Blog Trang 541

Bệnh Friedreich – Nguyên nhân, triệu chứng và điều trị

Tên khác: thất điều tủy sống di truyền, mất phối hợp tủy sống di truyền.

Định nghĩa

Bệnh mang tính gia đình với đặc điểm là tủy sống bị thoái hoá, dẫn tới những rối loạn vận động và hay có những dị dạng ở bàn chân.

Căn nguyên

Bệnh di truyền qua nhiễm sắc thể thân kiểu lặn, gen di truyền bệnh này nằm trên nhiễm sắc thể 9, trong vùng 3q13: Bình thường gen này mã hoá một protein có tên là trataxin, protein này không có ở bệnh nhân bị bệnh Friedreich.

Giải phẫu bệnh

Thoái hoá cột sau tủy sống, bó tiểu não thẳng, bó Gowers, và những dây thần kinh ngoại vi. Những tế bào Purkinje của tiểu não có thể cũng bị teo. Tim thường to.

Triệu chứng

  • Bệnh xuất hiện từ 5 đến 15 tuổi.
  • Bệnh khởi phát bằng yếu chân, rồi xuất hiện chứng thất điều và dáng đi tabet-tiểu não. Bệnh nhân lẳng cẳng chân đã xoạc rộng ra trước và xoay thân người. Khi đứng, bệnh nhân loạng choạng và mở rộng chân đế bằng cách xoạc cẳng chân ra xa nhau.

Đôi khi bệnh nhân bị rung giật nhãn cầu và run hữu ý (động tác sai tầm của chi trên). Người ta còn thấy: mất phản xạ gân xương, dấu hiệu Babinski hai bên, và những rối loạn lời nói (khó phát âm), những dấu hiệu này rõ nét và bùng phát. Không có rối loạn cảm giác nông, nhưng lại mất cảm giác về tư thế và độ rung.

  • Những dị dạng của bộ xương thường hay có: bàn chân lõm, bàn chân vẹo kiểu chân ngựa và ngón chân cái duỗi quá mức. Đôi khi vẹo cột sống.
  • Ảnh hưởng cơ tim: hay gặp, đôi khi biểu hiện bởi rối loạn dẫn truyền và phải đặt máy tạo nhịp cho bệnh nhân. Theo dõi hình ảnh X quang đường viền của tim.
  • Diến biến tối tàn phế.

Điều trị: chỉ có điều trị triệu chứng.

Những bệnh tương tự: xem: thoái hoá di truyền bó gai-tiểu não.

Sốt ở trẻ dưới 3 tháng – Nguyên nhân, xử trí

Nhiều bậc cha mẹ thấy không yên tâm khi biết con mình bị sốt; tuy nhiên, phần lớn các cơn sốt lại vô hại. Thực tế, một cơn sốt sẽ kích hoạt hệ thống miễn dịch của chúng ta và giúp cơ thể chúng ta chống lại nhiễm trùng. Bạn chỉ nên điều trị sốt nếu nó khiến con bạn khó chịu. Và hãy ghi nhớ rằng tình trạng của con bạn quan trọng hơn con số hiện trên nhiệt kế.

Nhiệt độ cơ thể người bình thường dao động trong khoảng 1°F cao hơn hoặc thấp hơn 0,5°C nhiệt độ trung bình 98,6°F (37°C). Có trẻ trải qua giai đoạn sơ sinh bị nhiễm trùng nhẹ ít nhất 1 hoặc 2 lần. Những lần nhiễm trùng này có thể biểu hiện bằng bất kỳ triệu chứng nào, trong đó có thể có sự gia tăng thân nhiệt.

Nếu bạn nghi ngờ con bị sốt và muốn đo thân nhiệt của bé, hãy lấy nhiệt độ trực tràng bằng một chiếc nhiệt kế kỹ thuật số hay nhiệt kế thủy ngân. Cách này sẽ cho bạn kết quả chính xác nhất (nếu con bạn nhỏ hơn 12 tháng tuổi). Hãy gọi cho bác sĩ nhi ngay nếu thân nhiệt của con bạn là 100,4°F (= 38,5°C – nhiệt độ nách) hoặc cao hơn. Hơn nữa, hãy gọi cho bác sĩ nhi để có thêm lời khuyên nếu tình trạng sốt của con bạn kéo dài hơn 24 tới 48 tiếng đồng hồ và bé đang ở giai đoạn sơ sinh. Khi đó, bé có thể gặp nguy cơ mất nước do ngày càng mất nhiều chất lỏng vì sốt. Nguy cơ này sẽ còn xấu đi nữa nếu bé nôn hay bị tiêu chảy.Trẻ sốt xuất huyết

Hãy gọi ngay cho bác sĩ nhi nếu:

  • Con bạn dưới 3 tháng tuổi và có thân nhiệt cao hơn 100,4°F (38,5°C)

Bạn không thể dỗ được con và bé có các triệu chứng như khó thở, ít hoạt bát, tiêu chảy hoặc nôn mửa hoặc bé có vẻ ngày càng mệt hơn.

CẢNH BÁO!
Không bao giờ được cho bé uống aspirin để hạ sốt. Tác dụng của aspirin vốn gắn liền với nguy cơ tăng cao của hội chứng Reyel. Hội chứng Reye là căn bệnh hiếm gặp nhưng rất nghiêm trọng, đi liền với nhiễm virus, ảnh hưởng tới não và gan. Mặc dù thuốc acetaminophen (ví dụ như thuốc Tylenol) có thể giúp giảm sốt và giải tỏa cảm giác khó chịu, nhưng không bao giờ được cho trẻ dưới 3 tháng tuổi tự dùng thuốc này hay bất cứ loại thuốc nào khác mà không có lời khuyên của bác sĩ nhi. Nếu bác sĩ kê một loại thuốc, hãy cẩn thận đừng dùng quá liều lượng khuyên dùng (ví dụ, do cho bé uống thuốc cảm khác mà trong đó cùng có chứa acetaminophen). Đồng thời hãy đảm bảo bạn dùng dụng cụ đo lường thuốc đúng.

Cách đo nhiệt độ trực tràng

Nếu con bạn nhỏ hơn 12 tháng tuổi và bạn nghi ngờ bé bị sốt, lấy nhiệt độ trực tràng sẽ cho bạn kết quả chính xác nhất. Để lấy nhiệt độ trực tràng, hãy làm theo sáu bước sau (Hình 1-1).

  1. Luôn luôn dùng nhiệt kế kỹ thuật số để kiểm tra thân nhiệt của trẻ.
  2. Lau sạch đầu nhiệt kế bằng cồn rửa hay xà phòng và nước. Dội sạch bằng nước lạnh. Đừng dội bằng nước nóng.
  3. Bôi một ít chất làm trơn, ví dụ như mỡ bôi trơn, ở đầu nhiệt kế.
  4. Đặt trẻ nằm ngửa trong lòng hoặc trên mặt phẳng cứng. Giữ bé bằng cách áp lòng bàn tay bạn vào phần lưng dưới, ngay trên mông. Hoặc đặt bé nằm ngửa và uốn chân tới ngực bé. Đặt tay vào phía sau đùi bé.
  5. Dùng tay kia bật nhiệt kế lên và đút nó khoảng nửa inch (1,27 cm) vào trong hậu môn đang mở. Đừng đưa vào sâu quá. Thoải mái giữ yên nhiệt kế bằng hai ngón tay, giữ tay bạn khum quanh mông trẻ. Giữ khoảng 1 phút, cho tới khi nghe tiếng “bip”. Rồi bỏ nhiệt kế ra và kiểm tra con số hiện lên.
  6. Hãy cẩn thận kiểm tra nhãn hiệu trên nhiệt kế trực tràng để đảm bảo không bị nhầm nhiệt kế dùng cho miệng.
MỐI BẬN TÂM CỦA BẠN NGUYÊN NHÂN CÓ THỂ CÓ HÀNH ĐỘNG CẦN THỰC HIỆN
Mặt con bạn đỏ bừng. Bé bồn chồn và toát mồ hôi dù không có vẻ ốm. Tóc bé ẩm và bé có nốt phát ban do nhiệt. Quá nóng. Giữ cho nhiệt độ trong phòng dễ chịu và mát hơn. Hãy kiểm tra để đảm bảo là bé không mặc quá nhiều quần áo. Nếu bé toát mồ hôi hay tóc bị ẩm, má ửng đỏ, hoặc có nốt rôm sảy tức là bé đang bị nóng quá.
Nhiệt độ của bé là 100,4°F (38,5°C) hoặc cao hơn, và bé nhỏ hơn 3 tháng tuổi. Nhiễm trùng hoặc vấn đề sức khỏe khác có thể cần khám và chữa trị. Hãy gọi cho bác sĩ nhi. Một cơn sốt ở trẻ nhỏ hơn 3 tháng tuổi có thể tiềm ẩn nhiều nguy cơ.

Bác sĩ nhi sẽ khám cho bé để loại trừ bất cứ nguy cơ nhiễm trùng hay bệnh nghiêm trọng nào khác.

Điều trị đau do ung thư

ĐẠI CƯƠNG

Đau là triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân ung thư, là triệu chứng cơ năng chủ quan do cá nhân cảm nhận thấy. Tổ chức Y tế Thế giới thống kê có khoảng 70-80% bệnh nhân ung thư có đau và 2/3 trong số đó bị đau mức độ vừa và nặng. Theo khảo sát mới nhất tại Việt Nam (8/2005) có 75,2% bệnh nhân bị đau, trong đó 57% bị đau nặng và 53,2% đau thường xuyên.

Khái niệm: Đau là cảm eiác khó chịu và sự chịu đựng về mặt cảm xúc của neười bệnh, do tổn thương mô hiện có hoặc tiềm tàng, hoặc được mô tả giống như có tôn thương mô thực sự (Tổ chức Quốc tế nghiên cứu Đau).

Với số lương bệnh nhân ung thư mới mắc hàng năm tại Việt Nam khoảng hơn 150.000. trong đó đa số đến viện ở giai đoạn muộn hoặc không có điều kiện tham gia điều trị tích cực thí kiểm soát đau có hiệu quả vừa là nhu cầu vừa là sự giúp ích lớn cho người bệnh.

PHÂN LOẠI VÀ NGUYÊN NHÂN

Phân loại đau:

Có 2 kiểu chính

  • Đau thụ cảm: Là đau do các đau mút thụ cảm của các dây thần kinh bị kích thích. Đau thụ cảm được chia thành đau thân thể và đau tạng

+ Đau thân thể: đau tại da, cơ, xương, khớp. Thường là đau khư trú rõ ràng. Có cảm eiác nhức, tưng tức, âm ỉ, chói buốt.

+ Đau tạng: đau gan, dạ dày, đại trực tràng… do bị tổn thương hay xâm lấn. chèn ép. Thường không khư trú. Cảm giác co thắt, quặn, siết chặt…

  • Đau thần kinh: Là đau do các tổn thương mô thần kinh ngoại vi hoặc trung ương. Đau có cảm giác bỏng rát, tê bì, chói giật hay tăng cảm, dị cảm tại những vùng cơ thể do dây thần kinh chi phối

Nguyên nhân đau trong ung thư:

Do chính bệnh ung thư: khối u làm tổn thương, xâm lấn, chèn ép tổ chức hay cơ quan của cơ thể.

  • Do liên quan đến ung thư: tổn thương ung thư làm co cơ, sưng nề bạch mạch…
  • Do điều trị ung thư: đau do di chứng xạ trị, hóa trị, phẫu thuật…
  • Do các bệnh kèm theo: tiểu đường, thoái hóa cột sống…

Đây là những nguyên nhân do tổn thương mô thực sự hoặc tiềm tàng. Ngoài ra các yếu tố tâm lý xã hội cũng là nguyên nhân thường gặp trong đau do ung thư. Các rối loạn tâm thần như lo lắng, sợ hãi hay trầm cảm làm cho tình trạng đau thực thể nặng thêm và ngược lại. Các yếu tố này hay bị bỏ qua và trong nhiều trường hợp không thể điều trị giảm đau được nếu không chẩn đoán và xử trí được các nguyên nhân tâm lý xã hội.

Đánh giá đau

  • Tiền sử đau: đau từ bao giờ, kéo dài bao lâu, yếu tố nào làm cho đau tăng lên hay giảm đi, vị trí đau, có lan xuyên không, các biện pháp điều trị đã dùng, các bệnh liên quan…
  • Kiểu đau: Đau cảm thụ hay đau thần kinh hay kết hợp cả hai
  • Nguyên nhân đau: do khối u hay do các triệu chứng liên quan hay bệnh kèm theo hay yếu tố tâm lý xã hội…
  • Mức độ đau: Sử dụng một trong các công cụ đánh giá mức độ trầm trọng của đau. Lưu ý chỉ dùng một công cụ trên mỗi bệnh nhân trong các lần đánh giá mức độ đau của quá trình điều trị

+ Bằng từ ngữ: như không đau, hơi đau, đau nhẹ, đau vừa, đau nặng hay đau khủng khiếp

+ Bằng thang điểm số từ 0 đến 10, với 0 là không đau và 10 là đau khủng khiếp. ( Hình 1)

+ Bằng thang điểm theo nét mặt Wong-Baker ( Hình 2 ): áp dụng cho trẻ em và người bệnh không nói được.

Thang điểm số

     Hình 5. Thang điểm số

Thang điểm cho nét mặt

Hình 6. Thang điểm theo nét mặt Wong-Baker

+Kết quả đánh giá mức độ đau :

   Đau nhẹ: từ 1 đến 3 điểm

+ Đau vừa: từ 4 đến 6 điểm

+ Đau nặng: trên 7 điểm

Xử trí đau:

Các phương pháp điều trị đau do ung thư:

  • Điều trị chính bệnh ung thư bằng phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, nội tiết… để ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh
  • Điều trị bằng các thuốc giảm đau: là biện pháp chủ yếu
  • Điều trị bằng các phương pháp không dùng thuốc như xoa bóp, châm cứu, hay đặt máy kích thích liên tục chẹn dẫn truyền thần kinh, hay xạ trị giảm đau trong di căn xương…

Mọi bệnh nhân bị đau đều cần được điều trị và hỗ trợ nhằm giảm sự chịu đựng về mặt thể chất và tinh thần và cải thiện chất lượng cuộc sống trong suốt quá trình bệnh. Mục đích của việc sử trí đau là làm giảm cường độ đau và ngăn chặn đau tái phát, người bệnh thấy thoải mái, hết đau và duy trì đượccác hoạt động thường nhật của mình.

Tôn trọng và ghi nhận sự mô tả đau của nggười bệnh. Mồi người bệnh sẽ có đáp ứng khác nhau với các biện pháp điều trị đau.

Điều trị đau bằng thuốc:

Nguyên tắc chung:

Ưu tiên đường uống: là cách đưa thuốc giảm đau thuận tiện nhất, áp dụng được mọi lúc mọi nơi. Trừ khi người bệnh quá yếu hay không còn khả năng nuốt hay cần một xử trí có tính chất cấp cứu mới áp dụng các đường khác như tiêm hay dán, hay đặt trực tràng.

Theo giờ: Thuốc giảm đau cần được đưa đều đặn theo giờ để duy trì được nồng độ thuốc đủ để khống chế cơn đau và tránh tái phát. Đặc biệt với nhóm thuốc giảm đau có opioid, thường được đưa mỗi 4 đến 6 giờ, trừ dạng bào chế có tác dụng kéo dài.

Liều lượng:

+ Liều đều đặn theo giờ: hay còn gọi là liều “thường xuyên” Đưa thuốc giảm đau theo khoảng thời gian cố định, liều tiếp theo phải dùng trước khi liều phía trước hết tác dụng.

+ Liêu đột xuất: hay con gọi là liều “cứu hộ” là liều bổ xung vào liều thường xuyên để khống chế những cơn đau đột xuất. Thường bằng 1/6 tong liều thường xuyên trong ngày.

Khi có trên 3 liều đột xuất trong ngày thì cần tính lại liều thường xuyên theo giờ.

  • Theo từng cá nhân: mỗi bệnh nhân có sự đáp ứng với thuốc giảm đau khác nhau, liều đúng là liều đủ để khống chế cơn đau của họ
  • Theo Thang giảm đau ba bậc của Tổ chức Y tế thế giới (Hình 3)

+ Bậc 1: Đau nhẹ, dùng các thuốc giảm đau không opioid, có thể dùng kèm nhóm thuốc hỗ trợ

+ Bậc 2: Đau vừa, dùng thuốc giảm đau có opioid nhẹ, có thể dùng kèm với các thuốc không opioid và thuốc hỗ trợ

+ Bậc 3: Đau nặng, dùng thuốc giảm đau có opioid mạnh, có thể dùng kèm với các thuốc không opioid và thuốc hỗ trợ

BA BẬC THANG GIẢM ĐAU CỦA TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI

Bậc thang giám đau của Tổ chức Y tế Thể giới
Bậc thang giám đau của Tổ chức Y tế Thế giới

Các thuốc giảm đau: Có 3 nhóm chính: không opioid, nhóm opioid và nhóm hỗ trợ.

Các cách đưa thuốc giảm đau: uống, tiêm dưới da, tiêm tĩnh mạch, đặt trực tràng, tủy sống hay ngấm qua da.

Nhóm không opioid:

  • Acetaminophen như Paracetamol, Panadol… có tác dụng giảm đau và hạ sốt. Liều dùng: Người lớn 500-1.000mg/lần, trẻ em 10-15mg/kg, mỗi 4- 6 giờ. Liều tối đa cho người lớn 4.000mg/ngày. Lưu ý tác dụng phụ với gan.
  • Nhóm chống viêm không steroid (NSAIDs): gồm rất nhiều chế phấm như Ibuproĩen, Diclofenac, Ketorolac, Ketoprofen, Meloxicam, Piroxicam… và nhóm ức chế COX-2. Lưu ý các tác dụng phụ trên đường tiêu hóa như xuất huyết dạ dày, hay suy giảm chức năng gan thận.Và giảm tiểu cầu… khi dùng thời gian dài.

Để đề phòng tác dụng phụ trên đường tiêu hóa nên dùng kèm thuốc đôi kháng H2 (omeprazol) ngay khi dùng thuốc nhóm này. Và ngừng thuốc khi có biểu hiện đau thượng vị, đi ngoài phân đen, cảm giác khó tiêu.

Giảm liều thuốc NSAIDs hoặc chọn thuốc giảm đau nhóm khác khi bệnh nhân có nguy cơ bị tác dụng nghiêm trọng.

Nhóm opioid

Các opioid nhẹ: thường hay có dạng kết hợp các opioid nhẹ với nhóm không opioid, hay gặp nhất là với Acetaminophen. Sử dụng trong đau mức độ vừa.

  • Codein: liều người lớn 30-60mg/lần, trẻ em 0,5-lmg/kg. Dùng liên tục 3- 4 giờ một lần. Còn sử dụng cho điều trị ho và tiêu chảy.
  • Dextropropoxyphene: người lớn 65mg/lần, mỗi 4 giờ. Khi dùng dài ngày cần lưu ý độc tính với gan.
  • Tramadol: người lớn 50-100mg mỗi 4-6 giờ. Hiệu quả gấp 2 lần Codein và bằng 1/5 Morphine. Liều tối đa cho phép 400mg/ngày.

Khi dùng nhóm này ở dạng kết hợp mà tổng liều Acetaminophen trên 4.000mg/ngày thì nên chuyển sang dạng opioid mạnh.

Các opioid mạnh: chỉ định cho đau từ vừa đến nặng. Ngày nay có nhiêu dạne bào chế tác dụng kéo dài từ 8 đến 12, 24, 72 giờ.

Morphine dạng tác dụng ngấn:

+ Đường uống: dò liều với người bệnh chưa dùng các thuốc opioid bao giờ từ 2-5mg với người lớn, đánh giá lại sau 15-30 phút, với

trẻ em từ 0,15-0,3mg/kg. Sau khi có liều chuẩn, dùng liên tục mỗi 4 giờ.

+ Đường tiêm dưới da hoặc tĩnh mạch: dò liều 2-5mg với người lớn và 0,05-0,lmg/kg với trẻ em.

Morphine dạng tác dụng kéo dài 8-12 giờ, thường chỉ định khi đã có liều chuân với Morphine dạng ngắn, không dùng cho liều đột xuất.

  • Oxycodone: có hiệu lực m ạnh hơn Morphine, có dạng tác dụng ngắn và kéo dài. Liều khởi đầu với người lớn 5-10mg và trẻ em 0,lmg/kg.
  • Hydromorphone: mạnh hơn Morphine 7-8 lần. Cho người lớn l-3mg đường uống và 0,5-lmg đường tiêm, dùng mồi 3-4 giờ.
  • Pethidine: không chỉ định cho đau mãn tính như đau do ung thư vì độc tính thần kinh cua norpethidine (dạng chuyển hóa của Pethidine). Ngày nay thường chỉ định cho đau sau phẫu thuật.
  • Fentanyl: để điều trị đau do ung thư dùng dạng dán (ngấm qua da), tác dụng kéo dài 72 giờ. Vị trí dán thường ở ngực hay mặt trong đùi. Thuốc giảm tác dụng khi bệnh nhân sốt hoặc ra nhiều mồ hôi. Thuận tiện với người bệnh quá yếu, mất khả năng nuốt, hay đang có quá nhiều các thuốc uống hoặc tiêm dùng kèm theo. Không chỉ định cho cơn đau đột xuất. Cần dùng thêm thuốc giảm đau tác dụng nhanh cho đến khi Fentanyl dán có hiệu quả.

Tác dụng phụ của opioid: Sớm gặp là buồn nôn, nôn, lơ mơ, buồn ngủ… Muộn hơn là táo bón, tiểu khó… rất hiếm gặp co giật hay khó thở. Nên dự phòng những tác dụng phụ ngay từ đầu như cho thuốc chống nôn, thuốc nhuận tràng kèm theo và tuân thủ chặt chẽ các liều chuẩn mực.

Sử dụng bảng quy đoi liều giữa các opioid khi cần.

Dừng điều trị với opioid: Khi dùng thuốc từ 2 tuần trở lên thương người bệnh có biểu hiện lệ thuộc, vì thế cần giảm liều từ từ để tránh xảy ra hội chưng cai nghiện.

Nhóm hỗ trợ: Nhóm thuốc này không có tác dụng giảm đau trực tiếp, nhưng có tác dụng giảm một số dấu hiệu đi kèm với đau như bỏng rát hay giật thường gặp trong đau thần kinh, hay phù nề, co thắt…

Các nhóm chính:

  • Nhóm Corticosteroid.
  • Nhóm chống trầm cảm ba vòng: amitriptyline, nortriptyline…
  • nhóm chống co giật (thuốc động kinh): carbamazepine, gabapentin, clonazepam…
  • Nhóm chẹn đường dẫn truyền thần kinh (thuốc tê tại chỗ): lidocain, bupivacain…
  • Nhóm chống co thắt cơ trơn: spocolamin. spasíon…
  • Nhóm dãn cơ vàn: diazepam. bacloíen…
  • Nhóm Biphosphonate.

Bảng công dụng thực phẩm theo đông y

Tên thực phẩm Công dụng
Gạo tẻ: Vị ngọt, ổn định. Bổ trung ích khí, bổ lách, dạ dày, tiết nước bọt, hết khát, bổ ruột gan, trị kiết lỵ.
Gạo nếp: Vị ngọt, ấm. Bổ trung ích khí, bổ lách và dạ dày, cầm nước, bổ phổi.
Tiểu mạch : Vị ngọt, ổn định. Dưỡng tim, an thần, bổ ruột, bổ lách, trừ nhiệt, hết khát.
Đậu nành: Vị ngọt, ổn định, bổ lách, dạ dày, ruột già. Kiện lách, bổ trung, giải độc, lặn mụn nhọt, hết đau.
Đậu đen: Vị ngọt, ổn định, vào lách, vào thận. Bồi bổ máu, bô thận âm, khử độc, lợi tiểu, tiêu nhiệt, giải độc.
Đậu đỏ: Vị ngọt, chua, ổn định, vào lách, tim, thận nhỏ. Khỏe lách, lợi tiểu, thanh nhiệt, lặn mụn nhọt, tiêu giải độc.
Đậu xanh: VỊ ngọt, lạnh. Thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu tiện, giải khát.
Đậu cô ve: Vị ngọt, hơi ấm, bổ lách khử ẩm, lặn mụn nhọt.
Đầu tầm: Vị ngọt, hơi cay, ổn định: ích lách, bổ dạ dày, cầm nước, mát máu, trị huyết áp thấp.
Mè (vừng): Vị ngọt, ổn định, bổ gan, thận, có lợi cho ngũ tạng, bổ máu, ích thọ.
Đậu phộng: Vị ngọt, ổn định, qua phổi, lách. Có lợi cho phổi và dạ dày, trị táo bón.
Đậu phụ: Vị ngọt, mát, vào lách, dạ dày, ruột già, lợi khí và trung tiết nước, giải táo bón, thanh nhiệt, giải độc.
Sữa đậu: Vị ngọt, ổn định. Bổ hư, thanh hỏa, tiêu đàm, thông ngạt, trị cơ thể suy nhược, bí ỉa.
Thịt heo: Vị ngọt, Ổn định, qua lách, dạ dày, thận. Bổ âm, giải táo, bổ thận âm, bổ hư.
Não heo: Vị ngọt, hàn về thận. Bổ xương, trị đau đầu hoa mắt thần kinh, suy nhược.
Tim heo: Vị ngọt, ổn định về tim. Bổ hư ích khí, an thần, trị bệnh tim, mắt.
Gan heo: Vị ngọt, ấm, qua gan. Bổ gan dưỡng huyết, bổ mắt. Trị hoa mắt, đêm mất ngủ, bệnh động kinh.
Bụng heo: Vị ngọt, hơi ấm, qua lách dạ dày. Bổ hư, khỏe lách, dạ dày. Trị đái rắt, dinh dưỡng không dư.
Da heo: Vị ngọt, mát. Bổ tim, bổ phổi, trừ độc, bổ âm, lặn mụn nhọt, giải thuốc độc.
Giò heo: Vị ngọt, ổn dịnh, qua dạ dày. BỔ máu, bổ thận tinh, bổ lưng, chân.
Thịt bò: Vị ngọt, ổn định, qua dạ dày vào lách. Bổ lách, dạ dày, ích khí huyết, giải khát, ngủ được.
Bụng bò: Vị ngọt, ấm, vào dạ dày qua lách. Bồi bổ lách, dạ dày, giải độc.
Dương vật bò: Bổ thận khí, ích tinh huyết tráng dương, trị bệnh phụ nữ.
Gan bò: Vị ngọt, Ổn định, vào gan. Bổ gan, sáng mắt, bổ mắt, trị mù mắt, huyết hư.
Thịt dê: Vị ngọt, nóng, vào lách qua thận. Bổ khí huyết, ấm trung, khử hàn, bồi bổ dạ dày, cơ thể.
Thận dê: Vị ngọt, ấm, vào thận. Bổ thận khí, ích tinh.Trị bệnh thận dẫn đến ù tai, bất lực, liệt dương, đái rắt.
Thịt chó: Vị ngọt, chua, ấm. Bồi bổ ngũ tạng, ấm lưng, bổ thận tráng dương, bổ da dày, ích khí.
dương vật chó: Vị mặn, Ổn định. Chức năng tráng dương bổ tinh. Trị liệt dương, bệnh khí hư phụ nữ.
Thịt thỏ: Vị ngọt, ổn định, mát, vào gan qua ruột già. Bổ trung ích khí, hết khát, khỏe lách, mát máu, giải độc, bổ ruột già.
Thịt gà: Vị ngọt, hơi ấm, vào lách, dạ dày qua thận. Am trung ích khí, bổ tinh, bổ cốt.
Gan gà: Vị ngọt, ấm. Bổ ích gan thận, sáng mắt, khởi dương, trệ thận hư, mắt mờ, bệnh trẻ em.
Gà điểu: Vị ngọt, ổn định, vào gan qua thận. Dưỡng âm khử nhiệt, bổ thận, bổ gan, giải khát, trị suy nhược.
Thịt vịt: VỊ ngọt, lạnh, vào lách, phổi, dạ dày qua thận, bổ dương, lợi tiểu, lặn mụn nhọt.
Thịt ngỗng: Vị ngọt, Ổn định, vào lách, dạ dày qua ruột già. Bố ngũ tạng, ích trung khí, bổ gân cốt, thanh nhiệt, lợi ẩm.
Thịt bồ câu: Vị mặn, ổn định, vào gan, thận qua phổi. Bổ gan, bổ thận, ích khí huyết, khử phong, giải độc.
Thịt chim sẻ: Vị ngọt, ấm, vào lách qua phổi. Tráng dương, ích khí dễ tiểu tiện,bổ tinh.
Tay gấu: Vị ngọt, cay, ấm, vào lách qua dạ dày. Bổ khí dương huyết, khỏe lách, ích dạ dày, khử phong hàn, trừ ẩm, liền xương cốt.
Tổ yến: Vị ngọt, hơi mặn, ổn định. Bổ âm thanh nhiệt, bổ lách, dạ dày, tráng dương, lợi tiểu tiện.
Ngân nhĩ: Vị ngọt, nhạt, ổn định. Bổ âm, bổ phổi, bổ dạ dày, tiết nước, trị chảy máu, khô miệng, khát nước, táo bón.
Phát thái: Vị ngọt, lạnh, thanh nhiệt, tiêu đờm, bồi bổ dinh dưỡng bổ máu.
Cá chép: Vị ngọt, ổn định, ấm. Vào lách, thận, qua phổi. Lợi tiểu, lặn mụn nhọt, hạ khí, hết ho, thanh nhiệt, giải độc.
Cá phụ: Vị ngọt, ấm. Vào lách, dạ dày, qua ruột già. ích khí, khỏe lách, lợi tiểu, lặn mụn nhọt, thông mạch.
Lươn: Vị ngọt, ấm. Vào gan, lách, qua thận. Bổ hư, trừ độc, khỏe gân cốt, thông mạch máu.
Cá xu: Vị ngọt, ổn định, vào gan. Dưỡng âm, thanh nhiệt, mát máu. Trị đau lưng, huyết trắng, sa ruột.
Cua: Vị mặn, lạnh. Bổ xương cốt, thanh nhiệt, tan máu, bổ âm, bổ dạ dày.
Tôm: Vị ngọt, mặn, ấm. Bổ thận tráng dương, bổ âm, bổ dạ dày, tăng sữa, thông vú. Trị dương suy, dạ dày.
Rong biển: Vị mặn, lạnh. Vào gan, dạ dày, qua thận. Tan hạch, thanh nhiệt, lợi tiểu. Trị huyết áp.
Ngó sen: Vị ngọt, ổn định. Vào tim, lách, qua dạ dày. Thanh nhiệt, hết khát, mát máu, tan bầm.
Hành: Vị cay, ấm. Vào phổi, qua dạ dày. Thông dương giải độc.
Rau hẹ: Vị cay, ấm. Vào gan, dạ dày, qua thận. Bổ dạ dày, minh mẫn, ấm trung hành khí.
Rau cần: Vị ngọt, cay, mát. về phổi, dạ dày, qua gan. Lợi tiểu, mát máu, cầm máu.
Cải trắng: Vị ngọt, ổn định. Vào phổi, qua dạ dày. Giải nhiệt, trừ độc, thông ruột, dạ dày.
Cà: Vị ngọt, mát. Vào lách, dạ dày, qua ruột già. Tan máu, hết đau, khử độc, lặn mụn nhọt, thanh nhiệt, lợi tiểu, giải độc.
Củ cải: Vị cay, ngọt, mát. Vào phổi, qua dạ dày. Thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, tiêu đờm, hạ khí, hết ho.
Cà rốt: Vị ngọt, ổn định, hơi ấm. Vào phổi, qua lách. Bổ lách, dạ dày, bổ trung ích khí, giúp tiêu hóa.
Dưa chuột: Vị ngọt, lạnh. Vào lách, dạ dày, qua ruột già. Thanh nhiệt, lợi thủy.
Bí đao: Vị ngọt, mát. Vào phổi, ruột non, ruột già, qua bàng quang. Thanh nhiệt, giải độc, lợi thủy, lặn mụn nhọt, khử đờm.
Anh đào: Vị ngọt, ổn định. Bồi bổ lách, dạ dày. Điều trung ích khí, tiết nước hết khát, tốt da dẻ.
Táo to: Vị ngọt, ấm. Vào lách, qua dạ dày. Bồi bổ lách, dạ dày, ích khí, tiết nước, dưỡng máu, an thần.
Mía: Vị ngọt, ổn định. Vào phổi, qua dạ dày. Thanh nhiệt, giải độc, bổ âm nhuận táo, hết nôn.
Hạnh đào: Vị ngọt, ấm. Vào thận, qua phổi. Bổ thận tinh, dưỡng máu, ấm phổi.
Dưa hâu: Vị ngọt, lạnh. Vào tim, dạ dày, qua bàng quang. Bồi bổ dạ dày, giúp tiêu hóa, giải khát, lợi tiểu tiện.
Lê: Vị hơi chua, mát. Vào phổi, qua dạ dày. Tiết nước, nhuận táo, thanh nhiệt, tiêu đờm.
Trứng gà: Vị ngọt, ổn định. Vào tim, lách, qua gan. Bổ âm, nhuận táo, bồi bổ ngũ tạng, ích khí, tĩnh tâm, ấm người, dưỡng máu.

Ung thư Phổi

Lâm sàng

Triệu chứng ở phế quản

  • Ho
  • Ho khạc đàm
  • Ho máu
  • Khó thở

Hội chứng nhiễm trùng phế quản phổi

  • Bao gồm các triệu chứng của viêm phổi và ap-xe phổi

Các dấu hiệu liên quan với sự lan toả tại chổ, tại vùng

  • Hội chứng chèn ép TM chủ trên
  • Triệu chứng chèn ép thực quản
  • Triệu chứng chèn ép TK
  • Đau ngực
  • TDMP
  • Nổi hạch

Các triệu chứng toàn thân

Cận lâm sàng

  • X- quang ngực
  • CT- Scan.
  • PET Scan.
  • PET- CT.
  • Siêu âm.
  • Nội soi PQ.
  • Sinh thiết xuyên thành ngực
  • Nội soi lồng ngực – trung thất
  • Phẩu thuật NS lồng ngực & sinh thiết màng phổi
  • XN các maker sinh học Các xét nghiệm khác.
  • Tùy theo đánh giá di căn và các chức năng khác.

Xếp giai đoạn

T: khối u

  • Tx :không đánh giá được khối u nguyên phát, hoặc tìm thấy TB ung thư ở đàm hoặc dịch rửa PQ nhưng không nhìn thấy ở chẩn đoán hình ảnh hoặc NS
  • T0: không phát hiện bằng chứng nào của u nguyên phát ở phổi
  • Tis : ung thư biểu mô tại chổ.
  • T1 khối u có kích thước lớn nhất < 3cm, được bao quanh bởi nhu mô phổi hoặc màng phổi lá tạng, khi soi PQ không xâm lấn tới PQ gố
  • T2 : khối u có một trong các đặc điểm về kích thước hoặc mức lan:

+ Kích thước lớn nhất >3cm.

+Xâm lấn vào PQ gốc, nhưng cách carina> 2cm.

+Xâm lấn vào màng phổi tạng.

+ Xẹp hoặc viêm phổi sau tắc phế quản đi kèm có thể vượt quá vùng rốn phổi nhưng không chiếm toàn bộ một phổi.

  • T3 :khối u kích thước bất kỳ nhưng có xâm lấn vào một trong các thành phần sau:

+ Thành ngực.

+Cơ hoành.

+Màng phổi trung thất, lá thành màng tim.

+Khối u ở trong PQ gốc cách carina <2cm nhưng không xâm lấn vào nó.

+Xẹp hoặc viêm toàn bộ một phổi do tắc PQ.

– T4 : khối u có kích thước bất kỳ nhưng có xâm lấn vào một trong các thành phần sau:

+ Trung thất , tim, các mạch máu lớn.

+ Khí quản, thực quản, thân đốt sống.

+ Carina.

+ Một hoặc vài nốt u ở cùng thùy với khối u chính, khối u có kèm TDMP có TB ác tính.

Ø  N: hạch vùng

+ Nx : không đánh giá được hạch vùng.

+ N0 : không có di căn vào hạch vùng.

+ N1 : di căn hạch quanh PQ cùng bên và /hoặc hạch rốn phổi và hạch trong phổi cùng bên, bao gồm cả sự xâm lấn trực tiếp của khối u vào các hạch đó.

+ N2 di căn đến hạch trung thất cùng bên và/ hoặc hạch dưới carina.

+N3 : di căn đến hạch trung thất đối bên, hạch rốn phổi đối bên, hạch cơ bậc thang cùng bên hoặc đối bên hoặc hạch thượng đòn.

Ø  M: di căn

+ Mx : không đánh giá được di căn xa.

+ M0 : không có di căn xa.

+ M1 : có di căn xa, bao gồm cả việc có khối u nhỏ ở thùy phổi khác (cùng bên hoặc đối bên)

v  Xếp giai đoạn

  • Ung thư biểu mô ẩn:TxNoMo.
  • Giai đoạn 0 : TisNoMo.
  • Giaiđoạn IA : T1NoMo
  • Giai đoạn IB: T2NoMo
  • Giai đoạn IIA: T1N1Mo
  • Giai đoạn IIB:T2N1Mo, T3NoMo
  • Giai đoạn IIIA: T1N2Mo, T2N2Mo, T3N1,2Mo.
  • Giai đoạn IIIB:Mọi T,N3Mo ;T4,mọi N,Mo.
  • Giai đoạn IV:Mọi T,mọi N, M1

v  Xếp giai đoạn UTP TB nhỏ

  • Khu trú:khu trú một bên lồng ngực, có thể xâm lấn hạch trung thất rốn phổi hoặc thượng đòn cùng bên, vẫn nằm trong một trương xạ trị được
  • Lan tỏa: các tổn thương không còn khu trú ở một bên lồng ngực, không cùng nằm trong một trường xạ trị được
  • Tuy nhiên song song với phân loại theo 2 giai đoạn như trên,cũng có thể đồng thời áp dụng PL theo TNM như UTPKTBN để tiện đánh giá, theo dõi đáp ứng điều trị.

Điều trị ung thư phổi không phải tế bào nhỏ

Phẫu thuật

Chỉ định phẫu thuật

  • Thể trạng chung tố
  • Chức năng hô hấp chưa biến đổi nhiều
  • Tổn thương còn khu trú,TNM từI->IIIA.
  • TB học: dạng vẩy, tuyến, tế bào lớn.(Ung thư phổi tế bào nhỏ thư ờng là loại lan tỏa nhanh, di căn sớm, thường áp dụng hóa và xạ trị.)

Chống chỉ định

  • Giai đoạn: IIIB & IV
  • Khàn tiếng, liệt dây thanh âm.
  • Hội chứng TM chủ trên.
  • Chức năng phổi không đầy đủ.
  • Bệnh tim nặng
  • TDMP ác tính.
  • Liệt TK hoành.
  • Chèn ép, thâm nhiễm thực quản,khó nuốt, nuốt nghẹ
  • UTP tế bào nhỏ.

Các phương pháp phẫu thuật Cắt một phần phổi:

  • Cho những u nhỏ, ngoại vi, không có di căn hạch
  • Phương pháp : mở ngực hoặc nội soi.

Cắt thùy phổi:

  • Chỉ định : thương tổn ở giữa thùy phổi
  • Phương pháp: cắt thùy + nạo vét hạch

Cắt thùy phổi nối phế quản:

  • Khi khối u nằm giữa chổ phân chia của PQ thùy trên hoặc ở chổ xuất phát thùy trên.

Cắt cả bên phổi.

Chỉ định:

  • UTPKTBN gđ IIB hoặc

– Xâm lấn PQ gốc & carina ít.

Cắt rộng rãi.

Chỉ định:UTP gđ IIIB hay IV.

Phương pháp: cắt cả phổi và các thành phần di căn như:màng tim, mạch máu, thực quản, khí quản, thành ngực…

Nạo vét hạch:

  • Nạo vét hạch triệt để : bao gồm nạo tất cả các hạch và tổ chức mỡ xung
  • Cần nạo các nhóm sau:

+ Hạch trung thất trên.

+ Hạch xung quanh ĐMC ngực.

+ Hạch trung thất dưới.

+ Nhóm hạch N1.

Điều trị phẫu thuật với nhóm Ung thư phổi tế bào nhỏ

  • Thường không có chỉ định phẫu thuật
  • Chỉ nên hóa và xạ trị.

ĐIỀU TRỊ CHUNG CHO TỪNG GĐ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ

Giai đoạn I

PHẪU THUẬT:

– Phương pháp:

+ Cắt thùy(tỉ lệ tử vong trong 30 ngày sau PT: cắt phổi:7,7%;cắt thùy;3,3%; cắt một phần:1,4%).

+ Cắt rộng.

+ Nạo hạch rốn phổi

XẠ TRỊ: Nếu diện cắt không an toàn. HÓA TRỊ: Hiệu quả chưa rõ ràng.

Giai đoạn II

  • Điều trị tương tự giai đoạn I .
  • Xạ trị hỗ trợ khi phẫu thuật ghi nhận xâm lấn hạch trung thấ

Giai đoạn IIIA

Phẫu thuật giai đoạn này thường gặp khó khăn.

  • Thường phối hợp: PHẪU – HÓA – XẠ .
  • Hóa trị tân hỗ trợ: làm giảm giai đoạn bệnh -> phẫu thuật hiệu quả hơn.
  • Nếu không có khả năng phẫu thuật: HÓA – XẠ đồng thời hay HÓA xen kẽ với XẠ.
  • Tỉ lệ tử vong trong vòng 5 năm: 90 ->95% nếu chỉ phẫu thuật đơn độc ở gđ III

Giai đoạn IIIB

  • KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT
  • ĐIỀU TRỊ BẰNG PHƯƠNG PHÁP ĐA MÔ THỨC

Giai đoạn IV

ĐA HÓA TRỊ LIỆU.

Nếu tổng trạng kém chỉ chăm sóc nội khoa là chủ yếu.

Hóa trị tạm bợ cải thiện triệu chứng ở 2/3 BN, kéo dài thời gian sống thêm 35 ->49% BN.

Xạ trị triệu chứng trong trường hợp di căn não.

ĐIỀU TRỊ CHUNG CHO UNG THƯ PHỔI TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN KHU TRÚ.

Bệnh ở một bên và còn nằm trong trường chiếu xạ:

  • HÓA TRỊ – XẠ TRỊ.
  • PHẪU THUẬT :chưa được chứng minh hiệu quả.
  • PP ĐIỀU TRI ĐA MÔ THỨC: cho giá trị trung bình sống còn 23 tháng đến 5 năm là 25%( Tr 184- lung cancer-Manual of clincal oncology)

GIAI ĐOẠN LAN TRÀN.

  • Chủ yếu là PP đa hóa trị.
  • Tỉ lệ đáp ứng 15 ->20%.
  • Tỉ lệ sống 1 -.2 năm là 20%.

PHÁC ĐỒ HOÁ TRỊ

  1. Không tế bào nhỏ:
  • chỉ định:
  • Giai đoạn IA(T1N0):PT DC(-): NC thấp: theo dõi

NC cao hóa trị

DC(+): PT lại. hóa xạ, hóa trị

  • IB(T2N0) DC(-): HT

DC(+): PT, hóa xạ, xạ trị, hóa trị

Nguy cơ cao: biệt hóa kém, xâm lấn mạch máu, cắt sát bướu.

  • Giai đoạn IIA(T1N1:PT DC(-): NC thấp: hóa trị

IIB(T2N0):PT                  NC cao hóa -xạ+ HT

DC(+): PT lại. hóa- xạ, hóa trị

IIIA(T1-2, N2)                 DC(-): HT, XT Trung thất DC(+): Hóa- Xạ, HT

IIIA(T1-2, N2):PT           DC(-): HT, XT Trung thất

IIIB(T4,N1)                       H-X       PT        HT DC(+) : Hóa – Xạ, HT

Không phẫu thuật được, Dịch màng phổi, màng tim: Hóa trị

  • Giai đoạn IV: T1-2, N0-1: Não, tuyến thượng thận: Phẫu thuật cắt bướu não, XT toàn bộ não.

Hóa – xạ vào phổi, hoặc hóa trị tạm bợ. T3-4, N2: HT tạm bợ.

Tái phát:

  • Tại chỗ: PT nếu có thể

Hóa trị tạm bợ

  • Di căn: Não, thận khu trú: PT+HT
  • XT triệu trứng
  • Hóa trị tạm bợ

–          Hóa trị hỗ trợ các phác đồ: TP, CAP, MIC.

  • Hóa trị tạm bợ các phác đồ: TP, CAP, MIC, GC, VC, EP.

v Phác đồ hóa trị:

+ TP(Doce) chu kỳ 3 tuần, 6 chu kỳ

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Docetaxel 75mg/m2 TTM N1
Cisplatin(Carbo) 75mg/m2(300) TTM N1

+ TP(Pac) chu kỳ 3 tuần, 6 chu kỳ

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Paclitaxel 135-175mg/m2 TTM N1
Cisplatin(Carbo) 75mg/m2(300) TTM N1

+ GC chu kỳ 3 tuần

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Gemcibine 1.200mg/m2 TTM N1+8
Cisplatin(Carbo) 80mg/m2(300) TTM N1

+ VC chu kỳ 3 tuần

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Vinorelbine 25 mg/m2 TTM N1+8
Cisplatin(Carbo) 100mg/m2(300) TTM N1

+ MIC (Pac) chu kỳ 3 tuần, 4-6 chu kỳ

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Mitomycin 6 mg/m2 TTM N1
Ifosfamide 3.000mf/m2 TTM N1
Cisplatin(Carbo) 50mg/m2(300) TTM N1

+ CAP chu kỳ 3 tuần, 6 chu kỳ

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Cyclophosphamide 400mg/m2 TTM N1
Doxorubicin 40mf/m2 TTM N1
Cisplatin(Carbo) 60mg/m2(300) TTM N1

+ PE (Pac) chu kỳ 3 tuần

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Cisplatin(Carbo) 60mg/m2 TTM N1
Etoposide 120mg/m2 TTM N1-3

Đơn chất: Docetaxel, Paclitaxel, Gemcitabine, Vinorelnine.

+ Docetaxel chu kỳ 3 tuần

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Docetaxel 75mg/m2 TTM N1

+ Paclitaxel chu kỳ 3 tuần

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Paclitaxel 175mg/m2 TTM N1

 

Gemcitabine chu kỳ 3 tuần

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Gemcitabine 1.000mg/m2 TTM N1,8

+ Vinorelnine chu kỳ 3 tuần

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Vinorelnine 30 mg/m2 TTM N1+8
  • Điều trị nhắm trúng đích ± Hóa trị:

+ Bevacizumad chu kỳ 3 tuần.

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Bevacizumad 7.5 mg/m2(5mg) TTM N1+8

+ Erlotinib.

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Erlotinib 150 mg Uống Mỗi ngày
  • Tế bào nhỏ:
  • Hóa trị hỗ trợ cho mọi giai đoạn nếu có thể phẫu thuật đượ Các phác đồ hóa trị : PE, CAV, CAE, TP 6 chu kỳ
  • Đa số trường hợp là hóa trị tạm bợ.

Các phác đồ hóa trị: PE, CAV, CAE, TP, EIP, Iri+P 6-8 chu kỳ, tùy theo mức độ đáp ứng và sử dung nạp của bệnh nhân

v Các phác đồ điều trị:

+ PE chu kỳ 3 tuần, 6 chu kỳ.

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Cisplatin(Carbo) 80 mg/m2(300) TTM N1
Etoposide 100mg/m2 TTM N1-3

 

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Cyclophosphamide 1.000mg/m2 TTM N1
Doxorubicin 50mf/m2 TTM N1
Vincristine 2mg/N TTM N1

 

kỳ 3 tuần, 6 chu kỳ

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Cyclophosphamide 1.000mg/m2 TTM N1
Doxorubicine 50mg/m2 TTM N1
Etoposide 100mg/m2 TTM N1-3

 

+CAE chu kỳ 3 tuần

+EIP chu kỳ 3 tuần

+ CAV chu

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Etoposide 75mg/m2 TTM N1-4
Ifosfamide 1.200mg/m2 TTM N1-4
Cisplatin 20mg/m2 TTM N1-4

+ TC chu kỳ 3 tuần

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Paclitaxel 135-175mg/m2 TTM N1
Carboplatin 300mg/m2 TTM N1

+ Iri+P chu kỳ 4 tuần

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Irinotecan 60mg/m2 TTM N1,8,15
Carboplatin 300mg/m2 TTM N1

Đơn chất Etposide, Paclitaxel.

+ Paclitaxel chu kỳ 3 tuần

Tên thuốc Liều dùng Đường dùng Ngày dùng
Paclitaxel 175mg/m2 TTM N1

Tiểu tiện không thông – Chẩn đoán bệnh Đông y

Khái niệm

Tiểu tiện không thông chỉ chứng trạng bài tiết tiểu tiện khó khăn, nghiêm trọng hơn có khi tiểu tiện ra từng giọt cũng khó.

Danh xưng chứng này trong tài liệu cổ phần nhiều bất nhất: Tố vấn – Tuyên minh ngũ khí luận gọi là “Long”, Tố vấn – Chi chân yếu đại luận gọi là “Bất đắc tiểu tiện“, Tố vấn – Ngữ thường chí đại luận gọi là “Long bế” Tố vấn – Tý luận gọi là “Bào tý”, Linh khu – Kinh mạch gọi là” Bế long”. Linh khu – Bản du thiên gọi là “Bê long”, “Niệu Long”. Linh khu – Tà khí tạng phủ bệnh hình gọi là “Long hội”, “Hội long”. Cảnh nhạc toàn thư – Long bế luận chứng gọi là “ Tiêu thủy bất thông”, Thọ thế bảo nguyên gọi là “ Niệu sưu bất thông”.

Cần chú ý phân biệt chứng này với hai chứng tiểu tiện không lợi và chứng tiểu tiện đau, Tiểu tiện không lợi là lượng nước tiểu ít mà bài tiết không thoải mái. Tiểu tiện đau là chỉ khi đi tiểu tiện có cảm giác đau niệu đạo.

Phân biệt

Chứng hậu thường gặp

Tiểu tiện không thông do hạ tiêu thấp nhiệt: Có chứng tiểu tiện không thông thường kiêm chứng tiểu tiện đau, tiểu tiện vặt nhiều lần, tiểu tiện vội, có khi tiểu tiện cảm giác nóng rát, kiêm các chứng đắng miệng, khát không muốn uống, đại tiện không dễ dàng, chất lưỡi đỏ, rêu vàng nhớt, mạch Trầm Sác hoặc Nhu Sác.

Tiểu tiện không thông do Phế khí úng trệ: Có chứng tiểu tiện không thông, tức ngực, khái thấu thỏ gấp, khó thở, đại tiện bí kết, chất lưỡi đỏ hoặc đỏ nhạt, rêu lưỡi trắng hoặc vàng mỏng, mạch Nhu Sác.

Tiểu tiện không thông do trung khí bất túc: Có chứng tiểu tiện bài tiết khó khăn, mỏi mệt đoản hơi, kém ăn, bụng trướng đầy, tiểu tiện trướng trệ, đại tiện lỏnơ loãng, lưỡi nhợt rêu trắng mỏng mạch Trầm Nhược.

Tiểu tiện không thông do Thận khí bất túc: Có chứng bài tiết tiểu tiện yếu sức, có ý mót tiểu tiện luôn và bài tiết khó khăn, lưng gối đau mỏi, đầu ngón tay chân không ấm, chất lưỡi nhạt có vết răng, rêu trắng mỏng, mạch Trầm Tế bộ xích Nhược.

Tiểu tiện không thông do Can khí uất kết: Có chứng tiểu tiện không thông hoặc thông mà không dễ chịu, tính chí uất kết, hay bực dọc dễ cáu giận, hai bên sườn khó chịu, đêm ngủ không yên, hay mê, miệng đắng nuốt chua, lười đỏ rêu vàng mỏng, mạch Huyền.

Tiểu tiện không thông do niệu đạo bí ứ nghẽn: Có chứng nước tiểu không bài tiết được hoặc lúc thôns lúc vít, bụng trướng đầy đau, chất lưỡi tía tối, có nốt ứ huyết, rêu lưỡi trắng hoặc hơi vàng, mạch sắc.

Phân tích

  • Chứng Tiểu tiện không thông do hạ tiêu thấp nhiệt với chứng Tiểu tiện không thông do Phế khí úng trệ: Đều là thực chứng. Loại trôn vị trí bệnh ở Hạ tiêu, Chư bệnh nguyên hậu luận – Tiểu tiện bệnh chư hậu viết: “Tiểu tiện không thông, do Bàng quang với Thận đều có nhiệt gây nên”. Thấp nhiệt nghẽn trệ ở Bàng quang hoặc di nhiệt đến Bàng quang, thấp nhiệt với nhiệt câu kết, Bàng quang khí hóa không đều dẫn đến tiểu tiện không thông, Loại sau gốc bệnh vốn ở Thượng tiêu, mà triệu chứng lại xuât hiện ở Hạ tiêu, Phế là thượng nguồn của nước, Phế khí không trong lành, sự lưu thông thủy đạo không lợi, liên lụy tới hạ tiêu mà thành tiểu tiện không thông, Điểm chuẩn đoán phân biệt là; Hạ tiêu thấp nhiệt thì tiểu tiện vàng sẻn, khi tiểu tiện có cảm giác đau buốt nóng rát. Phế khí úng trệ thì nước tiểu không vàng lắm, nói chung không có cảm giác nóng rát, hạ tiêu tháp nhiệt thì biểu hiện chủ yếu các chứng trạng ở Hạ tiêu, Phế khí úng trệ thì chứng trạng ở trên ở dưới đồng thời xuất hiện. Hạ tiêu thấp nhiệt thì thấy hiện tượng thấp nhiệt nung nấu ở trong, Phế khí úng trệ thì biểu hiện đầy đủ chứng khí trệ. Khi điều trị, Tiểu tiện không thông do hạ tiêu thấp nhiệt phải xử trí thẳng vào hạ tiêu, dùng phép thanh lợi thấp nhiệt thông lợi tiểu tiện, dùng phương Bát chính tán. Chứng Tiểu tiện không thông do Phế khí úng trệ áp dụng biện pháp bệnh ở dưới chữa ở trên mở nắp bình cho thông bên dưới, như dùng cách làm cho hắt hơi, làm cho mửa để mở đường Phế khí, nhiệt nung nấu lâu ngày có thể uống Thanh Phế ẩm linh hoạt gia các vị thông lợi tiểu tiện.
  • Chứng Tiểu tiện không thông do Trung khí bất túc với chứng Tiểu tiện không thông do Thận khí bất túc:

Đều thuộc hư chứng, tiểu tiện khó khăn đều do không có sức bài tiết, Loại trên do tỳ khí vốn hư hoặc mệt nhọc hại Tỳ hoặc ăn uống không điều hòa hao thương trung khí, khí hư thiếu sức nên không có sức đẩy tiểu tiện. Loại sau bệnh ở Thận có thể do ốm lâu hao thương Thận dương, hoặc người cao tuổi thể trạng suy dương khí bất túc, hoặc do buông thả hại Thận, Thận khí không hóa nôn không có sức bài tiết tiểu tiện. Yếu điểm phân biệt là: trung khí bất túc thì thường thấy biểu hiện Tỳ kiện vận không mạnh và trung khí hạ hãm, bài tiết tiểu tiện khó khăn lúc phát lúc ngưng, lúc nhẹ lúc nặng, thường do hao khí quá độ mà bệnh tăng hoặc dụ phát. Thận khí bất túc phần nhiều có hiện tượng Thận dương khuy hư, xuất hiện cùng một lúc Thận hư không co thắt, mót tiểu tiện luôn luôn, sức bàí tiết tiểu tiện yếu nên tiểu tiện không thông. Loại trên điều trị theo phép bổ trung ích khí, thông lợi tiểu tiện, dùng phương Bổ trung ích khí thang gia giảm. Loại sau dùng phép ôn dương ích khí, bổ Thận lợi niệu, dùng phương “Tê sinh” Thận khí hoàn.

  • Chứng Tiểu tiện không thông do Can khí uất kết:

Chứng này do tình chí không điều hòa, Can mất sự điều đạt, sơ tiết không lợi nên tiểu tiện không thông, có đầy đủ các chứng trạng Can khí uất kết, Điều trị nôn sơ Can !v khí, thông lợi tiểu tiện dùng bài Trầm hươnơ tán hoặc hợp với Sài hồ sơ Can tán gia giảm.

  • Chứng Tiểu tiện không thông do niệu đạo ứ nghẽn: Chứng này cũng thuộc thực chứng, vì ứ huyết thanh cục hoặc sỏi đá vít tắc gây nên, Nếu do ứ huyết có thể vì vấp ngã bị đòn tổn thương, khí trệ huyết ứ, huyết nhiệt nung nấu thành ứ là những nguyên nhân gây bệnh, biểu hiện tiểu tiện không thône chủ yếu là tiểu tiện trướng vít, đau buốt không di chuyển, hoặc xuất hiện trong bụng có khôi sưnv lưỡi tía tôi, có nốt ứ huyết, mạch Sác. Điều trị nên hànn ứ tán kết, thông lợi thủy đạo, dùng phương Đại để đương hoàn gia giảm.

Nếu do sỏi đá có thể do thấp nhiệt uất kết ở Hạ tiêu, lâu ngày nước tiểu nung nấu thành đá; cũng có thể do Can uất hóa hỏa dị nhiệt xuống hạ tiêu nung nấu nước tiểu thành đá: cũng có thể do ham ăn đồ ngọt béo, thấp nhiệt từ trong sinh ra dồn xuống hạ tiêu nung nấu nước tiểu thành đá. sỏi đá kích thích niệu đạo đến nỗi đau thắt như dao cắt, tiểu tiện thông thì chứng trạng dịu đi, khi điều trị, Can uất khí trệ có thể chọn dùng phương Niệu thạch số I, thấp nhiệt nung nấu ở trong nên dùng phương Niệu thạch số II.

Trích dẫn y văn

– Tiểu tiện không thông, có các loại khí hư, huyết hư, có đàm, do phong bế, do thực nhiệt, Khí hư thì dùng Sâm, Kỳ, Thăng ma, trước uống sau mửa, hoặc trong khi dùng Sâm, Kỳ lại làm cho mửa. Huyết hư thì dùng Tứ vật thang trước uống sau mửa hoặc trong khi uống Khung qui thang làm cho mửa cũng được. Đàm nhiều thì dùng Nhị trần thang trước uống sau mửa. Trở lên đều là phép làm cho mửa. Nếu đàm khí vít tắc, dùng Nhị trần thang gia Mộc thông, Hương phụ làm cho mửa để nâng khí lên, khí được nâng lên thì thủy tự giáng xuống, bởi vì khí chuyển tải được thủy. Có chứng Thực nhiệt thì nên lợi dùng Sa đường thang hoà vào vài ba phân bột Khiên ngưu hoặc Sơn chi,

Có nhiệt có thấp, có khí kết ở dưới, nên dùng các phép thanh, phép táo, phép thăng (Đan Khê Tâm pháp – Tiểu tiện hất thông).

– Có trường hợp tiểu tiện không thông, một giọt cũng không ra được cấp bách tưởng chết, Tâm phiền vật vã khát nước đòi uống mà ucmg vào bệnh càng tăng, người ta cho là Tiểu trường quá nhiệt, ai biết rằng đó là Tâm hoả quá thịnh. Nghĩ như Tâm biểu lý với Tiểu trường, Tiểu trường nhiệt cực mà long bế, đó là nhiệt ở Tâm mà long bế vậy, Bởi vì Tiểu trường có thể mở đóng được, đều trách cứ vào khí tương thông của Tâm Thận, Bây giờ Tâm hoả quá nhiệt thì thanh khí không giao với Tiểu trường nên bị cái hoả bạo liệt thúc bách, Tiểu trường có dương không có âm thì làm sao chuyển hóa được? Tiểu trường đã không chuyển hóa, thì Bàng quang làm sao thay được chuyển hóa tà khí ở Tiểu trường? Huống chi khí của Tâm Thận đã không vào được Tiểu trường, cũng làm sao vào được Bàng quang để chuyển hóa được thủy? Phép chữa tả cái hoả ở trong Tâm kiêm lợi Bàng quang thì Tâm khí thông, tiểu tiện cũng thông (Biện chứng lục – Tiểu tiện bất thông môn)

Thuốc Avsola (infliximab-axxq) có tác dụng gì?

Thuốc generic: infliximab-axxq
Tên thương mại: Avsola

Avsola (infliximab-axxq) là gì và cách thức hoạt động của nó?

Avsola (infliximab-axxq) là một loại thuốc theo toa được phê duyệt cho bệnh nhân mắc các tình trạng sau:

  • Viêm khớp dạng thấp — người lớn bị viêm khớp dạng thấp hoạt động vừa đến nặng, cùng với thuốc methotrexate.
  • Bệnh Crohn — trẻ em từ 6 tuổi trở lên và người lớn bị bệnh Crohn không đáp ứng tốt với các loại thuốc khác.
  • Bệnh cột sống dính khớp.
  • Viêm khớp vảy nến.
  • Vảy nến thể mảng — bệnh nhân người lớn bị vảy nến thể mảng mãn tính (không biến mất), nặng, rộng và/hoặc gây tàn tật.
  • Viêm đại tràng loét — trẻ em từ 6 tuổi trở lên và người lớn bị viêm đại tràng loét hoạt động vừa đến nặng không đáp ứng tốt với các loại thuốc khác.

Avsola chặn hoạt động của một loại protein trong cơ thể được gọi là yếu tố hoại tử khối u-alpha (TNF-alpha). TNF-alpha được tạo ra bởi hệ thống miễn dịch của cơ thể bạn. Những người mắc một số bệnh nhất định có quá nhiều TNF-alpha, điều này có thể khiến hệ miễn dịch tấn công các phần bình thường và khỏe mạnh của cơ thể. Avsola có thể chặn tổn thương do quá nhiều TNF-alpha gây ra.

Tác dụng phụ của Avsola là gì?

CẢNH BÁO

NHIỄM KHUẨN NGHIÊM TRỌNG VÀ UNG THƯ

Nhiễm khuẩn nghiêm trọng

Bệnh nhân được điều trị bằng sản phẩm infliximab có nguy cơ cao hơn về việc phát triển nhiễm khuẩn nghiêm trọng có thể dẫn đến nhập viện hoặc tử vong. Hầu hết bệnh nhân phát triển những nhiễm khuẩn này đều đang sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch đồng thời như methotrexate hoặc corticosteroid.

Avsola nên được ngừng lại nếu bệnh nhân phát triển nhiễm khuẩn nghiêm trọng hoặc sốc nhiễm khuẩn.

Các nhiễm khuẩn đã được báo cáo bao gồm:

  • Bệnh lao hoạt động, bao gồm cả sự tái phát của bệnh lao tiềm ẩn. Bệnh nhân mắc bệnh lao thường có biểu hiện bệnh lan tỏa hoặc ngoài phổi. Bệnh nhân nên được kiểm tra bệnh lao tiềm ẩn trước khi sử dụng Avsola và trong quá trình điều trị. Việc điều trị nhiễm trùng tiềm ẩn nên được bắt đầu trước khi sử dụng Avsola.
  • Nhiễm nấm xâm lấn, bao gồm histoplasmosis, coccidioidomycosis, candidiasis, aspergillosis, blastomycosis và pneumocystosis. Bệnh nhân mắc histoplasmosis hoặc các nhiễm nấm xâm lấn khác có thể có biểu hiện bệnh lan tỏa, thay vì bệnh khu trú. Kiểm tra kháng nguyên và kháng thể đối với histoplasmosis có thể âm tính ở một số bệnh nhân có nhiễm trùng hoạt động. Cần xem xét liệu pháp kháng nấm kinh nghiệm cho những bệnh nhân có nguy cơ cao bị nhiễm nấm xâm lấn khi phát triển tình trạng bệnh hệ thống nghiêm trọng.
  • Nhiễm khuẩn, virus và các nhiễm trùng khác do các tác nhân cơ hội, bao gồm Legionella và Listeria.

Rủi ro và lợi ích của việc điều trị bằng Avsola cần được xem xét cẩn thận trước khi bắt đầu liệu pháp ở bệnh nhân có nhiễm khuẩn mạn tính hoặc tái phát.

Bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ để phát hiện các dấu hiệu và triệu chứng nhiễm khuẩn trong và sau quá trình điều trị bằng Avsola, bao gồm khả năng phát triển bệnh lao ở những bệnh nhân đã có kết quả âm tính với nhiễm trùng lao tiềm ẩn trước khi bắt đầu liệu pháp.

Ung thư

Lymphoma và các ung thư khác, một số trường hợp tử vong, đã được báo cáo ở trẻ em và thanh thiếu niên được điều trị bằng các thuốc chặn TNF, bao gồm cả sản phẩm infliximab.

Các trường hợp báo cáo sau khi tiếp thị về lymphoma tế bào T hepatosplenic (HSTCL), một loại lymphoma tế bào T hiếm gặp, đã được ghi nhận ở bệnh nhân điều trị bằng các thuốc chặn TNF, bao gồm cả sản phẩm infliximab. Những trường hợp này đã có diễn biến bệnh rất nghiêm trọng và dẫn đến tử vong. Hầu hết các bệnh nhân đều đã được điều trị bằng azathioprine hoặc 6-mercaptopurine đồng thời với một thuốc chặn TNF tại thời điểm hoặc trước khi chẩn đoán. Phần lớn các trường hợp báo cáo xảy ra ở bệnh nhân mắc bệnh Crohn hoặc viêm đại tràng loét và hầu hết là ở thanh thiếu niên và nam giới trẻ tuổi.

Avsola có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng, bao gồm:

Nhiễm khuẩn nghiêm trọng

Một số bệnh nhân, đặc biệt là những người từ 65 tuổi trở lên, đã gặp phải các nhiễm khuẩn nghiêm trọng khi nhận sản phẩm infliximab, chẳng hạn như Avsola. Những nhiễm khuẩn nghiêm trọng này bao gồm bệnh lao và các nhiễm trùng do virus, nấm hoặc vi khuẩn đã lây lan khắp cơ thể. Một số bệnh nhân tử vong do những nhiễm khuẩn này. Nếu bạn mắc nhiễm khuẩn trong quá trình điều trị với Avsola, bác sĩ của bạn sẽ điều trị nhiễm khuẩn của bạn và có thể cần phải ngừng điều trị Avsola của bạn.
Hãy thông báo ngay cho bác sĩ của bạn nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu nào sau đây của nhiễm khuẩn trong quá trình nhận hoặc sau khi nhận Avsola:

Sốt

  • có triệu chứng giống cảm cúm
  • cảm thấy rất mệt mỏi
  • da ấm, đỏ hoặc đau
  • có ho

Bác sĩ của bạn sẽ kiểm tra xem bạn có bệnh lao (TB) và thực hiện xét nghiệm để xem bạn có bị TB hay không. Nếu bác sĩ cảm thấy bạn có nguy cơ bị TB, bạn có thể được điều trị bằng thuốc cho TB trước khi bắt đầu điều trị bằng Avsola và trong quá trình điều trị bằng Avsola.

Ngay cả khi xét nghiệm TB của bạn âm tính, bác sĩ cũng nên theo dõi cẩn thận bạn về các nhiễm khuẩn TB trong khi bạn đang nhận Avsola. Những bệnh nhân có kết quả xét nghiệm da TB âm tính trước khi nhận sản phẩm infliximab đã phát triển thành TB hoạt động.

Nếu bạn là người mang virus viêm gan B mạn tính, virus này có thể trở nên hoạt động trong khi bạn đang được điều trị bằng Avsola. Trong một số trường hợp, bệnh nhân đã tử vong do virus viêm gan B được tái hoạt động. Bác sĩ của bạn nên thực hiện xét nghiệm máu để kiểm tra virus viêm gan B trước khi bạn bắt đầu điều trị bằng Avsola và thỉnh thoảng trong quá trình điều trị. Hãy cho bác sĩ biết nếu bạn có bất kỳ triệu chứng nào sau đây:

  • cảm thấy không khỏe
  • mệt mỏi (thể trạng kém)
  • chán ăn
  • sốt, phát ban da, hoặc đau khớp

Suy tim

Nếu bạn có một vấn đề tim gọi là suy tim sung huyết, bác sĩ của bạn nên theo dõi bạn chặt chẽ trong khi bạn đang nhận Avsola. Tình trạng suy tim sung huyết của bạn có thể trở nên xấu hơn trong quá trình điều trị bằng Avsola. Hãy chắc chắn cho bác sĩ biết về bất kỳ triệu chứng mới nào hoặc triệu chứng xấu hơn, bao gồm:

  • khó thở
  • tăng cân đột ngột
  • sưng ở mắt cá chân hoặc bàn chân

Việc điều trị bằng Avsola có thể cần phải ngừng lại nếu bạn gặp phải tình trạng suy tim sung huyết mới hoặc xấu hơn.

Các vấn đề về tim khác

Một số bệnh nhân đã trải qua cơn đau tim (một số trường hợp dẫn đến tử vong), lưu lượng máu thấp đến tim hoặc nhịp tim bất thường trong vòng 24 giờ sau khi bắt đầu truyền sản phẩm infliximab. Các triệu chứng có thể bao gồm:

  • khó chịu hoặc đau ngực,
  • đau tay,
  • đau bụng,
  • khó thở,
  • lo âu,
  • cảm giác nhẹ đầu,
  • chóng mặt,
  • ngất,
  • ra mồ hôi,
  • buồn nôn,
  • nôn,
  • cảm giác đập hoặc rung trong ngực, và/hoặc
  • nhịp tim nhanh hoặc chậm.

Hãy báo ngay cho bác sĩ nếu bạn có bất kỳ triệu chứng nào trong số này.

Tổn thương gan

Một số bệnh nhân nhận sản phẩm infliximab đã phát triển các vấn đề nghiêm trọng về gan. Hãy cho bác sĩ biết nếu bạn có:

  • vàng da (da và mắt chuyển màu vàng)
  • nước tiểu màu nâu sẫm
  • đau bên phải vùng bụng (đau bụng bên phải)
  • sốt
  • mệt mỏi cực độ (mệt mỏi nghiêm trọng)

Vấn đề về máu

Ở một số bệnh nhân nhận sản phẩm infliximab, cơ thể có thể không tạo ra đủ tế bào máu giúp chống lại nhiễm khuẩn hoặc giúp ngừng chảy máu. Hãy cho bác sĩ biết nếu bạn:

  • có sốt không thuyên giảm
  • trông rất nhợt nhạt
  • bầm tím hoặc chảy máu rất dễ dàng

Rối loạn hệ thần kinh

Một số bệnh nhân nhận sản phẩm infliximab đã phát triển các vấn đề về hệ thần kinh. Hãy cho bác sĩ biết nếu bạn có:

  • thay đổi thị lực
  • tê hoặc châm chích ở bất kỳ phần nào của cơ thể
  • yếu ở cánh tay hoặc chân
  • co giật

Một số bệnh nhân đã trải qua cơn đột quỵ trong khoảng 24 giờ sau khi truyền sản phẩm infliximab. Hãy báo ngay cho bác sĩ nếu bạn có các triệu chứng của cơn đột quỵ, có thể bao gồm: tê hoặc yếu một bên mặt, tay hoặc chân, đặc biệt là ở một bên cơ thể; nhầm lẫn đột ngột, khó nói hoặc hiểu; khó nhìn đột ngột ở một hoặc cả hai mắt, khó đi, chóng mặt, mất thăng bằng hoặc phối hợp, hoặc cơn đau đầu nghiêm trọng đột ngột.

Phản ứng dị ứng

Một số bệnh nhân đã có phản ứng dị ứng với các sản phẩm infliximab. Một số phản ứng trong số này là nghiêm trọng. Những phản ứng này có thể xảy ra trong khi bạn đang được điều trị bằng Avsola hoặc ngay sau đó. Bác sĩ của bạn có thể cần phải ngừng hoặc tạm dừng điều trị bằng Avsola và có thể cho bạn thuốc để điều trị phản ứng dị ứng. Dấu hiệu của một phản ứng dị ứng có thể bao gồm:

  • mề đay (những mảng da đỏ, nổi lên, ngứa)
  • huyết áp cao hoặc thấp
  • khó thở
  • sốt
  • đau ngực
  • ớn lạnh

Một số bệnh nhân được điều trị bằng các sản phẩm infliximab đã có phản ứng dị ứng muộn. Các phản ứng muộn này xảy ra từ 3 đến 12 ngày sau khi nhận điều trị bằng các sản phẩm infliximab. Hãy báo ngay cho bác sĩ nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu nào sau đây của phản ứng dị ứng muộn với Avsola:

  • Sốt
  • Đau cơ hoặc khớp
  • Phát ban
  • Sưng mặt và tay
  • Đau đầu
  • Khó nuốt
  • Đau họng

Hội chứng giống lupus

Một số bệnh nhân đã phát triển các triệu chứng giống như triệu chứng của bệnh lupus. Nếu bạn phát triển bất kỳ triệu chứng nào sau đây, bác sĩ có thể quyết định ngừng điều trị bằng Avsola:

  • Khó chịu hoặc đau ngực không thuyên giảm
  • Đau khớp
  • Khó thở
  • Phát ban trên má hoặc cánh tay trở nên tồi tệ hơn khi tiếp xúc với ánh sáng mặt trời

Bệnh vẩy nến

Một số người nhận sản phẩm infliximab đã bị bệnh vẩy nến mới hoặc tình trạng bệnh vẩy nến đã có trước đó trở nên tồi tệ hơn. Hãy báo cho bác sĩ biết nếu bạn phát triển các mảng da đỏ có vảy hoặc các nốt nhô lên trên da chứa đầy mủ. Bác sĩ của bạn có thể quyết định ngừng điều trị bằng Avsola.

Các tác dụng phụ phổ biến nhất của các sản phẩm infliximab bao gồm:

  • Nhiễm trùng hô hấp, chẳng hạn như viêm xoang
  • Ho
  • Nhiễm trùng và đau họng
  • Đau bụng
  • Đau đầu

Các phản ứng truyền dịch có thể xảy ra trong vòng 2 giờ sau khi bạn truyền Avsola.

Các triệu chứng của phản ứng truyền dịch có thể bao gồm:

  • Sốt
  • Khó thở
  • Ớn lạnh
  • Phát ban
  • Đau ngực
  • Ngứa
  • Huyết áp thấp hoặc huyết áp cao

Trẻ em bị bệnh Crohn cho thấy một số khác biệt về tác dụng phụ so với người lớn bị bệnh Crohn. Các tác dụng phụ xảy ra nhiều hơn ở trẻ em bao gồm:

  • Thiếu máu (tế bào hồng cầu thấp)
  • Giảm bạch cầu (tế bào bạch cầu thấp)
  • Mặt đỏ (đỏ bừng hoặc xấu hổ)
  • Nhiễm virus
  • Giảm neutrophil (tế bào bạch cầu trung tính thấp, các tế bào bạch cầu chống lại nhiễm trùng)
  • Gãy xương
  • Nhiễm khuẩn
  • Phản ứng dị ứng ở đường hô hấp.

Trong số các bệnh nhân nhận infliximab để điều trị viêm đại tràng ulcerative trong các nghiên cứu lâm sàng, có nhiều trẻ em bị nhiễm trùng hơn so với người lớn.

Hãy cho bác sĩ biết về bất kỳ tác dụng phụ nào làm phiền bạn hoặc không thuyên giảm. Đây không phải là tất cả các tác dụng phụ của Avsola.

Hãy hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ để biết thêm thông tin. Gọi cho bác sĩ để được tư vấn y tế về các tác dụng phụ.

Liều dùng cho Avsola là gì?

Bệnh Crohn

Liều khuyến cáo của Avsola là 5 mg/kg được dùng dưới dạng liệu trình truyền tĩnh mạch khởi đầu vào tuần 0, 2 và 6, tiếp theo là liệu trình duy trì 5 mg/kg mỗi 8 tuần sau đó để điều trị cho người lớn bị bệnh Crohn ở mức độ vừa đến nặng hoặc bệnh Crohn có hình thành fistula.

Đối với các bệnh nhân trưởng thành có đáp ứng và sau đó mất đáp ứng, có thể xem xét điều trị với liều 10 mg/kg.

Các bệnh nhân không đáp ứng sau tuần 14 sẽ không có khả năng đáp ứng với việc tiếp tục dùng thuốc và nên xem xét ngừng Avsola ở những bệnh nhân này.

Bệnh Crohn ở trẻ em

Liều khuyến cáo của Avsola cho bệnh nhân nhi từ 6 tuổi trở lên mắc bệnh Crohn ở mức độ vừa đến nặng là 5 mg/kg được truyền tĩnh mạch theo liệu trình khởi đầu vào tuần 0, 2 và 6, tiếp theo là liệu trình duy trì 5 mg/kg mỗi 8 tuần.

Viêm đại tràng ulcerative

Liều khuyến cáo của Avsola là 5 mg/kg được truyền tĩnh mạch theo liệu trình khởi đầu vào tuần 0, 2 và 6, tiếp theo là liệu trình duy trì 5 mg/kg mỗi 8 tuần sau đó để điều trị cho bệnh nhân trưởng thành mắc viêm đại tràng ulcerative ở mức độ vừa đến nặng.

Viêm đại tràng ulcerative ở trẻ em

Liều khuyến cáo của Avsola cho bệnh nhân nhi từ 6 tuổi trở lên mắc viêm đại tràng ulcerative ở mức độ vừa đến nặng là 5 mg/kg được truyền tĩnh mạch theo liệu trình khởi đầu vào tuần 0, 2 và 6, tiếp theo là liệu trình duy trì 5 mg/kg mỗi 8 tuần.

Bệnh viêm khớp dạng thấp

Liều khuyến cáo của Avsola là 3 mg/kg được truyền tĩnh mạch theo liệu trình khởi đầu vào tuần 0, 2 và 6, tiếp theo là liệu trình duy trì 3 mg/kg mỗi 8 tuần sau đó để điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp ở mức độ vừa đến nặng. Avsola nên được dùng kết hợp với methotrexate.

Đối với những bệnh nhân có đáp ứng không đầy đủ, có thể xem xét điều chỉnh liều lên tới 10 mg/kg hoặc điều trị thường xuyên nhất là mỗi 4 tuần, lưu ý rằng nguy cơ nhiễm trùng nghiêm trọng tăng lên ở liều cao hơn.

Bệnh ankylosing spondylitis

Liều khuyến cáo của Avsola là 5 mg/kg được truyền tĩnh mạch theo liệu trình khởi đầu vào tuần 0, 2 và 6, tiếp theo là liệu trình duy trì 5 mg/kg mỗi 6 tuần sau đó để điều trị bệnh ankylosing spondylitis đang hoạt động.

Bệnh viêm khớp vẩy nến

Liều khuyến cáo của Avsola là 5 mg/kg được truyền tĩnh mạch theo liệu trình khởi đầu vào tuần 0, 2 và 6, tiếp theo là liệu trình duy trì 5 mg/kg mỗi 8 tuần sau đó để điều trị bệnh viêm khớp vẩy nến. Avsola có thể được sử dụng cùng với hoặc không có methotrexate.

Bệnh vẩy nến mảng

Liều khuyến cáo của Avsola là 5 mg/kg được truyền tĩnh mạch theo liệu trình khởi đầu vào tuần 0, 2 và 6, tiếp theo là liệu trình duy trì 5 mg/kg mỗi 8 tuần sau đó để điều trị bệnh vẩy nến mảng nghiêm trọng mạn tính (tức là, rộng và/hoặc gây tàn phế).

Giám sát để đánh giá an toàn

Trước khi bắt đầu điều trị bằng Avsola và định kỳ trong quá trình điều trị, bệnh nhân nên được đánh giá về bệnh lao hoạt động và xét nghiệm để phát hiện nhiễm trùng tiềm tàng.

Các thuốc tương tác với Avsola?

Sử dụng với Anakinra hoặc Abatacept

Nguy cơ nhiễm trùng nghiêm trọng tăng lên đã được ghi nhận trong các nghiên cứu lâm sàng của các tác nhân chặn TNF-alpha khác khi dùng kết hợp với anakinra hoặc abatacept, mà không mang lại lợi ích lâm sàng bổ sung.

Do bản chất của các phản ứng bất lợi thấy ở những sự kết hợp này với liệu pháp chặn TNF, các độc tính tương tự cũng có thể xảy ra khi kết hợp anakinra hoặc abatacept với các tác nhân chặn TNF-alpha khác. Do đó, sự kết hợp của Avsola với anakinra hoặc abatacept không được khuyến nghị.

Sử dụng với Tocilizumab

Việc sử dụng tocilizumab kết hợp với các DMARD sinh học như các đối kháng TNF, bao gồm cả Avsola, nên được tránh do khả năng tăng cường ức chế miễn dịch và tăng nguy cơ nhiễm trùng.

Sử dụng với các liệu pháp sinh học khác

Không khuyến nghị kết hợp Avsola với các liệu pháp sinh học khác được sử dụng để điều trị cùng các tình trạng mà Avsola điều trị.

Methotrexate (MTX) và các thuốc điều trị đồng thời khác

Các nghiên cứu tương tác thuốc cụ thể, bao gồm cả tương tác với MTX, đã không được thực hiện. Phần lớn bệnh nhân trong các nghiên cứu lâm sàng về bệnh viêm khớp dạng thấp hoặc bệnh Crohn nhận một hoặc nhiều thuốc điều trị đồng thời.

  • Trong bệnh viêm khớp dạng thấp, các thuốc đồng thời ngoài MTX bao gồm các tác nhân chống viêm không steroid (NSAID), axit folic, corticosteroid và/hoặc thuốc giảm đau.
  • Các thuốc đồng thời trong điều trị bệnh Crohn bao gồm kháng sinh, thuốc kháng virus, corticosteroid, 6-MP/AZA và aminosalicylates.
  • Trong các thử nghiệm lâm sàng về bệnh viêm khớp vẩy nến, các thuốc đồng thời bao gồm MTX ở khoảng một nửa bệnh nhân cũng như NSAIDs, axit folic và corticosteroid. Việc sử dụng MTX đồng thời có thể làm giảm tỷ lệ sản xuất kháng thể chống thuốc và tăng nồng độ sản phẩm infliximab.

Thuốc ức chế miễn dịch

  • Bệnh nhân mắc bệnh Crohn đã nhận thuốc ức chế miễn dịch có xu hướng trải qua ít phản ứng truyền hơn so với bệnh nhân không sử dụng thuốc ức chế miễn dịch.
    Nồng độinfliximab trong huyết thanh dường như không bị ảnh hưởng bởi việc sử dụng các thuốc điều trị bệnh Crohn như corticosteroid, kháng sinh (metronidazole hoặc ciprofloxacin) và aminosalicylates.

Chất nền Cytochrome P450

  • Sự hình thành các enzyme CYP450 có thể bị ức chế bởi nồng độ cytokine tăng cao (ví dụ: TNFα, IL-1, IL-6, IL-10, IFN) trong quá trình viêm mãn tính.
  • Do đó, có thể kỳ vọng rằng đối với một phân tử ức chế hoạt động của cytokine, như các sản phẩm infliximab, sự hình thành các enzyme CYP450 có thể được bình thường hóa.
  • Khi bắt đầu hoặc ngừng sử dụng Avsola ở những bệnh nhân đang điều trị bằng các chất nền CYP450 có chỉ số điều trị hẹp, việc theo dõi tác dụng (ví dụ: warfarin) hoặc nồng độ thuốc (ví dụ: ciclosporin hoặc theophylline) được khuyến nghị và liều của sản phẩm thuốc có thể được điều chỉnh nếu cần.

Vắc-xin sống/Các tác nhân gây nhiễm trùng điều trị

  • Khuyến nghị không nên tiêm vắc-xin sống đồng thời với Avsola. Cũng khuyến nghị không tiêm vắc-xin sống cho trẻ sơ sinh sau khi tiếp xúc trong tử cung với các sản phẩm infliximab trong ít nhất 6 tháng sau sinh.
  • Khuyến nghị không nên sử dụng các tác nhân gây nhiễm trùng điều trị đồng thời với Avsola.

Avsola có an toàn khi sử dụng trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú không?

  • Dữ liệu hiện có từ tài liệu công bố về việc sử dụng các sản phẩm infliximab trong thời kỳ mang thai chưa báo cáo một mối liên hệ rõ ràng giữa các sản phẩm infliximab và các kết quả thai kỳ bất lợi.
  • Các sản phẩm infliximab có thể đi qua nhau thai và những trẻ em tiếp xúc trong tử cung không nên được tiêm vắc-xin sống trong ít nhất 6 tháng sau sinh.
  • Trong một nghiên cứu phát triển được thực hiện trên chuột sử dụng một kháng thể tương tự, không có bằng chứng về độc tính ở mẹ, độc tính phôi hoặc gây quái thai được quan sát.
  • Thông tin hiện có không đủ để xác định lượng sản phẩm infliximab có trong sữa mẹ và tác động đến trẻ đang bú mẹ.
  • Không có dữ liệu về tác động của các sản phẩm infliximab đối với sản xuất sữa.
  • Lợi ích về phát triển và sức khỏe của việc cho con bú nên được xem xét cùng với nhu cầu lâm sàng của mẹ đối với sản phẩm infliximab và bất kỳ tác dụng phụ tiềm tàng nào đối với trẻ đang bú mẹ từ các sản phẩm infliximab hoặc từ tình trạng bệnh lý của mẹ.

Tóm tắt

Avsola (infliximab-axxq) là một loại thuốc kê đơn được chấp thuận cho bệnh nhân mắc bệnh viêm khớp dạng thấp, bệnh Crohn, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp vẩy nến, bệnh vẩy nến mảng và bệnh viêm đại tràng loét. Các tác dụng phụ nghiêm trọng của Avsola bao gồm nhiễm trùng nghiêm trọng, lymphoma và các khối u ác tính khác, suy tim và các vấn đề về tim khác, tổn thương gan, các vấn đề về máu, rối loạn hệ thần kinh, phản ứng dị ứng và các vấn đề khác.

Viêm mô tế bào do tai biến răng khôn

I.  ĐẠI CƯƠNG

Răng khôn thường là răng mọc sau cùng trên cung răng ở người trưởng thành. Do là răng mọc sau cùng khi các răng vĩnh viễn khác và xương hàm đã phát triển gần như hoàn chỉnh, không tăng trưởng thêm và có độ cứng cao nên răng thường bị thiếu chổ dẫn đến dễ bị lệch và ngầm trong hoặc dưới xương hàm.

II.  CHẨN ĐOÁN

  1. Triệu chứng lâm sàng :

Đau vùng răng khôn mới mọc

Má cùng bên sưng, tụ hoặc lan tỏa Khít hàm hoặc há miệng hạn chế Nhai, nuốt, nói khó

Lợi trùm sưng, ấn có mủ chảy ra Sốt.

  1. Cận lâm sàng:
  • Chụp X quang: chụp phim quanh chóp hoặc chếch nghiêng hoặc phim toàn cảnh hoặc CT scan (nếu cần) cho thấy hình ảnh răng khôn lệch ngầm trong xương .
  • Xét nghiệm máu: xét nghiệm máu tiền phẫu, các xét nghiệm phát hiện bệnh nội khoa (nếu có).
  1. Chẩn đoán phân biệt:

U xương hàm

Nang do răng ngầm U men

Viêm mô tế bào không do răng, do bệnh lý toàn thân hoặc suy giảm miễn dịch…

III.  ĐIỀU TRỊ:

  1. Nguyên tắc:

Nội khoa rạch tháo mủ, điều trị tích cực, theo dõi nhiễm khuẩn huyết

PT nhổ răng nguyên nhân

  1. Điều trị:
  • Sử dụng kháng sinh phù hợp, có thể phối hợp kháng
  • Chống sưng viêm.
  • Giảm đau, hạ sốt.
  • Rạch tháo mủ khi ổ mủ hình thành, đặt mèche, chăm sóc vết thương trong miệng, ngoài mặt.
  • Phẫu thuật nhổ răng nguyên nhân.
  • Chăm sóc sau rạch, sau phẫu thuật:

+ Rửa vết mổ mỗi ngày bằng NaCl 0,9 % hoặc povidine pha loãng 1/10.

+ Rút mèche ( nếu có).

Thuốc

a/ Kháng sinh

  • Nhóm amoxycillin + acid clavulanic 625mg x 3 lần/ ngày hoặc 1gr x 2 lần /ngày Kết hợp Metronidazol 500mg x 2 lần /ngày
  • Nhóm cephalosporins : tùy tình trạng bệnh mà sử dụng thế hệ I, II, III Cefotaxime 1g 2- 4 g/ ngày

Kết hợp: Gentamycine 80mg  x 2 lần /ngày

Có thể thêm Metronidazol 500mg/ 100ml truyền tĩnh mạch.

b/ Kháng viêm:

Depersolone 30mg/ngày/ 3-5 ngày

Hoặc  Hydrocortisione 100mg – 200mg /ngày/ 3-5 ngày Hoặc dexamethasone 4mg 1 ống x 2/ngày/3-5 ngày c/Giảm đau hạ sốt:

Paracetamol 0,5g -2g /ngày (có thể truyền tĩnh mạch).

d/ Nâng đỡ thể trạng:

Glucose 10% hoặc 30% 500ml x 2 chai/ ngày TTM Laroscorbine  1g /ngày

Vitamin B1,B6,B12

IV.  XUẤT VIỆN, THEO DÕI

  • Cắt chỉ sau 7-10 ngày.
  • Tái khám ngay khi có dấu hiệu sưng, đau, chảy dịch, mủ.

Bệnh Ung thư tuyến giáp

I.   DỊCH TỄ HỌC

Ung thư tuyến giáp là loại bệnh lý ung thư tiến triển thầm lặng và có tuổi thọ kéo dài từ 15 đến 20 năm. Theo Hiệp hội Quốc tế chống ung thư, ung thư giáp chiếm 0,5 – 1% trong tổng số người bệnh ung thư được điều trị, tỉ lệ 1% khi giải phẫu tử thi đồng loạt. Tỉ lệ ung thư giáp gia tăng tại các vùng bướu cổ địa phương. Theo Hiệp hội ung thư Mỹ (American Cancer Society, năm 2014) có khoảng 62.980 ca ung thư giáp mới mắc (47.790 nữ và 15.190 nam); 1.890 ca tử vong (1.060 nữ và 830 nam). Ung thư giáp gặp ở người trẻ hơn là người lớn tuổi, trong đó 2/3 trường hợp dưới 55 tuổi và 25% gặp ở trẻ em.

Tại Việt Nam, theo Nguyễn Bá Đức, tỉ lệ ung thư giáp chiếm 2% tổng số trường hợp ung thư tại Hà Nội và tần suất khoảng 3 trường hợp/ triệu dân/ năm. Tại Bệnh viện K (1976 – 1985), có 214 trường hợp ung thư giáp trong đó phụ nữ chiếm 72%. Tại Trung tâm Ung bướu TP. HCM (1990 – 1992) ung thư giáp chiếm 1,4% trong số các trường hợp ung thư.

Tỉ lệ ung thư giáp tương đối ít phổ biến, được giải thích một phần do kích thước khối u nhỏ và tiến triển bệnh tương đối chậm, thường phát hiện ở giai đoạn muộn và di căn.

II.   YẾU TỐ NGUY CƠ

Theo Gregory P. Sadler và cộng sự (tại Mỹ) có hai nguy cơ thường gặp đối với ung thư biểu mô giáp là:

1.  Tiền sử người bệnh được chiếu hoặc nhiễm xạ, nhất là trẻ em

Chiếu xạ tuyến hung (Mỹ) được xem là nguyên nhân gây ra ung thư giáp. Tiền sử chiếu xạ ở vùng đầu-cổ để điều trị u thanh quản, tuyến hạnh nhân quá phát, hạch cổ, u vòm họng v.v… luôn xét đến ở người bệnh trẻ tuổi.

Tần suất ung thư giáp tăng rõ rệt sau nhiễm phóng xạ ở Hiroshima và Nagasaki, sau tai nạn hạt nhân Chernobyl làm gia tăng nguy cơ ung thư biểu mô tuyến giáp biệt hoá với nguy cơ từ 12 đến 25 năm sau khi tiếp xúc. Vì thế việc hạn chế liều cao phóng xạ khi thăm dò tuyến giáp, xạ hình I123 hoặc Tc 99m đã thay thế cho I131.

2.  Yếu tố gia đình

Tiền sử gia đình có thân nhân bị ung thư giáp, nhất là ung thư tủy giáp trạng. Khoảng 6% người bệnh bị ung thư giáp dạng nhú có yếu tố gia đình và loại ung thư này cũng thường xảy ra ở người bệnh mắc bệnh polip gia đình, bệnh đa nội tiết, hội chứng Pendred, hội chứng Gardner và hội chứng Cowden.

3.  Một số yếu tố liên quan khác

  • Tuổi: thường gặp ở mọi độ tuổi, chiếm tỉ lệ cao ở độ tuổi từ 10–20 và từ 40–60. Sau 60 tuổi, ung thư giáp thể không biệt hóa chiếm 10-15% các loại ung thư giáp.
  • Giới tính: tỉ lệ mắc bệnh ở nữ cao gấp 2-3 lần so với nam giới.
  • Những bất thường ở tuyến giáp:
  • Ung thư giáp thường xảy ra trên người bệnh có bướu giáp nhân đơn độc (giảm tập trung iod phóng xạ): 15 – 20% bị ung thư.
  • Tiền sử bướu giáp (bướu giáp địa phương). Bướu giáp một phần do sự kích thích nhu mô giáp bởi TSH (De Vicher và Becker). Vì vậy dự phòng ung thư giáp bằng cách dùng Thyroxine. Vùng bướu giáp dịch tễ thường gặp ung thư biểu mô dạng nang hay ung thư biểu mô không biệt hoá. Ung thư biểu mô dạng nhú thường gặp ở vùng đầy đủ iod.
  • Ung thư giáp phối hợp với cường giáp rất hiếm, 1/5.887 trường hợp bệnh Basedow (Herbst).
  • Giảm tiết hormon giáp có thể làm bộc phát ung thư giáp, đặc biệt sau khi phẫu thuật cắt giảm tuyến giáp toàn phần. Vì vậy suy giáp phối hợp với ung thư giáp là một yếu tố tiên lượng xấu. Viêm tuyến giáp Hashimoto và viêm giáp mạn tính cũng có thể phối hợp với ung thư giáp.
  • Phơi nhiễm chất hexachlorobenzene và tetracholorodibenzo-para-dioxin.
  • Các đột biến về gen sinh u và gen ức chế sinh u trong ung thư tuyến giáp.
  • Hoạt hoá các gen tyrosine kinase: tái sắp xếp gen sinh u RET/PTC ở nhiễm sắc thể 10 xảy ra trong 5-35% ung thư biểu mô dạng nhú tự phát.
  • Gia tăng biểu lộ gen sinh u MET có trong 70% carcinoma dạng nhú.
  • Đột biến gen sinh u RET cũng thấy trong ung thư biểu mô dạng tuỷ có tính gia đình.
  • Gen sinh u RAS và đường dẫn truyền tín hiệu tế bào: đột biến RAS thường gặp trong ung thư biểu mô dạng nang ở vùng thiếu
  • Gen ức chế sinh bướu p53: đột biến điểm gen p53 làm bất hoạt hoá gen này, thấy trong 80% ung thư biểu mô không biệt hoá.

III.   PHÂN LOẠI GIẢI PHẪU BỆNH

Giải phẫu bệnh là một yếu tố tiên lượng quan trọng và quyết định các biểu hiện lâm sàng, điều trị và tiên lượng. Có trường hợp ung thư giáp ở dạng vi thể nhưng được phát hiện khi có di căn hạch hoặc cơ quan nội tạng ở xa. Theo Hedinger và cộng sự (1988) phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới về phân loại tổ chức học các u ác tính của tuyến giáp như sau:

1.  U tiên phát ác tính dạng biểu mô

  • Ung thư biểu mô biệt hóa.
  • Từ nang tuyến (dạng nang, dạng nhú).
  • Từ tế bào C (ung thư tủy giáp trạng).
    • Ung thư biểu mô không biệt hóa.
    • Ung thư biểu mô khác.

2.  U tiên phát ác tính không phải biểu mô

  • U lympho ác tính.
  • Các loại u khác (u tế bào hình thoi kèm theo nang, u quái ác tính…).
3.  Các u thứ phát
  1. Các u không xếp loại

IV. ĐẶC ĐIỂM UNG THƯ GIÁP THEO GIẢI PHẪU BỆNH

Ung thư biểu mô dạng nhú

Thường gặp nhất chiếm 80% các loại ung thư giáp, trẻ em (75%), ưu thế phái nữ, tỉ lệ nữ / nam = 2 với độ tuổi 30 – 40 tuổi. Tỉ lệ cao ở những người có tiền sử phơi nhiễm xạ ở vùng cổ (85 – 90%).

Phần lớn người bệnh có chức năng giáp bình thường. Trong thể ung thư biểu mô dạng nhú thường là một nhân cứng, chắc, không đau, có thể khó nuốt, khó thở và khàn giọng. Di căn xa chiếm tỉ lệ 1 – 15%, di căn phổi thường gặp ở người trẻ.

Xạ hình giáp biểu hiện bằng nhân lạnh. Trên siêu âm, cấu trúc đặc và tách biệt với cấu trúc nhu mô giáp còn lại. Trong thể nhiều nhân kích thước thay đổi, thể chất cứng, tách biệt với tổ chức còn lại. Khoảng 10% ung thư biểu mô dạng nhú, đặc biệt là trẻ em, nhiều hạch lớn ở cổ nhưng thường là nhân lạnh. Hiếm trường hợp xuất huyết, hoại tử và tạo thành nang trong nhân ác tính. Các thương tổn này trên siêu âm giúp phân biệt các thương tổn giữa dạng bán nang ác tính và lành tính (dịch mủ). Sau cùng, ung thư biểu mô dạng nhú có thể tìm thấy một cách tình cờ qua tổ chức tuyến giáp được lấy từ người bệnh Basedow và bướu giáp đa nhân.

Về phương diện vi thể, khối u gồm một lớp tế bào tuyến giáp sắp xếp trong thành mạch máu (vasculary stalks), với các nhú lan dần vào các khoảng giống như nang nhỏ. Nhân tế bào lớn và nhạt, chứa những cấu trúc trong. Khoảng 40% ung thư dạng nhú làm thành quả cầu calci hóa từng phiến. Tiên lượng loại ung thư biểu mô giáp dạng nhú khả quan.

Chọc hút tại u giáp hoặc tại hạch qua hướng dẫn của siêu âm nếu khối u nhỏ hoặc làm xét nghiệm giải phẫu bệnh tổ chức u giáp ngay khi phẫu thuật để khẳng định chẩn đoán, phân loại và nhất là định hướng cho việc xử trí tích cực ban đầu.

Ung thư biểu mô dạng nang

Chiếm tỉ lệ 10% bệnh lý ác tính của tuyến giáp. Thường gặp nhiều ở phụ nữ, tỉ lệ nữ / nam = 3, độ tuổi trung bình 50 tuổi. Thường gặp ở vùng thiếu iod.

Biểu hiện bởi những nhân cứng, rất ít trường hợp tăng thể tích nhanh hoặc có bướu giáp trước đó. Tổ chức là những nang nhỏ ít tạo keo, ung thư biểu mô dạng nang khó phân biệt với u tuyến nhú nhờ vỏ và tân sinh mạch máu nhưng chỉ 1% tăng hoạt giáp.

U thường xâm lấn nhanh hơn so với u dạng nhú và có thể lan đến hạch vùng hoặc theo dòng máu di căn xa đến xương và phổi. Về phương diện vi thể, các tế bào hạt đậu, nhân lớn sắp xếp xung quanh nang thường chứa chất keo đặc.

Ngoại trừ phát hiện do di căn các cơ quan, chọc hút tế bào bằng kim nhỏ không khẳng định hoàn toàn ung thư giáp dạng túi vì không thể phân biệt tế bào túi giữa ung thư biểu mô giáp dạng nang với u tuyến nang lành tính. Các khối u có khả năng thu nhận iod phóng xạ để tạo thyroglobulin hoặc T3 và T4 (hiếm hơn). Chính lí do này mà ung thư biểu mô dạng nang đáp ứng với điều trị iod phóng xạ. Nếu không điều trị, người bệnh tử vong do sự thâm nhiễm tại chỗ hoặc do di căn đến xương, phổi và nội tạng.

Chọc hút tại u giáp hoặc tại hạch qua hướng dẫn siêu âm nếu khối u nhỏ hoặc làm xét nghiệm giải phẫu bệnh tổ chức u giáp ngay khi phẫu thuật để khẳng định chẩn đoán, phân loại và nhất là định hướng xử trí.

Ung thư tế bào Hurthle

Ung thư biểu mô tế bào Hurthle chiếm 3% trong số ung thư giáp. Theo phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới, các u của tế bào Hurthle được xem như là một biến thể của tổ chức tân sinh biểu mô dạng nang. U chứa nhiều mảnh của tế bào ưa base chất đầy ti lạp thể. Chúng có nguồn gốc từ tế bào ưa oxy của tuyến giáp và chức năng loại tế bào này vẫn chưa rõ. U tế bào Hurthle có thụ thể TSH và sản xuất Thyroglobulin nhưng chỉ 10% loại u này bắt giữ iod.

Ung thư biểu mô tế bào Hurthle khác với ung thư biểu mô dạng túi ở chỗ chúng có nhiều nơi và ở cả hai bên, di căn hạch tại chỗ (25%) và không bắt iod phóng xạ.

U tế bào Hurthle được chẩn đoán qua chọc hút tế bào bằng kim nhỏ và 20% được tìm thấy là dạng ác tính. Grant và cộng sự ghi nhận tỷ lệ tử vong dưới 1% ở 642 trường hợp u tuyến tế bào Hurthle. U tuyến này giống như u tuyến túi không có mạch máu hoặc thâm nhiễm vào bao.

Ung thư tủy giáp trạng

Chiếm tỉ lệ 5% ung thư biểu mô giáp, phát triển từ tế bào C, tế bào cận nang giáp (William và cộng sự), có nguồn gốc từ mào thần kinh của phôi và thuộc vào hệ thống Amine Precursor Uptake Decarboxylation (APUD) của Pearse.

Ung thư tủy giáp trạng gặp ở nữ nhiều hơn nam, tỉ lệ nữ / nam = 1,5. Thể tản phát thường gặp ở tuổi lớn (50 – 60 tuổi) trong khi thể gia đình gặp ở tuổi trẻ hơn. Người bệnh thường có khối u ở cổ và có hạch đi kèm (15-20%). Đau vùng cổ thường gặp kèm khó nuốt, khó nói, khó thở, có thể bị tiêu chảy ở trường hợp di căn rộng.

Ung thư biểu mô tủy giáp trạng ít liên quan với giới tính. Loại ung thư này đôi khi kết hợp với ung thư biểu mô ống tiêu hóa, u tụy tạng, u tủy thượng thận, u tuyến cận giáp, bệnh Recklinghausen. Ngoài tiết calcitonin, các tế bào C có thể còn tiết peptid liên quan đến gen calcitonin, CEA, serotonin, kinin, histamin, prostaglandin E2 và F2  a. Khoảng 2-4% người bệnh có hội chứng Cushing, sỏi thận xảy ra ở người bệnh cường cận giáp và tăng huyết áp thường gặp trong trường hợp u tủy thượng thận.

Chẩn đoán ung thư tủy giáp trạng cần lưu ý bệnh sử gia đình vì ung thư tủy giáp trạng gồm hai thể chính: thể tản phát (70% trường hợp mới phát hiện), hoặc thể gia đình (30% trường hợp mới phát hiện).

Ung thư tủy giáp trạng gia đình xảy ra như MEN IIA, MEN IIB hoặc như ung thư tủy giáp trạng không kèm bệnh nội tiết khác. Đôi khi cũng có thể phối hợp ung thư biểu mô nhú.

MEN IIA: hội chứng bao gồm ung thư tủy giáp trạng, u tủy thượng thận, hoặc tăng sản tủy thượng thận và cường cận giáp. Tăng sản tế bào C có ở hầu hết các trường hợp và thường được phát hiện trước khi phát triển thành u tủy thượng thận. U tủy thượng thận hai bên chiếm tỉ lệ trên 50% trường hợp, cường cận giáp chiếm khoảng 25%. Một số người bệnh có kèm thêm bệnh Hirschsprung và dạng bột da (cutaneous amyloidosis).

MEN IIB: bao gồm ung thư tủy giáp trạng, u tủy thượng thận hai bên và u hạch thần kinh ảnh hưởng bề mặt niêm mạc tìm thấy ở người bệnh. Người bệnh có khuôn mặt đặc biệt với môi và lưỡi dày, dạng Marphan, đầu xương ngắn, ngực lõm.

Người bệnh MEN IIB có ung thư tủy giáp trạng ác tính nhất, trong khi người bệnh ung thư tủy giáp trạng gia đình không kèm bệnh tự miễn khác, ít ác tính nhất.

Tất cả các người bệnh mới phát hiện đều phải qua test sàng lọc đột biến điểm RET và u tủy thượng thận qua định lượng VMA (Vanillylmandelic acid), catecholamin, metanephrin niệu trong 24 giờ. Khám lâm sàng, định lượng calcitonin hoặc CEA, calci máu, sinh thiết kim nhỏ.

Phenotype đặc hiệu của ung thư tủy giáp trạng cũng phối hợp đột biến của RET đặc hiệu (ung thư tủy giáp trạng gia đình là 768 và 804, MEN IIA là 609, 611, 618, 620 và 634, MEN IIB là 918).

Ung thư biểu mô giáp thể không biệt hóa (loạn sản)

Chiếm khoảng 1% tại Mỹ, có lẽ liên quan đến dự phòng tốt các rối loạn do thiếu Iod. Bệnh thường hiếm gặp trước 50 tuổi, tỉ lệ nữ / nam = 1,5.

Lâm sàng gợi ý trước một bướu giáp lớn một cách đáng kể, phát triển gần đây, to nhanh, ở một hoặc cả hai thùy với tính chất cứng như đá, có thể dính vào khí quản (mất di động của việc nuốt) va dính vào phần nông, dấu chèn ép, xuất hiện nhanh với khàn giọng (chèn ép thanh quản), khó phát âm (giọng đôi do liệt dây thần kinh quặt ngược), khó nói và khó thở.

Xạ hình giáp biểu hiện bằng nhân lạnh, tăng Thyroglobulin, Calcitonin và EAC bình thường. Di căn xa xảy ra ở khoảng 20% người bệnh, thường là ở phổi. Tiên lượng loại ung thư giáp này rất xấu, người bệnh tử vong nhanh sau khi phát hiện trong vài tháng.

U lympho

Thường gặp ở phụ nữ. Chiếm 1% bệnh giáp ác tính và phần lớn là loại tế bào B không Hodgkin. Đây là loại ung thư giáp phát triển nhanh nhưng đáp ứng với điều trị, có thể phát triển một phần của u lympho chung hoặc có thể nguyên phát từ tuyến giáp. U lympho tuyến giáp có thể phát triển từ bệnh viêm giáp mạn tính Hashimoto dù hiếm gặp, vì thế khó phân biệt với bệnh lý này.

Triệu chứng lâm sàng giống ung thư giáp thể không biệt hóa, u lớn nhanh nhưng không đau. Chẩn đoán thường dựa vào sinh thiết kim nhỏ – thấy thâm nhiễm tế bào lympho vào nang giáp và thành mạch giúp phân biệt với u lympho xuất phát từ viêm giáp mạn tính.

Ung thư tuyến giáp thứ phát (di căn)

Ung thư di căn đến tuyến giáp tương đối hiếm gặp, tỉ lệ 2,8 – 7,5%; khảo sát trên giải phẫu tử thi tỉ lệ là 1,9 – 26,4% người bệnh bị ung thư. Thường gặp sau 50 tuổi và không khác biệt về giới tính.

Ung thư tiên phát có thể từ vú (20%), phổi (10-20%), thận (5-10%), da (malignant melanoma) 10 – 39%.

Chẩn đoán thường dựa vào tế bào học qua chọc hút hoặc sinh thiết ở một bướu giáp có nhân lạnh phát triển nhanh và có thương tổn tiên phát. Tiên lượng tùy thuộc vào tổn thương tiên phát.

V.  LÂM SÀNG

Ung thư giáp hay gặp ở phụ nữ, tuổi từ 40 – 60, tuy nhiên cũng có thể gặp ở mọi lứa tuổi tùy thể bệnh. Biểu hiện lâm sàng dưới một số hình thức như:

1.  U tuyến giáp

  • Nhân giáp

Một nhân đơn độc ở tuyến giáp, xạ hình cho thấy nhân lạnh, giảm tập trung.

Không có triệu chứng đặc thù giúp phân biệt ác tính hay lành tính.

Một vài tính chất gợi ý: nhân to nhanh, mật độ cứng, không đau, phần còn lại của nhu mô giáp không bị phì đại, không có dấu hiệu rối loạn chức năng giáp và sau hết là liệt dây thần kinh quặt ngược.

  • Thoái hóa ác tính của bướu giáp

Thường là các bướu giáp nhiều nhân, nhất là các bướu giáp đa nhân không đồng nhất. Các dấu hiệu ác tính là: bướu to nhanh, mật độ trở nên cứng như gỗ (đá), nhất là khi có dấu hiệu chèn ép hoặc có hạch cổ. Theo Kocher: “Tất cả các bướu giáp đã gây ra một biến chứng nào đó, phải được coi là đã thoái hóa (ác tính) cho đến khi đã tìm được một bằng chứng ngược lại. Bằng chứng này chỉ có được khi phẫu thuật”.

  • Ung thư toàn khối

Phần lớn tương ứng với ung thư không biệt hóa, có thể xảy ra trên một bướu giáp có đã lâu, nhất là ở người lớn tuổi. Diễn tiến thường qua hai giai đoạn kế tiếp như sau:

  • Giai đoạn trong vỏ bọc: tuyến giáp tăng khối lượng nhanh ở một thùy hoặc toàn bộ tuyến, mật độ trở nên cứng.
  • Giai đoạn ngoài vỏ bọc: làm thành một khối u lớn, cứng, không đồng nhất, không di động. Có thể có dấu hiệu chèn ép, có hạch cổ ở một hoặc cả hai bên.

2.  Hạch cổ

Hạch cổ có khi là triệu chứng phát hiện, có thể xuất hiện đồng thời với một nhân giáp sờ thấy mà trước đó không để ý và thường cùng ở một bên với nhân giáp.

Hạch lớn nhưng không đau. Tuy nhiên hạch cổ là biểu hiện đầu tiên, đơn độc của ung thư giáp, đặc biệt là ở trẻ em và người trẻ tuổi. Các hạch, hoặc chỉ có một hạch, có thể ở các vị trí vùng động-tĩnh mạch cảnh, cơ thanh quản (cơ nhị thân, cơ trâm) mặt trước, hoặc cơ trên đòn. Khi sờ nắn kỹ tuyến giáp vẫn không có gì bất thường”.

3.  Di căn

Hay gặp nhất là xương và phổi. Di căn xương với tính chất tiêu hủy gây ra đau xương hoặc gãy xương tự nhiên; ở cột sống sẽ gãy lún đốt sống, có khi ép tủy. Di căn phổi thường âm thầm, kiểu hạt kê nhiều hơn là dạng nốt lớn hoặc nhỏ. Di căn não, gan, buồng trứng ít gặp hơn, hầu như chỉ gặp ở loại ung thư biểu mô tủy giáp trạng.

VI. CẬN LÂM SÀNG

  1. Siêu âm tuyến giáp

Siêu âm giáp hiện là phương tiện chẩn đoán hình ảnh khá chuẩn để chẩn đoán bệnh tuyến giáp. Phương tiện này an toàn, không độc hại, kinh tế và rất hiệu quả để đánh giá cấu trúc tuyến giáp. Ngoài ra siêu âm có thể đánh giá chính xác kích thước, vị trí của nhân giáp và phát hiện các nhân giáp không sờ thấy trên lâm sàng. Siêu âm ngày càng được sử dụng nhiều để hướng dẫn chọc hút tế bào nhân giáp bằng kim nhỏ (FNA: Fine Needle Aspiration). Các dấu hiệu của một nhân giáp ác tính nghi ngờ trên siêu âm bao gồm tăng sinh mạch máu ở trung tâm, u giáp giảm hồi âm, bờ không đều, vôi hoá bên trong.

2.  Xạ hình tuyến giáp với I123 hoặc Tc99m

Xạ hình tuyến giáp dùng để đánh giá sự hấp thu iod của các nhân giáp. Các nhân nóng (thu nhận iod phóng xạ) ít có nguy cơ ác tính hơn nhân lạnh (không nhận iod phóng xạ). Hình ảnh nhân lạnh trên xạ hình tuyến giáp nghi ngờ ung thư cho tới khi tìm được bằng chứng ngược lại. Nhân đẳng xạ hiếm gặp ung thư giáp. Trường hợp bướu giáp nhiều nhân có từ trước bị thoái hóa ác tính thì rất khó chẩn đoán. Nhân lạnh đơn độc chỉ có từ 10 – 20% là ung thư.

Hạn chế của phương pháp: độc hại phóng xạ, không kinh tế và nhất là độ ly giải hình ảnh kém chủ yếu hai bình diện. Ngày nay ung thư giáp thường được chẩn đoán bằng FNA và xạ hình tuyến giáp hiếm khi cần trong đánh giá thường quy nhân giáp.

3.  Chụp cắt lớp điện toán và chụp cộng hưởng từ tuyến giáp

Chụp cắt lớp điện toán (computerized tomography – CT) và chụp cộng hưởng từ (magnetic resonance imaging – MRI) tuyến giáp là phương tiện để đánh giá sự lan rộng ung thư tuyến giáp vào cấu trúc lân cận và di căn hạch. CT có cản quang iod cho thấy hình ảnh chi tiết tuyến giáp và đánh giá di căn hạch tốt hơn MRI, CT cũng ít tốn kém hơn MRI.

Hạn chế của CT có cản quang iod là ngăn cản khả năng hấp thu iod trên xạ hình sau đó và có thể gây độc giáp trạng trong trường hợp sử dụng chất cản quang iod liều cao và ở người bệnh có cường giáp tiềm ẩn.

MRI có ưu điểm là không dùng chất cản quang iod, không độc hại phóng xạ và có thể cho thấy rõ tuyến giáp và cấu trúc lân cận.

4.  Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ

Chọc hút tế bào bằng kim nhỏ (fine needle aspiration hay FNA) là phương tiện được lựa chọn hàng đầu để đánh giá hạt giáp. Phương tiện này có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trên 90%. Kết quả FNA gồm: ác tính, lành tính, không xác định được và không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán. Kết quả FNA không xác định được thường là tổn thương dạng nang có thể lành hoặc ác tính. Các người bệnh này cần được cắt thuỳ tuyến giáp toàn phần và cắt lạnh.

Nhóm FNA không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán chiếm 10-12% khi không dùng siêu âm hướng dẫn và tỉ lệ này cải thiện còn 0% khi có sử dụng hướng dẫn của siêu âm.

Chọc hút tại u giáp hoặc tại hạch qua hướng dẫn của siêu âm nếu khối u nhỏ hoặc làm xét nghiệm giải phẫu bệnh tổ chức u giáp ngay khi phẫu thuật để khẳng định chẩn đoán, phân loại và nhất là định hướng cho việc xử trí tích cực ban đầu.

5.  Một số thăm dò khác

  • Định lượng LT3, LT4 và TSH

Bình thường trong phần lớn các trường hợp.

  • Định lượng thyroglobulin

Thyroglobulin là glycoprotein, tổng hợp trong tế bào giáp, được dự trữ trong chất keo của nang giáp và chứa các kích tố giáp, bình thường dưới 20 ng/mL (phương pháp phóng xạ miễn dịch học).

Tăng thyroglobulin là dấu hiệu quan trọng trong ung thư giáp biệt hóa, nhưng có thể tăng trong u tuyến là yếu tố cần có trước khi chỉ định phẫu thuật.

Xét nghiệm còn có giá trị trong quá trình theo dõi sau phẫu thuật và xạ trị liệu cũng như đánh giá di căn và tái phát.

  • Test Pentagastrine

Tiêm tĩnh mạch trong vòng 3 phút với 0,5 mg/kg chất pentagastrine (Peptavlon) hòa trong 5ml dung dịch muối đẳng trương.

Lấy máu vào các thời điểm -5, 0, 3 và 5 phút để định lượng calcitonine. Người bình thường calcitonine căn bản là dưới 10 pg/ml và mức cao nhất là dưới 30 pg/ ml.

Ung thư biểu mô tủy giáp trạng có mức cao nhất trên 100 pg/ml. Trường hợp nghi ngờ 30 – 100 pg/ml.

Thận trọng với người bệnh suy mạch vành và cơ địa dị ứng (làm test trước).

  • Định lượng ACE (Antigene-carcino-embryonnaire) Trong ung thư giáp thường tăng đi kèm với calcitonine.
  • X-quang

Vùng cổ với các tia mềm có thể thấy các nốt calci hóa nhỏ, nhất là trong ung thư dạng nhú. Những nốt calci hóa lớn liên quan đến tái cấu trúc, đặc biệt là các di chứng do xuất huyết cũ và có thể gặp trong các bệnh lành tính, nhưng không nhất thiết. X quang cũng có thể giúp phát hiện sự chèn ép hoặc di lệch thanh khí quản.

  • X quang phổi và CT phổi để tìm các di căn, hoặc tìm xem có khối u phát triển xuống lồng ngực gây chèn ép hoặc di lệch khí quản hoặc di căn hạch trong lồng ngực.
  • X quang xương và cột sống phát hiện di căn.
  • Khám Tai- Mũi- Họng

Để phát hiện một dây quặt ngược bị liệt.

  • Siêu âm gan

Di căn của ung thư ở gan, kết hợp với xạ hình giúp chẩn đoán.

  • Fludeoxyglucose (FDG)-Positron Emission Tomography (PET) Nhằm phát hiện di căn của ung thư giáp

VII.  THỂ LÂM SÀNG

  1. Thể theo triệu chứng

    • Cấp tính: gặp người trẻ, biểu hiện như viêm tuyến giáp cấp.
    • Ung thư chai (Squirrhe): giống như viêm tuyến giáp mạn tính Riedel.
    • Cường giáp: hãn hữu.

2.  Thể phối hợp

  • Với viêm tuyến giáp Hashimoto khó chẩn đoán, nhất là thể có bướu giáp nhân.
  • Với bướu giáp.

3.  Thể tổ chức giáp lạc chỗ

  • Ung thư phát triển trong lồng ngực.
  • Ung thư định khu hoàn toàn ở trung thất, phát hiện do có chèn ép.

4.  Thể theo giải phẫu bệnh

  • Ung thư dạng nhú: tiến triển chậm, gặp ở trẻ em và người trẻ tuổi.
  • Ung thư dạng nang: xâm lấn mạch máu, nguy cơ di căn xa nhất là khi ít biệt hóa.
  • Ung thư không biệt hóa hay loạn sản: loại ung thư toàn khối và tiên lượng xấu.
  • Ung thư tủy giáp trạng: có sự hiện diện một chất đệm dạng bột (70% trường hợp), trong khối u có nốt calci hóa.
  • U lympho tuyến giáp nguyên phát: rất ít gặp (0,03%), có thể xuất phát từ một viêm giáp tự miễn. Gặp ở phụ nữ trên 60 tuổi, khối u vùng cổ mới xuất hiện, không đau, to nhanh, gây chèn ép, nắn thấy một nhân hoặc một khối u lớn vùng cổ, cứng, có thể có hạch cổ.

Xét nghiệm tổ chức học thấy:

  • U lympho lan tỏa tổ chức bào, điện di IgM tăng.
  • Những thể hiếm như di căn ung thư vú, phổi, thận, u melanin ác tính.

VIII.   PHÂN LOẠI TNM VỀ UNG THƯ GIÁP

Theo Hội chống ung thư quốc tế (International Union Against Cancer) và Hiệp hội ung thư Mỹ (American Joint Commitee on cancer) đề nghị phân loại theo TNM về ung thư giáp như sau:

Xếp hạng lâm sàng theo T,N,M

  • (T) U nguyên phát:
  • Tx: U nguyên phát không thể đánh giá được
  • T0: Không có u nguyên phát
  • T1: U < 2 cm
  • T2: U >2 cm và <4 cm
  • T3: U >4 cm hoặc xâm lấn ít
  • T4a: U ăn lan khỏi vỏ bao giáp và xâm lấn bất cứ cấu trúc nào sau đây: mô mềm dưới da, thanh quản, khí quản, thực quản, thần kinh hồi thanh quản.
  • T4b: U xâm lấn màng cân trước cột sống, mạch máu trung thất hoặc bọc quanh động mạch cảnh.
  • T4a*: U (bất kể kích thước) khu trú trong tuyến giáp (chỉ dành cho carcinom không biệt hoá).
  • T4b*: U (bất kể kích thước) ăn lan khỏi tuyến giáp (chỉ dành cho carcinom không biệt hoá).
    • (N) Hạch vùng:
  • Nx: Hạch vùng không thể đánh giá được
  • N0: Không có hạch di căn
  • N1: Hạch vùng có di căn
  • N1a: Di căn hạch nhóm VI (hạch trước khí quản và hạch cạnh khí quản gồm hạch trước thanh quản và hạch Delphian).
  • N1b: Di căn các hạch khác cùng bên, hai bên hoặc hạch cổ đối bên hoặc hạch trung thất trên.
    • (M) Di căn xa:
  • Mx: Di căn xa không thể đánh giá được.
  • M0: Không có di căn
  • M1: Có di căn xa.

Bảng phân giai đoạn ung thư tuyến giáp theo TNM (Mỹ)

Ung thư biểu mô dạng nhú hoặc nang, dưới 45 tuổi
Giai đoạn I Bất kỳ T Bất kỳ N M0
Giai đoạn II Bất kỳ T Bất kỳ N M1
Ung thư biểu mô dạng nhú hoặc nang ≥ 45 tuổi, và carcinom dạng tủy
Giai đoạn 0 T1 N0 M0
Giai đoạn I T2 N0 M0
Giai đoạn III Bất kỳ T N1 M0
Giai đoạn IVa T4a N0, N1 M0
Giai đoạn IVb T4b Bất kỳ N M0
Giai đoạn IVc Bất kỳ T Bất kỳ N M1

Ung thư biểu mô giáp không biệt hóa Giai đoạn IV            Tất cả các trường hợp

IX.  . CHẨN ĐOÁN UNG THƯ GIÁP

  1. Chẩn đoán chắc chắn

Nhờ xét nghiệm giải phẫu bệnh.

2.  Chẩn đoán phân biệt

  • Bệnh ngoài tuyến giáp
    • U nang ống giáp lưỡi.
    • Hạch cổ do ung thư tai- mũi- họng.
  • Bệnh tại tuyến giáp
    • Bướu giáp nhân.
    • Thể cấp tính (hiếm) biểu hiện giống như viêm giáp cấp, chẩn đoán xác định qua xét nghiệm tế bào học khi chọc dò sinh thiết.
  • Bướu giáp nhiều nhân không đồng nhất: nghĩ tới ung thư trước sự tăng khối lượng nhanh chóng của một nhân giáp.
  • Viêm giáp Hashimoto nhiều nhân, hiệu giá kháng thể kháng giáp rất Tuy nhiên, phải chờ xét nghiệm giải phẫu bệnh học một cách chắc chắn.
  • Di căn xương

Lưu ý các ung thư khác như ung thư vú, ung thư thận, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư tinh hoàn cũng di căn vào xương.

ĐIỀU TRỊ UNG THƯ GIÁP

Tùy dạng ung thư.

1.  Các phương pháp điều trị

  • Ngoại khoa

Là phương pháp được chọn đầu tiên, tùy tổn thương khu trú hay lan rộng người ta có thể:

  • Cắt bỏ hoàn toàn một thùy cùng với phần eo.
  • Cắt bỏ toàn bộ tuyến giáp.
  • Cắt bỏ hoàn toàn tuyến giáp, bóc các bạch huyết ở một bên hay cả hai bên cổ.
  • Xạ trị liệu

Nếu nhu mô giáp còn khả năng cố định được iod phóng xạ thì 131I có thể phá hủy các tổ chức ung thư đã biệt hóa. Iod phóng xạ cũng có thể dùng sau khi phẫu thuật để diệt trừ các di tích ung thư còn sót. Phải ngừng dùng hormon giáp để TSH hoạt hóa lại nhu mô giáp thì mới áp dụng iod phóng xạ được.

  • Hóa trị liệu

Ít tác dụng.

  • Điều trị khối u
  • Liệu pháp hormon thay thế

Dù phẫu thuật cắt toàn bộ hay một phần tuyến giáp, có hay không phối hợp iod phóng xạ sau phẫu thuật, sử dụng L.thyroxin cũng cần được chỉ định. Liệu pháp thyroxin nhằm hai mục đích:

  • Bù sự thiếu hụt hormon giáp sau khi cắt bỏ tuyến giáp.
  • Ức chế sự tiết TSH để đề phòng các tế bào ung thư còn sót khỏi bị kích thích.

Liều L.thyroxin trung bình 100 đến 200 mg/ngày nhằm đạt được nồng độ TSH ở giới hạn dưới của mức bình thường (0,4mU/mL).

  • Theo dõi lâm sàng và cận lâm sàng
    • Kiểm tra vùng tuyến giáp, các hạch bạch huyết ở cổ và trên xương đòn, cột sống,
    • Định lượng thyroglobulin định kỳ, nếu cao phải nghĩ tới ung thư tái phát hoặc đã có di căn.
    • Khám tai mũi họng sau khi đã phẫu thuật để loại trừ liệt dây quặt ngược.
    • Chụp X quang lồng ngực mỗi năm một lần.
    • Chụp X quang cột sống khi nghi ngờ (có đau dai dẳng).

Nếu có triệu chứng lâm sàng mà X quang không có bất thường, cần chụp xạ hình với Pyrophosphat Technetium để tìm các di căn xương.

2.  Ung thư giáp tái phát

Thường ở tuyến giáp hoặc hạch bạch huyết.

  • Nếu tái phát tại chỗ sau khi phẫu thuật đơn giản cắt bỏ khối u thì xử trí như đối với một nhân giáp đơn độc.
  • Nếu tái phát ở thùy đối diện sau khi cắt bỏ một thùy, cần cắt bỏ toàn bộ tuyến giáp còn lại, kèm bóc hết các hạch bạch huyết, hoặc chỉ cắt tuyến giáp không thôi.
  • Nếu tái phát định vị các hạch ở một bên hoặc hai bên cổ sau khi chỉ cắt tuyến giáp: lấy hạch làm xét nghiệm giải phẫu bệnh tức thì. Kết quả xét nghiệm nếu thấy có di căn thì cần bóc bỏ một đám hoặc toàn bộ các hạch đó đi.
  • Tái phát ở hạch bạch huyết khác sau khi đã bóc bỏ toàn bộ hạch vùng cổ, cũng cần phẫu thuật bóc hạch, sau đó dùng iod phóng xạ với liều lượng 100 miliCurie.

3.  Ung thư giáp di căn

  • Ung thư giáp được phát hiện nhờ một di căn hạch: phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp kèm bóc hạch. Sau đó dùng Iod phóng xạ.
  • Những di căn khác, bất kỳ ở đâu và bất kể nhiều hay ít, nếu cố định được Iod phóng xạ thì cũng sẽ được điều trị bằng chất đồng vị phóng xạ này.
  • Những di căn không cố định iod phóng xạ sẽ được xạ trị bằng phương pháp dùng Cobalt thông thường.
  • Ung thư tủy giáp trạng được theo dõi bằng nồng độ calcitonin và kháng nguyên carcinom bào thai.

XI. TIÊN LƯỢNG VÀ PHÒNG BỆNH

  1. Theo giai đoạn

    • Hay và cộng sự theo dõi 1500 người bệnh sau 5 năm, tỉ lệ tử vong giai đoạn I là 1%, giai đoạn II là 2,06%, giai đoạn III là 5,3% và giai đoạn IV là 77%.
  • De Groot ghi nhận 80-90% giai đoạn I và II sống sót 38 năm, 50% giai đoạn III sống sót sau 20 năm, và 0% sống sót đối với giai đoạn IV sau 10 năm.

2.  Theo mô bệnh học

Tỷ lệ sống sau 5 năm: 80 – 90% với ung thư biểu mô dạng nhú, 50-70% với ung thư biểu mô dạng nang là, 40% với ung thư biểu mô dạng tủy, ung thư biểu mô không biệt hóa < 5%.

  • Ung thư giáp dạng biệt hóa

Qua thống kê, các yếu tố liên quan đến dự hậu như sau:

Tuổi chẩn đoán:     trên 40 tiên lượng xấu hơn.

Giới tính:                       nam giới tỷ lệ sống thấp hơn so với nữ.

Kích thước khối u:               trên 4 cm tiên lượng nặng hơn.

Mức độ biệt hóa của u nguyên phát. Mức độ lan tại chỗ ngay phẫu thuật lần đầu, thâm nhiễm tại chỗ thường tiên lượng xấu hơn chỉ có nhân đơn độc. Nếu có hạch cổ, cắt toàn bộ tuyến giáp kết hợp nạo sạch hạch cổ tiên lượng khá hơn.

Xạ trị liệu 131I sau phẫu thuật phần u còn sót lại, dự hậu tốt hơn. Dạng ung thư nhú có tiên lượng tốt hơn dạng ung thư nang.

Ung thư biểu mô dạng biệt hóa có thể tái phát và di căn sau 10 năm kể từ lúc điều trị, bất kể thuộc nhóm giải phẫu bệnh nào và tuổi nào. Phải trên 10 năm mới đánh giá tiên lượng được.

  • Ung thư tế bào Hurthle

Tiên lượng xấu hơn ung thư giáp biệt hóa.

  • Ung thư biểu mô tủy giáp trạng

Nếu không có di căn xa thì tương đối tốt: 80% có thể sống tới 10 năm.

Dự phòng iod có thể làm giảm tỉ lệ mắc ung thư giáp. Tránh chiếu tia phóng xạ vùng tuyến giáp ở trẻ em giúp giảm nguy cơ ung thư tuyến giáp. Dùng T4 sau phẫu thuật nhằm ức chế TSH cũng cải thiện tiên lượng mặc dù vai trò của ức chế TSH trong việc phòng ngừa ung thư giáp chưa được biết rõ.

  • Ung thư giáp dạng không biệt hóa

Tiên lượng rất xấu, ít người bệnh sống quá 6 tháng, không tới 5% sống tới 5 năm.

  • U lympho giáp

Tỉ lệ sống trên 5 năm 50%. Nếu người bệnh có thương tổn ngoài giáp phối hợp thì thời gian sống thấp hơn thương tổn khu trú tại giáp (40% so với 85%).

3.  Theo phân độ ác tính

Ðộ ác tính Loại ung thư
Thấp Ung thư dạng nhúUng thư dạng nang, xâm lấn tối thiểu

U lympho ác tính tế bào B vùng bờ typ MALT

Trung bình Ung thư dạng nang, xâm lấn lan rộng Ung thư dạng kém biệt hoáUng thư dạng tuỷ

U lympho ác tính tế bào B lan toả

Cao Ung thư không biệt hoá Ung thư mạch máu

XI. KẾT LUẬN

Ung thư giáp là ung thư tuyến nội tiết thường gặp nhất và đa dạng. Đa số ung thư dạng biểu mô biệt hoá, tiến triển âm thầm, giai đoạn ẩn bệnh kéo dài, điều trị bao gồm phẫu thuật, xạ trị liệu và hóa trị liệu. Chẩn đoán ngoài lâm sàng cần làm siêu âm và giải phẫu bệnh để xác minh dạng ung thư giáp. Đa số người bệnh ung thư tuyến giáp thể biệt hóa có tiên lượng tốt nếu được chẩn đoán và điều trị sớm, tích cực.

Các yếu tố vi lượng trong cơ thể người và ý nghĩa của chúng

 

Các yếu tố vi lượng hay “yếu tố vết” là các kim loại hoặc á kim có trong cơ thể với lượng rất thấp (< 0,01%) và rất cần thiết (với lượng rất nhỏ) đối với một số protein, hormon và enzym. Ở các nước phát triển, các yếu tố này được cung cấp đầy đủ trong thức ăn nhưng các chế phẩm vẫn cần thiết cho việc phòng ngừa và cung cấp cho những bệnh nhân được nuôi dưỡng dài ngày bằng đường tiêm.

Crôm: là yếu tố phụ cho yếu tố dung nạp glucose. Yếu tố này có trong men bia, cùng với insulin, có tác dụng tăng cường sử dụng glucose ở mô. Nhu cầu là vào khoảng 20 μg/ngày. Thiếu crôm làm giảm khả năng dung nạp glucose. Đôi khi gặp ở người bị tiểu đường phụ thuộc insulin, ở phụ nữ mang thai, khi bị suy dinh dưỡng thiếu protein năng lượng và ở một vài thể Kwashiorkor. Chế độ ăn cân đối cung cấp hơn 100 μg crôm/ngày.

Côban: là thành phần của vitamin B12 (cobalamin). Chế độ ăn cân đối . cung cấp 0,05 – 1,8 mg côban /ngày là lượng cần thiết cho quá trình sinh tổng hợp bình thường vitamin B12. Đậu lăng và nấm mồng gà chứa nhiều côban. Các triệu chứng đặc hiệu do thiếu côban còn chưa rõ. Cho trẻ uống các muỗĩ côban nguy hiểm và có thể gây rối loạn tuyến giáp và tim. Côban được sử dụng làm chất ổn định trong quá trình sản xuất bia: uống quá nhiều bia có thể dẫn đến nhiễm độc côban, thể hiện bằng bệnh ở cơ tim. Nồng độ bình thường trong huyết thanh la < 0,5 μg/1.

Đồng: là thành phần của nhiều enzym và có vai trò quan trọng trong quá trình tổng hợp hemoglobin và các cytochrom. Trong huyết thanh, phần lớn đồng gắn vào một alpha-2-globulin là ceruloplasmin (xem bệnh này). Nhu cầu vào khoảng 30 – 40 μg/kg/ngày. Chế độ ăn cân đối cung cấp 2 – 5 mg đồng/ngày. Trong phần lớn thức ăn có vết đồng. Gan, loài tôm cua, ngũ cốc, ca cao, rỉ đường là các thức ăn có nhiều đồng. Protein huyết giảm trong Kwashiorkor hoặc trong hội chứng thận hư ở trẻ có thể dẫn đến thiếu đồng, có thiếu máu, giảm bạch cầu và rối loạn cốt hoá. Thiếu đồng có thể là nguyên nhân hãn hữu gây thiếu máu tan huyết ở người lớn. Hội chứng Menkes (xem hội chứng này) có rối loạn bẩm sinh vận chuyển đồng qua niêm mạc ruột. Bệnh Wilson (xem mục bệnh này) là một rối loạn nặng về chuyển hoá đồng.

Flo: bình thường có dưới dạng các muối phức trong xương, nhất là trong men răng. Với liều thấp, flo có tác dụng chống sâu (hà) răng. Nhu cầu flo là khoảng 0,5 mg/ngày (trẻ dưới 3 tuổi) – 1 mg/ngày (trên 3 tuổi). Thêm flo (florua) vào nước uống làm giảm tỷ lệ sâu răng (xem florua natri).

Nước ở một số vùng rất ít flo và chế độ ăn bình thường không cung cấp đủ flo cần thiết cho phòng chống sâu răng. Trong trường hợp này, người ta bổ sung flo cho trẻ em hoặc cho flo vào nước uống (khoảng 1 mg/1) hoặc vào muối ăn. Các thức ăn giàu flo là: cá, một số rau (rau dền, rau cải), nước khoáng Vichy.

lod: là yếu tố cần thiết để tổng hợp hormon tuyến giáp. Nhu cầu vào khoảng 100 – 300 pg/ngày. Đất ở các vùng núi ít iod. Để tránh bướu cổ, người ta thêm iod vào muối ăn (5 – 76 μg iod/1 g muối ăn tuỳ theo từng nước). Các thức ăn giàu iod là: cá, hải sản. Phần lớn hoa quả có vết iod. Thiếu iod gây suy tuyến giáp bẩm sinh.

Mangan: là thành phần của nhiều enzym (ví dụ: phosphatase kiềm) nhưng không có triệu chứng đặc hiệu của thiếu mangan. Nhu cầu ở người lớn vào khoảng 2 -3 mg/ngày (có đủ trong chế độ ăn cân đối). Ngũ cốc, hạt dẻ, hạnh nhân là những thứ có nhiều mangan.

Molypđen: thiếu molypđen gặp trong trường hợp nuôi dưỡng hoàn toàn theo đường tiêm, thể hiện bằng nhịp tim nhanh, thở nhanh, ám điểm trung tâm. Trong các trường hợp này, cần bổ sung 300 pg molypđat ammoni /ngày theo đường uống.

Selen: là thành phần của một số enzym, đặc biệt là glutathione peroxydase. Nhu cầu là khoảng 100pg/ngày (có đủ trong chế độ ăn cân đối). Thiếu selen gây đau cơ.

Hội chứng Keshan được mô tả ở tỉnh Keshan (Trung Quốc) là nơi mà đất và nước có ít seien. Bệnh biểu hiện bằng bệnh cơ tim gây ứ máu ở trẻ. Phòng bệnh: cung cấp 150 μg selen/ngày.

Lưu huỳnh: yếu tố cần thiết cho quá trình sinh tổng hợp nhiều protein (ví dụ insulin) và enzym. Nhu cầu hàng ngày chưa rõ nhưng có lẽ được cung cấp đủ qua các acid amin có chứa lưu huỳnh (cystein, cystin, methionin).

Kẽm: có vai trò trong chuyển hoá acid nhân, tổng hợp protein và tạo mô keo (collagen). Nhu cầu hàng ngày về kẽm chưa rõ. Chế độ ăn cân đối cung cấp 8 – 10 mg kẽm/ngày; liều này đủ cho các nhu cầu của cơ thể. Trẻ nhỏ và trẻ vị thành niên cần liều cao hơn, có thể tới 25 mg/ngày. Phụ nữ có thai hoặc trong thời kỳ cho con bú có thể cần tới 50 mg/ngày. Lượng kẽm trong sữa mẹ thấp nhưng dưới dạng dễ được hấp thu ở niêm mạc ruột. Cung cấp thêm kẽm trong các trường hợp nuôi dưỡng hoàn toàn theo đường mạch máu dài ngày. Kẽm có trong tất cả các thức ăn có nguồn gốc động vật (thịt, cá, sữa và sản phẩm từ sữa, trứng). Người ta cho rằng thiếu kẽm làm cho da có màu đỏ, da quanh lỗ mũi và quanh miệng bị các tổn thương có vẩy, giảm cảm giác vị giác.

GHI CHÚ – thuật ngữ viêm da ngón do nguyên nhân tại ruột là một bệnh di truyền lặn theo nhiễm sắc thể thân làm kém hấp thu kẽm, xảy ra ở trẻ sau khi cai sữa mẹ. Trẻ bị viêm da dạng vẩy nến, rụng tóc, chậm lớn và tiêu chảy. Điều trị: uống 30 – 100 mg kẽm/ngày làm khỏi hoàn toàn.

Trymo

Thuốc Trymo
Thuốc Trymo

TRYMO

RAPTAKOS BRETT

Viên nén bao phim: hộp 14 vỉ 8 viên.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Colloidal bismuth subcitrate (Tripotassium dicitrato bismuthate) tính theo Bi2O3 120mg

DƯỢC LỰC

Đối với vết loét dạ dày tá tràng: Bismuth subcitrat thể keo (CBS) rất tan trong nước. Trong môi trường acide (pH < 5) ở dạ dày sẽ kết tủa thành vi tinh thể bismuth oxychloride và bismuth citrate tạo nối chelate bền vững với các sản phẩm thoái hóa của protéine vết loét hình thành màng bảo vệ chỉ tại vết loét mà không có ở vùng niêm mạc lành.

Đối với chất nhầy: CBS tạo phức hợp glycoprotéine bismuth khi gắn vào chất nhầy hình thành rào cản sự phân tán ngược của ion H+ mà không ảnh hưởng đến sự trao đổi ion của màng nhầy.

CBS cũng có khả năng bình thường hóa ở mức độ cao của acide mucine ở màng nhầy của vết loét chưa được chữa trị.

Đối với vi khuẩn Helicobacter pylori: CBS có tác dụng diệt khuẩn trực tiếp. Các vi tinh thể nêu trên kết tụ bên trong và ở tại vách tế bào vi khuẩn làm cô đặc toàn bộ các thành phần của tế bào vi khuẩn, hoặc làm hóa không bào. Trong vòng hai giờ sau, vi khuẩn mất khả năng bám dính niêm mạc và trồi lên bề mặt. Có nhiều bằng chứng cho việc tiêu diệt được vi khuẩn này làm giảm mạnh mẽ tỷ lệ tái phát loét. Tác dụng diệt khuẩn của thuốc được tăng cường khi phối hợp với kháng sinh.

Đối với pepsine: CBS làm giảm khả năng kích hoạt pepsine của pentagastrine khoảng 30%.  CBS kích thích tiết PGE2 và có thể đây là cơ chế làm lành loét của thuốc. Tác dụng này cùng với tác dụng trên vết loét giúp xếp loại thuốc thuộc nhóm bảo vệ tế bào.

CBS không làm giảm độ acide của dịch vị.

Tính an toàn: cho đến nay chưa có báo cáo nào về bệnh lý não do CBS. CBS là muối bismuth  tan mạnh trong nước, chỉ dùng ở liều thấp, không dùng kéo dài ; không thể so sánh với các  muối bismuth khác (tan trong chất béo, dùng ở liều rất cao và dùng kéo dài) mà trước kia bị lạm dụng và đã có liên quan đến bệnh lý não. Tuy nhiên, cần ngưng dùng các chế phẩm bismuth nếu nồng độ trong máu vượt quá 100 ng/ml.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Hấp thu:

CBS tác động tại chỗ là chủ yếu. Tuy nhiên có một lượng bismuth rất nhỏ được hấp thu qua đường tiêu hóa. Lượng hấp thu này tùy thuộc vào liều ban đầu và đạt đỉnh cao sau 4 tuần sử dụng. Với liều điều trị 480 mg/ngày, nồng độ bismuth trong máu trung bình khoảng 7 ng/ml (nồng độ báo động là 50-100 ng/ml).

Phân phối:

Trên súc vật thực nghiệm, hầu hết bismuth hấp thu đều đến thận, ở các cơ quan khác chỉ là vết. Trên người chưa rõ.

Bài tiết:

Hầu hết bismuth trong CBS được bài tiết qua phân dưới dạng bismuth sulfite. Lượng nhỏ bismuth hấp thu được thải trừ qua thận với tốc độ khoảng 2,6%/ngày và cần khoảng 2 tháng để thải hoàn toàn.

CHỈ ĐỊNH

  • Loét tá tràng.
  • Loét dạ dày lành tính.
  • Viêm dạ dày mạn tính hoạt động.
  • Chứng khó tiêu không loét.

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Suy thận nặng.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Dù không có báo cáo nào về bệnh lý não do bismuth sau khi dùng colloidal bismuth subcitrate ở liều điều trị, vẫn phải luôn luôn nhớ đến nguy cơ này và tránh dùng quá liều. Cũng với lý do tương tự, việc dùng dài ngày (liệu pháp duy trì) không được chỉ định.

Thuốc không có chỉ định dùng cho trẻ em.

LÚC CÓ THAI và LÚC NUÔI CON BÚ

Không dùng cho phụ nữ mang thai và cho con bú.

TƯƠNG TÁC THUỐC

Sự hấp thụ chất sắt, calcium hay tétracyline có thể bị giảm nếu dùng chung. Các thuốc kháng acide hay sữa dùng chung với thuốc có thể tạo nối chelate với thuốc và làm ảnh hưởng đến tác dụng của colloidal bismuth subcitrate. Vì vậy, tránh dùng thức ăn hay các thuốc kháng acide trong vòng 30 phút trước hay sau khi dùng thuốc.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

  • Buồn nôn, ói mửa và tiêu chảy hoặc nhức đầu, chóng mặt thỉnh thoảng được ghi nhận.
  • Phân đen do bài tiết bismuth sulfite.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Mỗi lần hai viên, mỗi ngày hai lần, uống khi bụng trống, nửa giờ trước bữa ăn. Nuốt nguyên  viên và không nhai viên thuốc. Nên dùng trong bốn tuần và nếu cần thì đến tối đa 8 tuần. Không nên dùng Trymo như là một liệu pháp duy trì sau khi đã qua thời gian tối đa 8 tuần điều trị. Nếu muốn điều trị tiếp, nên để cách ít nhất 8 tuần trước khi tiếp tục đợt mới.

Chẩn đoán và điều trị ung thư thực quản

ĐẠI CƯƠNG

Khái niệm, dịch tễ

Ung thư thực quản là một bệnh ác tính của thực quản. Trong các ung thư tiêu hóa, ung thư thực quản đứng hàng thứ tư sau ung thư dạ dày, ung thư gan, ung thư ruột. Tỷ lệ mắc bệnh thay đổi tuỳ theo mỗi nước. Bệnh phổ biến ở một số nước như Chilê, Mỹ, Nhật, Pháp,… Ở Mỹ khoảng 4% số dân chết vì bệnh ung thư thực quản và khoảng 2,5% số bệnh nhân nằm viện do ung thư thực quản. Tỷ lệ mắc bệnh ung thư tế bào vẩy thực quản đã giảm trên cả người da đen và da trắng ờ Mỹ trong 30 năm qua, trong khi tỷ lệ ung thư biểu mô thực quản lại tăng, nhất là ở nam giới người da trắng, lý do chưa rõ.

Tại Việt Nam, theo thống kê tại Bệnh viện Việt-Đức theo dõi 12 năm (1955-1966) trong 12404 bệnh nhân ung thư nằm điều trị thì có 252 trường hợp ung thư thực quản, tỷ lệ là 1,88%.

Ung thư thực quản là một bệnh rất nặng, chỉ có khoảng 10-20% số bệnh nhân được mổ sống thêm được 5 năm.

Giải phẫu, sinh lý

Thực quản là đoạn đầu của ống tiêu hoá. Đó là một ống cơ dài 25-30cm đi từ miệng thực quản (cách cung răng khoảng 15 cm) đến tâm vị (cách cung răng khoảng 40cm). Miệng thực quản còn gọi là miệng Lilian được bao bọc bởi các cơ co thắt họng hầu nên tạo thành một khe, hai đầu khe là những xoang lê của hầu. Phần lớn thực quản nằm trong lồng ngực, còn 2-4cm đoạn cuối nằm dưới cơ hoành. Sự ngăn cách giữa dạ dày và thực quản phụ thuộc cơ thắt thực quản dưới, van Gubarobb, góc His (có tác dụng chống trào ngược của dịch dạ dày lên thực quản).

về mô học: niêm mạc thực quản, chủ yếu thuộc loại biểu mô lát tầng không sừng hoá. Biểu mô này phủ niêm mạc suốt từ họng đến nơi tiếp với tâm vị của dạ dày. Ở vùng nối tiếp giáp thực quản và tâm vị của dạ dày có sự chuyển tiếp đột ngột từ biểu mô lát tầng sang biểu mô trụ đơn. Quan sát đại thể thấy ranh giới giữa niêm mạc nhẵn màu nhợt nhạt của thực quản với niêm mạc hồng của dạ dày là một đường lõm răng cưa (gọi là đường Z). Lớp cơ của thực quản thuộc loại cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn ờ 2/3 dưới. Niêm mạc thực quản chi tiết ít chất nhầy để bảo vệ niêm mạc, một phần làm trơn thêm thức ăn khi đi qua thực quản. Thần kinh vận động thực quản chủ yếu do dây phó giao cảm (X) cung cấp trực tiếp đến các thớ cơ vân và qua trung gian đám rối Auerbach đối với thớ cơ trơn.

Giải phẫu bệnh

Vị trí gặp ung thư thực quản như sau:

+ Tỷ lệ 15-21% ở 1/3 trên thực quản.

+ Từ 36-50% ờ 1/3 giữa.

+ Từ 35-43% ở 1/3 dưới.

Vị trí di căn của ung thư thực quản: hạch cổ, trung thất, động mạch chủ, khí quản, thần kinh quặt ngược.

về tổ chức học: các loại ung thư thực quản gồm

+ Ung thư biểu mô tuyến (adenocarcinoma): adenocarci­noma bắt đầu trong tế bào của các tuyến tiết chất nhầy trong thực quản. Adenocarcinoma xảy ra thường xuyên nhất ở phần dưới của thực quản. Adenocarcinoma là loại phổ biến nhất ở Hoa Kỳ, tỷ lệ chung ung thư tuyến là khoảng 30%.

+ Ung thư tế bào vẩy: các tế bào vẩy là các tế bào mỏng ở bề mặt của thực quản. Ung thư tế bào vẩy thường xảy ra ở đoạn giữa thực quản. Ung thư tế bào vẩy là loại phổ biến nhất trên thế giới, chiếm khoảng 68%.

+ Các loại hiếm của ung thư thực quản là choriocarcino­ma, ung thư hạch, u ác tính, sarcoma và ung thư tế bào nhỏ.

  • Phân bố ung thư ờ thực quản như sau:

+ Thể ung thư vẩy thường ở 1/3 giữa (50%), số còn lại phân bố đều cho 1/3 trên và 1/3 dưới (25-27%).

+ Ở đoạn cuối thực quản: hơn 50% là ung thư tuyến. Người ta cho rằng ung thư thực quản ờ vùng này thường xuất phát từ dạ dày, thực tế qua phẫu thuật những trường hợp mà lúc đầu trên phim Xquang tường như ung thư thực quản đơn thuần nhưng lại là ung thư dạ dày xâm lấn lên (N.X.Huyên, 1989).

  • Giai đoạn phát triển: ung thư thực quản phát triển qua 4 giai đoạn

+ Giai đoạn 1: ung thư ờ niêm mạc thực quản.

+ Giai đoạn 2: ung thư ăn sâu vào lớp cơ của thanh thực quản có di căn tới hạch ờ gần.

+ Giai đoạn 3: ung thư lan ra ngoài thực quản, di căn tới các tổ chức xung quanh.

+ Giai đoạn 4: di căn xa tới các cơ quan lân cận.

Nguyên nhân, bệnh sinh

  • Cũng như các bệnh ung thư khác, cơ chế bệnh sinh của ung thư thực quản còn chưa rõ ràng.
  • Một số yếu dịch tễ: bệnh thường xảy ờ người da đen hơn da trắng ở nam nhiều hơn nữ (85%), ung thư thực quản gây tử vong ở nam 11% và ở nữ là 1,5%; khoảng 80% ở các lứa tuổi 40-70, hay gặp ở người thuộc tầng lớp kinh tế xã hội thấp.
  • Các yếu tố thuận lợi dễ gây ung thư thực quản là:

+ Uống rượu.

+ Dịch mật trào ngược.

+ Nhai thuốc lá.

+ Uống nước rất nóng.

+ Chế độ ăn ít trái cây và rau quả.

+ Ăn các thực phẩm bảo quản trong dung dịch kiềm.

+ Xạ trị cho ngực hoặc bụng trên.

+ Hút thuốc lá.

+ Sau bỏng hoặc chấn thương thực quản.

+ Sau các bệnh thực quản: túi thừa thực quản, co thắt thực quản, trào ngược dạ dày-thực quản (gây Baưett thực quản). Các bệnh tiêu chảy mỡ, hội chứng Plummer-Vinson, hội chứng Paterson-Kelly…

+ Di truyền: đột biến gen p53 được tìm thấy adenocar­cinoma của thực quản khoảng 60% trường hợp.

TRIỆU CHỨNG

Triệu chứng lâm sàng

  • Bệnh thường diễn biến từ từ với các triệu chứng sau:

Cảm giác nặng và tức ngực.

Nuốt vướng trong cổ họng.

Khó nuốt: lúc đầu khó nuốt nhưng không đau, về sau khó nuốt kèm theo đau; lúc đầu khó nuốt với thức ăn rắn, về sau khó nuốt với cả thức ăn lỏng.

Đau âm ỉ đè nén dọc theo xương ức.

Miệng hôi.

Nói khàn (do u chèn ép thần kinh quặt ngược).

Toàn thân: mệt mỏi, kém ăn, khát nước có thể nôn máu, sút cân nhanh (khoảng 5kg/l tháng), da xanh.

Ở giai đoạn sau, tuỳ theo vị trí di căn của ung thư thực quản tới các cơ quan lân cận mà có thể có các dấu hiệu của thanh-khí quản (giọng khàn, ho như ếch kêu), phổi, phế quản (sốt, ho, khạc đờm lẫn máu, mủ); các dấu hiệu màng phổi (đau ngực, sốt, ho khan); biểu hiện hẹp tâm vị (cảm giác khó thở ngột ngạt, cảm giác chèn ép sau xương ức); biểu hiện ở dạ dày (đau thượng vị, buồn nôn, nóng rát, ợ, nôn máu).

Triệu chứng xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh

  • Xquang có baryt: chụp thẳng, nghiêng và chếch. Có hai loại hình ảnh:

+ Hình cân đối 2 bên: thường thể hiện của ung thư thâm nhiễm đã ăn vòng hết thực quản; đoạn tổn thương thể hiện một ống cứng hẹp bờ không đều, nham nhờ.

+ Hình ảnh bệnh lý chỉ ở một bên: thường thể hiện của ung thư thể u. Hình ảnh có thể thấy là một hình khuyết, bờ nham nhở, có khi thấy 2-3 múi; có trường hợp lại có bờ nhẵn nhụi, hình bầu dục, khó phân biệt với một u lành tính hoặc một khối u ngoài thực quản đè vào; có khi lại thấy những hình loét không sâu lắm và cứng cho phép nghĩ đến các ổ loét ác tính.

Tuy nhiên, có đến 6% âm tính giả (hình ảnh Xquang bình thường) trên những bệnh nhân đã được nội soi xác định là ung thư thực quản, thậm chí có khoảng 2% Xquang vẫn bình thường khi bệnh nhân ung thư thực quản đã rất nặng.

  • Nội soi thực quản có 4 loại hình ảnh:

+ Dạng polyp: ít có, thường là ung thư tuyến.

+ Thể loét: có ổ loét, bờ nham nhở, cứng, đáy bẩn, có thể có xuất huyết trên bờ hoặc đáy ổ loét, hiếm gặp và thường là ung thư vẩy.

+ Thể thâm nhiễm: niêm mạc hơi dày lên, nhợt nhạt, nhu động của thực quản giảm. Thể này hay gặp, có khuynh hướng lan hết vòng thực quản, dễ gây hẹp tắc thực quản.

+ Thể u (hay gặp nhất): u loét, sùi, rớm máu, thường lan hết vòng tròn thực quản rất nhanh và dễ gây tắc thực quản; rất mủn, dễ hoại tử và bội nhiễm, có thể rò sang cơ quan xung quanh.

Nội soi có điểm hạn chế là khoảng 6% không đưa được ống soi vào thực quản hoặc không đưa được đến đoạn bị ung thư. Nội soi cũng không phân biệt được giai đoạn bệnh.

  • Sinh thiết qua nội soi: để chẩn đoán xác định đồng thời để phân loại mô bệnh học và tiên lượng bệnh (thể ung thư tuyến ít xấu hơn thể vẩy). Khoảng 10% sinh thiết lần đầu không thấy được tổ chức ung thư vì mẩu sinh thiết lấy ở vùng nông, không lấy trúng vùng ung thư, có thể lấy vào tổ chức lành hoặc vùng hoại tử.
  • Tế bào học: nếu không có điều kiện sinh thiết thực quản, có thể lấy nước rửa thực quản để ly tâm, phết lam kính soi cũng có thể thấy 75-95% tế bào ung thư thực quản.
  • Nội soi siêu âm: thấy khối u, mức độ xâm lấn, có thể chẩn đoán giai đoạn ung thư để chỉ định điều trị phẫu thuật.
  • Chụp cắt lớp CT, PET (positronemissiontomography), cộng hưởng từ hạt nhân MRI (magneticresonanceimaging): thấy hình thể, kích thức, mức độ xâm lấn, chẩn đoán giai đoạn và phân biệt với bệnh lý các cơ quan khác. Nghiên cứu ở Nhật Bản cho thấy PET xác định được 80% bệnh ung thư thực quản. Tỷ lệ xác định di căn đến các hạch bạch huyết của

PET là 72% trong khi CT có 63%, kết quả chụp PET cũng có thể xác định các di căn đến cơ quan xa mà CT không xác định được; tỷ lệ chẩn đoán chính xác của PET so với kết quả chỉ chụp CT đơn thuần tăng 14%. Một số nghiên cứu cũng thấy vai trò của PCT và CT trong xác định tái phát của ung thư thực quản.

Hình chụp MRI                                                    Hình chụp MRI của ung thư thực quản

Hình ảnh PCT

Hình ảnh PCT và CT ở bệnh nhân tái phát ung thư
sau mổ cắt thực quản do ung thư thực quản 6 tháng

BIẾN CHỨNG VÀ TIÊN LƯỢNG

Tiên lượng

Tiên lượng của ung thư thực quản rất xấu khi đã chẩn đoán muộn do xâm lấn ung thư sang các cơ quan lân cận gây ra các biến chứng, chỉ có dưới 5% bệnh nhân sống sót 5 năm từ khi chẩn đoán.

Biến chứng

Viêm trung thất hoặc thủng thực quản vào trung thất (4%) gây tình trạng khó thở cấp kèm theo tràn khí dưới da, cổ, ngực, có khi cả 2 tay.

Chít hẹp tắc thực quản: để làm giảm tắc nghẽn thực quản, có thể phải nong và đặt stent.

Rò thực quản vào khí phế quản (18%) làm thức ăn đi vào hô hấp gây ho sặc sụa, ngạt thở,… dẫn đến viêm phổi, áp- xe phổi ở bệnh nhân ung thư thực quản.

Chảy máu trong thực quản: thường bị chảy máu từ từ, có thể nghiêm trọng. Chảy máu có thể phải cầm máu bằng phẫu thuật hoặc nội soi.

Di căn: chủ yếu theo đường bạch mạch và một phần theo đường máu. Thông thường nhất là di căn vào hạch khu vực (53%-75%), vào phổi (23%-34%), gan (21%-33%), có thể di căn đến xương (nhất là các đốt sống lưng), vào thận và thượng thận.

CHẨN ĐOÁN

  • Chẩn đoán dựa vào:

Lâm sàng.

Xquang

Nội soi sinh thiết, nội soi siêu âm; nếu cần có thể chụp CT, MRI.

ĐIỀU TRỊ

Điều trị nội khoa

Nuôi dưỡng bằng ăn uống.

Chống mất nước, điện giải: glucose 5% NaCl 0,9%; truyền nhỏ giọt tĩnh mạch.

Điều trị triệu chứng:

+ Chống co thắt thực quản: papaverin, atropin.

+ Chống nôn, giảm đau.

Nâng đỡ cơ thể: có thể dùng vitamin Bl, vitamin c, không dùng vitamin BI2.

Truyền máu tươi cùng nhóm tùy thể trạng.

  • Phương pháp điều trị đặc hiệu ung thư thực quản dựa vào loại tế bào, giai đoạn ung thư, mức độ xâm lấn, toàn trạng người bệnh.

Phẫu thuật

  • Phẫu thuật để loại bỏ bệnh ung thư có thể được sử dụng một mình hoặc kết hợp với phương pháp điều trị khác. Các phương pháp này bao gồm:

Phẫu thuật cắt bỏ khối u rất nhỏ: nếu ung thư rất nhỏ, chỉ giới hạn ở các lớp bề mặt của thực quản và không lan rộng thì có thể cắt bỏ qua nội soi.

Phẫu thuật cắt bỏ một phần của thực quản (esophagec­tomy): phẫu thuật cắt đoạn thực quản có khối u và lấy các hạch bạch huyết, nối thực quản-dạ dày hoặc lấy ruột thay thế thực quản bị cắt.

Phẫu thuật cắt bỏ một phần của thực quản và phần trên của dạ dày (esophagogastrectomy) khi ung thư lan rộng. Phẫu thuật có thể mổ mở hoặc qua nội soi. Một số kỹ thuật như phẫu thuật Thorek (cắt hết thực quản, sau tái tạo thực quản bằng một đoạn ruột đặt trước hoặc sau xương ức). Thủ thuật cắt hết thực quản đồng thời tái tạo thực quản trong lồng ngực bằng bộ phận giả tạo khác loại (A.A.Vinsonhepxki; Moore G; A; V.P.Mennicova) khi ung thư thực quản ở thấp…

  • Đối với từng bệnh nhân cụ thể có thể kết hợp các phương pháp điều trị trên với nhau. Nhìn chung phẫu thuật trong ung thư thực quản cũng còn hạn chế. Ở Mỹ chỉ khoảng 45% bệnh nhân được phẫu thuật cắt bỏ thực quản và có tỷ lệ tử vong do mổ là 5-20%. Biến chứng sau mổ chủ yếu là áp-xe dưới cơ hoành, rò và biến chứng hô hấp. Khoảng 20% bệnh nhân sống được 5 năm sau mổ.

Hóa trị, xạ trị

  • Hóa trị: là sử dụng hóa chất để tiêu diệt tế bào ung thư. Hóa trị thường được sử dụng trước hoặc sau khi phẫu thuật. Hóa trị cũng có thể được kết hợp với xạ trị. Ở người bị bệnh ung thư đã lan rộng ra ngoài thực quản, hóa trị có thể được sử dụng một minh để giúp làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng. Hoá trị liệu có tác dụng giảm đáng kể kích thước khối u với tỷ lệ 15-25% bệnh nhân được điều trị một loại hóa chất và 30- 60% bệnh nhân được điều trị bằng kết họp các loại thuốc.

– Xạ trị: xạ trị liệu thường được kết hợp với hóa trị có thể được sử dụng trước hoặc sau khi phẫu thuật. Xạ trị liệu cũng được sử dụng để làm giảm các biến chứng của bệnh ung thư thực quản. Xạ trị liệu liều nhỏ (5500-6000CGy) với các tế bào ung thư dạng vẩy có tác dụng trong tự như phẫu thuật, có thể làm giảm triệu chứng hẹp tắc. Tác dụng phụ của xạ trị thực quản bao gồm các phản ứng da như bị cháy nắng, đau đớn hoặc khó nuốt, ảnh hưởng tới các cơ quan lân cận (như phổi và tim…).

Kết hợp hóa trị và xạ trị: kết hợp hóa trị và xạ trị có thể tăng cường hiệu quả của điều trị, khống chế u và giảm biến chứng. Khi kết hợp xạ trị với hóa trị cho kết quả tốt hơn so với xạ trị liệu đơn thuần.

DỰ PHÒNG

Ung thư thực quản là bệnh phổ biến đứng hàng thứ tư sau ung thư dạ dày, ung thư gan và ung thư đại tràng. Bệnh thường được phát hiện muộn, tiên lượng xấu, kết quả điều trị còn hạn chế. Vì vậy, việc tránh các yếu tố nguy cơ và sàng lọc phát hiện sớm ung thư thực quản có vai trò rất quan trọng trong dự phòng ung thư

Một số hình ảnh tổn thương
Ung thư TQ

Cách chăm sóc người nhiễm hiv/aids

Chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS 

Hầu hết các bệnh nhân HIV/AIDS đều muốn được chăm sóc và điều trị tại nhà vì hợp với tâm lý người bệnh hơn, đỡ tốn kém và cũng đỡ quá tải cho bệnh viện. Khi ở tại nhà, người nhiễm HIV/AIDS cần những chăm sóc sau:

− Chăm sóc về tinh thần:

+ Động viên người bệnh không bi quan chán nản.

+ Thường xuyên thăm hỏi hoặc hẹn định kỳ đến khám sức khoẻ cho bệnh nhân.

+ Khuyến khích bệnh nhân nếu thấy điều gì khó chịu thì nên đến thầy thuốc ngay để có thể phát hiện sớm các nhiễm trùng cơ hội để chữa kịp thời.

+ Gia đình vẫn duy trì nếp sống như bình thường vì HIV không lây qua các giao tiếp thông thường.

con đường lây truyền hiv
Các con đường lây truyền hiv

− Đảm bảo vệ sinh dinh dưỡng:

+ Phải đảm bảo sử dụng các thực phẩm tươi, chế biến hợp vệ sinh. Không được để cho bệnh nhân ăn các thức ăn ôi thiu.
+ Uống nước sạch, thức ăn đã nấu chín, uống nước đã đun sôi. Các hoa quả tươi phải được rửa sạch và gọt vỏ trước khi ăn, không ăn rau sống.
+ Các dụng cụ chế biến thức ăn như dao thớt, nồi cần phải được rửa sạch bằng xà phòng hoặc nước rửa chén trước và sau khi sử dụng.
+ Nếu để thức ăn trong tủ lạnh cần lau rửa tủ lạnh thường xuyên để tránh nấm mốc.
+ Bao giờ cũng phải rửa tay trước khi nấu nướng, trước khi cho người bệnh ăn hoặc uống thuốc cũng như sau khi đi vệ sinh, thay vải trải giường hoặc giúp bệnh nhân làm vệ sinh.

+ Không khạc nhổ bừa bãi. Nên có ống nhổ hoặc bô chậu riêng cho người bệnh.

− Phát hiện và điều trị các nhiễm trùng cơ hội, theo hướng dẫn hoặc theo đơn của bác sĩ.

− Khi bệnh nhân tử vong:

+ Cần phải áp dụng các biện pháp dự phòng khi khâm liệm hoặc khi mổ xác.

+ Quan tài của bệnh nhân cần được lót bằng nilon dày, bên dưới có các chất thấm như bông thấm nước hoặc chè khô để có thể thấm các dịch từ tử thi. Sau đó chôn cất và mai táng bình thường.

Bệnh Nấm Candida (bệnh nấm monilia, bệnh tưa lưỡi, bệnh lưỡi trắng)

Tên khác: bệnh nấm monilia, bệnh tưa lưỡi, bệnh lưỡi trắng, bệnh viêm miệng có lớp phủ như kem

Định nghĩa

Bệnh nấm thường có tính chất khu trú do bị nhiễm những loài nấm Candida khác nhau, bệnh có đặc tính là có những điểm hoặc mảng màu trắng nhạt xuất hiện ở da hoặc ở niêm mạc, thường hay xuất hiện ở miệng, đôi khi ở âm đạo. Những thể màng não hoặc thể toàn thân cũng đã thấy, đặc biệt ở những đối tượng suy giảm miễn dịch.

Căn nguyên

Những giống nấm Candida thường hay gặp nhất là loài Candida albicans (75% trường hợp) các loài khác hiếm gặp hơn. Nấm Candida là những thực vật hoại sinh thông thường của da và các niêm mạc, và cơ thể người là nguồn dự trữ chính. Nấm này trở thành gây bệnh khi khả năng bảo vệ tại chỗ (da hoặc niêm mạc bị tổn thương) hoặc toàn thân của người bị suy yếu (nhiễm nấm cơ hội): ví dụ ở bệnh nhân mắc các bệnh về dinh dưỡng hoặc chuyển hoá, đặc biệt là bệnh đái tháo đường, các bệnh máu ác tính, giảm bạch cầu hạt trung tính, sử dụng một số thuốc kháng sinh, corticoid, estrogen- progesteron, hoặc các thuốc ức chế miễn dịch hoặc bị bệnh AIDS. Những thể toàn thân (nấm lan tràn theo đường máu) có thể xuất phát từ những tổn thương ở niêm mạc, từ dụng cụ tiêm không vô khuẩn (những người nghiện ma tuý), từ những ống thông (sonde) bị nhiễm nấm (ống truyền dịch vào tĩnh mạch, hoặc ống thông nước tiểu).

Triệu chứng

THỂ NIÊM MẠC

Viêm miệng (tưa lưỡi), cảm giác rát bỏng trong miệng, nuốt khó. Niêm mạc miệng khô, màu đỏ sẫm, có lớp phủ ngoài màu trắng nhạt, như kem, có vẻ như giả mạc (vết dát màu trắng nhạt) hoặc mụn nước và giả mạc.

Bệnh nấm Candỉda sinh dục. tần suất mắc bệnh nấm Candida sinh dục có chiều hướng ngày càng tăng. Ở phụ nữ, bệnh biểu hiện bởi viêm âm hộ, âm đạo, với khí hư kéo dài, khó chữa, các hoàn cảnh thuận lợi cho bệnh phát triển là uống thuốc tránh thai, bệnh đái tháo đường, có thai và điều trị bằng thuốc corticoid. Ở nam giới, nhiễm nấm thường không có biểu hiện triệu chứng, hoặc chỉ gây ra kích thích ở quy đầu, bao quy đầu và đôi khi xuất hiện những vết trợt. Thể này lây theo đường tình dục, và cả hai bạn tình đều phải được điều trị.

THỂ DA: nấm gây ra hăm kẽ thường thấy ở những vùng nách, dưới vú, nếp mông, những nếp của hậu môn, và những khoảng ở giữa các ngón tay và ngón chân. Tổn thương là những mảng ban đỏ rỉ dịch viêm, rộng hẹp khác nhau, trên đó có thể có rải rác những mụn nước hoặc mụn mủ. Đôi khi móng tay, móng chân cũng bị ảnh hưởng của nấm (viêm móng và viêm quanh móng).

THỂ TIÊU HOÁ: nấm Candida có thể gây ra:

Viêm thực quản, viêm dạ dày. với các triệu chứng: rát bỏng ở sau xương ức, buồn nôn, nuốt khó, Ợ nóng trong họng.

Viêm tiểu đại tràng: với các triệu chứng ỉa chảy dai dẳng, đau bụng. Bệnh nấm đường ruột có thể là biến chứng của việc điều trị kháng sinh phổ rộng làm biến đổi quần thể vi sinh ở trong ruột (xem: viêm đại tràng sau khi dùng thuốc kháng sinh).

Viêm trực tràng, viêm hậu môn: hay xảy ra sau điều trị bằng thuốc kháng sinh. Ngứa ở hậu môn.

THỂ hÔ HẤP: Candida có thể gây ra viêm phế quản với ho dai dẳng, những cơn hen phế quản mà bệnh nhân khạc đờm “như bột sắn” trong có rất nhiều nấm men. Chụp X quang lồng ngực thấy hình ảnh các giải phế quản-mạch máu rất đậm, đôi khi có nốt mờ. Có thể xuất hiện các ổ viêm phế quản-phổi. Đôi khi có viêm phổi cơ hội.

THỂ MÀNG NÃO: hiếm thấy, nhưng nếu xảy ra thì sẽ có mầm bệnh ở trong dịch não tuỷ. Thể não là ngoại lệ với triệu chứng giống u não.

THỂ TIM: (viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn cấp và bán cấp): mầm bệnh mọc trên bề mặt của các van tim, đặc biệt là sau thủ thuật thông tim, thay van tim nhân tạo, hoặc ở người nghiện ma tuý.

THỂ TOÀN THÂN: mầm bệnh lan tràn khắp cơ thể, xảy ra trong trường hợp suy giảm miễn dịch, và có thể biểu hiện bởi hội chứng nhiễm khuẩn huyết và khu trú ở thận (viêm bể thận-thận).

Xét nghiệm cận lâm sàng: chẩn đoán dựa trên xét nghiệm tìm thấy mầm bệnh trong các bệnh phẩm lấy từ các tổn thương (các vảy ở da, móng, giả mạc, dòm, cặn nước tiểu, dịch tiết âm đạo, mủ ở apxe).

Xét nghiệm phiến đồ bệnh phẩm với acid acetic loãng: thấy nấm men hình tròn hoặc hơi bầu dục, mọc chồi, các sợi nấm nhuộm bởi thuốc nhuộm Giemsa rất thâm màu. Nếu hạt và sợi nấm như thế có trong nước tiểu, trong mủ, trong dịch não tuỷ, dù với lượng rất nhỏ cũng rất có ý nghĩa chẩn đoán. Ngược lại, chỉ khi nào thấy lượng nấm đậm đặc một cách bất thường trong đờm và trong dịch tiết âm đạo thì mối có ý nghĩa, vì bình thường Candida vốn đã là thực vật hoại sinh trong đường hô hấp và trong âm đạo.

Xét nghiệm mô học các bệnh phẩm sinh thiết: có thể cho thấy những tổn thương đặc hiệu.

Cấy bệnh phẩm lấy từ tổn thương, nếu kết quả dương tính thì cũng không nhất thiết là mầm bệnh được phát hiện gây ra bệnh đang mắc. Những khuẩn lạc nấm thường mọc 8 ngày sau khi cấy trong môi trường Sabouraud. Trong trường hợp nhiễm khuẩn huyết thì cấy máu.

Làm phản ứng huyết thanh: có ích trong chẩn đoán bệnh Candida ở sâu, không thể lấy được bệnh phẩm để cấy. Người ta hay dùng các test: kết tủa miễn dịch, ngưng kết hồng cầu (> 1/160) hoặc miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (> 1/100). Test với latex nhanh cũng có thể sử dụng được.

Phản ứng bì: không có giá trị thực tiễn.

Tiên lượng

Tốt đối với những thể da, niêm mạc và ruột, nhưng hay bị tái phát. Thể toàn thân có tiên lượng rất dè dặt.

Điều trị

Phát hiện bệnh đái tháo đường và điều trị cho bệnh nhân. Tuỳ theo tình hình, ngừng cho thuốc kháng sinh, corticoid, hoặc thuốc ức chế miễn dịch nếu bệnh nhân đang được điều trị bằng các thuốc này.

Điều trị viêm miệng: súc miệng hoặc rửa bằng dung dịch kiềm (bicarbonat) hoặc tím gentian

Điều trị nấm Candida miệng hoặc thực quản: cho nystatin, fluconazol (100 đến 200 mg mỗi ngày) hoặc itraconazol (200 mg mỗi ngày), uống trong 1-3 tuần.

Điều trị viêm âm đạo: nystatin uống và đặt viên nang trong âm đạo. Ketoconazol uống đối với những trường hợp nặng.

Điều trị viêm quy đầu-bao quy đầu: rửa bằng nước và xà phòng, bôi mỡ nystatin.

Điều trị thể da: rửa bằng ung dịch tím Gentian.

Điều trị thể toàn thân: amphotericin B (0,2-0,5 mg/kg cân nặng cơ thể mỗi ngày) truyền tĩnh mạch, tuỳ tình hình, có thể phối hợp với flucytosin (100-150 mg/kg cân nặng cơ thể mỗi ngày). Những thuốc khác cũng có thể sử dụng được là fluconazol và itraconazol. Những thể do nhiễm Candida crusei thường kháng thuốc.

Phòng bệnh: trong trường hợp suy giảm miễn dịch nên uống phòng fluoconazol 400 mg mỗi ngày.

 

VAI TRÒ VÀ NHU CẦU NƯỚC

Nước là một trong những thành phần cơ bản của sự sống, nó chiếm khoảng 1/2 trong lượng cơ thể người trưởng thành. Con người chỉ có thể sống sót trong vòng vài ngày nếu không được bổ sung nước. Thời gian sống lâu nhất khi không có nước là 17 ngày, nhưng 2 hoặc 3 ngày là một giới hạn phổ biến nhất. Ngược lại, con người có thể sống trong nhiều tuần hoặc thậm chí hàng năm khi không bổ sung một số chất dinh dưỡng cơ bản khác.

Phân bố nước trong cơ thể

Lượng nước toàn phần trong cơ thể phụ thuộc vào trọng lượng cơ thể, tuổi, giống. Nước chiếm 74% trọng luợng cơ thể khi mới sinh ra, 55 – 60% ở người trưởng thành nam, và 45 – 50% ở trưởng thành nữ, người già là 45 – 50%. Sự thay đổi lượng nước nhanh xảy ra phần lớn ở phần ngoài tế bào. Những người nhiều cơ bắp có chứa lượng nước nhiều hơn người béo, do lượng nước trong cơ nhiều hơn gấp 3 lần trong tế bào mỡ. Đàn ông có lượng nước so với trọng lượng cơ thể cao hơn so với phụ nữ do có lượng cơ bắp nhiều hơn và tỷ lệ mỡ ít hơn nữ.

Có thể chia sự phân bố nước trong cơ thể làm hai phần chính: trong tế bào và ngoài tế bào. Chúng tham gia vào các thành phần và các phản ứng sinh học một cách phức tạp, chúng biến đổi tuỳ theo vị trí trong cơ thể. Nước trong và ngoài tế bào bị phân cách bởi màng bán thấm của tế bào, màng này cho phép nước có thể đi qua một cách chọn lọc.

Nước ngoài tế bào được chia làm hai loại: nước trong mạch máu và nước gian bào. Giữa 2 phần được phân cách bởi thành mạch máu, thành mạch cũng cho phép nước đi qua một cách chọn lọc và kiểm soát chặt chẽ những chất hoá học đi qua.

Dịch trong nhãn cầu, trong bao hoạt dịch, dịch tiêu hoá, cũng như một số dịch đặc biệt khác thuộc loại nước ngoài tế bào nhưng không được trao đổi với nước ngoài tế bào khác. Thể tích nước trong mạch máu và trong tế bào tương đối hằng định, trong khi nước gian boà có thể tăng hoặc giảm đáp ứng với tổng lượng nước của cơ thể. Trong trường hợp này, phần nước gian bào được coi như là một “vùng đệm”, từ đó nước có thể vào trong tế bào hoặc ra ngoài tế bào, nhằm đề phòng những thay đổi lớn phần trong và ngoài tế bào của cơ thể.

đồ về sự phân bố nước trong cơ thể

Nước được di chuyển giữa các vùng trong cơ thể theo cơ chế khuếch tán thụ động. Nó di chuyển từ vùng có nồng độ phân tử nước cao tới vùng có nồng độ nước thấp, con đường này được gọi là quá trình thẩm thấu. Hướng di chuyển của nước khi thẩm thấu phụ thuộc vào nồng độ của chất hoà tan trong dung dịch. Dung dịch có chất hoà tan cao sẽ có nồng độ nước thấp do bị các phân tử hoà tan hấp thu, ngược lại dung dịch có chất hoà tan thấp sẽ có nồng độ phân tử nước cao. Sự di chuyển của nước trong thẩm thấu phụ thuộc vào áp lực thẩm thấu và phụ thuộc vào mặt trong hay ngoài của màng bán thấm. Dung dịch có chất hoà tan cao sẽ có áp lực thẩm thấu lớn. Nước có xu hướng di chuyển từ vùng có áp lực thẩm thấu thấp sang vùng có áp lực thẩm thấu cao. Sự di chuyển của nước sẽ ngừng lại khi áp lực thẩm thấu của 2 phía màng tế bào cân bằng nhau. Như vậy, nước có thể di chuyển qua màng tế bào một cách tự do nhằm cân bằng áp lực thẩm thấu trong và ngoài tế bào. Đây là con đường cơ bản của việc tự điều hoà áp lực thẩm thấu của cơ thể, điều hoà nước giữa các khoang của cơ thể, giữa trong và ngoài màng tế bào.

thể có thể thực hiện một số chức năng kiểm soát cân bằng thẩm thấu. Một trong những con đường quan trọng nhất là kiểm soát chuyển động của nước phối hợp với nồng độ của một số ion kim loại trong và ngoài màng tế bào. Một số ion này mang điện tích dương được gọi là các cation (do chúng được thu hút đến điện cực âm “cathode”), một số khác tích điện âm được gọi là anion (do chúng được thu hút đến điện cực dương “anode”). Các ion này tồn tại tự do trong các dung dịch của cơ thể nhưng khi chúng kết hợp với các phần tử trung tính sẽ tạo nên các dung dịch muối, thành phần có Na+, Cl, K+. Các ion này khi hoà tan trong nước được gọi là các chất điện giải do chúng có tính dẫn điện.

Chức năng trong cơ thể

Nước thực hiện 5 chức năng chính trong cơ thể:

  • Là dung môi của các phản ứng hoá học trong cơ thể.
  • Là chất phản ứng hoá học của nhiều phản ứng sinh hoá.
  • Là chất bôi trơn.
  • Là chất điều hoà nhiệt độ.
  • Cung cấp nguồn chất khoáng.

Mỗi chức năng trên sẽ được mô tả kỹ như sau:

  • Là dung môi

Dung môi là một dung dịch lỏng để hoà tan nhiều chất hoá học khác nhau, nước là một dung môi sống. Không có dung môi nước, rất ít các phản ứng hoá học có thể xảy ra, các chức năng sống của cơ thể sẽ không thể điều hoà và thực hiện được. Nhờ việc hoà tan trong dung môi trong hoặc ngoài tế bào mà các chất hoá học của cơ thể sống có thể tồn tại và linh động thực hiện các chức năng cho cuộc sống.

Khi thực phẩm vào cơ thể, nó sẽ được tiếp xúc ngay với các dịch tiêu hoá (chứa nhiều nước) tại nước bọt, trong dạ dày, ruột non. Thực phẩm được nhào trộn và phản ứng với các chất hoá học thực hiện chức năng tiêu hoá. Các chất dinh dưỡng sẽ được hấp thu vào máu, máu chứa khoảng 3 lít nước. Nước trong mạch máu giúp cho máu có dạng lỏng và hoà tan các chất dinh dưỡng, vận chuyển chúng đến các mô và tế bào của cơ thể. Nước trong mạch máu còn có vai trò quan trọng trong việc vận chuyển nhiều chất quan trọng khác như hormone, các kháng thể từ nơi tổng hợp đến tận cơ quan sử dụng chúng. Những chất thừa sinh ra trong quá trình chuyển hoá, như carbon dioxide, urê… cũng được hoà tan trong nước của máu và được chuyển đến phổi và thận để bài tiết ra ngoài.

Có khoảng 12 lít nước gian bào, nơi chứa các chất dinh dưỡng do mạch máu chuyển đến, sau đó sẽ đi qua màng tế bào vào cơ thể. Những sản phẩm thừa của quá trình chuyển hoá trong tế bào sẽ đi theo con đường ngược lại để ra khỏi tế bào. Nước trong tế bào là một môi trường để các chất dinh dưỡng tham gia vào các phản ứng sinh hoá nhằm xây dựng và duy trì tế bào. Nước cũng là môi trường để các chất chyển hoá được vận chuyển từ các cơ quan khác nhau trong tế bào, tạo nên môi trường thuận lợi cho các phản ứng xảy ra trong tế bào.

Nước đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì cấu trúc và hình dạng của màng tế bào. Sự tương tác chọn lọc giữa phân tử nước và phần ưa nước của màng tế bào tạo nên một lực đẩy chuỗi hydrocarbon kỵ nước, tạo nên và duy trì cấu trúc của màng tế bào.

  • Chất phản ứng

Các chất tham gia vào phản ứng hoá học được gọi là chất phản ứng. Trong quá trình hoạt động, chất phản ứng biến đổi và tham gia vào sản phẩm. Nước là một chất phản ứng tham gia trực tiếp vào các phản ứng khác nhau của cơ thể. Trong quá trình phản ứng, phân tử nước thường bị phân tách,

cho nguyên tử H, ion H+, nguyên tử O, ion O2–, nhóm OH hoặc OH– tham gia các phản ứng. Một ví dụ chung nhất là phản ứng thuỷ phân, trong đó các phân tử có trọng lượng lớn như polysaccharide, chất béo, đạm được phân cắt thành các phân tử nhỏ hơn khi phản ứng với nước. Trong quá trình thuỷ phân, nguyên tử H từ nước được tách ra và gắn vào các phần tử nhỏ mới tạo thành, trong khi đó phần

OH còn lại sẽ gắn với sản phẩm khác của phản ứng. Nước còn tham gia vào nhiều sản phẩm khác của phản ứng trong tế bào, ví dụ ngược lại của thuỷ phân là quá trình cô đặc.

  •  Chất bôi trơn

Các dung dịch lỏng có tính bôi trơn do chúng dễ dàng bao phủ lên các chất khác, nước có tác dụng bôi trơn quan trọng của cơ thể, đặc biệt là nơi tiếp xúc các đầu nối, bao hoạt dịch và màng bao, tạo nên sự linh động tại đầu xương và sụn, màng phổi, cơ hoành, miệng…

  • nhiệt độ

Nước có một vai trò quan trọng trong việc phân phối hơi nóng của cơ thể thông qua việc phân phối nhiệt độ cơ thể. Hơi nóng sinh ra do quá trình chuyển hoá, oxy hoá sinh năng lượng của các chất dinh dưỡng. Năng lượng sinh ra có tác dụng duy trì nhiệt độ cơ thể ở 370C và giúp cơ thể thực hiện các hoạt động thể lực. Nhiệt độ sinh ra thường vượt quá nhu cầu duy trì nhiệt độ của cơ thể,

nhiệt độ thừa sẽ được toả ra ngoài theo đường truyền trực tiếp hoặc phát nhiệt, một trong những cách toả nhiệt có hiệu quả là qua đường hô hấp và qua da. Khi nước bay hơi từ dạng nước sang dạng hơi, chúng hấp thu và mang theo nhiệt. Bay hơi 1 lít nước qua đường mồ hôi của da làm mất 600 kcal nhiệt lượng của cơ thể. Trong điều kiện bình thường, cơ thể tự làm lạnh bằng bay mồ hôi qua da, tương đương 25% năng lượng chuyển hoá cơ bản. Khi mất từ 350 đến 700 ml nước/ngày trong điều kiện nhiệt độ, độ ẩm bình thường được gọi là bài tiết mồ hôi không cảm thấy.

Chất béo dưới da làm giảm tốc độ mất nhiệt qua da. Chức năng này có tác dụng thuận lợi trong điều kiện thời tiết lạnh, nhưng bất lợi trong điều kiện nóng. Tốc độ toả nhiệt còn phụ thuộc vào tốc độ lưu thông và thể tích của máu đi tới bề mặt của da. Khi cơ thể quá nóng, những mao mạch dưới da dãn nở, làm tăng thể tích máu đi tới và làm tăng tốc độ toả nhiệt. Khi cơ thể quá lạnh, các mao mạch máu co lại và làm giảm mất nhiệt. Trong điều kiện nóng, những người béo phì cảm thấy khó chịu hơn những người không béo phì do họ có lớp mỡ dưới da dày hơn, và sự toả nhiệt từ các mao mạch dưới da bị cản trở.

  • chất khoáng cho cơ thể

Dù thành phần của nước là hydro và oxy, nhưng nước mà chúng ta sử dụng hằng ngày thường chứa một lượng đáng kể các chất khoáng: calci, magnesium, manganese, natri, đồng, flo… Tỷ lệ các chất khoáng này phụ thuộc vào nguồn nước và các nhà sản xuất. Nước cứng là nước có chứa từ 50 mg calci và 120 mg magnesium/lít, nước mềm là nước có chứa thấp hơn các chất khoáng trên nhưng lượng natri cao hơn 250 mg/lít.

Các chất khoáng trong nước có lợi cho cơ thể nhưng cũng có thể có hại cho sức khoẻ. Hai lít nước cứng có thể cung cấp trên 240 mg magnesium, chiếm 2/3 nhu cầu đề nghị/ngày. Tiêu thụ nước cứng có liên quan đến việc giảm các bệnh tim mạch. Nước mềm, có chứa trên 250mg natri/lít, khi tiêu thụ nước mềm có thể liên quan đến việc tăng huyết áp và bệnh tim mạch. Nước là dung môi hoà tan nhiều chất khoáng và các phản ứng hoá học trong cơ thể, nhưng nó cũng có thể là dung môi mang nhiều chất độc hại như chì, cadmium, chất trừ sâu diệt cỏ, chất thải công nghiệp. Do vậy, việc theo dõi giám sát chất lượng nước cung cấp cho cơ thể là rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe cộng đồng.

Mất nước của cơ thể

Nước bị mất qua các con đường thở, qua da, qua phân và nước tiểu.

  • nước tiểu

Nước tiểu chiếm 97% lượng nước đào thải hằng ngày do máu được lọc qua thận với tốc độ 125 ml/phút tạo nên. Trước khi được thải ra khỏi cơ thể, nước còn được tái hấp thu tại thận nhằm đảm bảo thể tích máu ổn định. Lượng nước tiểu đào thải trung bình 1 – 2 lít/ngày và phụ thuộc vào lượng nước cung cấp qua đường ăn và uống.

Hằng ngày cần phải có một lượng tối thiểu nước tiểu khoảng 300 – 500ml, được bài tiết cùng với các sản phẩm chuyển hoá của cơ thể. Khi lượng nước tiểu thấp hơn lượng tối thiểu, những sản phẩm chuyển hóa có thể tích trữ lại trong máu và gây hại cho cơ thể. Thận của trẻ em chưa hoàn thiện các chức năng trong việc bài tiết các chất điện giải, vì vậy khi cung cấp một lượng thừa natri, protein, hoặc khi ăn khẩu phần chứa quá nhiều hoặc quá ít các vi khoáng có thể gây nên quá tải cho thận trẻ em.

  • Qua da

Mất nước qua da vào khoảng 350 – 700 ml/ngày, có thể đạt tới 2500 ml/giờ trong điều kiện nóng và ẩm. Nếu lượng nước này không đựơc bù lại đủ sẽ dẫn đến hiện tượng mất nước. Vì tỷ lệ mất nước của trẻ qua da lớn hơn người lớn nên trong điều kiện nóng bức và ẩm hoặc trẻ bị sốt cần phải bù đủ nước cho trẻ.

  •  Qua phổi

Nước bị mất liên tục qua phổi trong quá trình thở, bình quân khoảng 300ml/ngày. Trong điều kiện khí hậu khô khác thường, lượng nước mất qua phổi và da có thể nhiều hơn bài tiết qua đường nước tiểu.

  • Qua phân

Mỗi ngày có khoảng 8 – 10 lít nước được bài tiết vào đường tiêu hoá qua dịch tiêu hoá, 3,7 lít được coi là lượng tối thiểu. Hầu hết các dịch này được tái hấp thu, chỉ còn khoảng 200 ml được bài tiết qua phân hằng ngày. Lượng dịch bài tiết hằng ngày phụ thuộc vào lượng nước có trong thực phẩm. Nước bọt được bài tiết nhiều nhất khi thức ăn khô, ít nhất khi thức ăn chứa nhiều nước. Lượng dịch tiêu hoá của dạ dày, tụy, ruột cũng có thể thay đổi phụ thuộc vào lượng nước trong thực phẩm. Lượng mật bài tiết phụ thuộc vào lượng mỡ có trong thực phẩm.

Tiêu chảy cũng làm mất một lượng nước đáng kể qua đường phân, nôn cũng làm mất nước của cơ thể. Tình trạng mất nước sẽ nguy hiểm nếu như không bồi phụ kịp thời natri và nước.

Nhu cầu nước

Cơ thể hằng ngày cần khoảng 2 lít nước từ thực phẩm và đồ uống để bù lại lượng nước mất qua các con đường khác nhau. Ngay trong những điều kiện mất nước ít nhất, lượng nước cung cấp cũng cần khoảng 1,5 lít. Bảng 2.6 trình bày sự cân bằng nước ở người trưởng thành. Nhu cầu này phụ thuộc vào trọng lượng cơ thể và cách sống của mỗi người.

Bình thường một người trưởng thành tiêu thụ khoảng 1 lít nước cho 1000 kcal chế độ ăn. Trẻ em là 1,5 lit/1000 kcal. Tỷ lệ 2/3 lượng nước do đồ uống cung cấp, phần còn lại do thực phẩm khác cung cấp.

  • Nguồn nước của cơ thể

Nước có thể được sử dụng từ nguồn tự nhiên, đồ uống chế biến, từ thực phẩm. Khác với các chất dinh dưỡng khác, nước còn được cung cấp từ chính các sản phẩm của quá trình chuyển hoá trong cơ thể. Trẻ em cần một lượng nước lớn hơn người lớn so với trọng lượng cơ thể. Người sống ở xứ nóng tiêu thụ nước nhiều hơn xứ lạnh do nước bị bay hơi để toả nhiệt nhiều hơn. Những người làm việc thể lực nhiều hơn sẽ tiêu thụ nhiều nước hơn. Lượng nước tiêu thụ hằng ngày ở người trưởng thành từ khoảng 900ml đến 1500ml, trung bình 1100ml trong điều kiện bình thường, chiếm 55% lượng nước cung cấp hằng ngày. Những đồ uống chứa cồn, trà, cà phê là nguồn nước nhưng do có tác dụng lợi tiểu, nên chúng làm tăng tốc độ mất nước qua da và thận.

Những thực phẩm hằng ngày khác cũng có thể chứa tới 96% nước, đại đa số chứa trên 50% trọng lượng nước, cung cấp 30% lượng nước hằng ngày. Một chế độ ăn cung cấp 2000 kcal từ thực phẩm rắn cũng cung cấp khoảng 500 – 800 ml nước.

Nước từ nguồn chuyển hoá của cơ thể (từ protein, chất béo, glucid, alcohol, carbon dioxit) cũng là nguồn đáng chú ý, chiếm 15% (khoảng 269 ml) lượng nước cung cấp hằng ngày (13,5 ml/100 kcal).

 Nước sinh ra từ các sản phẩm chuyển hoá với chế độ ăn 2000 kcal

 

Nguồn kcal

Bột đường Chất béo Protein Tổng số

 

% kcal

Số kcal trong 2000 kcal Trọng lượng thức ăn (g) Nước sinh ra (ml/g) Tổng nước sinh ra ml/2000 kcal
55 1100 275 0.6 165
30 600 67 1,07 72
15 300 75 0,42 321
269 ml/2000 kcal = 13,5 ml/100 kcal 269

Bài giảng tai biến mạch máu não

I. ĐẠI CƯƠNG:

Tai biến mạch máu não hay đột quỵ não là một hội chứng lâm sàng, đặc trưng bởi hiện tượng mất chức năng não cục bộ cấp tính và kéo dài trên 24 giờ, có thể gây tử vong và nguyên nhân do mạch máu não. Đột quỵ não được định nghĩa là tình trạng não đột ngột bị tổn thương cục bộ do nguyên nhân mạch máu (thiếu máu não cục bộ hoặc chảy máu não) gây ra triệu chứng thần kinh khu trú (đôi khi toàn thể), không do chấn thương.

Tai biến mạch máu não gồm các thể lâm sàng:

  • Xuất huyết (chảy máu) trong sọ (15 – 20%)

+ Xuất huyết trong não (Xuất huyết não – não thất);

+ Xuất huyết khoang dưới nhện.

  • Thiếu máu cục bộ não cấp hay còn gọi là nhồi máu não (NMN) (80 – 85%)

Khái niệm Tai biến mạch máu não không bao gồm: Chảy máu tụ dưới màng cứng, máu tụ ngoài màng cứng, hoặc các chảy máu hay NMN do nguyên nhân chấn thương, nhiễm trùng hay u.

* NGUYÊN NHÂN:

  1. Thiếu máu não cục bộ (NMN)
    • Huyết khối xơ vữa động mạch (ĐM) lớn gây tắc mạch tại chỗ hoặc lấp mạch “từ ĐM đến ĐM”
    • Bệnh tim gây lấp mạch não, đặc biệt là rung nhĩ, ngoài ra còn có các loạn nhịp khác, hẹp van 2 lá, van nhân tạo…
    • Bệnh lý mạch máu nhỏ (NMN lỗ khuyết) chủ yếu do tăng huyết áp.
    • Bệnh lý về máu.
  2. Xuất huyết: Một số nguyên nhân chính
    • Ở người trung niên và lớn tuổi, tăng huyết áp là nguyên nhân chính, người già nguyên nhân có thể là thoái hóa dạng bột, u não.
    • Ở người trẻ, nguyên nhân chủ yếu là dị dạng động – tĩnh mạch, phình mạch, rối loạn đông máu.
  1. Xuất huyết khoang dưới nhện:
  • Nguyên nhân chủ yếu là vỡ túi phình ĐM;
  • Ngoài ra còn có thể do: dị dạng động tĩnh mạch, rối loạn đông máu, chấn thương.

* Bệnh sử chi tiết có thể chẩn đoán khoảng 80% các trường hợp Tai biến mạch máu não với:

  1. Khởi phát đột ngột: Bệnh cảnh điển hình là khởi phát đột ngột, tiến triển với các khiếm khuyết thần kinh liên quan đến tổn thương một vùng não theo phân bố tưới máu của một ĐM.
  2. Các triểu chứng thường gặp:

–        Đau đầu: Đột ngột, nặng nề, đạt cường độ đau nặng ngày từ những phút đầu, giờ đầu

+ Trong XH dưới nhện: Bệnh nhân mô tả đau đầu “như búa bổ”, “như muốn nổ tung”, thường kèm nôn ói, cứng gáy và dấu màng não, 20 – 30% có đau đầu không điển hình, một số ít không đau.

+ Trong Xuất huyết não, khởi phát đau đầu cũng đột ngột kèm khiếm khuyết thần kinh tiến triển và biến đổi ý thức, hiếm có dấu màng não trừ trường hợp XH não – màng não hay lụt não thất và khoang dưới nhện.

+ Trong NMN ít khi có đau đầu (20%) hoặc đau mức độ nhẹ và thoáng qua.

NMN do lấp mạch từ tim thường gặp đau đầu hơn do xơ vữa động mạch

  • Chóng mặt: Thường gặp trong nhồi máu tiểu não hoặc thân não, XH hoặc thiếu máu cục bộ ĐM sống- nền thoáng Thường rất hay kèm theo rối loạn chức năng thân não hoặc tiểu não: nystagmus, rối loạn vận nhãn, thất điều vận động và các bất thường của các dây sọ khác.
  • Rối loạn thị giác: Thường gặp là mù, có thể mù thoáng qua, do tắc ĐM cảnh trong cùng bên hoặc tắc ĐM mắt, mù một bên đột ngột do tắc ĐM võng mạc trung tâm, hoặc võ não do tổn thương vỏ não thùy chẩm 2 bên, thường do tắc đỉnh ĐM thân nền (BN không nhìn thấy, nhưng phản xạ ánh sáng vẫn nhạy do chức năng thân não còn nguyên, bán manh (thường là bán manh đồng danh hoặc góc manh đồng danh) do tổn thương tia thị hoặc vỏ não 1 bên và nhìn đôi do nhiều nguyên nhân, nhìn đôi xuất hiện đột ngột là điển hình của XH hoặc nhồi máu thân não cấp, nhìn đôi tiến triển chậm tăng dần do phình mạch hoặc u, nhìn đôi có liên quan đến đau ở mắt hoặc xung quanh ổ mắt có thể do huyết khối tĩnh mạch xoang hang, do phình mạch của ĐM cảnh.

–          Rối loạn ngôn ngữ:

+ Mất ngôn ngữ diễn đạt (mất khả năng nói thành lời, nhưng căn bản vẫn giữ được khả năng thông hiểu lời nói) do tổn thương vùng Broca nằm ở phần sau hồi trán dưới.

+ Mất ngôn ngữ tiếp nhận (mất ngôn ngữ Wernicke: Mất khả năng hiểu lời nói, nhưng khả năng nói không bị ảnh hưởng, BN vẫn có thể nói lưu loát nhưng không thành câu, không rõ nghĩa và hoàn toàn không phù hợp với chủ đề, với câu hỏi, BN thường nói nhiều và nói quá thừa- mất ngôn ngữ lưu loát), do tổn thương vùng Wernicke nằm ở phần sau của hồi thái dương trên.

+ Mất ngôn ngữ toàn bộ: Không hiểu lời nói và không nói được, vẫn tỉnh táo, linh hoạt, đáp ứng với môi trường xung quanh tốt trừ đáp ứng về ngôn ngữ (giật mình với tiếng động, quay về nơi có âm thanh, nhìn và tiếp xúc bằng mắt với người đối diện…).

  • Các rối loạn cảm giác: Thường gặp nhất là tê, giảm hoặc mất cảm giác, thường đi với liệt ½ người.
  • Yếu và liệt nữa người: Là dấu hiệu thường gặp nhất, phân bố và mức độ liệt giúp định khu tổn thương. Liệt ½ người không đồng đều (giữa tay và chân) trong tổn thương vỏ não; tổn thương bao trong thì liệt ½ người đồng đều; liệt ½ người kèm bất thường dây thần kinh sọ bên kia có thể gặp trong các tổn thương thân não: Hội chứng Weber, Milard – Gubler…
  • Rối loạn ý thức – hôn mê: Do tổn thương hệ thống lưới hoạt hóa hoặc hoạt động chức năng của 2 bán cầu não bị tổn thương, có 3 dạng tổn thương chủ yếu gây hôn mê thường gặp:

+ Tổn thương cục bộ gây ảnh hưởng cấu trúc sâu của gian não, chèn ép bán cầu còn lại, hoặc chèn ép trung não; nguyên nhân do máu tụ trong sọ, nhồi máu diện rộng trên liều, u não, áp xe …

+ Các tổn thương thân não trực tiếp ảnh hưởng vào hệ thống lưới thân não.

+ Quá trình rối loạn chức năng thân não và hoặc ảnh hưởng cả hai bên vỏ não, gặp trong các nguyên nhân chuyển hóa, thiếu oxy não, bệnh não.

II. CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG:

1. LÂM SÀNG:

  • Bệnh khởi phát đột ngột với các triệu chứng cục bộ hay các thiếu hụt chức năng thần
  • Tiến triển nhanh đến thiếu hụt thần kinh tối đa (liệt, hôn mê, rối loạn vận ngôn, rối loạn cảm giác …)
  • Không thoái lui: Tiến triển nặng lên, đạt mức tối đa mà tình trạng XH hoặc thiếu máu não cấp có thể gây Nếu triệu chứng thoái lui sớm trong vòng 24 giờ (đa số trong vòng 1 giờ) thì chưa phải là đột quỵ não thật sự mà là cơn thiếu máu não thoáng qua.

2. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT:

  • Bệnh não do nguyên nhân chuyển hóa: Hạ đường huyết, tăng đường huyết, hạ natri máu, bệnh não do gan, ngộ độc thuốc hay rượu.
  • Cơn động kinh với liệt Todd sau cơn hoặc cơn động kinh không có co giật.
  • Migraine có triệu chứng liệt ½ người.
  • Sang thương trong sọ não về cấu trúc (máu tụ dưới màng cứng, u não, dị dạng động tĩnh mạch…).

3. CHẨN ĐOÁN THỂ LÂM SÀNG:

XH dưới nhện có bệnh cảnh riêng với đau đầu dữ dội và dấu màng não, thường không có dấu thần kinh định vị, nên dễ phân biệt với XH não và

–  Phân biệt XHN và NMN:

+ Bệnh khởi phát với các triệu chứng đau đầu, nôn ói và cứng gáy thường là do XH. Một BN đột quỵ có giảm ý thức sớm thường là XH (Nhồi máu não diện rộng cũng biểu hiện bằng giảm ý thức nhưng thường muộn hơn).

+ Các dấu thần kinh định vị của NMN thường khu trú theo vùng chi phối của một ĐM não, trong khi XHN có thể biểu hiện ở các vùng ĐM khác nhau.

Đặc tính Xuất huyết não Nhồi máu não
Khởi phát đột quỵ

 

Diễn tiến

< 30 phút

 

Nhanh (+++)

> Vài giờ – 24 giờ

 

Từ từ (+)

Đau đầu                                        80 – 90%                                 Hiếm

Các triệu chứng

Nôn ói                                          Hiếm                                        Hiếm gặp

Rối loạn ý thức hay hôn mê         40 – 45%                                Khoảng 15%

Dấu màng não                XH  màng  não,  XH não – não thất     Hiếm gặp

Tuy nhiên, một số trường hợp trên lâm sàng khó phân biệt được XH não và NMN, cần phải có CT scan hoặc MRI.

4. CẬN LÂM SÀNG:

Trong giai đoạn cấp tùy trường hợp, có thể thực hiện các CLS sau:

  • CT scan và hoặc MRI, ECG, X quang phổi, siêu âm tim, siêu âm ĐM cảnh
  • CTM, PT/ INR, aPTT
  • Đường huyết, HbA1C, bilan lipid máu, ion đồ, urê, creatinin, Men tim, ALT, AST
  • Khí máu ĐM, độ bão hòa
  • Chọc dò DNT (nếu nghi nghờ XH dưới nhện)

III. ĐIỀU TRỊ:

1. Trong giai đoạn cấp: Điều trị nội trú (xem phác đồ Nội Thần kinh)

2. Phòng ngừa thứ phát (Quản lý bệnh nhân sau ra viện): Chung cho cả xuất huyết não và nhồi máu não

  • Thay đổi lối sống: Bỏ thuốc lá, ăn giảm muối, tập luyện thân thể, giảm cân, chế độ ăn ít mỡ, nhiều rau quả;
  • Tập vật lý trị liệu – Phục hồi chức năng;
  • Ổn định huyết áp (xem phác đồ điều trị Tăng huyết áp);
  • Ổn định đường huyết (xem phác đồ điều trị Đái tháo đường)
  • Ổn định bilan lipid: Ưu tiên sử dụng nhóm Statin (Atorvastatin, Simvastatin, Lovastatin, Rosuvastatin, Fluvastatin, Pravastatin) hoặc nhóm Fibrat (Bezafibrat, Ciprofibrat, Fenofibrat) hoặc Gemfibrozil tùy theo loại rối loạn
  • Thuốc bảo vệ thần kinh:

+ Piracetam 400 – 800 mg x 3 lần/ ngày

+ Ginko biloba 40 – 80 mg x 2 – 3 lần/ ngày

+ Vinpocetine 10 mg x 3 lần/ ngày

3. Riêng với nhồi máu não:

  • Chống kết tập tiểu cầu:

+ Clopidogel 75 mg/ ngày

+ Aspirin 75 – 325 mg/ngày

+ Dipyridamol + acetylsalicylic acid 200/50 x 2 lần/ ngày.

+ Cilostazol 0,1 g x 2 lần/ ngày

–     Nếu rung nhĩ: Chống đông đường uống (Acenocoumarol).

Xem thêm:

Đột quỵ (tai biến mạch máu não)

Bệnh Tai biến mạch máu não

Chăm sóc bệnh nhân Tai biến mạch máu não

Long nhãn

Long nhãn
Long nhãn

Tên khoa học:

Euphoria longana Lamk. Họ khoa học: Họ Bồ Hòn (Sapindaceae).

Tên khác: Quế viên nhục, long nhãn can, mật ti, ích trí, long nhãn nhục

Mô tả:

Cây cao 5-7m. Lá mọc so le, kép, hình lông chim, gồm 5-9 lá chét, nguyên, hẹp, dày, cứng, dài 7-20cm, rộng 2,5-5cm. Ra hoa vào tháng 2-3, màu vàng nhạt, mọc từng chùm ở đầu cành hoặc kẽ lá. Hoa gồm 5 lá đài, 5 cánh rời nhau, 6-10 nhụy, bầu 2-3 ô. Quả hành tròn, vỏ ngoài ráp, màu vàng nâu, bên trong có cùi mọng nước ngọt (áo hạt), giữa có hạt đen bóng.

Nguồn gốc:

Đây là loại áo hạt quả nhãn thuộc loài thực vật họ Bồ hòn.

Phân biệt tính chất, hình dạng:

Dược liệu là những miếng mỏng không theo qui luật, tách theo chiều dọc, do gia công mà thành, thường kết dính nhiều mảnh với nhau. Dài chừng 1,5 cm, rộng từ 2 đến 4cm, dầy khoảng 1 cm. Màu nâu, nửa trong suốt. Một mặt nhăn nheo, 1 mặt nhẵn bóng, có vân nhỏ theo chiều dọc, chất mềm nhuận, mùi nhẹ, vị ngọt. Loại nào cùi dầy, chất mềm nhũn, mầu nâu vàng, nửa trong suốt, vị ngọt là loại tốt.

Tính vị và công hiệu:

Long nhãn tính ôn, Vị ngọt, lợi về kinh tâm, tỳ. Có công hiệu bổ tâm bổ tì, dưỡng huyết an thần. Dùng cho người mắc các di chứng khí huyết bất túc, yếu tim, hay sợ hãi, hay quên, mất ngủ, huyết hư uỷ hoàng v.v…

Theo các nghiên cứu hiện đại thì trong long nhãn có hàm chứa chất đường nho, đường mía, chất albumin, chất mỡ, chất kiềm trong mật, vitamin B1, B2, vitamin C và vitamin P, ngoài ra còn có các nguyên tố như calci, phospho, sắt v.v… Có tác dụng chống vi khuẩn và chống ung thư.

Bảo quản:

Vì long nhãn có hàm chứa nhiều đường, nên rất dễ bị ẩm và sâu mọt, vì vậy nên bảo quản trong đồ đựng khô ráo, chống ẩm và chống mọt.

Những cấm kị trong khi dùng thuốc:

Vị thuốc tính ôn, nhuận mà ngấy. Có thể trợ hoả sinh thấp, phàm những người có đờm hoả và thấp trệ, đình ẩm kiêng không dùng.

Theo “Dược phẩm vựng yếu”

Long nhãn

Khí vị:

Vị ngọt, tính bình, không độc, vào kinh Túc thái âm và kinh Thủ thiếu âm.

Chủ dụng:

Vị ngọt bổ ích cho tạng Tỳ, bổ Tâm hư mà thêm trí khôn, làm tươi khí của Dạ dày, chữa hay quên, hồi hộp, yên thần, thêm giấc ngủ, không nóng, không lạnh, khí hòa bình đáng quý, nuôi da thịt, đẹp nhan sắc. uống nhiều thì mạnh chí, thông minh, dùng lâu thì nhẹ mình trẻ lâu, trong thang Quy tỳ nó có công ngang vị Nhân sâm, vì Tỳ được bồi bổ thì trung khí đầy đủ, nguồn sinh hóa không kiệt, năm tạng đều yên, trăm tà đều tiêu hết, vả lại vị ngọt thì nuôi được huyết, bổ cho Tâm mà làm mạnh thần.

Kỵ dụng:

Tiết tả hoạt tràng, bụng trên đầy thì cấm dùng.

Nhận xét:

Ngoài việc dùng trong các phương thang còn có phép ăn Long nhãn để chữa chứng hư lao. Khi ăn phải giữ cho khí hòa, Tâm tĩnh.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

“Tế sinh phương”

Bài Quy tỳ thang

Nhân sâm 12g, Long nhãn 8g, Bạch truật 12g, Táo nhân sao 12g, Hoàng kỳ 12g, Đương quy 8g, Phuc thần (bỏ lõi) 12g, Viễn chí 4g, Mộc hương 2g (cho vào sau), chích Cam thảo 2g, Đại táo 4 quả, Gừng tươi 3 nhát.

Sắc, chia uống nhiều lần trong ngày. Có thể làm hoàn uống dần, liều uống 12-16g, ngày 2 lần.

Có tác dụng kiện tỳ, ích khí, bổ huyết, dưỡng Tâm.

Trị Tâm, Tỳ đều hư, khí huyết không đủ, mỏi mệt, ít ăn, Tim hồi hộp, mất ngủ, hay quên, chứng tiểu ra máu và phụ nữ rong kinh do Tỳ không nhiếp huyết, hoặc kinh nguyệt chậm kỳ, hiếm muộn, mạch hư hoãn, hoăc tế nhươc.

Gia giảm

Hỏa vượng gia Đan bì, Chi tử.

Âm hư gia Thục địa.

Huyết hư, kinh bế, hành kinh đau bụng gia Ngũ linh chi, Hồng hoa, Đào nhân.

Huyết hư, đau bụng (viêm Dạ dày) gia Bạch thược.

Chân tay đau, mỏi do Tỳ hư gia Nhục quế

“Hiệu phỏng tân phương”-Hải Thượng Lãn Ông

Bài Nhị long ẩm

Cao Ban long 1 lạng (10đ), Long nhãn 1 lạng (lạng 10đ).

Sắc nước Long nhãn, bỏ bã, cho cao Ban long vào, khuấy tan, uống ấm.

Chủ trị các chứng lo nghĩ tổn thương Tỳ, không ngủ, ra mồ hôi trộm, về chiều lên cơn sốt, buồn phiền, khát nước, đại tiện táo kết, sắc mặt úa vàng, da khô, phụ nữ kinh khô, thiếu máu, ăn ít.

Phương này trọng dụng dược phẩm bổ tinh huyết đi tắt vào Tỳ để bổ Tỳ âm, tăng nguồn gốc của huyết, làm cho Khảm thủy đi ngầm ở dưới, Đoài thủy nhàn nhã ở trên, Tỳ thổ có đủ đức tính nhu nhuận của tượng Khôn, muôn vật sẽ tươi tốt, còn đâu chứng khô táo nữa. Thực là một phương thuốc quý báu.

“Y học trung trung tham tây lục”

Bài Phù trung thang

Long nhãn, Bạch truật, Sơn dược.

Trị chứng tiết tả lâu không dứt, khí huyết đều hư, thân thể suy nhược.

Các phương thuốc bổ dưỡng thường dùng:

Long nhãn tửu (Rượu long nhãn)

Long nhãn 30g – Rượu trắng 500ml

Ngâm trong 7 ngày trở ra là dùng được. Ngày uống 2 – 3 lần, mỗi lần 10ml.

Có thể kiện tỳ vị, phấn chấn tinh thần, trị các bệnh về mỏi mệt do làm nhiều, mất ngủ, hay quên, kinh hãi v.v…

Ngọc linh cao (cao ngọc linh)

Long nhãn 30g – Đường trắng 3g

Bỏ vào bát, trùm lên bằng một lớp vải màn, hấp trong nồi cơm nhiều lần. Mỗi lần hoà nước sôi 1 – 2 thìa mà uống. Chữa bệnh lão suy gầy yếu, thể hư sau khi đẻ.

Quế viên cao (cao long nhãn)

Long nhãn 2500g – Câu kỷ tử 3000g

Bỏ vào nồi đất, cho nước vừa phải, sắc từ từ, cho thêm nước nhiều lần, sắc cho đến khi long nhãn và cầu kỷ tử không còn mùi, vị, bỏ bã, lấy nước cô đặc thành cao. Uống nhiều lấn, mỗi lần 3 thìa. Là loại thuốc đại bổ khí huyết, tươi da thắm thịt.

Quế viên am thuần đản (long nhãn trứng chim cút)

Trứng chim cút 4 quả – Long nhãn 15g

Đường đỏ 10g

Trứng chim cút đập bỏ vỏ, đánh lẫn với long nhãn, đường đỏ, bỏ cả vào bát, cho nước vừa phải, hấp chín. Mỗi buổi sớm ăn một lần. Ăn thường xuyên.

Dùng để chữa bệnh tử điến, do chất huyết tiểu bản trong máu bị giảm thiểu.

Long nhãn liên tử chúc (cháo long nhãn, hạt sen)

Long nhãn 5g – Cùi hạt sen 10g

Gạo tẻ 100g.

Nấu cháo ăn.

Dùng cho người thiếu máu, tim đập hoảng hốt, mất ngủ v.v…

Long nhãn hoa sinh (lạc nhân, long nhãn)

Long nhãn 10g – Muối ăn vừa phải.

Lạc nhân còn vỏ 15g

Nấu lên ăn. Dùng cho người thiếu máu

Long nhãn đại táo (long nhãn táo tầu)

Long nhãn 30g – Táo tầu 30g

Nấu lên ăn. Dùng cho người thiếu máu, thần kinh suy nhược.

Long nhãn câu kỷ chúc (cháo long nhãn, câu kỷ tử)

Long nhãn 15g – Táo tầu 4 quả

Câu kỷ tử 10g – Gạo lức 100g

Nấu gạo lức thành cháo, đun sôi lên 10 phút, bỏ long nhãn, câu kỷ tử, táo tầu vào ninh cho chín. Ăn vào buổi sớm lúc ngủ dậy và buổi tối trước khi đi ngủ. Song cần chú ý nếu uống lạnh sẽ dẫn tới đầy hơi ở dạ dày.

Phương thuốc này dùng cho những người do máu tim thiếu dẫn tới chứng tim đập hoảng hốt gấp nhịp, tâm hoảng loạn, mất ngủ, hay quên, tỳ hư phù thũng, tự ra mồ hôi, đổ mồ hôi trộm v.v…

Quế viên sâm mật cao (Cao long nhãn, đảng sâm, mật ong)

Long nhãn 120g – Sa sâm 125g

Đảng sâm 250g

Cả ba vị trên cho nước vào sắc 3 lần, dồn làm một, đun nhỏ lửa cô lại thành cao đặc, cho thêm 250g mật ong vào đun sôi thì dập lửa, đợi nguội lạnh đổ vào chai dùng dần. Mỗi lần uống 1 thìa canh, ngày uống 3 lần.

Dùng cho người mắc chứng thể chất hư nhược, gầy mòn, phiền khát, ho khan ít đờm, tiếng khản đặc, mệt mỏi vô lực v.v…

Quế viên quất bính đường (Kẹo long nhãn, bánh quất)

Long nhãn 100g – Đường kính 500g

Bánh quất 100g

Cho đường vào nồi nhôm, cho nước vừa phải, đun nhỏ lửa cho tới khi đặc lại, cho bánh quất và long nhãn vào, quấy đều, tiếp tục đun cho tới khi dùng bàn sẻn xêu lên đã thành sợi mà không dính tay thì dập lửa.

Đổ cả mẻ kẹo lên khay men to có láng dầu ăn, chờ nguội, dùng dao sắc cắt đều thành khoảng trăm miếng cả thảy. Ăn ngày 4 lần, mỗi lần 2 – 3 miếng.

Dùng cho người bị ỉa chảy lâu ngày, lỵ lâu ngày v.v…

Long nhãn táo nhân ẩm (Thuốc sắc long nhãn, táo nhân)

Long nhãn 10g – Khiếm thực 12g

Táo nhân 10g

Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.

Dùng cho người tâm âm huyết hư, hư hoả nội nhiều không thể hạ tế, thận âm, dẫn tới tim đập hoảng hốt loạn nhịp, mất ngủ hay quên, tinh thần mệt mỏi, di tinh v.v…

Quế viên linh chi ẩm (Thuốc sắc long nhãn, linh chi)

Long nhãn 10g – Tử linh chi 15g

sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần sớm, tối.

Dùng cho người mất ngủ vì tâm, tỳ hư tổn.

Quế viên nhân sâm băng đường ẩm (Long nhãn, nhân sâm, đường phèn)

Long nhãn 10g – Đường phèn vừa phải

Sinh sái sâm 10g

Sắc uống. Uống thường xuyên.

Dùng cho người già thể nhược hư gầy, ăn ít, tinh thần mệt mỏi.

Quế viên đồn tử nhục (long nhãn hầm thịt lợn)

Long nhãn 10g – Thịt nạc 100g

Bách hợp 9g

Hầm cách thuỷ cho chín mà ăn. Ăn liền 5 lần.

Dùng cho người già tâm tỳ hư tổn, đầu váng, mắt hoa, hay quên.

Long nhãn dương sâm ẩm (thuốc sắc long nhãn, tây dương sâm)

Long nhãn 30g – Tây dương sâm 6g.

Thêm ít đường trắng và nước vừa phải, đặt vào nồi nước sôi hấp 40 – 50 phút là được. Uống vào buổi sớm, buổi tối.

Dùng cho người tim đập hoảng hốt, khí đoản, mất ngủ, hay quên v.v…

Long nhãn kê đản (long nhãn, trứng gà).

Long nhãn 13g – Trứng gà 3 quả

Trứng gà đập bỏ vỏ, cho long nhãn và nước vừa phải, hấp chín.

Uống thường xuyên. Dùng cho người phù thũng sau khi đẻ.

Long nhãn khiếm thực chúc (cháo long nhãn, khiếm thực)

Long nhãn 15g – Khiếm thực 15g

Cùi hạt sen 6g – Gạo lức 60g

Cho nước vào nấu thành cháo.

Dùng cho người tỳ hư, ỉa chảy, tự đổ mồ hôi, thiếu máu, phụ nữ yếu đuối trước hoặc sau khi đẻ, phù thủng, kinh nguyệt không điều hoà v.v…

Quế viên đồng tử kê (long nhãn, gà giò)

Gà giò 1 con (khoảng 1.000g)

Long nhãn 30g

Giết gà bỏ lòng ruột rửa sạch, bỏ vào nồi nước sôi đun trong 5 phút, vớt ra bỏ vào nối thang. Cho long nhãn, rượu gia vị, hành, gừng, muối với nước lã, ninh trong 1 giờ.

Dùng cho người thiếu máu, mất ngủ, tim đập hoảng hốt.

Người khoẻ mạnh ăn vào cũng bồi bổ sức khoẻ, tăng cường thể lực chống mệt mỏi.

Long nhãn ô câu đại táo thang (thang long nhãn, đậu đen, táo tầu)

Long nhãn 15g – Táo tầu 50g

Đậu đen 50g

Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần sớm, tối.

Dùng cho người huyết hư tim đập hoảng hốt, thận hư lưng đau, râu tóc sớm bạc, tỳ hư chân phù v.v… Là vị thuốc qui để bồi bổ cho người già vào mùa đông.

Long nhãn can khương thang (thang long nhãn, gừng khô)

Long nhãn 50g – Táo tầu 5 quả

Gừng khô 10g

Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.

Dùng cho người phù thũng sau khi đẻ. Đối với người phù thũng vì khí hư cũng có công hiệu chữa trị.

Bệnh Nấm Aspergillus đường hô hấp

Định nghĩa

Viêm phổi dị ứng không xâm hại, hoặc bệnh phổi nhiễm nấm thuộc loài Aspergillus, đôi khi nấm lan tràn rộng rãi theo đường máu.

Căn nguyên

Aspergillus fumigatus (chiếm 90%), A. niger, A. clavatus, A. nidulans, A.terreus, A. versicolor hoặc A. flavus, là những nấm sợi phổ biến ở mọi nơi, thường có ở trong tỵ-hầu (họng mũi) của những người bình thường khoẻ mạnh, nhưng có thể trở thành gây bệnh và lây nhiễm vào phổi, nhất là ở những đối tượng bị suy giảm miễn dịch (gọi là nhiễm nấm cơ hội), đặc biệt là ở những bệnh nhân AIDS, bệnh nhân bị giảm bạch cầu hạt trung tính, bệnh nhân đang điều trị bằng corticoid hoặc thuốc ức chế miễn dịch.

Triệu chứng

BỆNH NẤM ASPERGILLUS PHẾ QUẢN-PHỔI DỊ ỨNG (bệnh Hinson- Pepys): thể viêm phổi không xâm lấn này là do hít phải nấm và gây ra bệnh phổi tăng bạch cầu hạt ưa acid (xem bệnh này), biểu hiện bởi những cơn hen (gọi là hen do aspergillus), với các triệu chứng: ho, sốt, và tăng bạch cầu hạt ưa acid trong máu. Chụp X quang thấy thâm nhiễm phổi di chuyển từ thuỳ này sang thuỳ khác và những hình ảnh “ngón găng tay” của giãn phế quản gần gốc. Thường có tăng bạch cầu ưa acid trong máu ngoại vi.

Bệnh có thể diễn biến tới hen phụ thuộc corticoid, rồi trở thành xơ phổi gây tàn phế.

U NẤM ASPERGILLUS: tích tụ những sợi nấm, sợi fibrin (sợi huyết) và những tế bào viêm thành một hang (hoc) ở trong phổi; chụp X quang lồng ngực cho thấy bóng mờ hình tròn, có một viền sáng hình lưỡi liềm.

BỆNH NẤM ASPERGILLUS PHẾ QUẢN-PHỔI XÂM HẠI:  chụp X – quang cho thấy những bóng mờ hình nốt (cục) to hoặc những bóng mờ thâm nhiễm rải rác.

BỆNH NẤM ASPERGILLUS HOẠI TỬ:

  • Cấp tính: có nhiều ổ với tình trạng toàn thân suy sụp và đôi khi diễn biến thành áp xe.
  • Mạn tính:diễn biến tới xơ cứng phổi và suy hô hấp.

BỆNH NẤM ASPERGILLUS NỘI PHẾ QUẢN: biểu hiện bởi nung mủ (làm mủ) mạn tính trong phổi, điểm thêm bởi từng đợt ho ra máu.

BỆNH NẤM ASPERGILLUS RẢI RÁC (phân tán): nấm phân tán theo đường máu, thường thấy ở những đối tượng suy giảm miễn dịch hoặc giảm bạch cầu hạt trung tính kéo dài.

VIÊM TAI NGOÀI DO NẤM ASPERGILLUS (bệnh nấm tai): thường do Aspergillus niger.

VIÊM XOANG MẠN TÍNH: có thể gây ra bởi u nấm aspergillus. Đôi khi hình thành u hạt ở xoang hàm.

BỆNH NẤM ASPERGILLUS QUÁ MÂN: (xem: viêm phế nang dị ứng).

NHIỄM NẤM VÀO BỘ PHẬN GIẢ HOẶC VAN TIM GIẢ.

Xét nghiệm cận lâm sàng

  • Xét nghiệm đờm trực tiếp dưới kính hiển vi, hoặc các bệnh phẩm lấy từ trong phế quản, dịch rửa phế quản-phế nang để phát hiện những sợi nấm, bào tử nấm, đôi khi cả đầu nấm
  • Xác định nấm aspergillusbằng cấy bệnh phẩm trong môi trường Sabouraud.
  • Xét nghiệm với latex: để phát hiện kháng nguyên hoà tan, xét nghiệm này cho phép chẩn đoán sớm và nhanh sự phân tán của nấm trong cơ thể những người bị suy giảm miễn dịch.
  • Phản ứng huyết thanh (miễn dịch khuếch tán, miễn dịch-điện di, điện di khuếch tán miễn dịch): thường dương tính trong đa số trường hợp, nhưng lại âm tính ở những đối tượng suy giảm miễn dịch.
  • Sinh thiết: đặc biệt có ích trong trường hợp suy giảm miễn dịch với phản ứng huyết thanh âm tính.
  • Cấy máu: hiếm khi có kết quả dương tính.
  • Tổng hiệu giá IgE cao trong huyết thanh.
  • Phản ứng bì đối với kháng nguyên aspergilluskhông đem lại ích lợi gì.

Điều trị

Đối với các thể phế quản- phổi dị ứng không xâm hại, cho các thuốc giống bêta hoặc corticoid. Đối với các thể phế quản-phổi có xâm hại, cho amphotericin B theo đường tĩnh mạch, tuỳ tình hình có thể phối hợp với flucytosin. Phẫu thuật cắt u nấm aspergillus hoặc cắt thuỳ phổi trong trường hợp ho ra máu nặng. Nhỏ amphotericin B tại chỗ.

Trong những thể không xâm hại cho uống itraconazol (200 mg, 2 lần mỗi ngày).