Thuốc này được dùng để ngăn ngừa hoặc điều trị viêm phổi do nấm Pneumocystis jiroveci (trước đây được gọi là Pneumocystis carinii hay PCP) ở những bệnh nhân được chỉ định. Đây là một loại thuốc chống ký sinh trùng ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn gây nhiễm trùng này.
CÁCH SỬ DỤNG:
Lắc nhẹ chai thuốc trước khi sử dụng. Đo liều lượng cẩn thận bằng thìa hoặc cốc đo thuốc, không sử dụng thìa ăn thông thường.
Để điều trị PCP, uống thuốc này cùng với thức ăn, thường là 2 lần mỗi ngày trong 21 ngày hoặc theo chỉ định của bác sĩ.
Để phòng ngừa PCP, uống một lần mỗi ngày cùng với thức ăn như được chỉ định.
Liều lượng phụ thuộc vào độ tuổi, tình trạng y tế và phản ứng với điều trị.
Thuốc này hoạt động tốt nhất khi lượng thuốc trong cơ thể được duy trì ở mức ổn định. Do đó, khi uống hai lần mỗi ngày, hãy uống vào các khoảng thời gian cách đều nhau khoảng 12 giờ. Nếu uống một lần mỗi ngày, hãy uống vào cùng thời điểm mỗi ngày.
Tiếp tục dùng thuốc cho đến khi hoàn thành liều đã được kê đơn, ngay cả khi triệu chứng biến mất sau vài ngày. Ngưng thuốc quá sớm có thể khiến nhiễm trùng quay trở lại.
Hãy báo cho bác sĩ nếu tình trạng của bạn không cải thiện hoặc xấu đi.
TÁC DỤNG PHỤ:
Các tác dụng phụ có thể bao gồm: đau/dị ứng dạ dày, buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy, táo bón, chán ăn, đau đầu, chóng mặt, khó ngủ, sốt, đổ mồ hôi, hoặc có vị lạ trong miệng. Nếu bất kỳ tác dụng nào kéo dài hoặc trở nên tồi tệ hơn, hãy thông báo ngay cho bác sĩ hoặc dược sĩ.
Nhớ rằng bác sĩ đã kê đơn thuốc này vì họ đã đánh giá rằng lợi ích đối với bạn lớn hơn nguy cơ tác dụng phụ. Nhiều người sử dụng thuốc này không gặp phải tác dụng phụ nghiêm trọng.
Báo ngay cho bác sĩ nếu bạn gặp bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng nào không thường gặp: thay đổi tâm trạng (như trầm cảm, lo lắng), yếu mệt bất thường.
Báo ngay nếu bạn gặp phải các tác dụng phụ hiếm nhưng rất nghiêm trọng: thay đổi thị lực, thay đổi lượng nước tiểu, chảy máu/bầm tím bất thường, nước tiểu sẫm màu, vàng mắt/da, đau bụng nặng, buồn nôn/nôn dai dẳng.
Phản ứng dị ứng nghiêm trọng với thuốc này là rất hiếm. Tuy nhiên, nếu có bất kỳ triệu chứng nào của phản ứng dị ứng nghiêm trọng như phát ban, ngứa/sưng (đặc biệt là mặt/lưỡi/họng), chóng mặt nặng, khó thở, hãy tìm sự chăm sóc y tế ngay lập tức.
Atovaquone có thể gây phát ban nhẹ thường không nghiêm trọng. Tuy nhiên, bạn có thể không phân biệt được nó với phát ban hiếm gặp là dấu hiệu của phản ứng dị ứng nghiêm trọng. Do đó, hãy tìm chăm sóc y tế ngay nếu bạn phát triển bất kỳ phát ban nào.
Đây không phải là danh sách đầy đủ các tác dụng phụ có thể xảy ra. Nếu bạn nhận thấy các tác dụng khác không được liệt kê ở trên, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc dược sĩ.
THẬN TRỌNG:
Trước khi dùng atovaquone, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết nếu bạn bị dị ứng với thuốc này; hoặc nếu bạn có bất kỳ dị ứng nào khác. Sản phẩm này có thể chứa các thành phần không hoạt tính, có thể gây ra phản ứng dị ứng hoặc các vấn đề khác. Hãy nói chuyện với dược sĩ để biết thêm chi tiết.
Trước khi sử dụng thuốc này, hãy nói với bác sĩ hoặc dược sĩ về tiền sử bệnh của bạn, đặc biệt là: các vấn đề về phổi, bệnh gan, rối loạn dạ dày (ví dụ, tiêu chảy kéo dài, hội chứng kém hấp thu).
Thuốc này có thể làm bạn chóng mặt. Không lái xe, sử dụng máy móc hoặc thực hiện bất kỳ hoạt động nào đòi hỏi sự tỉnh táo cho đến khi bạn chắc chắn có thể thực hiện các hoạt động đó một cách an toàn. Hạn chế uống rượu.
Trong thời kỳ mang thai, chỉ sử dụng thuốc này khi thật sự cần thiết. Thảo luận về các rủi ro và lợi ích với bác sĩ.
Không rõ liệu thuốc này có đi vào sữa mẹ hay không. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi cho con bú.
TƯƠNG TÁC THUỐC:
Bác sĩ hoặc dược sĩ của bạn có thể đã biết về bất kỳ tương tác thuốc nào có thể xảy ra và đang theo dõi bạn để phòng ngừa chúng. Không bắt đầu, ngừng hoặc thay đổi liều lượng của bất kỳ loại thuốc nào mà không kiểm tra với bác sĩ hoặc dược sĩ trước.
Trước khi sử dụng thuốc này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết tất cả các sản phẩm kê đơn và không kê đơn/sản phẩm thảo dược mà bạn đang sử dụng, đặc biệt là: rifamycin (ví dụ, rifampin, rifabutin).
Tài liệu này không chứa tất cả các tương tác có thể xảy ra. Do đó, trước khi sử dụng sản phẩm này, hãy cho bác sĩ hoặc dược sĩ biết tất cả các sản phẩm bạn đang dùng. Giữ một danh sách các loại thuốc của bạn và chia sẻ danh sách đó với bác sĩ và dược sĩ của bạn.
QUÁ LIỀU:
Nếu nghi ngờ quá liều, hãy liên hệ ngay với trung tâm kiểm soát chất độc hoặc phòng cấp cứu.
LƯU Ý:
Không chia sẻ thuốc này với người khác.
Thuốc này được kê đơn cho tình trạng hiện tại của bạn. Không sử dụng nó sau đó cho một nhiễm trùng khác trừ khi được bác sĩ yêu cầu. Một loại thuốc khác có thể cần thiết trong trường hợp đó.
Xét nghiệm máu và/hoặc xét nghiệm y tế (ví dụ, chức năng gan, chức năng thận, nồng độ natri trong máu) có thể được thực hiện định kỳ để theo dõi tiến triển hoặc kiểm tra tác dụng phụ. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để biết thêm chi tiết.
QUÊN LIỀU:
Nếu bạn bỏ lỡ một liều, hãy uống ngay khi nhớ ra. Nếu gần đến giờ uống liều tiếp theo, bỏ qua liều đã quên và tiếp tục lịch trình uống thuốc thông thường. Không uống gấp đôi liều để bù vào liều đã quên.
BẢO QUẢN:
Bảo quản ở nhiệt độ phòng từ 59-77 độ F (15-25 độ C), tránh ánh sáng và độ ẩm. Không bảo quản trong phòng tắm. Giữ thuốc tránh xa trẻ em và thú cưng. Không được để sản phẩm này bị đóng băng, vì việc đóng băng sẽ làm giảm lượng thuốc bạn có thể hấp thụ và có thể dẫn đến điều trị thất bại. Không xả thuốc xuống bồn cầu hoặc đổ vào cống trừ khi được yêu cầu. Loại bỏ sản phẩm này đúng cách khi hết hạn hoặc không còn cần thiết. Tham khảo ý kiến dược sĩ hoặc công ty xử lý chất thải địa phương để biết thêm chi tiết về cách loại bỏ thuốc một cách an toàn.
Là trạng thái trong đó các cơn co giật liên tiếp trên 15 phút, giữa 2 cơn bệnh nhân trong tình trạng hôn mê, rối loạn thần kinh thực vật, biến đổi hô hấp, tim mạch, nội môi. Sau cơn trẻ không tỉnh trên 30 phút.
Trạng thái động kinh có thể kéo dài vài giờ đến vài ngày.
XỬ TRÍ
Đặt bệnh nhân ở tư thế nằm ngửa (đầu cao 30 độ nếu có tăng áp lực sọ não) hoặc nằm hơi nghiêng sang phải.
Hút đờm dãi.
Thở oxy.
Cặp nhiệt độ, nếu sốt cho uống paracétamol 15mg/kg/l lần cách 5-6 giờ, không quá 60mg/kg/24 giờ.
Tiêm tĩnh mạch seduxen 0,2 – 0,3mg/kg hoặc đặt hậu môn 0,5mg/kg.
Nếu còn tiếp tục giật sau 5 phút tiêm tĩnh mạch nhắc lại seduxen 0,3mg/kg.
Xét nghiệm đường máu, calci máu, điện giải đồ, khí máu nếu có điều kiện.
Theo dõi nhịp thở, phát hiện sớm sự ức chế hô hấp, đặt nội khí quản, bóp bóng nếu ngừng thở.
Sau 15 phút còn giật cho phénobarbital 5 -10mg/kg tiêm tĩnh mạch trong 10 phút hoặc tiêm bắp.
Sau 20 phút không kết quả tiêm nhắc lại phénobarbital 10mg/kg tĩnh mạch trong 10 phút.
Chống phù não:
+ Dexamethason: 0,4mg/kg tĩnh mạch X 2 lần cách 8 giờ.
+ Mannitol 20%: 0,5g/kg truyền 40-60 giọt/phút, sau đó truyền tiếp ringer lactat 20-50ml/kg.
Bù đường nếu đường máu hạ < 2,5mmol/l, truyền dung dịch glucose 10%: 5ml/kg.
Điều chỉnh thăng bằng nước điện giải, cân bằng toan máu.
Sau 10 phút còn giật chuyển hồi sức cấp cứu điều trị thiopentan 3-5mg/kg, thở máy.
BIẾN CHỨNG CỦA TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH
Thiếu oxy não và các cơ quan.
Biến chứng tim mạch: mạch nhanh hoặc chậm, dừng tim, cao HA, suy tim, sốc tim.
Suy thận: đái ít, hoại tử cầu thận cấp tính do tiêu cơ vân cấp.
Rối loạn thần kinh thực vật: nôn, ra nhiều mồ hôi, tăng tiết nước bọt. Rối loạn chuyển hoá: toan chuyển hoá, thiếu oxy, tăng kali, natri máu, giảm đường, natri máu, suy thận mất nước, bệnh tuỵ cấp.
Gọi là bánh cuốn vì mỗi chiếc bánh sau khi tráng chín được gói nhân bên trong, cuốn lại và xếp vào đĩa. Món bánh cuốn thường phải được dùng nóng, bánh mỏng, bột dẻo, hơi trong và thơm mùi vị của nhân thịt bên trong bánh. Đây là món điểm tâm phổ biến ở thành phố, nhẹ nhàng, thanh cảnh, không quá ngấy dầu mỡ mà vẫn no bụng, đầy đủ dinh dưỡng…
Chuẩn bị bột: Trộn bột gạo với bột năng, cho nước vào từ từ, khuấy đều với nước theo tỷ lệ: 1 phần bột, 2 phần nước. Lọc bột lại cho sạch bụi bẩn, nêm muối, bột ngọt. Giá trụng sơ, rau quế xắt nhuyễn, ngò xắt ngắn.
Khuấy đều bột
Làm nhân: Thịt nạc dăm xắt nhỏ, băm sơ qua với nấm mèo, hành tây. ướp thịt với hành tím, muối tiêu và một chút đường. Chả lụa xắt hạt lựu. Phi hành cho thơm, cho thịt, hành tây, nấm mèo vào xào chín, cho chả lụa vào trộn chung.
Làm nước mắm pha ăn với bánh cuốn: Nước mắm pha dùng với bánh cuốn có vị ngọt và chua nhẹ của chanh, được thực hiện với công thức sau: 3 muỗng canh nước mắm, 2/3 chén nước chín, 2 muỗng canh đường, 1 muỗng canh giấm, 1 tép tỏi băm nhỏ, 1 muỗng cà phê nước cốt chanh, hòa tan nước, đường, giấm, nước mắm với nhau, khuấy cho tan đường. Vắt chanh và cho tỏi băm vào. Khi dọn ra mới cho ớt băm vào cho hấp dẫn.
Tráng bánh: Đặt nồi tráng bánh có đường kính khoảng 30cm lên bếp. Đợi nước trong nồi thật sôi, tráng từng bánh tròn theo khuôn vải trên miệng nồi. Đậy nắp lại, khoảng 1 phút là bánh chín. Dùng thanh tre mỏng để gỡ bánh ra, cho ngay lên mâm có thoa dầu để bánh không bị dính.
Tráng bánh cuốn
Gói bánh: Chia bánh làm đôi. Cho nhân vào mỗi nửa bánh. Gấp mí bánh lại cho kín phần nhân, xếp ra đĩa.
Trình bày
Xếp mỗi đĩa khoảng 6′ 8 bánh, một bên cho giá trụng, rau quế, trên rắc ngò rí và hành phi. Dọn kèm với chén nước mắm pha.
Cho đến nay, mức huyết áp được coi là của người bình thường vẫn còn là những con số quy ước. Năm 1978, Tổ chức Y tế Thế giới đã quy định mức huyết áp < 140/90 mmHg thì được coi là bình thường, từ 160/95 mmHg trở lên là tăng huyết áp chính thức, cần được điều trị, từ > 140/90 đến 160/95 mmHg là tăng huyết áp giới hạn, cần được theo dõi, “các giới hạn huyết áp này áp dụng cho người lớn ở cả hai giới và ở các lứa tuổi; người ta cho rằng con số huyết áp ở trẻ em thấp hơn so với người lớn nhưng vẫn còn chưa có con số chính xác về tăng huyết áp ở trẻ em”.
Trong quá trình thực hiện các thầy thuốc thấy các mức quy định trên là cao quá, từ 140/90 mmHg trở lên huyết áp đã có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu cho cơ thể; nghiên cứu ở Framingham (là một trung tâm lớn ở Hoa Kỳ được Tổ chức Y tế Thế giới chọn làm điểm để nghiên cứu về dịch tễ học các bệnh tim mạch) cho thấy ở nhóm người có huyết áp từ > 140/90 mmHg đến < 160/95 mmHg, theo dõi trong 20 năm thì số tai biến tim mạch kể từ tai biến mạch máu não, suy tim, suy mạch vành… đến tử vong do nguyên nhân tim mạch đều tăng gần gấp đôi so với những người có huyết áp < 140/90 mmHg; nhiều nghiên cứu về dịch tễ cho thấy “nguy cơ tai biến là thấp nhất khi huyết áp tâm thu < 120 mmHg và huyết áp tâm trương < 80 mmHg, các huyết áp tâm thu và/hoặc tâm trương cao hơn thường dẫn đến tăng các biểu hiện bệnh lý về tim mạch, thận và tử vong nhiều hơn”. Vì những lẽ đó, năm 1993 Tổ chức Y tế Thế giới và Hội Tăng huyết áp thế giới đã xem xét lại và đã ra những quy định mới, lấy mốc < 140/90 mmHg là mức huyết áp bình thường, từ 140/90 mmHg trở lên là tăng huyết áp chính thức, cần phải điều trị.
Cách đo huyết áp chuẩn
Năm 1999 và năm 2003, Tổ chức Y tế Thế giới và Hội Tăng huyết áp thế giới lại họp lại, trong các khuyến cáo bổ sung vẫn giữ những quy định đề ra từ năm 1993, coi mốc < 140/90 mmHg là mức huyết áp bình thường nhưng cần phân biệt:
Huyết áp tối ưu (nghĩa là có nguy cơ tim mạch thấp nhất) khi huyết áp tâm thu < 120 mmHg, huyết áp tâm trương < 80
Huyết áp bình thường: khi huyết áp tâm thu < 130 mmHg, huyết áp tâm trương < 85
Huyết áp bình thường cao: khi huyết áp tâm thu 130-139 mmHg, huyết áp tâm trương 85-89 mmHg; Người có mức huyết áp này dễ bị bệnh tăng huyết áp (ở Hoa Kỳ người ta coi mức huyết áp này là tiền tăng huyết áp).
Phân loại
HA tâm thu
HA tâm trương
Huyết áp tối ưu
<120 mmHg
< 80 mmHg
Huyết áp bình thường
< 130
<85
HA bình thường cao
130-139
85-89.
TRỊ SỐ HUYẾT ÁP MỤC TIÊU TRONG ĐIỀU TRỊ (theo JNC 8)
1. Người từ 60 tuổi trở lên: < 150/90 mmHg
2. Người dưới 60 tuổi: < 140/90 mmHg
3. Người có bệnh đái tháo đường và/hoặc bệnh thận mạn với bất kỳ tuổi tác: < 140/90 mmHg.
Cuộc điều tra lớn về tình hình huyết áp và bệnh tăng huyết áp của Viện Tim mạch Việt Nam tiến hành ở 27 trung tâm thuộc 20 tỉnh thành với 7 vùng địa lý khác nhau trong cả nước từ 1989 đến 1992 cho thấy huyết áp bình thường của người Việt Nam từ 16 tuổi trở lên là 120/75 mmHg, trong đó:
Da dẻ là tấm gương của cơ thể. Da dẻ khỏe mạnh, nhẵn mịn và tính đàn hồi mạnh, đầy sức sống sẽ đem lại cho người ta một cảm nghĩ khỏe đẹp. Nói chung người tuổi trẻ trong thời kỳ dậy thì, tế bào da dẻ sẽ không ngừng đổi mới sinh trưởng, xem ra con người rất đẩy đà. Nhưng qua hết thời kỳ trưởng thành, công năng thay thể bình thường của da dẻ giảm yếu dần, sợi chân bì (lớp giữa của da dẻ) lão hóa, biểu bì sẽ lõm xuống và hình thành những nếp nhăn.
Tia tử ngoại bức xạ tổn thương da dẻ
Những người trường kỳ phơi dưới ánh nắng mặt trời, nếp nhăn nhiều và sâu hơn, vì chiếu xạ của mặt trời gây ra sự phân giải của keo xương dạng cơ, dẫn đến da dẻ mất tính đàn hồi. Trường kỳ tiếp xúc sự chiếu rọi mãnh liệt của ánh nắng mặt trời, dĩ nhiên sẽ làm nhanh chống lão hóa da dẻ. Cơ thể không khỏe mạnh, có những bệnh tật có tính tiêu hao mãn tính như: Bệnh can, thận và vị, dinh dưỡng kém hoặc nhân tố trên tâm lý như: Tinh thần căng thẳng, suy nghĩ lo buồn quá độ, đều có thể khiến da dẻ sinh sản sự mất thăng bằng về dinh dưỡng ở mức độ khác nhau, ảnh hưởng sự thay thế bình thường của da. Ngoài ra, thời tiết gió rét lâu ngày, cũng sẽ khiến da dẻ mất nước, hoặc da dẻ bị tổn thương mà sản sinh ra nếp nhăn. Hoặc giả sử dùng mỹ phẩm không thích đáng, da dẻ cũng sẽ bị ảnh hưởng nhất định.
Da dẻ cần bổ sung chất Protein và sinh tố
Phụ nữ quí trọng nhất là sự nhẵn mịn, mềm mại của làn da mặt, nếu bạn hy vọng làn da của mình sạch mịn, đẹp đẽ, thì hiểu rõ làn da cần những thành phần dinh dưỡng gì là điều rất cần thiết.
Trước tiên, da dẻ của bạn cần có chất Prôtein là cơ sở vật chất của sự vận động sinh mạng cơ thể con người, là thành phần chủ.yếu nhất của tổ thành cơ thể con người. Prôtein còn là tất cả chất xúc tác sinh vật bộ phận tổ thành của dung môi, Prôtêin trong thức ăn dưới tác dụng của dung môi phân giải hợp thành là Prôtein cơ thể con người, khiến sự tổn thất của chất dinh dưỡng và sự tiêu hao năng lượng trong quá trình lao động sản xuất của con người được bổ sung không ngừng. Nhiều lượng của Prôtein, có thể khiến cơ bắp rắn chắc, khiến cho dung mạo bạn trẻ mãi.
Thứ hai, cần phải bảo đảm cung cấp đầy đủ các sinh tố A, B, C. Sinh tố A có thể phòng ngừa da dẻ khô táo và sần sùi; sinh tố B có tác dụng đẩy lùi lại sự xuất hiện của nếp nhăn, trì hoãn lão hóa, sinh tố c có thể tăng cường tính đàn hồi và tươi sáng của da dẻ.
Xoa bóp có thể giúp cho trừ nếp nhăn
Khi phát sinh nếp nhăn cục bộ có thể dùng xoa bóp (mát- xa) làm đẹp để cải thiện dung mạo và tính dẻo dai của da dẻ.
Xoa bóp vùng mặt làm tăng nhanh sự tuần hoàn máu vùng mặt, khiến mao mạch máu bộ vị xoa bóp thư giãn, cải thiện sự thay thế dinh dưỡng của bộ mặt, làm cho da dẻ mềm mại, tươi sáng.
Căn cứ kinh lạc học Trung y thì chọ rằng, tay là khỏi, dứt điểm của Thủ tam dương kinh và Thủ tam âm kinh, cho nên xoa bóp phải làm từ tay trước. Xoa bóp bàn tay. điều hòa khí huyết, mười ngón tay nhanh nhạy, có giúp cho kinh lạc thông suốt, làm cho da dẻ mu tay nhẵn sạch như ngọc. Phương pháp cụ thể là: Hai tay xoa nóng với nhau, như tay trái nắm lấy mu tay phải dùng sức ma sát vài chục lần, đến khi da mu tay nóng lên, rồi đổi tay làm tiếp như phương pháp trên.
Đầu là lực lựợng chi phối của toàn thân, theo lý luận.Trung ,y: cho rằng, đầu là chỗ hội tụ của chư dương, là nơi thông đến của bách mạch. Xoa bóp vùng đầu, khiến chư dương đi lên, bách mạch điều hòa, khí huyết mất suy; trường kỳ xoa bóp vùng đầu, có thể làm cho con người đến già sắc diện vẫn hồng hào không phát sinh nếp nhăn. Phương pháp cụ thể là: Hai lòng bàn tay đè trên trán, hơi dùng sức hướng xuống chà xát tới cằm, rồi ngược hướng về phía sau đầu và sau hai tai, chà xát nhè nhẹ qua đỉnh đầu, rồi trở về xuống trán. Như vậy gọi là xoa bóp một lần, làm như vậy vài chục lần.
Phương pháp xoa bóp nói trên đơn giản và dễ thực hành, nếu có thể duy trì xoa bóp như thế lâu dài, không những có thể phòng ngừa da dẻ xuất hiện nếp nhăn, mà còn có thể phòng ngừa da dẻ xuất hiện nếp nhăn, mà còn có thể khiến da dẻ bị lão hóa hồi phục sức sống thanh xuân.
Phương pháp xoa bóp chính xác là từ chính giữa bộ mặt hướng về hai bên trắc diện ma sát. Nếu muốn xúc tiến sự tuần hoàn máu của da dẻ, thì vỗ nhè nhẹ trên mặt, tác dụng phụ của nó ít hơn nhiều so với xoa bóp. vỗ nhẹ cơ bắp vùng mặt, phương pháp đơn giản lại dễ thực hành, đồng thời có thể kích thích huyệt đạo vùng mặt, làm cho da dẻ lão hóa hồi phục sức sống thanh xuân.
Thuật làm đẹp trừ nếp nhăn của Tử Hy Thái Hậu
Theo ghi chép của sách “Ngự hương phiêu diêu lục”. Từ Hy Thái Hậu, người trường kỳ nắm giữ chính quyền vào cuối đời Thanh, có trọn bộ phương pháp làm đẹp. Có liên quan đến thuật trừ nếp nhăn, trong đó có vài phương pháp như sau:
“Uống sữa người”, dinh dưỡng của sữa người rất phong phú, nên những trẻ sơ sinh được nuôi bằng sữa mẹ vừa bụ bẫm lại trắng trẻo, bởi thế mỗi ngày Từ Hy đều uống hơn nửa chén sữa người.
“Ngọc côn xát mặt”, mỗi ngày trước khi trang điểm, Từ Hy đều lấy cây Ngọc côn (cây côn bằng ngọc) lăn trên da mặt từ trên xuống dưới không ngừng. Ngọc côn nhẵn bóng, mát lạnh, trên côn không bôi dược vật. Trên thực tế, làm như vậy là để tiến hành xoa bóp trên da và kích thích huyệt đạo vùng mặt.
“Dùng lòng trắng trứng gà thoa mặt”, mỗi tối đến, Từ Hy lại dùng lòng trắng trứng thoa lên mặt chỗ bị nếp nhăn, cho đến nửa giờ đồng hồ trước khi ngủ, dùng xà phòng thơm và nước sạch rửa sạch mặt, tiếp theo thoa nước Nại đông hoa lên, sau dùng khăn lông vỗ nhẹ cho khô. Lòng trắng trứng gà làm căng da, nước Nại đông hoa có tác dụng thu liễm đối với da.
Những phương thuốc chữa nếp nhăn trên mặt
PHÒNG KỶ HOÀNG KỲ THANG
(“Kim quỹ yếu lược”)
Hiệu quả:
Có thể phòng ngừa sản sinh nếp nhăn li ti trên vùng mặt và tiêu trừ khối thịt thừa.
Thành phần dược liệu:
Phòng kỷ 12 gam, Hoàng kỳ 15 gam,
Bạch truật 9 gam, Cam thảo 6 gam.
Cách thực hiện:
Cho tất cả bốn vị thuốc trên vào nồi, ngoài ra lại cho thêm vào bốn lát gừng tươi, một quả táo đỏ và lượng nước vừa phải sắc nấu lấy nước thuốc.
Cách dùng:
Uống nước thuốc trước bữa cơm. uống ba lần một ngày.
Giải thích:
Phương thuốc này dùng phòng ngừa nếp nhăn li ti, thích hợp những người da dẻ xanh xao, cơ thể béo bệu, cơ bắp nhão, dễ mệt mỏi, thường tự ra mồ hôi, sợ gió, có hiện tượng phù thũng, chất lưỡi nhạt, thể lưỡi mập lớn, rêu lưỡi trắng. Hoàng kỳ, Bạch truật, Cam thảo đều có tác dụng bổ khí. Trong đó Hoàng kỳ ích khí cố biểu cầm mồ hôi và lợi tiểu trừ thấp. Bạch truật kiện tỳ lợi tiểu. Phòng kỷ khu phong trừ thấp lợi tiểu. Ba vị dược vật trên hợp dùng, có tác dụng bổ khí lợi tiểu, khu phong trừ thấp. Cam thảo, Gừng tươi, Táo đỏ có tác dụng bổ ích tỳ khí và bộ vị. Tất cả vị thuốc trên hợp lại có tác dụng bổ ích vệ khí, ích khí khu phong, kiện tỳ lợi tiểu. Thường xuyên dùng phương thuốc này có thể cải thiện sự cung dưỡng máu của da dẻ, làm giảm bớt phần nước thừa dưới da, tiêu trừ nhão cơ bắp, nên có thể phòng ngừa được nếp nhăn li ti và đạt được hiệu quả giảm cân.
Chích hoàng kỳ
NƯỚC TƯƠNG GIÒ HEO
(“Thiên kim yếu phương”)
Hiệu quả:
Làm cho da mặt tươi sáng, ẩm mát, loại trừ nếp nhăn lâu ngày, làm cho con người trẻ lại.
Thành phần được liệu:
Một giò heo lớn.
Cách thực hiện:
Giò heo làm sạch, cho vào nồi, thêm 1.200 ml nước, 600 gam Thanh tương thủy, dùng lửa nhỏ cho đến da heo nhừ và xương giò mềm nát, như dạng keo, rồi lọc bỏ chất tạp, lấy nước tương như keo.
Cách dùng:
Dùng nước giò heo rửa mặt và tay, hoặc dùng thuốc này hòa với Táo đậu, dùng thoa mặt mỗi đêm, sáng hôm sau dùng nước ấm rửa sạch đi.
Giải thích:
Phương này là một diệu phương dùng tư nhuận da dẻ, hoãn trì lão hóa. Đồng thời vật liệu đơn giản, chế tác dễ dàng, hiệu quả lại khiến người ta vừa ý. Chỉ cần kiên trì sử dụng một thời gian, thì có thể làm cho nếp nhăn thư giãn ra, giảm ít đi, bộ mặt tỏ ra tươi sáng mềm mại, trẻ ra. Giò heo dùng làm thuốc trong cổ phương thường chọn giò heo nái. Giò heo vị ngọt mặn, tính hơi hàn, điều thận tinh mà kiện lưng cước, tư vị dịch, trơn nhuận da dẻ. Từ đó được biết giò heo có tác dụng tư dưỡng bổ hư rất tốt và chứa dồi dào chất Prôtein, chất béo, không những tư nhuận da dẻ, còn có thể bổ sung vật chất dinh dưỡng cần thiết cho da. Từ góc độ y học mà nói và theo báo cáo của các chuyên gia, thì phụ nữ sau khi hơn 25, 26 tuổi, sự thành trưởng của da dẻ sẽ ngưng lại. Tùy theo sự tăng trưởng của tuổi tác, sự mất đi phần nước và chất nhờn của làn da cũng sẽ tăng nhiều hơn, từ đó nếp nhăn rải rác trên mặt. Sau khi dùng phương thuốc này không những phòng ngừa sự mất đi của phần nước và chất nhờn. Đồng thời có thể bổ sung thêm cho da, nên có thể làm giảm bot đi hoặc tiêu trừ nếp nhăn. Nhất là đối với giảm bớt nếp nhăn lâu ngày của người lớn tuổi, rất có bổ ích. Thanh tương thủy là dùng gạo kê gia công chế thành. Dương Thanh tương thủy nấu giò heo, để tăng cường công hiệu tư dưỡng làm đẹp của giò heo.
LẬT PHU TÁN
(“Tân tu bản thảo”)
Hiệu quả:
Làm cho da thịt bị co dúm gấp có thể thư giãn lại, nhẵn sáng và xóa nếp nhăn trên da mặt người tuổi già.
Thành phần dược liệu:
Màng mỏng trên Lật tử (hạt dẻ).
Cách thực hiện:
Giã thành bột mịn.
Dùng mật ong hòa với thuốc thoa trên mặt.
Giải thích:
Lật thông thường được gọi là hạt dẻ. Lật phu tức là màng mỏng trên ruột hạt dẻ. Trong cuộc sống hằng ngày, tác dụng của nó không được con người coi trọng, tiệm thuốc cũng không có sẵn. Nhưng thực tế lại là lương dược làm đẹp hiếm có, màng mỏng Lật tử tính vị ngọt, bình, chát, có tác dụng làm nhẵn bóng da dẻ, thư giãn nếp nhăn, có ý nghĩa tích cực đối với hoãn trì suy lão, duy trì thanh xuân. Ngoài ra, theo cuống “Thánh tễ tổng lục” ghi lại: màng mỏng Lật tử khi nướng thành than, tính vẫn bảo tồn, sau đó tán thành bột mịn, dùng bột thổi vào yết hầu chữa được chứng mắc xương cá trong cổ họng. Trong phương thuốc này, cho thêm mật ong vào vừa làm chất dính pha chế thuốc, lại vừa có thể tư dưỡng da, làm tăng công hiệu làm đẹp của Lật phu. Sau khi sử dụng phương này, chẳng bao lâu sẽ khiến làn da trở nên nhẵn mịn, tươi sáng, đồng thời làm giảm bớt hoặc loại trừ nếp nhăn li ti trên mặt.
PHƯƠNG THUỐC RỬA MẶT CỦA HOÀNG HẬU
(“Ngực dược viên phương”)
Hiệu quả:
Trừ nếp nhăn, chữa da mặt đen xạm, làm da mặt tươi sáng, mềm mại.
Thành phần dược liệu:
Xuyên khung, Phụ tử, cảo bản, Hoắc hương, Tế tân, Đông qua tử (hạt bí đao), Trầm hương mỗi thứ 40 gam, Bạch đàn 75 gam, Chữ đào nhi 300 gam, Bạch truật 18 gam, Quả mướp 4 trái,. Cam thảo 75 gam, Lật tử tươi (hạt dẻ tươi) chỉ lấy phần màng mỏng trên ruột hạt dẻ 18 gam, Đỗ Phục linh 75 gam, Quảng Phục linh 37 gam, Bạch cập 75 gam, Bạch liễm 60 gam, rễ Thổ qua 40 gam, A giao 40 gam, Ngô Bạch chỉ 75 gam, Bạch Phục linh 75 gam, Não tử 9 gam, bột Tạo giác 40 gam, bột Gạo nếp 900 gam.
Cách thực hiện:
Trừ bột Tạo giác, bột gạo nếp ra, tất cả các dược vật còn lại đem nghiền tán thành bột mịn hỗn hợp, rồi cho thêm bột Tạo giác, bột Gạo nếp vào trộn đều lại, cho vào hủ để dùng.
Cách dùng:
Dùng bột thuốc pha với nước để rửa mặt, hai lần trong ngày, buổi sáng và ban đêm.
Giải thích:
Phương thuốc này là dựa trên cơ sở của phương thuốc rửa mặt Ngự tiền đem Hoàng Minh giao đổi thành Lư bì A giao, bỏ vị thuốc Cam tùng mà gia thêm Cam thảo, Hoắc hương, Đông qua tử, Quả mướp, Quảng Phục linh, Đỗ Phục linh, rễ Thổ qua, Não tử, màng mỏng hạt dẻ tươi, Bạch phụ tử mà thành. Lư bì A giao có tác dụng tư bổ âm huyết, rất thích hợp cho phụ nữ sử dụng. Hoàng Minh giao có tác dụng tương tự như A giao, nhưng chủ yếu dùng làm cầm máu, thường được dùng làm thế phẩm của A giao. Cho nên tác dụng của A giao tốt hơn Hoàng Minh giao. Quảng Phục linh, Đỗ Phục linh là hai loại Linh lăng hương với sản địa khác nhau, đều được sử dụng như Linh lăng hương. Linh lăng hương có mùi thơm tho có thể làm thơm tho cơ thể (theo “Bản thảo cương mục”), Não tử (tức là Băng phiến) và Hoắc hương đều có mùi vị thơm hương. Ba vị thuốc vừa kể trên đều được dùng làm hương liệu. Màng mỏng hạt dẻ tươi (tức lớp màng mỏng bao bọc trên ruột hạt dẻ) có tác dụng làm giảm bớt nếp nhăn trên da. Đông qua tử (hạt bí đao) cổ tác dụng khu phong da dẻ và vết nám xạm, nhuận da, là vị thuốc làm đẹp thời xưa thường hay dùng. Bạch Phụ tử chữa bá bệnh trên mặt, hành dược thế (theo “Danh y biệt lục”) Rễ Thổ qua hoạt huyết hành ứ, làm trắng da mặt nhuận da dẻ. Cam thảo thông kinh mạch, lợi khí huyết (Theo “Danh y biệt lục).
Tất cả vị thuốc hợp dùng có thể loại trừ chất bụi bẩn trên mặt, dinh dưỡng da thịt, thư giãn nếp nhăn trên mặt, phòng ngừa các bệnh ngoài da. Trường ký sử dụng phương thuốc này, có thể duy trì được thanh xuân mãi. Bởi vì đây là bí phương cung đình của Vương Giả đời Nguyên dùng rửa mặt, nên có tên gọi là thuốc rửa mật của Hoàng Hậu.
THẤT BẠCH CAO
(“Ngự dược viên phương”)
Hiệu quả:
Làm cho da mặt tươi mát, mềm mại không nếp nhăn, loại được các vết nám và tàn
Đem tất cả bảy vị thuốc trên nghiền tán thành bột mịn, hỗn hợp lại, rồi cho lòng trắng trứng gà vào trộn đều, tiếp đó vo thành những viên thuốc cỡ dạng bi nhỏ hoặc bằng đầu bằng ngón tay Út, để nơi mát cho khô là thành.
Cách dùng:
Mỗi đêm dùng nước ấm rửa sạch mặt trước, rồi cho những Viên thuốc vào đồ đựng bằng sứ, dung Tương thủy ấm mài tan ra nước, lấy nước thoa lên vùng mặt.
Giải thích:
Phương thuốc này là phương bí truyền làm đẹp của cung đình đời Nguyên. Hương Bạch chỉ còn tên gọi là “Phương hương” (theo “Thần Nông bản thảo phương”) và “Trạch phương” (theo “Danh y biệt lục”), vì có mùi vị đắng hương, nên còn gọi là Hương Bạch chỉ, trị phong tà, ôn thông đi lên, giỏi chữa các bệnh trên đầu mặt và phong tê táo ngứa da dẻ trên đầu mặt, lại còn làm ẩm da và nhuận da và chữa được vết nám da, tàn nhang; nên thời xưa thường dùng làm thuốc Diện Chi. Bạch liễm là một vị dược vật hiệu quả về chữa trị các bệnh ngoài da vùng mặt và có hiệu quả chữa trị tốt về chứng mụn trứng cá, bệnh mũi đỏ. Bạch Phụ tử cũng là một vị thuốc tốt để làm Diện chi, nó không những có thể chữa bá bệnh trên mặt (theo “Danh y biệt lục”) và còn trừ vết nám da và tàn nhang , gồm tác dụng khu phong thấp hóa đờm, nên chữa được vết nám nâu đen trên mặt. Bạch truật, Bạch Phục linh, Bạch cập đều có tác dụng khử trừ vết hoặc đốm chấm nâu đen trên mặt. Ngoài ra, Bạch cập còn chứa chất dầu phát huy, có thể làm ẩm mát, nhẵn mịn da dẻ. Tế tân khu phong tán hàn. Tất cả dược vật hợp lại dùng có tác dụng làm tươi mát, mềm mại làn da, khu phong trừ vết nám da. Lòng trắng trứng có thể làm sạch da, trừ nếp nhăn. Tương thủy có thể tự bổ da, khiến da dẻ trắng sạch; nên dùng lòng trắng trứng’điều thuốc và dùng Tương thủy mài thuốc có thể tăng cường nhiều về tác dụng làm đẹp của phương thuốc này. Sau khi dùng phương thuốc này, có thể khiến vẻ mặt con người tươi mát, mềm mại nhẵn sạch và giảm bớt hoặc phòng ngừa nếp nhăn xuất hiện ở vùng mặt.
Vị thuốc phục linh
CHỬ THỰC TÁN
(“Ngự dược viện phương”)
Hiệu quả:
Loại trừ nếp nhăn, làm tươi đẹp làn da.
Thành phần được liệu:
Chữ đào nhi, rễ Thổ qua, Thương lục, mỗi thứ lượng bằng nhau.
Cách thực hiện:
Đem tất cả dược vật trên tán thành bột mịn hỗn hợp.
Cách dùng:
Mỗi buổi sáng sớm dùng một ít thuốc tán chà rửa chỗ bị nếp nhăn, rồi sau đó bôi lên Đào nhân cao.
Giải thích:
Chử đào nhi trong phương tức là Chử thực tử, thuộc loại dược vật bổ huyết, bổ ích can thận. Trên cuốn “Danh y biệt lục” nói rằng Chử đào nhi có thể bổ khí, chắc cơ bắp, minh mục. Ngoài ra, nó còn chứa chất dầu, nên tư nhuận da dẻ. Rễ Thổ qua có thể chữa sắc diện đen. xạm, mụn nhọt trên mặt (theo “Bản thảo cương mục”) và còn có thể tán ung thũng (theo “Danh y biệt lục”). Thương lục giỏi về tả hạ hành thủy và tiêu sưng độc, còn có thể chữa nhọt độc (theo “Đại Minh bản thảo”). Ba vị thuốc hợp dùng có tác dụng tư dưỡng da, chữa chứng sắc mặt đen xạm và tiêu trừ ung nhọt. Sau khi dùng bột thuốc này chà rửa, có thể làm cho hắc khí vùng mặt giảm (tức là da mặt bị đen xạm) và loại trừ mụn nhọt trên mặt, khiến da mặt tươi sáng, nhẵn mịn đẹp đẽ và làm giảm bớt hoặc loại trừ nếp nhăn trên mặt.
Kèm theo: .
PHƯƠNG ĐÀO NHÂN CAO
Thành phần dược liệu:
Đào nhân.
Cách thực hiện:
Đào nhân ngâm trong nước uống cho nở mềm, bỏ vỏ, rồi tán nhuyễn ra thành dạng cao.
Cách dùng:
Lấy Đào nhân cap và một ít mật ong cùng pha với một ít nước sôi ấm, rồi dùng bôi lên nơi bị nếp nhăn.
Giải thích:
Đào nhân là hạt giống của Sơn đào hoặc Mộc đào cây rụng lá thuộc họ Tường vi, có tác dụng hoạt huyết khử ứ, nên có thể xúc tiến sự tuần, hoàn máu của vùng mặt, lại chứa chất dầu, có thể nhuận dưỡng làn da. Ngoài ra, trong dân gian còn dùng Đào nhân và Mỏ heo để chữa môi khô nứt đau.
NGỌC DUNG CAO
(“Ngự dược viên phương)
Hiệu quả:
Chủ trị chứng mụn nhọt, nấm ngoài da, môi khô nứt, nếp nhăn trên mặt, gió buốt da mặt đau.
Thành phần dược liệu:
Hoàng kỳ, Đương qui, Bạch chỉ, Xuyên khung, lá Hoắc hương, Linh lăng hương, Bạch đàn, Bạch Phụ tử, Bạch cập, Bạch liêm, mỗi loại 40 gam. Qua lâu 1 quả, Hạnh nhân 40 gam, Long não 9 gam, Thanh dầu 2.000 gam.
Cách thực hiện:
Hoàng kỳ bỏ vỏ, dùng cái dũa dũa cho nhỏ. Đương qui bỏ phần đầu cũng dùng cái dũa dũa cho nhỏ. Xuyên khung, Bạch chỉ, Bạch đàn, Bạch phụ tử, Bạch cập, Bạch liễm đều dũa nhỏ ra. Hạnh nhân bỏ tán nghiền thành dạng cao. Tiếp đó, ngoài Long não ra, 12 vị thuốc còn lại dùng Thanh dầu (tức dầu vừng) ngâm 3 ngày, sau đó cho vào đồ đựng bằng bạc, dùng lửa nhỏ nấu cô đến thành màu vàng khét, rồi vớt bỏ bã thuốc, dùng vải sạch mới lọc qua, đợi dầu bớt nóng nhưng còn ấm, cho sáp ong đã hòa tan vào quấy đều, rồi lại dùng miếng vải mới sạch lọc qua, tiếp sau cho Long não vào và dùng cái lược bằng cây liễu quấy động không ngừng, cho đến nguội hận, cho vào bình hoặc lọ đậy kín lại. Nhưng cần chú ý là khi cho thêm sáp ong thì lượng dùng nên tùy theo mùa mà định, khi vào mùa đông cứ 90 gam dầu thì cho vào 30 gam sáp ong. Vào mùa hạ cứ 150 gam dầu thì cho vào 60 gam sáp ong. Mà sáp ong cho thêm vào thì cần phải nấu cô ở tháng chạp.
Cách dùng:
Lúc dùng, lấy chút ít thuốc cao bôi lên chỗ bị bệnh, rồi xoa bóp nhè nhẹ cho làn da nóng lên là được, nếu vùng tai, vùng mũi có mụn nhọt, thì dùng bông gòn chấm một ít thuốc bôi lên là được.
Giải thích:
Phương thuốc này là Viện Thái y đời Nguyên chuyên dùng chữa mụn nhọt, gãy thương rất hiệu nghiệm. Hoàng kỳ trong phương này vị ngọt, tính hơi ấm, không độc, bổ dưỡng khí huyết, thác độc sinh cơ, chữa nhọt độc lâu ngày, loại mủ giảm đạu (theo “Thần Nông bản thảo kinh”) và còn trợ khí mạnh gân cốt, sinh cơ bắp bổ huyết (theo “Nhật Hoa Chư Gia bản thảo”). Đương qui là thuốc bổ huyết thường dùng trên lâm sàng, có công năng dưỡng huyết hoạt huyết giảm đau, tức phá ứ huyết, dưỡng tân huyết (theo “Đại Minh bản thảo”) và còn nhuận trường vị gân cốt da dẻ (“Bản thảo cương mục”), đồng thời còn chữa được tất cả các chứng phong và huyết (“Đại Minh bản thảo”) là thuốc chủ yếu chữa trị nhiều bệnh ngoài da. Hoàng kỳ phối hợp với Đương qui có thể ích khí sinh huyết. Xuyên khung hoạt huyết hóa ứ. Hoắc hương, Linh lăng hương, Đàn hương, Long não mùi vị thơm tho, có thể tăng hương. Bạch Phụ tử, Bạch cập, Bạch liêm, Hạnh nhân có thể làm sạch da, nhuận da, chữa mụn trứng cá. Toàn Qua lâu vừa thanh phế nhiệt, lại vừa đem lại tươi mát, mềm mại cho làn da mặt (theo “Danh y biệt lục”) và loại nếp nhăn trên da tay, mặt (theo “Đại Minh bản thảo”). Toàn phương hợp dùng, gồm công hiệu ích khí dưỡng huyết, thanh nhiệt tiêu . sưng, hoạt huyết giảm đau, nhuận da trừ nếp nhăn. Loại được nhiệt độc thì mụn nhọt tiêu, thanh phế nhiệt thì hết gió buốt, da dẻ nhuận thì môi không nứt, nếp nhăn mặt tiêu mất. Sau khi sử dụng phương thuốc này sẽ làm cho dung mạo đẹp đẽ thêm nhiều.
ÔN THANH ẨM
(“Thẩm thị tôn sinh thư phương”)
Hiệu quả:
Có thể phòng ngừa nếp nhăn li ti, chữa chứng sắc mặt xanh xao không tươi sáng hoặc sắc mặt vàng úa. Làm cho da dẻ có tính đàn hồi và tươi mịn.
Thành phần dược liệu:
Sinh Thục địa hoàng, Bạch thược, Đương qui, Xuyên khung, Hoàng cầm, Hoàng liên, Chi tử mỗi loại 12 gam.
Cách thực hiện:
Cho tất cả dược vật trên vào nồi, thêm lượng nước vừa phải vào sắc nấu.
Cách dùng:
Uống nước thuốc, ba lần một ngày.
Giải thích:
Phương thuốc này có thể phòng ngừa những nếp nhăn li ti. Thích hợp cho trường hợp da dẻ khô táo, không tươi sáng, sắc mặt xanh xao hoặc vàng úa không tươi sáng, thường xuyên có hiện tượng chóng mặt hoa mắt, dễ bị xuất huyết, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi vàng hoặc dày vàng. Ôn thanh ẩm tức là biệt danh của Giải độc Tứ vật thang. Phương thuốc này do các dược vật bổ máu và thanh nhiệt táo thấp hợp thành. Trong phương, Địa hoàng, Bạch thược, Đương qui, Xuyên khung tức là Tứ vật thang, có tác dụng bổ huyết điều huyết. Trong đó Địa hoàng có chia làm Sinh, Thục hai loại, cả hai đều bổ huyết, nhưng Sinh địa thiên về tính mát, có thể thanh nhiệt dưỡng âm lương huyết. Hoàng cầm, Hoàng liên, Chi tử gồm có tác dụng tả hỏa giải độc, thanh nhiệt táo thấp. Toàn phương hợp lại dùng có công hiệu dưỡng huyết hoạt huyết, tả hỏa giải độc. Trung y cho rằng ngoại cảm độc tà (bao gồm nhiệt độc của ánh nắng mặt trời), xâm tập da dẻ và khí huyết suy yếu, da dẻ mất dinh dưỡng đều dễ làm cho da dẻ khô héo, xuất hiện nếp nhăn. Phương thuốc này dưỡng huyết hoạt huyết, tư nhuận da dẻ, còn có thể thanh nhiệt tả hỏa giải độc, nên phòng ngừa được sự phát sinh của nếp nhăn. Sau khi dùng phương thuốc này có thể làm cho da dẻ trở nên tươi mịn và tính đàn hồi nhiều, khiến cho nếp nhăn li ti trên mặt dần dần tiêu trừ, nhưng những người trường vị yếu nên chú ý lúc sử dụng.
DIỆT BAN HẰN PHƯƠNG
( Thiên kim yếu phương”)
Hiệu quả:
Xóa vết sẹo.
Thành phần dược liệu:
Vũ dư lương, Bán hạ, mỗi thứ lượng bằng nhau.
Cách thực hiện:
Đem hai loại dược vật trên nghiền mài thành bột cực mịn, hỗn hợp lại, sau đd cho vào lòng đỏ trứng gà trộn, quấy đều là thành.
Cách dùng:
Trước tiên dùng mảnh vải sạch, mới, lau chà trên vết sẹo, làm cho cục bộ nổi sắc hồng, sau đó dùng thuốc bôi lên, nên tránh gió, bôi hai lần một ngày.
Giải thích:
Ban hằn là chỉ da dẻ bị tổn thương, sau khi kín miệng tổ chức tăng sinh, làm da thịt bồi cao lên màu hồng nhạt hoặc đỏ sậm, chất cứng, ấn không thấy đau, hoặc có đau ngứa tự giác; về hình dạng, lớn bé không nhất định, nhưng rất có trở ngại về mỹ quan. Phương này đối với Ban hằn (tức vết sẹo) có hiệu quả trị nếu khá tốt. Vũ dư lương là một loại quặng đá dạng bột thiên nhiên của quặng sắt có màu nâu, có thể xóa đi vết sẹo. Chữa trị vết sẹo trên mặt, trên cơ thể (theo “Bản thảo cương mục”). Bán hạ phải dùng Bán hạ tươi, có công hiệu làm đẹp, hóa đờm tán kết tiêu ứ, giỏi tiêu vết sẹo. Lòng đỏ trứng gà dùng làm chất dính để pha chế thuốc và có thể xóa vết sẹo (theo “Bản thảo cương mục”). Ba loại dược vật hợp dùng, có thể xóa đi vết sẹo cũ, mà không tổn thương kích thích da dẻ. Phương thuốc này cần dùng khoảng trước sau một tháng mới có hiệu quả; vết sẹo lâu ngày, thì thời gian chữa trị càng lâu dài hơn.
Nhiễm HIV-1 cấp biểu hiện ở 40 – 90 % các trường hợp như là một bệnh lý có triệu chứng thoáng qua, với sự nhân bản của HIV-1 ở mức độ cao và đáp ứng miễn dịch đặc hiệu với virus có xu hướng mở rộng. Với 14.000 trường hợp mới mỗi ngày trên thế giới, nhiễm HIV cấp là một chẩn đoán phân biệt quan trọng ở những trường hợp sốt không rõ nguồn gốc, có ban dát sẩn và hạch to.
Chẩn đoán nhiễm virus cấp thường bị bỏ sót ở phần lớn các trường hợp, vì bệnh lý do các virus khác (“cúm”) thường được thừa nhận là nguyên nhân của các triệu chứng, và không có kháng thể đặc hiệu HIV-1 phát hiện được tại giai đoạn nhiễm virus sớm này. Do đó, muốn chẩn đoán cần luôn phải nghĩ đến nó khi có nghi ngờ trên lâm sàng, dựa trên những triệu chứng lâm sàng và bệnh sử phơi nhiễm, kết hợp thêm những xét nghiệm đặc hiệu (phát hiện HIV-1 RNA hoặc kháng nguyên p24 và kháng thể HIV-1 âm tính) để chứng thực chẩn đoán. Chẩn đoán sớm chính xác nhiễm HIV-1 cấp là quan trọng, vì có thể ngăn chặn được nhiễm virus cho bạn tình và bệnh nhân có thể được lợi từ việc điều trị tại giai đoạn sớm này của nhiễm virus (xem dưới).
Nhữngsự kiện virus học và miễn dịch học xảy ra trong thời gian nhiễm HIV-1 cấp
Trong thời gian nhiễm HIV-1 cấp, virus nhân bản mạnh trong khi không có bất cứ đáp ứng miễn dịch thích hợp nào được phát hiện, và lượng virus đạt mức trên 100 triệu bản sao HIV-1 RNA/ml. Chính trong chu trình ban đầu này của sự nhân bản virus, những quá trình bệnh lý quan trọng xảy ra. Những quá trình này bao gồm sự phát tán của virus tới một phạm vi rộng nhiều mô và sự phá hủy của tế bào lympho T CD4, đặc biệt trong những mô lympho của ruột. Mức rất cao của virus trong máu thông thường diễn ra trong thời gian ngắn, chứng tỏ vật chủ có thể sinh ra đáp ứng miễn dịch kiểm soát sự tái tạo virus. Sang những tuần sau đó, virus máu giảm xuống vài bậc (log) trước khi đạt được giá trị nền (viral setpoint). Giá trị này, sau khi nhiễm virus cấp thoái lui, là một chỉ số dự báo tốc độ tiến triển dài kỳ của bệnh (Mellors 1995).
Vài yếu tố có thể ảnh hưởng đến sự tái tạo của virus trong thời gian nhiễm cấp và thiết lập giá trị nền của virus. Các yếu tố này bao gồm sự sung sức của virus nhiễm (viral fitness), những yếu tố di truyền của vật chủ và đáp ứng miễn dịch của vật chủ. Trong khi những kháng thể kháng HIV-1 có khả năng trung hòa là hiếm khi có thể phát hiện được trong thời gian nhiễm trùng HIV-1 tiên phát, một số nghiên cứu đã chứng minh vai trò cốt yếu của đáp ứng miễn dịch tế bào đặc hiệu HIV-1 đối với việc kiểm soát từ ban đầu sự tái tạo virus trong giai đoạn này. Sự mở rộng ồ ạt của một số ít các dòng tế bào T CD8 đã được mô tả trong thời gian nhiễm HIV-1 cấp (Pantaleo 1994), và sự xuất hiện của những tế bào T CD8 đặc hiệu HIV-1 có liên quan tạm thời tới hiện tượng giảm ban đầu của virus trong máu (Koup 1994, Borrow 1994). Những tế bào T CD8 này có khả năng loại bỏ những tế bào nhiễm HIV-1 trực tiếp bởi ly giải tế bào theo lớp MHC I hoặc gián tiếp qua việc tạo ra các cytokin, chemokin hoặc các yếu tố hòa tan khác, vì vậy giảm bớt sự sinh ra các dòng virus mới (Yang 1997). Chứng cứ nữa về khả năng kháng virus của CTLs đặc hiệu HIV-1 trong thời gian nhiễm HIV-1 tiên phát đã được đưa ra khi có sự lựa chọn nhanh chóng loài virus mang đột biến quyết định kháng nguyên CTL đã được phát hiện trong một vài tuần sau nhiễm trùng HIV-1 (ở người) và SIV (ở rhesus macaques) (Allen 2000, Price 1997).
Trong thời gian nhiễm HIV-1 cấp, số tế bào T CD4 sụt giảm, đôi khi tới mức cho phép sự phát triển những nhiễm trùng cơ hội tại thời gian đó (Gupta 1993, Vento 1993). Mặc dù số lượng tế bào T CD4 tăng trở lại với sự thoái lui của nhiễm virus tiên phát, nó hiếm khi trở lại tới mức bình thường ban đầu nếu không có điều trị kháng virus. Cộng thêm vào sự sụt giảm số lượng tế bào T CD4, sự suy yếu về chất lượng của tế bào T CD4 có lẽ là những bất thường đặc trưng nhất được phát hiện trong nhiễm HIV-1. Sự suy yếu chức năng tế bào T CD4 đặc hiệu HIV-1 xảy ra rất sớm trong nhiễm virus cấp (Rosenberg 1997, Lichterfeld 2004), có khả năng do virus ưu tiên nhiễm vào các tế bào T CD4 đặc hiệu cho virus (Douek 2002). Tiếp theo là sự suy giảm chức năng của tế bào T CD4 đáp ứng với những kháng nguyên nhắc lại, cũng như giảm đáp ứng với những kháng nguyên mới (Lange 2003). Sự suy giảm chức năng tế bào T hỗ trợ CD4 đặc hiệu HIV-1 trong nhiễm virus cấp sau đó có thể dẫn đến sự suy giảm chức năng của tế bào T CD8 đặc hiệu HIV-1 (Lichterfeld 2004).
Ngoài đáp ứng miễn dịch của vật chủ, những yếu tố di truyền vật chủ cũng đóng một vai trò quan trọng trong cả sự nhạy cảm và đề kháng với nhiễm HIV-1 và tốc độ tiến triển của bệnh sau nhiễm virus. Quan trọng nhất trong những yếu tố này là hiện tượng mất đồng thụ thể chủ yếu cho sự xâm nhập của HIV-1 vào trong tế bào T CD4, một thụ thể chemokine được gọi là CCR5 (Samson 1996). Mất đoạn 32 cặp base đồng hợp tử (CCR5delta32) không làm biểu lộ thụ thể tại bề mặt tế bào và chỉ có thể bị nhiễm những chủng HIV sử dụng những thụ thể khác, như là CXCR4 (Samson 1996, Biti 1997). Trạng thái dị hợp tử của mất đoạn này làm giảm đáng kể giá trị nền của virus và làm chậm tiến triển tới AIDS. Cộng với những đột biến trong gen thụ thể chemokine, một số gen HLA lớp I đã được mô tả là có liên quan đến cả hai (giá trị nền của vi rus thấp hơn và tiến triển bệnh chậm hơn) bao gồm HLA-B27 và –B57 (O.Brien 2001, Kaslow 1996). Những nghiên cứu gần đây chứng minh rằng những cá thể mang HLA-B57 ít biểu hiện nhiễm HIV-1 cấp có triệu chứng, tạo được đáp ứng tế bào T mạnh và kiểm soát virus tốt hơn sau nhiễm virus cấp tính (Altfeld 2003, Altfeld 2006).
Những dữ liệu này chứng minh rằng những yếu tố di truyền vật chủ có thể ảnh hưởng đến những hình thái lâm sàng của nhiễm trùng HIV-1 cấp và có tác động quan trọng đến giá trị nền của virus sau đó và tốc độ tiến triển bệnh.
Dấuhiệu và triệu chứng
Sau giai đoạn ủ bệnh vài ngày đến vài tuần sau khi phơi nhiễm với HIV, hầu hết các cá thể bị nhiễm biểu hiện với chứng bệnh cấp tính giống cúm. Nhiễm HIV-1 cấp là một hội chứng rất không đồng nhất và các cá nhân biểu hiện triệu chứng nặng hơn trong giai đoạn nhiễm virus cấp và khoảng thời gian của hội chứng nhiễm virus cấp dài hơn có xu hướng tiến triển nhanh hơn tới AIDS (Vanhems 1998, Pedersen 1989, Keet 1993). Những triệu chứng lâm sàng của nhiễm HIV-1 cấp được mô tả đầu tiên vào năm 1985 như là một chứng bệnh giống với chứng bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn (Cooper 1985). Những triệu chứng phổ biến nhất (xem bảng 1) là sốt, ban dát sẩn, loét miệng, bệnh lý hạch lympho (hạch to), đau khớp, viêm họng, mệt mỏi, sút cân, viêm màng não vô trùng và đau cơ (Kahn 1998). Trong một nghiên cứu (Hecht 2002), sốt (80%) và mệt mỏi (68%) có độ nhạy cao nhất cho chẩn đoán lâm sàng nhiễm HIV-1 cấp, ngược lại sút cân (86%) và loét miệng (85%) có độ đặc hiệu cao nhất.
Trong nghiên cứu này, những triệu chứng sốt và ban (đặc biệt khi kết hợp), tiếp theo bởi loét miệng và viêm họng có giá trị dự đoán dương tính cao nhất cho chẩn đoán nhiễm HIV-1 cấp. Trong một nghiên cứu khác (Daar 2001), sốt, ban, đau cơ, đau khớp và vã mồ hôi ban đêm là những yếu tố dự đoán tốt nhất cho nhiễm HIV-1 cấp.
Bảng1:Nhữngtriệuchứngchủ yếu của nhiễm HIV-1 cấp
Triệuchứng
Tầnsố
Tỷsuấtchênh (95% CI)
Sốt
80%
5,2 (2,3-11,7)
Ban
51%
4,8 (2,4-9,8)
Loét miệng
37%
3,1 (1,5-6,6)
Đau khớp
54%
2,6 (1.3-5.1)
Viêm họng
44%
2.6 (1.3-5.1)
Mất ngon miệng
54%
2.5 (1.2-4.8)
Sụt cân > 2,5 kg
32%
2.8 (1.3-6.0)
Mệt mỏi
68%
2.2 (1.1-4.5)
Đau cơ
49%
2.1 (1.1-4.2)
Sốt và ban
46%
8.3 (3.6-19.3)
Trích từ Hecht FM và cộng sự. Sử dụng các xét nghiệm và triệu chứng lâm sàng để chẩn đoán nhiễm HIV tiên phát. AIDS 2002, 16: 1119- 1129
Pha có triệu chứng của nhiễm HIV-1 cấp kéo dài 7-10 ngày, và hiếm khi dài hơn 14 ngày. Bản chất không đặc hiệu của những triệu chứng đặt ra thách thức lớn cho thầy thuốc và nhấn mạnh sự quan trọng của việc hỏi chi tiết bệnh sử phơi nhiễm.
Chẩnđoán
Chẩn đoán nhiễm HIV-1 cấp được dựa trên cơ sở tìm ra bằng chứng về sự nhân bản của HIV- 1 mà không có các kháng thể HIV-1, vì những kháng thể này vẫn không có mặt tại giai đoạn sớm này. Có nhiều xét nghiệm khác nhau để chẩn đoán nhiễm HIV-1 cấp. Những xét nghiệm nhạy nhất được dựa trên việc phát hiện RNA HIV-1 huyết tương.
Trong một nghiên cứu (Hecht 2002), tất cả những xét nghiệm đối với RNA HIV-1 đã được kiểm tra (DNA chuỗi nhánh, PCR và GenProbe) có độ nhạy 100%, nhưng đôi khi (trong 2- 5% các trường hợp) đưa đến những kết quả dương tính giả. Kết quả dương tính giả từ những xét nghiệm này thường là dưới 2.000 bản sao RNA HIV-1/ml huyết tương, và do vậy thấp hơn nhiều so với mức cao của tải lượng virus thông thường được thấy trong giai đoạn nhiễm HIV-1 cấp (trong những nghiên cứu của chúng tôi trung bình 13 x 106 bản sao RNA HIV- 1/ml với phạm vi 0,25 – 95,5 x 106 bản sao RNA HIV-1/ml). Việc làm lại xét nghiệm RNA HIV-1 từ cùng mẫu với cùng xét nghiệm đưa đến kết quả âm tính trong tất cả các trường hợp dương tính giả. Ngược lại, việc tìm ra kháng nguyên p24 có độ nhạy chỉ 79% với độ đặc hiệu 99,5-99,96%. Việc chẩn đoán nhiễm HIV-1 cấp sau đó phải được chứng thực với xét nghiệm kháng thể HIV-1 dương tính (chuyển đảo huyết thanh) trong những tuần sau đó.
Trong giai đoạn nhiễm HIV-1 cấp, thường xuyên có hiện tượng giảm rõ rệt số lượng tế bào T CD4, sau đó tuy có tăng trở lại, nhưng thường không đạt tới mức bình thường ban đầu.
Ngược lại, số lượng tế bào T CD8 tăng lên lúc ban đầu, có thể đưa đến kết quả là tỷ lệ CD4/CD8 < 1. Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn là chẩn đoán phân biệt quan trọng nhất. Viêm gan, cúm, bệnh do toxoplasma, giang mai và tác dụng phụ của thuốc có thể cũng được cân nhắc.
Hình 1:SơđồchẩnđoánnhiễmHIV-1cấp
Nói tóm lại, bước quan trọng nhất trong chẩn đoán nhiễm HIV-1 cấp là nghĩ tới nó trong chẩn đoán phân biệt. Nếu nghi ngờ nhiễm HIV-1 cấp trên lâm sàng, tiếp theo chỉ cần thực hiện xét nghiệm kháng thể HIV-1 và có thể làm xét nghiệm tải lượng virus HIV-1 nhiều lần, như trong sơ đồ ở Hình 1 (theo Hecht 2002).
Điều trị
Mục tiêu tiềm tàng của điều trị kháng virus trong giai đoạn nhiễm HIV-1 cấp là làm ngắn lại thời gian biểu hiện triệu chứng, làm giảm số tế bào bị nhiễm, bảo toàn đáp ứng miễn dịch đặc hiệu HIV-1 và có thể làm giảm giá trị nền của virus (viral setpoint) trong thời gian lâu dài.
Vài nghiên cứu trong những năm gần đây đã chỉ ra rằng điều trị nhiễm HIV-1 cấp cho phép ức chế virus lâu dài, dẫn tới duy trì và thậm chí làm tăng sự đáp ứng tế bào T giúp đỡ đặc hiệu HIV-1 và cho phép bảo tồn quần thể virus rất thuần nhất, tuy nhiên ý nghĩa lâm sàng của những phát hiện đó vẫn còn chưa rõ.
Những nghiên cứu thí điểm đầu tiên ở những bệnh nhân được điều trị trong giai đoạn nhiễm HIV-1 cấp và sau đó được chủ định gián đoạn điều trị chỉ ra rằng phần lớn những bệnh nhân này ít nhất cũng kiểm soát tạm thời được hiện tượng virus nhân bản (Rosenberg 2000, Vogel 2006). Tuy nhiên ở phần lớn các bệnh nhân trong những nghiên cứu này và một số nghiên cứu khác nữa, virus đều bùng phát nếu theo dõi dài hơn và điều này khiến phải khởi động điều trị lại (Markowitz 1999, Kaufmann 2004). Trong một nghiên cứu dọc mới được công bố gần đây tiến hành trên những người nhiễm HIV cấp tính được điều trị HAART trong 24 tuần từ khi nhiễm (n=12) hoặc không điều trị (n=8), người ta thấy tải lượng virus ở tuần 48 (tức là sau 24 tuần theo dõi từ khi ngừng điều trị ở nhóm được điều trị) không hề khác nhau giữa 2 nhóm, mặc dù cũng có những tiến bộ về miễn dịch ở nhóm điều trị HAART sớm trong đợt nhiễm cấp (Streeck 2006).
Ngược lại, một nghiên cứu hồi cứu lớn trên 337 bệnh nhân không điều trị HAART trong đợt nhiễm cấp và 58 bệnh nhân có điều trị HAART (13 trong đợt nhiễm cấp và 45 trong vòng 6 tháng từ khi nhiễm) đã thấy những lợi ích về CD4 và VL ở nhóm điều trị tại thời điểm 24 tuần sau khi ngừng điều trị và thậm chí tới 72 tuần (Hetch 2006).
Hai nghiên cứu này cho những kết luận khác nhau về lợi ích của điều trị HAART trong giai đoạn nhiễm HIV-1 cấp, tuy nhiên 2 nghiên cứu đều có những hạn chế lớn, chủ yếu là cả hai đều không chia ngẫu nhiên, cỡ mẫu nhỏ ở nghiên cứu tiến và sự biến động của thời gian điều trị và phác đồ điều trị ở nghiên cứu hồi cứu (Kinloch-de Loes 2006). Các nghiên cứu đó nhấn mạnh tầm quan trọng của một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng để xác định lợi ích của việc điều trị HAART sớm cho người nhiễm HIV-1 cấp. Câu hỏi này rất quan trọng, đặc biệt khi kết quả của nghiên cứu SMART cho thấy rằng khi đã bắt đầu điều trị HAART, không thể ngừng thuốc mà không gây ra các nguy cơ cho bệnh nhân (SMART Study Group 2006).
Do tất cả những câu hỏi không được trả lời này, những bệnh nhân nhiễm HIV-1 cấp nên được điều trị trong những thử nghiệm lâm sàng có đối chứng (Yeni 2002). Nếu điều này là không thể, nên cung cấp phác đồ chuẩn bậc 1 và thảo luận kỹ với bệnh nhân. Quan trọng trong khi tư vấn là trình bày ngắn gọn một cách rõ ràng cho bệnh nhân rằng hiện còn thiếu dữ liệu về lợi ích lâm sàng của sự bắt đầu điều trị kháng virus sớm và cần chú ý giải thích những nguy cơ của điều trị kháng virus và sự gián đoạn điều trị, bao gồm nhiễm độc thuốc, sự xuất hiện kháng thuốc, hội chứng virus cấp trong giai đoạn vi rus nhân bản trở lại và lây truyền HIV-1 và siêu nhiễm virus trong thời gian gián đoạn điều trị.
Xuyên khung là 1 loại cây thảo, sống lâu năm. Thân mọc thẳng, giữa ruột rỗng, mặt ngoài có đường gân dọc. Lá mọc so le, kép 2-3 lần, lá chét có 3-5 đôi, cuống dài, phiến lá rách sâu, khi dùng tay vò ra có mùi thơm, cuống lá dài 9-17cm, phía dưới ôm lấy thân. Hoa họp thành tán kép, cuống tán phụ ngắn chừng 1cm, hoa nhỏ, mầu trắng. Quả loại song bế, hình trứng.
Nguồn gốc:
Đây là thân, rễ xuyên khung khô thuộc loài thực vật họ hình ô dù. Sản xuất chủ yếu ở Tứ Xuyên, Quí Châu, Vân Nam, Thiểm Tây v.v…
Phân biệt tính chất, đặc điểm:
Xuyên khung có dạng miếng mỏng thái ngang hoặc miếng mỏng thái dọc không đồng đều. Bề mặt màu be vàng hoặc đen xám, nhăn chun sần sùi, có nhiều tật nhỏ. Mặt cắt màu trắng vàng hoặc vàng xám, có thể thấy rõ những vân vòng hình lượn sóng hoặc các vân hình đa giác không đồng đều, rải rác có những chấm dầu nhỏ màu nâu vàng, phần tuỷ màu tương đối nhạt. Chất cứng mà dai, có hương thơm đặc biệt. VỊ đắng và cay, hơi có cảm giác tê lưỡi. Món nào chất rắn chắc, mặt cắt màu trắng vàng, giầu chất dầu, hương thơm đậm là loại tốt.
Tính vị và công hiệu:
Xuyên khung tính ôn, vị cay, lợi về kinh can đởm, tâm bào. Có công hiệu hoạt huyết hành khí, trừ phong giảm đau. Dùng cho các bệnh đau đầu, đau ngực, đau lườn, tắc kinh, thống kinh, đau phong thấp, ngã hoặc và chạm mạnh gây tổn thương, đau tim tê ngực v.v…
Theo các nghiên cứu hiện đại, xuyên khung hàm chứa các chất dầu hay hơi, kiềm sinh vật, Pipenazin xuyên khung, a ngụy toan v.v… Có tác dụng làm trấn tĩnh, giảm đau, chống co giật; có thể làm giãn các mạch máu ở chung quanh, làm tăng lưu lượng máu ở động mạch cơ tim và ở 2 chi dưới, hạ thấp huyết áp; có tác dụng kích thích tử cung và chống chứng bệnh thiếu vitamin E; có tác dụng kháng khuẩn.
Bảo quản:
Để nơi râm mát khô ráo, đề phòng biến thành độc tố.
Những bài thuốc thường dùng:
Xuyên khung tửu (rượu xuyên khung)
Xuyên khung 30g – Rượu trắng 500ml.
Ngâm 7 ngày sau đem ra uống ngày 3 lần, mỗi lần 10 – 20ml.
Dùng cho người bị ngã hoặc và chạm mạnh gây ra đau đớn, thiên đầu phong thông.
Xuyên khung hoàng kỳ chúc (cháo xuyên khung hoàng kỳ)
Xuyên khung 6g – Hoàng kỳ 15g
Gạo nếp 50 – 100g
Xuyên khung, hoàng kỳ sắc lấy nước, cho gạo nếp vào nấu cháo.
Dùng cho người bị động thai.
Xuyên khung đường trà (trà đường xuyên khung)
Xuyên khung 6g – Chè (khô) 6g
Đường đỏ vừa phải.
Xuyên khung sắc lấy nước sôi pha chè, pha đường vào. Uống nhiều lần thay trà. Dùng cho người bị đau đầu, váng đầu, tim thảng thốt khí đoản, tinh thẩn và thể xác đều mệt mỏi, không thiết ăn uống, sắc mặt xanh xao, lưỡi nhạt, tưa lưỡi trắng v.v…
Tất cả các vị thuốc trên cùng giã nát, bỏ vào ngâm rượu, 5 ngày sau mang ra uống. Trước mỗi bữa ăn uống 1 cốc vừa.
Dùng cho người đau lưng do thận hư, do phong hàn, do ngồi lâu nơi đất ẩm, do bị ngã chấn thương.
Sinh hoá thang (thang thuốc sinh hoá)
Đương qui 24g
Xuyên khung 9g
Gừng sao 2g
Cam thảo sao 2g
Đào nhân 5g.
Sắc 2 nước trộn đều, uống ngày 1 thang chia 2 lần. Dùng cho người đẻ xong bị tụ máu nội trở, bụng dưới đau dữ dội.
Xuyên khung tán (thuốc bột xuyên khung)
Xuyên khung nghiền thành bột mịn, lấy 5 – 10g, pha giấm, đánh đều. Bôi gọn vào 1 chỗ. Cách 1 ngày thay thuốc 1 lần.
Dùng cho người bị bệnh chồi xương.
Xuyên khung thảo ô tán (thuốc bột xuyên khung thảo ô)
Xuyên khung 15g
Thảo ô tươi 5g
Nghiền chung thành bột cực mịn. Dùng cho người bị chồi xương gót chân sinh đau đớn. Thuốc bột trên đựng vào túi vải có kích thước vừa bằng với gót chân, dày khoảng 0,3 – 0,5cm, đệm vào gót giầy ở vị trí xương gót bị chồi, đau. Phun 1 ít cồn vào để giữ độ ẩm. Thuốc bột cứ khoảng 3 – 5 ngày thay 1 lần. Khi xương chồi đã tiêu, khỏi rồi, vẫn điều trị củng cố thêm 1 tuần lễ nữa.
Nghiền chung thành bột mịn trộn đều. Uống ngày 6g chia 2 lần, uống bằng hoàng tửu hoặc nước sôi.
Dùng cho người bị sút lưng, tức thở đau mạng sườn, giãn dây chằng thắt lưng, đau thần kinh liên sườn v.v…
Sài hồ thư can thang (Thang thuốc sài hồ trợ gan)
Sài hồ 6g – Chỉ xác 6g
Xuyên khung 6g – Hương phụ 6g
Thược dược 6g – Cam thảo sao 3g
Sắc 2 nước, trộn đều, uống ngày 1 thang, chia 2 lần uống hết.
Dùng cho người can khí uất kết, hai bên sườn đau nhức, lúc nóng lúc lạnh thất thường.
* Những cấm kỵ khi dùng thuốc:
Thuốc này tân ôn thăng tán, nếu dùng nhiều quá có khả năng sẽ bị thất thoát chân khí. Bởi thế, đối với những người âm hư khi nhược, lao nhiệt nhiều mồ hôi và hay ợ, hay nấc, can dương, đau đầu, phụ nữ kinh nguyệt quá nhiều v.v… Phải hết sức thận trọng khi sử dụng.
Vị cay, khí ấm, không độc, nổi mà đưa lên, là dương dược, vào Can kinh, sợ Hoàng liên, Bạch chỉ làm sứ.
Chủ dụng:
Chữa khỏi chứng nhức đầu do Can kinh huyết hư, giải tán các chứng phong, không thể thiếu đối với chứng diện du phong, cũng như du phong trên đầu, trúng phong vào não, tất cả các chứng đầu thống, thiên đầu thống đều kiến hiệu, bên trên chạy khắp đầu mặt, bên dưới chạy vào huyết hải, chữa tất cả các chứng ứ máu cục mà nuôi dưỡng huyết mới, chữa các chứng thổ huyết, nục huyết, niệu huyết, đàn bà kinh bế không có thai, trị tất cả các bệnh về khí, khu trừ các chứng tích khí, bụng dạ kết khí và đau sườn đờm khí, sán khí, trúng ác, thình lình đau, khí kết thành khối, chữa cả ngoại khoa, sinh da thịt, mưng mủ, tiêu ứ, chuyên chữa ngoại cảm, gây ấm bên trong, táo thấp, khu hàn.
Hợp dụng:
Được đi cùng Mầu lệ thì chữa chứng đầu phong, choáng váng, thổ nghịch, được đi cùng Tế tân thì chữa vết thương đâm chém sưng đau, cùng Địa hoàng nấu Rượu thì chữa băng huyết, rong huyết, cùng Ngải cứu lâu năm tán uống để xem có thai hay không. Đông Viên nói: Đau đầu tất phải dùng Xuyên khung và gia thêm vị dẫn kinh: vào Thái dương thì gia Khương hoạt, vào Dương minh gia Bạch chỉ, vào Thiếu dương gia Sài hồ, vào Thái âm gia Thương truật, vào Quyết âm gia Ngô thù, vào Thiếu âm gia Tế tân.
Kỵ dụng:
Khí vị cay, tán, không nên uống lâu, cũng như uống độc một vị ấy, vì nó có thể tiết hết chân khí làm cho người chết thình lình, với chứng hư hỏa bốc lên, nôn ói, ho nghịch là rất kỵ, đậu sởi không mọc không dương lên tuy rằng phải dùng nó, nhưng không được dùng nhiều, vì sợ nó bốc ra và đưa lên quá nhiều.
Cách chế:
Rửa nước sao qua khử dầu hoặc nấu để dùng, nếu dùng sống thì chữa phong tê ngoài da.
Nhận xét:
Xuyên khung cay, ấm cho nên có thể đi lên đầu giúp khí thanh dương để chỉ thống. Đông Viên nói: bên trên chạy tới đầu, mắt, bên dưới chạy vào huyết hải, là khí ở trong huyết dược thuộc Can kinh. Khấu Tông Thích nói: uống lâu ngày làm cho người chết thình lình, bởi vì nó chạy vào Phế, mà Phế thắng hơn thì Can hư tổn, lâu ngày thì tuyệt một bên, nếu cấu trúc vừa phải theo quân, thần, tá, sứ thời đâu đến nỗi thế. Đông Viên cho rằng chạy xuống huyết hải, nuôi dưỡng huyết mới sinh và điều kinh, Đan Khê nói Xuyên khung vị cay nhưng có khả năng thăng tán mà không cố thủ ở dưới, máu huyết quý hồ yên ổn mà không nên khuấy động. Tứ vật thang dùng nó để vận hành sự nê trệ của huyết dược, chứ đâu phải cay tán mà dưỡng được huyết ở hạ nguyên. Lời nói của Đông Viên và Đơn Khê không trái ngược nhau, vốn là để hành trệ, phá ứ rồi sau mới có thể dưỡng huyết mới sinh.
PHỤ: PHÙ KHUNG: Cái bé gọi là Phù khung
Chủ dụng:
Khai uất, làm khoan khoái trong lồng ngực, thông suốt cả Tam tiêu, làm sứ dược để thông âm, dưỡng khí huyết, khí thăng lên thì uất tự phải tan, cho nên Việt cúc hoàn dùng nó làm sứ ý nghĩa là như thế.
GIỚI THIỆU THAM KHẢO “Hòa tễ cục phương”
Bài Xuyên khung trà điều tán
Xuyên khung 16g, Bạc hà 20-30g, Kinh giới 8-16g. Bạch chỉ 8-12g, Phòng phong 6-8g, Khương hoạt 6-8g, Tế tân (bỏ
cuống) 4g, Trà thanh 4g, chích Cam thảo 4g, cùng tán bột, mỗi lần uống 6-8g, với nước trà, ngày 2 lần.
Tác dụng sơ phong, tán hàn, chỉ thống.
Trị đau đầu do cảm phong hàn, đau nửa đẩu, đau vùng trán, chỏng mặt, nghẹt mũi, rêu lưỡi trang nhạt, mạch phù.
“Hành giản trân nhu”-Hải Thượng Lãn Ông
Chữa chứng tê: bì tê, mạch tê, cơ tê, cốt tô, cân tê, gọi là ngũ tê, dùng Xuyên khung, Nhân sâm, Bạch truật, Đỗ trọng, Tục đoạn, Ngưu tất, Tần giao, Quế chi, các vị 6-8g.
Sắc, chia uống vài lần trong ngày.
Chữa nhiệt bốc, mắt choáng váng, trong ngực không khoan khoái (do phong nhiệt), dùng Xuyên khung, quả Hòe, mỗi thứ 1 lạng, tán nhỏ, liều uống 3đ với nước, ngày 2 lần.
Chữa chứng chóng mặt vì đau đầu phong, nhiều mồ hôi, sợ gió, ngực đầy trướng, đờm ẩm, dùng Xuyên khung 5đ, Thiên ma 2 lạng, cùng tán nhỏ, luyện Mật làm viên bằng hạt đậu xanh, liều uống 10 viên với nước trà.
“Hướng dẫn sử dụng các bài thuốc”
Bài Gia vị tiêu giao hợp tứ vật thang
Bạch linh, Bạch truật, Bạch thược, Sài hồ, Đan bì, Chi tử, Đương quy, Cam thảo, Xuyên khung, Sinh địa đều 9g, Can khương, Bạc hà đều 3g. sắc, chia uống 3 lần trong ngày.
Áp dụng: Thuốc chữa các bệnh thuộc huyết cho phần nhiều là phụ nữ. Phụ nữ thiếu huyết, mệt mỏi, nóng rét, đau mạng sườn của bài Tiêu giao, thêm khô da, rám da, có khi đen da, cứng da, sinh eczema. Những người nằm đau vai, bỏ tay ra ngoài thấy lạnh, bỏ tay vào trong thấy nóng, bồn chồn, ít ngủ. Với chứng rám da, mề day do chức năng Gan kém nên thêm Kinh giới, Địa cốt.
Bài Nữ thần thang
Đương quy 10g, Xuyên khung 8g, Bạch truật 8g, Hạt cau 6- 10g, Quế chi 6-10g, Hoàng cầm 6-10g, Nhân sâm 6g, Cam thảo 4g, Hoàng liên 3-6g, Mộc hương 3-6g, Đinh hương 3-6g, Đại hoàng 2-4g, Hương phụ 10g.
Thuốc dùng cho người sức khỏe bình thường nhưng có rối loạn về đường huyết. Ây là phụ nữ trước và sau lúc sinh đẻ, bị thượng xung, ‘Phóng mặt, rối loạn thần kinh, hoặc phụ nữ rối loạn kinh nguyệt khi mãn kinh. Người bệnh có thể mất ngủ kéo dài, đau đâu. mạch tăng nhanh, tâm trạng u uất.
Bài Ôn kinh thang
Bán hạ 6-10g, Mạch môn 6-20g, Đương quy 4-6g, Xuyên khung, Bạch thược, Nhân sâm, Quế chi, A giao, Đan bì, Cam thảo đều 4g, Can khương, Ngô thù đều 2g. sắc, chia uống 2 lần trong ngày.
Phân tích: Nhân sâm, Mạch môn, Đan bì, A giao tư âm, sinh tân dịch; Bạch thược, Đương quy dưỡng Can huyết, Bán hạ phá hàn đàm, Quế, Khương phá hàn, hành khí, Ngô thù lui hàn khí sinh dương
Áp dụng: Những người có phục nhiệt hại âm huyết; hư nhiệt làm cho họ cảm thấy nóng, môi khô, lòng bàn tay nóng, chân tay cước lạnh. Trong thì sinh kinh nguyệt khó, bạch đới, mất ngủ; ngoài sinh eczema; nặng hem thì vô sinh; dùng thuốc này rất hiệu nghiệm. Bài này chữa người hư nhiệt ở lý đã khá nặng.
Bài Tứ vật tiêu phong ẩm (Y tông kim giám)
Sinh địa hoàng 16g, Kinh giới 6g, Đương quy 8g, Phòng phong 6g, Xích thược 8g, Bạch tiên bì 15g, Xuyên khung 8g, Thuyền thoái 6g, Bạc hà 6g, Độc hoạt 6g, Sài hồ 8g, Đại táo 2 quả. Sắc, chia uống 3 lần trong ngày.
Có tác dụng dưỡng huyết, khu phong.
Chữa thấp chẩn mạn tính, viêm da thần kinh và mẩn mề đay.
Nếu dạ dày của bé đã đầy hoặc do tư thế của bé bị đột ngột thay đổi sau khi ăn, những thứ chứa trong dạ dày có thể ép cơ vòng mở ra và trào ngược lên thực quản. Trái ngược với nôn, trớ không liên quan đến các cơn co cơ do bị ép, chỉ đẩy lên một lượng nhỏ sữa và không khiến bé bị đau hay khó chịu.
Nhiều bé trớ sau khi nuốt không khí trong sữa mẹ hoặc sữa công thức. Cách tốt nhất để ngăn chặn hiện tượng này là cho bé ăn trước khi bé quá đói. Giữ bé ở một góc nghiêng sao cho không khí không vào được miệng khi bé ăn. Nhẹ nhàng cho bé ợ hơi khi bé nghỉ giữa lúc ăn. Hạn chế hoạt động nhiều sau các bữa ăn, và bế bé ở tư thế thẳng đứng trong ít nhất 20 phút. Nếu trớ xảy ra thường xuyên hơn bình thường, một số bác sĩ nhi khuyên nên pha sữa đặc hơn với một lượng nhỏ ngũ cốc gạo ăn dặm. Để làm như thế, thêm 1 tới 3 thìa ngũ cốc vào mỗi 30ml sữa công thức. Hiện tượng trớ thường chấm dứt khi bé học được cách co mình vào tư thế ngồi, nhưng một số bé vẫn tiếp tục trớ cho tới khi cai bú, chuyển sang uống bằng ly hoặc biết đi. Cho tới khi hiện tượng trớ ngừng lại, hãy cố gắng tập thói quen bảo vệ bản thân với một chiếc khăn bông hoặc tã vải khi cho bé ăn và ợ.
CẢNH BÁO!
Đừng khăng khăng bắt ăn khi con đã quay đầu khỏi bình. Bé biết dạ dày mình chứa được bao nhiêu và lượng sữa thừa mà bạn thúc cho bé uống có thể khiến bé bị trớ.
Nhưng bạn có thể sử dụng các kỹ thuật cho ăn để giữ cho bé không nuốt không khí mà bé không cắn. Những mẹo dưới đây có thể giúp bạn giảm lượng thức ăn mà bé trớ ra và số lần trớ:
Cho con ăn trước khi con đói quá.
Giữ cho thời gian ăn được bình thản, yên lặng, từ từ và thoải mái.
Tránh gián đoạn, tiếng động đột ngột, ánh sáng chói và những việc khiến xao lãng khác trong khi ăn.
Cho bé ợ mỗi 3 đến 5 phút hoặc khi bé dừng hay đổi từ vú này sang vú kia.
Nếu con bạn bú mẹ, bé sẽ bực tức và khó chịu nếu không có dòng sữa liên tục. Bạn có thể giúp bằng cách đặt bé ở tư thế đúng. Ôm bé sao cho toàn bộ cơ thể không chỉ là đầu bé hướng về cơ thể bạn. Giữ quầng vú (vùng màu hồng quanh núm vú) phía trên bầu vú bằng ngón tay cái, các ngón tay và lòng bàn tay đặt bên dưới. Nhẹ nhàng ấn bầu vú và đưa nó vào miệng bé sao cho bé có thể ngậm được toàn bộ núm vú.
Cho bé ăn ở tư thế ngồi thoải mái và giữa cho bé thẳng người trên đùi bạn hoặc trong ghế đây hay ghế ngồi cho trẻ sơ sinh trong 20 phút sau khi ăn xong. Tránh cho ăn trong khi bé đang nằm.
Cố gắng đừng xóc con hay chơi quá nhiều ngay sau khi ăn.
Nếu con bạn bú bình, hãy đảm bảo là núm vú của bình ở tình trạng tốt và lỗ không quá to (có thể khiến sữa chảy quá nhanh) hoặc quá nhỏ (khiến bé mệt và uống phải không khí). Nếu lỗ bình có kích thước phù hợp, thì khi bạn lật ngược bình, một vài giọt sẽ rơi ra rồi ngừng lại.
Nói chuyện với bác sĩ nhi nếu:
Con bạn nôn dữ dội sau mỗi lần ăn
Con bạn sụt hoặc không tăng được cân
Con bạn nôn ra máu.
MỐI BẬN TÂM CỦA BẠN
NGUYÊN NHÂN CÓ THỂ CÓ
HÀNH ĐỘNG CẦN THỰC HIỆN
Hầu như lần nào ăn xong con bạn cũng trớ một chút.
Trào ngược dạ dày thực quản (bình thường nếu nhẹ).
Không làm gì cả. Hiện tượng trớ sẽ nhanh chóng giảm dần và ngừng hẳn khi các cơ của con phát triển đầy đủ.
Con bạn nuốt thức ăn và có vẻ như có rất nhiều hơi.
Nuốt hơi (nuốt nhiều không khí hơn bình thường).
Hãy đảm bảo con bạn được đặt đúng tư thế.
Con bạn trớ khi bạn nựng bé và sau bữa ăn.
Quá khích.
Giữ cho khoảng thời gian ăn được bình tĩnh và hạn chế chơi nhiều trong khoảng 30 phút sau đó.
Hiện tượng trớ của con bạn chuyển thành nôn với nhiều cơn co xuất hiện sau mỗi lần ăn. Bé nôn ra với lực mạnh.
Hẹp môn vị hoặc vấn đề sức khỏe khác cần được chẩn đoán và điều trị.
Hãy gọi cho bác sĩ nhi, họ sẽ khám cho con bạn để đưa ra nguyên nhân của hiện tượng nôn.
Trớ hay nôn ra máu
Viêm thực quản hoặc vấn đề sức khỏe khác cần được chẩn đoán và điều trị.
Bệnh có đặc điểm là tuyến giáp giảm hoạt động bài tiết .
Phân loại
NHƯỢC NĂNG TUYẾN GIÁP NGUYÊN PHÁT (nguyên nhân tại tuyến giáp): trong những thể này, chức năng của tuyến giáp bị suy giảm mặc dù tuyến yên vẫn kích thích thích đáng. Vì cơ chế điều hoà trợ động (điều hoà phản hồi) tuyến yên-tuyến giáp, nên hàm lượng hormon tuyến giáp trong máu thấp sẽ kích thích bài tiết thyreostimulin (TSH) làm cho hàm lượng của hormon này trong máu cao.
Nhược năng tuyến giáp với bướu cổ:
+ Loạn tạo hormon: là một rối loạn bẩm sinh về tổng hợp hormon tuyến giáp, biểu hiện ở tuổi trẻ em hoặc vị thành niên.
+ Bướu cổ dịch địa phương: do thiếu iod trong chế độ ăn uổng, biểu hiện từ tuổi trẻ em hoặc vị thành niên.
+ Viêm -tuyến giáp mạn tính Hashimoto: (xem bệnh này): hay xảy ra ở phụ nữ từ 30-40 tuổi, trong máu có kháng thể kháng giáp.
+ Các thuốc sinh bướu cổ: bao gồm muối lithi (lithium), thuốc kháng giáp tổng hợp, acid para- aminosalicylic, V..V…
Nhược năng tuyến giáp không có bướu cổ: gặp trong:
+ Bệnh thiếu tuyến giáp bẩm sinh: không có tuyến giáp từ sơ sinh.
+ Thoái triển tuyến giáp sau mãn kính.
NHƯỢC NĂNG TUYẾN GIÁP THỨ PHÁT (nguyên nhân ở thuỳ trước tuyến yên): suy tuyến giáp là hậu quả của giảm tiết thyreostimulin (TSH) từ tuyến yên. Có thể do một khối u tuyến yên hoặc do hoại tử tuyến yên sau chấn thương.
Nhược năng tuyến giáp hiếm khi đơn độc, nhưng thường kết hợp với suy những tuyến nội tiết khác (xem: nhược năng tuyến yên). Nói chung không có thâm nhiễm da- niêm mạc.
Chẩn đoán được khẳng định nhờ định lượng các hormon tuyến giáp (T3 và T4), định lượng thyreostimulin (TSH) thấy hàm lượng các hormon này giảm, thử nghiệm protirelin (TRH) có biểu đồ đáp ứng dẹt.
NHƯỢC NĂNG TUYẾN GIÁP CẤP BA (nguồn gốc tại vùng dưới đồi thị): thử nghiệm protirelin (TRH) gây tăng bài tiết thyreossimulin (TRH) trong huyết tương, khác với trường hợp nhược năng tuyến giáp với nguồn gốc ở thuỳ trước tuyến yên.
Trong hội chứng Schmidt (xem hội chứng này): nhược năng tuyến giáp có thế làm cho những triệu chứng suy vỏ thượng thận kết hợp bị lu mờ nhưng lại cần thiết phải điều trị, vì nếu chỉ điều trị riêng nhược năng tuyến giáp thì có thể gây ra suy tuyến vỏ thượng thận cấp tính. Những bất thường của các tuyến nội tiết khác cũng thường thấy kết hợp với nhược năng tuyến giáp thứ phát.
NHƯỢC NĂNG TUYẾN GIÁP BẨM SINH VÀ Ở THIẾU NIÊN
Tên khác: chứng phù niêm hoặc suy tuyến giáp bẩm sinh (hoặc sơ sinh) và ở thiếu niên.
Định nghĩa: hội chứng suy tuyến giáp xảy ra trong thời kỳ bào thai (trong tử cung) hoặc ở tuổi trẻ em.
Căn nguyên
NHƯỢC NĂNG TUYẾN GIÁP BẨM SINH HOẶC Sơ SINH
Vô năng tuyến giáp hoàn toàn: không có tuyến giáp trong thời kỳ bào thai (thời kỳ trong tử cung), được biểu hiện vào lúc sinh bằng chứng phù niêm bẩm sinh sớm và nặng (“chứng đần độn do thiếu tuyến giáp”).
Vô năng tuyến giáp tương đối (không hoàn toàn): Bào thai có một phần mô tuỳến giáp hoạt động, cùng với tuyến giáp của người mẹ cho phép bào thai phát triển bình thường, nhưng trong những tháng đầu tiên sau khi sinh thì trẻ bị nhược năng tuyến giáp biểu hiện lâm sàng bởi chứng phù niêm bẩm sinh vừa phải (trung bình). Nhược năng tuyến giáp trong trường hợp này cũng có thể biểu hiện ở tuổi đi học dưới dạng phù niêm ở thiếu niên.
Rối loạn tổng hợp hormon tuyến giáp (loạn tạo hormon): đối tượng có tuyến giáp, thông thường hơi phì đại vào lúc sơ sinh (bướu cô bẩm sinh) và bị suy tuyến giáp (bướu cổ nhược năng tuyến giáp). Những rối loạn này có thể gây ra do những yếu tố nội tại (thiếu hụt một số enzym cần thiết trong quá trình tổng hợp hormon tuyến giáp), hoặc ngoại lai, nhất là do thiếu cung cấp iod hoặc có những chất gây bướu cổ trong thức ăn (“chứng đần độn dịch địa phương”). Bướu cổ thường rất to, tiếp sau là teo nhỏ thứ phát.
Điều trị cho người mẹ bằng những thuốc kháng giáp tổng hợp trong thời kỳ có thai: nhược năng tuyến giáp ở đứa con thường nhẹ và thoáng qua.
NHƯỢC NĂNG TUYẾN GIÁP Ở THIẾU NIÊN: là thể hiện muộn của thể bệnh bẩm sinh, hoặc do:
Bài tiết TSH không thích hợp: với bướu cổ, tăng bài tiết TSH (hàm lượng thường xuyên cao hơn 5 pUI/ml).
Nhược năng tuyến yên, xem: nhược năng tuyến giáp do tuyến yên.
Các mô kháng lại tác động của hormon tuyến giáp hoặc tuyến giáp kháng lại tác động của thyreostimulin.
Thiếu iod, xem: bướu cổ dịch địa phương.
Triệu chứng
NHƯỢC NĂNG TUYẾN GIÁP BẨM SINH HOẶC SƠ SINH
Trẻ em còn bú: vàng da sinh lý sơ sinh kéo dài, chứng lãnh cảm, tiếng khóc khàn, giảm trương lực cơ, lưỡi to, táo bón, thoát vị rốn, chỏm xương cánh tay không trưởng thành. Trẻ em gái mắc bệnh nhiều hơn gấp hai lần so với trẻ em trai. (Về cách phát hiện; xem phần dưới)
– Trẻ em (nếu nhược năng tuyến giáp sơ sinh không được điều trị):
+ Thâm nhiễm da và niêm mạc, da khô, giảm thân nhiệt, nhịp tim chậm.
+ Chứng lùn: không cân đối với đầu to (các thóp không kín), các chi ngắn và mập (chứng loạn tạo đầu xương), bụng căng phồng. Hay bị bán trật khớp hông.
+ Những rối loạn tâm thần: bệnh nhi có vẻ nhu mì, biết đi muộn, và khó khăn, chỉ nói được vài ba từ. Thiểu năng tâm thần có thế tối mức đần độn.
+ Tới tuổi dậy thì, những đặc điểm giới tính thứ phát hoặc không xuất hiện hoặc xuất hiện chậm.
+ Trong trường hợp loạn tạo hormon và thiếu iod: bướu cổ rất to.
Tất cả những triệu chứng kể trên là biểu hiện lâm sàng của chứng “đần độn”, mà trên thực tế đã không còn thấy nữa kể từ khi áp dụng định lượng TSH một cách hệ thống ngay từ lúc sơ sinh cho trẻ em (xem phần dưới) và áp dụng liệu pháp hormon thay thế sớm. Biện pháp điều trị này phải bắt đầu chậm nhất là vào ngày thứ 7 hoặc thứ 10 sau khi trẻ ra đời.
NHƯỢC NĂNG TUYẾN GIÁP Ở TRẺ EM HOẶC THIẾU NIÊN: có thể hoặc là nhược năng tuyến giáp mắc phải ở thời kỳ tuổi trẻ em, hoặc là biểu hiện muộn và nhẹ của những trường hợp nhược năng tuyến giáp bẩm sinh. Bệnh cảnh lâm sàng từ những thể thô sơ (chỉ biểu hiện mệt và hoạt động trí tuệ chậm chạp), tới những thể rõ rệt với thâm nhiễm da-niêm mạc, giảm thân nhiệt, nhịp tim chậm, hoạt động tâm thần vận động chậm chạp, phát triển trí tuệ, tầm vóc và dậy thì đều chậm.
NHƯỢC NĂNG TUYẾN GIÁP Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN: có bệnh cảnh lâm sàng giống với trường hợp giảm năng tuyến giáp ở người lớn.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Khảo sát các chức năng tuyến giáp: giảm thyroxin (T4). Tăng thyreostimulin (TSH). Mức gắn iod phóng xạ giảm thấp (chụp nhấp nháy)
Những xét nghiệm đặc biệt cho phép phân biệt những rối loạn khác nhau trong quá trình tổng hợp hormon tuyến giáp (loạn tạo hormon tuyến giáp).
Trong trường hợp nhược năng tuyến giáp ở thiếu niên, nếu thấy có kháng thể kháng giáp thì biết được nguồn gốc bệnh là tự miễn.
Đo chuyển hoá cơ bản ít ích lợi, vì những khó khăn về kỹ thuật đo ở trẻ em.
Thường hay thấy tăng cholesterol huyết.
Phát hiện bệnh ở trẻ sơ sinh: tất cả các trẻ sơ sinh mà vào ngày thứ 5 sau khi sinh hàm lượng TSH máu không giảm thấp xuống dưới 25pUI/ml đều phải nghi ngờ nhược năng tuyến giáp bẩm sinh, cần phải được điều trị ngay bằng levothyroxin. Định lượng T4 thì nhạy hơn, nhưng có nhiều trường hợp kết quả dương tính giả. Nghiên cứu sự trưởng thành của bộ xương cho phép xác định chẩn đoán.
Xét nghiệm bổ sung
X quang: có thể thấy các dấu hiệu chậm cốt hoá, loạn tạo tuyến yên.
Chụp nhấp nháy quét.
Chẩn đoán phân biệt
Điều quan trọng là phải phân biệt được thể nguyên phát (nguồn gốc tại chính tuyến giáp) với thể thứ phát (xem: nhược năng tuyến giáp do tuyến yên), vì nếu là trường hợp thứ phát thì phải tìm tổn thương ở tuyến yên.
Chứng đần độn do thiếu tuyến giáp: phân biệt với hội chứng Down (khuôn mặt Mông cổ), bệnh Tay-Sachs.
Chứng lùn: phân biệt với hội chứng Lorain-Lévi, với chứng lùn do thận, với chứng bất sản sụn.
Tiên lượng: phụ thuộc vào điều trị sớm và điều trị phải tiếp tục suốt đời. Tiên lượng tốt hơn trong những thể bệnh ở thiếu niên, so với thể bẩm sinh, vì trong thể này liệu pháp hormon thay thế không phải bao giờ cũng ngăn ngừa được tình trạng thiểu năng tâm thần.
Điều trị: ngay khi có chẩn đoán chính xác, sử dụng liệu pháp hormon thay thế (levothyroxin 5 pg/kg mỗi ngày dưới dạng giọt thuốc nước). Người ta khuyên nên điều trị thử ngay cả khi chẩn đoán còn chưa chắc chắn. Nếu về lâm sàng có cải thiện thì đó là một tiêu chuẩn chẩn đoán tốt. Phải duy trì mức TSH < 5 pg/ml. Nếu ngừng điều trị hoặc liều lượng không đủ thì sẽ có những ảnh hưởng không phục hồi được tới tăng trưởng và phát triển tinh thần của bệnh nhi. Nếu nghi ngờ nhược năng tuyến giáp thứ phát do suy tuyến yên, thì phải thận trọng khi cho dùng hormon tuyến giáp (vì nguy cơ làm tăng nhanh cơn suy tuyến vỏ thượng thận cấp tính).
NHƯỢC NĂNG TUYẾN GIÁP Ở NGƯỜI LỚN
Tên khác: chứng phù niêm người lớn, suy tuyến giáp người lớn
Định nghĩa: hội chứng do suy tuyến giáp có đặc điểm là các lớp của da bị thăm nhiễm, các chức năng sinh lý đều hoạt động chậm chạp, có những rối loạn sinh dục và tim mạch.
Căn nguyên
– THỂ NGUYÊN PHÁT DO TUYẾN GIÁP BỊ TỔN THƯƠNG: có thể xuất hiện sau phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp, do điều trị bệnh Basedow bằng iod phóng xạ, hoặc do liệu pháp bức xạ (tia xạ) ở vùng cổ. Trong đa số trường hợp nhược năng tuyến giáp là do tuyến giáp bị thoái triển, có khả năng do phản ứng tự miễn, làm cho tế bào tuyến không còn đáp ứng đối với những kích thích của tuyến yên. Bệnh viêm giáp Hashimoto (xem bệnh này) thường dẫn tới nhược năng tuyến giáp.
Nhược năng tuyến giáp do thày thuốc có nguyên nhân là cho bệnh nhân sử dụng iod hoặc các thuốc có khả năng gây ra quá tải về iod (gọi là thuốc sinh bướu cổ), ví dụ các thuốc kháng giáp tổng hợp, các muối lithi (lithium) , PAS (Paraamino salicylic acid).
THỂ THỨ PHÁT DO SUY TUYẾN YÊN, xem: nhược năng tuyến giáp do tuyến yên ở phần dưới: Nhược năng tuyến giáp vẻ bề ngoài là đơn độc, nhưng vẫn có thể là một trong những biểu hiện của suy tuyến yên.
Triệu chứng
KHỞI PHÁT: thường âm ỉ do quá trình phát triển kéo dài trong vài tháng hoặc vài năm với biểu hiện sợ lạnh (chứng không chịu lạnh), da khô, yếu mệt toàn thân, nhịp tim chậm., giọng nói khàn, tinh thần và thể lực đờ đẫn, và ở phụ nữ thì có rối loạn kinh nguyệt.
THỜI KỲ TOÀN PHÁT
Thâm nhiễm da-niêm mạc:thâm nhiễm phù nề do chất dịch khá lỏng nhưng khi ấn ngón tay vào thì không đẻ lại vết lõm. Khuôn mặt và các bàn tay sưng phị, mí mắt phù nề, các nét ởmặt dày lên (bộ mặt ngớ ngẩn), da có màu vàng rơm. Da khô (không tiết mồ hôi), có những vết nhăn nhỏ và lạnh. Thâm nhiễm và khô niêm mạc (với chứng lưỡi to, giọng nói khàn, nuốt khó). Tăng cân nặng cơ thể.
Những rối loạn bộ phân phụ của da:giảm lông nách, lông mu, và lông mày, móng dễ gãy.
Sờ nắn tuyến giáp:tuyến giáp hiếm khi sờ nắn thấy, nhưng đôi khi có bướu cổ tiếp sau đợt điều trị bằng thuốc kháng giáp.
Các chức năng sinh lý hoạt động chậm chạp:biểu hiện: lãnh đạm, táo bón, giảm thân nhiệt, lời nói chậm chạp, giảm thính lực.
Rối loạn sinh dục:bất lực ở nam giới. Dáng người cứng, vô kinh hoặc rong kinh ở phụ nữ.
Rối loạn tâm thần:mất trí nhớ, trí tuệ bị tổn thương, nhân cách biến đổi. Đôi khi loạn tâm thần (gọi là:”chứng điên phù niêm”).
Bệnh cơ do nhược năng tuyến giáp:yếu cơ ở gần gốíc chi và đôi xứng hai bên, các động tác chậm chạp, đau cơ, chuột rút (co cứng cơ) xảy ra ngay lúc nghỉ ngơi thường làm cho bệnh nhân không hoạt động thể lực được, giả phì đại cơ, đôi khi thấy “hội chứng giả loạn trương lực cơ” với hiện tượng co cơ chậm chạp và giãn cơ chậm khi gõ.
Thiếu máu:hay gặp, thuộc typ giảm sản tuỷ xương và chỉ hiệu chỉnh có hiệu quả bằng liệu pháp hormon, đôi khi là thiếu máu thiếu sắt hoặc thiếu máu hồng cầu to tự miễn.
Những triệu chứng khác nữa:hội chứng ỗhg cổ tay.
THỂ thÔ SƠ: biểu hiện suy nhược, trầm cảm, chứng sợ lạnh. Chẩn đoán lâm sàng thường khó khăn.
BIẾN CHỨNG
Xơ vữa động mạch sớm và suy mạch vành: nếu điều trị quá mạnh có thế thúc đẩy nhanh chứng suy mạch vành tiềm tàng.
Rối loạn tim mạch: nhịp tim chậm. Tim to một phần do tràn dịch ngoại tâm mạc (tràn dịch màng ngoài tim) một phần do phù cơ tim (gọi chung là tim phù niêm). Lưu lượng tim giảm, có xu hướng tăng huyết áp, rung nhĩ, và suy mạch vành.
Hôn mê phù niêm: hiếm xảy ra. Nhiễm khuẩn, các thuốc là dẫn xuất của thuốc phiện, can thiệp ngoại khoa hoặc bị lạnh thường là những nguyên nhân thúc đẩy nhanh chứng hôn mê phù niêm. Hôn mê thường sâu, nhịp tim chậm và giảm thân nhiệt (25°c tối 32°C) với suy hô hấp. Tiên lượng dè dặt.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Hàm lượng thyroxin (T3 và T4) trong huyết tương: giảm rõ rệt.
Hàm lượng thyreostimulin (TSH): cao trong trường hợp nhược năng tuyến giáp nguyên phát. Trong những thể tiềm tàng thì TSH cơ bản bình thường, thử nghiệm protirelin (TRH) làm tăng TSH bùng phát.
Tăng cholesterol huyết: thường hay thấy.
Giảm natri huyết: hay gặp.
Gắn iod phóng xạ (chụp nhấp nháy): giảm.
Chuyển hoá cơ bản: thấp.
Thiếu máu: hồng cầu bình thường hoặc hồng cầu to.
Nếu phát hiện được kháng thể kháng giáp thì nhược năng tuyến giáp có nguồn gốc tự miễn.
Xét nghiệm bổ sung
X quang:tăng bóng mò tim mạch (do tim to).
Điện tâm đồ:điện thế thấp, sóng T dẹt.
Phản xạ đồ gân gót:kéo dài.
Chẩn đoán
Thiểu lực, lãnh đạm, không chịu được lạnh, táo bón, rối loạn sinh dục.
Không tiết mồ hôi, da khô, thâm nhiễm da-niêm mạc, móng dễ gãy, lưỡi dày.
Nhịp tim chậm, tim to, điện tâm đồ thấy các sóng đều có điện thế thấp.
Hàm lượng các hormon tuyến giáp trong máu giảm, nhưng thyreostimulin tăng trong trường hợp nhược năng tuyến giáp nguyên phát.
Nhược năng tuyến giáp chưa biểu hiện lâm sàng(không triệu chứng) ở người già: chẩn đoán thường khó khăn, vì những triệu chứng thường lẫn lộn với biểu hiện của tuổi già (như không chịu được lạnh, táo bón, mất trí nhớ, giảm thính lực, khó thở). Chẩn đoán chỉ được xác định khi xét nghiệm thấy tăng đơn độc hàm lượng TSH (> 5-10 mU/1)., trong khi hàm lượng T4 tự do vẫn bình thường. Nhược năng tuyến giáp chưa biểu hiện lâm sàng và thường là nguyên phát có thể chỉ do điều trị bằng amiodaron hoặc muối lithi gây ra. Nếu không được điều trị thì hay diễn biến tới nhược năng tuyến giáp với biểu hiện lâm sàng.
Chẩn đoán phân biệt với những trường hợp sau đây:
Nhược năng tuyến giáp do tuyến yên (thứ phát): trong trường hợp này có những dấu hiệu suy tuyến yên, giảm hàm lượng thyroxin (T4) trong huyết tương, nhưng hàm lượng thyreostimulin (TSH) không tăng mà bình thường hoặc thấp.
Nhược năng tuyến giáp nhẹ có thể nhầm với bệnh loạn thần kinh hoặc những rối loạn kinh nguyệt chức năng.
Những biểu hiện tim mạch của nhược năng tuyến giáp có thể cần phân biệt với trường hợp suy tim kháng digitalis và kháng thuốc lợi tiểu.
Thiếu máu, nói riêng là bệnh Biermer.
Rối loạn tâm thần và bệnh loạn tâm thần thực thể.
Hội chứng thận hư và viêm thận mạn tính.
Tiên lượng
Đối với những thể được điều trị sớm và suốt đời thì tiên lượng tốt. Tuy nhiên, bệnh nhân có thế rơi vào tình trạng hôn mê phù niêm nếu ngừng điều trị hoặc không tăng liều lượng trong hoàn cảnh bị tấn công thêm (ví dụ: nhiễm khuẩn, chấn thương…)
Điều trị
LIỆU PHÁP HORMON THAY THẾ: phải tiếp tục suốt đời, và luôn hiệu chỉnh liều lượng một cách thận trọng dựa vào tình trạng cải thiện lâm sàng (bệnh nhân đỡ sưng phì mặt, có cơn bài niệu, nhịp tim tăng nhanh hơn, ăn ngon miệng hơn, giọng nói trở lại bình thường, giảm táo bón) và dựa thêm vào mức tăng hàm lượng thyroxin (T4) trong huyết tương. Những sản phẩm tinh chất tuyến giáp động vật ngày nay đã không còn sử dụng nữa, mà được thay thế bằng những hormon tổng hợp, nhất là levothyroxin (T4) mà một phần lớn sẽ được chuyển thành T3. Liothyronin (triiodothyronin hoặc T3) liên kết với protein kém hơn và có thời gian bán huỷ ngắn hơn. Trong trường hợp có biến chứng tim mạch, nhất là ở bệnh nhân già nếu liệu pháp hormon thực hiện quá nhanh thì có nguy cơ thúc đẩy suy tim nhanh hơn, gây ra những cơn đau thắt ngực và thậm chí nhồi máu cơ tim.
– Những thể nặng hoặc diễn biến đã lâu: thường được điều trị khởi đầu bằng levothyroxin 5-12,5 ịig/ ngày theo đường uống, và sau đó tăng dần lên tới liều tối ưu (100- 150 pg/ ngày). Không nên khởi đầu điều trị bằng liothyronin vì có nguy cơ thúc đẩy tai biến thiếu máu cục bộ. Phối hợp hai loại thuốc levothyroxin (T4) với liothyronin (T3) chưa được minh chứng vì trong cơ thể T4 sẽ chuyển biến thành T3. Không nên sử dụng tinh chất tuyến giáp vì hàm lượng hormon chứa trong đó chỉ là ước lượng.
Trong trường hợp suy mạch vành: phải cho liều khởi đầu thấp hơn. Nên khởi đầu điều trị ở trong bệnh viện (nội trú).
Trong trường hợp có yếu tố tấn công thêm (chấn thương, nhiễm khuẩn, can thiệp ngoại khoa, bị lạnh kéo dài): cho liothyronin 50-100 pg/ ngày theo đường uống để tránh nguy cơ hôn mê phù niêm.
HÔN MÊ PHÙ NIÊM
Nếu giảm thông khí thì phải thực hiện thông khí hỗ trợ. Duy trì tình trạng giảm thân nhiệt hay sưởi ấm phải thận trọng (vì sưởi ấm nhanh có thể làm cho các rối loạn nặng thêm). Truyền tĩnh mạch dung dịch glucose ưu trương nếu giảm đường huyết. Chống rổì loạn thăng bằng nước – điện giải.
Có thể truyền tĩnh mạch chậm levothyroxin natri 200-300 pg trong 250 ml dung dịch muối sinh lý. Người ta khuyên nên phối hợp với hemisuccinat hydrocortison (25 mg tiêm tĩnh mạch cứ 2 giờ một lần) hoặc dexamethason (2-mg uống hoặc tiêm tĩnh mạch cứ 6 giờ một lần). Sau đó cho levothyroxin 100 µg/ ngày theo đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch cho tới khi ổn định.
Thường thường sau một vài giờ thì các triệu chứng lâm sàng được cải thiện, và bệnh nhân tỉnh lại sau 24-36 giờ, nhưng tỷ lệ tử vong vẫn cao (50%).
NHƯỢC NĂNG TUYẾN GIÁP DO TUYÊN YÊN
Tên khác: chứng phù niêm hoặc suy tuyến giáp thứ phát.
Định nghĩa: hội chứng do suy giảm vùng dưới đồi thị-tuyến yên, từ đó dẫn tới suy tuyến giáp.
Căn nguyên: giảm bài tiết những hormon tuyến giáp là hậu quả thiếu hụt thyreostimulin của tuyến yên (TSH). Xảy ra trong các trường hợp sau đây:
Nhược năng tuyến yên:do những tổn thương phá huỷ tuyến yên, nhất là u tuyến hoặc tổn thương thiếu máu sau đẻ ở phụ nữ (gọi là hội chứng Sheehan). Nhược năng tuyến giáp hiếm khi xảy ra đơn độc, mà thường phối hợp với suy những tuyến nội tiết khác ví dụ suy tuyến vỏ thượng thận (gọi là hội chứng Schmidt).
Đôi khi người ta nói tới nhược năng tuyến giáp cấp ba tức là do nguyên nhân ở vùng dưới đồi thị (như vậy nhược năng thứ phát do nguyên nhân ở tuyến yên có thể gọi là cấp hai). Test kích thích bằng TRH (protirelin) làm tăng hàm lượng thyreostimulin trong huyết thanh rõ rệt hơn, so với trường hợp nhược năng tuyến giáp có nguyên nhân ở tuyến yên (nhược năng thứ phát hoặc cấp thứ hai).
Triệu chứng: bệnh cảnh lâm sàng giống với nhược năng tuyến giáp nguyên phát (về chi tiết: xem nhược năng tuyến giáp ở người lớn), nhưng những lóp của da bị thâm nhiễm kém hơn, và thường có những dấu hiệu của nhược năng tuyến vỏ thượng thận và nhược năng tuyến sinh dục.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Giảm hàm lương thyroxin (T4) trong huyết tươngđi kèm với hàm lượng thyreostimulin (TSH) giảm hoặc bình thường khác với nhược năng tuyến giáp nguyên phát, có hàm lượng thyreostimulin tăng lên.
Thử nghiệm thyreostimulin (TSH’): cho bệnh nhân sử dụng TSH sẽ làm tăng thyroxin trong huyết tương.
Thử nghiệm protirelin (TRH): cho bệnh nhân sử dụng protirelin sẽ làm tăng TSH trong huyết tương nếu là trường hợp nhược năng tuyến giáp do vùng dưới đồi thị, nhưng TSH không tăng nếu nhược năng tuyến giáp do nguyên nhân ở tuyến yên.
Điều trị: cho hormon tuyến giáp một cách thận trọng cũng như trong trường hợp nhược năng tuyến giáp ở người lớn (xem phần trên). Do có kết hợp với nhược năng tuyến vỏ thượng thận ít nhiều rõ rệt, nên cũng cần cho phối hợp hydrocortisone (10-30 mg / ngày) trước khi cho hormon tuyến giáp, vì các hormon này nếu cho riêng thì có nguy cơ thúc đẩy nhanh hơn chứng suy tuyến vỏ thượng thận cấp tính.
Tinh thần hỗn loạn gọi tắt là Thần hôn là triệu chứng bất tỉnh nhân sự, thậm chí kích thích bên ngoài cũng không phản ứng gì.
Chứng này trong các y thư cổ điển có rất nhiều tên gọi khác nhau. Tố vấn gọi là “Bạo bất chi nhân”, “Bất tri dữ nhân ngôn”. Thương hàn luận thì gọi là “Bất thức nhân”. Các sách Chư bệnh nguyên hậu luận, Trương thị y thông lại gọi là “Hôn hội”. Đan khê tâm pháp gọi là “Hôn bất chi nhân”, “Hôn mê”. Các sách Y tông tất độc, Chứng trị chuẩn thằng, Chứng nhân mạch trị đều gọi là “Hôn mê”.
Chứng Thần hôn không giống chứng “Thị thụy” (hay ngủ). Thị thụy là bệnh luôn luôn muốn ngủ, gọi thì tỉnh ngay, sau khi tĩnh lại ngủ tiếp. Chứng Thần hôn cũng không giống chứng “Vâng quyết” vì chứng trên thì bất tỉnh nhân sự thời gian khá dài không tỉnh nhanh, còn chứng sau thì đột nhiên ngã lăn, hôn mê thần thức hôn mê thời gian khá ngắn, chốc lát lại tỉnh dần. Các chứng “Thi quyết”, “Đại quyết” và “Tiễn quyết” cũng có chứng thần thức không tỉnh thường là đột nhiên ngã lăn, hôn mê bất tỉnh nhân sự giống như chết lâm sàng, qua thời gian không lâu lại tỉnh cho nên cũng thuộc phạm vi chứng Thần hôn. Các trường hợp biến đổi thần chí như “Khí quyết”, “Huyết quyết”, “Đàm quyết”, “Thực quyết” phần nhiều nhất thời cũng có chứng thần thức không tỉnh táo, cho nên đều xếp vào thảo luận với chứng “Vâng quyết”. Thần hôn với “Uât mạo” có chỗ khác nhau, uất mạo là chỉ choáng váng uât nén thậm chí phát sinh hôn quyết nhất thời, có thể do huyết hư tổn thương tân dịch, Can khí uất kết và ngoại tà lấn át gây nên. Kim quỹ yếu lược – Phụ nhân nhâm thần bệnh mạch chứng tính trị viết: “Phụ nữ bị uất mạo… sở dĩ như vậy là do huyết hư mà Quyết, đã Quyết tất phải mạo”.
Các chứng “Nhiệt vào huyết thất”, “Tử giản” của phụ nữ cho đến “Tiểu nhi kinh phong” gây nên thần hôn sẽ giới thiệu ở các mục hữu quan, không thảo luận ở mục này.
Phân biệt
Chứng hậu thường gặp
Thần hôn do nhiệt hãm Tâm bào: Có chứng sốt cao phiền táo, tinh thần hôn mê nói sảng, mặt đỏ môi se, lưỡi cứng ít nói, nổi ban chẩn, chân tay quyết lạnh, tiểu tiện đỏ, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ tía, mạch Hồng mà Sác.
Thần hôn do phủ nhiệt hun đốt: Có chứng thần thức không tỉnh táo, nói lảm nhảm, lần áo sờ giường, sốt cao hoặc về chiều triều nhiệt, mặt hồng mắt đỏ, bụng trướng đầy, ấn vào cứng rắn, đại tiện không thông hoặc nhịêt kết bàng lưu, tiểu tiện vàng đỏ, rêu lưỡi vàng già, khô ráo nổi gai, mạch Hồng Đại hoặc Trầm Phục có lực.
Thần hôn do nhiệt kết độc xông lên Tăm: Co chứng sốt cao, hôn mê nói sảng, đầu mặt sưng đỏ, họng sưng loét, đổ máu mũi, đại tiện ra máu, ban chẩn có sắc tía đen, mụn nhọt hoặc đan độc tràn lan, lưu trú 4 phía, lưỡi tía, rêu lưỡi khô hoặc nổi gai, mạch Hoạt mà Sác hoặc 6 bộ mạch Trầm Tê mà Sác.
Thần hôn do thử tà xâm lấn ở trên: Có chứng hôn mê ngã lăn đột ngột, mình nóng chân tay quyết, sắc mặt đỏ bừng hoặc mặt nhờm bẩn thở thô như suyễn, mồ hôi lạnh vã ra không dứt, tiểu tiện sẻn đỏ, mạch Hư Sác mà Đại.
Thần hôn do thấp nhiệt che lấp: Có chứng mình nóng khó chịu, miệng đắng dính nhớt, khát nhưng không muốn uống, mặt mắt phát mầu vàng, chân tay nặng nề, ngực bụng bĩ đầy, hạ lỵ ra trắng đỏ, dần dà đến thần thức hôn trầm, từng lúc mê man hoặc hôn mê không tỉnh, lưỡi đỏ rêu vàng cáu nhớt, mạch Nhu Tế hoặc Hoạt Sác.
Thần hôn do nhiệt thịnh động phong: Có chứng sốt cao co giật, thần thức hôn mê, nhiệt hun đốt, chân tay quyết, uốn ván, cổ gáy cứng đơ, hai mắt nhìn ngược, mặt đỏ mắt đỏ, tiểu tiện sẻn đỏ, đại tiện bí kết, chất lưỡi đỏ, mạch Huyền Sác.
Thần hôn do âm hư phong động: Có chứng từng lúc đầu choáng mắt hoa, chân tay tê dại hoặc run rẩy, tiên tới ngã lăn đột ngột, nói khó, bán thân bất toại, miệng mắt méo xệch, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Huyền Tế mà Sác.
Thần hôn do phong đàm vít lấp ở trong: Có chứng ngã lăn đột ngột, bất tỉnh nhân sự, run rẩy co giật, khóe miệng chầy nước dãi, trong họng có tiếng đờm, miệng mắt méo xếch, bán thân bất toại, rêu lưỡi trắng nhợt, mạch Huyền Hoạt.
Thần hôn do ứ huyết lấn Tâm: Có chứng thần thức không tỉnh, nói sảng, cuồng táo không yên, lưỡi nhịu rụt ngắn, thân thể nóng như đốt, bụng dưới rắn đầy, mặt môi và móng tay chân tím tái, đại tiện phân đen dỗ đi, tiểu tiện còn trong, chất lưỡi tía tối, mạch Trầm sắc.
Thần hôn do âm kiệt dương thoát: Có chứng lơ mơ khống tỉnh, nhiều mồ hôi, chân tay ấm, thở đoản gấp dần dà chuyển thành sắc mặt tái xanh, đoản hơi, thở khẽ, ra mồ hôi lạnh và dính, tứ chi quyết nghịch, nhị tiện không tự chủ, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch Vi muốn tuyệt, hoặc Hư Tế vô căn.
Thần hôn do nội bế ngoại thoát: Có chứng thần chí hôn loạn, mình nóng rét, thở thô khò khè dồn dập, mắt nhắm miệng há, xoè tay són đái, vã mồ hôi, mặt nhợt, tứ chi quyêt lạnh, lưỡi hồng hoặc đỏ nhạt, mạch Trầm Phục Hư Sác vô lực.
Phân tích
Chứng Thần hôn do nhiệt hãm Tâm bào: Chứng này chủ yếu do tà khí ôn nhiệt hun đốt doanh huyết truyền vào Tâm bào gây nên. Xu thế phát bệnh gấp gáp, tình trạng hiểm ác, bệnh tình nguy nan, tựu trưng biểu hiện “Nghịch truyền Tâm bào rất rõ”. Căn cứ vào sở tại của bộ vị bệnh tà, triệu chứng Thần hôn còn chia ra “Nhiệt ở doanh phần” và “Nhiệt ở huyết phần” khác nhau. Chỗ khác nhau của hai loại này là:
Nhiệt vào doanh phần khiến cho doanh âm tổn thương cho nên xuất hiện các chứng trạng mình nóng nặng về đêm, ban chẩn lờ mờ, lưỡi tía không có rêu, mạch Tế Sác, Ôn nhiệt luậnviết: “Doanh phận bị nhiệt thì huyết dịch bị cướp đoạt, Tâm thần không yên nặng về ban đêm và mất ngủ”. “Nhiệt tà truyền vào doanh, sắc lưỡi tất phải tía … Môi có sắc đỏ tía là Bào lạc mắc bệnh”. Thần hôn do nhiệt vào huyết phận ngoài những chứng trạng tà ở doanh phần còn có những biểu hiện như thổ huyết, nục huyết, niệu huyết, xúc huyết và phát chẩn phát ban. sắc ban tía từng nốt như chấm điểm.
Lưỡi là mầm của Tâm, nhiệt vào huyết phần, hỏa nhiệt quá thịnh, nhiệt hun đốt tân dịch tụ lại sinh đờm trọc, đờm hỏa làm nghẽn Tâm khiếu thì lưỡi cứng, khó nói; tà nhiệt vít lấp ở trong, dương khí không đạt ra ngoài thì tay chân quyết lạnh, mà nhiệt ở doanh phần, phần nhiều không biểu hiện triệu chứng này.
Mức độ thần hôn của hai bệnh chứng này khác nhau; Nhiệt ở doanh phần chỉ là doanh nhiệt quấy rối ở trên cho nên thần hôn không nặng lắm, hoặc là có lúc thần chí còn tỉnh. Nhiệt ở huyết phần thần hôn nặng hơn. Nhiệt ở doanh phần điều trị theo phép thanh doanh tiêt nhiệt, tỉnh thần khai khiếu dùng phương Thanh doanh thang sắc lấy nước chiêu với Tử tuyết đan. Nhiệt ở huyết phần điều trị theo phép lương huyết giải độc thanh Tâm tỉnh thần, chọn dùng phương Tê giác địa hoàng giả thang sắc lấy nước chiêu với An cung Ngưu hoàng hoàn hoặc Chí bảo đan
Chứng Thần hôn do phủ nhiệt hun đốt với chứng Thần hôn do nhiệt hãm Tâm bào: cả hai đều thuộc thực chứng, nhiệt chứng cho nên đều biểu hiện một loạt chứng thực nhiệt như mình nóng mặt đỏ, phiền táo lắm lời, môi xe họng khô, tiểu tiện sẻn đỏ đại tiện bí kết, nhưng nguyên nhân và cơ chế bệnh khác nhau.
Thần hôn do phủ nhiệt hun đốt là do nhiệt tà vào lý đã sâu, cùng kết hợp với tích trệ biến thành Dương minh phủ thực, khí táo nhiệt kèm với trọc khí xông lên hun đốt phần trên quấy rối thần minh. Thần hôn do nhiệt hãm Tâm bào là do tà hãm vào trong thần minh bị che lấp. Thần hôn do phủ nhiệt hun đốt phần nhiều phát sinh về buổi chiều hoặc về chiều thì nặng hơn. Còn Thần hôn do nhiệt hãm Tâm bào thường là sáng nhẹ tổi nặng. Thần hôn do phủ nhiệt xông lên có liên quan chặt chẽ với chứng táo bón, khi bị táo bón Vị trường bị táo thực nghẽn trệ, phủ khí không thông, khí trọc độc bôc lên quấy rối thần minh, cho nên táo bón càng nặng thì thần hôn càng nặng. Thần hôn do nhiệt hãm Tâm bào tuy nhiên cũng có thể xuất hiện táo bón nhưng không phải là nguyên nhân chủ yếu để cấu thành Thần hôn (nguyên nhân chủ yếu là do tà khí ôn nhiệt). Ngoài ra Thần hôn do nhiệt hãm Tâm bào thường thấy phát ban phát chẩn, còn Thần hôn do phủ nhiệt hun đốt thì thấy Dương minh thực nhiệt, rêu lưỡi phải vàng già, nhiệt hãm Tâm bào, chất lưỡi đỏ tía hoặc tía sẫm.
Thần hôn do phủ nhiệt hun đốt điều trị dùng thuốc khổ hàn để hạ mạnh, tả nhiệt và thông tiện có thể chọn dùng các phương Đại, Tiểu Thừa khí thang. Chỉ cần thanh được phủ nhiệt, táo ở ruột đã rứt, tà khí không xông lên thì thần được yên tĩnh.
Chứng Thần hôn do nhiệt độc xông lên Tâm với chứng thần hôn do thử tà xâm lân lên trên: cả hai chứng về nguyên nhân, cơ chế bệnh và biểu hiện lâm sàng đều không giống nhau. Chứng Thần hôn do nhiệt độc xông lên Tam là nhiễm phải tà khí thời dịch hỏa độc hãm vào trong thành Tẩu hoàng quấy rối doanh làm bại huyết truyền vào Tâm bào, cơ chuyển tinh thần không hoạt động nên mức độ Thần hôn khá sâu, lại kiêm cả xuất hiện hàng loạt triệu chứng như độc tà úng tắc Thượng tiêu, độc tà hun đốt khí huyết dồn ra tứ chi, dư độc làm thương âm… phần nhiều xuất hiện ở các chứng Đại đầu ôn, Phát di, Đinh sương và Tẩu hoàng… còn chứng Thần hôn do thử tà xâm lấn ở trên thì chỉ xuất hiện ở mùa hè nóng nực do thử tà xâm nhập hao khí hại tân làm cho khí tân thoát ra đột ngột làm rối loạn thần minh. Ngoài triệu chứng Thần hôn ra còn kiêm các triệu chứng như mình nóng, mặt nhờm bẩn, thở thô như suyễn, mồ hôi lạnh chầy ra không dứt, tứ chi quyết nghịch, mạch Hư Đại mà Sác.
Chứng Thần hôn do nhiệt độc xông lên Tâm điều trị theo phép thanh giải nhiệt độc ở khí phận, tỉnh thần khai khiếu có thể dùng loại thuốc thanh nhiệt giải độc liều cao, chọn dùng phương Tê giác địa hoàng thang hoặc Thanh ôn bại độc ẩm chiêu với An cung ngưu hoàng hoàn. Nếu dư độc thương âm, Thận tinh bị hao tán, nguyên thần không được nuôi dưỡng thì nên tư dưỡng âm dịch, sử dụng Gia giảm Phục mạch thang tùy chứng mà thêm bớt. Thần hôn do thử tà lấn lên trên điều trị theo phép tân lương khai khiếu dùng các phương Tử tuyết đan hoặc An cung ngưu hoàng hoàn.
Chứng Thần hôn do thấp nhiệt che lấp với chứng Thần hôn do phong đàm bế ở trong: Cả hai đều thuộc thực chứng, đều do thực tà vít lấp không khiếu dẫn đến Thần hôn, nhưng nguyên nhân bệnh khác nhau. Loại trên là tà khí thấp nhiệt uât nghẽn khí phận không giải, nung nấu đờm trọc che lấp Tâm khiếu gây nên bệnh. Loại sau do phong đàm gây bệnh lại do thể trạng vốn đờm thịnh cảm nhiễm phong tà hoặc Can Đởm vượng một phía mà sinh ra nội phong, phong dương kiêm đờm bên trong quấy rối Tâm khiếu xuất hiện chứng Thần hôn. Thần hôn do thấp nhiệt che lấp thường là lúc tỉnh lúc mê có trạng thái lơ mơ khó tả còn kiêm chứng mình nóng khó chịu, chân tay khốn đôn, tiểu tiện đỏ, mắt vàng như mầu quýt chín hoặc xích bạch hạ lỵ, lý cấp hậu trọng, rêu lưỡi vàng nhớt là những chứng hậu do thấp nhiệt gây nên. Thần hôn do phong đàm bế ở trong kiêm chứng chân tay thân thể run rẩy co giật hoặc bán thân bất toại, miệng mửa ra bọt trắng là những chứng trạng do phong khí nội động. Vì thế qua đặc điểm cơ chế bệnh của hai chứng này biểu hiện lâm sàng rất dễ chẩn đoán phân biệt. Thần hôn do thấp nhiệt che lấp, điều trị nên thanh nhiệt hóa thấp, quét đơm khai khiếu, dùng các phương Xương bồ uất kim thang, Tô hợp hương hoàn. Thần hôn do phong đờm bế ở trong điều trị nên bình Can dẹp phong, quét đờm khai khiếu, dùng các phương Địch đàm thang, Thiên ma câu đằng ẩm.
Chứng Thần hôn do nhiệt thịnh động phong với chứng Thần hôn do âm hư phong động: Đều thuộc nội phong, nhưng một là chứng thực nhiệt, một là chứng bản hư tiêu thực. Thần hôn do nhiệt thịnh động phong thường có chứng sốt cao rõ rệt, kinh quyết, uốn ván mặt hồng, mắt đỏ; cơ chế bệnh là: nhiệt tà thái quá hun đốt Can kinh, quấy rối thần minh. Còn chứng Thần hôn do âm hư phong động thì có các chứng trạng chủ yếu là miệng mắt méo xếch, bán thân bất toại, nói khó do khí huyết nghịch loạn, kinh lạc bị nghẽn trệ. Cơ chế bệnh là: Can Thận âm hư, hư dương vọng động xông lên đỉnh đầu làm rối loạn thần thức. Thần hôn do nhiệt thịnh động phong điều trị nên thanh nhiệt dẹp phong, tỉnh thần khai khiếu, chọn dùng phương Tê giác câu đằng thang phối hợp với Tử tuyết đan. Thần hôn do âm hư phong động điều trị nên dục âm tiềm dương, bình Can dẹp phong, chọn dùng phương Đại định phong châu thang hoặc Thiên ma câu đằng âm.
Chứng Thần hôn do ứ huyết lấn Tâm: Yếu điểm biện chứng là: ngoài chứng Thần hôn phải lộ rõ triệu chứng ứ huyết như các chứng trạng môi miệng, móng chân tay tím tái, bụng dưới rắn đầy, đại tiện phân đen, tiểu tiện trong dài, chất lưỡi tía tối và có nốt ứ huyết. Sách Ôn nhiệt luận nói: “Mùa hạ bị nhiệt lâu ngày phạm vào huyết phần nhiều là Xúc huyết, nói sảng hôn cuồng, cách nhìn nhận là tiểu tiện trong dài, đại tiện phải đen là đúng bệnh ấy”. Có một số người bị bệnh ở giai đoạn Thần hôn rất khó đoán định là do ứ huyết gây nên, nhưng do đại tiện phân đen sau khi đại tiện được thì thần chí tạm tỉnh táo, bấy giờ mới chứng thực là Thần hôn do huyết kết ứ nghẽn gây nên. Chứng này phần nhiều là nhiệt vào doanh huyết, huyết và nhiệt câu kết ứ tắc ở Tâm, hoặc sau khi đẻ bị nhiễm tà độc, tà huyết tranh giành nhau, ứ huyết không giải, huyết ứ khí nghịch làm rối loạn thần minh hoặc huyết chết đọng ở Tâm khổng, thần chí mất linh hoạt, ứ nhiệt nghẽn các khiếu, nhiệt vào huyết thất, Thần hôn do chân Tâm thông đều thuộc loại này. ứ nhiệt nghẽn lấp các khiếu thì xuất hiện chứng nói sằng nói bậy, thân thể nóng rát. Nhiệt vào huyết thất thì thường thấy hàn nhiệt như Ngược, kinh huyết ra màu đen tía có hòn cục; chứng Chân Tâm thông thì thấy vùng tim đau đột ngột mặt xanh phả hơi lạnh. Hàng loạt triệu chứng như thế khi lâm sàng cần phân biệt chẩn đoán, về phương diện điều trị chủ yếu nên dùng phép thông ứ khai khiếu, linh hoạt lựa chọn các phương Tê địa thanh lạc ẩm, Huyết phủ trục ứ thang. Sau khi đẻ mà ứ huyết xông lên Tâm có thể dùng Đào nhân Thừa khí thang gia giảm.
Chứng Thần hôn do âm kiệt dương thoát với chứng Thần hôn do nội bế ngoại thoát: Một là hư chứng, một là chứng hư thực lẫn lộn Thần hôn do âm kiệt dương thoát phần nhiều do mất huyết quá nhiều đến nỗi khí theo huyết thoát, hoặc tả hạ dồn dập, Tỳ khí suy bại, kiệt quệ; hoặc sau khi ra nhiều mồ hôi, tân khí kiệt ở trong. Thần hôn do nội bế ngoại thoát thì do tà khí quá thịnh vít lấp thanh khiếu ở trong đồng thời chính khí bị hao tán, thần mất nơi ẩn náu.
Thần hôn do âm kiệt dương thoát lúc đầu phần nhiều có các dấu hiệu vong âm như chân tay ấm, ra mồ hôi ấm và mặn, khát muốn uống nước lạnh, thở thô, lưỡi đỏ mà khô, mạch Sác vô lực; tiếp theo xuất hiện chứng vong dương có các chứng trạng: sắc mặt tái xanh, mồ hôi ra đầm đìa, đoản hơi thở khẽ, mạch Vi muốn tuyệt. Còn như vong dương dẫn đến vong âm nói chung hiếm gặp. Thần hôn do nội bế ngoại thoát thường là vừa thoát vừa bế đồng thời xuất hiện. Ngoài những hiện tượng tà nhiệt, đờm trọc và ứ huyết gây bệnh như mình nóng, đờm khò khè, đại tiện phân đen còn thêm cả các chứng vong âm, vong dương làm cơ sở để chẩn đoán phân biệt.
Thần hôn do âm kiệt dương thoát điều trị nên hồi dương cố thoát, ích khí liễm âm tùy chứng mà chọn dùng các phương Sâm phụ thang, Tứ nghịch thang, Sinh mạch tán. Thần hôn do nội bế ngoại thoát nên sử dụng phép chữa cả thoát và bế; nếu bế chứng là chủ yếu thì phải khai bế trước tiên và kiêm phù chính. Nếu thoát chứng nặng hơn thì phải cần kíp cố thoát và cũng cần chú ý đến khư tà; khi lâm sàng nên nhận thức chủ thứ mà biện chứng thi trị.
Chứng Thần hôn tuy bệnh cơ phức tạp biểu hiện đa đoan nhưng sau khi đã bị hôn mê thì không ngoài việc phân biệt thuộc “Bế chứng” hoặc “Thoát chứng”. Bế chứng thì có những đặc điểm là khi hôn mê thì hàm răng cắn chặt, chân tay cứng đơ và nắm chặt, mặt đỏ, thở thô, đờm dãi nhiều. Loại chứng trị tài viết: “Như hàm răng cắn chặt, hai tay nắm chặt đó là Bế chứng”. Còn Thoát chứng thì biểu hiện chủ yếu là mắt nhắm miệng há tay xòe, vãi đái, mũi khò khè, thở nhẹ, ra mồ hôi, chân tay lạnh. Tạp hênh nguyên lưu tê chúc viết: “Triệu chứng thoát tuyệt như thế nào? Kinh nói: miệng há là Tam tuyệt, tay xòe là Tỳ tuyệt, mắt nhắm là Can tuyệt, vãi đái là Thận tuyệt, mũi phì phò là Phế tuyệt… đều là do quá hư dẫn đến dương thoát”. Bế chứng cần phải khai bế thông quan. Thoát chứng cần phải hồi dương cố thoát. Hai loại này khác nhau một trời một vực không nên lẫn lỗn.
Trích dẫn y văn
Tà khí ẩn náu ở đường lạc Thủ Túc Thiếu âm Thái âm và Túc Dương minh. Năm đường lạc này đều hội ở trong tai lạc với góc trán bên trái, cả năm lạc đều kiệt khiến cho mạch của thân mình bị động hình thể vô tri giống như thấy chết nên gọi là Thi quyết (Tố vấn – Mậu thích luận).
Phong hàn thử thấp đều có thể trúng vào người chỉ có thấp khí tích luỹ lâu ngày lưu trệ ở khớp xương cho nên mới có thể trúng, chứ không như phong hàn thử thấp có khi trúng đột ngột, chứng Trúng thấp, khớp xương vừa đau vừa nặng, phù thũng trướng đầy, bụng trướng phiền muộn hôn mê bất tỉnh nên dùng Bạch Truật tửu. Nếu có chỗ bị tổn thương (Như mụn nhọt, vết thương) lại do tắm rửa thấp khí qua miệng mụn nhọt lọt vào khiến người ta hôn mê nặng nề giống như trúng thấp tên là Chứng Phá thương nên dùng Bạch Truật tửu (Chứng trị yếu quyết – Thấp biện trúng thương).
Chứng Chướng ngược phát cơn có giờ giấc, thần thức hôn mê lắm lời quàng xiên hoặc thanh âm ấm ớ đó là chứng Chướng độc ngược tật. Nguyên nhân của Chướng Ngược là do nhiễm sơn lam trướng khí, thấp độc có chỗ nung nấu ấp ủ, trướng khí lọt vào tạng phủ, huyết tụ ở thượng tiêu bại huyết nhồi vào Tâm khiếu, độc lan tỏa tụ vào Can Tỳ tức là dã phát sinh chứng Chướng độc Ngược tật (Chứng nhân mạch trị – Chướng ngược).
Chứng Hàn quyết bạo vong cũng là một bệnh tích hàn khác với Trúng hàn. Bởi vì cái hàn của Trúng hàn không phải tất cả là tích luỹ đã lâu. Còn cái hàn tuỳ trúng, tùy phát thành Hàn quyết là do hàn tà ẩn náu đã lâu ở trong mà lạ bị dụ phát cả hàn tà mới liền quyết mà bạo vong. Cho nên xét về chứng trạng tuy có cấm khẩu, chân tay cứng đờ hôn mê bất tỉnh, nhưng về nguyên nhân thực ra là một loại bệnh phát ngay và một loại bệnh tích đã lâu mà dụ phát (Tạp bệnh nguyên lưu tê chúc – Hàn bệnh nguyên lưu).
U men xương hàm (Ameloblastoma) là u có nguồn gốc từ liên bào tạo men, là u lành tính nhưng có tính chất phá hủy và có thể chuyển dạng thành ác tính.
II. NGUYÊN NHÂN
Phát sinh từ liên bào tạo men còn vùi kẹt ở trong xương hàm.
III. CHẨN ĐOÁN
Chẩn đoán xác định
Lâm sàng
Giai đoạn đầu: Bệnh tiến triển trong xương hàm, không có triệu chứng và được phát hiện tình cờ khi chụp X quang xương hàm.
Giai đoạn u to làm phồng xương hàm
Ngoài mặt
Mặt biến dạng, sờ không đau, khối u không đều sờ có chỗ cứng, chỗ mềm.
Trong miệng
U làm phồng xương hàm, làm đầy ngách lợi, thời kỳ đầu niêm mạc và răng trên u bình thường, ấn cứng. Khi u đã phá hủy tới vỏ xương thì ấn có dấu hiệu bóng nhựa. Khi u đã phá hủy hầu hết xương có các dấu hiệu dưới đây:
+ Các răng trên vùng u có biểu hiện di lệch.
+ Niêm mạc trên vùng u có thể bị loét do sang chấn hoặc có các dấu răng.
+ Trường hợp u bị bội nhiễm: có cảm giác đau, niêm mạc và da trên u đỏ, các răng trên u lung lay nhiều. Bệnh nhân có sốt và xuất hiện hạch vùng ngoại vi.
+ Hiếm gặp u men ở hàm trên. Nếu gặp thì có thể có thấy triệu chứng mũi xoang.
Cận lâm sàng
X quang
Có hình ảnh tổn thương phá hủy xương hàm dạng nang có thể một hoặc nhiều buồng, ranh giới không rõ. Có thể có hình ảnh tiêu chân răng các răng liên quan.
Mô bệnh học
Thấy hình ảnh tổn thương đặc trưng của u men. Dựa vào hình ảnh mô bệnh học, u men được phân loại thành các thể dưới đây:
+ U men thể nang: Ameloblastoma.
+ U men dạng tuyến: Adeno-Ameloblastoma.
+ U men – xơ: Fibro-Ameloblastoma.
+ U men dạng nhày: Myxo-Ameloblastoma.
+ U men máu: Angio-Ameloblastoma.
Chẩn đoán phân biệt
– Nang xương hàm
+ Nang thân răng: trên X quang có hình ảnh tổn thương xương hàm có ranh giới rõ, và liên quan đến thân răng ngầm nằm trong nang.
+ Nang chân răng: liên quan với răng nguyên nhân nhưng trên X quang không có hình ảnh tiêu chân răng.
IV. ĐIỀU TRỊ
Nguyên tắc
Phẫu thuật cắt bỏ triệt để toàn bộ khối u để tránh tái phát.
Điều trị cụ thể
Trường hợp u có kích thước nhỏ, chưa phá hủy nhiều xương
+ Phẫu thuật cắt bỏ u, giữ lại bờ nền xương hàm.
+ Phục hình răng để phục hồi chức năng ăn nhai.
Trường hợp u có kích thước lớn, phá hủy nhiều xương
+ Phẫu thuật cắt bỏ u và đoạn xương hàm.
+ Phục hồi đoạn xương cắt bỏ bằng kỹ thuật ghép xương hàm.
+ Phục hình răng để phục hồi chức năng ăn nhai.
– Trong một số trường hợp có thể tiến hành phẫu thuật mở thông u men để chuẩn bị cho phẫu thuật cắt bỏ triệt để.
V. TIÊN LƯỢNG VÀ BIẾN CHỨNG
Nếu phẫu thuật không triệt để, lấy bỏ toàn bộ u thì có nguy cơ tái phát
Nếu không được điều trị thì u gây phá hủy xương hàm nhanh chóng, có thể gây gãy xương bệnh lý và xâm lấn mô mềm xung U men còn có nguy cơ chuyển dạng ác tính.
Nếu phẫu thuật triệt để lấy bỏ toàn bộ u thì sẽ có tiên lượng tốt
VI. PHÒNG BỆNH
Khám chuyên khoa răng hàm mặt định kỳ để phát hiện tổn thương sớm và điều trị kịp thời.
Sơn chi tử 7 quả, nướng chín sắc lấy nước, bỏ bột Đại hoàng 3 – 4 đồng cân vào uống nóng, kiến hiệu.
Mắt mộng thịt, tia máu
Lá nõn sậy giã nhỏ bao giấy bản đắp
Mắt đỏ:
Lá cây đào ăn quả 1 nắm, củ nghệ 10g. Giã nhuyễn với 30 ml nước sôi, vắt lấy nước, lọc trong, cho vào lọ nút kỹ. Nhỏ vào mắt, bã rịt mắt băng lại.
Quáng gà do can huyết hư
Đâm đọt non me nước hoặc me keo với tí muối mà đặt, rất công hiệu. Vị thuốc trị mắt do một cụ già ở Cù lao Giang, bị mắt đau, nằm mơ thấy ông tiên chỉ.
Mắt bị mụt lẹo
Gói cơm nóng trong vải mỏng, áp vào mắt, nguội thì thay, ngày 2-3 lần.
Mắt bị mụt lẹo
Dùng đũa bếp hơ nóng, áp nơi có mụt lẹo, ngày nhiều lần.
Thuốc đau mắt
Thuốc trắng:
Mai hoa long não 2 lạng (tán) – Bạch phàn 5 đồng cân (tán)
Bằng sa 5 đồng cân (rải trên) – cổ nguyệt 5 hột (rải trên)
Đinh hương 5 nụ (rải trên)
Thuốc đen:
Mai hoa 5 đồng cân – Nam tinh 5 đồng cân
Thuốc vàng:
Mai hoa 5 đồng cân – Thạch cam lộ 2 lạng
Cửu khổng 5 đồng cân
Cửu khổng tẩm giấm thanh 3 ngày đêm rồi đem mài cho tróc bỏ vỏ nhám ồ ngoài bỏ vào nồi đốt với Bắc Thạch cam lộ vào, nấu 5 ngày đêm với nước, 5 lạng Hoàng liên phơi khô.
Lể mộng đánh cật bằng chanh Ngược lại dấu hiệu thì nhanh lể liền.
Mắt kéo mây
Mắt đỏ thình lình bị kéo mây Ngò tàu một vị thật là hay Nhét vào lỗ mũi thường thay đổi Trong độ 3 ngày sáng lại ngay.
Mắt có mây
Mắt mây che chẳng thấy chi Lá me lấy nước sôi thì xông vô.
Mắt có mây
Kéo mây, tròng trắng gà so
Thang phần chừng nửa con so hiện thần.
Mắt có mây
Phèn chua, chanh giấy, mật trăn
Năm chanh chưng chín mau lành cuộn mây.
Mắt có mây
Muối đen, đọt nở hái ngay
Trứng gà tròng trắng trộn rày đắp lên.
Quáng gà
Cáp phấn (vỏ ngao) 20g – Sáp ong 12g
Gan lợn tươi hay gan dê 50 – 80g
Vỏ ngao rửa kỹ, nung chín, nghiền nhỏ; sáp ong nấu chảy với cáp phấn, khuấy đều; gan tươi bổ đôi, đổ thuốc vào, khép lại, buộc, dùng giấy quấn cho vào nồi luộc chín, bắc xuống xông con mắt rồi ăn hết. Mỗi ngày 1-2 lần.
Chảy nước mắt sống
Rau Câu kỷ phơi khô 20g, đổ xiếp nước, sắc lấy 1 chén, uống trước khi đi ngủ, 4-5 lần là khỏi.
Thạch quyết minh 1 chỉ, đốt cháy đỏ, ngâm nước lạnh độ 1 giờ, nhỏ mắt.
Mắt đỏ có màng
Nấu canh Câu kỷ ăn cho mát là hết.
Mắt đỏ có ghèn
Đi đường bụi, gió làm mắt đỏ, đổ ghèn
Nhỏ nước muối hột rang (nên làm sẵn mà dùng)
Đâm nhuyễn rau giấp cá với tí muối đắp lên mắt (vị thuốc rất rẻ mà rất hay).
Mắt bị kéo mây
Xạ hương, Băng phiến mỗi vị 1 phân, chưng cách thủy với sữa mẹ, lắng trong mà nhỏ mắt, vài ngày hết.
Đau mắt vàng
Nếu thấy tròng trắng có màu vàng nhạt là bị đau gan, phải trị gan.
Đau mắt xanh
Tròng trắng mắt hơi xanh, cũng có lòa và xốn
Huỳnh liên 2 chỉ (bỏ lông) – Huỳnh bá 1 chỉ
Bạch phàn 5 phân
Tán nhỏ, chưng với sữa mẹ con so mà nhỏ.
Quáng tâm sáng đêm không thấy đường
Lấy một miếng gan bò chưng chung với nước lá hẹ, đường phèn hoặc đường cát. Đêm phơi sương, sáng sớm ăn, vài ba lần, mắt sáng lại tốt.
Mắt nổi vảy cá
Nhân trung hoàng 3 phân, đốt cháy hòa nước, lóng cho trong mà nhỏ.
Đau mắt vì có sâu
Mắt bị ngứa ngáy, rất khó chịu, có người cho là bị bù lạch ăn. Thât ra là có sâu, nhỏ cỡ sơi chỉ may đồ xé làm 3. dài 1 1,5 ly.
Lá tía tô tươi, tốt: 5 – 7 lá, rửa thật sạch, dùng cán dao sạch (không có đâm ớt) đâm thật nhuyễn nếu quá khô, thêm 1 muỗng cà phê nhỏ nước chín, vắt nước cốt đó mà nhỏ vô cả hai mắt, nháy cho đều thuốc trong mắt.
Dùng tăm xỉa răng quấn gòn sạch, gọn, nhỏ cỡ hạt gạo, với 10 phút sau khi nhỏ thuốc, vạch mí mắt trên dưới, phía trong, dùng que gòn mà khều sâu ra đếm.
Thường gạt sâu (có khi còn sống và bò từ từ) trên 1 miếng lá chuối tươi cho dễ thấy. Làm 2-3 lần như vậy, hết sâu là thấy ngứa mắt.
Đau mắt đỏ
Nhỏ mắt bằng mật ong ruồi còn tươi.
Rau má, giấp cá, tí muối hột đâm chung cho nhuyễn, trải giấy bạch mà đặt.
Phác tiêu 1 chỉ, ngâm nước, lọc sạch mà rửa mắt.
cây rau má
Đau mắt kéo mây
Nấu sôi 1 nắm lá me, đổ ra tô lớn, lấy khăn trùm đầu, dùng 1 ông trúc thổi nước trong tô cho lên hơi mà xông.
Một lòng trắng trứng gà so, 1 chung sữa mẹ “con so”, 1 chỉ phèn xanh tán nhỏ, chưng cách thủy để nguội mà nhỏ. Làm ngày 3 lần, mỗi lần 1 giọt, vài ngày tan mây.
Đau mắt có cườm (mộng)
Đâm nhỏ 1 nắm đọt tầm phỏng, chế vô ít rượu trăn đã hâm ấm, vắt lấy nước đắp vải mỏng ngang mắt. Nhểu thuốc lên vải, ấn nhẹ tay cho thuốc thấm mắt, vài lần tan cườm.
Kiêng ăn đồ nóng, ớt, tiêu, tỏi và động phòng.
Cam nhảm mắt
Nấu 3 lá dâu tằm ăn hoặc 6 lá giấp cá với 200 ml nước và 2g muối hột. Rửa mắt cho sạch.
Một nắm lá dành dành, hái lúc mặt trời đã lặn, rửa sạch, ngâm nước muối mặn, giã nát lấy nước cốt để cho đông lại (như thạch), vải thưa đắp mắt, để thuốc lên mà đặt. Ngày 2 lần, 1 lần vài giờ.
Cam nhăm mắt do can huyết hư tổn, 5-7 ngày không mở mắt được, không sưng đỏ:
Vỏ trứng gà đã nở con (sao) 50g; Bạch chỉ, Cam thảo, mỗi vị 12g sấy khô, tán mịn. Ngày uông 2 – 4g với nước cơm.
Mắt đỏ sinh màng
Câu kỷ tử giã lấy nước, mỗi ngày nhỏ vào mắt 3-4 lần, thì kiến hiệu.
Chi tử 1/2 cáp, nước 1 chén ngâm cho đặc, bỏ vào chút phèn chua với mấy đồng tiền cổ (đàn ông 7 đồng, đàn bà 9 đồng) ngâm 1 đêm, lóng lấy nước nhỏ vào mắt, kiến hiệu ngay.
Mắt đỏ sưng đau
Phèn phi tán 3 đồng cân; gừng sống, bỏ vỏ, giã lấy nước, hòa làm cao bôi trên mí mắt, đốt hết 1 nén hương thì hết sưng đau, rồi rửa đi.
Hoàng đơn hòa với mật ong dán ở huyệt Thái dương.
Mai mực 1 phân, Hoàng liên 1/2 phân hòa với mật ong điểm vào.
Hết thảy các chứng đau mắt
Thạch quyết minh (mài bỏ vỏ ngoài) đốt bằng than duối, chờ khi vừa chín thì lấy ra, tẩm đồng tiện 15 phút. Lại dùng Cốc tinh thảo, Xa tiền tử, Mật mông hoa, Quyết minh tử nấu nước để ngâm Thạch quyết minh 1 đêm, lấy ra phơi khô, giã dập. Dùng Đởm phàn 7 phân, Bằng sa 1 đồng cân, 2 vị tán hòa với 1 bát nước lạnh, đem ngâm Thạch quyết minh 1 đêm, lấy ra phơi khô, tán bột.
Sau đó dùng:
Lộ cam thạch 2 lạng – Thạch quyết minh 3 lạng
Đồng tán chung thật mịn.
Mắt sinh trùng, mí mắt trên dưới đều loét đỏ
Mật ong nấu thành cao đặc, bôi khắp trong lòng bát, đem Kinh giới cả bông, lá, cành đốt để cho khói bốc lên trong lòng bát, cạo lấy khói với mật bôi vào mắt, vừa trừ phong vừa sát trùng.
Mọi chứng đau mắt
Lô cam thạch 2 lạng, nước tiểu con trai khỏe mạnh 6 tuổi 2 bát, lấy than duối than dâu đốt Cam thạch cho dỏ lên, tẩm đồng tiện, đốt tẩm 7 lần, lại lấy Đương quy 5 đồng cân, Hoàng liên 2 đồng cân, Đinh hương 10 cái, Ô tặc cốt 5 đồng cân, tẩm Cam thạch 1 đêm nữa, đem ra rửa sạch, phơi khô, tán, đựng vào lọ, nút trát cho kín, tùy chứng thêm bớt mà dùng.
Nếu mắt sưng đau không mở được, thêm:
Long cốt, Thạch giải, Trân châu, Hoàng liên, đều mài lấy nước, hòa với Cam thạch nhỏ vào mắt.
Nếu có mộng thịt thêm:
Trân châu 3 đồng cân, hòa với Cam thạch cùng nghiền điểm vào.
Nếu có màng hình như cái kim nằm trong mắt, thêm. Hoàng đằng 1 đồng cân, Bạch phàn 1 phân, hòa Cam thạch nghiền bột điểm vào. Sau khi khỏi, thêm Trân châu 1 đồng cân hòa với Cam thạch điểm vào mắt. Sau khi khỏi rồi, lấy Hoàng liên, Cam thảo, Hoàng đằng 1 đồng cân, nấu trong nồi đất xông cho hết độc.
Đau mắt vì phong hỏa sưng đỏ
Đại hoàng, Hoàng liên, Hoàng bá, Đương quy, Sài hồ, Uất kim bằng nhau, thái nhỏ, nấu với rượu ngon, ngâm 1 lúc, bỏ thuốc lấy rượu, lắng trong, nhỏ vào mắt.
Sưng thì thêm Bạc hà.
Đau lắm thì thêm nước mật con ếch.
Thuốc bí truyền do dị nhân truyền có kết hợp cắt lể lấy ác huyết ra. Phương âm đan chủ trị chứng mây màng và mộng thịt
Lá Bồ công anh cả gốc rễ 3 lạng, Đởm phàn 1 lạng, dựng vào cái bát giã (bát tràng), đổ vào 1 bát rượu ngon, lấy bùn với muối trát, bịt kín miệng bát, đặt bát trên lửa than đun, tới khi Bồ công anh đốt tồn tính, lấy ra để ngay trên tờ giấy ướt đem cái bát khác úp lại, hết khói lửa thì nghiền bột để dùng.
Lộ cam thạch, đốt lửa thật đỏ, lấy 1/2 sắc, hòa với 1/2 đồng tiện tẩm vào, đốt tẩm 7 lần, phơi khô nghiền bột để dùng, khi hầm đốt dùng than duối tốt hơn.
Hoàng đan, chủ trị mắt nhiệt, mắt đỏ, sưng đau, rất có khả năng sinh da non hết đau, tan máu.
Để trên tờ giấy sao qua để bỏ chất độc của kim, thủy phi phơi khô để dùng.
Mai hoa (thứ to là Long não, thứ nấu luyện là Băng phiến, thứ rất tinh túy luyện là Mai hoa) chữa mọi bệnh ở mắt.
Hoàng liên làm mát huyết tả hỏa.
Long cốt chủ trị chứng bệnh ở mắt rất nặng với nước mắt có màng, nát toét vành mắt, lông quặm, mắt khô, dùng thì nướng đốt lên.
Khô phàn chủ trị các chứng mắt sưng đau, mắt có mây màng, mắt khô, nung lửa mà dùng.
Bằng sa chủ trị phong nhiệt, không chảy nước mắt, để sống mà dùng, có nước mắt thì khi dùng sao lên nghiền bột.
Than cây duối chủ trị mắt sưng đau, đốt thành than nghiền ra mà dùng.
Đởm phàn chủ trị chứng lòi thịt có màng mây, mỗi khi dùng mài lấy nước hòa với thuốc.
Xạ hương chủ trị chứng tròng mắt lòi ra cùng đau xuvên tới óc.
Hùng đởm chủ trị mây màng, mài với nước mà dùng.
Hàn thủy thạch chủ trị phong nhiệt, mắt đỏ sưng đau, mài lắng nước hòa với thuốc.
Chữa chứng đau mắt phong đỏ, sưng đau ngứa
Cam thạch 3 phân, Mai hoa 1 phân, than cây duối 2 ly, nếu chỉ có đau thôi thì lấy nước ốc nhồi hòa với sữa người nhỏ vào mắt, ngoài thì dùng nước lá Bạc thau giã nát hòa với Hoàng đơn tẩm ướt làm bánh đắp vào không có sưng ngứa thì không cần đắp ở ngoài.
Chữa chứng màng trắng che lòng đen
Cam thạch 3 phân, Mai hoa 1 phân, Âm đan (đã nói trên) 1/2 phân, hòa với nước Đởm phàn nhỏ vào mắt.
Chữa màng mây
Cam thạch 3 phân, Mai hoa 1 phân, than cây duối 2 ly, hòa với đồng tiện và tí muối nhỏ vào mắt.
Chữa mộng thịt nổi che tròng mắt
Cam thạch 1 phân – Than duối lphân
Âm đan 3 phân – Long não 1/2 phân
Mai hoa 1 phân – Bạch phàn 1 phân
Xạ hương 1/2 phân
Tất cả tán bột rắc vào mắt.
Chữa chứng sau khi lên đậu, độc của đậu vào mắt, công hiệu không gì bằng
Hoàng liên 1 phân, Đởm phàn 5 ly, Long cốt 2 phân, Hàn thủy thạch 1 phân, Mai hoa 2 phân, Cam thạch 1/2 phân, Xạ hương 1/2 phân đều tán bột, viên với hồ lỏng to bằng hạt đậu xanh, tùy chứng dùng thang mài nước nhổ vào mắt.
Mắt sưng đau
Lấy lá Trường sinh giã lấy nước, mài thuốc nhỏ vào.
Chỉ đau thôi, mài với nước Hoàng liên lắng trong nhỏ vào.
Màng mây cứng: lấy rượu mài 1 tí Thạch tín hòa với thuấc nhỏ vào nhưng phải xem trong màng chỗ nào dày nhất là chân của màng thì lấy cái bút lông mới chấm thuốc điểm vào.
Chữa chứng đau mắt phong, những chứng sau khi lên đèn chói ánh sáng, sợ mặt trời
Cam thạch (làm quân), Hoàng đơn (làm thần), Mai hoa (làm sứ) cùng tán bột điểm vào, nếu có màng thêm thuốc chữa màng.
Đau lắm, thêm Xạ hương.
Nóng lắm, thêm Hàn thủy thạch và Hoàng liên.
Chữa chứng màng mây
Cam thạch (làm quân), than duối (làm thần), Mai hoa (làm tá), Âm đan (làm sứ) đều tán bột nhỏ vào mắt.
Cam thạch (làm quân), Hoàng đan (làm thần), Long não (làm sứ) đều tán bột, lấy Thiên lý quang (tức Thiên lý cập, một loài cỏ mọc ở núi, vị đắng, tính hơi độc, còn có tên Hoàng hoa)
Thiên lý quang giã nhỏ gói lại đắp trên mí mắt, nhưng lấy thuốc trên hòa với nước tẩm cho ướt luôn, gói ấy khô thì thay, phàm chứng đau mắt sưng đau, trong điểm thuốc và ngoài đắp thuốc này rất hay.
Thuốc xông, chữa chứng bị ác phong sưng đau, mí mắt trên bằng nhau dưới sưng thâm
Phòng phong, Khương hoạt, Bạc hà, Thương truật, Kinh giới, Ngải diệp đều bằng nhau, bẻ vụn, bỏ vào trong nồi mà nấu rồi lấy lá chuôi tiêu bịt miệng nồi, châm nhiều lỗ nhỏ để xông, lại lấy Cam thạch, Hoàng liên, Long não làm thành bột, bỏ vào trong lỗ để xông lấy hơi.
Thuốc xông, để kỵ gió sau khi khỏi bệnh
Lá Đại bi, lá Long nhãn, lá Quất, Bạc hà, lá Ngải bằng nhau, bỏ vào nồi, lấy lá chuối bịt miệng nồi, nấu sôi, chọc thủng nhiều lỗ để xông hơi.
Chữa mắt quáng gà
Thương truật 5 đồng (tẩm nước gạo sao), Thạch quyết minh 1 lạng (đốt tẩm nước muối 3-4 lần), Bạch tật lê 1 lạng (sao giã bỏ gai) cùng tán, lấy cái gan dê dùng dao nứa bổ ra lấy thuốc bột chia 4 phần, 1 phần nhét trong gan, ngoài lấy chỉ gai buộc chặt để vào nồi nấu kỹ, chia 3-4 lần ăn thì khỏi.
Đau mắt do hỏa độc
Lá ngải đốt cho bốc khói, lấy bát úp lại, đợi khói trong bát đã thành vàng khói, cạo lấy hòa với nước, rửa hoặc điểm vào mắt, thêm bột Hoàng liên càng hay.
Can hư, tròng mắt nhức, chảy nước mắt, chói mắt
Hương phụ 1 đồng cân sao, tán, uống với nước chè.
Trong mắt có màng mây trắng
Hoàng liên, Long cốt, Hoàng bá, Bạch tật lê, hạt é (thơm như Hương nhu) đều tán, hòa với sữa người bôi vào, nếu bệnh nặng thì thêm Đởm phàn.
Đau mắt phong
Điền sa (mật ếch), Đởm phàn nghiền, phèn hòa với nước mật ếch điểm vào mắt.
Đau mắt đỏ
Lấy nước quả chanh bỏ vào nồi đồng ngâm 1 lúc rồi lấy nước trong nhỏ vào mắt.
Trong mắt có màng mây trắng che tối tức là do khí huyết ngưng trệ gây ra
Nếu chỉ có điểm trắng thì dùng càng tốt. Nếu màng mây dày cứng, thì trưởc tiên dùng rễ tóc tiên giã, vắt nước, hòa vào trong bình nước treo chỗ cao, đáy bình dùi 1 lỗ nhỏ, bảo người bệnh nằm ngửa, để nước nhỏ vào trong mắt. Khi màng hết, dùng Nhũ hương, Trần bì đều lđồng cân, Xạ hương 3 phân, tán lấy rễ cây móng tay giã lấy nước hòa với sữa người, trộn bột thuốc đắp vào mắt, lấy lụa rịt lại, thuốc khò lại tẩm hai thứ nước đó, nếu sau khi lên đậu còn dư độc, độc phát lở ngứa thì thêm Long não.
Mộng thịt ở khóe mắt trong, lan che cả mắt
Lá dâu, lá cỏ mực bằng nhau, để trong nồi đất sạch, nấu nước, lấy vôi bột kinh viên bỏ vào nồi, bịt kín nồi, nấu sôi rồi xông, 1 nồi có thể xông 2-3 lần. Sau dùng bài thuốc bột chữa chung mà điểm vào, lại lấy lá trường sinh, lá móng tay, lá bạc thau, ít muối ăn, giã nhỏ đắp lên mí mắt.
Con ngươi lồi cao
Thịt miệng ngoài cíc nhồi, rau sam, lá sung cùng giã nhỏ, đắp lên mắt, trong thì lấy nước ốc hòa với phương thuốc chữa chung điểm vào thì con ngươi sẽ thụt vào.
Đàn bà nhức đầu, đau mắt và tỉa máu đâm vào đổng tử đau nhói
Trước tiên nên châm vào huyệt Khúc trì ở hai tay lể cho máu độc ra, rồi lấy vôi đá với lá nụ áo tía cùng giã nhỏ đắp vào chỗ đã châm. Sau dùng bài thuốc bột chữa chung ồ trên, điểm vào, kiến hiệu ngay.
Tròng mắt lòi ra ngoài, thậm chí xuống gần mũi
Vôi để đã lâu, to bằng hạt đậu nhỏ, đốt đỏ, bỏ vào cái chén con, ngâm nước 1 giờ, lóng lấy nước nhỏ vào mắt, hễ thấy tròng mắt đã thụt vào như cũ thì lấy ngay lá Trường sinh nhai, nhổ đắp ngoài mắt, không thì nó sẽ vào sâu lại, có thể dùng thuốc bột hòa với nước vôi để nhỏ cũng dược.
Thuốc chữa đau mắt rất công hiệu
Cam thạch 1 cân, ốc Cửu khổng 3 cái, Hoàng bá 1 lạng, Cam thảo 3,5 lạng, Sinh khương 15 lát, Hoàng liên 3 đồng, Quế chi 2 đồng, Thảo quả 1 quả, Hồ tiêu 10 hạt, Đại hồi 5 hoa, Hoàng đằng 1 bó đều tán bột, khi muốn lập thành phương thuốc thì cân từng vị cho thật đúng rồi trộn cho đều.
Cam thạch 10 lạng, ốc Cửu khổng 3 lạng, Hoàng bá 8 đồng cân, Cam thảo 1,4 lạng, Hoàng đằng 1 lạng, Đinh hương 15 cái, Hoàng liên 2 đồng cân, Quế chi 1 đồng cân, Đò ho (Thảo quả) 10 hạt, Hồ tiêu 10 hạt, Đại hồi 2 đồng cân.
Mắt bỗng nhiên sưng đỏ
Dưa bỏ’ dã già, ngày 5 tháng 5 Âm lịch hái 1 quả, khoét 1 lỗ nhỏ ở đầu, móc bỏ ruột, nhét Mang tiêu vào cho đầy, treo chỗ im mát, chờ khi Mang tiêu thấm ra ngoài vỏ, cạo lấy cật hòa với tí nước chè bôi hai bên huyệt thái dương, khô lại bôi, một đêm thì khỏi.
Hoàng dằng 1 đồng cân (cạo bỏ vỏ thô), phèn chua chút ít, cùng tán, nước 1 bát, chưng cách thủy, chờ nguội nhỏ vào mắt.
Thạch liên nhục, bỏ vỏ và tim 1 cáp tán, nấu cháo với gạo tẻ thường ăn.
Lá phù dung giã nát, đắp vào huyệt thái dương.
Chuyên trị chứng tâm can tích nhiệt làm mắt sưng, đau, đỏ, màng che lấp tròng mắt, quáng mắt
Hạt ích mẫu, hạt Mồng gà, hạt Quan Âm, hạt Thảo quyết minh, hạt Mã đề đều nhau, tán, luyện mật làm viên bằng hạt ngô đồng, liều dùng 30 – 40 viên, uống với nước chè sau bữa ăn. Nếu không có hạt Mồng gà, hạt Quan Âm thì thêm hoa cúc, quả Dành dành sắc uống cũng được.
Mọi chứng đau mắt đỏ, màng khói che khuất tròng
Thạch xương bồ giã sống, vắt lấy nước cốt, đun nhỏ lửa. cô thành nưởc cốt, đun nhỏ lửa cô thành cao, mỗi ngày thường nhỏ vào mắt.
Khí huyết đều hư, can hư, mắt kéo màng, tròng trắng đều đỏ, tối đến đau nhói
Ốc Cửu khổng nung thành vôi, cỏ Tháp bút sao khô, 2 vị đều nhau, tán, 1 lần uống 3 đồng cân, dùng 3 lát gừng, 1 quả táo nấu làm thang uống với thuốc và ăn cả bã, ngày uống 2 lần.
Mắt kéo màng, mắt mờ
Nấu mật lợn để trong lọ sành, nhỏ lửa, cô đặc như bùn, viên bằng hạt gạo, mỗi lần nhét 1 hạt vào mũi, hoặc mắt
nóng sưng đỏ thì lấy 3 đồng tiền cổ cùng cô với thuốc cho đặc, rồi bỏ tiền, dùng nước mật lợn nhỏ vào mắt rất hay.
Đau mắt có màng mọng, và chứng thong manh (mắt không nhìn thấy mà khám không thấy vết tích gì)
– Dạ minh sa đãi sạch, lấy cặn lắng bên dưới, dồn vào gan lợn, nấu chín, ăn và uống cả nước.
Chứng mắt tôi mờ không trông thây gì, chứng chảy nước mắt sống không ngừng, và chứng thong manh, chứng mắt mờ nhiều người cùng mắc
– Phúc bồn tử phơi khô, nghiền rất nhỏ, bọc lụa mỏng, tẩm vào sữa của người sinh con trai trong 4 tiếng đồng hồ rồi lọc lấy sữa ấy mà nhỏ vào mắt ngày 2 lần, độ 5 ngày mắt sẽ trong như người trẻ. Kiêng rượu, dầu mỡ.
Trị thong manh bằng cách rửa
– Lá dâu tươi, giã nát, phơi khô theo đúng ngày tháng kể sau đây thì đun lá dâu đốt tồn tính, nấu lấy nước mà rửa:
Cành dâu, đốt thành tro, mỗi lần dùng 1 cáp, nước 1 bát sắc còn 6-7 phân, đổ ra, lắng trong, thừa lúc còn đang nóng, rửa mắt, rửa được 100 lần là khỏi.
Mắt đã mù 30 nảm
– Hạt Tật lê, ngày 7 tháng 7 Âm lịch hái phơi râm cho khô, tán, mỗi lần 1 đồng cân, ngày uống 2 lần sau bữa ăn, dần dần sẽ khỏi.
Can hư mắt mờ
Thỏ ty tử 3 lạng, ngâm rượu 3 ngày, phơi khô, tán, hòa với lòng trắng trứng gà, viên bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 30 viên với rượu nóng vào lúc đói.
Đom đóm 31 con, cấu bỏ cánh chân, dồn vào mật con cá gáy to phơi râm cho khô, sau 100 ngày tán mỗi lần dùng 1 tí điểm vào mắt.
Mù mắt đã lâu
Thảo quyết minh 2 thăng, tán, sau khi ăn cơm dùng 2 đồng cân hòa cháo ăn, dần dần có kết quả.
Can hư, mắt mờ, ra gió thì chảy nước mắt
Đậu đen đãi sạch, dồn vào cái mật bò đực đã lấy sẵn từ tháng chạp, đem hong trước gió cho khô, mỗi lần uống 27 hạt, uống lâu sẽ lành.
Mắt mù quáng gà
Quả ké đầu ngựa 1 thăng, phơi khô, tán, thường nấu cháo với gạo ăn rất hay. Kiêng thịt lợn.
Sau khi nóng sốt dữ dội rồi ăn phải đồ cay nóng mắt mờ tối
Cá diếc nấu canh cho nhiều, ăn thường xuyên.
Mắt nổi mộng thịt, kéo màng trắng đỏ
Rau sam 1 nắm to, rửa sạch, giã nát, cho thêm ít bột Phác tiêu lấy lụa gói lại, đắp lên mắt thì công hiệu.
Tròng trắng mắt có một vành trong suốt
Mật ong sống dùng chút ít nhỏ vào mắt, nằm ngửa nửa ngày mới rửa, ngày nhỏ 1 – 3 lần là lành.
Thong manh, quáng gà
Thảo quyết minh 1 thăng, Địa phu tử 5 lạng, đều tán, trộn với nước cơ làm viên bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 20 – 30 viên với nước cơm.
Quáng gà, lúc nhá nhem tối không thấy gì
Hột cải tía sao đen, tán, mỗi lần dùng 3 đồng cân, nghiền lẫn với 1/8 cái gan dê, lấy bẹ măng tre non bọc lại, buộc kỹ, để nước luộc chín, để nguội, ăn lúc đói, uống cả nước luộc, mỗi tháng ăn vài cái gan dê là khỏi.
Bệnh mới khỏỉ, mắt sinh màng
Bạch cúc hoa, Thuyền thoái (bỏ đầu và chân) đều nhau, tán, 1 lần dùng 2 – 3 đồng cân, uống với nước pha ít mật ong.
Đậu xị 14 hạt đốt tồn tính, nghiền nhỏ uống.
Tròng mắt hơi có màng
Lá Mã đề, lá cây Câu kỷ đều nhau, vò nát, gói 2 lớp lá dâu, treo chỗ kín 1 đêm, vắt lấy nước cốt nhỏ vào mắt làm 3-5 lần là lành. Chỉ dùng lá Mã đề cũng được.
Can hư, mắt không trông xa được
Gan lợn 1 cái, bỏ màng da, thái mỏng, hành tăm 1 nắm, đậu xị 1 cáp, đổ nước nấu canh, chờ chín đập vào 3 quả trứng gà, ăn nhiều lần, lành thì thôi.
Mắt toét
Bạc hà tẩm nước gừng 1 đêm, phơi khô, tán, mỗi lần dùng 1 đồng cân, nấu sôi mà rửa mắt.
Hạt hòe, dồn vào mật bò phơi râm 100 ngày, mỗi lần 1 hạt, uống sau bữa ăn, uống 10 ngày thì mắt sáng, người nhẹ.
Mắt bị nhiệt độc, đỏ đau, sưng
Đậu đen 1 thăng, chia đựng vào 10 cái túi, nhúng vào nước sôi, thừa lúc còn nóng thì chườm vào, nguội thay túi khác, làm vài ngày thì lành.
Mắt sưng đỏ ngầu
Gừng sống 1 củ, lấy 1 đồng tiền cổ nhét vào trong củ gừng rồi lấy ra, châm vành đồng tiền vào mắt cho chảy nước mắt, nay làm thì mai lành.
Chuyên trị chứng mắt đau, sưng đỏ, hoặc bị phạm phòng, mắt đau liên miên không khỏỉ
Nhân hạt Dành dành, bất cứ nhiều ít, tẩm đồng tiện, sao vàng, một lần sắc uống 2 đồng cân, hoặc tán thắng mật làm viên, hoặc tán uống với nước cơm.
Lá Mã đề giã, vắt lấy nước cốt hòa với ít bột Phác tiêu, lúc sắp đi ngủ bôi lên mí mắt, sáng hôm sau rửa sạch, làm đến lành thì thôi.
Nhân trần, hạt Mã đề đều nhau, tán uống với nước chè, hoặc sắc nước uống, vài lần là công hiệu.
Lá Ngải cứu, đốt lên khói, lấy bát sành úp lại, đợi cháy hết khói đổ nước vào bát cho hòa tan mà rửa mắt là khỏi ngay, cho thêm Hoàng liên càng tốt.
Mỗi sáng lấy chén hứng những giọt sương trên lá cây (gọi là thiên lộ thủy), được sương lá cây dầu càng tốt, nhỏ vào mắt.
Mí mắt sưng đau kịch liệt
Gừng già 1 củ, giã vắt lấy nước cốt; Khô phàn tán, hòa dẻo như bùn, đắp vào mí mắt (chớ cho dính vào mắt) một lúc là hết sưng.
Chảy nước mắt sống luôn
Mộc nhĩ cây chè 1 lạng, đốt tồn tính; Mộc tặc 1 lạng, đều tán, mỗi lần uống 2 đồng cân với nước vo gạo đun sôi là lành.
Mắt mờ hay ra nước mắt
Một tặc bỏ mắt, Thương truật tẩm nước vo gạo đều nhau, sao, tán, 1 lần uống 2 đồng cân với nước chè, hoặc thắng mật làm viên uống.
Đau mắt gió hay chảy nước mắt
Hái lá Dâu, thứ còn trên cây lúc tháng chạp, nấu lấy nước rửa hàng ngày, hoặc thêm chút Mang tiêu càng hay.
Mắt trít lại khó mở
Hoa với hạt cây Thanh hao, hái ngày Thanh minh hay Đoan ngọ phơi râm, tán, một lần 2 đồng cân, uống với nước giếng vào lúc đói, uống lâu ngày sẽ sáng mắt, đêm tối cũng thấy được.
Lông quặm chọc vào mắt do phong thấp nhiệt tỳ kinh, mắt ngứa phảỉ lấy tay dụi, lâu ngày mí mắt đỏ loét, lông quặm chọc vào
Nhân hạt gấc 1 cái, giã nát, lấy túi lụa gói nhét vào mũi, đau bên này thì nhét bên kia, lông sẽ chìa ra, không chọc vào mắt nữa.
Chuyên trị đau mắt gió, chảy nước mắt, khó mở mắt
Lá Dành dành, vò lấy nước thật đặc, hòa một tí phèn phi nhỏ vào mắt rất hay.
Trẻ đau mắt, sưng mắt, nhức mắt, đỏ mắt, tức là hỏa thịnh ở thượng tiêu, nên chiếu phương mà trị
Trẻ mắt nhắm không mở được
Hạt Đình lịch tán, hòa mật lợn, dán lên trán.
Trẻ đau mắt đỏ
Lá Mã dề giã vắt lấy nước cốt, hòa với nước tre non mà nhỏ vào mắt.
Quầng mi mắt đau do phong nhiệt và có đờm
Hoàng cầm tẩm rượu, Bạch chỉ đều nhau, tán bột, uống với nước chè 1 đồng cân.
Hết thảy các chứng đau mắt
Lô cam thạch 1/2 cân, Hoàng liên 4 lạng, thái to bằng hạt đậu, bỏ vào trong cái đồ dùng bằng bạc hay đá, đổ hai bát nước, nấu trong 2 giờ rồi vớt Hoàng liên tán bột, pha vào Long não 2,5 đồng cân, nghiền ra cho đều, mỗi lần nhỏ vào mắt một tí. Hoặc Quý ma tử (hột quả cối xay) nghiền thành bột, rồi lấy gan lợn khía ra, bô thuốc ấy vào, nương tán bột, uống với nước gạo cũ lâu năm làm thang.
Đàn ông, đàn bà Can kinh kém, phong nhiệt bốc lên, sinh các chứng đau mắt, mắt mờ tôi, ra nhiều nước mắt, sơ ánh sáng, có màng mọng và thong manh
Bột Hoàng liên 1 lạng, gan dê 1 chiếc bỏ màng, giã nát mà viên, uống với nước nóng 14 viên, uống liền 5 tễ.
Các bệnh về mắt, do huyết hư, phong khí sinh nhức đầu, chóng mặt, mờ mắt
Kinh giới tuệ tán mạt, mỗi lần uống 2 đồng cân với rượu.
Lâu năm mờ mắt, không trông xa được
Quyết minh tử 2 cân, gan dê 1 cái bỏ màng, lấy 1 nắm hạt Hành hoa sao, tán bột uống.
Hết thảy các chứng mắt đau, màng che tối
Mật 1/2 cân bỏ vào nồi đồng, ngào nấu cho vàng thẫm rồi cho vào 2 lạng Hoàng đơn đã phi, 1 bát nước, 4 quả Kha tử, luyện lại cho vào lọ đậy kín rồi vùi xuống đất 21 ngày, bới ra, lấy thuốc hoặc nhỏ hoặc dán vào mắt.
Màng mắt to dần lấn con ngươi
Muối trắng 1 đồng cân và bấc đèn mà nhô, ngày 3-5 lần, khỏi đau khỏi vướng, rất hiệu nghiệm.
Trẻ mới sinh trong tháng mắt nhắm, không mở ra được, hoặc sưng, hoặc sợ ánh sáng, hoặc chảy máu
Cam thảo 1 đồng cân tẩm nước mật lợn, nướng, tán nhỏ, uống một tí với nước cơm.
Mắt không mở được, hoặc chảy máu
Thương truật 2 đồng cân, bỏ vào trong cái mật lợn, cho nước vào nấu, lấy hơi nước bốc lên mà xông vào mắt, sau nhai mớm cho trẻ bệnh.
Mắt đỏ
Hoàng liên tán, hòa nưởc, rịt vào gan bàn chân.
Đau mắt
Mã đề giã vắt lấy nước, hòa với nước Trúc lịch mà nhỏ.
Mắt quáng gà
Dạ minh sa nghiền lấy nước mật lợn hòa mà viên, mỗi lần uống 5 viên. Hoặc gia thêm Hoàng cầm đều nhau, tán lấy nước cơm nấu, lấy mật lợn hòa thuốc mà uống.
Chứng nhắm mắt vì bị nhiệt tà khi còn trong thai
Dùng Tứ vật thang gia Cam thảo, Thiên hoa sắc uống, lại lấy một chút mật gấu hòa nước, rửa ngày 7-8 lần.
Quáng gà
Thạch quyết minh (đã bào chế) 5 đồng cân
Dạ minh sa (đã bào chế) 3 đồng cân
Cách bào chế:
Thạch quyết minh tẩm nước muối, đun sôi, cạo bỏ phần khô sù sì ở ngoài rồi nung đỏ để nguội, cân đủ 5 đồng cân.
Dạ minh sa dãi bỏ bã cát, sao nóng, cân lấy 3 đồng cân, 2 vị trộn lẫn tán thành bột, bỏ vào lọ nút kín.
Cách dùng:
Cân 1 đồng cân gạo tẻ và 2 đồng cân gan lợn cho vào 1 cái niêu con đun kỹ, lấy nước làm thang hòa thuốc uống.
Liều dùng: Trẻ em: Từ 1 – 3 tuổi uống mỗi lần 1 đồng cân
Dưới 3 tuổi tùy theo mà uống.
Người lớn: Uống mỗi lần 3 đồng cân.
Kiêng ăn quả đào sơn. Phụ nữ có thai không dùng được.
Quáng gà
Công thức:
Dạ minh sa 2 lạng (bỏ bã, bỏ cát lấy mắt)
Thạch quyết minh 1 lạng
Bạch thược 5 đồng cân (tẩm đồng tiện sao)
Cúc hoa 5 đồng cân (để sống) – Cốc tinh thảo 5 đồng cân (để sống)
Biển súc 5 đồng cân – Gan dê 1 cỗ
Cách bào chế:
Gan dê 1 cổ nếu được dê vàng thì tốt hơn, lấy hòn ngói rửa sạch, để gan tơi lên, sấy cho khô.
Bạch thược tẩm đồng tiện, sao khô, lại tẩm đến lần thứ ba, thì sao vàng các vị trên, trộn lẫn, tán thật mịn, cho vào lọ đóng kín nút để dùng.
Cách dùng:
Trẻ em từ 1 – 2 tuổi mỗi lần uống 1 đồng cân
2-4 tuổi mỗi lần uống 2 đồng cân
Uống 2 lần /ngày
Có thể thay gan dê bằng gan bò hoặc gan gà.
Trẻ còn bé thì uống xong cho ăn gan thêm. Nếu đã lớn, ăn được thì làm chả (giã gan lẫn với thuốc, hấp chín) cho ăn thì tốt hơn.
Công dụng:
Chuyên trị trẻ em cứ từ 5 giờ tối gà lên chuồng là không trông thấy (tục gọi là quáng gà). Trẻ mới mắc, cứ qua 5-6 giờ tối lại trông thấy thì không cần dùng gan dê hay bò, nhưng các em bị lâu ngày suốt cả đêm lờ mờ không trông rõ, thì cần phải có gan dê hoặc gan bò mới chóng khỏi.
Kiêng kỵ: tôm, cua, thịt chó, các thứ tanh.
Quáng gà
Công thức:
Dạ minh sa 3 đồng cân
Hùng hoàng 5 phân
Thạch quyết minh 3 cân
Cách bào chế:
Dạ minh sa cho vào rổ rây, ngâm vào chậu nước, quậy đều, vớt hết cái nổi ở trên, bỏ sỏi cát ở dưới, lấy cái còn đựng ở rây. Thạch quyết minh bỏ tí muối vào luộc, lấy ra, đập nhỏ, sao qua, Hùng hoàng để sống, 3 vị hợp lại tán thật nhỏ, rây kỹ cho khỏi sạn.
Cách dùng:
Lấy gan gà không rửa nước lã, bỏ mật đi, giã nhuyễn, cho thuốc vào, làm như làm chả, rồi gói lá chuối, hấp vào nồi cơm, cho ăn một bữa vào 12 giờ trưa.
Nếu bạn được chẩn đoán mắc ung thư mô mỡ, bạn đang mắc một dạng ung thư bắt đầu từ các tế bào mỡ. Đây là một loại sarcoma mô mềm hiếm gặp, các loại ung thư bắt đầu từ các mô mềm như cơ, dây thần kinh, gân hoặc mỡ.
Có năm loại ung thư mô mỡ:
Ung thư mô mỡ biệt hóa tốt: Đây là loại phổ biến nhất và thường phát triển chậm. Nó thường không lan sang các bộ phận khác của cơ thể.
Ung thư mô mỡ nhầy: Đây là loại thứ hai phổ biến nhất. Nó có thể phát triển nhanh hơn các khối u biệt hóa tốt và có khả năng lan sang các bộ phận khác của cơ thể. Các tế bào của nó có thể hình thành một hình dạng hoặc mô hình độc đáo.
Tế bào tròn: Loại này cũng có thể phát triển nhanh hơn các khối u biệt hóa tốt và thường được tìm thấy ở cánh tay hoặc chân.
Ung thư mô mỡ không biệt hóa: Bạn có loại này khi một khối u phát triển chậm bắt đầu chuyển đổi thành một loại phát triển nhanh hơn và hung hãn hơn.
Ung thư mô mỡ đa hình: Đây là một dạng ít phổ biến của ung thư và thường lan rất nhanh.
Ung thư mô mỡ có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến nhất ở những người từ 50 đến 65 tuổi.
Nguyên nhân
Các bác sĩ không chắc chắn chính xác điều gì gây ra ung thư mô mỡ. Họ biết rằng những khối u này hình thành do những thay đổi, được gọi là đột biến, trong DNA của các tế bào mỡ của bạn. Nhưng không rõ lý do tại sao điều đó lại xảy ra.
Một số yếu tố làm tăng khả năng bạn mắc ung thư mô mỡ:
Một số bệnh di truyền hiếm gặp
Các liệu pháp xạ trị mà bạn đã từng trải qua, thường là cho một loại ung thư khác
Tiền sử gia đình về ung thư mô mỡ hoặc các ung thư mô mềm khác
Triệu chứng
Ung thư mô mỡ có thể hình thành ở bất kỳ phần nào của cơ thể có tế bào mỡ. Nhưng nó thường xuất hiện ở các khu vực có mỡ trên chân hoặc bụng.
Bạn có thể nhận thấy rằng khối u của bạn ban đầu không đau hoặc khó chịu. Nhưng nó sẽ tiếp tục phát triển và cuối cùng gây ra vấn đề hoặc bắt đầu đau. Ví dụ, nếu khối u ung thư mô mỡ hình thành ở đâu đó trong bụng của bạn, nó có thể chèn ép dạ dày hoặc các cơ quan khác.
Các triệu chứng của ung thư mô mỡ phụ thuộc vào vị trí của khối u trên cơ thể bạn, nhưng bao gồm:
Một khối u mới hoặc đang phát triển dưới da, đặc biệt là xung quanh hoặc phía sau đầu gối hoặc trên đùi
Đau hoặc sưng
Yếu ở một cánh tay hoặc chân có khối u
Cảm thấy no sớm sau khi bắt đầu ăn
Táo bón
Phân có máu hoặc có màu đen hoặc giống như hắc ín
Co thắt
Nôn có máu
Bụng trở nên lớn hơn
Chẩn đoán
Bác sĩ của bạn sẽ khám và hỏi về các triệu chứng của bạn. Nếu ung thư mô mỡ là một khả năng, họ sẽ có thể yêu cầu một số xét nghiệm, chẳng hạn như:
CT scan hoặc MRI, giúp bác sĩ thấy kích thước và quy mô của khối u.
Sinh thiết, trong đó một mẫu nhỏ của khối u của bạn sẽ được lấy để kiểm tra tế bào ung thư.
Câu hỏi cho bác sĩ của bạn
Bạn đã điều trị cho những người khác mắc loại ung thư này chưa?
Giai đoạn của ung thư của tôi là gì?
Bạn khuyến nghị phương pháp điều trị nào và tại sao?
Các tác dụng phụ nào có thể xảy ra từ phương pháp điều trị này?
Tôi có nên tìm ý kiến thứ hai không?
Triển vọng của tôi là gì?
Tôi có thể tìm sự hỗ trợ ở đâu trong quá trình điều trị?
Điều trị
Các lựa chọn điều trị của bạn phụ thuộc vào vị trí của khối u, kích thước của nó và loại ung thư. Nếu có thể, bác sĩ của bạn sẽ cố gắng loại bỏ khối u bằng phẫu thuật. Đây là phương pháp điều trị phổ biến nhất cho ung thư mô mỡ.
Nếu khối u của bạn đang phát triển gần một cơ quan quan trọng, hoặc nếu có điều gì đó khác ngăn cản bác sĩ của bạn loại bỏ toàn bộ tế bào ung thư trong quá trình phẫu thuật, bạn có thể cần phải xạ trị hoặc hóa trị sau phẫu thuật để tiêu diệt bất kỳ tế bào ung thư nào có thể còn lại.
Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể đề nghị xạ trị hoặc hóa trị để thu nhỏ kích thước khối u trước phẫu thuật.
Bạn cũng có thể hỏi bác sĩ về các thử nghiệm lâm sàng cho những người mắc ung thư mô mỡ. Những nghiên cứu này thử nghiệm các phương pháp điều trị mới để xem liệu chúng có an toàn và hiệu quả hay không. Bác sĩ có thể cho bạn biết liệu bạn có phù hợp cho một trong số chúng hay không.
Chăm sóc bản thân
Ung thư mô mỡ và các phương pháp điều trị bạn nhận được cho nó có thể ảnh hưởng đến cơ thể và cảm xúc của bạn. Điều quan trọng là phải chăm sóc cả hai.
Nếu bạn thấy rằng ung thư mô mỡ khiến bạn cảm thấy lo lắng và căng thẳng, hãy nói chuyện với bác sĩ của bạn. Họ có thể đề xuất một nhà trị liệu hoặc tư vấn sức khỏe tâm thần để giúp bạn quản lý cảm xúc của mình. Ngoài ra, hãy liên hệ với gia đình và bạn bè để nhận sự hỗ trợ cần thiết.
Chế độ ăn uống và tập thể dục có thể giúp bạn cảm thấy tốt hơn. Rau tươi, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt và protein nạc sẽ giúp xây dựng lại sức mạnh của bạn. Hãy giữ cho mình hoạt động nếu có thể. Tập thể dục giảm mệt mỏi, nâng cao tâm trạng và cải thiện lòng tự trọng của bạn.
Một số phương pháp điều trị, như hóa trị và xạ trị, có tác dụng phụ. Nhiều tác dụng phụ sẽ cải thiện khi kết thúc điều trị.
Những gì mong đợi
Một đội ngũ bác sĩ, y tá và các chuyên gia y tế khác sẽ quản lý sự chăm sóc của bạn. Họ sẽ cho bạn biết kế hoạch điều trị cần tuân theo, các tác dụng phụ nào có thể xảy ra và cách quản lý bất kỳ vấn đề nào phát sinh. Hãy đặt câu hỏi nếu có điều gì không rõ ràng.
Bác sĩ sẽ cho bạn biết những gì mong đợi dựa trên loại ung thư mô mỡ của bạn, vị trí của nó trong cơ thể và sức khỏe tổng thể của bạn.
Sau khi bạn hoàn thành điều trị, bạn sẽ tiếp tục gặp bác sĩ để đảm bảo rằng ung thư của bạn không quay trở lại. Những lần theo dõi này sẽ đảm bảo rằng nếu ung thư của bạn quay trở lại, bạn có thể phát hiện sớm.
Thiên ‘‘Thích Tiết Chân Tà’ ghi: “ Bệnh do Dương khí hữu dư và Âm khí bất túc … mồ hôi không ra được, môi nứt, bắp thịt nóng khô, họng khô, ăn uống không biết ngon dở… Châm các huyệt Thiên Phủ + Đại Trữ, châm 3 lần, thêm huyệt Trung Lữ Du nhằm đẩy lui nhiệt tà, ngoài ra châm bổ kinh Tỳ + Phế để giải nhiệt bằng cách cho ra mồ hôi…” (Linh khu 75, 31-37).
Xoang là những cái hốc xương quanh mũi mẫn cảm với tác nhân gây bệnh. Bệnh này gặp nhiều ở trẻ em và nam nữ thanh niên, người lớn với tỷ lệ 2-5% dân số. Cấu tạo các xoang:
Người trưởng thành có ba đôi xoang, chia hai nhóm:
Các xoang trước: xoang trán, xoang hàm, xoang sàng trước. Các xoang này đều đổ vào khe mũi giữa.
Các xoang sau: xoang hàm sau, xoang trước bướm. Các xoang này đều đổ vào khe mũi trên. Do vậy, xoang và mũi có liên quan mật thiết.
Nguyên nhân do nhiễm khuẩn thứ phát:sau viêm mũi, viêm amidan, các bệnh răng miệng, nhiễm khuẩn đường hô hấp trên do cúm, sởi, phát ban, thời tiết lạnh…
Dị ứng nguyên: niêm mạc mũi, xoang mẫn cảm với các yếu tố kích thích vừa là ngõ của đường hô hấp cho nên số người bị dị ứng ngày càng nhiều. Dị ứng nguyên là: bụi nhà, bụi đường, hoá học, hơi nóng,..
Nguyên nhân kết hợp: Trên một bệnh nhân vừa nhiễm khuẩn vừa dị ứng
Nguyên nhân cấu trúc mũi xoang: lỗ mũi quá rộng hay hẹp, vẹo vách ngăn, thịt thừa ở mũi hay do tai nạn giao thông của xoang.
Viêm xoang cấp tính và viêm xoang mãn tính
Viêm xoang cấp tính
Niêm mạc xoang bị viêm tấy, xung huyết, xuất tiết, đỏ và đau. Bệnh thường gặp do hai nguyên nhân. Vi khuẩn từ mũi lên xoang hay vi khuẩn từ răng miệng lên xoang do sâu răng, nhổ răng và dị ứng. Thường gặp viêm một trong các xoang trước nhất là xoang hàm.
Người bệnh mỏi mệt, xuống sức, miệng đắng, ăn kém, ngủ không thích hoạt động và gai gai rét, sốt 37,5-38,5°C.
Bệnh nhân đau vùng mặt, đau đầu, đau ở trán, đau lan xuống răng, toả ra nửa bên đầu, thường nhiều vào các buổi sáng, vào một giờ nhất định từ 8-12 giờ. Hầu hết những con đau đều có giờ giấc, thường viêm xoang trán. Ngoài con đau, người bệnh thấy nặng đầu, nhức đầu nhiều ở vùng chẩm, phải đến viêm xoang sau.
Bệnh nhân bị chảy nước mũi, lúc đầu nước trong về sau nước đục thành mủ màu vàng xanh, mùi tanh, lẫn ít máu, chảy hai bên mũi vào buổi sáng.
Người bệnh bị tắc mũi vào ban đêm, phải há mồm thở và nóng, rát họng, ho.
Thăm khám phát hiện điểm đau, khi ấn tay vào hố nanh là viêm xoang hàm cấp.
Điểm Grun Wald ở bờ trong trên hố mắt, khi ta ấn tay có phản ứng.
Điểm đau Ewing ở mặt trước là xoang trán hay ấn tay vào đó bệnh nhân có phản ứng là viêm xoang trán.
Soi mũi trước, phát hiện các cuốn mũi súng to, đỏ. Châm Ephedrin làm niêm mạc co lại, nhìn thấy khe giữa có chất nhầy hay mủ, nghĩ đến viêm xoang sau.
Viêm xoang mãn tính
Viêm xoang mãn tính do viêm xoang cấp tính điều trị không khỏi dứt điểm hay bỏ qua, chuyển sang viêm xoang mãn tính. Bệnh nhân mệt, không thích hoạt động, nhức đầu âm ỉ ở vùng xoang trước do viêm xoang trán. Bệnh nhân đau vùng mặt do viêm xoang sàng. Người bệnh đau vùng chẩm do viêm xoang sau.
Bệnh nhân bị chảy nước mũi thường xuyên, chảy một hay hai bên mũi vào các buổi sáng, dịch nhầy, về sau mủ xanh và tanh có mùi thối.
Người bệnh tắc mũi kéo dài do phù nề niêm mạc mũi hay cuốn mũi bị thoái hoá và rối loạn ngửi. Ngửi ngày một kém đến mất han hoàn toàn.
Thăm khám: Người thầy thuốc dùng ngón tay ấn các điểm, người bệnh kêu đau, có phản ứng. Soi mũi trước phát hiện niêm mạc mũi phù nề, tạo một gờ nhỏ là Kauffmann. Cuốn mũi giữa đường quá phát hay thoái hoá. Có thể có políp mũi. Khe mũi giữa nhiều chất nhầy hay mủ.
Biến chứng là viêm tấy ở mắt, viêm màng tiếp hợp, viêm mi mắt…
Phòng tránh là chữa dứt điểm các bệnh về mũi: pôlíp mũi, vẹo vách ngăn mũi.
Tránh thời tiết lạnh bằng dùng khẩu trang, nhỏ thuốc mũi. Tránh các di ứng nguyên nếu biết.
Tránh nhiễm khuẩn viêm đường hô hấp trên và các bệnh răng, miệng.
Điều trị nội khoa:
Viêm xoang cấp: cho bệnh nhân xông mũi bằng hơi nước nóng có menton. Khí dung bằng kháng sinh với hydrocortisol bảy ngày liền. Điều trị toàn thân loại kháng sinh thế hệ mới và phố cập là Ceftriaxone sodium 2 gam/ ngày, chia hai lần. Tiêm tĩnh mạch, liều dùng 10 ngày ở người lớn, trẻ em 20-60mg/ ngày.
Viêm xoang mãn tính nếu kịch phát cần dùng: kháng sinh như trên xông mũi và dùng toàn thân.
Dùng các loại thuốc Vitamin A, D, canxi, phospho và nâng cao thể trạng bằng dùng nhiều chất đạm, trái cây chín.
Dân gian dùng dung dịch lá cây cứt lợn, hoa kim ngân, có kết quả tốt.
Phèn chua phi hạ thể tán thành bột cho vào lọ, đậy nắp kín. Dùng tăm bông chấm nước muối tinh khiết rửa sạch hai bên mũi. Dùng tăm bông chấm phèn chua đã phi chấm vào hai bên mũi. Ngày dùng ba lần, kéo dài bảy hôm. Nếu phèn chua xuống họng cần nhổ ra. Liệu trình dùng ba ngày đã đỡ.
Điều trị ngoại khoa: Có chỉ định điều trị viêm xoang mãn tính là mổ, nạo và cắt pôlíp do tái phát nhiều lần để bệnh khỏi dứt điểm và trả lại sức ngửi cho bệnh nhân.
Flavoxate là thuốc chống co thắt có tác dụng đối kháng trực tiếp sự co thắt cơ trơn của bàng quang và đường tiết niệu-sinh dục. Thuốc được tổng hợp trong các phòng thí nghiệm của Recordati, Industria Chimica e Farmaceutica, S.p.A., Milano-Italy.
Về mặt hóa học flavoxate có công thức là 4 H-1-benzopyran-2-phenyl-3 methyl-4-oxo-8-carbo- xylic acid 2-(1-piperidinyl) ethyl ester hydrochloride.
Flavoxate là một thuốc dãn cơ trơn giống papaverine. Tuy nhiên, thuốc có tính chất chống co thắt mạnh hơn và ít độc tính hơn các alkaloid của thuốc phiện. Cơ chế tác động của flavoxate là sự kết hợp của tác động hướng cơ, tác động gây tê tại chỗ và kháng calcium. Flavoxate làm dãn trực tiếp cơ trơn, có lẽ là do ức chế men phosphodiesterase và do tác động kháng calcium.
Dược động học :
Sau khi uống, flavoxate đạt nồng độ đỉnh trong máu trong vòng 20 phút. Thuốc phân bố thấp trong mô não nhưng cao trong gan, thận và bàng quang. Chất chuyển hóa chính của nó là 3- methyl-flavone-8-carboxylic acid (MFCA). 12 giờ sau khi uống khoảng 55% thuốc được bài tiết dưới dạng MFCA và/hoặc chất chuyển hóa ở dạng kết hợp trong nước tiểu. Flavoxate không tích tụ trong cơ thể.
Hiệu quả lâm sàng :
Đo bằng bàng quang kế ở các bệnh nhân bình thường cũng như có bệnh lý bàng quang do thần kinh thấy rằng các hiệu quả điều trị – tức là tăng dung tích làm giảm áp lực bàng quang – xảy ra trong vòng 2 giờ.
So sánh các đáp ứng lâm sàng sau khi dùng flavoxate (200 mg) và propantheline (30 mg), các tác giả đã thấy rằng thuốc kháng hệ cholin làm khô vùng khẩu hầu trong khoảng 2/3 số bệnh nhân trong khi không có tác giả nào báo cáo có những triệu chứng này hoặc các than phiền khác khi dùng flavoxate. Hiện tượng bí tiểu đáng kể thường gặp ở những bệnh nhân được điều trị bằng các thuốc kháng hệ cholin lại không xảy ra với những bệnh nhân được điều trị bằng flavoxate.
Các nghiên cứu sau đó đã chứng minh rằng flavoxate có tác dụng kháng hệ muscarin rất yếu, khoảng 2.000 lần ít hơn so với oxybutinin.
Flavoxate làm giảm áp lực trong bàng quang nhiều hơn so với emepronium bromide. Cả hai thuốc đều làm giảm sự khởi đầu cảm giác mắc tiểu và làm tăng tổng dung tích bàng quang, tiểu lắt nhắt vào ban ngày nhưng flavoxate có hiệu quả hơn. Flavoxate cải thiện hơn về tình trạng tiểu ngắt quãng, tiểu gấp thường đi kèm với sự mất tính ổn định của cơ thắt bàng quang hoặc đi kèm với sự rối loạn chức năng cơ vòng so với emepronium . Bệnh nhân điều trị bằng flavoxate cũng ít bị tác dụng phụ hơn so với điều trị bằng emepronium bromide.
Thực nghiệm so sánh flavoxate dùng liều 2 viên 100 mg bốn lần mỗi ngày với phenazopyridine dùng liều 2 viên 100 mg, ba lần mỗi ngày cho thấy đáp ứng tốt hơn xảy ra đối với bệnh nhân bị viêm tuyến tiền liệt (tỷ lệ 66% bệnh nhân dùng flavoxate so với 31% dùng phenazopyridine), viêm bàng quang cấp, viêm niệu đạo và/hoặc viêm tam giác bàng quang (tỷ lệ 80% so với 56%).
CHỈ ĐỊNH
Dùng giảm triệu chứng trong: khó tiểu, tiểu gấp, tiểu đêm, tiểu lắt nhắt và tiểu ngắt quãng trong các bệnh lý của bàng quang và tiền liệt tuyến như viêm bàng quang, đau bàng quang, viêm tiền liệt tuyến, viêm niệu đạo, viêm niệu đạo-bàng quang, viêm niệu đạo-tam giác bàng quang ;
Hỗ trợ trong điều trị chống co thắt trong các bệnh lý như: sỏi thận và sỏi niệu quản, các rối loạn co thắt đường niệu do đặt ống thông tiểu và soi bàng quang và trong di chứng phẫu thuật đường tiểu dưới ;
Giảm các tình trạng co thắt ở đường sinh dục phụ nữ như: đau vùng chậu, đau bụng kinh, tăng trương lực và rối loạn vận động tử
CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Có tiền sử dị ứng với thuốc.
Chống chỉ định cho những tình trạng tắc nghẽn sau: tắc hồi tràng hoặc tá tràng, ruột không giãn, những sang thương gây tắc ruột hoặc gây liệt ruột, xuất huyết tiêu hóa.
THẬN TRỌNG LÚC DÙNG
Ở bệnh nhân bị nhiễm trùng đường tiết niệu-sinh dục cùng lúc, nên dùng flavoxate hydrochloride phối hợp với trị liệu bằng kháng sinh thích hợp.
Nên dùng thuốc cẩn thận ở những bệnh nhân tăng nhãn áp, đặc biệt là dạng tăng nhãn áp góc hẹp và ở những bệnh nhân bị các bệnh lý tắc nghẽn nghiêm trọng đường tiểu dưới do chèn ép.
Tác động lên khả năng lái xe hay vận hành máy móc: Những bệnh nhân điều khiển xe hoặc máy móc, hoặc tham gia vào các công việc cần sự chú ý phải được báo trước về các tác dụng phụ có thể xảy ra như: ngầy ngật, mờ mắt và chóng mặt.
Sử dụng cho trẻ em: Không nên sử dụng Genurin cho trẻ nhũ nhi và trẻ em dưới 12 tuổi vì chưa xác định được hiệu quả điều trị và tính an toàn của thuốc đối với bệnh nhân ở các nhóm tuổi này.
LÚC CÓ THAI
Nghiên cứu trên động vật cho thấy rằng thuốc không có tác dụng phụ nào đối với động vật mang thai hoặc đối với phôi thai. Tuy nhiên, cũng giống như bất cứ loại thuốc nào khác, phải cẩn thận khi dùng thuốc trong trường hợp có thai, đặc biệt là trong ba tháng đầu của thai kỳ.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN
Tác dụng phụ hiếm gặp, bao gồm: buồn nôn và nôn ói (thường không xảy ra khi uống thuốc lúc no), khô miệng, chóng mặt, nhức đầu, ngầy ngật (thường sẽ hết khi giảm liều hoặc cho uống thuốc thưa ra), cảm xúc không ổn định, rối loạn điều tiết mắt, tăng nhãn áp, nổi mề đay hoặc các bệnh ngoài da khác, lú lẫn đặc biệt ở người lớn tuổi, rối loạn tiểu tiện, nhịp tim nhanh, sốt, tăng bạch cầu đa nhân ái toan và có thể gây táo bón ở liều cao.
LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG
Mỗi lần uống 1 viên Genurin 200 mg, 3-4 lần mỗi ngày.
Flavoxate được hấp thu nhanh chóng. Đáp ứng lâm sàng sẽ thay đổi tùy thuộc vào bản chất và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng được chẩn đoán và tùy thuộc vào tổng trạng của bệnh nhân. Những hiệu quả điều trị trên hệ cơ bàng quang sẽ xuất hiện trong vòng từ 2 đến 3 giờ.
Đối với những bệnh nhân bị nhiễm trùng, việc điều trị thường được kéo dài song song với những thuốc chống nhiễm trùng (nghĩa là kéo dài 1 tuần hay hơn).
Những bệnh nhân có triệu chứng mãn tính ở bàng quang, cần phải kéo dài việc duy trì để đạt được kết quả tối ưu. Nếu triệu chứng được cải thiện, có thể giảm liều.
QUÁ LIỀU
Bệnh nhân dùng quá liều flavoxate nên được rửa dạ dày trong vòng 4 giờ sau khi dùng thuốc. Nếu quá liều trầm trọng hoặc nếu chậm trễ trong việc rửa dạ dày, thì phải điều trị bằng thuốc thuộc nhóm giống thần kinh đối giao cảm.
BẢO QUẢN
Tồn trữ ở nhiệt độ phòng không quá 30o C. Để ngoài tầm tay trẻ em.
Thở dài còn gọi là “Thán tức”, hay thở dài là một chứng trạng người bệnh cảm giác thấy trong người khó chịu thường phải thở một hơi rất dài cho dễ chịu. Chứng này khác với chứng “Ái khí” (ợ hơi), vì ái khí là một biểu hiện Vị khí nghịch lên phải thở hắt ra thành tiếng. Thở dài tức là khí cơ bị uất trệ mà được thở dài thì khoan khoái.
Phân biệt
Chứng hậu thường gặp
Hay thở dài do Can uất: Có chứng vùng ngực khó chịu phải thở hơi dài, vùng sườn trướng đầy, tinh thần nhạt nhẽo, kém ăn, đắng miệng choáng váng, rêu lưỡi trắng, mạch Huyền.
Hay thở dài do khí hư: Có chứng muốn thở dài thường xuyên, đoản hơi, tự ra mồ hôi, mệt mỏi yếu sức kém ăn, chất lưỡi nhạt, thể lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng, mạch Tế.
Phân tích
Chứng Hay thở dài do Can uất với chứng Hay thở dài do khí hư. Chứng thở dài ở trên là do tổn thương về tình chí, ý muốn không toại nguyện, hoặc là tinh thần kích thích kịch liệt, Can khí uất trệ, mất sự điều đạt cho nên thấy ngực khó chịu, ức uất, thường muốn thở dài cho ngực dễ chịu. Lâm sàng còn có những chứng hậu về Can uất như: tình tự sa sút, tinh thần nhạt nhẽo, sườn trướng kém ăn. Điều trị nên sơ Can lý khí giải uất, chọn dùng phương Sài hồ sơ Can tán, Tiêu giao tán. Hay thở dài do khí hư do lao thương quá độ, hoặc ốm lâu mất sự nuôi dưỡng đến nỗi khí hư, khí hư thì tông khí không thư triển muốn được thở dài cho dễ chịu. Biểu hiện lâm sàng của chứng thở dài thường xuyên còn có chứng hậu về khí hư như: đoản hơi, tự ra mồ hôi, tinh thần mỏi mệt, yếu sức, chất lưỡi nhợt, mạch Tế. Điều trị nên bổ trung ích khí chọn dùng các phương Bảo nguyên thang, Bổ trung ích khí thang.
Thở dài thường kèm theo chứng ngực khó chịu, chỉ có ngực khó chịu mới muốn thở dài cho dễ chịu, mà ngực khó chịu lại thường do khí cơ bất lợi gây nên. Can uất thì mất sự điều đạt dẫn đến khí cơ bị uất trệ, khí hư thì sự vận chuyển của khí không thư triển dẫn đến khí cơ bất lợi. Chứng trên thuộc Thực, chứng sau thuộc Hư, căn cứ vào đặc điểm chứng trạng chẩn đoán phân biệt hai loại này không khó.
Trích dẫn y văn
Sách Kinh điển nói: “Hoàng đến hỏi: Người ta thở dài là do khí nào gây nên? Kỳ Bá trả lời: Lo nghĩ thì Tâm hệ căng thẳng. Tâm hệ căng thì đường thở co thắt, co thắt thì không lợi cho nên thở dài để gỡ ra… Lại nói Đởm mạch của Túc Thiếu dương thị động thì có bệnh đắng miệng hay thở dài xem nó thuộc thịnh, hư, thực, hàn, nhiệt hay hãm hạ mà chọn hướng điều trị (Chứng trị chuẩn thằng – Tạp bệnh)
Hen phế quản là bệnh viêm mãn tính của đường hô hấp gây ra hiện tượng tăng phản ứng phế quản. Khi tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ, phế quản bị tắc nghẽn và hẹp lại do co thắt, tăng tiết đờm và tăng quá trình viêm. Hen phế quản thường có các đợt khò khè, thở ngắn hơi, nặng ngực và ho tái phát đặc biệt thường xẩy ra về đêm và sáng sớm. Chẩn đoán hen ở trẻ nhỏ chủ yếu dựa vào lâm sàng
Khò khè (wheezing) là tiếng thở phát ra ở thì thở ra và có thể nghe được bằng tai thường hoặc bằng ống nghe. Cần phải phân biệt tiếng thở khò khè với tiếng thở rít và tiếng thở khụt khịt do tắc mũi. Tiếng thở rít chỉ nghe được ở thì thở vào còn tiếng thở khụt khịt nghe được ở cả hai thì thở vào và thở ra.
Tiếng thở khò khè phát ra khi có sự chuyển động hỗn loạn của luồng khí do tăng tốc độ qua chỗ hẹp cuả đường hô hấp. Trong các bệnh có hẹp ở đường hô hấp nhỏ như hen hoặc viêm tiểu phế quản đôi khi làm người ta có ấn tượng sai lầm rằng tiếng khò khè này phát ra từ chính chỗ hẹp ở đường hô hấp nhỏ. Điều đó không đúng vì về mặt lý thuyết tốc độ luồng khí đi qua chỗ hẹp này là quá yếu. Trong trường hợp này khò khè được phát ra ở khí và phế quản lớn bị hẹp lại thứ phát do đè ép gián tiếp trong thì thở ra. Điều này là do bệnh nhân phải cố gắng thở để đẩy không khí từ phế nang ra qua chỗ phế quản bị hẹp dẫn đến tăng áp lực trong khoang màng phổi. Chính sự tăng áp lực này lớn hơn áp lực trong lòng khí quản và phế quản lớn do đó làm cho chúng hẹp lại do động lực gây nên tiếng khò khè. Lý thuyết này dựa trên thí nghiệm đo áp lực phổi ở người lớn được thổi phồng lên sau khi tử vong và các bằng chứng về Xquang ở các bệnh nhân có hẹp đường hô hấp nhỏ(2; 12;15;17)
Ở trẻ nhỏ, khí và phế quản lớn thường mềm hơn, sức kháng của các phế quản nhỏ cao hơn nên dễ dẫn đến tăng áp lực trong khoang màng phổi vì vậy trẻ nhỏ dễ bị khò khè hơn so với trẻ lớn khi có các bệnh gây tắc nghẽn ở đường hô hấp nhỏ như viêm tiểu phế quản cấp, hen phế quản, xơ nang tuỵ, thiếu alpha 1 antitrypsin, mềm sụn phế quản.v.v…
Ngoài ra một số bệnh gây hẹp ở khí, phế quản lớn cũng gây khò khè như:
Vòng nhẫn mạch máu.v.v..
Màng da khí quản
Mềm sụn khí quản
U hoặc kén ở trung thất
Hạch lao chèn ép.
Dị vật rơi vào khí, phế quản
NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG CHẨN ĐOÁN HEN TRẺ EM
Chẩn đoán hen ở trẻ nhỏ chủ yếu dựa vào lâm sàng do các trẻ này không thể đo được chức năng hô hấp. Các xét nghiệm về miễn dịch dị ứng cũng không đặc hiệu trong hen vì có thể dương tính trong nhiều bệnh khác như viêm mũi dị ứng, viêm da cơ địa dị ứng hoặc mày đay.v.v…
Khò khè ở trẻ dưới 3 tuổi
Trước kia nhiều thầy thuốc cho rằng khò khè nhẹ và không thường xuyên thì thường tự khỏi khi trẻ lớn lên và họ thường chẩn đoán là viêm phế quản thể hen hoặc viêm phế quản co thắt từ đó họ điều trị bằng kháng sinh và các thuốc giảm ho hoặc giãn phế quản ngay cả khi trẻ bị khò khè tái phát. Tuy vậy những nghiên cứu gần đây cho thấy mặc dù có một số trẻ khi lớn lên hết khò khè nhưng người ta cũng không dùng thuật ngữ viêm phế quản co thắt nữa912;15;21)
Nếu nghĩ đến hen ở trẻ dưới 5 tuổi thì việc điều trị sớm sẽ làm cho bệnh nhẹ hơn và chức năng phổi tốt hơn, do đó cần phải chẩn đoán hen sớm để điều trị tích cực và lâu dài ngay sau khi có chẩn đoán.
Mặt khác một số trẻ dưới 1tuổi bị hen có thể tự khỏi khi trẻ lớn lên mà không cần phải điều trị lâu dài. Những trẻ này nếu điều trị kéo dài bằng corticoide để kiểm soát hen, đôi khi lại có hại hơn là chính bệnh hen
Một số trẻ dưới 1 tuổi, chủ yếu là con trai có khò khè khi bị nhiễm virus đường hô hấp mà không phải do cơ địa dị ứng (atopy) thì các thay đổi về bạch cầu ưa axit và các tế bào viêm khác thường không tương xứng với mức độ khò khè.
Tỷ lệ khò khè ở trẻ dưới 3 tuổi chiếm khoảng 30%, trong đó có tới 60% số trẻ này sẽ hết khò khè khi trẻ lên 6 tuổi. Tuy nhiên rất khó xác định được là những trẻ này có thể bị hen khi lớn lên nữa hay không? Do vậy Stein và cộng sự đã chia khò khè ở trẻ nhỏ ra thành 3 nhóm(4;5)
+ Các trẻ khò khè, thường là trai không có tiền sử dị ứng về cá nhân và gia đình thì khò khè sẽ thường tự khỏi khi lớn lên.
+ Trẻ có khò khè, ho mỗi khi nhiễm virus nhưng không có tiền sử dị ứng của bản thân và gia đình thì cũng sẽ tự khỏi khi lớn lên.
+ Trẻ khò khè và có tiền sử dị ứng thì thường là hen nhưng cũng dễ bị che lấp bởi các triệu chứng lâm sàng khác
Phần lớn khò khè ở trẻ dưới 3 tuổi mà không có các biểu hiện dị ứng thì thường là do nhiễm
Các trẻ khò khè sau 4 tuổi thường do hen nhiều hơn, các trẻ này thường có tăng tính phản ứng của phế quản biểu hiện bằng test thử methacholine dương tính.
Hút thuốc thụ động cũng có thể gây khò khè dai dẳng mà không có các biểu hiện dị ứng ở trẻ nhỏ.
Khò khè do nhiễm virus
Một số nghiên cứu cho thấy các trẻ bị viêm tiểu phế quản do nhiễm virus hợp bào đường hô hấp (RSV) thì sau này hay bị khò khè tái phát. Người ta cho rằng nhiễm RSV cũng gây ra đáp ứng cytokine TH2 giống như Welliver nhận thấy rằng khò khè trong nhiễm RSV thường phối hợp với tăng kháng thể IgE chống lại RSV. Garofalo và cs chứng minh rằng có hiện tượng hoạt hoá bạch cầu ưa axit trong quá trình nhiễm RSV. Các kết quả nghiên cứu trên cho thấy khò khè do nhiễm RSV giống như hen ở chỗ là cả hai bệnh đều có quá trình viêm ở đường hô hấp.
Như vậy hậu quả của khò khè sau nhiễm virus và hen khác nhau ở chỗ có hay không có yếu tố cơ địa dị ứng (atopy), tức là có xâm nhập viêm của bạch cầu ưa xít hay không? Nếu đáp ứng của hệ thống miễn dịch dị ứng ở trẻ em sau khi nhiễm virus thúc đẩy mạnh quá trình viêm gây tăng bạch cầu ưa a xít sẽ làm tăng phản ứng của đường hô hấp và dễ chuyển thành hen
Ho do nhiễm virus
Mặc dù ho tái đi tái lại cũng là 1 biểu hiện của hen, thế nhưng ho dai dẳng ở trẻ nhỏ lại ít khi có phối hợp với test mathacholin hoặc histamin dương tính. Đồng thời ho do nhiễm virus cũng ít khi phối hợp với cơ địa dị ứng (atopy) và hoạt hoá bạch cầu ưa Điều này gợi ý rằng ho dai dẳng đơn thuần thường là do hậu quả của nhiễm virus chứ hiếm khi là hen.
Nghiên cứu đờm trên các trẻ bị ho kéo dài 2 tháng sau nhiễm virus thấy tăng bạch cầu ưa axit trong đờm rất thấp, chỉ chiếm 0,58%, trong khi đó nhóm trẻ bị hen chưa điều trị thì tỷ lệ này rất cao là 22,9%.
Nghiên cứu test methacholine ở các trẻ bị ho đơn thuần cho thấy tỷ lệ (+) thấp, chỉ có 55%.
Trong khi đó test này (+) ở tất cả các trẻ bị hen.
Như vậy từ các kết quả nghiên cứu trên cho thấy cần phải theo dõi trẻ lâu dài để phân biệt ho sau nhiễm siêu vi đường hô hấp với ho do hen .
Vai trò của dị ứng trong hen trẻ em
Nghiên cứu cho thấy hậu quả của khò khè ở trẻ em có cơ địa dị ứng (atopy) và không có cơ địa dị ứng (atopy) rất khác nhau(12;15;17)
Atopy ở trẻ em là nguyên nhân chủ yếu và duy nhất của quá trình viêm gây tăng bạch cầu ưa axit và tăng mẫn cảm không đặc hiệu của đường hô hấp. Hầu hết các trẻ lớn bị hen kể cả những trẻ trước đó có khò khè do nhiễm virus đường hô hấp đều là do dị ứng. Tuy nhiên ngay cả một số ít trẻ còn bú nếu có khò khè cộng thêm với các biểu hiện dị ứng thì nhiều khả năng là do hen .
Người ta đã chứng minh được rằng nếu trẻ còn bú có test bì dương tính với các dị nguyên là các hạt trong không khí (airborne) thì sau này dễ bị bệnh hen
Wahn và cs nhận thấy rằng những trẻ còn bú của gia đình có tiền .sử dị ứng thì dễ mẫn cảm với dị nguyên bụi nhà và lông mèo hơn so với trẻ ở gia đình không có biểu hiện dị ứng.
Điều trị thử hen
Khi điều trị thử bằng corticoide dạng hít cho trẻ nhỏ mà các triệu chứng lâm sàng không cải thiện sau 3-4 tuần điều trị thì có thể có các lý do sau(9;10;13;15;22)
+ Trẻ dùng thuốc không đủ liều hoặc kỹ thuật xịt thở không đúng.
+ Trẻ có thể mắc bệnh khác chứ không phải bị bệnh hen.
+ Bệnh hen nặng hơn so với liều điều trị thử..
Cần phân tích kỹ và tìm các lý do có thể xảy ra để quyết định làm thêm các thăm dò khác nh- ư chụp Xquang lồng ngực và các xét nghiệm khác nếu cần để xác định chẩn đoán.
CHẨN ĐOÁN
Hen và khò khè
Trong thực hành lâm sàng chúng ta thường rất hay gặp các trẻ đến khám vì khò khè. Vậy những trẻ nào bị khò khè được chẩn đoán là hen? Một số đặc điểm sau cần phải lưu ý:
Trẻ càng nhỏ thì càng có nhiều bệnh gây khò khè
Khò khè ở trẻ còn bú được chia làm 2 loại chính:
+ Những trẻ khò khè tái phát thường xảy ra cùng với đợt nhiễm virus đường hô hấp nhưng không có biểu hiện thể tạng dị ứng hoặc tiền sử gia đình không có người bị dị ứng, những trẻ này thường tự hết khò khè khi trẻ lớn lên đến trước tuổi đi học thường không phải là hen
+ Những trẻ có khò khè tái phát và có cơ địa dị ứng như chàm hoặc nổi mề đay thường không tự mất đi khi trẻ lớn lên thậm chí đến tuổi trưởng thành. Trẻ này hay bị viêm đường hô hấp từ nhỏ và sau này thường là hen.
Trẻ nhỏ có khò khè tái phát nếu kèm theo các biểu hiện dị ứng khác và tiền sử gia đình có người bị hen thì thường có biểu hiện hen rõ rệt khi trẻ lên 6 tuổi.
Điều trị bằng các thuốc chống viêm và thuốc giãn phế quản cho các trẻ khò khè tái phát thường có tác dụng hơn là điều trị bằng kháng Tuy nhiên cũng không nên quá lạm dụng.
Phân loại khò khè ở trẻ dưới 5 tuổi như sau (hình1) (8;14)
+ Khò khè sớm tạm thời (Transient early wheezing).
Thường phối hợp với đẻ non và hít khói thuốc.
+ Khò khè sớm, dai dẳng (Persistent early-onset wheezing.
Thường liên quan đến nhiễm virus, không có tiền sử dị ứng.
+ Khò khè/hen muộn (Late-onset wheezing/asthma).
Thường có biểu hiện dị ứng và tiền sử dị ứng.
Tỷ lệ
Hình 3.1. Các kiểu khò khè ở trẻ em diễn biến theo tuổi
Chẩn đoán phân biệt
Cần phải chẩn đoán phân biệt với một số nguyên nhân hiếm gặp cũng có thể gây ra khò khè tái phát ở trẻ nhỏ bao gồm:
+ Bệnh xơ nang (cystic fibrosis).
+ Hội chứng hít phải sữa tái phát.
+ Thiếu hụt miễn dịch tiên phát.
+ Tim bẩm sinh.
+ Các dị tật bẩm sinh, đặc biệt là dị tật ở các mạch máu lớn đè ép gây hẹp đường hô hấp đoạn trong lồng ngực (hình 3.2).
+ Dị vật đường thở ở phế quản.
Do đó cần chụp Xquang lồng ngực và các xét nghiệm thăm dò khác để loại trừ các nguyên nhân này .
Hình 3.2. Dị tật của các mạch máu lớn đè ép gây hẹp lòng khí, phế quản
Chẩn đoán xác định
Lâm sàng
Cần phải nghĩ đến hen nếu trẻ có bất kỳ 1 trong các dấu hiệu và triệu chứng sau:
Khò khè rõ nghe được bằng tai hoặc bằng ống nghe (tuy nhiên cũng cần lưu ý nếu nghe phổi bình thường cũng chưa thể loại trừ được hen).
Tiền sử có 1 trong các dấu hiệu sau:
+ Khò khè tái phát nhiều lần.
+ Ho, đặc biệt ho nhiều về đêm.
+ Khó thở tái phát nhiều lần.
+ Nặng ngực tái đi tái lại nhiều lần.
– Các triệu chứng trên thường xảy ra và nặng hơn về đêm và làm trẻ thức giấc hoặc khi:
+ Tiếp xúc với lông súc vật.
+ Tiếp xúc hoá chất.
+ Thay đổi thời tiết.
+ Tiếp xúc với bụi nhà.
+ Uống thuốc (aspirin, thuốc chẹn beta).
+ Gắng sức, chạy nhảy đùa nghịch nhiều.
+ Tiếp xúc với dị nguyên hô hấp như phấn hoa.
+ Nhiễm virus đường hô hấp.
+ Hít phải khói các loại như khói thuốc lá, bếp than, củi, dầu v.v.
Nếu trẻ có các biểu hiện dị ứng như chàm, hoặc trong gia đình có người bị hen hoặc có các cơ địa dị ứng khác thì khả năng trẻ bị hen nhiều hơn.
Cận lâm sàng
Thay đổi chức năng hô hấp (FEV1và FVC) hoặc
Thay đổi PEF: Khi sử dụng peak flow meter để đo PEF cho trẻ thì cần nghĩ đến hen khi:
+ PEF tăng trên 15% sau 15-20 phút hít thuốc giãn phế quản kích thích β2 hoặc
+ PEF thay đổi hơn 20% giữa lần đo buổi sáng với lần đo buổi chiều cách nhau 12 giờ đối với bệnh nhân đang được dùng thuốc giãn phế quản hoặc trên 10% đối với bệnh nhân không đang dùng thuốc giãn phế quản.
+ PEF giảm hơn 15% sau 6 phút chạy hoặc gắng sức.
Những lưu ý đặc biệt
Chẩn đoán hen ở trẻ nhỏ chủ yếu dựa vào lâm sàng là chính. Tuy nhiên đo chức năng hô hấp, đánh giá sự thay đổi và dao động do điều trị hoặc làm test với thuốc giãn phế quản và test methacholin, histamin sẽ giúp chẩn đoán chính xác hơn.
Một số tác giả dựa theo quan điểm định nghĩa hen ở trẻ nhỏ trên lâm sàng do vậy họ thường chẩn đoán hen khi trẻ trên 1 tuổi có từ 3 lần khò khè trở lên. Cần lưu ý rằng khò khè ở đây là phải do thầy thuốc thăm khám quyết định chứ không đơn thuần chỉ là hỏi tiền sử và nghe thông báo của bà mẹ hoặc người trông trẻ kể lại. Tuy nhiên quan điểm này cũng có một số nhược điểm sau:
+Không tính đến nguyên nhân khò khè.
+Nhiều trẻ lớn lên không bị hen.
+Trẻ bị hen dai dẳng thường có dị ứng.
-Các đặc điểm khác trong chẩn đoán hen ở trẻ em(3;4;5;8)
Đáp ứng tốt với các thuốc điều trị thử bệnh hen giúp cho chẩn đoán
Theo dõi PEF hàng ngày để đánh giá mức độ chênh lệch giữa sáng và chiều.
Một số trẻ hen chỉ biểu hiện là khò khè và ho xảy ra khi gắng sức. Nếu PEF tụt xuống 15% hoặc hơn sau khi cho chạy bộ 6 phút thì có thể là hen.
Làm test dị ứng da, đo IgE đặc hiệu trong huyết thanh giúp cho nhận biết các yếu tố nguy cơ và có các biện pháp kiểm soát môi trường sống thích hợp.
Không có 1 xét nghiệm nào có ý nghĩa quyết định trong chẩn đoán hen ở trẻ em do đó người thầy thuốc lâm sàng cần thăm khám lâm sàng kỹ lưỡng, hỏi tiền sử và tập hợp các dữ liệu lâm sàng – xét nghiệm, kể cả việc điều trị thử nếu thấy cần thiết và theo dõi diễn biến của bệnh mới có thể chẩn đoán đúng bệnh trong những trường hợp khó.
Đối với trẻ còn bú .
Các chẩn đoán phân biệt khác cần đặt ra là:
+ Rối loạn miễn dịch.
+ Trào ngược dạ dày, thực quản.
+ Dị vật đường thở.
+ Mềm sụn khí phế quản.
+ Hẹp phế quản.
+ Tim bẩm sinh.
+ Bệnh xơ nang (cystic fibrosis) v.v…
+ Lao sơ nhiễm, hạch lao chèn ép vào phế quản
Đối với trẻ nhỏ trước tuổi đi học.
Cần lưu ý chẩn đoán phân biệt với các bệnh sau:
+ Các đợt nhiễm virus đường hô hấp dưới rất thường gặp ở trẻ nhỏ.
+ Dị vật đường thở.
+ Luồng trào ngược dạ dày – thực quản.
+ Bệnh xơ nang (cystic fibrosis).
+ Rối loạn miễn dịch v.v…
+ Lao sơ nhiễm.
Đối với trẻ ở tuổi học đường.
Cần phải chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác có thể gây ho dai dẳng và khò khè như (18;19;21)
+ Viêm xoang.
+ Rối loạn miễn dịch như thiếu hụt IgG có thể gặp ở trẻ nhỏ với các biểu hiện viêm tai giữa, viêm xoang và ho kéo dài.
+ Viêm mũi, dị dạng vách ngăn mũi gây chảy mũi sau cũng gây ho kéo dài