematocrit tăng so với giá trị ban đầu của người bệnh hoặc so với giá trị trung bình của dân số ở cùng lứa tuổi.

– Số lượng tiểu cầu giảm dưới 100.000/mm3 (<100 G/L).

– Enzym AST, ALT thường tăng.

– Trong trường hợp nặng có thể có rối loạn đông máu.

– Siêu âm hoặc xquang có thể phát hiện tràn dịch màng bụng, màng phổi.

Giai đoạn hồi phục

1. Lâm sàng

Sau 24-48 giờ của giai đoạn nguy hiểm, có hiện tượng tái hấp thu dần dịch từ mô kẽ vào bên trong lòng mạch. Giai đoạn này kéo dài 48-72 giờ.

– Người bệnh hết sốt, toàn trạng tốt lên, thèm ăn, huyết động ổn định và tiểu nhiều.

– Có thể có nhịp tim chậm và thay đổi về điện tâm đồ.

– Trong giai đoạn này, nếu truyền dịch quá mức có thể gây ra phù phổi hoặc suy tim.

2. Cận lâm sàng

– Hematocrit trở về bình thường hoặc có thể thấp hơn do hiện tượng pha loãng máu khi dịch được tái hấp thu trở lại.

– Số lượng bạch cầu máu thường tăng lên sớm sau giai đoạn hạ sốt.

– Số lượng tiểu cầu dần trở về bình thường, muộn hơn so với số lượng bạch cầu.

CHẨN ĐOÁN

Bệnh sốt xuất huyết Dengue được chia làm 3 mức độ (Theo Tổ chức Y tế Thế giới năm 2009):

– Sốt xuất huyết Dengue.

– Sốt xuất huyết Dengue có dấu hiệu cảnh báo.

– Sốt xuất huyết Dengue nặng.

Phụ lục 2: Các mức độ sốt xuất huyết Dengue.

1. Sốt xuất huyết Dengue

a) Lâm sàng

Sốt cao đột ngột, liên tục từ 2-7 ngày và có ít nhất 2 trong các dấu hiệu sau:

– Biểu hiện xuất huyết có thể như nghiệm pháp dây thắt dương tính, chấm xuất huyết ở dưới da, chảy máu chân răng hoặc chảy máu cam.

– Nhức đầu, chán ăn, buồn nôn.

– Da xung huyết, phát ban.

– Đau cơ, đau khớp, nhức hai hố mắt.

b) Cận lâm sàng

– Hematocrit bình thường (không có biểu hiện cô đặc máu) hoặc tăng.

– Số lượng tiểu cầu bình thường hoặc hơi giảm.

– Số lượng bạch cầu thường giảm.

2. Sốt xuất huyết Dengue có dấu hiệu cảnh báo.

Bao gồm các triệu chứng lâm sàng của sốt xuất huyết Dengue, kèm theo các dấu hiệu cảnh báo sau:

– Vật vã, lừ đừ, li bì.

– Đau bụng vùng gan hoặc ấn đau vùng gan.

– Gan to > 2 cm.

– Nôn – nhiều.

– Xuất huyết niêm mạc.

– Tiểu ít.

– Xét nghiệm máu:

+ Hematocrit tăng cao.

+ Tiểu cầu giảm nhanh chóng.

Nếu người bệnh có những dấu hiệu cảnh báo trên phải theo dõi sát mạch, huyết áp, số lượng nước tiểu, làm xét nghiệm hematocrit, tiểu cầu và có chỉ định truyền dịch kịp thời.

3. Sốt xuất huyết Dengue nặng

Khi người bệnh có một trong các biểu hiện sau:

– Thoát huyết tương nặng dẫn đến sốc giảm thể tích (Sốc sốt xuất huyết Dengue), ứ dịch ở khoang màng phổi và ổ bụng nhiều.

– Xuất huyết nặng.

– Suy tạng.

a) Sốc sốt xuất huyết Dengue

– Suy tuần hoàn cấp, thưởng xảy ra vào ngày thứ 3-7 của bệnh, biểu hiện bởi các triệu chứng như vật vã; bứt rứt hoặc li bì; lạnh đầu chi, da lạnh ẩm; mạch nhanh nhỏ, huyết áp kẹt (hiệu số huyết áp tối đa và tối thiểu ≤ 20 mmHg) hoặc tụt huyết áp hoặc không đo được huyết áp; tiểu ít.

– Sốc sốt xuất huyết Dengue được chia ra 2 mức độ để điều trị bù dịch:

+ Sốc sốt xuất huyết Dengue: Có dấu hiệu suy tuần hoàn, mạch nhanh nhỏ, huyết áp kẹt hoặc tụt, kèm theo các triệu chứng như da lạnh, ẩm, bứt rứt hoặc vật vã li bì.

+ Sốc sốt xuất huyết Dengue nặng: Sốc nặng, mạch nhỏ khó bắt, huyết áp không đo được.

– Chú ý: Trong quá trình diễn biến, bệnh có thể chuyển từ mức độ nhẹ sang mức độ nặng, vì vậy khi thăm khám cần phân độ lâm sàng để tiên lượng bệnh và có kế hoạch xử trí thích hợp.

b) Xuất huyết nặng

– Chảy máu cam nặng (cần nhét gạc vách mũi), rong kinh nặng, xuất huyết trong cơ và phần mềm, xuất huyết đường tiêu hóa và nội tạng, thường kèm theo tình trạng sốc nặng, giảm tiểu cầu, thiếu oxy mô và toan chuyển hóa có thể dẫn đến suy đa phủ tạng và đông máu nội mạch nặng.

– Xuất huyết nặng cũng có thể xảy ra ở người bệnh dùng các thuốc kháng viêm như acetylsalicylic acid (aspirin), ibuprofen hoặc dùng corticoid, tiền sử loét dạ dày, tá tràng, viêm gan mạn.

c) Suy tạng nặng

– Suy gan cấp, men gan AST, ALT ≥ 1000 U/L.

– Suy thận cấp.

– Rối loạn tri giác (Sốt xuất huyết thể não).

– Viêm cơ tim, suy tim, hoặc suy chức năng các cơ quan khác.

Chẩn đoán căn nguyên vi rút Dengue

1. Xét nghiệm huyết thanh

– Xét nghiệm nhanh:

+ Tìm kháng nguyên NS1 trong 5 ngày đầu của bệnh.

+ Tìm kháng thể IgM từ ngày thứ 5 trở đi.

– Xét nghiệm ELISA:

+ Tìm kháng thể IgM: xét nghiệm từ ngày thứ năm của bệnh.

+ Tìm kháng thể IgG: lấy máu 2 lần cách nhau 1 tuần tìm động lực kháng thể (gấp 4 lần).

2. Xét nghiệm PCR, phân lập vi rút: Lấy máu trong giai đoạn sốt (thực hiện ở các cơ sở xét nghiệm có điều kiện).

Chẩn đoán phân biệt

– Sốt phát ban do virus

– Sốt mò.

– Sốt rét.

– Nhiễm khuẩn huyết do liên cầu lợn, não mô cầu, vi khuẩn gram âm, …

– Sốc nhiễm khuẩn.

– Các bệnh máu.

– Bệnh lý ổ bụng cấp, …

ĐIỀU TRỊ

Điều trị sốt xuất huyết Dengue

Phần lớn các trường hợp đều được điều trị ngoại trú và theo dõi tại y tế cơ sở, chủ yếu là điều trị triệu chứng và phải theo dõi chặt chẽ phát hiện sớm sốc xảy ra để xử trí kịp thời.

1. Điều trị triệu chứng

– Nếu sốt cao ≥ 390C, cho thuốc hạ nhiệt, nới lỏng quần áo và lau mát bằng nước ấm.

– Thuốc hạ nhiệt chỉ được dùng là paracetamol đơn chất, liều dùng từ 10 – 15 mg/kg cân nặng/lần, cách nhau mỗi 4-6 giờ.

– Chú ý:

+ Tổng liều paracetamol không quá 60mg/kg cân nặng/24h.

+ Không dùng aspirin (acetyl salicylic acid), analgin, ibuprofen để điều trị vì có thể gây xuất huyết, toan máu.

2. Bù dịch sớm bằng đường uống: Khuyến khích người bệnh uống nhiều nước oresol hoặc nước sôi để nguội, nước trái cây (nước dừa, cam, chanh, …) hoặc nước cháo loãng với muối.

Điều trị Sốt xuất huyết Dengue có dấu hiệu cảnh báo

Người bệnh được cho nhập viện điều trị.

– Chỉ định truyền dịch:

+ Nên xem xét truyền dịch nếu người bệnh không uống được, nôn nhiều, có dấu hiệu mất nước, lừ đừ, hematocrit tăng cao; mặc dù huyết áp vẫn ổn định.

+ Dịch truyền bao gồm: Ringer lactat, NaCl 0,9%.

Phụ lục 4: Sơ đồ truyền dịch trong sốt xuất huyết Dengue có dấu hiệu cảnh báo.

– Chú ý:

+ Ở người bệnh ≥ 15 tuổi có thể xem xét ngưng dịch truyền khi hết nôn, ăn uống được.

+ Sốt xuất huyết Dengue trên cơ địa đặc biệt như phụ nữ mang thai, trẻ nhũ nhi, người béo phì, người cao tuổi; có các bệnh lý kèm theo như đái tháo đường, viêm phổi, hen phế quản, bệnh tim, bệnh gan, bệnh thận, …; người sống một mình hoặc nhà ở xa cơ sở y tế nên xem xét cho nhập viện theo dõi điều trị.

Điều trị sốt xuất huyết Dengue nặng

Người bệnh phải được nhập viện điều trị cấp cứu

1. Điều trị sốc sốt xuất huyết Dengue

a) Sốc sốt xuất huyết Dengue:

– Cần chuẩn bị các dịch truyền sau

+ Ringer lactat.

+ Dung dịch mặn đẳng trương (NaCl 0,9%)

+ Dung dịch cao phân tử (dextran 40 hoặc 70, hydroxyethyl starch (HES)).

– Cách thức truyền

+ Phải thay thế nhanh chóng lượng huyết thanh mất đi bằng Ringer lactat hoặc dung dịch NaCl 0,9%, truyền tĩnh mạch nhanh với tốc độ 15-20 ml/kg cân nặng/giờ.

+ Đánh giá lại tình trạng người bệnh sau 1 giờ; truyền sau 2 giờ phải kiểm tra lại hematocrit:

(α) Nếu sau 1 giờ người bệnh ra khỏi tình trạng sốc, huyết áp hết kẹt, mạch quay rõ và trở về bình thường, chân tay ấm, nước tiểu nhiều hơn, thì giảm tốc độ truyền xuống 10 ml/kg cân nặng/giờ, truyền trong 1-2 giờ; sau đó giảm dần tốc độ truyền xuống 7,5ml/kg cân nặng/giờ, truyền 1-2 giờ; đến 5ml/kg cân nặng/giờ, truyền 4-5 giờ; và 3 ml/kg cân nặng/giờ, truyền 4-6 giờ tùy theo đáp ứng lâm sàng và hematocrit.

(β) Nếu sau 1 giờ truyền dịch mà tình trạng sốc không cải thiện (mạch nhanh, huyết áp hạ hay kẹt, tiểu vẫn ít) thì phải thay thế dịch truyền bằng dung dịch cao phân tử. Truyền với tốc độ 15-20 ml/kg cân nặng/giờ, truyền trong 1 giờ. Sau đó đánh giá lại:

  • Nếu sốc cải thiện, hematocrit giảm, thì giảm tốc độ truyền cao phân tử xuống 10 ml/kg cân nặng/giờ, truyền trong 1-2 giờ. Sau đó nếu sốc tiếp tục cải thiện và hematocrit giảm, thì giảm tốc độ truyền cao phân tử xuống 7,5 ml/kg cân nặng/giờ, rồi đến 5 ml/kg cân nặng/giờ, truyền trong 2-3 giờ.

Theo dõi tình trạng người bệnh, nếu ổn định thì chuyển truyền tĩnh mạch dung dịch điện giải (xem chi tiết trong phụ lục 2).

  • Nếu sốc vẫn chưa cải thiện, thì đo áp lực tĩnh mạch trung ương (CVP) để quyết định cách thức xử trí.

Nếu sốc vẫn chưa cải thiện mà hematocrit giảm xuống nhanh (mặc dù còn trên 35%) thì cần phải thăm khám để phát hiện xuất huyết nội tạng và xem xét chỉ định truyền máu. Tốc độ truyền máu 10 ml/kg cân nặng/1 giờ.

Chú ý: Tất cả sự thay đổi tốc độ truyền phải dựa vào mạch, huyết áp, lượng bài tiết nước tiểu, tình trạng tim phổi, hematocrit một hoặc hai giờ một lần và CVP.

Phụ lục 5: Sơ đồ truyền dịch trong sốc sốt xuất huyết Dengue ở trẻ em.

b) Sốc sốt xuất huyết Dengue nặng

Trường hợp người bệnh vào viện trong tình trạng sốc nặng (mạch quay không bắt được, huyết áp không đo được (HA=0)) thì phải xử trí rất khẩn trương.

– Để người bệnh nằm đầu thấp.

– Thở oxy.

– Truyền dịch:

+ Đối với người bệnh dưới 15 tuổi: Lúc đầu dùng bơm tiêm to bơm trực tiếp vào tĩnh mạch Ringer lactat hoặc dung dịch mặn đẳng trương với tốc độ 20 ml/kg cân nặng trong vòng 15 phút. Sau đó đánh giá lại người bệnh, có 3 khả năng xảy ra:

  • Nếu mạch rõ, huyết áp hết kẹt, cho dung dịch cao phân tử 10 ml/kg cân nặng/giờ và xử trí tiếp theo như sốt xuất huyết Dengue còn bù.
  • Nếu mạch nhanh, huyết áp còn kẹt hoặc huyết áp hạ: Truyền dung dịch cao phân tử 15-20 ml/kg cân nặng/giờ, sau đó xử trí theo điểm (β) ở trên.
  • Nếu mạch, huyết áp vẫn không đo được: Bơm tĩnh mạch trực tiếp dung dịch cao phân tử 20 ml/kg cân nặng/15 phút. Nên đo CVP để có phương hướng xử trí. Nếu đo được huyết áp và mạch rõ, thì truyền dung dịch cao phân tử 15-20 ml/kg cân nặng/giờ, sau đó xử trí theo điểm (β) ở trên.

Phụ lục 6: Sơ đồ truyền dịch sốc sốt xuất huyết Dengue nặng ở trẻ em.

+ Đối với người bệnh ≥ 15 tuổi: Truyền dịch theo Phụ lục 7.

* Những lưu ý khi truyền dịch

– Ngừng truyền dịch tĩnh mạch khi huyết áp và mạch trở về bình thường, tiểu nhiều. Nói chung không cần thiết bù dịch nữa sau khi hết sốc 24 giờ.

– Cần chú ý đến sự tái hấp thu huyết tương từ ngoài lòng mạch trở lại lòng mạch (biểu hiện bằng huyết áp, mạch bình thường và hematocrit giảm). Cần theo dõi triệu chứng phù phổi cấp nếu còn tiếp tục truyền dịch. Khi có hiện tượng bù dịch quá tải gây suy tim hoặc phù phổi cấp cần phải dùng thuốc lợi tiểu như furosemid 0,5-1 mg/kg cân nặng/1 lần dùng (tĩnh mạch). Trong trường hợp sau khi sốc hồi phục mà huyết áp kẹt nhưng chi ấm mạch chậm, rõ, tiểu nhiều thì không truyền dịch, nhưng vẫn lưu kim tĩnh mạch, theo dõi tại phòng cấp cứu.

– Đối với người bệnh đến trong tình trạng sốc, đã được chống sốc từ tuyến trước thì điều trị như một trường hợp không cải thiện (tái sốc). Cần lưu ý đến số lượng dịch đã được truyền từ tuyến trước để tính toán lượng dịch sắp đưa vào.

– Nếu người bệnh người lớn có biểu hiện tái sốc, chỉ dùng cao phân tử không quá 1.000 ml đối với Dextran 40 và không quá 500 ml đối với Dextran 70. Nếu diễn biến không thuận lợi, nên tiến hành:

+ Đo CVP để bù dịch theo CVP hoặc dùng vận mạch nếu CVP cao.

+ Theo dõi sát mạch, huyết áp, nhịp thở, da, niêm mạc, tìm xuất huyết nội để chỉ định truyền máu kịp thời.

+ Thận trọng khi tiến hành thủ thuật tại các vị trí khó cầm máu như tĩnh mạch cổ, tĩnh mạch dưới đòn.

– Nếu huyết áp kẹt, nhất là sau một thời gian đã trở lại bình thường cần phân biệt các nguyên nhân sau:

+ Hạ đường huyết

+ Tái sốc do không bù đắp đủ lượng dịch tiếp tục thoát mạch.

+ Xuất huyết nội.

+ Quá tải do truyền dịch hoặc do tái hấp thu.

– Khi điều trị sốc, cần phải chú ý đến điều chỉnh rối loạn điện giải và thăng bằng kiềm toan: Hạ natri máu thường xảy ra ở hầu hết các trường hợp sốc nặng kéo dài và đôi khi có toan chuyển hóa. Do đó cần phải xác định mức độ rối loạn điện giải và nếu có điều kiện thì đo các khí trong máu ở người bệnh sốc nặng và người bệnh sốc không đáp ứng nhanh chóng với điều trị.

2. Điều trị xuất huyết nặng

a) Truyền máu và các chế phẩm máu

– Khi người bệnh có sốc cần phải tiến hành xác định nhóm máu để truyền máu khi cần.

– Truyền khối hồng cầu hoặc máu toàn phần:

+ Sau khi đã bù đủ dịch nhưng sốc không cải thiện, hematocrit giảm xuống nhanh (mặc dù còn trên 35%).

+ Xuất huyết nặng

b) Truyền tiểu cầu

– Khi số lượng tiểu cầu xuống nhanh dưới 50.000/mm3 kèm theo xuất huyết nặng.

– Nếu số lượng tiểu cầu dưới 5.000/mm3 mặc dù chưa có xuất huyết có thể truyền tiểu cầu tùy từng trường hợp cụ thể.

c) Truyền plasma tươi, tủa lạnh: Xem xét truyền khi người bệnh có rối loạn đông máu dẫn đến xuất huyết nặng.

3. Điều trị suy tạng nặng

a) Tổn thương gan, suy gan cấp

– Hỗ trợ hô hấp: Thở oxy nếu thất bại thở NCPAP, xem xét đặt nội khí quản thở máy sớm nếu người bệnh có sốc kéo dài.

– Hỗ trợ tuần hoàn:

+ Nếu có sốc: chống sốc bằng NaCl 9% hoặc dung dịch cao phân tử, không dùng Lactat Ringer.

+ Nếu không sốc: bù dịch điện giải theo nhu cầu hoặc 2/3 nhu cầu khi người bệnh có rối loạn tri giác.

– Kiểm soát hạ đường huyết: Giữ đường huyết 80-120mg%, tiêm tĩnh mạch chậm 1-2ml/kg glucose 30% và duy trì glucose 10-12,5% khi truyền qua tĩnh mạch ngoại biên hoặc glucose 15-30% qua tĩnh mạch trung ương (lưu ý dung dịch có pha điện giải).

– Điều chỉnh điện giải:

+ Hạ natri máu:

Natri máu < 120 mmol/L kèm rối loạn tri giác: bù NaCl 3% 6-10 ml/kg truyền tĩnh mạch trong 1 giờ.

Natri máu từ 120-125 mmol/L không hoặc kèm rối loạn tri giác: bù NaCl 3%/6-10ml/kg truyền tĩnh mạch trong 2-3 giờ.

+ Hạ kali máu: bù đường tĩnh mạch qua dịch pha hoặc đường uống.

– Điều chỉnh rối loạn thăng bằng toan kiềm: Toan chuyển hóa: bù bicarbonate 1-2mEq/kg tiêm mạch chậm (TMC).

– Điều chỉnh rối loạn đông máu/xuất huyết tiêu hóa (XHTH):

+ Huyết tương tươi đông lạnh 10-5 ml/kg: XHTH + rối loạn đông máu.

+ Kết tủa lạnh 1 đv/6kg: XHTH + fibrinogen < 1g/L.

+ Tiểu cầu đậm đặc: XHTH + số lượng tiểu cầu < 50000/mm3.

+ Vitamin K1: 1mg/kg/ngày (tối đa 10mg) TMC x 3 ngày.

– Điều trị/phòng ngừa XHTH: Ranitidine 2mg/kg x 3 lần/ngày hoặc omeprazole 1 mg/kg x 1-2 lần/ngày.

– Rối loạn tri giác/co giật:

+ Chống phù não: mannitol 20% 2,5ml/kg/30 phút x 3-4 lần/ngày.

+ Chống co giật: diazepam 0,2-0,3 mg/kg TMC hoặc midazolam 0,1 – 0,2mg/kg TMC. Chống chỉ định: phenobarbital.

+ Giảm amoniac máu: Thụt tháo bằng nước muối sinh lý ấm, lactulose, metronidazol, neomycin (gavage).

– Kháng sinh toàn thân phổ rộng. Tránh dùng các kháng sinh chuyển hóa qua gan chẳng hạn như pefloxacine, ceftraxone.

– Không dùng paracetamol liều cao vì gây độc tính cho gan.

Lưu ý: điều trị hỗ trợ tổn thương gan cần lưu ý chống sốc tích cực nếu có, hô hấp hỗ trợ sớm nếu sốc không cải thiện, theo dõi điện giải đồ, đường huyết nhanh, khí máu động mạch, amoniac máu, lactat máu, đông máu toàn bộ mỗi 4-6 giờ để điều chỉnh kịp thời các bất thường nếu có.

b) Suy thận cấp: Điều trị bảo tồn và chạy thận nhân tạo khi có chỉ định và huyết động ổn định. Lọc máu liên tục nếu có biểu hiện suy đa tạng đi kèm hoặc suy thận cấp huyết động không ổn định. Chỉ định chạy thận nhân tạo trong sốt xuất huyết suy thận cấp.

– Rối loạn điện giải kiềm toan mà không đáp ứng điều trị nội khoa.

+ Tăng kali máu nặng > 7mEq/L.

+ Rối loạn Natri máu nặng đang tiến triển ([Na] > 160 hay < 115 mmol/L).

+ Toan hóa máu nặng không cải thiện với bù Bicarbonate (pH < 7,1).

– Hội chứng urê huyết cao: Rối loạn tri giác, nôn, xuất huyết tiêu hóa, Urê máu > 200 mg% và hoặc creatinine trẻ nhỏ > 1,5 mg% và trẻ lớn > 2mg%.

4. Quá tải dịch không đáp ứng điều trị nội khoa

– Suy tim ứ huyết, cao huyết áp.

– Phù phổi cấp.

– Chỉ định lọc máu liên tục trong sốt xuất huyết: Khi có hội chứng suy đa tạng kèm suy thận cấp hoặc suy thận cấp huyết động không ổn định.

5. Sốt xuất huyết Dengue thể não, rối loạn tri giác, co giật

– Hỗ trợ hô hấp: thở oxy, nếu thất bại CPAP áp lực thấp 4-6cmH2O, nếu thất bại thở máy.

– Bảo đảm tuần hoàn: Nếu có sốc thì điều trị theo phác đồ chống sốc và dựa vào CVP.

– Chống co giật.

– Chống phù não.

– Hạ sốt.

– Hỗ trợ gan nếu có tổn thương.

– Điều chỉnh rối loạn nước điện giải, kiềm toan.

– Bảo đảm chăm sóc và dinh dưỡng.

– Phục hồi chức năng sớm.

6. Viêm cơ tim, suy tim: vận mạch dopamine, dobutamine, đo CVP để đánh giá thể tích tuần hoàn.

Thở oxy: Tất cả các người bệnh có sốc cần thở oxy gọng kính.

Sử dụng các thuốc vận mạch.

– Khi sốt kéo dài, cần phải đo CVP để quyết định thái độ xử trí.

– Nếu đã truyền dịch đầy đủ mà huyết áp vẫn chưa lên và áp lực tĩnh mạch trung ương đã trên 10 cm nước thì truyền tĩnh mạch.

+ Dopamin, liều lượng 5-10 mcg/kg cân nặng/phút.

+ Nếu đã dùng dopamin liều 10 mcg/kg cân nặng/phút mà huyết áp vẫn chưa lên thì nên phối hợp dobutamin 5-10 mcg/kg cân nặng/phút.

Các biện pháp điều trị khác

– Khi có tràn dịch màng bụng, màng phổi gây khó thở, SpO2 giảm xuống dưới 92%, nên cho người bệnh thở NCPAP trước. Nếu không cải thiện mới xem xét chỉ định chọc hút để giảm bớt dịch màng bụng, màng phổi.

– Nuôi dưỡng người bệnh sốt xuất huyết Dengue theo Phụ lục 12.

Chăm sóc và theo dõi người bệnh sốc

– Giữ ấm.

– Khi đang có sốc cần theo dõi mạch, huyết áp, nhịp thở từ 15-30 phút 1 lần.

– Đo hematocrit cứ 1-2 giờ 1 lần, trong 6 giờ đầu của sốc. Sau đó 4 giờ 1 lần cho đến khi sốc ổn định.

– Ghi lượng nước xuất và nhập trong 24 giờ.

– Đo lượng nước tiểu.

– Theo dõi tình trạng thoát dịch vào màng bụng, màng phổi, màng tim.

Tiêu chuẩn cho người bệnh xuất viện

– Hết sốt 2 ngày, tỉnh táo.

– Mạch, huyết áp bình thường.

– Số lượng tiểu cầu > 50.000/mm3.

Phòng bệnh

– Thực hiện công tác giám sát, phòng chống sốt xuất huyết Dengue theo quy định của Bộ Y tế.

– Hiện chưa có vắc xin phòng bệnh.

– Biện pháp phòng bệnh chủ yếu là kiểm soát côn trùng trung gian truyền bệnh như tránh muỗi đốt, diệt bọ gậy (loăng quăng), diệt muỗi trưởng thành, vệ sinh môi trường loại bỏ ổ chứa nước đọng.

ALPHACHYMOTRYPSINE CHOAY

Chống phù nề kháng viêm dạng men.
Điều trị các trường hợp phù nề sau chấn thương hay sau phẫu thuật…

ALPHACHYMOTRYPSINE CHOAY

SANOFI SYNTHELABO VIETNAM

viên nén 21 mckatals : vỉ bấm 10 viên, hộp 2 vỉ.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên

Chymotrypsine tính theo mckatals                                                    21

CHỈ ĐỊNH

Chống phù nề kháng viêm dạng men.

Điều trị các trường hợp phù nề sau chấn thương hay sau phẫu thuật.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Dị ứng với thành phần của thuốc.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Trong một vài trường hợp, có thể có các biểu hiện dị ứng với thuốc, khi đó nên tránh hay ngưng sử dụng.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Đường uống : 2 viên/lần, 3 hoặc 4 lần trong ngày (uống).

Ngậm dưới lưỡi : 4 đến 6 viên chia đều ra trong ngày (để thuốc tan từ từ dưới lưỡi).

BẢO QUẢN

Tránh ánh sáng và ẩm ướt, giữ ở nhiệt độ không quá 25oC.

Tiểu tiện không lợi – Chẩn đoán bệnh Đông y

Khái niệm

Tiểu tiện không lợi chỉ một loại chứng trạng tiểu tiện lượng ít mà bài tiết khó khăn.

Chứng này ở Quyết luận sách Tố vấn gọi là “Kinh niệu bất lợi”, sách tiêu bản bệnh truyền luận gọi là “Tiểu tiện bế”, Thủy nhiệt huyệt luận gọi là “Quan môn bất lợi”, Kim quỹ yếu lược – Thủy khí bệnh mạch chứng tính trị gọi là “Tiểu tiện nan”, “Bất đắc giải”.

Chứng này dễ lẫn lộn với chứng tiểu tiện không thông, Chứng Tiểu tiện không thông chỉ nước tiểu ở trong Bàng quang chỉ bài tiết khó khăn gần với loại Long bế, còn chứng này thì tiểu tiện lượng ít hoặc vô niệu.

Chứng Tiểu tiện đau là chỉ quá trình bài tiết tiểu tiện niệu đạo bị đau buốt, khác với hai chứng nói trên, nhưng có một số bệnh nhân có thể đồnơ thời xuất hiện cả ba chứng này.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

  • Tiểu tiện không lợi do Phế khí không tuyên thông:

Có chứng tiểu tiện không lợi, mi mắt sưng phù sau đó chân tay rồi đến toàn thân phù thũng kiêm chứng tứ chi nặng mỏi, phát sốt sợ gió, khái thấu suyễn gấp, hoặc có chứng họng sưng đau, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch Phù Khẩn hoặc Phù Sác.

  • Tiểu tiện không lợi do Tỳ dương không mạnh: Có chứng tiểu tiện sẻn ít, thân thể phù thũng từ lưng trở xuống nặng hơn, tinh thần thể trạng mỏi mệt, sắc mặt vàng bủng, đầu nặng như bị bó, chân tay nặng nề, bụng trướng đầy, kém ăn đại tiện nhão, đầu ngón tay chân không ấm, lưỡi nhuận nhạt bệu, rêu lưỡi trắng trơn, mạch Trầm Trì vô lực.
  • Tiểu tiện không lợi do Thận dương hư suy: Có chứng tiểu tiện không lợi, thân thể phù thũng từ lưng trở xuống nặng hơn, sắc mặt trắng nhợt, khái suyễn đờm khò khè, hồi hộp hổn hển, cơ thể lạnh tay chân lạnh, lưng gối nặng mỏi lạnh đau, lưỡi nhạt bệu có vết răng, rêu lưỡi trắng trơn, xích mạch Trầm nhược.
  • Tiểu tiện không lợi do thấp nhiệt nghẽn ở trong: Có chứng tiểu tiện sẻn đỏ không lợi, Tâm phiền muốn nôn, miệng đắng dính nhớt, khát không muốn uống, chán ăn bụng đầy, đại tiện bí kết hoặc nhão nhiều bã, lưỡi đỏ rêu vàng nhớt, mạch Nhu Sác.
  • Tiểu tiện không lợi do khí trệ thấp ngăn cản: Có chứng tiểu tiện không lợi, đắng miệng khô họng, ngực sườn khó chịu, kém ăn , ợ hơi nuốt nước chua, sau khi ăn đầy bụng thậm chí bụng to nhưng ấn vào không rắn, lưỡi đỏ rêu vàng mỏng, mạch Huyền.Chứng Tiểu tiện không lợi do Phê khí không tuyên thông: Chứng này phần nhiều do phong hàn xâm nhập vào Phế, Phế khí không tuyên thông, không khả năng thông lợi thủy đạo dồn xuống Bàng quang mà gây bệnh. Thủy thấp tràn lan cơ phu, thủy thũng từ mặt, mắt rồi tới toàn thân là những đặc điểm của chứng này. Chứng này là Biểu thực kiêm các chứng trạng sợ lạnh phát nhiệt, khớp xương nhức mỏi, khái thấu suyễn gấp, yết hầu không lợi… điều trị nên tuyên Phế hành thủy, chọn dùng Việt Tỳ gia Truật thang.
  • Chứng Tiểu tiện không lợi do Tỳ dương không mạnh với chứng tiểu tiện không lợi do Thận dương hư suy:

Cả hai đều là hư chứng. Thủy thấp đọng ở trong đều từ lưng trở xuống nặng hơn; tiểu tiện không lợi do Tỳ dương không mạnh phần nhiều do hàn thấp xâm nhập hoặc do mệt nhọc nội thương, trung dương bị tổn hại gây nên, mất quyền vận hóa, thủy thấp không trôi chầy thì tiểu tiện sẻn ít, Thận dương hư suy có thể do ốm lâu thương dương, thể trạng vốn dươns hư gây nên, mệnh hỏa bất túc, Bàng quang khôns khí hóa nên tiểu tiện không lợi. Tỳ dương không mạnh kiêm các chứng sắc mặt vàng bủng, biếng ăn đại tiện nhão. Thận dương hư suy thì có các chứng sẵc mặt trắng bệch, suyễn khái thở gấp, lưng đau mỏi, chân tay quyết lạnh. Tiểu tiện không lợi do Tỳ dương không mạnh, điều trị theophép ôn vận Tỳ dương, hóa khí hành thủy, chọn dùng phương Thực Tỳ ẩm, Tiểu tiện không lợi do Thận dương hư suy điều trị theo phép ôn Thận trợ dương, hóa khí hành thủy, chọn dùng phương Chân vũ thang.

  • Chứng Tiểu tiện không lợi do thấp nhiệt nghẽn ờ trong với chứng Tiểu tiện không lợi do khí trệ thấp ngăn trở; Chỗ giống nhau cả hai chứng này đều thấy hiện tượng nhiệt, nhưng loại trên là thấp nhiệt, loại sau là Can uất hóa nhiệt. Thấp nhiệt nghẽn ở trong là do cảm nhiễm tà khí thấp nhiệt hoặc thủy thấp đọng ở trong lâu ngày hóa nhiệt, thấp với nhiệt câu kết, Tam tiêu thủy đạo không thông nên có chứng tiểu tiện không lợi. Khí trệ thấp ngăn trở phần nhiều do tình chí bất toại. Can khí uất kết, khí trệ thủy đạo không lợi cho nên tiểu tiện sẻn ít, Thấp nhiệt ngăn trở ở trong, uất lại ở Trung tiêu nên biểu hiện các chứng biếng ăn buồn nôn, khát không muốn uống, đại tiện nhão, Can mất sơ tiết, khí uất hóa hỏa, mộc hoành khắc thổ cho nên có các chứng ợ hơi nuốt chua, ngực sườn đầy tức, mạch Huyền .V.V..

Tiểu tiện không lợi do Thấp nhiệt nghẽn ở trong điều trị theo phép thanh lợi thấp nhiệt, công trục thủy thấp, cho uống Sơ hác ẩm tử, Tiểu tiện không lợi do khí trệ thấp ngăn trở điều trị nên sơ Can giải uất, hành khí lợi thủy, dùng phương Sài hồ sơ Can tán hợp Vị linh thang.

Chứng tiểu tiện không lợi có quan hệ chặt chẽ với ba tạng Phế, tỳ, Thận, về thực chứng phần nhiều do cảm nhiễm ngoại tà phong hàn, thấp nhiêt gây nên.vệ hư chứng thì phần nhiều là dương hư. Ngoài ra, trên lâm sàng cũng có thể thấy tiểu tiện không lợi do âm hư, bởi vì Can thận âm hư, tân dịch không phân bố đều khắp gây nên, chứng trạng chủ yếu là tiểu tiện sẻn ít sắc vàng, choáng váng tai ù, Tâm phiền miệng đắng họng khô , ngũ Tâm phiền nhiệt, lưng gối yếu mỏi, hoặc thấy thủy thũng tái phát nhiều lần, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế sác, điều trị theo phép tư dưỡng Can Thận, kiêm lợi tiểu tiện, dùng Tế sinh Thận khí hoàn, Còn như ra mồ hôi quá nhiều, hoặc thượng thổ hạ tả, âm dịch hao kiệt mà tiểu tiện khôna lợi, nên điều trị theo gốc bệnh kiêm thuốc dưỡng âm tăng dịch, không thảo luận ở mục này.

Trích dẫn y văn

– Sách Cương mục viết: “Tiểu tiện nhiều lần mà không lợi có ba loại, Nếu do tiết lả mà tân dịch hao hụt, là một, nên lợi mà thôi. Nhiệt quây phá hạ tiêu, tân dịch khône lưu thông được, là hai, dùng phép thấm tả thì khỏi. Nếu Tỳ Vị khí khô rít không thông điều thủy đạo, dồn xuống Bàng quang mà không hóa được, là ba, có nuốt hơi khiến cho biến hóa đi như dùng Phục linh hổ phách tán” (Tạp bệnh nguyên lưu tê chúc – Tiểu tiện bế long nguyên lưu).

Phương thuốc Đông y chữa bệnh hôi nách hiệu quả

THUỐC ĐÔNG Y CÓ THỂ CHỮA HÔI NÁCH.

Trong đó phần nhiều là lứa tuổi thanh tráng niên, thường thì nữ giới mắc phải bệnh này nhiều hơn nam giới. Có những cô nàng mặt mày thanh tú dễ thương, nhưng lại có hôi nách, khiến người khác không dám tiếp cận, Chứng hôi nách dễ trở thành sự chướng ngại trong xã giao, cho nên cách chữa trị không thể không đề Cập đến.

Có người do trong vật phân tiết của tuyến mồ hôi trong da dẻ dưới nách có vật chất hữu cơ và cầu khuẩn hình chuỗi nhỏ, sau khi những vi khuẩn phát sinh tác dụng sẽ sản sinh chất axit béo, và phát ra mồ hôi, đó là mồ hôi nách.

Trong “Thiên kim phương” nói rằng: Chứng hôi nách có loại bẩm sinh, có loại do lây nhiễm. Chứng hôi nách bẩm sinh khó chữa trị, còn chứng hôi nách bị lây nhiễm thì dễ chữa trị, nhưng cần phải dùng Phàn thạch tán (bột phèn sống) đắp ngoài da lâu dài, và uống Ngũ hương hoàn mới có thể chữa khỏi; nếu đắp thuốc ngắn hạn, chỉ có thể thuyên giảm tạm thời. Những người bị chứng hôi’ nách nên kiêng cử thức ăn cay nóng và kích thích, nếu không thì sẽ suốt đời không chữa được .chứng hôi nách.

“Nội kinh” cho rằng chứng hôi nách thuộc bệnh của Can kinh, Can có tà, khí tà lưu ở hai nách “Cổ kim y thống” của Từ Xuân Phủ thì nói: Can khí uất kết bên trong, nhưng lại ra ổ nách, có mùi hôi như hồ (con cáo chồn). Lại nói: hôi nách , dưới nách có khiếu (lỗ), can khí thịnh thì khiếu trương khai, tà khí từ đó tiết ra ngoài, khiến người khác khó đến gần. Chứng bệnh này nên dùng khô phan (phèn chua), Xạ hương thoa ngoài, cũng có thể thuyên giảm trong một thời gian, chẳng bao lâu thì vẫn có mùi vị như xưa, sở dĩ tất phải coi trọng cách chữa tận gốc. Thế nào để chữa tận gốc ? cần phải sơ đạo tà khí can tang, thì mùi hôi sẽ tự nhiên biến mất, như dùng tả Tả.can thang, Long cối hoàn.

Nhìn từ quan điểm y học, phẫu thuật là phương pháp chữa trị bệnh hôi nách nhanh nhất và hiệu quả nhất, nhưng nếu mùi hôi không quá nghiêm trọng, dùng thuốc Bắc để uống và thoa ngoài cũng có thể chữa khỏi bệnh.Cách trị hôi nách tại nhà hiệu quả

NHỮNG PHƯƠNG THUỐC TRỊ HÔI NÁCH.

  1. PHƯƠNG THUỐC CHỮA HÔI NÁCH CỦA ĐÀO ẨN CƯ

(“Trửu Hậu Phương”)

Hiệu quả:

Chữa trị chứng hôi nách, thường xuyên sử dụng có thể chữa khỏi bệnh.

Thành phần dược liệu:

Thanh Mộc hương, Hoắc hương, Kê thiệt hương, Hồ phấn mỗi thứ 30gam.

Cách thực hiện:

Đem bốn vị dược vật trên cùng nghiền thành bột mịn.

Cách dùng:

Dùng vải bọc thuốc lại, để dưới nách, thường xuyên sử dụng cách chữa này.

Giải thích:

Phương này là một kinh nghiệm phương chữa trị hôi nách của Đào Hoằng cảnh y gia nổi tiếng của triều đại Lương, trong lúc bổ sung thêm cho cuốn “Trửu Hậu Phương”, ông bổ sung thêm phương thuốc này vào. Hôi nách vì có mùi hôi như mùi của Hồ ly nên người ta còn gọi là Hồ xú. Đó là một loại bệnh ngoài da do mồ hôi ra ở dưới nách có mùi hôi nồng nặc đặc biệt.

Chứng bệnh này phần nhiều với bẩm sinh (nguyên tố di truyền) có liên quan nhau, số ít do thấp nhiệt xông bốc mà phát ra. Thường hay bắt đầu phát bệnh vào thời kỳ thanh xuân, sau khi và tuổi lão niên thì bệnh trạng sẽ giảm dần hoặc mất hẳn. Cách chữa phổ biến là bằng cách chữa ngoài da làm chủ, uống thuốc chữa bên trong làm phụ. Phương này chủ yếu do các loại hương dược hợp thành. Thanh Mộc hương còn gọi là “Mật hương (“Danh y biệt lục”)’ vì mùi thơm của nó như mùi mật mà được tên gọi này. Xưa kia các đạo gia thường dùng thuốc này tắm gội, nghe nói vào ngày mồng một tháng giêng âm lịch lấy mộc hương nấu nước dùng tắm gội khiến người đến già râu tóc vẫn đen mượt; vị thuốc này có mùi vị tân hương hành khí, có thể chữa nách hôi ẩm thấp (“Bản thảo cương mục”). Trong cuốn” Ngoại đài bì yếu” dùng vị thuốc này ngâm với giấm loại tốt, rồi đem kẹp dưới nách, âm hạ hôi thấp. Họắc hương thuộc loại thuốc phương hương hóa thấp, có thể khử ác khí. Kê thiệt hương tức là Mẫu Đinh hương, có mùi vị cay nóng mà thơm có thể chữa ác khí, đồng thời làm cho cơ thể con người thơm tho. Ba vị thuốc hợp dùng , có thể phương hương khu trọc, hóa thấp trừ hôi. Hồ phấn tức là Diên phấn .

Trong cổ phương. Hồ phấn là một vị thuốc cần dùng khi chữa chứng hôi nách. Ba vị hương dược lại được thêm vào Hồ phấn thì công hiệu khử hôi càng tăng nhiều. Thường xuyên sử dụng phương này có thể đạt tới hiệu quả chữa tận gốc chứng hôi nách, khiến bạn vĩnh viễn cáo biệt với chứng hôi nách.

  1. THIÊN KIM PHƯƠNG CHỮA HÔI NÁCH

(“Thiên Kim Yếu Phương”)

Hiệu quả:

Chữa hôi nách, rất hiệu nghiệm.

Thành phần dược liệu:

Tân di, Xuyên khung, Tế tân, Đỗ hành, cảo bản mỗi thứ 4 gam.

Cách thực hiện:

Dùng giấm gạo thuần chất ngâm tất cả dược vật trên trong một đêm cho nở, sau đó gia thêm lượng nước vừa đủ, rồi đem sắc nấu lấy nước đặc.

Cách dùng:

Mỗi đêm trước khi đi ngủ dùng thuốc xát dưới nách, cho đến khi lành bệnh thì ngưng.

Giải thích:

Phương thuốc này là một cổ nghiệm phương dùng các hương dược trị hôi nách. Cuốn “Chư bệnh Nguyên Hầu Luận Lậu Dịch Hân” đời Tùy nói rằng: “Dưới nách thường thấp thì sẽ hôi, sinh nhọt gọi là lậu dịch, đây cũng là khí huyết bất hòa, phong tà tương bác, tân dịch uẩn ứ, nên làm cho con người ẩm hôi”.

Năm vị thuốc trong phương này đều có mùi vị cay, hương nồng, đồng thời có thể khu phong trừ thấp, hoạt huyết, nên. dùng chữa hôi nách hiệu quả rất tốt. Dùng giấm gạo ngâm thuốc cho nở, khiến cho thành phần hữu hiệu của dược vật càng dễ tan giãi ra, từ đó mà đảm bảo chắc chắn hiệu quả chữa trị của phương này. Nhưng mà lúc nấu cô loại dược vật thơm tho, thời gian nấu không thể quá lâu, nếu ngược lại thì theo sự phát tán . của thành phần hữu hiệu, hiệu quả trị liệu của nó cũng sẽ giảm xuống. Có lẽ do chịu sự khêu gợi của phương thuốc cổ xưa, nên hậu thế cũng rất thích dùng dược vật phương hương để chữa hôi nách, như Dịch Hương Tán tức là dùng Mật đà tăng 15gam, Sinh Long cốt 30gam, Hồng phấn 6gam, Băng phiến 3gam, Mộc hương 10gam, Bạch chỉ 10gam, phân biệt tán nhỏ, hỗn hợp lại dùng vải bọc lại, rồi dùng vỗ vào chỗ bị đau. Cách chữa này cũng rất có hiệu quả.

Xuyên khung( Khung cùng)
Xuyên khung( Khung cùng) vị thuốc chữa đau đầu
  1. PHƯƠNG TẦN HỒ CHỮA HÔI NÁCH (“Bản Thảo Cương Mục”)

Hiệu quả:

Chữa trị chứng hôi nách.

Thành phần dược liệu:

Hạt Long nhãn nhỏ 6 hạt, Hồ tiêu (hạt tiêu) 14 hạt.

Cách thực hiện:

Đem hai vị thuốc trên nghiền thành bột mịn.

Cách dùng:

Khi ra mồ hôi dùng thuốc bột chà xát ngay.

Giải thích:

Phương này xuất từ (“Bản thảo cương mục”) của Lý Thời Trân, là một kinh nghiệm phương dùng chữa hôi nách. Cách chế tác phương này rất là đơn giản, hiệu quả chữa trị của nó đáng tin cậy. Trong phương thuốc này Long nhãn còn gọi là Quế viên, vừa là trái cây, vừa làm vị thuốc. Thịt của loại trái cây này khi làm vị thuốc được gọi là Long nhãn nhục, có công năng bổ ích Tâm Tỳ, dưỡng huyết an thần, trên “Thần nông bản thảo kinh” nói: Sử dụng lâu dài có thể tăng cường thông minh, người nhanh nhẹn, trẻ mãi không già. Chủ dược mà phương này dùng là Long nhãn tức là hạt của Quế viên. Dược vật này hương dược dùng chữa hôi nách, phối hợp với Hồ tiêu tân ôn chạy tán, thì hiệu quả chữa trị hôi nách càng tốt.

Ngoài ra, trong “Bản thảo cương mục” còn có nhiều phương thuốc chữa chứng hôi nách đơn giản và dễ thực hành như: dùng gừng tươi luôn xát dưới nách, hoặc dùng Thanh Mộc  hương xắt lát, ngâm trong giấm một đêm, sau đó đem kẹp dưới nách, hiệu quả khá tốt.

Điều trị liệt dây thần kinh số 7 theo y học cổ truyền

Đông y có rất nhiều phương pháp để điều trị liệt dây thần kinh số 7 ngoại biên do lạnh như: uống thuốc, cao dán, cứu, ôn châm, điện châm, thủy châm, laser châm, từ châm, dán thuốc trên huyệt, xoa bóp bấm huyệt…

– Liệt mặt là hiện tượng mất hoặc giảm vận động nữa mặt của những cơ bám da ở mặt do dây VII chi phối .

Liệt mặt ngoại biên là tổn thương được tính từ nhân dây VII trong cầu não, liệt mặt trung ương là những tổn thương được tính từ trước nhân trở lên. Những trường hợp liệt dây VII’ do nhân bọt trên không thuộc trường hợp này.

– YHCT gọi là khẩu nhãn oa Tà , Khẩu tịch, Diên nan (Than), Phong điếu tuyến, Diện Thần Kinh Ma Túy,

Tuổi nào cũng có thể phát bệnh, ở cả hai giới  hay xảy ra vào mùa lạnh

Rất thích hợp với phương pháp Châm Cứu, áp dụng châm cứu càng sớm, hiệu quả càng nhanh và càng cao.

Bệnh có đặc điểm là phục hồi nhanh, song dễ để lại di chứng về vận động, thẩm mỹ nếu không được chẩn đoán và điều trị sớm.

Thường gặp nhất là liệt mặt ngoại biên do lạnh (80%). Đa số các trường hợp liệt mặt (liệt dây thần kinh số 7) do lạnh, do xung huyết, điều trị bằng châm cứu đem lại kết quả tốt. Các trường hợp liệt do nhiễm khuẩn hồi phục chậm hơn. Liệt dây thần kinh số 7 ngoại biên do cảm lạnh dễ phục hồi hơn do chấn thương.

GIẢI PHẪU

Đường đi và phân bố của dây thần kinh số 7 hay dây thần kinh mặt.

Đường đi và phân bố của dây thần kinh số VII hay dây thần kinh mặt.
Đường đi và phân bố của dây thần kinh số 7 hay dây thần kinh mặt.

Về đặc điểm dây thần kinh số 7, hay còn gọi là dây thần kinh mặt, là một dây thần kinh hỗn hợp vừa điều khiển vận động vừa là dây thần kinh cảm giác, từ trong sọ não thoát ra nền sọ đi cùng với dây thần kinh số 7 qua tai trong, sau đó thần kinh VII chui qua một ống xương hẹp gọi là ống Fallop, sau đó thoát ra ngoài nền sọ qua qua lỗ trâm chũm.

Như vậy tổn thương dây thần kinh số 7 phía trước ống Fallop được gọi là tổn thương dây thần kinh VII trung ương; và tổn thương từ đoạn ống Fallop trở ra thì gọi là tổn thương thần kinh VII ngoại biên.

Theo mô tả của Fuller và đồng nghiệp, dây thần kinh VII ngoại biên khi thoát ra khỏi lỗ trâm chũm thì chạy rất nông cho đến nhánh xương hàm dưới, sau đó nó đi vào tuyến mang tai và tại đó nó phân làm ba nhánh chính để phân bổ về các cơ mặt đó là nhánh gò má (bao gồm nhánh thái dương và gò má), nhánh miệng và nhánh hàm dưới (bao gồm nhánh hàm dưới và nhánh cổ).

Tuy nhiên các nhánh tận và nhánh phụ của dây thần kinh VII có thể lên đến 7000 nhánh nhỏ dẫn đến khắp mặt, cổ, các tuyến nước bọt và ống tai ngoài. Các dây thần kinh này kiểm soát vận động của các cơ vùng cổ, trán và cơ biểu lộ cảm xúc vùng mặt, cũng như kiểm soát cường độ phát âm. Dây thần kimh VII cũng đóng vai trò kiểm soát bài tiết nước mắt, nước bọt vùng trước miệng. Kiểm soát vị giác của 2/3 lưỡi phía trước và cảm giác vùng ống tai ngoài. Tại chỗ phân chia, nhánh thái dương và nhánh gò má chạy dốc lên, nhánh miệng và đặc biệt là các nhánh xương hàm dưới chúi xuống dưới, chạy lên trên hoặc ra sau ngành xương hàm dưới cho nên dễ bị tổn thương khi có sức ép đè vào vùng này. Thêm nữa, tổn thương có thể xảy ra khi có tác động kéo xương hàm dưới ra phía trước làm cho nhánh dây thần kinh mặt đoạn xương hàm dưới bị kéo dãn.

Theo mô tả qua 20 lần phẫu tích dây thần kinh VII của Lisitsyn thì có một số sự khác biệt trong cấu trúc giải phẫu phân bố các nhánh của dây thần kinh này.
• Thứ nhất, chỗ phân nhánh có thể cao hay thấp tuỳ theo vị trí cao hay thấp của tuyến mang tai.
• Thứ hai, dây thần kinh có thể nằm nông hơn so với tuyến

  • Thứ ba, các nhánh xương hàm dưới đôi khi chạy ở vị trí thấp hơn bình thường, khi nó nó ôm vòng quanh mép chỗ góc của xương hàm.

Do đó khi đè nén vào vùng xương hàm dưới có thể gây tổn thương nhánh xương hàm dưới. Nhánh xương hàm dưới có chức năng điều phối các cơ của môi dưới, cho nên các thương tổn có thể hay gặp ở môi dưới hơn; cũng như các tổn thương nhẹ như nói khó, ăn uống khó. Tuy nhiên các nơi khác cũng có thể gặp tuỳ theo nhánh nào của dây thần kinh VII bị ảnh hưởng.

PHÂN LOẠI

YHCT dựa theo nguyên nhân gây bệnh, chia làm 3 loại:

Liệt mặt do phong hàn (liệt dây thần kinh số 7 ngoại biên do lạnh).

Liệt mặt do phong nhiệt (liệt dây thần kinh số 7 ngoại biên do nhiễm khuẩn).

Liệt mặt do huyết ứ ở kinh lạc (liệt dây thần kinh số 7 ngoại biên do sang chẩn).

NGUYÊN NHÂN

Theo YHHĐ:

– Liệt dây thần kinh số 7 thể trung ương.

Thường do tổn thương ở 1 bên bán cầu não: nhũn não, chảy máu não, khối u não…

Hội chứng Millard-Gubler tuy liệt mặt thể ngoại biên nhưng vẫn kèo theo liệt nửa người với dấu hiệu Babinski bên đối diện của mặt liệt.

Do u não: U ở cầu não, u góc cầu tiểu não. U nền sọ: chú ý tới u màng não ở nền sọ.

Biến chứng thần kinh của u vòm họng.

Viêm màng não, nhất là viêm màng não do lao.

– Liệt dây thần kinh số 7 thể ngoại biên

Dựa theo vị trí từ nhân ra đến chỗ tận cùng của dây thần kinh VII, có thể do:

+Các nguyên nhân ở tai: Viêm tai giữa cấp hoặc mạn, viêm xương đá, viêm tai xương chũm ,Viêm tuyến mang tai

+Chấn thương vùng xương đá: ở ngoài lớn do vỡ xương đá, ở trẻ sơ sinh do can thiệp sản khoa (do kẹp Foxcep, khung chậu người mẹ hẹp…).

+Nhiễm virut (virus herpes simplex týp I và virus herpes zoster)

Viêm màng não dầy dính, làm tổn thương thần kinh từ rãnh hành tủy- cầu não đến ống tai trong.

+Do giang mai, viêm nhiễm dây thần kinh

+Bệnh bại liệt trẻ em (Polye-liệt dây VII hai bên – thể thân não của bệnh bại liệt, liệt hai bên nửa mặt và thường gặp ở trẻ em)

Uốn ván mặt của Rase… các thể này hiện nay rất ít gặp.

+Zona hạch gối (zona nhân gối): Zona là bệnh cấp tính do virus hướng thần kinh phạm vào hạch gối gây liệt mặt đột ngột. Đặc điểm là phát ban: ban đỏ, mụn nước ở quanh vành tai, vùng viền ống tai ngoài; có thể phạm cả vùng dây VII nên có thể có ban đỏ, mụn nước mọc ở 2/3 trước lưỡi. Cần chú ý đừng để vỡ mụn nước, vì sẽ làm dải ban đỏ, mụn nước lan rộng gây chèn ép nhiều nơi.

Bệnh tự miễn: lupus ban đỏ…

+Nguyên nhân do lạnh chiếm 80%. Liệt dây VII ngoại biên “do lạnh”. Thường gặp với bệnh cảnh đột ngột, sau khi tiếp xúc với trời lạnh, ngáp và bị liệt có thể đó là do nhiễm khuẩn tiềm tàng, biểu hiện ra do lạnh…

Theo YHCT:

Do tà khí Phong Hàn xâm phạm vào 3 kinh Dương ở mặt (Thủ dương minh Đại trường, Túc dương, minh Vị, và Túc thái dương Bàng quang) làm cho sự lưu thông của kinh khí bị bế tắc, khí huyết không thông, kinh Cân bị thiếu dinh dưỡng, không co lại được gây ra bệnh.

Do sang chấn (chấn thương) làm huyết bị ứ trở kinh lạc, khí huyết không điều hòa, kinh cân thiếu dinh dưỡng không co lại được gây ra bệnh.

TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG

Theo Y học hiện đại:

– Mặt mất cân xứng: mặt bị kéo lệch sang bên lành, bên liệt trông như mặt nạ, các nếp tự nhiên như nếp nhăn trán, rãnh mũi má bị mờ hoặc mất, miệng và nhân trung méo về bên lành (các cơ mặt không thể cử động theo ý muốn, nên vui buồn không lộ, khó diễn tả tình cảm bằng nét mặt nên có hình ảnh của nét mặt vô vảm (loss of facial expression). Sự mất cân xứng càng rõ khi bệnh nhân làm một số động tác chủ động như khi cười, khi nhe răng, phồng má, thổi lửa, huýt sáo miệng méo lệch sang bên lành.

Sự mất cân xứng rõ hơn khi bệnh nhân nhe răng, phồng má, thổi lửa, huýt sáo

 

Hình ảnh khuôn mặt liệt VII
Hình ảnh khuôn mặt liệt VII

Mắt nhắm không kín ở bên liệt, khi nhắm đồng tử di chuyển lên trên và ra ngoài để lộ một phần lòng trắng gọi là dấu hiệu Charle Bell dương tính.

Nói khó

Lưỡi lệch về bên liệt (do cơ lưỡi bên lành đẩy sang bên liệt)
Uống nước, nước chảy ra ngoài phía bên bệnh, ăn cơm thức ăn thường kẹt giữa răng và má ở bên bệnh
– Ngoài ra, còn một số triệu chứng khác ít gặp hơn như

Cảm giác tê một bên mặt

Mất vị giác ở 2/3 trước lưỡi

Khô mắt do không tiết nước mắt hoặc tăng tiết nước mắt làm nước mắt chảy giàn giụa, nhất là trong hoặc ngay sau bữa ăn.

Trường hợp liệt hoàn toàn: Có phần lớn các triệu chứng như trên

Trường hợp liệt nhẹ: Thường khó thấy sự không cân đối của mặt, cần phải thăm khám tỉ mỉ, kiên trì mới phát hiện được. Yêu cầu người bịnh nhắm thật chặt 2 mắt, ta thấy 2 lông mi bên liệt có vẻ dài hơn, do mắt bên liệt không co được chặt.

Phân biệt với liệt mặt trung ương: liệt VII trung ương chỉ liệt 1/2 mặt dưới và không có dấu hiệu Charle Bell không mất nếp nhăn trán

Theo YHCT:

Thể phong hàn: Sau khi gặp mưa hoặc gió lạnh hoặc sáng sớm thức dậy, tự nhiên mắt không nhắm được, miệng méo cùng bên với mắt, nước uống vào dễ bị chảy ra ngoài, không huýt sáo được, sợ lạnh, rêu lưỡi trắng, mạch Phù Khẩn.

Thể phong nhiệt: Sốt sợ gió, sợ nóng, mắt không nhắm được, miệng méo cùng bên, nước uống vào dễ bị chảy ra, không huýt sáo được, rêu lưỡi trắng dầy, mạch Phù Sác. Thường do nhiễm khuẩn.

Thể huyết ứ: Mắt không nhắm được, miệng méo, đau nhức ở mặt. Thường do di chứng sau chấn thương: té ngã, sau khi mổ vùng chũm, hàm…

ĐIỀU TRỊ LIỆT MẶT BẰNG ĐÔNG Y

Châm cứu liệt VII

+Vùng Mắt-Trán: Thái dương (Nk), Toản trúc (Bq 2), Tình minh (Bq 1), Dương bạch (Đ.14), Ngư yêu (Nk), Đồng tử liêu.

+Vùng Mũi – Nhân trung: Nghinh hương (Đtr 20), Nhân trung (Đc.26).

+Vùng Má: Giáp xa (Vi 6), Địa thương (Vi 4), Hạ Quan, Quyền liêu, Tứ bạch

+Vùng Cằm: Thừa tương (Nh.24).

+Các huyệt khác: Hợp cốc, Phong trì, Ế phong, Túc Tam Lý, Nội Đình, Khúc trì, Huyết hải

Vì 3 đường kinh dương tuần hành trên mặt, kinh thủ Dương minh đại trường, kinh túc Dương minh vị và kinh thủ Thái dương bàng quang nên châm huyệt Hợp cốc, Khúc trì đối diện để thanh nhiệt, sơ điều kinh khí kinh thủ dương minh, châm huyệt Nội đình, Túc tam lý cùng bên để sơ điều kinh khí kinh túc dương minh-theo cách lấy huyệt ở xa. Châm các huyệt tại chỗ để sơ thông kinh khí vùng mặt bị bệnh. Phong trì, Ế phong để sơ phong hàn. Nội Đình, Khúc trì thanh nhiệt. Huyết hải hoạt huyết.

Có thể châm xuyên các huyệt: Toản trúc xuyên Tình minh, Dương bạch xuyên Ngư yêu, Đồng tử liêu xuyên Thái dương, Địa thương xuyên Giáp xa

Châm huyệt Hợp cốc đối diện, Nội đình, Túc tam lý cùng bên.

Huyệt Ế phong là chủ yếu vì đó là nơi chưa chia nhánh của dây VII, không được thủy châm vào huyệt này, không châm sâu quá 1 cm.

 

vị trí huyệt điều trị liệt VII ở mặt
vị trí huyệt điều trị liệt VII ở mặt

– Xoa bóp bấm huyệt:

Đẩy Toản trúc: dùng ngón cái miết từ Tình minh lên Toản trúc 5-10 lần

Kháng cung: dung ngón tay cái miết từ Ấn đường dọc theo cung long mày ra huyệt Thái dương 5-10 lần

Day vùng quanh mắt 5-10 vòng

Miết từ gốc mũi qua Nghinh hương xuống Địa thương 5-10 lần

Phân Nhân trung và Thừa tương 5-10 lần

Day vòng quanh môi 5-10 lần

Xát má 5-10 lần

Bấm các huyệt Tình minh, Toản trúc, Ngư yêu, Nghinh hương, Địa thương, Giáp xa, Hạ quan, Hợp cốc đối diện.

Bóp má 3 lần

Liệu trình 1 lần/ngày, mỗi lần 20 phút

ĐIỆN CHÂM

Điện châm là phương pháp dùng một dòng điện nhất định tác động lên các huyệt châm cứu để phòng và chữa bệnh. Dòng điện được tác động lên huyệt qua kim châm, hoặc qua các điện cực nhỏ đặt lên da vùng huyệt.

Đây là phương pháp kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp chữa bệnh bằng châm cứu (của YHCT) với phương pháp chữa bệnh bằng dòng điện (của YHHĐ).

Do đó phương pháp điện châm có đặc điểm:

– Sử dụng tác dụng chữa bệnh của huyệt vị, kinh lạc.

– Sử dụng tác dụng điều trị của dòng điện.

Muốn phát huy đầy đủ hiệu quả của phương pháp điều trị điện trên huyệt nhất thiết phải vận dụng nghiêm chỉnh học thuyết kinh lạc nói riêng và những lý luận đông y nói chung. Đồng thời phải có hiểu biết đầy đủ và vận dụng chặt chẽ những tác dụng sinh lý, bệnh lý của các loại dòng điện.

Trong điều trị bằng phương pháp điện châm, chỉ mới dùng phổ cập dòng điện một chiều và dòng xung điện.

Những phương pháp điều trị trên huyệt :

Hiện nay có 4 nhóm phương pháp điều trị điện:

– Điện trường tĩnh điện và ion khí.

– Dòng điện một chiều đều.

– Các dòng điện xung tần số thấp, điện thế thấp.

– Các dòng điện cao tần.

Các dòng điện xung tần số thấp, điện thế thấp:

* Tác dụng sinh lý của các dòng điện xung:

– Tác dụng kích thích: nhờ vào sự lên xuống của cường độ xung (độ dốc lên xuống càng dựng đứng bao nhiêu thì kích thích càng mạnh).

– Tác dụng ức chế cảm giác và giảm trương lực cơ: tác dụng này đến nhanh khi tần số xung lớn hơn 60Hz. Tần số gây ức chế tốt nhất là 100 – 150Hz.

Từ những tác dụng chung nhất nêu trên, do đặc điểm về hình thể, cường độ và tần số xung của các dòng điện xung mà:

+ Dòng Faradic (xung gai nhọn, Hz: 100): chủ yếu tác dụng kích thích mạnh. Tuy nhiên nếu dùng lâu thì gây ức chế.

+ Dòng Leduc (xung hình chữ nhật, Hz: 100 – 1000): tùy tần số, thời gian xung, thời gian nghỉ mà có tác dụng hưng phấn hay ức chế mạnh hơn.

+ Dòng Lapicque (xung hình lưỡi cày, độ dốc lên xuống thoai thoải): ứng dụng tốt với những trường hợp cơ và thần kinh đã bị thương tổn.

+ Dòng Bernard (xung hình sin; 50 – 100Hz): ứng dụng tốt cho những trường hợp cơ và thần kinh bị thương tổn. Tuy nhiên dòng 50Hz có tác dụng kích thích trội hơn, dòng 100Hz có tác dụng ức chế trội hơn. Tác dụng điện phân của dòng Bernard cũng mạnh.

+ Dòng giao thoa thực tế có tần số từ 10 – 100Hz phát  sinh ra trong tổ chức ở sâu: nó chỉ tác dụng đến những bộ phận ở sâu, không tác dụng trên cảm giác bề mặt da nên có thể tăng cường độ đến mức gây co cơ ở sâu mà bệnh nhân có thể chịu được dễ dàng. Tác dụng ức chế hay hưng phấn tùy tần số.

 

 

 hình thể của các dòng xung 
hình thể của các dòng xung

* Những chỉ định chính của dòng điện xung: 

– Kích thích các cơ bại liệt.

– Chống đau.

– Tăng cường tuần hoàn ngoại vi, khi có hiện tượng co thắt mạch, phù nề, sung huyết tĩnh mạch…

Các cách điều trị trên huyệt:

* Dùng kim dẫn điện vào huyệt: 

– Cách thực hiện: sau khi châm kim vào huyệt theo đúng thủ thuật cần châm, cho cực điện tiếp xúc với kim để kim dẫn điện vào thẳng tổ chức.

– Đặc điểm:

+ Dòng điện được kim dẫn trực tiếp tới các tổ chức tế bào của cơ thể.

+ Dòng điện được kích thích vào những chỗ gọi là huyệt (nơi có khả năng tiếp nhận các kích thích từ bên ngoài để chữa bệnh (YHCT), nơi có một mẫn cảm đặc biệt (YHHĐ).

+ Diện tích của cực điện tiếp xúc với cơ thể hết sức nhỏ (0,1-0,5 cm2), mật độ điện trên một đơn vị diện tích trở nên cao. Chính vì thế mà chỉ đưa vào huyệt một công suất điện hết sức nhỏ cũng vẫn gây ra một tác dụng kích thích mạnh.

+ Khi dùng dòng diện một chiều đều, tổ chức quanh kim sẽ bị bỏng hóa học (dù rất nhỏ). Sau khi rút kim, ảnh hưởng của bỏng vẫn còn tồn tại một thời gian và trở thành một kích thích thường xuyên đối với huyệt.

Nhờ vậy khoảng cách 2 lần châm cho một huyệt có thể kéo dài ra rất hợp với điều trị bệnh mạn tính.

* Dùng cực điện nhỏ đưa điện qua da vào huyệt:

– Cách thực hiện: đặt những điện cực (thường là những bản dẹt) lên mặt da tại những huyệt. Cố định điện cực lên mặt da với những băng dính (hiện nay đã sản xuất những điện cực dán được trên mặt da). Nối với các điện cực của máy điện châm.

– Đặc điểm:

+ Khác với điện châm cách 1: không làm bệnh nhân đau hay khó chịu. Kết quả không nhanh và thường được đánh giá là không bằng cách 1.

+ Khác với lý liệu pháp: dòng điện chỉ đưa vào một diện hẹp (chỉ đưa vào các huyệt thích ứng), dòng điện cho vào nhỏ nhưng vẫn có được những tác dụng tại chỗ và toàn thân mong muốn.

* Tiến hành kích thích điện trên kim:

– Kiểm tra lại máy móc trước khi vận hành, tất cả các núm điện phải ở vị trí số 0 (công tắc đóng).

– Trên các kim đã châm, chọn lắp điện cực theo yêu cầu của chữa bệnh, nối điện cực vào kim.

– Bật công  tắc cho máy chạy, xem đèn báo, vặn núm điều khiển công suất điện kích thích tăng từ từ, đạt đến mức độ yêu cầu của điện thế và cường độ thích ứng với từng người bệnh (người bệnh có cảm giác dễ chịu hay hơi căng tức, chịu đựng được). Người thầy thuốc có thể thấy vùng kích thích điện co nhịp nhàng, giao động kim điều hòa.

* Liệu trình điện châm :

Liệu trình chữa bệnh bằng điện châm nói chung cũng giống như châm cứu, thủy châm. Thời gian của mỗi lần điều trị cần  dựa vào sự tiếp thu kích thích của từng người bệnh, trong từng bệnh, từng lúc, đối với  từng loại dòng điện mà quyết định. Nói chung cần theo dõi, đánh giá tình trạng bệnh nhân sau khi châm lần thứ nhất.

– Nếu bệnh giảm, không có mệt mỏi, mất ngủ….: duy trì thời gian kích thích.

– Nếu bệnh giảm, kèm mệt mỏi, mất ngủ…: tổng lượng kích thích quá mạnh. Cần giảm thời gian kích thích.

– Nếu bệnh giảm ngay sau khi điều trị, về nhà đau trở lại, cần tăng thời gian lên.

Trung bình ngày châm một lần hay cách ngày châm một lần: từ 10 đến 15 lần điện châm là một liệu trình, nghỉ độ 10 đến 15 ngày rồi tiếp tục tùy theo yêu cầu chữa bệnh.

Khi gặp người bệnh có cơn đau liên tục, có thể ngày điện châm vài lần.

Tai biến và cách xử trí, đề phòng :

– Tai biến của kích thích điện: đối với dòng xung điện thì hầu như rất ít tai biến. Nếu người bệnh thấy khó chịu, chóng mặt….thì ngừng kích thích điện động thời rút kim ra ngay.

KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU ĐIỀU TRỊ LIỆT DÂY VII CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ

– Nghiên cứu sự thay đổi trên điện cơ và lâm sàng bệnh liệt thần kinh VII ngoại biên do lạnh  của TS. Nghiêm Hữu Thành và cộng sự Bệnh viện Châm cứu TW Điện châm điều trị 89 bệnh nhân liệt thần kinh VII ngoại biên do lạnh cho kết quả khỏi 67,42%, đỡ 31,48% , không đỡ 1,10%.

        – Nguyễn Văn Tánh – Lưu Thị Hiệp sữ dụng Điện châm với xung điện tần số thấp điều trị liệt đây VII ngoại biên cho  tỷ lệ: khỏi: 59,4%; đỡ nhiều: 40,6%; đỡ ít và không đỡ: 0%.

– Đề tài nghiên cứu khoa học năm 2006 của Viện Y dược học Dân tộc TP.HCM . “Đánh giá hiệu quả của phương pháp điều trị liệt dây thần kinh số 7 ngoại biên do lạnh bằng điện châm cực dán” nghiên cứu trên 62 bệnh nhân và cho kết quả tỷ lệ khởi và đỡ là 84,5%

– Nghiên cứu sữ dụng mảng điện châm điều trị liệtVII ngoại biên do lạnh của Nguyễn Thị Kim ngân năm 2001 đạt tỉ lệ khỏi 69,7% ,ở nhiều 26,3 %, đở ít 3%

Cốt toái bổ

Tên khoa học:

Drynaria bonii Christ Họ Ráng (Polypodiaceae)

(Cây Tổ rồng)

Còn gọi là Hồ tôn khương, là Hầu khương

Tiếng Trung: 骨碎補

Mô tả:

Cây Tắc kè đá
Cây Tắc kè đá

Loài khuyết thực vật phụ sinh. Thân rễ dày, dẹt, mọng nước có lông cứng màu vàng nâu, bao bọc bởi những vảy. Lá có 2 loại: Lá bất thụ (hứng mùn) không cuống, màu vàng nâu, phiến nguyên lượn sóng, phủ kín thân rễ. Lá hữu thụ (làm nhiệm vụ sinh sản) có cuống dài, màu lục sẫm, phiến chẻ 7 – 9 thùy sâu, mép uốn lượn.

Túi bào tử rất nhỏ, xếp rải rác ở mặt sau lá hữu thụ, không có áo túi. Bào tử hình trái xoan, màu vàng nhạt.

Mùa sinh sản bào tử: tháng 5 – 8.

Còn có loài Drynaria Ịortunei (Kze) J.Sm. cùng họ, có điểm khác là lá bất thụ khía răng, cũng được dùng với công dụng tương tự. Loài này có tên là cốt toái bổ

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Thân rễ tắc kè đá chứa tinh bột, đường, hesperidin, flavonoid.

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Dịch chiết thân rễ tắc kè đá có tác dụng chống viêm cấp trên súc vật thí nghiệm. Tác dụng này yếu hơn so với cốt toái bổ.

Liều thường dùng:

Liều: 10 – 20g. Dùng ngoài theo yêu cầu.

Khí vị:

Vị đắng cay, khí ôn, vào kinh Túc thiếu âm.

Chủ dụng:

Bổ cho đốt xương bị gãy, chữa phong huyết trệ nhức, có công phá huyết, chỉ huyết, chuyên chủ vào kinh Thận, cho nên trị chứng Thận tiết, xương liệt (cốt nuy), tai ù, răng nhức.

Mọi chứng ở phần xương thuộc về Thận. Vì Thận chủ về Tiền âm và Hậu âm mà giữ việc đóng mở, cho nên chứng tiết tả lâu ngày thuộc về Thận hư, không phải chỉ do Tỳ, Vị. Lại có người nói: trị được chứng ngũ lao, thất thương, lục cực, tay bên phải duỗi rũ ra không co lại được, trên nóng, dưới lạnh, cùng các chứng nhọt ác độc.

Cách chế:

Thứ mọc ở trên cây, trên đá, tháng 5 âm lịch cạy lấy rễ, dùng dao đồng cạo bỏ lông vàng, thái nhỏ, chưng với Mật, phơi khô dùng.

Vị thuốc Cốt toái bổ trong điều trị loãng xương
Vị thuốc Cốt toái bổ trong điều trị loãng xương

Nhận xét:

Cốt toái bổ hay mọc ở chỗ dâm mát cho nên âm khí nhiều hơn.

Vua Minh hoàng đời Đường thấy nó chữa gãy xương có công hiệu cho nên đặt tên là cốt toái.

Ngày xưa Ngụy Thái Sử bị tiết tả sắp lâm nguy, dùng thuốc gì cũng không khỏi, sau dùng cốt toái cho vào bầu dục lợn nướng chín ăn thì khỏi, đó là do cốt toái chữa được chứng Thận tiết.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

Cốt toái bổ ích Thận, hoạt huyết, chỉ thống, sở trường chữa vết thương do ngã, bị đòn đánh.

“Thánh huệ phương”

Bài Cốt toái bổ tán

Cốt toái bổ 4 phần, Hổ hĩnh cốt 1 phần, Bại Quy bản 1 phần, Tán 3 vị trên, uống mỗi lần 12-16g với 1 chén nhỏ Đồng tiện Trị cơ, xương bị tổn thương đau đớn.

Bài Lục vị địa hoàng thang gia cốt toái bổ

Thục địa 8đ

Sơn thù 4đ

Hoài sơn 4đ

Bạch linh 3đ

Đan bì 3đ

Trạch tả 3đ

Cốt toái bổ 3-4đ

Chữa Thận âm hư, tai ù, tai điếc, răng đau, răng lung lay.

Nếu hỏa cũng hư (Biểu hiện chân tay lạnh, bụng lạnh, mạch 2 bộ Xích đều vi tế) thì thêm Nhục quế 1đ, cần thiết thêm cả Phụ tử.

“Nghiệm phương điều trị tư liệu tuyển biên”

Trị răng đau

Chỉ dùng độc vị Cốt toái bổ sắc nước uống.

“Tô thị đồ kinh”

Trị tai điếc, tai ù

Cốt toái bổ thái mỏng nướng chín, lúc còn nóng đắp vào Tai.

“Lâm sàng báo”

Trị chai chân, nốt ruồi dùng cốt toái bổ ngâm cồn nhẹ xức vào, cứ sau vài giờ lại xức, tối đa 10 lần là khỏi.

Chú ý đầu tiên phải ngâm nước nóng cho vết chai hoặc nốt ruồi mềm ra, cạo sạch lớp bọc ngoài.

Chứng cuồng nhĩ – Triệu chứng, điện tim và điều trị

Định nghĩa

Các tâm nhĩ co bóp rất nhanh (250-300 lần một phút), với nhịp không đều, liên tục không nghỉ, với đáp ứng đều hoặc không đều của tâm thất.

Căn nguyên xem: rung nhĩ.

Triệu chứng

Các triệu chứng không khác với rung nhĩ, nhất là trong trường hợp đáp ứng của tâm thất không đều. Cũng có một thể cuồng nhĩ thường xuyên, không biểu hiện triệu chứng lâm sàng, hoặc chỉ có những triệu chứng rất nhẹ và một thể kịch phát có thể dẫn tới cơn ngất. Tần số co bóp của các tâm nhĩ có thể từ 250-300 nhịp/phút. Có thể gọi là cuồng nhĩ 2/1 nếu tâm thất co bóp đều đặn với tần số 150 lần/phút, còn nếu tần số này vào khoảng 75 lần/phút thì gọi là cuồng nhĩ 4/1 và nếu là 100 lần/phút thì gọi là cuồng nhĩ 3/1. Người ta cũng gọi là tâm nhĩ thu nhanh khi nhịp co bóp của các tâm nhĩ khoảng 200 lần/phút với nhịp co bóp của tâm thất là 2/1, thường gây ra do quá liều digital.

Điện tâm đồ

Đường ghi trong chứng cuồng nhĩ 2/1 có thể giống với đường ghi của nhịp xoang nhanh, sóng đầu tiên được coi là sóng p, và sóng thứ hai thì bị che lấp bởi phức hợp QRS. Trong trường hợp nghi ngờ, thì ghi điện tâm đồ (theo đạo trình Vl là hơn cả) trong lúc ấn mạnh vào xoang cảnh, lúc đó tần số co bóp của tâm thất sẽ chậm lại và cho phép thấy được các sóng đặc biệt, hình răng cưa, của cuồng nhĩ thể hiện trên đường ghi.

Điều trị

  • Thuốc: nếu tần số co bóp của tâm thất không quá nhanh, cho digital liều cao, verapamil, và thuốc chẹn beta sẽ kìm hãm các kích thích ở nút nhĩ-thất và làm chậm đáp ứng của tâm thất. Các thuốc chống đông máu không có ích gì.
  • Kích thích điện nhanh (tiếng Anh: overdrive) theo đường trong buồng tim hoặc qua đường thực quản: được chỉ định khi tần số co bóp của tâm thất rất nhanh (trên 220 lần/phút); Máy kích thích phóng điện với tần số cao hơn tần số của nhịp nhanh.
  • Sốc điện từ bên ngoài: năng lượng cần thiết thường thấp (25-50 Joule), nhưng trong một số thể không điển hình, có thể phải phóng năng lượng tới 100-300
  • Kích thích tim thường xuyên: chỉ định đặt một máy kích thích chống nhịp nhanh, khi những cơn nhịp nhanh xảy ra mau làm ảnh hưởng trầm trọng tối sinh hoạt của bệnh nhân, và không kiểm soát được bằng thuốc nữa.
  • Một số trường hợp cuồng nhĩ 1/1 khó điều trị, đe doạ tính mạng bệnh nhân, thì phải điều trị bằng cắt đường dẫn truyền nút- bó His bằng tần số sóng radio, hoặc cắt Ổ sinh loạn nhịp ở tâm nhĩ. Phá huỷ bó His có thể gây ra bloc nhĩ-thất toàn bộ thường xuyên và bệnh nhân phải lệ thuộc vào máy tạo nhịp.

Cách chữa Viêm họng hạt bằng uống trà thuốc tại nhà

Viêm họng hạt là để chỉ cảm giác bất thường ở họng, cảm giác ở họng có một vật gì tắc ở trong họng, nuốt cũng không được, mà nhổ ra cũng không xong, kiểm tra cũng không ra được là bệnh gì. Có người nói rằng: “Chứng có cảm giác bất thường ở họng”, cũng có người nói là “viêm họng hạt”. Thực ra, viêm họng hạt là tên một loại bệnh trong Đông y, cũng giống như “chứng viêm thần kinh họng” trong Tây y, đây là căn bệnh thường thấy trong chẩn đoán chuyên khoa tai – mũi – họng. Đặc biệt, bệnh xảy ra với người bệnh trung niên rất nhiều, đặc biệt là phụ nữ, thậm chí có những người có cảm giác lạ ở cổ họng mà để đến khi nốt đó vỡ mụn ra rồi mới đi khám.

Những điều cần ghi nhớ về dưỡng sinh

Một cách đúng đắn mà nói, viêm họng hạt là một loại triệu chứng chủ quan, cần loại trừ việc thay đổi khí chất, mới có thể bắt đầu công việc chẩn đoán được. Đong y cho rằng, bệnh này là do tình cảm ức chế, không phát tiết ra được, dẫn đến khí chất tích tụ tại bộ phận họng, nếu tâm trạng tình cảm được giai phóng, nhẹ nhàng, bệnh tình sẽ tự khắc thuyên giảm. Trong điều trị, cần lấy việc điều chỉnh tình cảm làm chính, làm cho khí huyết lưu thông, giai viêm, giải sầu. Ngoài việc uống thuốc và châm cứu để điều trị ra, uống trà cũng có hiệu quả tương đối tốt.

Viêm họng hạt
Viêm họng hạt

Các loại trà nên sử dụng cho viêm họng hạt

  • Trà đài hoa mai và hoa phật thủ

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Đài hoa mai, hoa phật thủ, hoa hồng, vỏ quýt, phục thần, vỏ quýt vàng mỗi thứ 3 gam, cho vào hãm thành trà uống.

Công dụng chữa trị: Điều khí, giải sầu, an thần.

Chú ý: Phương trà này chủ trị tiêu trừ tắc nghẹn trong họng.

  • Trà hoa hậu phác

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 10 gam hoa hậu phác, đem rang khô, cho vào nước sôi hãm, uống thay trà nhiều lần trong ngày.

Công dụng chữa trị: Điều khí, giải stress, làm cho tinh thần khoan khoái dễ chịu.

Chú ý: Phương trà này chủ trị tiêu trừ nghẹn tắc trong họng.

  • Trà vỏ quýt và hoa hậu phác

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Vỏ quýt, hoa hậu phác, hồng trà mỗi thứ 3 gam; 6 gam đẳng sâm, cho tất cả vào nghiền nát ra, cho vào cốc, thêm nước sôi hãm, uống nhiêu lần như trà.

Công dụng chữa trị: Điều khí, hoá viêm, trừ thấp.

Chú ý: Phương trà này chủ trị tiêu trừ nghẹn tắc trong họng.

  • Trà đài hoa mai, câu kỷ tử

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Đài hoa mai, trà xanh, hoa hợp ngân mỗi thứ 3 gam; 5 gam câu kỷ tử, cho vào nước sôi hãm uống nhiều lần như trà.

Chú ý: Phương trà này chủ trị tâm khí không thông thoáng, tích tụ trong lòng, thường thấy ở những người tức ngực, tức bụng.

  • Trà hoa hậu phác phật thủ

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Hoa hậu phác, hoa phật thủ, hồng trà, trà xanh mỗi thứ 3 gam; đẳng sâm, giá đỗ mỗi thứ 6 gam. Cho tất cả vào nghiền nát rồi hãm thành trà uống.

Công dụng chữa trị: Điều khí tiêu thực.

Chú ý: Phương trà này thích hợp với chứng khí huyết không phát tiết ra được, thường thấy biểu hiện viêm đường tiêu hoá, ăn không tiêu.

Quả phật thủ tươi
Quả phật thủ tươi
  • Trà nhị hoa sâm

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 3 gam hoa hậu phác, 3 gam hoa phật thủ, 3 gam hồng trà, 2 gam vỏ quýt, 6 gam đẳng sâm, cho tất cả vào giã thành bột, thêm nước sôi vào hãm thành trà uống.

Công dụng chữa trị: Điều khí giải stress.

Chú ý: Phương trà này chủ trị viêm họng mãn tính, kèm theo gan tích tụ khí.

  • Trà bán hạ hoa hậu phác

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 12 gam bán hạ, 10 gam hoa hậu phác, 15 gam phục linh, 12 gam hương phụ, 12 gam tía tô, 15 gam bạch truật, 6 gam bạc hà, 6 gam cam thảo, 3 lát gừng. Đun lên uống.

Công dụng chữa trị: Điều khí, giải stress.

Chú ý: Phương trà này thích hợp với người tức ngực, mệt mỏi. Người miệng khô, lưỡi đỏ hồng thì dùng thêm 12 gam hạ thảo khô, 10 gam kháng cúc.

Những điều cần ghi nhớ

Nguyên nhân gây bệnh viêm họng hạt chủ yếu là do khí, thứ hai là đến đờm và nóng, sau khi con người ta tức giận mà không tìm được nơi để phát tiết ra, thì có thể sinh ra các loại khí bực tức, ức chế biểu hiện ra bên ngoài là bệnh, trong có có một loại hình viêm họng hạt là sự kết hợp của khí và đờm. Nếu viêm họng hạt không chữa trị khỏi mà để lâu dài co thể dẫn đến nhiều tổn thương về âm khí, làm cho họng vốn dĩ đã có cảm giác “tắc” nay lại thêm cảm giác khô, đau, rát, ho, thêm việc con người hiện đại ngày nay đa phần đều thuộc tính nóng, cổ họng nóng là bộ phận dễ bị tổn thương nhất, làm cho trong lâm sàng, do cả ba nhân tố khí, đờm va tam hoả đồng thời dẫn đến viêm họng hạt liên miên không khỏi, điều trị lâu dài cũng không có hiệu quả. Cho nên, phòng ngừa viêm họng hạt phải phòng ngừa từ khí, đờm, tam hoa đề phong đi. Phòng ngừa khí, đầu tiên phải cải thiện tâm trạng, du có bất kỳ việc gì gây kích thích, cũng không nen quá dồn nén lại, cần nhìn sự việc một cách phóng khoáng hơn. Nếu nghiêm trọng có thể dung thuốc để giải quyết những tồn đọng tích tụ trong lòng, làm cho khí huyết lưu thong. Phòng ngừa đờm và hoả, cần ăn uống thanh đạm, và kèm thêm dung các loại thuốc tiêu đờm, hạ hoả. Chỉ cần tiêu trừ được 3 thành phần gây bệnh trên, có thể đề phòng, ngăn ngừa được bệnh viêm họng hạt.

Người sau khi bị mắc viêm họng hạt, đầu tiên cần không được làm cho cơ thể mắc thêm tổn hại nào nữa về tinh thần và cơ thể. Nên uống những loại thuốc Đông y như: hạt quýt hồng, hạt mộc hương điều khí, dưỡng âm thanh phế, cũng có thể trị được viêm họng hạt trong thời gian đầu. Ngoài ra, bệnh nhân viêm họng hạt thường mang trong mình áp lực rất nặng nề, có một số người bệnh hạt viêm họng ở vị trí thực quản, thì lo nghĩ rất nặng nề, thực ra về mặt cảm giác, viêm họng hạt và ung thư thực đạo không giống nhau, bình thường ung thư thực đạo không có cảm giác khó chịu, khi nuốt mới cảm thấy vướng vướng, nhưng viêm họng hạt thì khi nuốt rất không thuận lợi, càng khi không có việc gì làm, thì sự chú ý càng tập trung, càng khi không nuốt vật gì càng cảm thấy rõ rệt. Những người viêm họng hạt trong khi vừa tích cực điều trị căn bệnh này, vừa cần xây dựng một tâm trạng tốt, nên nghĩ đến kết quả sớm thoát khỏi căn bệnh này vào một ngày sớm nhất để vứt bỏ việc hình thành nên gánh nặng tâm lý.

Thuốc tiêm Bleomycin – Blenoxane

TÊN CHUNG: BLEOMYCIN – TIÊM (BLEE-oh-MY-sin)
TÊN THƯƠNG HIỆU: Blenoxane

Cảnh báo | Công dụng của thuốc | Cách sử dụng | Tác dụng phụ | Thận trọng | Tương tác thuốc | Quá liều | Lưu ý | Liều bị quên | Bảo quản

CẢNH BÁO:

Hiếm khi, bleomycin có thể gây ra phản ứng nghiêm trọng giống như dị ứng. Điều này phổ biến nhất ở bệnh nhân mắc u lympho. Trước khi bắt đầu điều trị chính với loại thuốc này, bác sĩ có thể chỉ định cho bạn một liều thử nhỏ để kiểm tra các dấu hiệu của phản ứng nghiêm trọng này. Hãy thông báo cho bác sĩ ngay lập tức nếu bạn gặp bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng nào sau đây: chóng mặt/ngất xỉu, lú lẫn, sốt, ớn lạnh, khó thở.

Các vấn đề nghiêm trọng về phổi (sẹo phổi) đôi khi (hiếm gặp) đã xảy ra ở những bệnh nhân sử dụng thuốc này. Phản ứng này có nhiều khả năng xảy ra hơn ở bệnh nhân trên 70 tuổi. Nguy cơ của phản ứng này tăng lên khi bạn nhận thêm nhiều liều của thuốc này. Vấn đề này có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong quá trình điều trị. Hãy thông báo ngay cho bác sĩ nếu bạn gặp bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng nào sau đây: ho, sốt, ớn lạnh, đau ngực, hoặc khó thở/đau khi thở.

CÔNG DỤNG:

Bleomycin được sử dụng để điều trị ung thư. Nó hoạt động bằng cách làm chậm hoặc ngừng sự phát triển của các tế bào ung thư. Thuốc này cũng có thể được sử dụng để kiểm soát sự tích tụ dịch xung quanh phổi (tràn dịch màng phổi) do các khối u đã lan tới phổi. Đối với tình trạng này, bleomycin được đặt vào khoảng không gian xung quanh phổi thông qua ống dẫn lưu ngực.

CÁCH SỬ DỤNG:

Thuốc này được tiêm vào tĩnh mạch, vào cơ, hoặc dưới da bởi chuyên viên y tế, thường một hoặc hai lần mỗi tuần hoặc theo chỉ định của bác sĩ. Khi tiêm vào tĩnh mạch, thuốc được tiêm từ từ trong khoảng 10 phút. Hãy thông báo cho chuyên viên y tế ngay nếu bạn gặp bất kỳ cơn đau ngực nào. Thuốc có thể cần được dừng lại hoặc tiêm chậm hơn. Liều lượng dựa trên tình trạng sức khỏe của bạn, kích thước cơ thể và phản ứng của bạn với điều trị.

Nếu bạn đang nhận thuốc này qua ống dẫn lưu vào không gian xung quanh phổi, dung dịch thường được để lại trong 4 giờ và sau đó được dẫn lưu ra qua ống dẫn lưu ngực. Bác sĩ có thể hướng dẫn bạn thay đổi vị trí trong suốt 4 giờ để đảm bảo dung dịch tiếp xúc với tất cả các phần của phổi.

TÁC DỤNG PHỤ:

(Xem phần Cảnh báo để biết thêm thông tin). Đau/đỏ tại chỗ tiêm, sốt, ớn lạnh, nôn mửa, chán ăn, sụt cân, sạm da hoặc thay đổi ở móng tay/chân có thể xảy ra. Thay đổi chế độ ăn uống như ăn nhiều bữa nhỏ hoặc hạn chế hoạt động có thể giúp giảm bớt một số tác dụng phụ này. Trong một số trường hợp, điều trị bằng thuốc có thể cần thiết để ngăn ngừa hoặc giảm buồn nôn và nôn. Nếu bất kỳ tác dụng phụ nào kéo dài hoặc trở nên tồi tệ hơn, hãy thông báo cho bác sĩ hoặc dược sĩ ngay lập tức.

Rụng tóc tạm thời có thể xảy ra. Tóc sẽ mọc lại bình thường sau khi điều trị kết thúc.

Nhiều người sử dụng thuốc này gặp phải tác dụng phụ nghiêm trọng. Tuy nhiên, bác sĩ của bạn đã kê đơn thuốc này vì họ đã đánh giá rằng lợi ích đối với bạn lớn hơn nguy cơ của tác dụng phụ. Việc theo dõi cẩn thận bởi bác sĩ có thể làm giảm nguy cơ của bạn.

Vết loét đau trên môi, miệng và cổ họng có thể xảy ra. Để giảm nguy cơ, hãy hạn chế thức ăn và đồ uống nóng, chải răng cẩn thận, tránh sử dụng nước súc miệng có cồn và súc miệng thường xuyên với nước mát.

Bleomycin thường gây ra các phản ứng trên da (ví dụ: đỏ, ngứa).

Phồng rộp, phát ban, sưng thường xảy ra trong tuần thứ hai hoặc thứ ba của quá trình điều trị. Những phản ứng này không phải lúc nào cũng nghiêm trọng, nhưng bạn có thể không phân biệt được chúng với dấu hiệu của phản ứng nghiêm trọng. Vì vậy, hãy thông báo ngay cho bác sĩ nếu bạn phát triển bất kỳ phản ứng da nào. Báo ngay cho bác sĩ nếu bạn có bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng nào, bao gồm: chóng mặt/ngất xỉu, nhịp tim nhanh/mạnh, tê/ngứa ran, cảm giác lạnh ở tay/chân, dễ bầm tím/chảy máu, da nhợt nhạt/xanh, ho ra máu, nôn ra máu hoặc có màu giống bã cà phê, dấu hiệu nhiễm trùng (ví dụ: đau họng dai dẳng), thay đổi lượng nước tiểu, thay đổi tâm thần/tâm trạng (ví dụ: lú lẫn, hung hăng), buồn nôn kéo dài, đau bụng/dạ dày, nước tiểu màu hồng/đậm, mắt/vàng da.

Hãy tìm trợ giúp y tế ngay lập tức nếu gặp bất kỳ tác dụng phụ hiếm gặp nhưng rất nghiêm trọng nào như: yếu một bên cơ thể, thay đổi thị lực, nói lắp, đau ngực.

Phản ứng dị ứng nghiêm trọng với thuốc này rất hiếm, nhưng hãy tìm sự giúp đỡ y tế ngay lập tức nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào của phản ứng dị ứng nghiêm trọng, bao gồm: lú lẫn, phát ban, ngứa/sưng (đặc biệt là mặt/lưỡi/họng), chóng mặt nghiêm trọng, khó thở.

Đây không phải là danh sách đầy đủ các tác dụng phụ có thể xảy ra. Nếu bạn nhận thấy bất kỳ tác dụng nào không được liệt kê ở trên, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc dược sĩ.

THẬN TRỌNG:

Trước khi sử dụng bleomycin, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết nếu bạn bị dị ứng với thuốc này hoặc có bất kỳ dị ứng nào khác. Sản phẩm này có thể chứa các thành phần không hoạt tính, có thể gây ra phản ứng dị ứng hoặc các vấn đề khác. Hãy nói chuyện với dược sĩ để biết thêm chi tiết.

Trước khi sử dụng thuốc này, hãy thông báo cho bác sĩ hoặc dược sĩ về tiền sử bệnh của bạn, đặc biệt là: các vấn đề về hệ miễn dịch (ví dụ: hóa trị, vấn đề tủy xương), bệnh thận, bệnh gan, vấn đề về phổi.

Thuốc này có thể làm cho phổi của bạn nhạy cảm hơn với liệu pháp oxy. Do đó, hãy thông báo cho bác sĩ hoặc nha sĩ rằng bạn đã sử dụng thuốc này trước khi phẫu thuật hoặc bất kỳ liệu pháp điều trị nào có thể sử dụng oxy.

Chức năng thận giảm dần theo tuổi tác. Thuốc này được đào thải qua thận, vì vậy người cao tuổi có thể có nguy cơ cao hơn về tác dụng phụ (ví dụ: các vấn đề về phổi) khi sử dụng thuốc này.

Thuốc này không được khuyến cáo sử dụng trong thời kỳ mang thai vì có thể gây hại cho thai nhi. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để biết thêm chi tiết. Nếu bạn có thai hoặc nghĩ rằng mình có thai, hãy thông báo cho bác sĩ ngay lập tức.

Không biết liệu thuốc này có đi vào sữa mẹ hay không. Vì có nguy cơ gây hại cho trẻ sơ sinh, việc cho con bú trong khi sử dụng thuốc này không được khuyến khích. Tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi cho con bú.

TƯƠNG TÁC THUỐC:

Tương tác thuốc có thể làm thay đổi cách thức hoạt động của các loại thuốc hoặc làm tăng nguy cơ mắc tác dụng phụ nghiêm trọng. Tài liệu này không chứa tất cả các tương tác thuốc có thể xảy ra. Hãy lưu giữ danh sách tất cả các sản phẩm bạn đang sử dụng (bao gồm thuốc kê đơn/không kê đơn và các sản phẩm thảo dược) và chia sẻ với bác sĩ và dược sĩ của bạn. Không bắt đầu, ngừng hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không có sự chấp thuận của bác sĩ.

Một số sản phẩm có thể tương tác với thuốc này bao gồm: brentuximab, digoxin, thuốc có thể gây hại cho thận (ví dụ: aminoglycoside như gentamicin, cisplatin), phenytoin.

QUÁ LIỀU:

Nếu nghi ngờ quá liều, hãy liên hệ ngay với trung tâm kiểm soát chất độc hoặc phòng cấp cứu.

LƯU Ý:

Các xét nghiệm y khoa và/hoặc phòng thí nghiệm (ví dụ: chụp X-quang phổi, tổng phân tích tế bào máu, xét nghiệm thận, xét nghiệm gan) nên được thực hiện định kỳ để theo dõi tiến trình của bạn hoặc kiểm tra tác dụng phụ. Tham khảo ý kiến bác sĩ để biết thêm chi tiết.

LIỀU BỊ QUÊN:

Để có được hiệu quả tốt nhất, điều quan trọng là phải nhận mỗi liều thuốc theo lịch trình. Nếu bạn quên một liều, hãy liên hệ với bác sĩ để thiết lập lại lịch dùng thuốc. Không được dùng gấp đôi liều để bù cho liều đã quên.

BẢO QUẢN:

Không áp dụng. Thuốc này được cung cấp tại bệnh viện hoặc phòng khám và không được lưu trữ tại nhà.

Vacxin Uốn Ván – Tiêm chủng mở rộng

Đại cương về bệnh uốn ván

Uốn ván là một bệnh cấp tính có tỷ lệ tử vong cao do ngoại độc tố của trực khuẩn uốn ván (Clostridium tetani) gây ra. Trực khuẩn này phát triển tại vết thương trong điều kiện yếm khí, sau đó giải phóng ngoại độc tố vào dòng máu và tấn công vào các bản vận động thần kinh-cơ làm cho bệnh nhân bị co cứng cơ và trên nền cứng đó xuất hiện các cơn co giật. Cơn co giật thường xuất hiện khi có kích thích nhưng cũng có thể xuất hiện tự nhiên. Tuỳ theo mức độ nhiễm độc, vị trí vết thương và độ rộng cũng như điều kiện yếm khí tại vết thương, biểu hiện lâm sàng có thể là uốn ván khu trú ( uốn ván thể đầu, giật một chi…) hay uốn ván toàn thể.

Thòi kỳ ủ bệnh khoảng 4-21 ngày, thường trong vòng 7-10 ngày. Tử vong do suy hô hấp, íổì loạn thần kinh thực vật và ngừng tim.

Uốn ván sơ sinh là một trong những nguyên nhân gây

chết hàng đầu ở một số nước đang phát triển ở châu Á , châu Phi và Nam Mỹ nhưng ở các nước phát triển đây là một bệnh thường gặp ở người già.

Tỷ lệ tử vong của uốn ván tuỳ thuộc vào điều kiện hồi sức cấp cứu và điều trị sớm hay muộn, nhưng thường tỷ lệ chết rất cao có thể từ 10 -80%. Việc điều trị bao gồm việc xử trí mở rộng vết thương loại bỏ điều kiện yếm khí, dùng penicillin để diệt vi khuẩn kết hợp với liệu pháp huyết thanh , chống co giật và hồi sức.

Tuy nhiên, uốn ván có thể dự phòng dễ dàng nhờ có Vacxin. Vacxin uốn ván thường được sản xuất phối hợp với Vacxin phòng bạch hầu và ho gà.

Xem bệnh Uốn ván

Chẩn đoán và điều trị uốn ván ở trẻ em

Bệnh Uốn Ván (phong đòn gánh) – Triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Các loại Vacxin uốn ván (TT)

Vacxin uốn ván TT:

  • Tên chung: Vacxin TT
  • Tên thương mại: Vacxin uốn ván hấp phụ
  • Nơi sản xuất: Viện Vacxin và các chế phẩm sinh học – Nha Trang
  • Thời gian bảo vệ : Trong vòng 5 năm
  • Tác dụng phụ:

Quầng đỏ, sưng nhẹ tại chỗ tiêm, sốt 38°c – 39°c. Tác dụng phụ nói chung là nhẹ, tự mất đi

Có thể bị các phản ứng nhạy cảm trong các trường hợp tiêm nhắc lại quá nhiều lần

  • Chống chỉ định:

Đang mắc bệnh cấp tính

Phản ứng với lần tiêm trước

  • Lịch tiêm:

Miễn dịch cơ bản: 2 liều cách nhau ít nhất 30 ngày. 6-12 tháng sau tiêm nhắc lại liều thứ 3

Phụ nữ đang tuổi sinh đẻ:

  1. Liều 1: tiêm ở tuổi dậy thì càng sớm càng tốt
  2. Liều 2: cách liều thứ nhất ít nhất 30 ngày
  3. Liều 3: cách liều thứ hai ít nhất 6 tháng hoặc khi có thai
  4. Liều 4: cách liều thứ ba ít nhất 1 năm hoặc khi có thai lần sau
  5. Liều 5: cách liều thứ tư ít nhất 1 năm hoặc khi có thai lần sau

Phụ nữ có thai chưa tiêm lần nào: gây miễn dịch cơ bản bằng 2 liều, liều thứ 2 trước khi sinh ít nhất 30 ngày.

  • Vacxin uốn ván hấp phụ (Tetanus Toxoid Vacxine Adsorbed)

Tên Naccin uốn ván hấp phụ

  • Tên thương mại: Tetanus Toxoid Vacxine Adsorbed
  • Nơi sản xuất: Human Serum Production and Medicine Manufacturing Co.Ltd. – Hungary
  • Thời gian bảo vệ : Trong vòng 5 năm
  • Tác dụng phụ

Các phản ứng phụ thường nhẹ và khu trú tại nơi tiêm. Có thế xuất hiện phản ứng viêm cùng với sốt thoáng qua, khó chịu và kích thích. Đôi khi thấy nổi hạch ở nơi tiêm nhưng rất hiếm gặp. Hiện tượng thâm nhiễm có thể giảm khi dùng băng ép lạnh.

  • Chống chỉ định:

Những người đang điều trị bằng corticosteroid hoặc các thuốc ức chế miễn dịch khác, hoặc đang được điều trị tia xạ có thể không có đáp ứng miễn dịch tốt. Đôi khi thấy hiện tượng phản ứng nặng hơn ở những người đã được gây miễn dịch nhắc lại nhiều lần.

  • Lịch tiêm:

Phòng uốn ván ở trẻ em và người lớn, đặc biệt là người hay phơi nhiễm với vi khuẩn uốn ván như phụ nữ tuối sinh đẻ và người làm việc bên ngoài: người làm vườn, nông dân, vận động viên… Phòng uốn ván sơ sinh bằng cách tiêm cho phụ nữ tuổi sinh đẻ và phòng uốn ván do chấn thương.

Tiêm 2 liều 0,5ml cách nhau 4 – 6 tuần. 6 tháng đến 1 năm sau tiêm nhắc lại một liều 0,5ml (đê tạo miễn dịch lâu dài). Cứ 5 – 10 năm sau lại tiêm một liều 0,5ml để tạo được mức độ bảo vệ cao.

Phòng uốn ván cho trẻ sơ sinh:

Tiêm liều miễn dịch cơ bản cho mẹ ngay khi có thai. Người đã được tiêm 2 liều trước khi có thai sẽ được bảo vệ chống lại uốn ván sơ sinh. Trẻ sinh ra trong vòng 5 năm được bảo vệ khỏi uốn ván sơ sinh. Nếu mang thai sau 5 năm thì phải tiêm nhắc lại.

Người bị thương: nếu đã được gây miễn dịch cơ bản đầy đủ hoặc đã được tiêm liều nhắc lại trong vòng 5 năm thì không cần tiêm nữa.

Nếu đã quá 5 năm và nghi ngờ bị uốn ván thì tiêm ngay 0,5ml Vacxin.

Nếu tiền sử tiêm không rõ thì tiêm 1500 IU huyết thanh kháng uốn ván và 0,5ml Vacxin bằng 2 bơm tiêm ở 2 vị trí khác nhau (nếu có thể thì tiêm 250 đơn vị globulin miễn dịch người thay cho huyết thanh uốn ván). 2 tuần sau sau tiêm liều thứ nhất thì tiêm liều 2 với 0,5ml và 1 tháng sau tiêm liều thứ 3 với 0,5ml .

Chú ý: nếu tiêm kháng huyết thanh chống uốn ván chế từ huyết thanh ngựa thì phải thử tét mẫn cảm của bệnh nhân trước khi dùng và phải lưu ý chuẩn bị chống sốc khi tiêm huyết thanh.

Vacxin uốn ván Tetavax

  • Tên chung: Vacxin uốn ván hấp phụ
  • Tên thương mại: Tetavax
  • Nơi sản xuất: Pasteur Merieux Connaught – Pháp
  • Thời gian bảo vệ:Trong vòng 5 năm
  • Tác dụng phụ: Do thành phần của chất hấp phụ, có thể có phản ứng tại chỗ như nổi cục tại nơi tiêm, sau đó tan dần.
  • Chống chỉ định: nói chung không có chống chỉ định. Nếu nghi ngờ nên hỏi ý kiến bác sỹ
  • Lịch tiêm: Liều 0,5ml, tiêm bắp hoặc tiêm dưới da sâu

Gây miễn dịch cơ bản ở người lớn: do tính kháng nguyên cao của Vacxin, cần tiêm 2 liều 0,5ml cách nhau 4 – 6 tuần,

Từ 6-12 tháng sau mũi thứ 2 thì tiêm nhắc lại 1 liều 0,5ml. Để duy trì miễn dịch ở phụ nữ tuổi sinh đẻ, 1 năm sau tiêm liều thứ 4, sau đó 1 năm tiêm liều thứ 5,

Tiêm nhắc lại: cứ mỗi 10 năm tiêm 1 liều 0,5ml,

Tiêm cho phụ nữ có thai để phòng uôn ván sơ sinh: 2 mũi, cách nhau ít nhất 4 tuần, 6-12 tháng sau tiêm mũi thứ 3,

Theo khuyến cáo của WHO, người nhiễm HIV có hoặc không có triệu chứng cần được tiêm Vacxin uốn ván Tetavax theo lịch tiêm thông thường,

Vacxin Bạch hầu – uốn ván hấp phụ

  • Tên chung: Vacxin bạch hầu – uốn ván hấp phụ
  • Tên thương mại: DTVAX
  • Nơi sản xuất:Pasteur Merieux Connaught – Pháp
  • Thời gian bảo vệ: 5 năm
  • Tác dụng phụ:

Phản ứng đau tại chỗ hiếm gặp

Có thể sốt nhẹ trong khoảng 14-48 giờ sau khi tiêm

Mảng cứng hoặc nổi cục dưới da đôi khi xuất hiện 1 tuần hoặc vài tuần

Những phản ứng này có thể nặng, đặc biệt khi tiêm liều nhắc lại. Trong những trường hợp này, thường là do phản ứng dị ứng đốì với giải độc tố hạch hầu

  • Chống chỉ định:

Những trường hợp chống chỉ định thường gặp đối với các loại Vacxin khác, đặc biệt là:

Đang bị bệnh kèm theo sốt

Phụ nữ có thai

Bệnh lao

Suy giảm miễn dịch bẩm sinh hoặc mắc phải

Bệnh bạch cầu cấp, tăng lympho và các bệnh u ác tính toàn thể khác

Bệnh thận nặng

Bệnh tim mất bù

Chú ý: các trường hợp phản ứng mạnh sau lần tiêm trước thì khi tiêm liều sau phải hỏi ý kiến bác sỹ.

  • Lịch tiêm:

DTVAX dùng để phòng ngừa đồng thời 2 bệnh bạch hầu và uốn ván ở trẻ nhỏ và trẻ em. Liều tiêm 0,5ml. Tiêm bắp hoặc tiêm dưới da sâu

Gây miễn dịch cơ bản: 3 mũi 0,5ml, tiêm cách nhau 1 tháng

Tiêm nhắc lại: tiêm 1 liều 0,5ml sau mũi tiêm thứ ba 1 năm, sau đó cứ mỗi 5 – 10 năm tiêm 1 mũi sử dụng Vacxin chứa liều biến độc tố bạch hầu giảm

Theo WHO, trẻ nhiễm HIV có hoặc không có triệu chứng vẫn có thể tiêm DTVAX theo lịch tiêm bình thường

Điện châm chữa bệnh Đau đầu

Nguyên nhân và chứng hậu

Đau đầu do nhiều nguyên nhân nên các thể bệnh cũng khác nhau.

Do khí hư :

Vấn : Lúc đau, lúc không, lao động nặng thì đau nhiều hơn, mệt mỏi. Thiết : Mạch hư, đại, nhu.

Do huyết hư :

Vấn : Đau phía đuôi lông mày, đau lắm râm cả ngày, có chứng sợ sệt. Thiết : Mạch tế, sác, vô lực.

Do đàm :

Vấn : Đau đầu kèm chóng mặt, mửa đờm dãi, hai gò má đỏ, ít nói.

Thiết: Mạch hoạt.

Do nhiệt:

Vọng : Mặt đỏ, rêu lưỡi vàng dày.

Vấn : Người nóng, nóng ruột, miệng khát.

Thiết : Mạch hồng, sác.

Do thấp :

Vấn : Đầu nặng, mệt nhọc, trở trời càng đau.

Thiết : Mạch hoãn tế.

Do cảm mạo :

Vân : Phát sốt, ớn rét, không có mồ hôi.

Thiết : Mạch phù khẩn (phong hàn).

Mạch phù sác (phong nhiệt).

Do phong:

Vấn : Đau kịch liệt, đau có lúc nghỉ.

Thiết : Mạch huyền.

Do huyễn vựng :

Vì phong động hoả bốc lên hoặc do thận âm suy yếu mà can khi quá thịnh gây ra.

Vân : Trên đầu choáng váng, mặt mày xây xẩm, mắt tối đen, huyết áp dao động.

Thiết : Mạch huyền nhược (chứng hư).

Mạch hoạt, sác (chứng thực).

Điều trị

Hướng điều trị :

Tuỳ theo nguyên nhân mà bổ âm, thanh nhiệt hạ hoả, khu phong, tán hàn, trừ thấp V.V..

Huyệt sử dụng :

Do khí hư : Cứu bách hội, trung quản, túc tam lý, quan nguyên, đại chuỳ.

Do huyết hư : Châm tả đầu duy, hợp cốc, khúc trì, can du; đồng thời châm tả phong trì, bổ huyết hải, túc tam lý.

Do đàm : Tả bách hội, toản trúc, phong long, liệt khuyết*, hoặc tả trung quản, nội quan, phong tri.

Do nhiệt : Chích huyết ở huyệt thái dương, đầu duy, uỷ trung, hợp cốc, sau, châm tả hành gian, khúc trì.

Do thấp : Châm tả bách hội, thượng tinh, thái dương, khúc trì; Kết hợp tả tỳ du, trung quản, nội đình, túc tam lý.

Do cảm mạo : Tả đầu duy, phong trì, hợp cốc phối hợp châm tả phong phủ, ngoại quan.

Do phong : Châm tả phong phủ, ngoại quan, liệt khuyết, thân mạch.

Do huyễn vựng, chứng hư : Cứu bách hội, túc tam lý, thái dương và châm bổ thận du, quan nguyên.

+ Huyết áp thấp thì châm bổ nhân nghinh, hợp cốc. Chứng thực thì tả phong trì, hợp cốc, phong long, thượng tinh và chích huyết thái dương.

+ Huyết áp cao thì châm tả khúc trì, túc tam lý và thái dương.

+ Bị chú : Do âm hư can mạnh thì châm tả can du, hành gian, phong trì. Do đàm hoả quâv rối thì châm tả giải khê, phong long, trung quản, nội quan.

Liệu trình :

Ngày châm một lần, mỗi lần 15-20 phút. Có thể dùng điện châm kết hợp thuỷ châm.

Bệnh lý thị thần kinh do chấn thương

Những chấn thương sọ mặt có thể gây tổn hại thị thần kinh phần trong sọ và trong hốc mắt, được coi là nguyên phát. Đó là những vết thương kín hoặc hở, kể cả những phẫu thuật ở vùng lân cận gây tổn thương trực tiếp vào phần giải phẫu thị thần kinh, còn những xuất huyết nền sọ hoặc hốc mắt thì có thể gây lồi mắt theo cơ chế làm cản trở nuôi dưỡng và dẫn truyền, được coi là tổn thương thị thần kinh thứ phát.

Loại trừ những chấn thương trực tiếp vào vùng chẩm gây tổn thương trung khu thị giác. Còn lại là những chấn thương bị giập ở đầu phía thái dương, hốc mắt, gò má một bên làm tổn thương thị thần kinh cùng bên. Theo một số tác giả, tổn thương thị thần kinh hay gặp trong những chấn thương nặng, trung bình chứ không phải những chấn thương sọ nặng nề gây hôn mê kéo dài.

Các đặc điểm

  • Thường chỉ bị tổn thương một mắt do tổn thương trực tiếp, hiếm khi gặp ở hai mắt.
  • Có thể mất ngay thị lực hoặc giảm thị lực muộn hơn.
  • Về phương diện bệnh lý học và pháp y, giảm thị lực sau chấn thương theo hai cơ chế:

+ Tổn thương sớm thường do chấn thương ở ngã tư nền sọ, có thể kéo theo vỡ ống thị giác, làm tổn thương sợi thần kinh hoặc nhồi máu thị thần kinh.

+ Do chèn ép thị thần kinh trong ống thị giác:

Do gãy xương tụ máu ngoài màng cứng, tụ máu lổp vỏ bọc thị thần kinh.

Do tổn thương mạch máu: có thể đứt, tắc, thậm chí co cứng mạch nuôi thị thần kinh gây thiếu máu.

Do đứt thị thần kinh: đó là rách các sợi thị giác. Rách một phần hoặc toàn bộ (đứt). Do gãy xương hoặc sự đột ngột va chạm của xương ở chỗ nối giữa phần thị thần kinh ở phía trước và sau ống thị giác gây mù ngay lập tức.

Ngoài ra còn có thể do ngừng dẫn truyền đột ngột do co thắt mạch màng cứng.

Trường hợp có dị vật có thể làm rách thị thần kinh. Đặc biệt vật sắc nhọn xuyên vào hốc mắt có thể làm đứt mạch nuôi thị thần kinh gây bệnh cảnh thiếu máu trên lâm sàng.

Còn tổn thương muộn hơn hoặc nặng dần lên thường do cơ chế chèn ép thị thần kinh.

Tổn hại chức năng thị giác

  • Thị lực giảm nhiều – có khi không còn nhận thức ánh sáng. Tuy vậy phản xạ ánh sáng vẫn còn nếu không có tổn thương cơ co đồng tử hoặc dây III phối hợp. Đó là dấu hiệu đầu tiên của những người không bị hôn mê và phải theo dõi nó trong quá trình tiến triển.
  • Hình ảnh đáy mắt bình thường, chỉ thay đổi sau khoảng 3 tuần. Đĩa thị giác có thể bạc màu toàn bộ hoặc chỉ bạc màu phía thái dương. Có giả thuyết cho rằng sự xuất hiện bạc màu tuỳ thuộc vào khoảng cách giữa điểm bị tổn thương của thị thần kinh với đìa thị vì sự thoái hoá cùng một lúc về cả hai phía của dây thần kinh thị giác. Phù đĩa thị giác một bên sau chấn.thương thì ít gặp hơn. Nếu có, là do sự tắc nghẽn ở ống thị giác hoặc do xuất huyết trong lốp vỏ bọc thị thần kinh, hoạ hoằn có thể thấy bệnh cảnh tắc tĩnh mạch trung tâm võng mạc.
  • Thay đổi điện chẩm kích thích (PEV):

Khi kích thích ở mắt lành thì đường truyền trực tiếp và bắt chéo còn bình thường. Nếu kích thích bên tổn thương thì ngược lại.

+ ở giai đoạn sớm, PEV có thể còn tồn tại nhưng giảm biên độ và có thể tiến triển đến tiêu huỷ.

+ Nếu PEV tiêu huỷ ngay sau chấn thương: tiên lượng sẽ rất xấu.

+ . Nếu PEV giảm biên độ, đó là một trong những lý do có thể chỉ định phẫu thuật giảm chèn ép thị thần kinh.

  • Khám nghiệm siêu âm B: chỉ cho phép chẩn đoán tổn thương thị thần kinh đoạn trong hốc mắt, còn không thể thăm dò phần sau.

– Dấu hiệu X quang: Chụp cắt lớp có thể thấy được sự giãn to khẩu kính thị thần kinh phần hốc mắt – do xuất huyết lốp vỏ bọc hoặc tràn dịch não tủy hoặc nghẽn dưới màng nhện. Hình ảnh đường ray tàu hoả do sợi trục ít cản quang ở giữa – tụ máu xung quanh gây cản quang đậm hai bên.

Có thể thấy gãy xương di lệch hoặc không, vỡ ống thị giác, vỡ xương sọ và tổn thương cấu trúc não.

Tiến triển: tự nhiên.

Theo Y văn, thị lực dù có phục hồi cũng không hoàn toàn hoặc có tổn thương thị trường. Mất thị lực ngay lập tức chiếm 18% – cá biệt có trường hợp được cải thiện. Mù mụộn hơn thì không bao giờ hồi phục được.

Điều trị

Có thể dùng thuốc giãn mạch và liệu pháp cortison kéo dài để giảm phù, giảm sẹo xơ và cải thiện toàn hoàn. Một số tác giả dùng liệu pháp Bolus (prednisolon lg/ngày X 3 ngày), nếu không có hiệu quả thì không cần điều trị tiếp.

Chỉ định phẫu thuật: nếu có tổn thương sọ phối hợp, chẳng hạn mảnh xương vỡ chèn ép vào đường thị giác. Nếu gãy xương không dị lệch thì có thể theo dõi. Nếu dị lệch, có thể phẫu thuật. Có thể phẫu thuật rạch vỏ bọc thị thần kinh nếu nó bị giãn to.

Thuốc nam chữa đại tiện ra máu

Là đại tiện ra máu và trong tạng phủ chất chứa độc thấp nhiệt mà sinh ra, hoặc nhân lo nghĩ, rượu chè sắc dục quá chừng, hoặc ham ăn đồ chiên xào, nhiệt độc quá nhiều hoặc cảm phong tà, hoặc cảm thử thấp đến nỗi khí huyết nghịch loạn, vinh vệ sái đường, nên khí đi bậy đưa máu đi càn lên đến não ra các khiếu trên, đi xuống thì ra các khiếu dưới nên tiêu ra máu, hoặc ra máu trước phân sau, hoặc phân ra trước máu sau, hoặc phân với máu ra cùng một lúc.

Phép chữa đều phải thanh nhiệt giải độc.

  1. Tiêu ra máu

– Mực tàu tán bột 2 đồng cân, A giao nấu tan hòa lẫn mà uống, bệnh nóng càng nhiều càng hợp thuốc này.

2 Tích nhiệt tiêu ra máu

– Đó là ruột với dạ dày tích nhiệt hoặc vì tửu độc, đại tiện ra máu, đau bụng khát nước mạch sác.

– Hoàng liên 4 lạng, chia 4 phần: 1 phần để sông, 1 phần sao qua, 1 phần ngâm nước sôi, 1 phần tẩm nước lạnh; Hoàng cầm 1 lạng, Phòng phong 1 lạng đều tán bột viên với hồ; Chỉ xác tẩm nước gạo nấu uống, mỗi lần 50 viên, mùa đông gia Đại hoàng (chưng với rượu) 1 lạng.

  1. Tiêu ra máu không cầm được

– Kinh giới sao tán bột uống 2 đồng cân với nước cơm, phụ nữ uống với rượu hoặc trộn bột mì mà ăn cũng được.

  1. Các chứng tiêu ra máu

– Hương phụ tẩm nước tiểu 1 ngày sao với giấm chua, đậu đen (thứ tía, nấu bồ kết lấy nước tẩm đồ sao chín bỏ vỏ), 2 thứ tán bột trộn mỡ lợn viên, uống.

  1. Tiêu ra phân trước rồi sau ra máu
  • Lá ngải, gừng tươi nấu lấy nước uống 3 cáp.
  1. Tiêu tiểu ra máu
  • Lưu kí nô[1], Tầm gửi đất, tán bột uống lúc đói 2 đồng cân với nước chè.
  1. Tiêu ra máu không khỏi
  • Mộc tặc 5 đồng cân, sắc uống ngày 2 lần.
  1. Tiêu ra máu vì hư hàn
  • Phụ tử chế 1 củ, gừng sông 2,5 đồng cân
  • Phèn chua 2 đồng cân, đậu đen 100 hột sắc uống.
  1. Tiêu ra máu nguy quá không cứu được
  • 1 quả mướp đốt tồn tính, hoa hòe 1 nửa, tán bột uống với nước cơm ngày 2 lần khỏi ngay.
  1. Tiêu máu lâu năm không khỏỉ
  • Quyền bách và Địa du sấy khô 2 vị đều nhau, mỗi lần lấy 1 lạng sắc với 1 bát nước, nấu sôi vài chục dạo uống cả ngàv.
  1. Tiêu chảy ra máu
  • Hạt mùi 1 cáp, sao thơm, tán 1 lần uống 2 đồng cân với nước chín, ngày 2 lần
  • Địa phu tử sắc lấy nước (không có hạt thì dùng lá giã vắt lấy nước) nấu cháo gạo tẻ ăn
  • Tóc rối 5 đồng cân đốt thành tro, hoa Mào gà, lá Trắc bá đều 1 lạng tán, uống 2 đồng cân với rượu lúc đi ngủ, sáng sớm uống 1 chén rượu nóng chỉ 1 lần là hữu hiệu
  • Hoa hòe, hột Mã đề đều nhau, sao chung tán uống 2 đồng cân với nước là yên.
  1. Tiêu chảy ra máu không ngớt
  • Cỏ Tháp bút 5 đồng cân, sắc uống lúc đói.
  1. Người già tiêu ra máu không ngừng đã uống thuốc cầm không thấy công hiệu
  • Dùng Tứ vật thang gia Đơn bì, Bạch truật dể điều hòa tỳ vị là khỏi.
  1. Đi ngoài ra máu, không kể là chứng trường phong hay chứng tạng độc

Trường phong với tạng độc đều tiêu ra máu nhưng mức độ nặng nhẹ khác nhau:

  • Trường phong: tiêu máu trước, máu tươi, còn gọi là cận huyết.
  • Tạng độc là máu ra sau phân, bầm đen, gọi là viễn huyết.
  • Lá đơn tía (đơn mặt trời, miền Nam gọi là lá liễu trồng làm cảnh) 1 nắm, sắc đặc uống khi đói, bệnh nặng cũng chỉ uống 3 lần là khỏi.
  • Cỏ sẹo gà, Gương sen, vỏ Cây vải, Tinh tre, Hồng hoa, sắc 3 phân. Vỏ bưởi (bỏ cùi trắng) 2 phân, cỏ Bấc 1 phân, Mộc thông 1 phân, nước 1 bát, sắc còn 1/2, bỏ bã, hòa 1/2 chén mật ong uống lúc đói.
  • Lá Ngải cứu 1 nắm, đậu đen 100 hột, nước 1 bát, sắc còn 1/2, hòa 1/2 chén nước uống.

    Ngải cứu
    Ngải cứu
  1. Trường phong hạ huyết
  • Quả cà già cả tai (đã qua mùa sương) đốt tồn tính, tán, 1 lần uống 2 đồng cân với rượu lúc đói.
  • Mướp 1 quả già (đã qua mùa sương) đốt tồn tính, tán, 1 lần uống 2 đồng cân với rượu khi đói, hoặc giã 1/2 đồng cân hoa hòe cùng sao, tán, uống với nước cơm, bệnh nguy cũng chữa được.
  • Thạch xương bồ (tẩm nước gạo), hoa Hòe, sao, đều nhau, tán, 1 lần uống 2 – 3 đồng cân với nước cơm khi đói.
  • Bột bồ kết, hột hoa hòe, đều 1 phân, sao chung với lúa chiêm, bỏ lúa lấy thuốc, tán, uống 1 đồng cân với nước sắc gạo.
  • Chỉ xác đốt tồn tính 5 đồng cân, xương ống chân dê, đốt thành tro 3 đồng cân, đều tán. Gần sáng (canh 5) đang đói uống với nước cơm, 1/2 giờ sau lại uống lần nữa – không kể lâu mới, uống 1 ngày là công hiệu.
  • Vỏ cây vải, cạo bỏ vỏ ngoài, sắc nhỏ, sắc uống khi đói.
  • Nhân quả Dành dành sao đen 1 cặp, tán, 1 lần uống 1 đồng cân với nước. Có phương gia hồ tiêu 5 hột, viên hồ bằng hạt ngô đồng uống 20 viên.
  • Củ nghệ, xắt lát sấy khô 1 phân, hoa Hòe sao 2 phân – cùng tán, 1 lần uống 2 đồng cân với nước nấu mực tàu ngày 2 lần.
  • Đậu đen thứ săn nhỏ, tẩm nước sắc bồ kết 1 lúc, rồi đem đậu sao vàng, bỏ vỏ tán, viên với mỡ lợn rán bằng hạt ngô đồng, uống 30 viên với nước gạo.
  • Hoa Kinh giới – hoa Hòe, sao đỏ đều bằng nhau – tán, 1 lần uống 3 đồng cân với nước trà hoặc nước sắc Bạc hà. Có phương gia Thanh bì, hoặc Trắc bá diệp sao và Chỉ xác bỏ ruột sao (đều bằng nhau).
  • Tằm voi, bỏ đầu, chân, sao – 2 phân. Ô mai nhục 1 phân, tán – viên với hồ bằng hạt ngô đồng, 1 lần uống 20 viên với nước cơm lúc đói.
  1. Tiêu chảy rồi kiết lỵ
  • Khô phàn phi tán nhỏ, lấy giấm nấu hồ mà viên, mỗi lần uống 20-30 viên. Lỵ sắc trắng thì thang với nước gừng.
  1. Trường phong tiêu ra máu hàng tuần không khỏỉ
  • Củ cải, thứ lớn 2 – 3 củ cả lá 12 lá, nấu với nước giếng chín nhừ, hòa giấm lạt, ăn cho phỉ sức lúc đói, rất hay.
  • Hột quả đào (yêu đào tử) bỏ vỏ lấy nhân, mài đặc với nước cơm, uống.
  • Vỏ củ cải, lá sen, cùng đốt tồn tính, đều nhau, tán, 1 lần uống 1 đồng cân với nước cơm.
  • Củ tỏi mật, nướng chín, Hoàng liên, tán, trộn lẫn viên bằng hạt ngô đồng 1 lần uống 30 viên với nước cơm lúc đói.
  • Dạ dày lợn (rửa sạch) 1 cái, hoa hòe, sao, tán, bỏ vào buộc chặt, dùng giấm với rượu ngon và nước cùng đổ vào, đun nhỏ lửa, chín nhừ, nghiền nát, viên bằng hạt ngô đồng, 1 lần uống 50 – 60 viên với rượu hay nước cơm lúc đói.
  • Chỉ xác, bỏ ruột, 2 lạng, da nhím, tóc rối, hoa hòe, đều 1 lạng, đốt thành tro, tán, 1 lần uống 2 đồng cân với nước sắc rễ chanh lúc đói.
  • Mai mực, nướng vàng, tán, 1 lần uống 1 – 2 đồng cân với nước sắc Mộc tặc.
  • Nam tinh, cùng vôi đá, sao cháy vàng, bỏ vôi lấy Nam tinh tán viên với hồ rượu bằng hạt ngô đồng 1 lần uống 20 viên với rượu nhạt.
  • Cốt toái bồ (đốt tồn tính) 5 đồng cân, tán, uống với rượu hay nước cơm lúc đói.
  1. Tạng độc ra máu không ngớt

Hà thủ ô 2 lạng, kỵ sắt, tán, 1 lần uống 2 đồng cân với nước cơm trước khi ăn.

Hột bìm bìm 2,5 lạng, bồ kết 1,5 lạng, cùng ngâm nước 3 ngày, nấu bồ kết cùng nửa cân rượu đến khi rượu cạn, sấy khô, tán, viên với mật bằng hạt ngô đồng, 1 lần uống 7 viên với rượu lúc đói, trong ngày uống thật nhiều, đi ra vật vàng cũng không can gì. Bệnh bớt rồi uống 5 viên với nước cơm.

Hột trám, đốt tán, 1 lần uống 2 đồng cân với nước cơm khi đói thì khỏi.

Nấm tai mèo của cây hòe, 2 lạng, sơn khô 2 lạng – Đều đốt tán, 1 lần uống 1 đồng cân với rượu nóng.

Muội nồi, 5 đồng cân, hòa nước cơm phơi sương 1 đêm, sáng mai uống lúc đói.

  1. Đàn ông tiêu ra máu
  • Đậu đen 1 thăng sao cháy, tán, ngâm rượu nóng bỏ bã, uống.
  1. Đại tiện ra máu vài tháng
  • Hoàng bá 1 lạng bỏ vỏ, dùng lòng trắng trứng gà bôi vào nướng, tán, viên với nước bằng hạt đậu xanh uống 1 lần 7 viên với rượu nóng.
  • Lá Trắc bá, tùy 4 mùa mà hái:

Bệnh về mùa xuân hái lá hướng Đông Bệnh về mùa hè hái lá hướng Nam Bệnh về mùa thu hái lá hướng Tây Bệnh về mùa đông hái lá hướng Bắc Đốt, tán, uống.

  1. Sau khi lành bệnh tiêu ra máu, nguyên khí trong mình suy, sưng phổi nặng nề yếu sức
  • Tầm gửi cây dâu, tán, uống 1 lần 1 đồng cân với nước sôi.
  1. Tiêu ra máu do di truyền
  • Sa nhân tán, sắc 2 đồng cân với nước cơm uống mãi đến lành thì thôi.
  1. Tiêu ra phân trưởc rồi ra máu
  • Lá ngải cứu 1 nắm, gừng sông 1 củ nhỏ, xắt lát, đổ nước sắc đặc, uống 3 cáp là lành. Hoặc gia thêm đậu đen cáp.
  • Cạo lấy nốt sù sì ở cây dâu to, đổ nước sắc uống rất hay.
  1. Tiêu ra máu do uống rượu nhiều
  • Thanh hao, dùng lá thì bỏ cọng, dùng cọng thì bỏ lá, sấy khô, tán, 1 lần uống 2 – 3 đồng cân, máu ra trước phân thì thang với nước lạnh, máu ra sau phân thì thang với rượu.
  1. Vì độc rượu tiêu ra máu hoặc đi lỵ
  • Lá Trắc bá non (chín lần đồ, chín lần phơi) 2 lạng – Hoa hòe lâu năm, sao đen 1 lạng. Đều tán, viên với mật bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 40 viên với rượu ấm lúc đói.
  • Lá Trắc bá, hoa hòe đều sao. Bẹ mốc (Tông bì) đốt ra than, đều nhau, tán 1 lần uống 1 đồng cân với nước cơm khi đói.
  • Nhân quả Dành dành sấy tán, 1 lần uống 1 đồng cân với nước.
  • Hột hòe 1 lạng 1/2 sông 1/2 sao, nhân quả Dành dành 5 đồng cân đều sao, tán, 1 lần uống 2 đồng cân với nước mới múc lúc đói.
  • Theo phương trên bỏ nhân hột Dành dành, gia gương sen
  • Chỉ xác đều sao, uống với nước cơm.
  1. Vì uống nước nóng mà ra máu hoặc vì ăn đồ nóng mà ra máu
  • Đậu đỏ, tán, 1 lần uống 2 đồng cân với nước lã.
  • Củ sắn dây – củ sen, đều nhau, đều giã sống vắt lấy nước 2 thăng uổng.
  1. Tiêu ra máu vì độc rượu sỉnh đi lỵ, hoặc đi lỵ lâu ngày
  • Ô mai 3 lạng đốt tồn tính, tán, viên với hồ giấm bằng hạt ngô đồng, 1 lần uống 20 viên với nước cơm lúc đói, ngày 3 lần.
  1. Trường phong, uống rượu sỉnh lỵ và chứng loét ruột sỉnh lỵ ra máu
  • Quán chúng, bỏ lông, sắc nhô, sấy khô, tán, 1 lần uống 2 đồng cân với nước cơm lúc đói.
  • Quán chúng, đốt tồn tính, để cho tiết hết hòa dộc, tán, gia ít Xạ hương, uống với nước cơm.
  1. Trẻ con tiêu ra máu
  • Rễ cây mai cạo bỏ vỏ ngoài, rửa sạch, đập nát, nước 1 bát sắc còn 1/2 uống lúc đói.
  1. Trường phong tạng độc

Trường phong là tiêu ra máu tươi, tóe ra như phun mà hậu môn không sưng không đau là do phong tà gây nên. Tạng độc là hậu môn sưng bằng quả mận, đại tiện bí, tiểu tiện đỏ, do thấp nhiệt gây nên.

  • Bột muội nồi đất 5 đồng cân, trộn nước cơm phơi sương 1 đêm, sáng mai uống.
  1. Đại trường hạ huyết vì tửu độc
  • Năm con ốc nhồi, đốt đến khi vỏ trắng và thịt khô, nghiền nhỏ, hòa rượu uống mỗi ngày 1 lần.
  1. Trường phong hạ huyết, lâu năm không khỏỉ, hư yếu
  • Phèn xanh 4 lạng, bỏ vào nồi đất mới, lấy ngói mới dậy lên, trộn nước với bùn trát kín, lấy Thanh diêm, Lưu hoàng, mỗi vị

1 lạng cùng bỏ nung đỏ, bắc ra để cho bốc hết hỏa độc, nghiền thêm vào 1 lạng bột Phụ tử, uống với nước cơm hoặc rượu mỗi lần 30 viên.

  1. Trường phong hạ huyết
  • Thổ chu nướng, tôi vào giấm, nghiền uống với nước sôi.
  • Thương truật tẩm nước bồ kết 1 đêm, sấy khô nghiền làm viên uống.
  • Bạch chỉ, hoa hòe, Chỉ xác, đốt cháy 3 vị đều nhau, tán bột lấy nước mới múc về hoặc nước cơm, uống mỗi lần 2 đồng cân.
  • Mộc hương, Hoàng liên đều nhau tán bột, nhồi vào ruột già lợn, khâu lại, ninh nhừ rồi giã ra làm viên uống.
  1. Trường phong hạ huyết
  • Hoa hòe 8 đồng cân, Ô mai 3 quả, Sinh địa 8 đồng cân, Đương quy 1 đồng cân; Kinh giới tuệ, Chỉ xác, Thược dược, Xuyên khung, Địa du mỗi vị 8 đồng cân. Bệnh đã lâu giã Nhân sâm – Bạch truật – Phòng phong mỗi vị 8 phân sắc uống.
  1. Trường phong hạ huyết
  • Một con cá diếc tươi, bỏ ruột để vảy, nhồi bột nghệ, Ngũ vị tử vào đầy bụng cá, rồi lấy đất nặn bọc kín, đốt tồn tính, tán bột, uống với rượu, 1 lần 1 đồng cân, hoặc viên với cơm cũng được.
  1. Trường phong hạ huyết
  • Bán nguyệt hoa (tục gọi nấm đỗ), sao vàng sắc uống.
  1. Trường phong hạ huyết
  • Hoài sơn, hoa hòe, Phục linh, mỗi vị 3 đồng cân, đều tán nhuyễn nhồi vào ruột già lợn, nấu chín ăn liền 3 bận thì khỏi.
  1. Trường phong hạ huyết
  • Hoàng kỳ – Hoàng liên đều nhau tán bột, viên với hồ, uống với nước cơm mỗi lần 20 viên.
  1. Trường phong hạ huyết
  • Lấy dái lợn lòi đốt cháy, nghiền nhỏ uống.
  1. Bệnh trường phong đã lâu năm
  • Thạch yến mài với nước uống thường xuyên.
  1. Trường phong đã lâu, đau ngứa không khỏi
  • Địa du 1 lạng
  • Chích thảo 3 lạng, tán bột nấu 1 bát nước với 4 hột Sa nhân, chia 3 lần uống.
  1. Đại trường hạ huyết
  • Hoa mồng gà trắng sao, tóc rối đốt ra than
  • Trắc bá diệp tán nhỏ hòa rượu mỗi lần uống 2 đồng cân.
  1. Trường phong hạ huyết
  • Đậu đen 3 lạng – Rau má 2 lạng
  • Muội nồi 1,5 lạng

Đậu đồng cânn sao cháy tồn tính, muội nồi sao qua trộn lẫn với đậu đen tán nhỏ thành bột. Rau má rửa sạch nấu nước làm thang để uống với thuốc.

Mỗi thang uống làm 3 lần, uống trước bữa ăn.

Trừ thấp, giải nhiệt và chỉ huyết.

Trong khi uống thuốc kiêng các thứ cay nóng, thuốc không có phản ứng gì.

  1. Trường phong hạ huyết.
  • Liên tu, Mao căn, Ý dĩ, Hoài sơn, Đường phèn, Cam thảo.
  1. Trường phong hạ huyết.
  • Trắc bá, Ngải diệp, Kinh giới, Hòe hoa, Cam thảo, Chỉ xác, Địa du, Huỳnh liên giải nhiệt máu ra lẽ nào.
  1. Trường phong hạ huyết
  • Hoạt thạch phi sao, Cam thảo môi giới thuốc nào uống trôi.
  1. Tiêu chảy ra máu (do viêm nhiệt)

Ăn mộng dừa.

  1. Tiêu chảy ra máu (do viêm nhiệt)

Mài cây dừa con vừa lú mộng với nước gạo vo mà uống.

  1. Tiêu chảy ra máu (do viêm nhiệt)

Trẻ con: nướng 1 tép tỏi, đâm nhỏ, ngâm nước nóng để nguội uống.

Người lớn: 2-3 tép.

  1. Tiêu chảy ra máu (do viêm nhiệt)

Uống sữa dê.

[1] Lưu kí nô là một vị thuếc do vua Tống Cao Tể (Lưu DQ) phát minh mà tên cũ là kí nô nên gọi Lưu kí nô.

Triệu chứng và điều trị bệnh ký sinh trùng tiêu hóa

BỆNH KÝ SINH TRÙNG TIÊU HÓA

ĐẠI CƯƠNG

Bệnh ký sinh trùng hệ tiêu hoá là bệnh do ký sinh trùng sống ữong hệ tiêu hoá gây ra. Khi vào đường tiêu hóa chúng chiếm đoạt các chất dinh dưỡng, làm tổn thương, rối loạn chức phận hệ tiêu hoá và toàn thân. Bệnh do ký sinh trùng hệ tiêu hoá thường gặp ở tất cả các nước trên thế giới. Tùy từng vùng địa lý, khí hậu, trình độ dân trí và điều kiện sống của mỗi vùng mà tỷ lệ mắc bệnh và cơ cấu bệnh tật khác nhau. Ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới, vùng có điều kiện kinh tế xã hội nghèo, lạc hậu có số lượng mắc bệnh nhiều hơn. Việt Nam là nước nhiệt đới, điều kiện kinh tế xã hội còn thấp, nhiều vùng tập quán sinh hoạt còn lạc hậu, vì vậy bệnh ký sinh trùng lây qua đường tỉêu hóa tương đối phổ biến; nhất là các bệnh lỵ amip, giun và sán.

Các nhóm ký sinh trùng hay gặp là sán, giun và amip:

  • Sán: sán lá gan lớn (Fascola hepatiea), sán lá gan nhỏ (Clonorchis sinensis), sán lá ruột (Fasichosis buski), sán dây lợn (Taenia solium), sán dây bò (Teania saginata)…
  • Giun: giun đũa (Ascaris lumbricoides), giun kim (Enterobilus vermicularis), giun móc (Acylostoma duodenal «fe Necatoramericanus), giun tóc (Tricocepalus triciuriu)…
  • Amip: gây bệnh lỵ ở ruột hoặc áp-xe gan.

MỘT SỐ BỆNH SÁN THƯỜNG GẶP

Sán lá gan nhỏ (Clonorchis sinensis)

Sán trưởng thành sống ở đường mật, đôi khi sống trong ống tụy, đẻ trứng theo phân ra ngoài. Trứng nở trong nước hoặc được ốc ăn vào sẽ nở thành ấu trùng, ấu trùng xâm nhập vào cá, đóng nang, người ăn phải cá chưa nấu chín (gỏi cá) sẽ mắc bệnh.

Triệu chứng

Loại Clonorchis & Opistorchis: thường sau ăn cá gỏi có ấu trùng sán lá 15-20 ngày sán theo đường dẫn mật lên gan, gây ra các dấu hiệu đau vùng thượng vị, nôn, sôt, đau vùng gan, sốt kiểu sốt rét cơn, vàng da, gan to, lách to. Người gầy, sốt, phù thũng, có thể dẫn tới xơ gan, ung thư gan.

Loại Fasciola hepática: có 2 thời kỳ

+ Thời kỳ xâm nhiễm (3-4 tháng sau khi nhiễm sán): có hội chứng nhiễm trùng máu (sán còn ở máu), sốt cơn tái liên tiếp, vã mồ hôi, đau cơ vùng gáy, đau vùng gan, có thể phát ban, sờ thấy gan to, ấn đau; xét nghiệm: HC giảm, BC tăng (BC ái toan có thể tăng tới 75-77%).

+ Thời kỳ toàn phát (sán lên gan đẻ trứng): mệt, hoa mắt chóng mặt, gây, hay sốt, có hội chứng vàng da tăc mật (vàng da, gan to, phân bạc màu); đau vùng gan âm ỉ hoặc đau quặn gan, gan có thể to 2-3cm, vàng da tuỳ mức độ, có khi vàng sẫm, xét nghiệm máu có hồng cầu giảm… Triệu chứng khác: đau thượng vị, ợ hơi ứa nước dãi, miệng đăng, sợ mỡ, buồn nôn, nôn, đôi khi nôn ra máu, ỉa táo lỏng; dần dần có thể dẫn tới cổ chướng, phù chân.

Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định dựa vào: có trứng sán trong phân, dịch tá tràng, dịch mật hoặc dùng kháng nguyên chẩn đoán.

Chẩn đoán phân biệt:

+ Thời kỳ xâm nhiễm của bệnh: dễ nhầm với

Sốt rét: điều trị thử bằng quinin nếu sốt rét thì đỡ.

Bệnh giun xoắn: không có triệu chứng gan, chỉ có sốt, BC tăng (ái toan tăng cao).

Bệnh Kalaaza: tăng lympho, chọc tuỷ xương tìm thấy leishmania.

+ Thời kỳ toàn phát: hay nhầm với

Xơ gan: vì có cổ chướng, chẩn đoán nhờ soi ổ bụng.

Sỏi mật: đau, sốt, vàng da, chẩn đoán nhờ soi siêu âm.

Điều trị

Cloroquin diphosphat có tác dụng diệt sán nhưng thuốc có thể gây đau đầu, mờ mắt, ngứa, mệt, do vậy khi dùng thuốc thường thêm vitamin BI 100mg/24h.

Hexachloroparaxylol: 50mg/kg/24h một liều hoặc cách ngày với sữa vào các bữa ăn. Thuốc phải uống trong 3-4 ngày.

Bithionol: 30-50mg/kg/ngày (từ 10- 5 liều).

Praziquantel: 10mg/1kg/tổng liều (thuốc diệt sán tốt, ít tác dụng phụ).

Triclabendazol, metronidazol cũng có tác dụng.

– Thuốc đông y: dương xi đực có tác dụng diệt sán.

Phòng bệnh

Không ăn rau sống (cải xoong), không ăn cá gỏi.

Sán lá gan lớn (Fasciola hepatica)

– Bệnh phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Sán trưởng thành sống trong đường mật của bệnh nhân, đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài, phát triển thành các ấu trùng rồi thành kén ẩn vào các cây sống dưới nước. Người nhiễm do ăn, uống nước có ấu trùng sẽ qua ống tiêu hóa, đến gan và phát triển ữong đường mật.

Sán lá gan

Biểu hiện lâm sàng theo các giai đoạn nhiễm sán:

+ Giai đoạn cấp tính: là giai đoạn ấu trùng vào gan, các triệu chứng gồm sốt, đau vùng gan, tăng bạch cầu ái toan, gan to, biểu hiện tổn thương gan.

+ Giai đoạn tiềm tàng: biểu hiện với các triệu chứng rối loạn tiêu hóa mơ hồ, tương ứng lúc sán cư trú trong đường mật.

+ Giai đoạn tắc nghẽn: là do hậu quả của viêm và phì đại đường mật. Nhiễm khuẩn lâu ngày có thể viêm dẫn đến xơ gan-mật.

Chẩn đoán: dựa vào xét nghiệm phát hiện kháng thể (CIE hoặc ELISA).

Điều trị đặc hiệu bằng bithionol.

Sán lá ruột (Fasichosis buski)

  • Người mắc bệnh do ăn phải ấu trùng ở các loại rau, sử dụng nước có chứa ấu trùng sán.

Triệu chứng: ỉa lỏng, đau bụng lúc đói, có khi có bệnh cảnh tắc ruột, thiếu máu phù dinh dưỡng; xét nghiệm máu thấy HC giảm, BC tăng (chủ yếu BC ái toan tăng).

Chẩn đoán: lâm sàng có hội chứng kiết lỵ, xét nghiệm phân thấy trứng sán, dùng kháng nguyên cho kết quả chẩn đoán (+).

Điều trị: có thể dùng betanaphtol viên 0,2: mỗi ngày 1 viên, dùng 2 ngày liền; hexylresorcinol (0,4g cho trẻ dưới 10 tuổi, 1g/24h cho người lớn). Đông y dùng nước sắc hạt cau thấy có tác dụng diệt sán.

Phòng bệnh: không ăn sống những rau củ dưới nước, vệ sinh ăn uống, vệ sinh nguồn nước ăn.

Sán máng (Schistosoma)

  • Người ta ước tính khoảng 200 triệu người trên thế giới mắc bệnh này, chủ yếu ờ châu Phi. Lây nhiễm do từ ấu trùng
    sống trong nước xâm nhập cơ thể qua da, sau đó chúng theo các tĩnh mạch và bạch mạch về gan. Ở đây phát triển thành ấu trùng sán trưởng thành, chúng tiếp tục di chuyển đến các tĩnh mạch mạc ữeo hàng, trứng của sán thường tích tụ lại các nút tận cùng tĩnh mạch, sau đó đi đến các cơ quan, cuối cùng được bài tiết theo phân hoặc nước tiểu.

Sán máng

Lâm sàng: giai đoạn cấp thường xuất hiện vào tuần thứ 4-6, với các triệu chứng đau đầu, sốt, rét run, ho, đau cơ, đau khớp, gan to đau, tăng bạch càu ái toan. Bệnh dễ chuyển sang mạn tính với các biến chứng tại gan và khoảng cửa, gây tắc nghẽn xoang hang và cuối cùng là gây tăng áp lực tĩnh mạch cửa. Có thể có các biến chứng của tăng áp lực tĩnh mạch cửa như cổ chướng, lách to, giãn tĩnh mạch thực quản. Người ta thấy nếu đồng nhiễm với viêm gan B sẽ làm tăng nguy cơ ung thư gan.

Điều trị bằng praziquantel hoặc có thể dùng oxamniquin.

Phòng bệnh chủ yếu chống nhiễm khi lao động, tắm giặt vùng có ấu trùng.

Sán dây lợn (Taenia solium)

Người mắc bệnh này do ăn phải trứng sán hoặc tự nhiễm. Người bị sán lợn khi nôn oẹ trào trứng sán lên dạ dày trở lại xuống ruột sẽ nở thành sán. Người mắc sán dây lợn trong ruột thường có từ 2 con sán trở lên.

Sán dây lợn

– Triệu chứng: người mắc sán lợn dây có thể không có biểu hiện triệu chứng gì, chỉ thấy có đốt sán theo phân ra ngoài, nhưng cũng có thể gặp một số dạng lâm sàng như sau:

+ Ở trẻ em: ứa nước dãi, lợm giọng, ợ hoặc nôn, đau bụng gan, vàng da, nôn dịch mật.

+ Có khi nổi bật là triệu chứng dạ dày-ruột: đau vùng thượng vị kiểu như loét dạ dày-tá tràng; có cơn đau như viêm ruột thừa, viêm đường mật.

+ Có trường hợp có các triệu chứng của xơ gan: gan to, lách to, cổ chướng, tuần hoàn bàng hệ, chảy máu cam, phù hai chân; sau khi tây sán, các triệu chứng trên giảm và mât.

+ Có thể có triệu chứng: rối loạn thần kinh (cơn động kinh, múa vờn có khi nhức đầu, ỉa táo; có dấu hiệu giống viêm màng não, có khi bại nửa người ở trẻ em); người lớn có thể lo lắng, trầm tư, cáu kỉnh. Triệu chứng ở mắt (ảo ảnh nhìn đôi, thấy mọi vật màu vàng, có khi bị loà nhất thời), tim mạch (đánh trống ngực, ngoại tâm thu, rối loạn vận mạch), hô hấp (rối loạn hành tuỷ: khó thở như hen, mất tiếng, có khi ho từng cơn khái huyết), dị ứng (những cơn ngứa, phù Quinck); có những cơn tay đỏ, cơn ngứa di chuyển nhanh cùng với cảm giác khó chịu, đau người, buồn nôn.

+ Triệu chứng do kén sán khu trú ở các cơ quan khác nhau: hay gặp nhất ở cơ não, đáy mắt gây động kinh, mờ mắt, giật cơ, hôn mê…

+ Xét nghiệm máu: BC ái toan tăng (có thể tới 55%).

  • Chẩn đoán: dựa vào tìm thấy trứng, đốt sán trong phân.
  • Điều trị:

+ Quinacrin: liều dùng từ lg-l,2g cho người lớn, tẩy cùng với magiê sulfat, kết hợp ngâm hậu môn nước ấm (tuy nhiên, hiện nay ít dùng).

+ Diclorophen (BD: ovis, plath-lyse, preventol, vermiple…): viên bọc đường 500mg…

+ Niclosamid (BD: cesticid, devermine, lintex, phenasal, tredermin…).

Cả 2 loại trên hiện nay cũng đều ít sử dụng.

+ Praziquantel: hiện nay hay được sử dụng vì kết quả tốt, dễ sử dụng, ít tác dụng phụ.

+ Trong dân gian dùng hạt bí ngô (liều 1 lần tẩy khoảng 30 hạt bí ngô tươi đã bóc vỏ cứng) cũng có tác dụng tẩy sán.

+ Điều trị ấu trùng sán lợn bằng praziquantel kết hợp với corticoid.

Sán dây bò (Teania saginata)

Người mắc bệnh vì ăn thịt bò sống (hoặc tái bò) có ấu trùng sán.

Có ấu trùng sán

Triệu chứng: đau tức vùng thượng vị khi đói, ỉa lỏng, sút cân; đôi khi buồn nôn, có khi đốt sán già đứt hoặc tự bò ra hậu môn.

Chẩn đoán: dựa vào đốt sán tự bò qua hậu môn (phân biệt với sán dây lợn: đốt sán chỉ theo phân ra ngoài).

Điều trị: dùng các thuốc và cách tẩy như với sán dây lợn.

BỆNH DO AMIP

Đây là bệnh do nhiễm đơn bào Entamoeba histolytica, là một bệnh xuất hiện phổ biến trên thế giới nhất là các nước
nhiệt đới và nơi có điều kiện vệ sinh thấp kém. Bệnh gây ra các tổn thương đặc trưng là loét ở niêm mạc đại tràng và có khả năng gây ra các 0 áp-xe ở những cơ quan khác nhau. Bệnh có xu hướng trở thành mạn tính nếu không được điều trị tích cực.

Hình ảnh amip

Bệnh lây qua đường tiêu hóa do ăn phải thức ăn và nước uống nhiễm kén amip. Kén amip tồn tại lâu dài ở ngoại cảnh, ở nhiệt độ 17-20°c có thể tồn tại hàng tháng, chỉ bị tiêu diệt ờ nhiệt độ cao (85°C).

Triệu chứng lâm sàng: giai đoạn cấp đau bụng, đại tiện nhiều lần, phân ít hoặc không có, nhiều nhầy mũi máu, đau quặn bụng, mót rặn, đau rát hậu môn, có thể sốt nhẹ. Giai đoạn sau chủ yếu là các triệu chứng đau dọc khung đại tràng, rối loạn tiêu hóa với các đợt táo lỏng xen kẽ; thỉnh thoảng có các đợt bùng phát giống giai đoạn cấp.

Nếu amip di chuyển lên gan gây áp-xe gan với các triệu chứng sốt, gan to, đau, siêu âm thấy 0 áp-xe, chọc hút thấy mủ màu chocolat.

Chẩn đoán bằng lâm sàng, soi đại-trực tràng có ổ loét, xét nghiệm tìm amip trong phân hoặc làm phản ứng miễn dịch.

Điều trị diệt amip: hiện nay chủ yếu dùng nhóm

PHÒNG BỆNH

Rửa tay: do hầu hết các bệnh do ký sinh trùng gây ra đều lây qua thức ăn.

Rửa trái cây, hoa quả và rau xanh kỹ trước khi ăn.

Không cắn móng tay, cắn đầu bút.

Nấu kỹ cá và thịt, không ăn thức ăn tái sống.

Uống nước sạch đun sôi.

Tránh tiếp xúc gần gũi với các con vật nuôi; không để chúng nằm lên ghế, giường hoặc hôn, liếm lên mặt.

Loại bỏ các thảm cũ bụi bặm, vải trải ga gương, lót ghế… những nguồn gây ra ký sinh trùng.

Điều trị triệt để khi mắc ấu trùng.

 

Mắt hột

Tên khác: viêm kết mạc hạt, đau mắt Ai Cập.

Định nghĩa

Bệnh truyền nhiễm do Chlamydia trachomatis, gây viêm mạn tính giác mạc – kết mạc dẫn đến đục giác mạc, biến dạng mi do sẹo, làm giảm dần thị lực và có thể dẫn đến mù.

Căn nguyên

Nguyên nhân gây bệnh là một vi khuẩn bắt buộc phải sống trong tế bào là Chlamydia trachomatis (có nhiều typ kháng nguyên). Người là nguồn duy nhất mang vi khuẩn. Bệnh lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp với chất tiết của mắt người bệnh hoặc qua ruồi.

Dịch tễ học

Bệnh phổ biến trên thế giới, nơi có điều kiện vệ sinh kém và khí hậu khô. Khô, bụi và cát mịn bị gió cuốn đi và làm mầm bệnh lan xa. Bệnh mắt hột lưu hành ở Bắc Phi, châu Ogi đen và là nguyên nhân thường gặp gây mù loà. Có các typ huyết thanh A, B, Ba hay c. Các typ huyết thanh D – K gây viêm kết mạc có có thể vùi ở các vùng bệnh không lưu hành (xem thuật ngữ này).

Triệu chứng

Sau thời gian ủ bệnh kéo dài vài tuần, bệnh mắt hột khởi phát ở trẻ dưới 2 tuổi bằng viêm kết mạc, phù mi mắt, chảy nước mắt và sỢ ánh sáng. Kết mạc sụn viêm làm sụn đỏ, dày lên và thô ráp; sau đó xuất hiện các nang lympho màu trắng và các hột chụm vào nhau. Cuối cùng, ranh giới giữa giác mạc và củng mạc trở nên trắng và không rõ (viêm giác mạc mạch). Mạch máu phát triển dần trong giác mạc làm thị giác bị giảm.

Biến chứng

Giác mạc bị đục dần làm giảm thị lực, có thể dẫn tới mù loà.

Hay bị bội nhiễm trong giai đoạn cấp.

Nếu không được điều trị, các tổn thương sẽ hoá sẹo và làm lông mi mọc lệch (lông quặm), làm mi mắt bị biến dạng nặng (cụp mi), loét giác mạc.

Xét nghiệm cận lâm sàng: phát hiện các thể vùi nội tế bào, tương tự như các thể vùi trong viêm kết mạc có thể vùi. Các thể vùi này có thể nhìn thấy trong các tế bào biểu mô trên phiến đồ kết mạc được nhuộm Giemsa. Có thể xác định vi khuẩn bằng nuôi cấy hoặc PCR.

Điều trị

Trong giai đoạn tiến triển: Thuốc hàng đầu là tetracyclin hoặc erythromycin (người lớn uống 0,5 g, 6 giờ một lần; trẻ em: 50 mg/kg/ngày) uống trong 3 tuần. Có thể nhỏ các thuốc kháng sinh trên vào mắt trong 4 – 6 tuần (nếu uống kháng sinh thì không cần nhỏ mắt).

Để điều trị số đông ở các nơi có bệnh lưu hành: bôi thuốc mỡ tetracyclin hoặc erythromycin dài ngày và lặp đi lặp lại.

Có thể phải mổ để lấy các lông mi lọc lệch nhằm tránh gây tổn thương cho giác mạc.

Nhiễm khuẩn mắt thường có bệnh phổi kèm theo. Do đó, nên điều trị mọi viêm kết mạc do mắt hột bằng tetracyclin hoặc erythromycin (uống trong 2 tuần).

Phòng bệnh

Các biện pháp vệ sinh, giáo dục sức khoẻ. Tổ chức các phòng khám ở các vùng có bệnh lưu hành để phát hiện và điều trị sớm cho trẻ em ở lứa tuổi nhỏ (trước tuổi đi học). Không có vaccin hữu hiệu. Có thể phòng bệnh ở trẻ sơ sinh bằng cách bôi thuốc mỡ erythromycin (nếu do cha mẹ bôi thì tỷ lệ thất bại là 50%).

BONEFOS

Thuốc BONEFOS được chỉ định điều trị chứng tăng hủy xương do bệnh ác tính và điều trị tăng canxi máu do bệnh ác tính.

THUỐC BONEFOS

SCHERING AG

viên nang 400 mg : hộp 100 viên.

dung dịch đậm đặc dùng để pha tiêm truyền tĩnh mạch 60 mg/ml : ống 5 ml, hộp 5 ống.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Disodium clodronate tetrahydrate 500 mg
tương đương : Disodium clodronate khan 400 mg
cho 1 ống 5 ml
Disodium clodronate khan 300 mg

DƯỢC LỰC

Clodronate về mặt hóa học thuộc nhóm bisphosphonate, có tác dụng hóa học trên mô xương. Clodronate ức chế sự tiêu hủy xương.Clodronate, một chất bisphosphonate kháng hoạt tính của phosphatase nội sinh, có một tác dụng chọn lọc trên xương. Cơ chế tác dụng của thuốc chưa được hiểu hết nhưng thuốc có thể can thiệp vào sự tiêu hủy xương bằng một tác dụng trực tiếp trên hoạt tính của hủy cốt bào cũng như ức chế sự hòa tan của các tinh thể hydroxyapatite.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Sau khi tiêm, khoảng 20-40% thuốc đọng lại ở bộ xương, sau đó được thải trừ theo tốc độ chu chuyển của xương. Thời gian bán hủy trong huyết tương là 2 giờ. 60-80% clodronate được bài tiết dưới dạng không thay đổi trong nước tiểu 48 giờ sau khi tiêm một liều tĩnh mạch, và khoảng 5% bài tiết trong phân.

CHỈ ĐỊNH

Thuốc BONEFOS được chỉ định điều trị chứng tăng hủy xương do bệnh ác tính và điều trị tăng canxi máu do bệnh ác tính.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Chống chỉ định dùng Thuốc BONEFOS ở bệnh nhân đã biết có quá mẫn cảm với hoạt chất của thuốc. THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Clodronate được bài tiết qua thận ở dạng không bị chuyển hóa. Kinh nghiệm dùng thuốc khi có rối loạn chức năng thận chưa cho ph p hướng dẫn điều trị cụ thể. Bệnh nhân cần được theo dõi cẩn thận. Cho đến nay, chưa có kinh nghiệm dùng thuốc trong khi chạy thận nhân tạo.Tăng canxi máu có thể gây ra hoặc làm rối loạn chức năng thận nặng thêm. Thuốc BONEFOS có thể gây tổn thương ống thận gần. Điều quan trọng là phải bảo đảm chức năng thận đủ để chịu đựng tình trạng tăng khối lượng dịch và bài tiết thuốc qua thận.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Nên tránh dùng Thuốc BONEFOS trong khi có thai hoặc cho con bú. Một số ít nghiên cứu trên động vật không cho thấy bằng chứng gây quái thai, nhưng tiếp xúc với thuốc thấp. Không có thông tin về sự bài tiết trong sữa mẹ. Thuốc BONEFOS chưa được dùng cho người trong khi có thai.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Một số chất trong thức ăn có thể làm giảm sự hấp thu Thuốc BONEFOS. Vì vậy, không nên uống viên nang Thuốc BONEFOS cùng một lúc với thức ăn (thí dụ như sữa) và thuốc có chứa canxi, sắt, mangan, magnê. Nên uống thuốc cách 2 giờ trước hoặc sau bữa ăn.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Khi uống thuốc có thể xảy ra kích ứng đường tiêu hóa, nhưng thường nhẹ và chỉ xảy ra ở 10% số bệnh nhân.Trên vài bệnh nhân thấy có protein niệu thoáng qua ngay sau khi tiêm truyền tĩnh mạch.Nồng độ hormon cận giáp, creatinin, acid lactic, dehydrogenase và alkaline phosphatase trong huyết thanh tăng tạm thời cũng đã được báo cáo.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Dạng uống :

Tăng hủy xương kèm tăng canxi máu : 6-8 viên nang/ngày.Tăng hủy xương nhưng không tăng canxi máu : 4 viên nang/ngày.Liều dùng hàng ngày có thể chia thành 2-3 lần (xem những lưu ý trong phần Tương tác thuốc).

Dạng tiêm truyền tĩnh mạch :

Tăng canxi máu : 300 mg (1 ống 5 ml) mỗi ngày, pha trong 500 ml dung dịch natri clorua 0,9% goặc glucose 5% và truyền nhỏ giọt tĩnh mạch trong ít nhất là 2 giờ. Bệnh nhân cần được bù đủ nước trước và trong thời gian điều trị. Điều trị liên tục cho đến khi đạt được canxi máu bình

thường, thông thường là sau 2-5 ngày. Không nên điều trị kéo dài quá 7 ngày. Truyền tĩnh mạch liều duy nhất : 1500 mg (5 ống 5 ml) pha trong 500 ml dung dịch NaCl 0,9% và truyền IV trong 4 giờ. Sau đó chuyển sang điều trị duy trì bằng Thuốc BONEFOS dạng uống với liều 1600-3200 mg/ngày để duy trì nồng độ canxi huyết thanh bình thường.Cần theo dõi chức năng thận trong khi điều trị. Nếu thấy có dấu hiệu rối loạn chức năng thì nên giảm liều. Không nên dùng Thuốc BONEFOS cho trẻ em trừ khi bị tăng canxi máu ác tính đe dọa đến tính mạng.

QUÁ LIỀU

Không nhận được báo cáo nào về ngộ độc nặng do clodronate.Nguy cơ tác dụng không mong muốn trên thận tăng sau truyền clodronate quá nhanh (xem Liều lượng và Cách dùng).

BẢO QUẢN

Bảo quản ở nhiệt độ phòng (15oC – 25oC).Dung dịch đã pha phải được dùng trong vòng 24 giờ.

Thuốc Dyskinebyl – Dihydroxydibuthylether

DYSKINÉBYL

Viên nang mềm 500 mg: hộp 30 viên.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Dihydroxydibuthylether 500 mg

DƯỢC LỰC

Thuốc có tác động hướng gan, mật. Dihydroxydibuthylether gia tăng sự bài tiết mật theo một cơ chế độc lập với các acid mật. Nó không có tác động trên sự vận động của túi mật và có tác động hủy co thắt trên hệ cơ, không có tác động giống atropin.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Thử nghiệm trên động vật, dihydroxydibuthylether được hấp thu nhanh và gần như hoàn toàn. Thuốc được chuyển hóa qua con đường liên hợp glucuronide và diglucuronide được bài tiết từ mật (chu kỳ gan ruột) và nước tiểu. Thuốc được đào thải chủ yếu qua nước tiểu: trên 90% liều uống vào được bào tiết qua nước tiểu trong vòng dưới 24 giờ (thử nghiệm trên chuột cống, chó, khỉ).

CHỈ ĐỊNH

  • Điều trị triệu chứng trong các rối loạn khó tiêu.
  • Điều trị hỗ trợ trong bệnh sỏi mật (làm giảm các yếu tố nguy cơ gây lắng đọng cholesterol).

CHÚ Ý ĐỀ PHÒNG và THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Không dùng thuốc trong trường hợp có tắc nghẽn đường mật và suy gan năng.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Mỗi lần 1-2 viên trước 3 bữa ăn chính. Uống thuốc với nhiều nước, không nhai.

BẢO QUẢN

Tránh nóng và ẩm.

Viêm tuyến nước bọt dưới hàm do sỏi

I. ĐỊNH NGHĨA

Là tình trạng tổn thương viêm tuyến nước bọt có nguyên nhân do sỏi có thể ở vùng tuyến hoặc ống tuyến.

II. NGUYÊN NHÂN

  • Sỏi ống tuyến nước bọt.
  • Sỏi tuyến nước bọt.

III. CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

Lâm sàng

  • Toàn thân
    • Có thể có sốt nếu viêm cấp
    • Có thể có hạch viêm dưới hàm cùng bên.
  • Cơ năng

Triệu chứng Garel : Xảy ra trong bữa ăn , tuyến dưới hà m sưng phồng lên do sỏi làm tắc nước bọt  , ứ lại trong tuyến. Khi nước bọt thoát ra được thì hết sưng tuyến và hết đau.

  • Tại chỗ

Ngoài mặt

+ Sưng vùng dưới hàm: ranh giới rõ, nếu trong đợt cấp thì có biểu hiện sưng, nóng, đỏ, sờ đau. Nếu không phải đợt cấp thì da trên vùng sưng bình thường, nắn chắc, ít đau.

Trong miệng

+    Lỗ ống Wharton nề đỏ .

+  Sờ có thể thấy sỏi ở vùng ống tuyến.

+  Khi vuốt dọc ống tuyến về phía miệng ống tuyến, có thể có mủ chảy ra.

Cận lâm sàng

  • X quang thường quy: có thể thấy hình ảnh sỏi ở tuyến hoặc ống tuyến
  • CT Scanner

+ Thấy vị trí, kích thước của sỏi.

+ Có hình ảnh phì đại tuyến dưới hàm.

  • Chụp cản quang tuyến dưới hàm: có hình ảnh chuỗi ngọc trai điển hình với đặc điểm ống Wharton to, giãn nỡ không đều.

Chẩn đoán phân biệt

U tuyến dưới hàm: không có triệu chứng Garel, không có sỏi.

IV. ĐIỀU TRỊ

  1. Nguyên tắc

Phẫu thuật lấy sỏi và điều trị bảo tồn tuyến hoặc cắt bỏ tuyến.

  1. Điều trị cụ thể

Phẫu thuật lấy sỏi và điều trị bảo tồn tuyến

  • Chỉ định

+  Sỏi ống tuyến.

+ Viêm tuyến nhưng tuyến chưa xơ hóa.

  • Kỹ thuật

+  Vô cảm.

+  Xác định và cố định vị trí sỏi bằng chỉ phẫu thuật.

+  Rạch niêm mạc dọc ống tuyến tại vị trí có sỏi.

+  Bộc lộ và lấy sỏi.

+ Kiểm soát vùng phẫu thuật.

+  Cắt bỏ chỉ cố định sỏi.

+ Khâu đóng niêm mạc.

+ Kháng sinh, chống viêm.

Phẫu thuật lấy sỏi và cắt bỏ tuyến dưới hàm

  • Chỉ định

+  Sỏi tuyến.

+  Tuyến viêm mạn gây xơ hóa.

  • Kỹ thuật

+  Vô cảm.

+ Rạch da vùng dưới hàm.

+  Tách bóc, bộc lộ tuyến.

+  Cắt bỏ tuyến cùng sỏi.

+ Kiểm soát vùng phẫu thuật.

+ Đặt dẫn lưu.

+ Khâu phục hồi phần mềm.

+ Kháng sinh.

V. TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG

  1. Tiên lượng
    • Viêm tuyến dưới hàm do sỏi ống tuyến được điều trị sớm bằng việc lấy sỏi ống tuyến sẽ bảo tồn được tuyến dưới hàm với kết quả điều trị tốt
    • Viêm tuyến dưới hàm do sỏi ống tuyến nếu điều trị lấy bỏ sỏi muộn thì tuyến dưới hàm dễ viêm mạn xơ hóa, dẫn đến phải cắt bỏ tuyến
    • Viêm tuyến dưới hàm do sỏi tuyến thì không thể điều trị bảo tồn tuyến
  2. Biến chứng
    • Áp xe vùng dưới hàm.
    • Áp xe vùng sàn miệng

VI. PHÒNG BỆNH

Khi phát hiện có sỏi ống tuyến Wharton thì phẫu thuật lấy bỏ sớm để phòng viêm tuyến.