Blog Trang 527

Các tình trạng bạn có thể mắc phải cùng với eczema

Các tình trạng bạn có thể mắc phải cùng với eczema

  • Dị ứng thực phẩm
  • Hen suyễn và viêm mũi dị ứng
  • Viêm da tiếp xúc dị ứng
  • Trầm cảm và lo âu

Eczema là một tình trạng gây ra các vùng da khô, có vảy và ngứa. Những người mắc eczema cũng dễ bị mắc một số tình trạng khác. Khi hai bệnh thường xuất hiện cùng nhau, chúng được gọi là các tình trạng liên quan.

Loại eczema phổ biến nhất là viêm da atopic. Viêm da atopic có một số tình trạng liên quan. Một tập hợp phổ biến được gọi là “hành trình atopic” vì các tình trạng này thường xảy ra từng bước theo một thứ tự nhất định.

Dị ứng thực phẩm

Khoảng 15% trẻ em từ 3 đến 18 tháng tuổi mắc viêm da atopic sẽ có dị ứng thực phẩm. Các dị ứng phổ biến nhất là:

  • Đậu phộng
  • Sữa
  • Lúa mì
  • Đậu nành
  • Trứng

Các triệu chứng bao gồm ngứa miệng, sưng môi, nôn mửa và tiêu chảy, nổi mề đay, và tụt huyết áp đột ngột.

Trong “hành trình atopic,” dị ứng thực phẩm thường là bước tiếp theo sau eczema.

Hen suyễn và viêm mũi dị ứng

Hen suyễn làm cho việc thở trở nên khó khăn. Khi bạn bị cơn hen, các đường thở của bạn sưng và hẹp lại. Khoảng 20% người lớn mắc viêm da atopic bị hen suyễn.

Viêm mũi dị ứng, thường được gọi là sốt cỏ, bị kích hoạt bởi các yếu tố như phấn hoa, bụi, và lông thú nuôi. Các triệu chứng bao gồm:

  • Ngứa hoặc chảy nước mắt
  • Đau họng
  • Hắt hơi
  • Nghẹt mũi hoặc chảy mũi

Trong “hành trình atopic,” những tình trạng này thường xảy ra sau eczema và dị ứng thực phẩm.

Trong nhiều năm, các chuyên gia đã đau đầu về lý do tại sao các tình trạng này lại liên quan. Có thể bạn chỉ đơn giản là sinh ra với khả năng phản ứng quá mức với một số chất. Điều này được gọi là “atopy,” và gen của bạn đóng vai trò trong đó. Các yếu tố trong môi trường của bạn cũng là một yếu tố.

Các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu xem liệu eczema có thể gây ra những tình trạng này hay không. Da của bạn là một rào cản cho cơ thể. Khi eczema làm hỏng rào cản đó, nó có thể kích hoạt một phản ứng mở ra cánh cửa cho các phản ứng trong tương lai.

Viêm da tiếp xúc dị ứng

Viêm da tiếp xúc là một tình trạng kích ứng xảy ra sau khi da của bạn tiếp xúc với một chất kích thích nào đó. Khi bạn mắc viêm da tiếp xúc dị ứng, phản ứng này bị trì hoãn. Bạn sẽ có phát ban trong vòng một hoặc hai ngày, sau khi hệ thống miễn dịch của cơ thể phản ứng.

Các chuyên gia có một số lý thuyết về mối liên hệ giữa eczema và viêm da tiếp xúc dị ứng. Tổn thương da từ eczema làm yếu đi khả năng phòng vệ của cơ thể. Điều này khiến bạn dễ bị các chất kích thích, và phản ứng của cơ thể có thể trở nên mạnh mẽ hơn. Khi bạn sử dụng thuốc bôi, bao gồm những thuốc có chứa steroid, bạn cũng có thể làm cho cơ thể nhạy cảm hơn.

Trầm cảm và lo âu

Nhiều nghiên cứu đã liên kết eczema với các vấn đề sức khỏe tâm thần, cả ở trẻ em và người lớn. Nghiên cứu cho thấy khi eczema được điều trị đúng cách, sức khỏe tâm thần cải thiện. Điều này cho thấy mức độ nghiêm trọng của eczema và các vấn đề sức khỏe tâm thần có mối liên hệ với nhau.

Người mắc eczema có thể bị cô lập xã hội, cảm thấy bị phân biệt vì tình trạng của mình, và không hài lòng với chất lượng cuộc sống của họ. Các vấn đề về giấc ngủ, điều này thường xảy ra với eczema, cũng có thể góp phần vào trầm cảm và lo âu.

Phản ứng viêm của cơ thể đối với eczema cũng có thể đóng vai trò trong sức khỏe tâm thần. Các nhà khoa học vẫn đang nghiên cứu để tìm hiểu thêm.

Cây lá ngón

CÂY LÁ NGÓN
CÂY LÁ NGÓN

CÂY LÁ NGÓN

Tên khoa học: Gelsemium elegans Benth., họ Mã tiền (Loganiaceae).

Mô tả: Cây lá ngón thuộc loại cây bụi leo, có nhiều cành leo dựa vào cây khác. Lá mọc đối, màu xanh bóng, hình tròn, đầu nhọn. Hoa mọc thành chùm ở kẽ lá hoặc đầu cành, màu vàng, hình ống nhỏ, xòe 5 cánh. Mùa hoa từ tháng 6 – 10. Quả nang thon dài, màu nâu, chứa nhiều hạt. Hạt nhỏ, hình hạt đậu, màu nâu nhạt, có cánh mỏng phát tán theo gió rất xa. Cây lá ngón mọc hoang khắp nơi trong nước ta, phổ biến ở vùng rừng núi.

Bộ phân dùng: lá, rễ

Phân bố: Cây mọc hoang ở một số vùng đồi, núi nước ta.

Thành phần hoá học: Alcaloid (gelsemin, gelmicin…)

Công dụng: Chữa mụn nhọt độc, chữa vết thương do ngã hay bị đánh đòn.

Cách dùng, liều lượng: Giã nhỏ đắp ngoài hoặc sắc lấy nước rửa chỗ đau.

Ghi chú: Cây Lá ngón là nguyên nhân của rất nhiều vụ ngộ độc ở các vùng rừng, núi. Alcaloid của Cây lá ngón có độc tính rất mạnh, dễ gây ngộ độc chết người. Khi ngộ độc bị nôn mửa, hôn mê, giãn đồng tử, ngạt hô hấp, các cơ bị mềm nhũn, đau bụng dữ dội, chảy máu dạ dày, ruột. Khi ngộ độc phải rửa dạ dày, chuyển đến bệnh viện cấp cứu.

Chẩn đoán và điều trị tiêu chảy kéo dài ở trẻ em

Tiêu chảy kéo dài là ỉa phân lỏng trên 3 lần trong 1 ngày và kéo dài trên 14 ngày (trong đó có thể ngừng tiêu chảy trong 1 ngày).

CHẨN ĐOÁN

Lâm sàng

Để có thể tiến hành điều trị tiêu chảy kéo dài, cần đánh giá các yếu tố sau:

Đặc điểm tiêu chảy kéo dài

Phân lỏng, nhiều nước: khi tiêu chảy xuất tiết, tiêu chảy thẩm thấu.

Phân lỏng có máu khi tiêu chảy xâm nhập, có liên quan tới vi khuẩn, lỵ, Campylobacter, amip,

Phân sệt, bóng mỡ, nhiều bọt, chua: khi có kém hấp thu mỡ, carbonhydrat.

Đánh giá tình trạng với 3 mức độ mất nước ABC theo phác đồ của Tổ chức Y tế thế giới (WHO)

Mức độ mất nước A; mức độ B; mức độ

Tình trạng rối loạn điện giải, tăng hoặc giảm natri, hạ kali, hạ

Chẩn đoán loại mất nước: ưu trương, đẳng trương, nhược trương.

Đánh giá tình trạng SDD, thiếu vitamin và các yếu tố vi lượng

Tình trạng suy dinh dưỡng: độ suy dinh dưỡng: độ I, II, III qua cân nặng, cần chú ý đặc biệt tới các thể suy dinh dưỡng nặng: Kvvashiokor, Marasmus, thể phối hợp.

Thiếu vitamin, đặc biệt là các vitamin A, D, E, K.

Thiếu các yếu tố vi lượng: sắt, kẽm… gây loét miệng, viêm da bong, mảng sắc tố.

Đánh giá tình trạng nhiễm khuẩn kèm theo

Nhiễm khuẩn tại ruột: đối với lỵ.

Nhiễm khuẩn ngoài ruột: viêm tai mũi họng, viêm phổi, nhiễm trùng đường tiết niệu, lao, nhiễm HIV.

Cận lâm sàng

  • Công thức máu.
  • Soi phân tươi tìm hồng cầu, bạch cầu, ký sinh trùng trong phân.
  • Cặn dư phân tìm hạt mỡ, sợi cơ, hạt tinh bột.
  • Cấy phân, nhất là khi phân có máu.
  • Các xét nghiệm cần thiết trong một số trường hợp đặc biệt như ĐGĐ, chụp Xquang khi có viêm phổi.
  • Tìm các ổ nhiễm khuẩn ngoài ruột.

Khi chẩn đoán cần lưu ý tới tình trạng tiêu chảy kéo dài, các bệnh kèm theo.

Chẩn đoán phân loại tiêu chảy kéo dài ở trẻ em

  • Tiêu chảy kéo dài không kèm theo các tình trạng bệnh lý nêu trên được chẩn đoán là tiêu chảy kéo dài nhẹ, có thể điều trị ngoại trú.
  • Tiêu chảy kéo dài nặng cần điều trị tại bệnh viện khi có bệnh kèm theo:

+ Suy dinh dưỡng nặng.

+ Mất nước, rối loạn điện giải.

+ Thiếu vitamin A, thiếu máu nặng.

+ Có nhiễm khuẩn nặng như viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết, nhiễm khuẩn tiết niệu, lỵ…

+ Trẻ nhỏ dưới 4 tháng tuổi.

ĐIỀU TRỊ

Tiêu chảy kéo dài nặng cần điều trị trong bệnh viện

Nếu trẻ bị SDD nặng:

Kwashiokor, Marasmus, thể phối hợp…

Điều trị theo phác đồ SDD nặng (xem phác đồ điều trị trẻ SDD nặng có kèm tiêu chảy cấp).

Điều trị mất nước và rối loạn điện giải

Bù nước bằng đường uống: dùng dung dịch ORS uống theo phác đồ A, B nếu mất nước mức độ A, B.

Bù nước bằng đường tĩnh mạch: dùng dung dịch ringerlactat theo phác đồ c nếu mất nước nặng độ c.

Nếu trẻ uống ORS mà tiêu chảy tăng lên do kém hấp thu với glucose thì thay bằng truyền dịch hoặc uống ORS pha loãng (1 gói ORS pha trong 2 lít nước) trong 2-3 ngày cho tới khi ORS pha theo nồng độ bình thường không làm tiêu chảy tăng lên.

Nếu thấy trẻ chướng bụng, tinh thần không tỉnh táo, li bì, co giật thì phải kiểm tra ĐGĐ và điều chỉnh các rối loạn điện giải nếu có.

Điều trị dinh dưỡng

Đóng vai trò quan trọng nhất, nhằm cung cấp năng lượng, chất dinh dưỡng, cho cơ thể và khắc phục tình trạng kém hấp thu đường lactose do thiếu men lactase vì niêm mạc ruột bị tổn thương.

Trẻ dưới 4 tháng tuổi

  • Nếu trẻ bú mẹ thì tiếp tục khuyến khích trẻ bú mẹ.
  • Nếu trẻ ăn nhân tạo: ngừng sữa đang dùng, cho ăn sữa không có đường lactose, nếu thất bại thì dùng sữa có protein đã được thuỷ phân.
  • Nếu trẻ ăn hỗn hợp: khuyến khích bú mẹ và ăn thêm sữa không có đường lactose hoặc pha sữa với nước cháo để giảm nồng độ lactose dưới 5g/l.

Trẻ trên 4 tháng tuổi: tiếp tục bú mẹ

Chế độ ăn giảm đường lactose: dùng chế độ ăn A trong 3 ngày, nếu sau 3 ngày mà tiêu chảy không giảm thì chuyển sang chế độ ăn B.

Khi cho ăn cần theo dõi hàng ngày:

  • Số lần tiêu chảy và tính chất phân của trẻ trong 24 giờ.
  • Số lượng thức ăn trẻ ăn trong 24 giờ.
  • Cân trẻ hàng ngày.
  • Phát hiện các biểu hiện nhiễm trùng: sốt, nôn chướng bụng, ho, co giật, ăn uống kém. Nếu trẻ ăn quá kém, chỉ được < 80kcal/kg/ngày; < 100kcal/kg/ngày, cần cho ăn sonde.

Bảng 5.3. Thành phần thức ăn

Thành phần Chê độ A Chê độ B
Gạo 80g 30g
Đậu nành 20g 0
Sữa bột 30g 0
Đường mía saccharose 20g 0
Đường glucose 0 30g
Dầu ăn 35,5g 40g
Thịt gà nạc 0 80g
Năng lượng/1000ml 850 700kcal
110-150kcal/kg/ngày 130-175ml/kg/ngày 155-215ml/kg/ngày

Bổ sung vitamin và các yếu tố vi lượng

  • Vitamin A: 2 ngày: Trẻ < 6 tháng: 50.000đv/ngày

Trẻ 6-12 tháng: 100.OOOđv/ngày Trẻ trên 12 tháng: 200.000đv/ngày

  • Các yếu tố vi lượng.
  • Viên centrum: dưới 4 tháng 1/2 viên/ngày, trên 4 tháng uống 1 viên ngày, điều trị trong 10 – 12 ngày. Hoặc sirô kẽm 10% uống 10ml trong 15 ngày; gluconat Zn 15mg X 1 viên/ngày trong 15 ngày.
  • Điều trị các nhiễm khuẩn kèm theo
  • Nhiễm khuẩn đường tiêu hoá.

Phân có máu hoặc soi phân tươi có hồng cầu, bạch cầu.

  • Dưới 6 tháng tuổi dùng Bactrim hoặc cefixim uống hoặc ceftriaxon 80 – 100mg/kg tiêm bắp 1 lần/ngày X 5 ngày.
  • Trẻ trên 6 tháng tuổi: acid nalidixic 500mg/10kg X 5-7 ngày.
  • Trẻ lớn:

Nếu < 20kg: 125mg X 2 lần X 5 ngày

Nếu > 20kg: 250mg X 2 lần X 5 ngày

Nếu cấy phân có vi khuẩn, dùng theo kháng sinh đồ.

Soi tươi nếu thấy có amip thể ăn hồng cầu, Giardia: metronidazol: 10mg/kg X 3 lần X 5 ngày.

  • Nhiễm khuẩn ngoài đường tiêu hoá: nhiễm khuẩn huyết, nhiễm khuẩn tiết niệu, viêm phổi, việc điều trị dựa trên từng bệnh.

Đối với những bệnh nhân tiêu chảy kéo dài nhẹ

  • Không SDD nặng.
  • Không có biểu hiện mất nước, rối loạn điện giải.
  • Không có biểu hiện nhiễm khuẩn tại ruột và ngoài ruột.
  • Trẻ trên 4 tháng tuổi.

Có thể cho điều trị ngoại trú 5 ngày

  • Bù nước và điện giải bằng đường uống.
  • Điều trị dinh dưỡng tại nhà.
  • Tiếp tục cho bú sữa mẹ.
  • Giảm lactose trong sữa thường, bằng cách pha với nước cháo, ăn kèm sữa chua, ăn sữa đậu nành.
  • Trẻ ăn sam: tăng cường các thức ăn dễ tiêu: cháo bột thịt gà, thịt lợn nạc, chế độ ăn tăng dần từ loãng tới đặc, chia làm nhiều bữa, nếu trẻ còn chán ăn thì phải cho ăn thêm nước quả, rau.
  • Nếu sau 5 ngày trẻ vẫn ỉa nhiều hoặc có dấu hiệu mất nước, ỉa máu, sốt, cần cho trẻ nhập viện.
  • Bổ sung các yếu tố vi lượng, vitamin trong 10 ngày.

Suy giảm miễn dịch

Định nghĩa: là nhóm bệnh do một hoặc nhiều rối loạn của hệ thống miễn dịch dẫn đến giảm khả năng đề kháng của cơ thể và dễ bị nhiễm khuẩn. Nhiễm khuẩn đặc biệt nặng, có xu hướng tái phát và đôi khi do các vi khuẩn bình thường không gây bệnh gây ra (“nhiễm khuẩn cơ hội”). Trong trường hợp bị suy giảm miễn dịch thể dịch, bệnh nhân đặc biệt dễ mắc bệnh do các vi khuẩn có vỏ bọc (ví dụ; các liên cầu, não mô cầu, Haemophilus) và Giardia.

Trong trường hợp suy giảm miễn dịch qua trung gian tế bào, hay gặp bệnh do virus, do nguyên sinh động vật hoặc do nấm.

SUY GIẢM MIỄN DỊCH NGUYÊN PHÁT

SUY GIẢM MIỄN DỊCH THỂ DỊCH (gắn với các lympho B)

Không có gamma globulin bẩm sinh (bệnh Bruton).

Tên khác: gamma globulin huyết thấp bẩm sinh.

Căn nguyên: bệnh di truyền lặn theo giới tính, trẻ trai bị mắc bệnh.

Triệu chứng: bệnh có biểu hiện ngay từ lúc ra đời hoặc khi dưới 6 tháng tuổi (sau khi các kháng thể của mẹ đã hết) bằng các bệnh nhiễm khuẩn mắc đi mắc lại.

Biến chứng: viêm khớp do nhiễm Mycoplasma, viêm não do virus ECHO, nhiễm khuẩn Pneumocystis carinii nếu có giảm bạch cầu.

Xét nghiệm cận lâm sàng: không có lympho B trong máu ngoại vi; giảm các globulin miễn dịch IgG; IgA, IgD, IgE, IgM giảm rất nhiều.

Điều trị: định kỳ truyền globulin miễn dịch đa tác dụng (3 tuần một lần) để phòng nhiễm khuẩn tái phát.

Thiếu IgA (Không có gamma A globulin)

Triệu chứng: khởi phát vào khoảng 2 tuổi bằng các nhiễm khuẩn lặp đi lặp lại, tiêu chảy mạn tính, nổi mẩn ở da, nhiễm khuẩn tai-mũi-họng. Thường hay kết hợp với các bệnh tự miễn, các khối u ác tính và hội chứng kém hấp thu. Các kháng thể kháng IgA có thể gây ra phản vệ khi truyền máu, truyền huyết thanh hoặc các chế phẩm máu có chứa IgA.

Xét nghiệm cận lâm sàng: IgẠ trong huuyết tương giảm (dưới 0,05 d/1), không có IgA trong các tương bào của mô bạch huyết. Số lượng lympho B bình thường.

Điều trị: kháng sinh trị liệu liên tục nếu bị nhiễm khuẩn hô hấp tái phát hoặc dai dẳng.

Thể suy giảm miễn dịch hay gặp khác nhau do di truyền lặn

Căn nguyên: bệnh di truyền lặn hoặc trội theo nhiễm sắc thể thân. Có thế do tăng hoạt tính của các lympho Ts (ức chế) ức chế lympho B sản xuất ra các kháng thể.

Triệu chứng: mặc dù di truyền, bệnh chỉ có biểu hiện ở người trẻ tuổi qua các bệnh nhiễm khuẩn mắc nhiều lần, nhất là ở đường hô hấp, bởi hội chứng kém hấp thu, đôi khi thứ phát sau mắc lamblia và bởi các bệnh tự miễn. Bệnh có thể dẫn tới nhiễm bột toàn thân.

Xét nghiệm cận lâm sàng: da thường không có phản ứng chậm. Gamma globulin huyết thấp, nhất là các IgM. Số lượng lympho B bình thường. Không có  tương bào ở các vùng không phụ thuộc tuyến ức của mô lympho. Tế bào ở các vùng phụ thuộc tuyến ức bị giảm.

Điều trị: truyền gamma globulin.

SUY GIẢM MIỄN DỊCH QUA TRUNG GIAN TẾ BÀO (gắn với các lympho T)

Không có tuyến ức bẩm sinh (bệnh DiGeorge)

Căn nguyên: rối loạn quá trình phát triển phôi thai, nhất là ở các cung mang thứ 3 và thứ 4, dẫn đến thiểu sản hoặc vô sản tuyến ức.

Thường có thiểu sản tuyến cận giáp đi kèm.

Triệu chứng: nhiễm khuẩn tái phát và nặng (do vi khuẩn, virus, nấm). Tetani do hạ calci huyết (thiểu sản tuyến cận giáp). Đôi khi bị bệnh tim bẩm sinh, dị tật khuôn mặt. Da không có phản ứng chậm.

Xét nghiệm cận lâm sàng: bạch cầu lympho giảm, không có hoặc có ít lympho T trong máu ngoại vi. Các mô lympho phụ thuộc tuyến ức có ít tế bào. Calci huyết thấp nếu bị nhược năng tuyến cận giáp kèm theo.

Điều trị: ghép tuyến ức bào thai cùng loài hoặc ghép tuỷ xương.

Nhiễm Candida mạn tính ở da và niêm mạc

Căn nguyên: cơ thể bẩm sinh không có khả năng miễn dịch với Candida albicans trong khi nồng độ các kháng thể trong huyết thanh là bình thường hoặc cao.

Triệu chứng: nhiễm Candida mạn tính ở da và niêm mạc, nhất là ở miệng-họng và thực quản. Hiếm gặp nhiễm Candida toàn thân. Có thể kèm theo có thiếu sắt hoặc thiếu hormon (nhất là nhược năng tuyến cận giáp), suy tuyến vỏ thượng thận mạn tính hoặc hội chứng đa nội tiết.

Xét nghiệm cận lâm sàng: phản ứng nội bì với candidin âm tính. Giảm sản xuất yếu tố ức chế bạch cầu di cư (MIF).

Điều trị: thuốc chống nấm (amphotericin B, ciotrimazol, ketoconazol).

SUY GIẢM MIỄN DỊCH HỖN HỢP

(gắn với các lympho T và B)

Mất điểu hoà giãn mạch bẩm sinh

(Hội chứng Louis – Bar)

Căn nguyên: bệnh di truyền lặn theo nhiễm sắc thể thân.

Triệu chứng: bệnh xuất hiện trước 3-4 tuổi, có mất điều hoà tiểu não tăng dần, múa vòn-múa giật và giãn mạch bẩm sinh ở mắt và ở da. Trẻ gái thường không có buồng trứng. Thường tử vong trước 20 tuổi do bệnh nhiễm khuẩn (viêm xoang mạn tính, nhiễm khuẩn phổi, giãn phế quản) hoặc do ung thư (u lympho, carcinoma).

Xét nghiệm cận lâm sàng: da không có phản ứng chậm, các mô lympho phụ thuộc tuyến ức có ít tế bào. Đôi khi bị đường huyết cao.

Điều trị: điều trị triệu chứng.

Suy giảm miễn dịch kết hợp nặng (Severe Combined Immune Deficiency – SCID)

Căn nguyên: có một thể di truyền lặn theo nhiễm sắc thể thân gây bệnh ở cả hai giới (typ Thuỵ Sĩ) và một thể lặn chỉ gây bệnh â nam giới.

Triệu chứng: mắc bệnh nhiễm khuẩn tái phát và nặng ngay từ lúc ra đời. Các vaccin làm từ vi khuẩn hoặc virus giảm độc lực có thể gây ra nhiễm khuẩn gây tử vong.

Xét nghiệm cận lâm sàng: lympho T, lympho B, tương bào bị giảm hoặc không có. Gamma globulin huyết thấp hoặc không có. Mô lympho phụ thuộc tuyến ức và không phụ thuộc tuyến ức đều có ít tế bào. Thể di truyền lặn theo nhiễm sắc thể thân có thể có thiếu hụt enzym adenosìn desaminase (ADA) hoặc nucleotid phosphorylase. Trong dịch tan hồng cầu của người dị hợp tử không có adenosin desaminase; còn trong dịch tan hồng cầu của cha mẹ dị hợp tử có rất ít adenosin desaminase.

Điều trị: ghép tủy xương. Ghép gan và/hoặc tuyến ức bào thai. Truyền nhiều lần hồng cầu rửa nếu bị thiếu hụt enzym. “Điều trị gen” đã được thử thành công trong trường hợp bị thiếu adenosin desaminase: lấy bạch cầu của bệnh nhân, đưa gen ADA vào rồi trả lại vào tĩnh mạch.

Hội chứng VViskott – Aldrich

Căn nguyên: bệnh di truyền lặn theo giới tính, gây bệnh ở nam giới.

Triệu chứng: chàm và ban xuất huyết do giảm tiểu cầu ngay từ những tháng đầu sau khi ra đòi. Nhiễm khuẩn nhiều lần, nhất là do phế cầu, virus herpes và Pneumocystis carinii. Dễ bị u ác tính,nhất là u lympho. Hiếm khi sống được quá 10 tuổi.

Xét nghiệm cận lâm sàng: IgG bình thường; IgM giảm; IgA và IgE tăng. Da không có phản ứng chậm với các kháng nguyên polysaccharid. Ngưng kết nguyên hồng cầu giảm hoặc không có. Tiểu cầu thấp.

Điều trị: truyền gamma globulin, ghép tuỷ xương. Cắt bỏ lách để điều trị nhẹ tiểu cầu thấp.

Hội chứng Nezelot

Suy giảm miễn dịch tế bào bẩm sinh, thiểu sản mô lympho và tuyến ức, kèm theo có rối loạn tổng hợp các globulin miễn dịch (thiếu IgA và tăng IgE).

RỐI LOẠN HỆ THỐNG BỔ THỂ

Các rối loạn chỉ ở hệ thống bổ thể (xem thuật ngữ này), nhất là của C3, làm bệnh nhân dễ mắc bệnh nhiễm khuẩn, đặc biệt là viêm màng não do Neisseria meningitides, do nấm, các thể phù Quincke di truyền, các bệnh tự miễn. Thiếu bô thể còn gặp trong một số trường hợp suy giảm miễn dịch nguyên phát (vô sản tuyến ức, bệnh không có gamma globulin di truyền theo giới tính). Phù mạch – thần kinh có tính gia đình (xem hội chứng này) cũng có liên quan đến bất thường về bổ thể.

RỐI LOẠN HỆ THỐNG THỤC BÀO

Bệnh u hạt mạn tính: xem bệnh này

Hội chúng Chediak-Higashi: xem bệnh này

Hội chứng Job-Buckley

Bệnh di truyền lặn theo nhiễm sắthê c thân, tính hoá ứng động của các bạch cầu bị rối loạn dẫn đến nhiễm tụ cầu tái phát ở da, ở xương và ở tạng; các IgE tăng rất cao. Điều trị: kháng sinh.

Rối loạn khả năng kết dính của bạch cầu

Bệnh di truyền lặn theo nhiễm sắc thể thân, tính hoá ứng động của các bạch cầu hạt và của lympho bị rối loạn. Các mô mềm bị nhiễm khuẩn hoại tử tái phát hoặc tiến triển, viêm lợi, vết thương chậm liền sẹo. Điều trị: kháng sinh.

SUY GIẢM MIỄN DỊCH THỨ PHÁT HAY MẮC PHẢI

Suy giảm sinh lý

Miễn dịch tế bào và số lượng lympho T giảm dần theo tuổi. Các lympho B và sự sản xuất globulin miễn dịch tăng lên. Nguy cơ tổng hợp các globulin miễn dịch bất thường cũng tăng (chi tiết —> xem rối loạn globulin huyết).

Rỏi loạn chuyển hoá proteln

Suy dinh dưỡng, hội chứng thận hư, rối loạn hấp thu, các bệnh viêm ruột thoát dịch rỉ viêm đều có giảm tổng hợp globulin miễn dịch và đôi khi gây suy giảm miễn dịch qua trung gian tế bào.

ức chế miền dịch do điều trị

Các bức xạ ion hoá, các corticoid, phần lớn các thuốc chống ung thư, huyết thanh kháng lympho làm giảm miễn dịch thể dịch và miễn dịch qua trung gian tế bào.

Nhiễm khuẩn

  1. Virus: nhiều bệnh do virus (sởi, quai bị, cúm, tăng đơn nhân nhiễm khuẩn) gây giảm khả năng miễn dịch qua trung gian tế bào và hoạt tính thực bào; ít khi ảnh hưởng lên miễn dịch thể dịch. AIDS là do một retro virus gây ra.
  2. Vi khuẩn: lao phổi rộng và cấp, lao kê có suy giảm miễn dịch qua trung gian tế bào. Phong thể u nằm trong bối cảnh suy giảm miễn dịch qua trung gian tế bào còn lao thể củ thường bị suy giảm miễn dịch thể dịch.
  1. Nấm: miễn dịch qua trung gian tế bào giảm trong nhiễm
  2. Ký sinh trùng: miễn dịch qua trung gian tế bào giảm trong nhiễm

U ác tính

  1. Bệnh khối u lympho: các khốỉ u lympho ác tính làm giảm miễn dịch thể dịch và miễn dịch qua trung gian tế bào. Trong bệnh đa u tuỷ xương và bệnh Waldenstrom, sự tổng hợp các globulin miễn dịch bình thường bị giảm còn sản xuất paraprotein tăng. Miễn dịch thể dịch giảm.
  2. Ung thư: các ung thư rắn đơn độc không gây ra biến đổi lâm sàng rõ rệt. Ngược lại, miễn dịch dịch thể và miễn dịch qua trung gian tế bào bị giảm trong ung thư toàn thân.

Bệnh Sarcoid

Bệnh chưa rõ căn nguuyên, thường có suy giảm miễn dịch qua trung gian tế bào kèm theo. Triệu chứng đặc biệt là không có phản ứng chậm của da đối với tuberculin. Tuy nhiên, suy giảm miễn dịch trong bệnh này là không hoàn toàn, test tuberculin có thể trở nên dương tính nếu bị lao tiến triển. Các globulin miễn dịch bình thường.

Chẩn đoán bệnh sốt xuất huyết

CHẨN ĐOÁN LÂM SÀNG SỐT XUẤT HUYẾT

Tiêu chuẩn đoán Sốt xuất huyết.

Với những trường hợp điển hình (có xuất huyết hoặc có sốc) chỉ căn cứ vào yếu tố dịch tễ và lâm sàng đã có thể quyết định được chẩn đoán, nhất là trong vụ dịch.

Tiêu chuẩn dịch tễ:

  • Ở đơn vị hoặc địa phương đang có dịch Sốt xuất huyết.
  • Đang là mùa dịch.
  • Bệnh nhân vừa đi qua vùng có dịch cách đó trung bình 5-8 ngày, tối đa khoảng 15 ngày.

Tiêu chuẩn lâm sàng:

  1. Sốt thường cao 39-40oC, kéo dài trung bình 7 ngày, có khi 2 tuần hay hơn, một số có sốt đợt 2 xuất hiện sau 1-3 ngày và kéo dài khoảng 1-3 ngày, thường kèm theo nhức đầu, đau mỏi cơ khớp (đa số), choáng váng chóng mặt, đổ mồ hôi và rét.
  2. Xung huyết; dấu hiệu dây thắt dương tính: có 3-4 đốm xuất huyết trở lên trên 1cm2 (phương pháp huyết áp kế Wintrobe, 1967) hoặc dấu hiệu véo da dương tính. Dấu hiệu này thường dương tính trong thời kỳ toàn phát; có thể âm tính hoặc dương tính nhẹ khi có sốc, hoặc khi bệnh phục hồi.
  3. Có xuất huyết dưới da, niêm mạc, phủ tạng đơn thuần hoặc kết hợp: thường gặp d thời kỳ toàn phát hoặc muộn hơn (độ 2) hoặc chỉ bầm tím nơi va đập, mũi tiêm có đốm máu lâu khô. (độ 1).
  4. Gan sưng to: chủ yếu thấy rõ ở bệnh nhi, có khi kèm theo đau bụng vùng thượng vị hoặc hạ sườn phải.
  5. Một số trường hợp có sốc với những triệu chứng mạch nhanh yếu, huyết áp hạ hoặc kẹp(< 20mmHg), da đầu chi lạnh đái ít.
  6. Tiểu cầu ≤ 100.000/1mm3 (đếm trực tiếp qua kính hiển vi đối pha; số lượng bình thường 200.000 – 500.000); nếu đếm trên phiến đồ máu ngoại vi với vật kính dầu: bình thường 4-10 tiểu cầu/1 vi trường, nếu giảm xuống 2-3 tiểu cầu/1 vi trường là số lượng thấp, tương đương < 100.000/mm 3.
  7. Có cô máu: hematocrit tăng thêm 20% so với hằng số.
  8. Bạch cầu giảm hoặc bình thường, limphô bào tăng hoặc bình thường.

Vận dụng các tiêu chuẩn chẩn đoán. Kinh nghiệm thực tế cho thấy:

Tại vụ dịch và ổ dịch:

  • Nếu có đầy đủ các yếu tố từ a đến h là điều kiện lý tưởng để khẳng định chẩn đoán. Trong thực tế, một số trường hợp không có tiểu cầu thấp (f), không có hematocrit cao (g), không có gan to (d) nhất là ở bệnh nhân lớn tuổi, nhưng nếu là trong vụ dịch vẫn chẩn đoán lâm sàng được:
  • Khi có 4 yếu tố a, b, c, h: trong vụ dịch, có thể nghĩ tới dengue xuất huyết độ 2 (theo phân loại của TCYTTG, 1980).

Khi có 5 yếu tố a, b, c, e, h trong vụ dịch có t.hể nghĩ tới Sốt xuất huyết độ 3-4 (theo TCYTTG, 1980); khi có 3 yếu tố a, b, h: trong vụ dịch, nhất là khi đơn vị đang có dịch, có thể nghĩ tới Sốt xuất huyết độ 1 (theo TCYTTG, 1980); nếu còn nghi ngờ thì làm thêm chẩn đoán huyết thanh.

Ngoài Ổ dịch và giữa 2 mùa dịch:

  • Nếu gặp trường hợp có đủ các yếu tố a, b, c, d hoặc e, f, g, h: có thể nghi ngờ khả năng Sốt xuất huyết, cần làm thêm chẩn đoán huyết thanh với dengue để xác chẩn, nhưng cần triển khai ngay những biện pháp phòng chống dịch đầu mùa, và điều trị bệnh nhân như một trường hợp Sốt xuất huyết.
  • Nếu gặp trường hợp chỉ có các yếu tố a, h, c hoặc e và h, còn 2 yếu tố tiểu cầu và hematocrit không biến đổi, cũng phải làm thêm chẩn đoán huyết thanh và các xét nghiệm khác để chẩn đoán; điều trị bệnh nhân trước mắt như một trường hợp Sốt xuất huyết đồng thời sẵn sàng những biện pháp chống dịch.
  • Ngoài ổ dịch và giữa 2 mùa dịch: với Sốt xuất huyết độ 2, 3, 4, có thể căn cứ vào yếu tố lâm sàng để chẩn đoán nhất thiết phải dựa vào cả lâm sàng và xét nghiệm huyết thanh; không phải dựa vào cả lâm sàng và xét nghiệm huyết thanh; không nên chẩn đoán quá dễ dàng và tràn lan Sốt xuất huyết độ 1, vì dễ bỏ sót sốt rét, cúm, hoặc một bệnh do virut đường hô hấp khác là những bệnh có thể phát thành dịch nhanh chóng.

Định nghĩa ca bệnh Dengue cổ điến (TCYTTG, 1997):

Có khả năng: Sốt + 2 hoặc nhiều triệu chứng sau:

  1. Rức đầu
  2. Đau sau nhãn cầu
  3. Đau cơ
  4. Đau khớp
  5. Ban ngoài da
  6. Xuất huyết
  7. Xuất hiện cùng thời gian và cùng địa điểm với những trường hợp sốt xuất huyết khác đã được xác minh chẩn đoán.

Chắc chắn: Được xác minh bằng chẩn đoán huyết thanh: hiệu giá kháng thế NNKHC (IH) tăng 4 lần, so 2 lần cách nhau 7 ngày, hoặc hiệu giá IgM hay IgG tăng lên so 2 lần cách 2-14 ngày.

Định nghĩa ca bệnh Sốt xuất huyết:

  • Sốt 2-7 ngày, đôi khi 2 pha
  • Có 1 trong các biểu hiện xuất huyết sau:
  • Giây thắt/véo da (+)
  • Có đốm, nốt, mảng XH dưới da
  • Có xuất huyết niêm mạc, xuất huyết ở mũi tiêm.
  • Nôn ra máu hoặc tiêu chẩy ra máu
  • Tiểu cầu < 100000/mm 3

Có biểu hiện thoát huyết tương qua thành mạch bị tăng thấm:

  • Hematocrite tăng thêm 20% chỉ số bình thường, hoặc giảm <20% sau khi bổ sung dịch, có tràn dịch màng phổi, hoặc cổ chướng, hoặc giảm protein máu.

Định nghĩa ca bệnh sốc D:

  • Có đủ 4 triệu chứng ghi trên của Sốt xuất huyết, cộng thêm
  • Mạch nhanh yếu.
  • Huyết áp tụt (<90 mmHg (> 5 tuổi), hoặc < 80 mmHg (bệnh nhân < 5 tuổi); hoặc HA kẹp ( < 20mmHg)
  • Da lạnh, dính nhớp
  • Mệt lả

Một số kinh nghiệm chẩn đoán.

  • Sốt của Sốt xuất huyết có một số đặc điểm: về thời gian (trung bình 4-7 ngày có khi 2 tuần hoặc hơn), về độ cao (trung bình 39° – 40 °C), cách bắt đầu (tăng nhanh trong 1- 2 ngày), cách kết thúc (giảm từ từ hoặc tụt nhanh xuống bình thường hoặc dưới bình thường;, kiểu diễn biến (phổ biến là dao động, đôi khi sốt liên tục, một số bệnh nhân có sốt đợt 2), khó cất hẳn bằng thuốc hạ sốt. Trong những đặc điểm này, nét đặc trưng nhất giúp nghĩ tới Sốt xuất huyết là nhiệt độ có khi tụt nhanh xuống dưới 36o kèm theo mạch chậm ở một số trường hợp, và sau 1-3 ngày lại có sốt đợt 2 ở 10-20% bệnh nhân: tuy nhiên không phải trường hợp nào cũng có 2 đặc điểm này, và ở một số bệnh khác như cúm… cũng có sốt đợt 2, nhưng đợt 1 và 2 ở bệnh cúm thường ngắn hơn và sát nhau hơn nên có hình dạng chữ V.
  • Triệu chứng da, niêm mạc đỏ hồng (do giãn mạch ngoại vi) giống như đi nắng, hoặc tắm nước nóng già, thường chỉ rõ rệt trong 1-2 ngày đầu và ở người có nước da trắng; còn những ngày sau ở bệnh nhân da nâu đen và trong trường hợp có sốc, hội chứng não cấp, hoặc xuất huyết phủ tạng nặng thì triệu chứng này thường không nổi lên; để phát hiện dấu hiệu này ở người da ngăm đen, dùng 5 đầu ngón tay ấn xuống da rồi nâng lên sẽ thấy 5 nốt trắng bệch khác hẳn với màu da xung quanh và sẽ trở về như màu da xung quanh nhanh hoặc chậm.
  • dấu hiệu dây thắt tuy phổ biến ở đại đa số bệnh nhân và là một tiêu chuẩn chẩn đoán, nhưng có thể âm tính hoặc dương tính nhẹ khi bệnh nhân bị sốc sâu, hoặc xuất huyết phủ tạng nặng: khi hết sốc hoặc ngừng xuất huyết, nghiệm pháp lại trở lại dương tính. Nghiệm pháp véo dao thường dùng rộng rãi trong Lâm sàng vì tiện và đơn giản, nhưng vì không có chuẩn độ nên trong chẩn đoán những trường hợp không điển hình như Sốt xuất huyết độ 1 cần ứng dụng phương pháp huyết áp kế.
  • Hội chứng xuất huyết tuy là một hội chứng điển hình của Sốt xuất huyết nhưng không phải trường hợp nào cũng có xuất huyết; tại ổ dịch, Sốt xuất huyết độ 1 (không có xuất huyết) có thể chiếm 60-70% tổng số bệnh nhân (xem

Bùi Đại và cs, 1975); ở những trường hợp Sốt xuất huyết độ 2 (có xuất huyết): trong 1-2 ngày đầu của bệnh, thường chưa xuất hiện xuất huyết, có khi hết sốt mới xuất hiện những đốm xuất huyết mọc đầy ở 2 cẳng tay và ống chân; những trường hợp Sốt xuất huyết độ 3-4 có sốc, ban xuất huyết thường rất thưa, mọc lờ mờ, thậm chí không có. Cho nên không thể căn cứ tuyệt đối vào hội chứng này để chẩn đoán Sốt xuất huyết nhất là khi muốn chân đoán sớm. Để phát hiện sớm ban xuất huyết, cần khám kỹ những vùng da mềm mỏng như mạng sườn, hố nách, bẹn, mặt trong đùi; có khi ban xuất huyết không rõ, nhưng nếu máu chảy lâu sau khi rút kim, có đốm xuất huyết để lại ở chỗ trích, hoặc dễ bầm tím nơi va chạm, đều là những căn cứ chẩn đoán tốt.

  • Gan sưng đau cũng là một triệu chứng được TCYTTG (1980) xếp vào tiêu chuẩn chẩn đoán Sốt xuất huyết và được ghi nhận ở đa số bệnh nhi Sốt xuất huyết từ 55% đến 90% (Bệnh viện B, 1969, Bệnh viện nhi đồng 1, 1974).

Nhưng ở bệnh nhân người lớn, triệu chứng gan sưng to gặp ít hơn (10-15%; xem 5.11), cho nên ở những địa phương mới có dịch Sốt xuất huyết và ở đó bệnh Sốt xuất huyết tấn công vào cả trẻ em và người lớn, việc chẩn đoán Sốt xuất huyết ở người lớn không cần dựa vào tiêu chuẩn gan sưng.

  • Sốc tuy không phổ biến như triệu chứng xuất huyết ở bệnh Sốt xuất huyết, nhưng rất có giá trị chẩn đoán nghi ngờ Sốt xuất huyết: khi gặp trong vụ dịch một bệnh nhân có sốt cao, tụt huyết áp sớm trong 4-6 ngày đầu của bệnh, và bạch cầu giảm, mặc dù chưa thấy xuất huyết cũng có thể nghĩ tới sốc dengue và cấp cứư như một sốc dengue; nếu ở bệnh nhân này phát hiện thêm tiểu cầu thấp, hematocrit cao, thì hướng chẩn đoán sốc dengue còn chấc chắn hơn.
  • Đáng lưu ý triệu chứng hạch sưng đau điển hình của dengue cổ điển, và cũng đã gặp ở một số trường hợp Sốt xuất huyết; tuy không là tiêu chuẩn cần thiết để chẩn đoán Sốt xuất huyết, nhưng có giá trị chẩn đoán phân biệt giữa Sốt xuất huyết độ 1 với cúm, sốt rét…

CHẨN ĐOÁN HUYẾT THANH VÀ VIRUT

Khi người bị nhiễm virut D bắt đầu sốt, virut đã lan rộng, có mặt trong huyết thanh hoặc huyết tương, tế bào máu, trong các tổ chức của hệ miễn dịch, thời gian khoảng 2- 7 ngày, khi còn sốt. Virut thường nhập tế bào đơn nhân trong vòng vài ngày sau khi muỗi đốt, trung bình cứ 10.000 tế bào có 1-10 tế bào bị nhiễm. Có 2 kiểu đáp ứng kháng thể của cơ thể: sơ nhiễm (chưa bị nhiễm virut D và 1 flavivirut khác, cũng chưa dùng vaccin flavivirut), và đáp ứng thứ phát (người đã nhiễm virut D, hoặc 1 flavivirut khác, hoặc đã tiêm vaccin flavivirut).

Xét nghiệm huyết thanh là phương pháp giản đơn hơn, giúp nhanh chóng xác định bệnh và nghiên cứu dịch tễ, nhưng đánh giá đôi khi khó. Phân lập virut là phương pháp đáng tin cậy, nhưng phức tạp, đòi hỏi thời gian và thường chỉ có giá trị truy chấn và nghiên cứu.

Xét nghiệm huyết thanh.

Hiện nay có 2 xét nghiệm huyết thanh tương đối thông dụng: phản ứng ngăn ngưng kết hồng cầu (NNKHC, viết tắt tiếng Anh ]à IH) và test MAC-ELISA.

Cách lấy máu: lý tưởng lấy 2 lần để xác định sự biến động của hiệu giá kháng thể: lần 1 lấy ngày thứ nhất của bệnh hoặc trong 3-5 ngày đầu của bệnh, lần 2 trong tuần 2-3 ít nhất sau 7 ngày tốt nhất sau 10 ngày. Lấy 2-5ml máu vào ống nghiệm vô trùng (thường đủ cho cả xét nghiệm huyết thanh và phân lập virut), để tủ lạnh + 4°, + 10°c và chiết huyết thanh sang lọ vô trùng, dán nhãn có ghi: tên, họ bệnh nhân, ngày tháng lây, ngày thứ mấy của bệnh, huyết thanh lần thứ mấy (1, 2, 3), và nút kín bảo quản trong tủ lạnh trước khi chuyển đến phòng thí nghiệm. Có thể lấy máu vào giấy thấm: lấy máu đầu ngón tay, thấm máu vào đĩa giấy lọc tiêu chuẩn (12,7 mm đường kính), thấm cả 2 mặt đĩa, để khô ở nhiệt độ phòng 22° – 25 °c trước khi gói, sau đó tách máu khỏi giấy lọc (theo phương pháp của TCYTTG, 1975) để xét nghiệm tìm kháng thể.

Phản ứng NNKHC (IH): làm theo kỹ thuật của Clarke và Casal 1958 (Thông báo kỹ thuật của TCYTTG, 1975, 1980). Nơi nghi có virut Chikungunya lưu hành thì xét nghiệm cả với Chikungunya, ở trường hợp sơ nhiễm kháng thể NNKHC (IH) xuất hiện sớm ngay trong tuần đầu nhưng với hiệu giá thấp và thường với 1 typ; ở trường hợp tái nhiễm hiệu giá kháng thể thường cao ngay trong tuần đầu và với nhiều typ. cần lấy 2 lần huyết thanh, cách nhau tối thiểu 7 ngày mới xác định được sơ nhiễm hay tái nhiễm,

Phản ứng NNKHC dựa trên nguyên lý: kháng thể kháng virut D có khả năng ức chế quá trình ngưng kết hồng cầu.

Phản ứng MAC – ELI SA:

Phản ứng này nhằm phát hiện những kháng thể isotyp IgM và IgG, dựa trên nguyên lý: ở người chưa hề nhiễm virut D hoặc 1 Aavivirut khác cũng chưa dùng vaccin flavivirut, sẽ có đáp ứng kháng thể kiểu tiên phát (sơ nhiễm) IgM hiệu giá cao hơn hẳn IgG, IgM xuất hiện tới ngày thứ 5 của bệnh ở 80% bệnh nhân, và tới ngày 10 ở 99% bệnh nhân; IgM xuất hiện d 50% bệnh nhân khi còn sốt, và ở 50% sau khi hết sốt 2-3 ngày; IgM tăng nhanh; đạt đỉnh cao sau khoảng 2 tuần rồi giảm dần trong vòng 2-3 tháng; Kháng thể ngăn ngưng kết hồng cầu cũng xuất hiện đồng thời với IgM, hoặc sau IgM và có hiệu giá thấp hơn. ở người có tiền sử nhiễm virut D hoặc 1 flavivirut khác, hoặc đã dùng vaccín flavivirut, sẽ có đáp ứng kháng thể kiểu thứ (tái nhiễm) IgG xuất hiện sớm, với hiệu giá cao hơn IgM; IgM cũng xuất hiện đồng thời nhưng hiệu giá rất thấp; IgG tăng nhanh, đạt đỉnh cao 2 tuần rồi giảm dần trong vòng 3-6 tháng; IgM cũng đạt đỉnh cao trong 2 tuần rồi giảm, chỉ còn thấy ở 30% bệnh nhân sau 2 tháng.

Như vậy hệ số IgM/IgG cao ở đáp ứng tiên phát và thấp ở đáp ứng thứ phát.

Cần lấy huyết thanh 2 lần cách nhau 2 -14 ngày trở lại; cả IgM và IgG đều trung hoà được virut D.

Đánh giá kết quả xét nghiệm huyết thanh.

Virut dengue là 1 Arbovirut thuộc nhóm B, nhóm B của Arbovirut nay được gọi là Flavivirut; giữa các virut của nhóm này về phương diện kháng nguyên có điểm gần nhau. Do đó khi bệnh nhân trước kia đã bị nhiễm một Arbovirut khác thuộc nhóm B (không phải dengue) việc xác định nhiễm virut dengue lần này không dễ dàng, phải dựa vào tiêu chuẩn.

Bốn typ virut dengue cũng rất gần nhau về phương diện kháng nguyên, nhưng cũng đủ khác nhau để chỉ có một phần miễn dịch chéo. Do 2 điểm vừa nêu, trong máu những người trước đây đã nhiễm bởi 1 Falvivirut khác dengue, hoặc bởi 1 virut dengue typ khác đều có thể có sẵn một số kháng thể kháng dengue với hiệu giá thấp, vì vậy chẩn đoán huyết thanh những trường hợp nhiễm dengue càng phải căn cứ vào động lực của kháng thể giữa 2 lần.

Kết quả xét nghiệm huyết thanh có thể cho phép phân biệt sơ nhiễm virut dengue với tái nhiễm.

Phản ứng MACELISA

Test Mac Elisa giúp do mức tăng IgM giữa 2 lần huyết thanh dù cách nhau 1-2 ngày trong giai đoạn cấp; huyết thanh lấy cách nhau 2-3 ngày trong giai đoạn vừa hết sốt cũng dùng được; khoảng cách giữa 2 lần huyết thanh từ 2 đến 14 ngày trở lại.

Mac Elisa còn dùng để phát hiện IgM kháng Aavivirut trong DNT; bình thường IgM không qua hàng rào máu – não cho nên sự có mặt của IgM ở DNT có giá trị gợi ý có flavivirut nhân lên trong não.

Đáp ứng kháng thể IgM Khoảng cách 2 làn XN Hệ số

m

igG

Ý nghĩa chẩn đoán
Tăng hiệu giá 2-14

ngày

– CAO THẤP –  Nhiễm flavivirut cấp, tiên phát

–  Nhiễm flavivirut cấp, thứ phát

Hiệu giá cao nhưng không tăng, không thay đổi, hoặc giảm 2-14

ngày

–  CAO

–  THẤP

–  Mới nhiễm flavivirut gần đây tiên phát

–  Mới nhiễm flavivirut gần đây thứ phát.

Hiệu giá cao, chì XN 1 lần (Xét nghiệm có 1 lần) –  CAO

–  THẤP

–  Mới nhiễm flavivirut gần đây, tiên phát

–  Mới nhiễm flavivirut gần đây thứ phát.

Phản ứng NNKHC (IH)

Cần phải xét nghiệm 2 lần: lần 1 khi vào viện, ở giai đoạn cấp, tốt nhất trong 4 ngày đầu, lần 2 khi khỏi ra viện, cách lần 1 từ 7 ngày trở lên. Nếu chỉ xét nghiệm được 1 lần, phản ứng này không giúp được chẩn đoán trong sơ nhiễm. Phản ứng NNKHC cũng không phân tách được nhiễm các flavivirut cùng nhóm (giữa virut Dengue và virut viêm não Nhật Bản v.v…)

Đáp ứng kháng thể IH Khoảng cách 2 lần XN Hiệu giá lần 2 (khỏi bệnh) Ý nghĩa chẩn đoán
1. Hiệu giá tăng ≥ 4 lần

2  – HG tăng ≥ 4 lần

3  – Tăng ≥  4 !ần

4  – Không tăng

5  – Không tăng

6  – Không tăng

7  – Chỉ XN1 lần

≤ 7 ngày

>< 7 ngày

<  7 ngày

>< 7 ngày

≥7 ngày

<  7 ngày

XN 1 lần

≤1:1280

≥1: 2560

≤1:1280

≥ 1: 2560

≤1:1280

≤1:1280

≤1: 1280

–  Nhiễm flavivirut cấp, tiên phát

–  Nhiễm Flavivirut cấp, thứ phát

–  Nhiễm flavivirut cấp tiên phát hoặc thứ phát

–  Mới nhiễm flavivirut gàn đây thứ phát.

–  Không phải dongue

–  Không có ý nghĩa chẩn đoán

–  Không có ý nghĩa chẩn đoán

Phân lập virut dengue.

  • Bệnh phẩm: 3 loại; máu bệnh nhân trong 4 ngày đầu, càng sớm càng tốt; mổ tử thi liền sau khi chết trong 6-12 giờ; muỗi. Bệnh phẩm lấy vô trùng bảo quản ngắn hạn ở +4° + 8°c, bảo quản dài hạn ở < CP.
  • Chuẩn bị bệnh phẩm: nghiền cục máu pha loãng 1/10; nghiền tổ chức thành dịch treo 10-20% trong dung dịch đệm, cùng với chất bền vững 1% và kháng sinh, ly tâm 3000 vòng trong 15 phút, lấy chất lắng cặn pha loãng 1/10; muỗi cũng nghiền thành dịch treo 10%.
  • Cấy vào môi trường: tiêm bệnh phẩm vào 3 loại môi trường, não chuột nhắt đang bú tuổi < 48 giờ, ngực muỗi Aedes aegypti đực, môi trường tế bào.

Quan sát theo dõi:

  • Ở chuột: nếu bệnh phẩm có virut, chuột sẽ phát triển không bình thường, sẽ phát hiện được kháng nguyên trong não bằng miễn dịch huỳnh quang và phát hiện được kháng thể trong huyết thanh chuột 3-4 tuần sau khi gây nhiễm; cây truyền sang não chuột nhắt khác bằng hỗn dịch não 12% của chuột thực nghiệm (cây truyền mù hoặc khỉ chuột đã có dấu hiệu bệnh).
  • Nuôi cấy tế bào: quan sát hiện tượng huỷ hoại tế bào, hiện tượng giao hoán với virut bại liệt, làm phản ứng kết hợp bổ thể, cấy truyền bằng nước trong sau ly tâm.
  • Ở muỗi: phát hiện kháng nguyên trong tuyến nước bọt bằng miễn dịch huỳnh quang, làm phản ứng KHBT (dùng mô muỗi làm kháng nguyên), cấy truyền vào chuột ổ bằng hỗn dịch mô muỗi 10%.

Xem tiếp:

  1. Chẩn đoán, điều trị sốt dengue và sốt xuất huyết dengue
  2. Sốt xuất huyết thể không điển hình và điển hình
  3. Phân loại thể bệnh sốt xuất huyết
  4. Sốt xuất huyết thể sốc ( Dengue độ 3 và 4 )
  5. Sốt xuất huyết thể xuất huyết phủ tạng (độ 2b)
  6. Sốt xuất huyết thể não
  7. Sốt xuất huyết thể suy gan cấp
  8. Sốt xuất huyết có đái ra huyết cầu tố (hct)
  9. Những biến chứng của Sốt xuất huyết xuất
  10. Tiên lượng bệnh sốt xuất huyết
  11. Chẩn đoán bệnh sốt xuất huyết
  12. Nguyên tắc điều trị sốt xuất huyết
  13. Điều trị sốt xuất huyết độ 1 -2 (không có sốc)
  14. Điều trị sốt xuất huyết độ 1-2 bằng thuốc nam y học cổ truyền
  15. Triệu chứng hô hấp trong bệnh sốt xuất huyết
  16. Những biến đổi thể dịch của bệnh sốt xuất huyết
  17. Biện pháp phòng dịch sốt xuất huyết
  18. Đường lây truyền bệnh sốt xuất huyết dengue
  19. Cơ chế lây truyền bệnh sốt xuất huyết
  20. Triệu chứng dengue xuất huyết thể điển hình (độ II)
  21. Triệu chứng thần kinh trong sốt xuất huyết
  22. Hội chứng tim mạch trong sốt xuất huyết
  23. Triệu chứng tiêu hoá trong sốt xuất huyết

Bệnh viêm não do virus – triệu chứng và điều trị

VIÊM NÃO NGUYÊN PHÁT DO VIRUS

Định nghĩa: bệnh não do sự nhân lên trực tiếp của virus trong hệ thần kinh. Có thể phát hiện được virus trong mô thần kinh.

Căn nguyên: phần lớn virus có thể gây viêm não nhưng ái tính với thần kinh của các virus rất khác nhau. Các virus hay gây viêm não (và viêm màng não) là:

  • Enterovirus: virus bại liệt, virus C.H.O., virus Coxsackie nhóm A và B.
  • Arbovirus: ở Trung Âu có các ổ viêm não tự nhiên do bọ chét truyền một flavivirus (virus TBE), vectơ truyền bệnh chủ yếu là bọ “Ixodes ricinus” sống trong các khu rừng ở độ cao dưới 1000 m. Có thể bị nhiễm bệnh sau một lần đi chơi hay cắm trại trong rừng. Có vaccin phòng bệnh này.
  • Virus dại.
  • Myxovirus và paramyxovirus: cúm, quai bị (viêm não quai bị), sởi.
  • Virus mụn rộp (herpes): virus mụn rộp typ 1 và 2; virus thuỷ đậu và virus zona, cytomegalovirus, virus Epstein- Barr. .Viêm não do cytomegalovirus có thể là nhiễm khuẩn cơ hội gặp trong AIDS.
  • Virus HIV/AIDS.

Triệu chứng: đôi khi trước đó có tình trạng cúm nặng hoặc nhẹ. Viêm não xuất hiện đột ngột: sốt, nhức đầu, buồn nôn, nôn, cứng gáy (hội chứng màng não), lú lẫn, có thể hôn mê sâu. Các triệu chứng thần kinh rất đa dạng: rối loạn vận động kiểu tháp hay ngoại tháp, tổn thương ở gian não (tăng thân nhiệt, hạ thân nhiệt, đái tháo nhạt), cơn co giật. Trong trường hợp tủy bị tổn thương, có liệt mềm và rối loạn cơ thắt.

Thể lâm sàng

  • Viêm não herpes:thường do bị tổn thương thuỳ thái dương, có hành vi kỳ quặc, mất sử dụng ngôn ngữ, hoang tưởng, cơn động kinh tái phát.
  • Mất điều hoà tiểu não cấp:viêm não virus khu trú ở tiểu não và hay gặp ở trẻ nhỏ.
  • Viêm não hệ viền: gặp trong bối cảnh có ung thư toàn thể (thường là ung thư phổi), do một virus chưa được biết; có rối loạn trí nhớ và cơn co giật.
  • Viêm não bán cấp trong AIDS: do HIV, tâm thần-vận động bị chậm lại, vô cảm, xa lánh xã hội, sa sút trí tuệ, run đầu chi, rối loạn phối hợp động tác và viết khó. Có thể gặp ở người huyết thanh dương tính không có triệu chứng lâm sàng hay chỉ có triệu chứng nhẹ của AIDS. Chẩn đoán xác định bằng cộng hưởng từ hạt nhân: thấy có vùng rộng bị mất myelin.
  • Viêm não ngủ lịm của von Economo:đã từng gây dịch từ thế chiến thứ nhất cho đến năm 1925. Có ngủ sâu và liệt mắt; sau vài tháng hoặc vài năm có hội chứng ngoại tháp. Bệnh được cho là do virus.

Xét nghiệm cận lâm sàng

  • Huyết đồ:giảm bạch cầu hay tăng bạch cầu vừa phải, tăng bạch cầu đơn nhân mônô không điển hình trong nhiễm khuẩn tăng mônô.
  • Dịch não tuỷ:nói chung có tăng áp lực, bạch cầu tăng vào lúc đầu, sau đó là tăng lympho. Protein trong dịch não tủy tăng vừa phải, chủ yếu là các IgG. Glucose bình thường.
  • Huyết thanh học và virus học: tìm kháng thể đặc hiệu trong huvết thanh vào giai đoạn cấp và trong thời kỳ lại sức. Tìm virus trong máu (arbovirus và enterovirus), bệnh phẩm lấy ở họng (quai bị), dịch não tủy (virus C.H.O., virus Coxsackies, quai bị, herpes), trong phân và ở bọ (viêm não do bọ).

Xét nghiệm bổ sung

  • Ghi điện não:thường có rối loạn nhưng không đặc hiệu.
  • Chụp cắt lớp và công hưởng từ: có thể thấy các tổn thương lan toả ở vỏ não hay các ô tổn thương. Tổn thương ở các thuỳ thái dương có thể nói lên là bị viêm não do herpes.

Tiên lượng và tiến triển: rất thay đổi. Bệnh nhân có bệnh cảnh lâm sàng rất nặng có thể khỏi hoàn toàn. Tỷ lệ tử vong thay đổi tuỳ theo từng loại virus, và với từng loại virus lại thay đổi theo từng vụ dịch.

Chẩn đoán căn nguyên: điều quan trọng là cần xác định ngay xem có phải là do virus herpes không để sớm điều trị bằng thuốc kháng virus đặc hiệu (aclovir).

Chẩn đoán phân biệt: cần phân biệt viêm não do virus với ngộ độc các thuốc hướng thần kinh, các trạng thái loạn thần cấp, áp xe não, bệnh não do nguyên sinh động vật (toxoplasma, sốt rét, amip) và do nấm (Candida, cryptococcus neoformans), u não và rôi loạn thần kinh do rối loạn chuyển hoá porphyrin, bệnh sarcoid.

Điều trị

  • Aciclovir cho viêm não herpes (10mg/kg; 8 giờ một lần, theo đường tĩnh mạch).
  • Điều trị triệu chứng: giữ cân bằng nước-điện giải. Nếu cần thiết phải nuôi dưỡng qua mạch máu, hô hấp viện trợ, thuốc chống co giật.

Phòng bệnh: với bệnh viêm não do bọ chét ở Trung Âu: ăn mặc kín, che cổ tay, cổ chân, mặc quần áo sáng màu để dễ nhìn thấy bọ. Sau khi qua khu rừng về, phải xem xét cơ thể cẩn thận. Có vaccin phòng bệnh, tiêm bắp 3 mũi trong vòng 10 tháng và 3 năm tiêm nhắc lại một lần. Các globulin miễn dịch đặc hiệu được dùng đê phòng bệnh trong một thời gian ngắn hay cho người chưa được tiêm vaccin bị bọ cắn.

VIÊM NÃO VIRUS SAU NHIỄM KHUẨN

Bệnh não (viêm não) đôi khi có tổn thương tủy sống (viêm não-tuỷ) xảy ra 5-10 ngày sau khi khởi phát một bệnh do virus (thuỷ đậu, sởi, quai bị, zona, cúm) hay sau khi tiêm phòng một số bệnh do virus (viêm não sau vaccin). Trong các bệnh viêm não này có sự mất myelin ở vùng quanh mạch do quá trình miễn dịch. Không tìm thấy virus trong não. Một số virus, nhất là virus quai bị, có thể vừa gây viêm não nguyên phát, vừa gây viêm não sau nhiễm khuẩn.

VIÊM NÃO-TỦY LAN TỎA CẤP TÍNH: gặp sau khi tiêm vaccin phòng dại cũ, có chứa mô não; sau chủng đậu, sau sởi, thuỷ đậu và có khi sau bệnh rubeon. Các triệu chứng giống như trong viêm não, đôi khi có cả triệu chứng nặng về tiểu não, thân não và tủy sống (rối loạn vận động và cảm giác ngoại vi). Điều trị: corticoid.

VIÊM NÃO TRẮNG CẤP XUẤT HUYẾT CỦA HURST: rất giống với viêm não-tủy cấp lan toả nhưng tiến triển tối cấp (chết trong vài ngày). Trước đó không có tiêm
phòng nhưng đôi khi bị cúm thông thường. Hội chứng Broiun-Séquard hay viêm não thanh mạc cấp ở trẻ nhỏ rất có thể cũng thuộc nhóm bệnh này.

Những Tác Nhân Gây Dị Tật Bẩm Sinh Khi Mang Thai

Tác Nhân Gây Dị Tật Là Gì?

Tác nhân gây dị tật (teratogen) là yếu tố môi trường mà một người tiếp xúc trong thai kỳ có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi, dẫn đến dị tật bẩm sinh. Thực tế, khoảng 4% đến 5% các dị tật bẩm sinh là do tiếp xúc với tác nhân gây dị tật.

Khi thai nhi phát triển và một kết nối máu hình thành giữa thai nhi và người mang thai, bất cứ thứ gì người mang thai tiếp xúc, bao gồm cả tác nhân gây dị tật, có thể truyền sang thai nhi và ảnh hưởng đến sự phát triển của chúng. Do đó, người ta tin rằng các tác nhân gây dị tật có thể ảnh hưởng đến thai nhi trong khoảng từ 10 đến 14 ngày sau khi thụ thai.

Ví Dụ Về Tác Nhân Gây Dị Tật

Có nhiều loại tác nhân gây dị tật phổ biến có thể gây hại cho sự phát triển của trẻ và dẫn đến dị tật bẩm sinh. Ví dụ về các tác nhân gây dị tật bao gồm:

  • Một số loại thuốc
  • Ma túy giải trí
  • Rượu
  • Thuốc lá
  • Hóa chất độc hại
  • Một số loại vi khuẩn và virus
  • Một số bệnh lý

Tuy nhiên, không phải tất cả các hóa chất và thuốc đều gây hại cho trẻ hoặc thai kỳ. Những tác nhân này được gọi là không gây dị tật (nonteratogenic) và không có mối liên hệ nào đã được biết đến với dị tật bẩm sinh. Những tác nhân không gây dị tật bao gồm:

  • Chất diệt tinh trùng như thuốc tránh thai, gel, kem, bọt, và bao cao su
  • Acetaminophen, như có trong các loại thuốc giảm đau thông thường
  • Vitamin trước khi sinh được kê toa cho người mang thai
  • Lò vi sóng phát ra bức xạ không ion hóa

Tác Nhân Gây Dị Tật và Dị Tật Bẩm Sinh

Các tác nhân gây dị tật được phân loại theo các loại sau:

  • Tác nhân vật lý, bao gồm các tác nhân ion hóa, nhiệt độ cao, và hơn thế nữa
  • Tác nhân hóa học, chẳng hạn như hợp chất thủy ngân hữu cơ, thuốc diệt cỏ, dung môi công nghiệp, và hơn thế nữa
  • Tác nhân nhiễm trùng, như rubella, herpes simplex, syphilis, và hơn thế nữa
  • Các điều kiện sức khỏe mẹ, bao gồm mẹ bị phenylketon niệu (maternal PKU), tiểu đường, và hơn thế nữa

    Tác Nhân Cần Tránh Gây Dị Tật Bẩm Sinh
    Tác Nhân Cần Tránh Gây Dị Tật Bẩm Sinh

Các tác nhân gây dị tật này có thể có mặt trong nhà của bạn hoặc tại nơi làm việc. Người mang thai thường dễ bị tiếp xúc với các tác nhân này trong nửa đầu thai kỳ. Tùy thuộc vào di truyền của người mang thai và thai nhi, mức độ tiếp xúc có thể gây ra các bất thường khác nhau.

Tác nhân vật lý

Một số tác nhân vật lý có thể dẫn đến nhiệt độ cao (hyperthermia), liên quan đến các dị tật ống thần kinh và các bất thường tim mạch. Bằng chứng cũng cho thấy có mối liên hệ giữa những người mang thai có sốt cao và các bất thường bẩm sinh, dị tật ở thành bụng, hoặc bệnh Hirschsprung ở thai nhi của họ.

Tác nhân hóa học

Tác nhân hóa học như rượu và thuốc lá là một trong những nguyên nhân gây dị tật bẩm sinh hoặc khuyết tật có thể phòng ngừa được. Trong một số trường hợp, việc tiếp xúc với rượu trước khi sinh có thể ảnh hưởng đến thai nhi trong 3 đến 8 tuần đầu tiên, thường là trước khi người mang thai biết mình có thai. Một nhóm các bất thường do tiêu thụ rượu được phân loại là hội chứng rượu bào thai (fetal alcohol syndrome), có thể dẫn đến chậm phát triển trí tuệ.

Tác nhân nhiễm trùng

Các tác nhân nhiễm trùng như rubella, syphilis, herpes, v.v., cũng có thể gây ra dị tật bẩm sinh tiềm ẩn. Chúng đã được liên kết với các dị tật bẩm sinh ở thai nhi. Một người mang thai có thể bị nhiễm sau khi uống nước ô nhiễm, tiêu thụ thịt nhiễm bệnh, hoặc chạm vào phân mèo bị nhiễm.

Các điều kiện mẹ

Các điều kiện ảnh hưởng đến người mang thai có thể bao gồm tiểu đường, suy dinh dưỡng, và các vấn đề về tuyến giáp. Hạ đường huyết có thể xảy ra trong thai kỳ, có thể gây ra dị tật thai nhi. Các nghiên cứu cũng cho thấy nguy cơ dị tật ở thai nhi tăng từ 4% đến 10% ở những thai phụ bị tiểu đường trong thai kỳ. Tiểu đường thai kỳ cũng có thể gây ra mức đường huyết cao, đã được liên kết với các dị tật ống thần kinh, não, và tủy sống.

Nếu người mang thai bị rối loạn tuyến giáp, điều này cũng có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi trong thai kỳ.

Phòng Ngừa Tác Nhân Gây Dị Tật và Dị Tật Bẩm Sinh

Mặc dù không phải tất cả các dị tật bẩm sinh đều có thể được phòng ngừa hoặc tránh khỏi, có một số biện pháp bạn có thể thực hiện để giúp ngăn ngừa một số dị tật bẩm sinh trong một số tình huống.

Các biện pháp phòng ngừa này bao gồm:

  • Chăm sóc trước khi sinh: Nên sử dụng một loại vitamin trước khi sinh hàng ngày chứa ít nhất 400 microgam axit folic. Loại vitamin trước khi sinh này có thể giúp ngăn ngừa nhiều dị tật bẩm sinh. Vitamin trước khi sinh nên được sử dụng ngay khi bạn phát hiện mình có thai, nhưng cũng có thể được sử dụng khi bạn ở độ tuổi sinh sản hoặc khi bạn bắt đầu cố gắng thụ thai.
  • Tránh một số chất: Các chất như rượu, thuốc lá, và ma túy giải trí nên được tránh ngay khi bạn biết mình có thai. Những chất này không chỉ có thể gây ra dị tật bẩm sinh mà còn có thể gây ra các biến chứng trong thai kỳ. Tránh chúng ngay khi bạn phát hiện mình có thai hoặc thậm chí trước đó sẽ giúp ngăn ngừa những tình huống này xảy ra.
  • Xem xét các tình trạng y tế hiện tại và trong quá khứ: Các tình trạng y tế hiện tại và trong quá khứ, nhiễm trùng, và bệnh lý cần được xem xét. Một số bệnh và yếu tố di truyền có thể góp phần vào dị tật bẩm sinh. Ngoài ra, nếu bạn đã có một thai kỳ trước đó có dị tật bẩm sinh, điều quan trọng là tìm hiểu nguyên nhân gây ra dị tật để bạn có thể lập kế hoạch phòng ngừa với bác sĩ trước khi mang thai lần nữa.

Mặc dù không phải tất cả các dị tật bẩm sinh đều có thể được phát hiện trong thai kỳ, vẫn rất quan trọng để được sàng lọc định kỳ nhằm đảm bảo rằng thai nhi của bạn khỏe mạnh. Các nhóm siêu âm trước khi sinh được chứng nhận cũng có thể tiến hành siêu âm độ phân giải cao để phát hiện dị tật trước khi sinh, đặc biệt là những dị tật có thể gây ra tổn hại đáng kể cho trẻ.

Điều Trị Dị Tật Bẩm Sinh

Một số dị tật bẩm sinh có thể được điều trị khi thai nhi còn trong tử cung, và điều quan trọng là cố gắng sửa chữa những dị tật đó trước khi trẻ ra đời. Bằng cách điều trị những dị tật này trong tử cung, bạn có thể hy vọng sửa chữa những tổn thương gây ra cho các cơ quan quan trọng.

Hai dị tật bẩm sinh có thể được điều trị trong tử cung bao gồm:

  • Hernia cơ hoành bẩm sinh: Tình trạng này xảy ra khi một lỗ trên cơ hoành hạn chế sự phát triển của phổi do nội tạng bụng đi vào lồng ngực qua lỗ này. Một cuộc phẫu thuật được gọi là “khóa nội khí quản fetoscopic” được thực hiện để tăng cường chức năng phổi và cải thiện tỷ lệ sống sót.
  • Tắc nghẽn đường tiết niệu dưới: Tình trạng này xảy ra khi dòng nước tiểu của thai nhi bị tắc nghẽn và không thể thoát ra khỏi cơ thể. Điều này có thể dẫn đến tổn thương thận vĩnh viễn, nhưng việc loại bỏ tắc nghẽn trước khi sinh có thể bảo vệ thận.

Ngoài hai dị tật này, còn có các tình trạng khác có thể được điều trị trong khi thai nhi còn trong tử cung. Ví dụ, nếu thai nhi của bạn có nhịp tim không đều, thuốc có thể được sử dụng để điều trị cho trẻ.

Cơn đau thắt ngực

Vũ Văn Đính

ĐẠI CƯƠNG

  • Đặc điểm:

Cơn đau thắt ngực là cơn suy mạch vành cấp thoáng qua, có thể:

  • vẫn xảy ra ở người lớn tuổi, có bệnh mạch vành rõ, không có thay đổi triệu chứhg.
  • Mới xảy ra lần đầu tiên, cần chẩn đoán phân biệt với cơn đau thắt ngực không ổn định.
  • Chẩn đoán: Dựa vào lâm sàng và điện tim.

Chẩn đoán lâm sàng tại chỗ (ở nhà hay ở nơi làm việc)

  • Đau đột ngột sau lạnh, gắng sức, cảm xúc.
  • Đau sau xương ức, lan lên vai, xuống cánh tay, lên hàm.
  • Kéo dài vài giây đến vài phút.
  • Có nhiều cơn liên tiếp.
  • Không khó thở, mạch, huyết áp bình thường.
  • Dùng trinitrin đỡ nhanh.

Đôi khi lâm sàng không điển hình:

  • Đau tự nhiên không cần gắng sức.
  • Đau không thở được.
  • Nhưng dùng trinitrin đỡ nhanh.

Chẩn đoán điện tỉm

Cơn điển hình:

  • Trong cơn, 50%, có thay đổi:

T âm hoặc dẹt hay nhọn, ST chênh ở một số chuyển đạo.

Bloc nhĩ thất, bloc ưong thất, ngoại tâm thu thất.

  • Ngoài cơn: Điện tim bình thường.

Cơn không điển hình: Làm nghiệm pháp gắng sức.

Hồi sinh tim phổi chuyên sâu

Chủ yếu tìm nguyên nhân để xử trí, duy trì các kết quả đạt được ở giai đoạn II, chống ngừng tuần hoàn tái phát.

  • Suy nghĩ, tìm kiếm nguyên nhân gây ngừng tuần hoàn và điều trị nguyên nhân.
  • Hồi sinh não:

+ Thông khí nhân tạo.

+ Chông phù não.

+ Chống tăng áp lực nội sọ.

  • Hỗ trợ các chức năng sống khác chưa ổn định sau cấp cứu ngừng tuần hoàn.

+ Duy trì huyết động.

+ Điều chỉnh các rối loạn nước điện giải, thăng bằng toan – kiềm.

+ Điều hoà thân nhiệt.

+ Nuôi dưỡng…

Khi nào ngừng cấp cứu

  • Thời gian ngừng cấp cứu phụ thuộc
  • Tình trạng bệnh, nguyên nhân
  • Diễn biến trong khi cấp cứu:

+ Thời gian phát hiện ngừng tuần hoàn.

+ Thời gian từ khi ngừng tuần hoàn tới khi bắt đầu cấp cứu.

  • Tiên lượng: 3 tình huống xảy ra
  • Hồi sinh tim phổi có kết quả: Tim đập lại, hô hấp tự nhiên phục hồi tuy vậy vẫn có nguy cơ ngừng tuần hoàn tái phát và cần tiếp tục theo dõi hô hấp và  duy trì huyết áp. Chú ý tìm và điều trị nguyên nhân.
  • Mất não:
  • Chết não (hôn mê quá giai đoạn)

+ Tim đập lại song bệnh nhân hôn mê sâu, đồng tử giãn to, truỵ mạch, thường không thể tự thở được.

+ Xuất hiện đái nhạt.

+ Co cứng kiểu mất não: 2 tay và 2 chân duỗi cứng.

+ Điện não đồ là đường thẳng.

+ Sau 24 h có thể ngừng các biện pháp cấp cứu tích cực.

  • Mất vỏ não (hôn mê kéo dài)

+ Duy trì đời sông Ihực vật trong nhiều tháng, nhiều năm nếu tiếp tục duy trì dinh dưỡng cho bệnh nhân.

+ Thường vĩnh viễn không phục hồi tri giác hiểu biết.

  • Tim không đập lại dù cấp cứu đúng quy cách: Có thể ngừng cấp cứu sau 60 phút.

XỬ TRÍ

  • Tại chỗ: Trinitrin ngậm hay phun họng, dùng nhiều lần, cách nhau vài phút cho đến hết cơn đau. Nếu quá 30’ mà vẫn không hết đau, phải nghĩ đến NMCT.
  • Sau cơn đau, có thể dán một tấm nitriderm.
  • Nằm nghỉ.

Nếu cơn vẫn tiếp tục, hoặc cơn đau bất thường: Chuyển   bệnh viện  cấp cíầi bằng

ô tô cấp cứu, nếu huyết áp ổn định. Có thể dùng morphin  2mg tĩnh mạch.

Phải điều trị ngay bằng:

+ Trinitrin truyền tĩnh mạch: 1 – 2 mg/h.

+ Thở oxy.

+ Heparin truyền tĩnh mạch.

  • Phòng ngừa tái phát:
  • Điều trị các yếu tố nguy cơ:
  • Aspirin 100 – 250 mg uống.
  • Thuốc chống cơn đau: Dùng một trong các thứ thuốc sau, mỗi ngày:

+   Tenormin 1 viên, hoặc Secưal 200mg X 1 – 2 V.

+   Seloken LP 200 mg 1 V

+   Tildiem 60 mg 1 V X 41ần hoặc Isoptin 120 mg 1 V X   31ần, Amlor 5 mg 1 V,nifedipin 10 mg 1 V X 31ần.

+ Dẩn chất nitơ: Risordan LP 40 – 60 mg.

+ Vastarel 20 mg 1 V X 31ần Nếu nghi ngờ có NMCT: Xét nghiệm men CPK – MB, GOT. Nếu nghi ngờ cơn đau thắt ngực không ổn định:

+ Điện tim gắng sức.

+ Theo dõi bằng Holter 24giờ + Chụp mạch vành.

  • Chẩn đoán phân biệt:
  • Phồng tách động mạch chủ
  • Viêm ngoại tâm mạc
  • Thoát vị hoành
  • Xét nghiệm khác: đường máu

Tê giác

Tên khoa học:

Rhinoceros sondaicus Desmarest Họ Tê giác (Rhinocerotidae). Tên khác: Tê giác một sừng, tây ngu.

MÔ TẢ

Thú lớn, có thân hình nặng nề, dài 3m, cao 1,5 – 1,7m, nặng 2.000 – 2.300kg.

Đầu nhỏ thuôn, tai vểnh, mũi cứng. Sừng mọc trên mũi, hơi xiên, đầu tầy hoặc nhọn. Chân ngắn, to, ngón có móng guốc. Đuôi ngắn. Lớp da dày, cứng tạo thành do nhiều mảnh có các nếp gấp sâu, trông như áo giáp. Lông thưa màu xám.

PHÂN BỐ, NƠI SỐNG

Trên thế giới, tê giác phân bố chủ yếu ở châu Á (loài một sừng) và châu Phi (loài hai sừng).

Ở Việt Nam, trước đây có ở Lai Châu, Sơn La, nay chỉ còn rất ít ở Tây Nguyên, Đồng Nai. Gần đây, đã phát hiện tê giác có ở rừng Nam Cát Tiên.

Tê giác sống đơn độc trong rừng sâu, rừng già, nơi ít người đến được, gần sông suối, những vùng sình lầy. Ăn lá cây, các loại măng, củ, quả non, chỉ cặp đôi vào mùa sinh sản, 3 – 4 năm đẻ một lứa, mỗi lứa 1 con.

BỘ PHẬN DÙNG, THU HOẠCH, CHẾ BIẾN

Sừng tê giác thu hoạch quanh năm bằng cách tách lớp da dày bao quanh mũi rồi lấy khỏi xương mũi, cạo sạch màng và gai cứng ở phần đế.

Dược liệu có hình chùy, đầu tầy và hơi xiên, màu đen nhạt dần về phần đế. Đế sừng lồi lõm những răng cưa nhỏ. Đế to, hình tròn, màu xám hoặc nâu đen, nhạt dần về phía ngoài. Chất sừng rắn chắc, không nứt, màu đen bóng, mùi thơm nhẹ.

Khi dùng, để sống hoặc đốt thành than.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Sừng tê giác chưa keratin, calci carbonat, acid amin.

CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Trong y học cổ truyền, sừng tê giác được dùng làm thuốc chữa sốt cao, co giật, đôi khi mê sảng, thổ huyết, chảy máu nội tạng, vàng da, ung nhọt. Gần đây, người ta cho rằng sừng tê giác có tác dụng kích thích sinh dục mạnh, chữa liệt dương.

Liều dùng hàng ngày: 0,5 – lg, có khi đến 3 – 4g dưới dạng mài sừng vào nước nóng để được một dung dịch trắng như sữa mà uống. Có thể dùng dạng tê giác phấn nghĩa là chẻ nhỏ sừng và chặt vụn, rồi tán rây thành bột mịn.

Theo Nam dược thần hiệu, sừng tê giác được đốt cháy, tán bột, uống mỗi lần 4g để chữa ngộ độc thuốc hoặc phối hợp với trầm hương, hạt cau khô và củ cải, đem nghiền với nước rồi chắt uống chữa chướng bụng, thổ tả.

Chú ý: Phụ nữ có thai và trường hợp không phải sốt cao, không được dùng sừng tê giác.

Tham khảo “Dược phẩm vựng yếu”

Khí vị:

Vị đắng mặn, tính đại hàn, vào 3 kinh Tâm, Thận, Can, ghét Lôi hoàn, Ô đầu, Ô nhuế, kỵ Muối, dùng Tùng chi, Thăng ma làm sứ.

Chủ dụng:

Làm sáng mắt, an thần, nó là thuốc để thanh Tâm, trấn Can, tiêu đờm, lương huyết, tán tà trúng phong mất tiếng, chữa phiền nóng, thổ huyết, nục huyết, tiện huyết, chủ chứng thương hàn phát cuồng, phát hoàng, phát ban, nói sảng, cùng trẻ con phong nhiệt gây thành kinh giản, chữa chứng đậu nóng dữ, chữa nọc độc, giết quỹ tà, giải trăm thứ độc, chữa mọi chứng sang thũng, ung thư.

Kỵ dùng:

Đan Khê nói: Tính nó hay chạy tản, sau khi lên đậu dùng nó để chạy tản hết độc còn lại, nhưng không biết người huyết táo hư nhiệt dùng nó thì tai họa sẽ đến, và chứng đậu huyết nhiệt mới mọc tuyệt nhiên không được dùng đến, vì đậu nhờ tính hỏa mà mọc lên, nếu gặp phải hàn lạnh thi lặn vào mà chẳng mọc ra. Vả lại nó là vị thuốc rất hàn, rất linh, vào Tâm để lương huyết, vào Vị để tản tà thì tà đều chạy cả, nhưng vì tính rất hàn, Dạ dày tất tổn thương, đàn bà có thai uống vào dễ tiêu thai khí, sản hậu dùng nó thì dễ dẫn độc vào Tâm. Đại để người huyết hư phát nhiệt thì kiêng dùng.

Cách chế:

Muốn tán nhỏ thì trước cưa ra mạt.

Chủ ỷ: Lấy ở chót sừng là tốt nhất vì tinh khí của nó tập trung cả ở đấy, thứ đã chế tác rồi không còn giá trị gì.

GIỚI THIỆU THAM KHẢO

Một số tài liệu nói: có thể thay Tê giác bằng chót sừng trâu với lượng gấp 5 đến 10 lần.

“Thiên kim phương”

Bài Tê giác địa hoàng thang

Tê giác 2-4g, Sinh địa 20-40g, Bạch thược 16-20g, Đơn bì 12-20g. Tê giác mài riêng, sắc xong các vị khác, hòa nước mài Tê giác vào, chia uống 3 lần trong ngày.

Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lương huyết, tán ứ.

Chữa các chứng nhiệt độc, bệnh nhiễm toàn phát, nhiệt nhập phần huyết gây nên thổ huyết, nục huyết, niệu huyết, hoặc nhiệt nhập vào phần Dinh, vào Tâm bào gây hôn mê, nói sảng, chất lười đỏ sẫm, có sai, mạch tế, sác.

Gia giảm: Nhiệt thịnh, hôn mê dùng thêm Tử tuyết đan hoặc An cung ngưu hoàng hoàn đế thanh nhiệt, khai khiếu.

Nếu Can hỏa vượng thêm Sài hồ, Hoàng cầm, Chi tử để thanh Can, giải uất. Tâm hỏa thịnh thêm Hoàng liên, Chi tử đế thanh Tâm hỏa

Nếu thổ huyết hay đổ máu cam thêm Trúc nhự, Hạn liên thảo, Bạch mao căn, Trắc bá diệp (sao) để thanh Phế, Vị, cầm máu. Đại tiện ra huyết thêm Địa du, Hòe hoa để thanh trường chỉ huyết. Tiểu tiện ra huyết thêm Mao căn.

Kiêng kỵ: Dương hư, Tỳ, Vị hư nhược không nên dùng.

“Ổn bệnh điều biện”

Bài An cung ngưu hoàng hoàn

Ngưu hoàng, uất kim, Hoàng cầm, Hùng hoàng, Chu sa, Tê giác,, Hoàng liên, Chi tử-đều 40g, Trân châu 20g, Băng phiến, Xạ hương-đều 1 Og.

Cùng tán nhỏ, thêm Mật làm hoàn, mỗi hoàn 4g. Liều uống

  • hoàn. Người lớn vốn khỏe mạnh, bệnh nặng mỗi ngày uống
  • lần, nặng hơn uống 3 lần. Trẻ nhỏ uống nửa hoàn.

Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, khu dòm, khai khiếu.

Trị sốt cao, hôn mê, co giật (nhiệt nhập Tâm bào), nói sảng, lưỡi đỏ sẫm, mạch sác, hoặc trẻ nhỏ sốt cao, co giật.

Ghi chú:

Do săn bắt liên tục và triệt để, nên tê giác đã trở thành đối tượng cực kỳ quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng cao và đã được ghi vào Sách Đỏ để bảo vệ.

Giảm trương lực cơ bẩm sinh (Bệnh Oppenheim)

  1. Đại cương.

Bệnh giảm trương lực cơ bẩm sinh cũng thuộc các bệnh thoái hoá di truyền có tổn thương ưu thế nơron vận động ngoại vi, bệnh căn bệnh sinh còn chưa rõ còn có nhiều tranh luận.

  1. Lâm sàng.

Triệu chứng của bệnh có thể biểu hiện từ những ngày đầu khi trẻ mới sinh nhưng thường thời gian đầu gia đình chưa nhận thấy. Bố mẹ chỉ chú ý đến vài tuần hay sau vài tháng, khi những đứa trẻ bắt đầu có những vận động chủ động như: cố gắng nâng đầu lên, ngồi, lấy đồ vật để chơi, ngoảnh cổ, đạp chân …v.v. Bố mẹ lo lắng nhận thấy rằng đứa trẻ rất khó thực hiện các vận động chủ động, nó nằm dính xuống giường không di động được, chân của nó ít hoạt động làm cho người ta cảm thấy như bị liệt, tay của nó cũng vậy không thực hiện được một động tác nào. Những đứa trẻ này thường không ngồi, không đứng, không đi, không nâng đầu lên được, giảm trương lực cơ rõ, có khi mất hoàn toàn trương lực. Phản xạ gân xương giảm nhiều, không có teo và giật cơ từng bó, cũng không có teo cơ tăng và co cứng teo cơ giả tạo. Các cơ mặt, cơ hoành, cơ nhai, cơ nuốt ít bị tổn thương. Các dây thần kinh sọ thường không tham gia vào quá trình bệnh lý. Không có các rối loạn về cảm giác; khung chậu phát triển bình thường. Trí tuệ không có biến đổi và sai lệch.

  1. Cận lâm sàng.

Điện cơ và sinh thiết cơ không thấy biểu hiện rõ.Về tổ chức học những biến đổi giống như bệnh loạn dưỡng cơ: biến đổi kích thước những sợi cơ, mất những vân ngang thoái hoá những sợi cơ, teo cơ tăng, tăng sinh tổ chức liên kết. Một vài trường hợp thấy loạn dưỡng cơ tiến triển. Trong những trường hợp này hoặc là không, hoặc là thấy nhẹ: hoại tử cơ, có đại thực bào trong sợi cơ, tái tạo và phát triển tổ chức liên kết màng trong cơ.

Những biến đổi về cấu trúc về hóa học khá gần với giai đoạn sớm của loạn dưỡng cơ tiến triển. Sự khác nhau thể hiện bằng những biến đổi enzym, glucogen và lipít trong các bó cơ, phản ứng ôxy hoá khử được tăng cường trong những sợi cơ teo.

  1. Chẩn đoán.

Chẩn đoán khó, những bệnh werdnig – Hoffmann, giảm trương lực cơ bẩm sinh và liệt não trẻ em có thể là nguyên nhân của hội chứng giảm trương lực cơ, chỉ có quan sát theo dõi đứa trẻ lâu dài mới nhận ra bản chất của yếu cơ.

  1. Điều trị.

Chưa có điều trị đặc hiệu, chủ yếu điều trị nâng đỡ cơ thể, vận động lý liệu phục hồi chức năng là chính.

  1. Tiến triển.

Nếu đứa trẻ phòng tránh được cho trẻ những bệnh nhiễm trùng thì chức năng vận động tốt lên và đôi khi hoàn toàn khoẻ mạnh trở lại.

THUỐC CETRIZET – Kháng histamin

THUỐC CETRIZET

SUN PHARMA

Viên nén 10 mg : vỉ 10 viên, hộp 10 vỉ.

THÀNH PHẦN

cho 1 viên
Cetirizin dihydrochlorid 10 mg
Tá dược: Lactose BP, tinh bột BP, polyrinyl pyrrolidon K30 BP, cellulose vi tinh thể BP, talcum BP, magnesi stearat BP, silicon dioxid keo NF, tinh bột natri glycolat NF, eudragit E100 IH, titan dioxid BP, polyethylen glycol 6000 BP, natri lauryl sulfat BP.

DƯỢC LỰC

Thuốc Cetrizet là một kháng histamin hiệu nghiệm ít gây buồn ngủ ở những liều hoạt động dược lý, có thêm tác dụng chống dị ứng. Nó là chất kháng H1 chọn lọc với những tác dụng có thể bỏ qua lên các cơ quan cảm thụ khác, do đó hoàn toàn không có tác dụng kháng Cholinergic và Serotonin. Thuốc Cetrizet ức chế thời kỳ đầu histamin – gián tiếp của phản ứng dị ứng, giảm sự thâm nhập của những tế bào viêm và giải phóng những chất trung gian kèm theo đáp ứng dị ứng muộn.

DƯỢC ĐỘNG HỌC

Mức cao điểm trong máu vào khoảng 0,3 mg/ml đạt được vào khoảng từ 30 đến 60 phút sau khi uống một liều 10 mg Cetirizin. Thời gian bán hủy huyết tương xấp xỉ 11 giờ hấp thụ nhất quán ở mọi đối tượng. Tốc độ thanh thải ở thận là 30 ml/phút và thời gian bán hủy xấp xỉ 9 giờ. Cetirizin liên kết mạnh với Protein huyết tương.

CHỈ ĐỊNH

Cetirizin Dihydroclorid được chỉ định cho điều trị viêm mũi kinh niên, viêm mũi dị ứng theo mùa (Hay fever) và mề đay tự phát mãn tính và những bệnh ngoài da liên quan đến histamin như ngứa….

CHỐNG CHỈ ĐỊNH

Chống chỉ định Cetirizin Dihydroclorid đối với bệnh nhân có tiền sử mẫn cảm với bất kỳ dẫn xuất nào của thuốc.

Chống chỉ định Cetirizin Dihydroclorid đối với phụ nữ đang trong thời kỳ cho con bú vì chất này bài tiết vào sữa.

THẬN TRỌNG LÚC DÙNG

Những thử nghiệm ở người tình nguyện khỏe mạnh ở mức 20 và 25 mg/ngày không thấy tác dụng lên sự nhanh nhẹn cũng như thời gian phản ứng. Tuy nhiên, bệnh nhân không nên sử dụng quá liều đề nghị nếu đang lái xe hoặc đang vận hành máy.

LÚC CÓ THAI

Không có tác dụng không mong muốn nào khi nghiên cứu trên động vật. Không sử dụng hoặc sử dụng ít Cetirizin Dihydroclorid trong thời kỳ thai ngh n. Cũng như với các thuốc khác, tránh sử dụng Cetirizine khi mang thai.

TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN

Trong những thí nghiệm chức năng tâm thần vận động khách quan tỷ lệ an thần Cetirizin Dihydroclorid là tương tự như đối với placebo. Có quan sát thấy một số tác dụng phụ nhẹ và tạm thời như nhức đầu, chóng mặt, buồn ngủ, kích động, khô miệng và khó chịu dạ dày ruột. Nếu cần thiết, liều sử dụng là 5 mg vào buổi tối.

LIỀU LƯỢNG và CÁCH DÙNG

Dùng uống.

Người lớn và trẻ em trên 12 tuổi : 1 viên 10 mg/ngày.

Chưa có số liệu y tế đủ hiệu quả để đề nghị sử dụng Cetirizin Dihydroclorid cho trẻ dưới 12 tuổi.

QUÁ LIỀU

Ngủ gà có thể là triệu chứng quá liều khi uống 50 mg Cetirizin Dihydroclorid trong một liều đơn.

Trong trường hợp quá liều lượng lớn, nên rửa dạ dày và áp dụng các biện pháp trợ giúp thông thường. Đến nay chưa có thuốc giải độc đặc trị.

BẢO QUẢN

Bảo quản ở nơi khô ráo, tránh ánh sáng (thích hợp từ 15oC đến 30oC).

Bệnh Lyme – Triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Bệnh sinh

Sự thay đổi tỉ lệ mắc bệnh phụ thuộc vào sự phân bố và tỉ lệ nhiễm trùng của vector ve tích. Các ổ Borrelia burgdorferi rất khu trú và phụ thuộc vào các yếu tố môi trường thuận lợi cho vector ve tích, cho vật chủ CƯU mang (như hươu), và cho vật chủ ổ chứa động vật (như động vật gặm nhấm). Ở miền Đông Bắc và miền trung Tây Hoa Kì, chuột chân trắng là một ổ chứa quan trọng, ở miền Đông Hoa Kì, hươu đuôi trắng là vật chủ và đích kí sinh đối với Ixodes scapularis, mặc dù hươu không phải là ổ chứa mà chỉ giúp ve tích tồn tại. Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm chỉ ra rằng sự lây truyền hiệu quả của B. burgdorferi nhờ I. scapularis cần tối thiểu 36 đến 48 giờ tiếp xúc; dưới một nửa các bệnh nhân bị bệnh Lyme còn nhớ mình bị ve tích đốt.

Biểu hiện lâm sàng

Bệnh Lyme đã được so sánh với bệnh giang mai ở chỗ cả hai bệnh đều do xoắn khuẩn gây ra và có thể dẫn đến bệnh viêm cấp tính và mạn tính, tổn thương đa hệ thống với biểu hiện lâm sàng rất đa dạng.

Giai đoạn I: Giai đoạn khu trú sớm. Khởi phát xuất hiện sau nhiễm trùng nhiều ngày đến hàng tuần

Dấu hiệu đặc trưng nhất của bệnh Lyme là hồng ban kéo dài di chuyển (ECM), xuất hiện sau khi ve tích đốt 8 đến 9 ngày nhưng khỏi phát có thể thay đổi từ 2 đến 32 ngày. Các triệu chứng kèm theo có sốt, rét run, đau đầu, mệt mỏi, cổ cứng, đau lưng, đau họng, buồn nôn, mất cảm giác thèm ăn, đau cơ và khớp, khó ngủ, khó tập trung, phát ban ở má, và hạch to. Tổn thương ECM bắt đầu xuất hiện như một sẩn, sờ vào thấy ấm, đôi khi hơi ngứa hoặc rát; trong một số trường hợp nó nổi gồ ở rìa, trung tâm hóa mụn hoặc hoại tử, hoặc cả hai. Trong vài ngày đầu, đỏ lan rộng ra phía ngoài từ vùng trung tâm tạo thành mảng 3 đến 70 cm (trung bình 15 cm). Thường thấy vùng trung tâm quang sạch, từ đó mà tổn thương có dạng “bia đích”. Nếu không điều trị, tổn thương kéo dài 4 đến 6 tuần (tối đa 14 tháng). Tổn thương biến mất trong vài ngày khi điều trị kháng sinh thành công. ECM xuất hiện ở khoảng 70% người lớn và lên tối 90% ở trẻ em.

Giai đoạn II: Lan tỏa sớm

Giai đoạn II xuất hiện nhiều ngày đến nhiều tháng sau khi ve tích đốt. Có đến một nửa số các bệnh nhân có ECM sau đó xuất hiện nhiều tổn thương vòng thứ phát, dấu hiệu đặc trưng nhất của bệnh Lyme lan tỏa sớm. Những tổn thương này nói chung là nhỏ hơn và có kích cỡ và hình dáng thay đổi. Thường thấy sốt, hạch to, và các triệu chứng thể chất.

Tổn thương thần kinh. Khoảng 37% bệnh nhân bị bệnh giai đoạn II có viêm màng não, bệnh thần kinh sọ não, bệnh thần kinh rễ, hoặc bất kì một kiểu kết hợp nào của cả ba. Liệt Bell thấy ở 10% bệnh nhân. Các biểu hiện thần kinh khác bao gồm suy giảm nghe, chóng mặt, đau đầu nặng nề, và viêm não.

Tổn thương tim. Tình trạng tim hay gặp nhất đi kèm với bệnh Lyme là block nhĩ- thất, nó hiếm khi kéo dài quá 1 tuần. Các triệu chứng kèm theo có thể gồm hồi hộp, khó thở, và đầu óc quay cuồng. Có thể xuất hiện loạn nhịp nhanh, viêm cơ-màng ngoài tim, và tim to.

Tổn thương mắt. Viêm kết mạc là dấu hiệu mắt hay gặp nhất xuất hiện trong bệnh Lyme giai đoạn II. Viêm mống mắt và viêm võng mạc hoại tử hoặc các dấu hiệu mắt khác nghiêm trọng hơn hiếm gặp hơn.

Các dấu hiệu khác. Các dấu hiệu và triệu chứng kèm theo bao gồm viêm gan, viêm cơ, viêm xương-tủy xương, viêm lớp mỡ dưới da, đái máu, protein niệu, sưng hạch lympho, lách to, viêm tinh hoàn, và hội chứng suy hô hấp.

Giai đoạn III: Giai đoạn muộn

Bệnh Lyme giai đoạn III xuất hiện sau nhiễm trùng nhiều tháng đến nhiều năm.

Tổn thương khớp. Viêm khớp Lyme đặc trưng bởi những đợt tấn công gián cách của viêm khớp thể ít khớp ở khớp lớn, đặc biệt là khớp gối. Phần lớn các bệnh nhân bệnh Lyme không điều trị sẽ có viêm khớp thể ít khớp sau khi nhiễm trùng khoảng 6 tháng. Thường thấy kiểu gen liên kết HLA-DR4 ở các bệnh nhân viêm khớp Lyme mạn tính (tức là viêm màng hoạt dịch kéo dài trên 1 năm). Viêm khớp mạn tính trong bệnh Lyme nói chung tự nhiên hết trong vòng vài năm.

Tổn thương thần kinh. Bệnh Lyme thần kinh mạn tính bao gồm bệnh lí não bán cấp, bệnh lí đa thần kinh kiểu trục, và bệnh lí não chất trắng. Bệnh lí não bán cấp đặc trưng bởi rối loạn cảm xúc và giấc ngủ. Bệnh Lyme thần kinh mạn tính có thể kéo dài tới hơn 10 năm.

Tổn thương da. Các biểu hiện ở da của bệnh Lyme muộn bao gồm viêm da đầu chi mạn tính teo đét, bệnh tuyến lympho lành tính ngoài da (u tế bào lympho), u hạt vòng, hồng ban nút, mày đay, tử ban dạng Henoch-Schồlein, và có thể teo mất da.

Chẩn đoán

Bệnh Lyme được xác định bằng sự có mặt của hồng ban di chuyển đường kính từ 5 cm trở lên, hoặc khẳng định bằng xét nghiệm nhiễm trùng Borrelia burgdorferi và có ít nhất một dấu hiệu khách quan của bệnh cơ-xương, thần kinh, hoặc tim mạch. Vì đã thấy có một số lượng lớn các kết quả âm tính giả khi xét nghiệm huyết thanh trong bệnh Lyme, chẩn đoán chủ yếu dựa trên các dấu hiệu lâm sàng. Điều đặc biệt là nếu đã dùng kháng sinh thì có Khi không bao giờ thấy được huyết thanh dương tính. Có ba xét nghiệm huyết thanh chính dùng để chẩn đoán bệnh Lyme hiện nay: phản ứng miễn dịch huỳnh quang (IFA), ELISA, và thấm miễn dịch (immunoblots). Mỗi xét nghiệm này đều có những vấn đề về độ nhạy và độ đặc hiệu. Nên xét nghiệm dịch não tủy ở bệnh nhân nghi ngờ nhiễm Borrelia thần kinh. Sự sinh kháng thể trong ông sống dương tính đã chứng tỏ là phương pháp đặc hiệu nhất để chẩn đoán bệnh nhân có triệu chứng của hệ thần kinh trung ương tế nhị khó thấy. Xét nghiệm huyết thanh đối với bệnh Lyme có thể có ích khoảng 6 tuần sau nhiễm trùng, với đỉnh kháng thể IgM khi được 3 đến 8 tuần và đỉnh IgG lúc 12 tháng.

Xử trí

Bệnh Lyme giai đoạn I nên bắt đầu điều trị càng sớm càng tốt với thuốc dùng đường uống như doxycyclin (100 mg đường uống, hai lần mỗi ngày), amoxicillin (500 mg đường uống, bốn lần mỗi ngày), hoặc erythromycin (250 mg đường uống, ba lần mỗi ngày) trong 3 đến 4 tuần (bảng 44.6). Một số người tin rằng nên điều trị tất cả các giai đoạn trong 30 ngày. Trong số ba thuốc này, doxycyclin là thuốc lựa chọn cho người không mang thai trên 8 tuổi. Khi ECM kéo dài hoặc tái phát, nó gợi ý rằng điều trị kháng sinh chưa đầy đủ, và có chỉ định điều trị lại.

Dường như bệnh Lyme có thể qua hàng rào rau thai với nguy cơ chết thai trong tử cung hoặc chết sơ sinh, và có thể phải thận trọng khi dùng kháng sinh đường ngoài ruột trong ba tháng đầu thai kì, khi mà thai dễ bị tổn thương nhất. Penicillin đường uống với liều khuyến nghị có vẻ như là không đủ để bảo vệ trong tử cung; chỉ định liệu pháp đường ngoài ruột khi phụ nữ mang thai có bất kì một biểu hiện bệnh Lyme nào ngoài ECM. Cũng chỉ định liệu pháp đường ngoài ruột, như ceftriaxon (Rocephine) 2 g tiêm tĩnh mạch 1 lần/ngày hàng ngày trong 14 đến 21 ngày hoặc penicillin G\ trong ít nhất 2 tuần, cho các vấn đề thần kinh ngoài liệt thần kinh mặt đơn thuần, viêm tim, viêm khớp mạn tính, và tổn thương phần sau của mắt. Đôi khi phải tiếp tục kháng sinh ở nồng độ thấp hơn trong vài tháng sau liệu pháp ban đầu để phòng tái phát. Ceíbtaxim chia liều kiểu xung (3 g tiêm tĩnh mạch hai lần mỗi ngày) cũng đã được dùng cho các trường hợp kháng. Azithromycin, Cefadroxil, Cefixim và Cefuroxim có thể có ích. Đã quan sát thấy phản ứng Jarisch-Herxheimer ở khoảng 12% bệnh nhân đã điều trị; nó thoáng qua, kéo dài 1 đến 2 ngày.

Phòng bệnh

Không chỉ định dự phòng bằng kháng sinh khi đi vào vùng trồng rừng. Dường như không chắc chắn mắc phải bệnh Lyme trừ khi tiếp xúc với ve tích trên 24 giò. Kiểm tra kĩ cơ thể để loại bỏ ve tích ngay sau khi ở vùng trồng rừng và có khuyến nghị dùng thuốc trừ ve tích. Có thể dùng chế phẩm chứa permethrin (như permanone và duranon, sau đó là DEET) trên quần áo và da. Hiện đã sẵn có vaccin bảo vệ động vật khỏi bệnh Lyme, và trong tương lai gần, sẽ có sẵn một vaccin như thế cho người.

Các vấn đề gia đình và cộng đồng

Việc làm thay đổi hành vi đời sống hoang dã trong môi trường dân cư ngoại ô mang lại một chút hi vọng làm giảm nguy cơ mắc bệnh Lyme. Tránh nuôi chim, đặc biệt là trong những tháng hè, làm giảm sự xuất hiện của chim ở sân sau, chuột chân trắng, sóc, gấu trúc, và các động vật có vú khác có khả năng chuyển tải và nhiễm ve tích ở hươu.

Bảng 44.6. Liệu pháp dược cho bệnh Lyme và sốt đốm vùng núi Rocky

———————————-

Bệnh Lyme

Người lớn và trẻ em > 9 tuổi

Bệnh giai đoạn sớm

Doxycyclin 100 mg, hai lần mỗi ngày X 10-30 ngày Amoxicillin 500 mg, ba lần mỗi ngày X 10-30 ngày

Bệnh nặng lên hoặc kéo dài

Ceftriaxon 2 g tiêm tĩnh mạch 1 lần/ngày X 14-21 ngày

Trẻ em

Bệnh giai đoạn sớm

Amoxicillin 50 mg/kg/ngày X 10-30 ngày (tối đa 2 g/ngày chia ba lần mỗi ngày)

Bệnh nhân dị ứng với penicillin: erythromycin 50 mg/kg/ngày X 10-30 ngày (ttối đa 2 g/ngày chia cứ 6 giờ một lần uống cùng đổ ăn)

Bệnh nặng lên hoặc kéo dài

Ceftriaxon 100 mg/kg/ngày X 14-21 ngày

 

———————————–

Kiểm soát hươu cũng đã được xem xét nhưng dường như không chắc đủ phổ rộng để kiểm soát vấn đề ve tích hươu. Việc đạt được một mức độ kiểm soát đủ để loại trừ các vấn đề ve tích hươu vấp phải những trở ngại về hậu cần và chính trị nghiêm trọng. Làm hàng rào chắn hươu đã chứng tỏ là có ích. Biện pháp này chi phí lớn đối với cộng đồng và chủ sở hữu, nhưng những dự án của các vùng lân cận có thể tạo khả năng bảo vệ một số lượng lớn người với ảnh hưởng tối thiểu đến môi trường.

Thuốc trừ sâu thử dùng ở những vùng dân cư ngoại ô để kiểm soát ve tích ở hươu đã có một số thành công. Chỉ dùng một lần trong mùa xuân ở các vùng dân cư dường như có hiệu quả tới 97% trong việc kiểm soát quần thể nhộng. Dùng thuốc trừ sâu chắc chắn là cách tốt nhất để kiểm soát ve tích và giảm nguy cơ bệnh Lyme ở môi trường gia đình. Có khuyến cáo dùng một hoặc hai lần vào tháng năm và tháng chín. Năm 1982, CDC bắt đầu giám sát bệnh Lyme, và năm 1990, Hội đồng các nhà dịch tễ học các bang và hạt đã chấp nhận và thực hiện một nghị quyết xác định bệnh Lyme là một bệnh phải thông báo toàn quốc.

Xem thêm

Định nghĩa

Bệnh do xoắn khuẩn được truyền qua ve; có biểu hiện ở da và thần kinh, đau cơ, đau khớp và ở giai đoạn mạn tính có viêm khớp tái phát.

Lyme là một vùng quê ở bang Connecticut thuộc Hoa Kỳ, nơi bệnh được mô tả lần đầu tiên.

Căn nguyên

Bệnh do các xoắn khuẩn loại Borrellia (B. burgdorferi, B. garinii, B. afzellii) truyền qua vết đốt của loài ve Ixodes. Bệnh có ở nhiều nước châu Âu, tại các vùng ấm và ẩm; ở Bắc Mỹ, châu Á, Nhật và Australia. Tại các vùng ấm, bệnh được truyền từ tháng năm đến tháng bảy do ấu trùng, vết đốt thường khó thấy; còn về mùa thu là do ve trưởng thành đốt. Tỷ lệ dương tính trong dân cư là từ 5 đến 25%.

Triệu chứng

THỜI KỲ Ủ BỆNH: từ 3 đến 30 ngày.

GIAI ĐOẠN 1 (giai đoạn sớm, tại chỗ): 3-30 ngày sau khi bị ve đốt, ở da có ban đỏ, mọc lan ra ngoài, có hình nhẫn (hồng ban mạn tính di cư). Kèm theo có sốt, nhức đầu, sưng hạch vệ tinh. Trong giai đoạn này, vi khuẩn khu trú trong da. Tổn thương da lụi tàn trong vòng 1- 4 tháng ngay cả khi không được điều trị, màu nhạt và có thể không nhìn thấy được. 0 giai đoạn này, chỉ có một nửa số bệnh nhân là có huyết thanh dương tính.

GIAI ĐOẠN 2 (giai đoạn tản phát sớm): vài tuần hay vài tháng sau, thấy vô lực, nhức đầu, đau chạy từ cơ này sang cơ khác, đau gân, đau khốp.

Triệu chứng thần kinh: dấu hiệu các dây thần kinh sọ bị tổn thương, nhất là liệt dây mặt ngoại biên hay dây vận nhãn, viên đa rễ dây thần kinh và rối loạn tế bào trong dịch não tuỷ (hội chứng Bannvvarth hay Garin-Bujadoux- Bannwarth), viêm màng não lympho và viêm não.

Triệu chứng tim: viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim, rối loạn dẫn truyền nhĩ-thất, suy tim.

Triệu chứng về mắt: phù quanh hốc mắt, viêm kết mạc.

Triệu chứng khác: đã có trường hợp bị viêm gan, viêm họng, và viêm tinh hoàn (rất hiếm).

Trong giai đoạn này, vi khuẩn có ở trong máu, đôi khi có cả trong dịch não tuỷ. Các triệu chứng trên thường hết nhưng có thể chuyển sang mạn tính .

GIAI ĐOẠN 3 (giai đoạn muộn, mạn tính): một số triệu chứng trở thành mạn tính.

Viêm da mạn tính gây thoái hoá ở chi: thấy ở vùng xương bánh chè, xương chày, khuỷu tay hay mu bàn tay.

Viêm khớp mạn tính, nhất là khớp gối, viêm cân.

Viêm não tuỷ mạn tính, viêm đa dây thần kinh mạn tính.

Viêm giác mạc.

Các triệu chứng thần kinh và nhất là viêm khớp mạn tính tái phát có thể xảy ra nhiều tháng, thậm chí nhiều năm sau lần nhiễm cấp đầu tiên.

Xét nghiệm cận lâm sàng

Chẩn đoán huyết thanh: 4-6 tuần sau khi bị nhiễm, test ELISA gián tiếp với kháng nguyên gắn vào IgM dương tính trong 80-90 % số trường hợp. Test chỉ dương tính trong 50% số trường hợp ở giai đoạn đầu và 100% ở các giai đoạn thứ hai và thứ ba. Các test khác: miễn dịch huỳnh quang gián tiếp, ngưng kết hồng cầu thụ động, Western-Blot.

IgG bao giờ cũng cao khi bị nặng (ở giai đoạn 3), nhất là nếu bị viêm khốp mạn tính.

Có thể phân lập vi khuẩn bằng nuôi cấy, nhất là trong các trường hợp không được điều trị, lúc đầu là ở da, sau đó là trong máu và dịch não tuỷ (xét nghiệm khó và chậm).

Kỹ thuật PCR cho phép xác định trực tiếp ADN của Borellia ở các bệnh phẩm (thời gian có kết quả từ 2 đến 3 ngày).

Điều trị

Giai đoạn cấp: nên dùng doxycyclin (100 mg ngày 2 lần) hoặc amoxicillin (1-1,5 g/ngày hay 15-20 mg/kg/ngày) theo đường uống. Nếu bị dị ứng với penicillin, nên dùng erythromycin (cứ 6 giờ lại uống 250-500 mg). Điều trị trong 2-4 tuần. Có thể có phản ứng Herxheimer.

Nếu có triệu chứng thần kinh hay khốp muộn và kéo dài, dùng ceftriaxon 50-100 mg/kg/ngày (tối đa 2g) theo đường tĩnh mạch hoặc bắp thịt trong 10-14 ngày hoặc dùng benzylpenicillin 20 triệu đơn vị/ngày, chia làm nhiều liều cách nhau 4-6 giờ. Bệnh tiến triển nhanh chứng tỏ chẩn đoán đúng.

Chẩn đoán huyết thanh cho kết quả dương tính nhưng không có triệu chứng lâm sàng thì không cần điều trị.

Hội chứng tăng áp lực nội soi

 

ĐẠI CƯƠNG

Sinh lý tuần hoàn dịch não tuỷ

Dịch não tuỷ được sinh ra từ đám rối mạch mạc của các não thất, từ hai não thất bên dịch não tuỷ đi qua lỗ Monro vào não thất III, sau đó qua cống Sylvius (aquaductus cerebri) xuống não thất IV. Từ não thất IV dịch não tuỷ đi qua hại lỗ bên (lỗ Luschka) và lỗ giữa (lỗ Magiendie) vào các bể não và khoang dưới nhện não – tuỷ sống. Các luồng dịch não tuỷ đi lên bề mặt bán cầu não theo cả đường từ mặt sau và trước não. dịch não tủy được hấp thu trờ lại các xoang tĩnh mạch não qua các hạt Pacchioni. Tốc độ sản sinh và hấp thu dịch não tuỷ ợ mức sinh lý vào khoảng 0,3 – 0,4ml/phút. Như vậy, mỗi ngày cơ thể con người tiết ra và đồng thời cũng hấp thu trở lại một lượng Dịch não tuỷ từ 450 đến 580ml.

Dịch não tủy

Sinh lý bệnh của tăng áp lực nội sọ (tăng áp lực nội sọ)

Áp lực nội sọ bình thường

Khi nằm: áp lực là 5 – 14mmHg (0,7 – 1,0kPa hay 7 – 20cm cột nước) đo tại lỗ

Khi thở vào tự nhiên làm giảm áp lực nội sọ (do áp lực khoang ngực giảm).

Khi thở ra tự nhiên làm tăng áp nội sọ (do tăng áp lực trong lồng ngực).

Khi ho, hắt hơi, rặn có thể làm áp lực nội sọ tăng tới 40mmHg.

Mức độ tăng áp lực nội sọ

Nhẹ: tăng thêm 285mmHg (2 – 2,7kPa; hay tăng tới 15 – 20cm H20).

Trung bình: tăng thêm 430mmHg (4kPa hay 20 – 30cm H20).

Nặng: tăng thêm từ 30cm H20 trở lên. Trong trường hợp tăng áp lực nội sọ nặng nề có thể cỏ các cơn tăng áp lực nhanh đột ngột cao thêm tới 70 – 80 cmH20, sau đó đột ngột hạ xuống tới mức bình thường. Trong khi áp lực tăng cao có thể làm mất bù trong não và gây các biến chứng.

Liên quan giữa tăng áp lực nội sọ và tuần hoàn não

Tăng áp lực nội sọ nhưng còn nhỏ hơn huyết áp tối thiểu, tuần hoàn não sẽ không thay đổi hoặc chỉ thay đổi ít.

Tăng áp lực nội sọ cao hơn huyết áp tối thiểu sẽ gây ứ trệ tuần hoàn não.

Tăng áp lực nội sọ giảm đột ngột gây tình trạng tăng tuần hoàn ngoại vi (hyperemia).

Tăng áp lực nội sọ càng cao thì rối loạn tuần hoàn não sẽ tiến triển từ cục bộ sang toàn bộ gây tình trạng thiếu oxy tăng lên dẫn tới tăng phù não… Quá trình cứ như vậy tạo thành vòng xoắn bệnh lý (circulus vitiosus).

Phù não và tăng áp lực nội sọ

Phù não có hai loại: phù độc tế bào và phù mạch.

  • Phù độc tế bào (cytotoxic edema): bình thường, các ion dương tồn tại trong ba khoang (ngoại bào, trong bào tương và trong nhân tế bào). Sự cân bằng các ion này do các tế bào sao (astroglia) đảm nhiệm và có quan hệ khăng khít với chức năng các khoang cận mao mạch cũng như nồng độ Na+ ở trong và xung quanh tế bào hình sao. Nồng độ Na+ thấp nhất ờ bào tương.

Quá trình tổng hợp protein trong nhân các tế bào hình sao do nồng độ các ion dương này điều khiển. Nếu mất Na+ đột ngột sẽ gây mất năng lượng dự trữ và gây rối loạn thẩm thấu màng dẫn tới tăng dòng Na+ vào trong tế bào sao kéo theo nước và gây tình trạng phình tế bào. Phình tế bào sao làm thay đổi hình thái, làm biến dạng các chân tế bào. Từ đó liên kết giữa các tế bào sao và lớp tế bào nội mô (endothel cells) của các mao mạch cũng như liên kết giữa các tế bào nội mô với nhau (hàng rào máu – não) sẽ suy yếu đi, acid béo và serotonin được giải phóng, quá trình vận chuyển và thẩm thấu qua thành mạch thay đổi, có thêm protein thoát vào khoang gian bào dẫn đến giai đoạn phù nề quanh mạch (gọi là phù mạch).

Phù độc tế bào thường gặp trong giai đoạn đầu của đột qụy nhồi máu não. Khởi đầu bằng rối loạn thăng bằng năng lượng, sau đó là thay đối vận chuyển qua màng (do rối loạn ATP – ase) dẫn tới tình trạng tăng Na+ trong bào tương và tăng thể tích nước trong tế bào.

  • Phù mạch (vasogenic edema): do rối loạn hàng rào máu – não, đạm thoát mạch đi vào khoang gian bào gây ứ nước trong gian bào và làm phù não. Thay đổi dẫn đến mất cân đối tỷ lệ K+ (giảm), Na+ (tăng) và kéo theo tăng nước. Quá trình này xảy ra cơ bản ở chất trắng mà ít khi xảy ra ở vỏ não, sự khác biệt này do đặc điểm cấu trúc khác nhau giữa chất xám (vỏ não) và chất trắng (tuỷ não).

Phù mạch đặc trưng trong tăng áp lực nội sọ và thường gặp trong chấn thương sọ não, phù quanh u và phù do chảy máu.

LÂM SÀNG TĂNG ÁP LỰC NỘI SỌ

Trong tăng áp lực nội sọ người ta thường chú ý tới tam chứng Cushing (Cushing trias): tăng huyết áp, mạch chậm và rối loạn nhịp thở; nhưng trong thực tế tăng áp lực nội sọ có bảng lâm sàng rất phong phú và bao gồm nhiều triệu chứng.

Đau đầu

Đau đầu là triệu chứng quan trọng. Tính chất đau nhự vỡ đầu, thường đau tăng lúc nửa đêm và sáng sớm. Khu trú của đau thường ở vùng trán, mắt (do kích thích dây quặt ngược của nhánh 1 dây V). Triệu chứng đau đầu không có giá trị chẩn đoán định khu.

Buồn nôn, nôn

Thường nôn vào buổi sáng, nôn vọt và nôn khi đói.

Phù nề gai thị thần kinh

Hầu hết bệnh nhân tăng áp lực nội sọ có phù nề gai thị, tuy nhiên, phù gai không phải là triệu chứng sớm của tăng áp lực nội sọ. Có thể nói rằng phù gai là triệu chứng đến sau và thuyên giảm sạu trong hội chứng tăng áp lực nội sọ. Nếu tăng áp lực nội sọ mức độ nặng nề và tồn tại lâu có thể gây giảm hoặc mất thị lực và teo gai thị thứ phát.

Các triệu chứng khác

Các triệu chứng về mắt

Rối loạn vận nhãn do tổn thương các dây thần kinh sọ não III, IV, VI một hoặc hai bên. Thường gặp tổn thương dây VI, sau đó là dây III, ít khi gặp tổn thương dây IV đơn độc; lồi mắt hay gặp ở trẻ em rối loạn thị lực, thị trường.

Tổn thương các dây thần kinh sọ não khác

Các dây I, V, VII, VIII và dây XI có thể bị tổn thương kèm theo.

Rối loạn ý thức

Ý thức có thể rối loạn ở các mức độ khác nhau. Có thể bệnh nhân ngủ nhiều nhưng khi gọi bệnh nhân luôn tỉnh và đáp ứng đúng, tính tình thay đổi.

Rối loạn các chức năng sống

Rối loạn nhịp thở: với bệnh nhân còn tỉnh táo thì thường ngáp nhiều. Các trường hợp nặng nề có thể thay các kiểu rối loạn nhịp thở do tổn thương trung khu hô hấp ở cầu – hành não. Thường gặp là các kiểu thở: thở máy hay thở Kussmaul (eupnoe), thở Chẹyne – Stockes, thở Biot, thơ thất điều (ataxic) và thở ngáp (gásping). Ngoài ra người ta còn thấy khoảng 30% số bệnh nhân tăng áp lực nội sọ có phù phổi do thần kinh.

Rối loạn tim mạch: do tổn thương ngoại vi, thân não, đồi thị, vỏ não. Tăng huyết áp trong giai đoạn đầu của tăng áp lực nội sọ. Nếu tăng áp lực nội sọ lâu ngày thì huyết áp tối thiểụ sẽ giảm trước, sau đó là giảm huyết áp tối đa. Phản xạ Cushing (tăng huyết áp, mạch chậm, rối loạn nhịp thở). Theo các tác giả, phản xạ này do thiếu máu não gây nên thông qua con đường: pH vỏ não giảm, tăng co mạch, tim làm việc mạnh hơn do cơ chế điều chỉnh thực vật.

Rối loạn thân nhiệt

Khi u nằm gần đồi thị hoặc làm thạy đổi não thất IV sẽ gây daọ động thân nhiệt. Đó là những biểu hiện tăng áp lực nội sọ đã ở giai đoạn mất bù, xu hướng diễn biến xấu với tiện lựơng gân là trụy hô hấp và trụy tim mạch. Thận nhiệt cao tăng nhanh hoặc hạ thân nhiệt xuống dưới 34° là nhưng dấu hiệu nguy hiểm cho biết tổn thương rất ít có khả năng phục hồi.

Rối loạn chức năng tiêu hoá

  • Thường gặp nôn, tắc ruột, bí, đau bụng.
  • Rối loạn chức năng bàng quang

Đây có thể là triệu chứng tổn thương thần kinh khu trú khi có u vùng cạnh trung tâm, u vùng trán. Tuy nhiên, tăng áp lực nội sọ cũng có thể gây rối loạn cơ vòng.

BIẾN CHỨNG CỦA TĂNG ALNS

Tăng áp lực nội sọ có thể tác động cơ học lên tổ chức não gây nên hai hiện tượng lả làm chuyển dịch tổ chức não tới một vị trí khác và gây xoắn vặn thân não.

  • Biến chứng chuyển dịch tổ chức não biểu hiện là thoát vị não (cerebral herniations); thường gặp các dạng thoát vị não như sau:

+ Thoát vị hồi lưỡi (cingulate herniation) vào bể liên bán cầu.

+ Thoát vị qua lều hay thoát vị trung tâm (tentorial or central herniation)

+ Thoát vị hồi móc qua góc trên của lều tiểu não (uncal herniation).

+ Thoát vị hạnh nhân tiểu não vào lỗ chẩm (cerebellar tonsillar herniation).

  • Biến chứng xoắn vặn thân não: gây tổn thương thứ phát và những triệu chứng nặng nề trên lâm sàng, đe dọa tử vong.

Cơ sở giải phẫu

 

NGUYÊN NHÂN CỦA TĂNG ÁP LỰC NỘI SỌ

  • Tổn thương lan toả trong khoang sọ – ống sống: ổ máu tụ, tân sản, áp – xe và phù não. Hiếm khi thấy tăng áp lực nội sọ do tăng sinh Dịch não tuỷ.
  • Trạng thái động kinh hoặc thiếu oxy kéo dài (gây phù não).
  • Bệnh não do chuỵển hoá: bệnh gan, bệnh thận, hội chứng Rey, giả u não (pseudotumor cerebri), các bệnh nội tiết.
  • Nhiễm khuẩn trung ương thần kinh: viêm màng não, viêm não có thể gây phù não nặng nề và làm tăng áp lực nội sọ.
  • Các tổn thương gây tắc đường Dịch não tuỷ từ não thất tới khoang dưới nhện và qua các hạt PacchioniCác vị trí tắc thường gặp là:

+ Lỗ Monro: do tân sản.

+ Cống Sylvius: do thiểu sản hoặc hẹp bầm sinh, viêm dính hoặc đè ép do tân sản.

+ Não thất IV và đường ra của Dịch não tuỷ: thường do tân sản ở hố sau hoặc viêm dính.

+ Khoang dưới nhện: do dính sau viêm màng não và sau chảy máu dưới nhện.

+ Hạt Pacchioni: do dính, tăng đạm Dịch não tuỷ hoặc huyết khối các xoang tĩnh mạch màng cứng.

ĐIỀU TRỊ TĂNG ÁP LỰC NỘI SỌ

Biện pháp tức thì: bất động bệnh nhân.

Điều trị nguyên nhân

Nhằm mục đích loại bỏ nguyên nhân gây tăng áp lực nội sọ như phẫu thuật cắt bỏ u, điều trị u bằng quang tuyến, dùng các thuốc phá huỷ tổ chức tân sản, phẫu thuật lấy ổ máu tụ, đặt dẫn lưu não thất…

Các biện pháp tạm thời nhằm điều trị triệu chứng

Tác động vào hệ dịch não tuỷ

Làm giảm áp lực nội sọ thông qua con đường giảm thể tích dịch não tuỷ trong các não thất như đặt dẫn lưu não thất – bể lớn hoặc não thất – ổ bụng.

Tác động vào tuần hoàn máu trong nội sọ

Tác động vào tổ chức não làm giảm thể tích thông qua con đường chống phù não.

Điều trị chống phù não là việc làm có tính nguyên tắc và có vai trò rất quan trọng trong điều trị tăng áp lực nội sọ. Ngay từ những năm 50 của thế kỷ XX, các tác giả đã nghiên cứu điều trị chống phù não bằng các phương pháp khác nhau.

Năm 1951, Guiọt và Damoiseau dùng phương pháp phong bế hạch để làm giảm áp lực nội sọ; sau đó Laborit đề xuất dùng các thuốc bình thần để đạt mục đích trên.

Năm 1956, Javit và Settlage điều trị tăng áp lực nội sọ bằng urea.

Năm 1962, Virno và Cantore dùng glycerol điều trị tăng áp lực nội sọ đạt kết quả tốt.

Năm 1966, Long, Hartmann và French dùng steroid để điều tri tăng áp lực nội sọ.

Nói chung, điều trị tăng áp lực nội sọ tuỳ từng nguyên nhân, mức độ và mục đích mà sử dụng các biện pháp thích hợp:

  • Urea: được dùng với nồng độ 25 – 30%, thuốc có tác dụng nhanh và hay được dùng trong khi mổ. Liều lượng thường dùng 1g/kg cân nặng/24 giờ. Nhược điểm của thuốc là tác dụng phản hồi (rebound effect) mạnh, có nghĩa là khi thuốc hết tác dụng thì phù não tái lập lại nặng nề hơn.
  • Mannitol 25%: có trọng lượng phân tử cao gấp 3 lần Thuốc ít tham gia chuyển hóa và được đào thải nhanh qua thận. Manitol có tác dụng thẩm thấu cao với dịch ngoại bào, ít có tác dụng phản hồi. Khoảng 1/3 số bệnh nhân được sử dụng thấy có tác dụng rõ từ giờ thứ nhât đến giờ thứ tư sau khi truyền. Các lần truyền sau thì hiệu quả điều trị có khác nhau. Liều dùng tuỳ theo mục đích sử dụng nhưng thường dùng 0,5g/kg cân nặng, có thể truyền 2 – 3 lân trong ngày nếu cần thiết. Lưu ý khi sử dụng; thận của bệnh nhân phải bình thường. Tác dụng phụ thường gặp là lợm giọng, buồn nôn, nôn và chóng mặt.
  • Glycerol: thuốc được đào thải một phần qua thận, một phần tham gia chuyển hoá. Glycerol thường được sử dụng bằng đường uống hoặc tiêm bắp thịt (nếu dùng qua đường tĩnh mạch sẽ đe dọa nguy cơ tan máu). Thuốc có tác dụng thẩm thấu rõ nhưng chậm và không mạnh. Liều thường dùng 4 – 5g/kg cân nặng/24 giờ, cứ 4 – 5 giờ tiêm một lần. Lưu ý: khi sử dụng thuốc chức năng thận của bệnh nhân phải bình thường. Tác dụng phụ thường gặp là làm mềm cơ.
  • steroid: tác dụng chống phù não của steroid trong u não cơ chế còn chưa được rõ, có thể thuốc làm giảm tiết dịch não tuỷ; ngoài ra, thuốc còn có tác dụng ngăn ngừa không cho tổn thương thêm tổ chức não.

Dexametason có tác dụng 24 giờ. Đối với u dưới lều tiểu não, dexamethson làm giảm tiết dịch não tuỷ, cải thiện tỷ lệ khối lượng não và áp lực nội sọ. Đối với các u trên lều, thông qua tác động lên quá trình tưới máu não, thuốc làm giảm áp lực nội sọ. Liều lượng thuốc sử dụng khác nhau, liều thường dùng là 32 – 48mg/24 giờ. Tác dụng phụ của thuốc là gây tổn thương dạ dày và giảm khả năng chống viêm.

  • Lợi tiểu: íuresis liều dùng 20mg/24 giờ và thường được dùng phối hợp với mannitol.
  • Các thuốc khác: có thể thay mannitol bằng sorbitol 40%, cũng có thể dùng phối hợp dextran 10% với mannitol. Tác dụng chống phù não của aldosteronantagonist (spirolacton) còn đang được bàn cãi. Ngoài ra trong điều trị chống phù não có thể cho thêm THAM để chống toan máu.

Dẩn lưu não thất.

Chỉ số BMI và cách tính chỉ số BMI online

Chỉ số BMI là gì?

Chỉ số BMI do nhà bác học người Bỉ Adolphe Quetelet đưa ra để xác định một người bị bệnh béo phì hay bị bệnh suy dinh dưỡng thông qua số liệu về hình dáng, chiều cao và cân nặng cơ thể.

Cách tính chỉ số BMI:

Công thức tính BMI (Body Mass Index: chỉ số khối cơ thể) đơn giản, dễ sử dụng và được Quốc tế công nhận:

BMI = Trọng lượng (Kg)/[Chiều cao (m)]2

Đánh giá chỉ số BMI theo tiêu chuẩn Châu á và quốc tế

Để phù hợp với đặc điểm các nước vùng châu Á, từ nghiên cứu thực tế ở các quốc gia đã lấy tiêu chuẩn ban hành năm 2000 như bảng 1.

Bảng 1. Tiêu chuẩn ban hành năm 2000 về phân loại béo phì

Loại BMI
Gầy < 18,5
Bình thường 18,5 – 22,9
Tăng cân Nguy cơ ≥ 23 – 24,9
Béo phì độ 1 25 – 29,9
Béo phì độ 2 ≥ 30
chỉ số bmi
chỉ số bmi

Bảng 2. Đánh giá mức độ béo phì theo Tổ chức Y tế Thế giới

Loại BMI
Gầy < 18,5
Bình thường 18 – 24,9
Tăng cân 25 – 29,9
Béo phì Béo phì độ 1 30 – 34,9
Béo phì độ 2 35 – 39,9
Béo phì độ 3 ≥ 40

Phân loại chỉ số BMI theo kiểu cho nam nữ

Nam:
BMI < 20: người dưới cân
20 <= BMI < 25: người bình thường
25 <= BMI < 30: người quá cân
BMI > 30: người béo phì
Nữ
BMI < 18: người dưới cân
18 <= BMI < 23: người bình thường
23 <= BMI < 30: người quá cân
BMI > 30: người béo phì

Bảng chỉ số BMI đối chiếu với trẻ em

Bảng chỉ số BMI đối chiếu với trẻ em
Bảng chỉ số BMI đối chiếu với trẻ em

Béo phì là nguy cơ của nhiều bệnh rối loạn chuyển hóa như đái tháo đường, rối loạn lipid máu, xơ vữa động mạch, tăng huyết áp, thoái hóa khớp, ung thư…nên bạn hãy tìm cách giảm cân hay điều chỉnh cân nặng của mình hợp lý.

Tính chỉ số BMI để đánh giá mức độ béo phì của bạn
Tính chỉ số BMI để đánh giá mức độ béo phì của bạn

Chúc bạn có thể kiểm soát tốt cân nặng của mình để có sức khỏe tốt.

Sau đây là phần tính chỉ số BMI tự động của chúng tôi

Nhập cân nặng của bạn (kg):

Nhập chiều cao của bạn (m):

Chỉ số BMI của bạn:

Chữa mỡ máu cao bằng uống trà thường xuyên hiệu quả

Mỡ trong máu cao là một chứng bệnh thuộc về phạm trù chóng mặt, có đờm, tâm trạng buồn bực, tức ngực v.v… của đông y. Biểu hiện lâm sàng là những lúc hoa mắt, tức ngực, bụng đói thì chất mỡ trong máu (triglycreit và cholesterol) tăng cao (có những trường hợp biểu hiện lâm sàng không có chút triệu chứng nào). Bệnh có nguyên nhân bên ngoài là thường xuyên ăn những thức ăn có chứa nhiều chất béo, nguyên nhân bên trong là do suy yếu sức khỏe do tuổi già, hoặc do thận suy yếu dẫn đến âm dương không cân bằng. Bệnh này còn do gan thận hư tổn, đờm tích tụ dẫn đến những sự tắc nghẽn.

Những điều cần ghi nhớ về dưỡng sinh

Hàm lượng trà non trong lá trà rất cao nên tương đối tốt. Trà non có thể hấp thu dần dần vitamin C, đồng thời nâng cao tỷ lệ ứng dụng của nó, làm cho vitamin C có thể phát huy hiệu quả to lớn của mình. Vitamin C có thể di chuyển cholesterol từ mạch máu vào trong gan, sau đó tiếp tục chuyển hoá nó thành dịch mật, hình thành nên hạt dịch mật bài tiết qua đường tiêu hoá, từ đó làm giảm nồng độ chất béo có trong máu, đồng thời có tác dụng làm tăng tính dẻo dai của mạch máu, tính đàn hồi và làm giảm khả năng thẩm thấu.

Các loại trà nên sử dụng

  • Trà bảo vệ sức khỏe

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Đun sôi trà xanh, giảo cổ lam, cát căn và hãm uống.

Công dụng chữa trị: Hạ huyết áp, hạ mỡ trong máu, nâng cao khả năng miễn dịch của cơ thể.

Chú ý: Loại trà này phối hợp giữa giảo cổ lam và cát căn có thể dần dần làm tăng tuần hoàn máu.

Giảo cổ lam
Giảo cổ lam

  • Trà tam bảo

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Trà phổ nhĩ, hoa cúc, quả la hán với lượng đủ dùng, cho vào giã nát. Dùng 20 gam ngâm với nước nóng thành trà, uống nhiều lần.

Công dụng chữa trị: Thích hợp điều trị chứng cao huyết áp, mỡ cao trong máu, đồng thời có hiệu quả trong hạ huyết áp, giảm béo, tiêu trừ mỡ thừa.

Chú ý: Phổ nhĩ trà ôn vị, có hiệu quả đặc biệt rõ rệt trong giảm béo, giảm mỡ, phòng ngừa xơ vữa động mạch, phòng ngừa các bệnh về tim, giảm huyết áp, chống lão hoã, chống ung thư, hạ đường trong máu.

  • Trà sơn tra giảm béo

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: Sơn tra tươi, khô mỗi loại 7 gam; 9 gam trần bì sao khô, hồng trà với lượng đủ dùng. Cho tất cả các vị thuốc trên vào bình bảo ôn, thêm nước sôi đầy đến nửa bình, ngâm hãm trong khoảng hơn 10 phút. Uống nhiều lần thay trà, uống hết trong ngày.

Công dụng chữa trị: Tiêu thực, điều khí, giảm mỡ.

Chú ý: Phương trà này điều trị ăn quá nhiều chất béo, mỡ trong máu tương đối cao, kèm theo triệu chứng váng đầu, tức tức đầu, thườn thấy miệng có nhiều đờm, hoặc cơ thể hơi béo, bụng dạ khó chịu. Người dịch vị dạ dày quá nhiều, bị loét dạ dày không nên dùng. Phương trà này đã được kiểm nghiệm trong thực tế, nếu uống thường xuyên sẽ có hiệu quả rất lớn. Trong phương thuốc trên, sơn tra là vị thuốc chủ đạo, các nghiên cứu khoa học hiện đại cho thấy, nó có chứa axit của sơn tra, axit tửu thạch, axit chanh, xêton và các loại glucoxit có tác dụng làm giãn nở các mạch máu, hạ huyết áp, hạ mỡ máu, hỗ trợ tiêu hoá v.v… Trong cuốn “Bản thảo cương mục” có nói về tác dụng của sơn tra: “tiêu thực, tiêu thịt tích tụ”. Trong cuốn “Bản thảo thông huyền” có viết “Sơn tra vị ôn hoà, tiêu dầu mỡ (chỉ thịt động vật)” là rất có lý. Trần bì sao có tác dụng điều khí, có hiệu quả hỗ trợ tiêu hoá, bổ sung thêm tác dụng hỗ trợ tiêu hoá cho sơn tra. Hồng trà là loại trà xanh đã được lên men, có men axit gốc, là một loại thực phẩm rất tốt để hoà vị, tiêu thực, giải trừ tích tụ, kết hợp dùng với hai loại thuốc trên, càng đem lại hiệu quả tốt hơn.

  • Trà thủ ô

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 20-30 gam thủ ô, cho thêm nước sôi ngâm hãm trong 30 phút, chờ cho đến khi nước ấm thì bỏ ra uống thay trà, mỗi ngày 1 thang.

Công dụng chữa trị: Hà thủ ô có tác dụng hạ mỡ máu, giảm sự hình thành nghẽn mạch máu.

Chú ý: Theo báo cáo nghiên cứu lá trà của viện khoa học Trung Quốc, lá trà có chứa nhiều loại vitamin, protein, axit amin, tố chất trà non, cafein, lượng mỡ dư thừa nhiều đường. Ngoài ra còn có một báo cáo nữa phát hiện ra rằng, chúng ta có thể lấy thêm được rất nhiều loại nguyên tố vi lượng cần thiết cho cơ thể từ lá trà, như đồng, sắt, kẽm, cùng với một lượng lớn các nguyên tố khác như mangan, phôt pho, magiê, iốt v.v… Những người bị mỡ trong máu tăng cao, nếu thường xuyên uống trà hà thủ ô để điều trị sẽ thấy hiệu quả điều trị cực kỳ rõ rệt.

  • Trà giảm mỡ giảm béo

Phương pháp chữa bệnh bằng trà thuốc: 30 gam hà thủ ô tươi, 15 gam sơn tra tươi, 15 gam thảo quyết minh, 20 gam vỏ bí đao, 3 gam Trà Ô Long. Cho hà thủ ô và 3 vị ban đầu vào đun sôi, lọc bỏ bã, sau đó lấy nước ngâm hãm với trà Ô Long, lấy nước uống. Mỗi ngày làm 1 thang. Uống liên tục trong liệu trình điều trị, 2 tháng là một liệu trình. Thường thường, uống trong khoảng 3-5 là một liệu trình.

Công dụng chữa trị: Hạ mỡ máu, hoạt huyết, giảm áp, lợi tiểu.

Chú ý: Loại trà này có tác dụng giảm béo, cơ chế chủ yếu là bổ tỳ gan thận, điều chỉnh âm dương trong cơ thể cân bằng. Một nghiên cứu liên quan khác cho thấy, hà thủ ô có chứa lượng lớn axit hoàng căn, có thể tăng sự vận động của đường ruột, chống và giảm sự hấp thu của các chất béo trong đường ruột, cho nên có thể giảm mỡ béo được.

Sơn tra điều trị rối loạn lipid máu (mỡ máu cao)
Sơn tra điều trị rối loạn lipid máu (mỡ máu cao)

Những điều cần ghi nhớ

Chứng mỡ cao trong máu chủ yếu là phải phòng ngừa tốt, có thể tuân theo những chính sách dưới đây:

Thứ nhất là ăn uống hợp lý: Ăn uống hợp lý là nguyên lý cơ bản để điều trị bệnh mỡ cao trong máu, mỗi bệnh nhân mỡ cao trong máu nào, trước khi tiến hành điều trị, đều phải tiến hành điều trị bằng ăn uống. Chỉ khi điều trị bằng ăn uống không đem lại hiệu quả hoặc bệnh nhân không kiên nhẫn (thường điều trị từ nửa năm đến 1 năm), thì mới nên điều trị bằng thuốc, vì điều trị bằng ăn uống là cách điều trị hợp nhất với sinh lý của người bệnh. Bất kể loại thuốc giảm béo nào, ít nhiều cũng đều có tác dụng phụ, cho nên, khi điều trị bằng thuốc, cũng cần áp dụng biện pháp ăn uống hợp lý, nhẹ nhàng.

Thứ hai là vận động cơ thể hợp lý: Vận động, rèn luyện sức khỏe có thể tăng cường tiêu hoá, cải thiện trao đổi chất, phòng chống mỡ trong máu tăng cao, mỡ cơ thể tăng cao. Vận động có thể giúp hàm lượng mỡ cao trong máu có thể giảm xuống tới mức bình thường. Không chỉ có vậy, vận động có thể nâng cao chất protein chống oxi hoá động mạch có trong mạch máu – có chứa hàm lượng rất lớn chất protein chống mỡ (HDL), cải thiện chức năng của tim, tăng cường tuần hoàn tim, từ đó có tác dụng tốt trong phòng ngừa bệnh xơ vữa động mạch. Người cơ thể có sức khỏe tốt, không có bệnh về tim mạch, cần tiến hành vận động đều đặn, ví dụ như chạy dài, đạp xe đạp, bơi, đánh cầu lông, leo núi v.v… Nhưng những người bị bệnh về tim mạch, bệnh huyết áp cao hoặc đái đường v.v… không nên tiến hành thực hiện những loại vận động quá mạnh. Những loại này, cần vận động theo chỉ dẫn của thầy thuốc, căn cứ vào tình trạng bệnh mà tập những loại thể thao trị liệu, thái cực quyền v.v…

Thứ ba là điều trị hợp lý: Khi thực hiện những biện pháp điều trị trên rồi mà hiệu quả vẫn chưa tốt, thì cần bổ sung thêm những cách điều trị vật lý khác, ví dụ như tắm khoáng, trị liệu điện từ gan. Biện pháp trị liệu điện từ cho gan có thể điều chỉnh được rối loạn gan, từ đó làm cho mỡ trong máu trở nên bình thường.

Thứ tư là điều trị bằng thuốc: Đối với chứng bệnh mỡ máu lâu năm và nặng, có thể tiến hành điều trị bằng thuốc, hiện nay chưa có loai thuốc nào có thể giảm nhẹ được lượng mỡ trong máu một cách hợp lý theo sinh lý. Đa số lượng mỡ máu chỉ giảm trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng về lâu dài sẽ xuất hiện các tác dụng phụ. Cho nên, điều trị bằng thuốc là biện pháp bất đắc dĩ khi áp dụng cho những trường hợp bệnh nhân bị bệnh tim mạch mà trao đổi mỡ trong máu bị rối loạn, cho nên cần phải kết hợp điều trị với những biện pháp mà không dùng đến thuốc.

Viêm khớp dạng thấp – triệu chứng, tiêu chuẩn chẩn đoán

Trước đây một số bệnh khớp mạn tính như: viêm khớp, vẩy nến, gút, thoái hóa khớp, Viêm khớp dạng thấp…, đều gộp chung vào một bệnh gọi là viêm khớp mạn tính . Cũng giống như quan niệm của YHHĐ trước đây YHCT cũng xếp chung các bệnh này thuộc về chứng tý . Cùng với sự phát triển của y học, các bệnh khớp ngày càng được hiểu biết sâu sắc hơn về nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh và được tách ra thành các bệnh riêng biệt.

Tùy theo từng tác giả ở các giai đoạn cụ thể, bệnh Viêm khớp dạng thấp có các tên gọi khác nhau như: thấp khớp teo đét (sydenham, 1683), bệnh khớp Charcot (Charcot, 1853), viêm đa khớp mạn tính tiến triển PCE, PCP, thấp khớp mạn tính, dính và biến dạng, viêm đa khớp dạng thấp, và viêm khớp dạng thấp (Garrod, 1890) . Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều gọi bệnh này là viêm khớp dạng thấp để phân biệt với các bệnh khớp khác .

Tại Việt Nam ở Hội nghị toàn quốc lần thứ II về các bệnh thấp khớp (tháng 3 năm 1966 tại Đà Lạt), đã thống nhất tên gọi bệnh là Viêm khớp dạng thấp và được sử dụng chính thức trong giảng dạy và trong các y văn trong cả nước , .

Trước đây, có nhiều giả thuyết về nguyên nhân gây bệnh được đưa ra, gần đây người ta coi Viêm khớp dạng thấp là một bệnh tự miễn với sự tham gia của nhiều yếu tố:

+ Yếu tố cơ địa: Bệnh có liên quan rõ rệt đến giới tính và lứa tuổi. Tỷ lệ Viêm khớp dạng thấp chiếm 70 – 80% là nữ và ở tuổi trung niên chiếm 60 – 70% . Bệnh Viêm khớp dạng thấp thường xuất hiện hoặc nặng lên ở thời kỳ sau sinh đẻ, sau mãn kinh, chứng tỏ có vai trò của hormon giới tính .

+ Yếu tố di truyền: Từ lâu người ta đã nhận thấy bệnh Viêm khớp dạng thấp có tính chất gia đình. Trong những năm gần đây có nhiều công trình nghiên cứu nêu lên mối liên quan giữa bệnh Viêm khớp dạng thấp và yếu tố kháng nguyên phù hợp tổ chức HLA DR4 (ở bệnh nhân Viêm khớp dạng thấp thấy 60 – 70% mang yếu tố này, trong khi ở người bình thường có 30%) , . Các yếu tố thuận lợi khác: Đó là những yếu tố phát động bệnh như suy yếu, lạnh và ẩm kéo dài, phẫu thuật…, .

Tính đa dạng của Viêm khớp dạng thấp khiến cho việc nghiên cứu bệnh căn của bệnh khó khăn. Nguyên nhân dẫn tới bệnh sẽ khác nhau ở từng người. Các nghiên cứu gần đây cho thấy Viêm khớp dạng thấp không do căn nguyên riêng lẻ nào gây nên mà do nhiều yếu tố hướng khớp khác nhau, tác động vào những cá thể có sẵn những yếu tố về cơ địa hoặc di truyền thuận lợi mà gây thành bệnh , .

CƠ CHẾ BỆNH SINH VIÊM KHỚP DẠNG THẤP

Hiện nay nhiều công trình nghiên cứu đều thấy rằng cơ chế bệnh sinh của Viêm khớp dạng thấp có liên quan nhiều tới các yếu tố miễn dịch.

Có thể tóm tắt cơ chế bệnh sinh của Viêm khớp dạng thấp như sau:

– Dưới tác động của kháng nguyên, đầu tiên là các tế bào lym pho T được hoạt hóa (chủ yếu là TCD4) tiết ra cytokin . Các cytokin do tế bào T tiết ra gây các tác động chính là:

+ Hoạt hóa được thực bào tiết ra các cytokin khác gây kích thích các tế bào màng hoạt dịch, tế bào sụn, nguyên bào xơ tăng sinh xâm lấn vào sụn, tạo thành màng máu. Màng máu chính là màng hoạt dịch tăng sinh (panus), chứa một u hạt viêm giàu tế bào, các tế bào này tăng sinh theo kiểu đơn dòng xâm lấn và phá hủy sụn và xương .

+ Các cytokin do tế bào T tiết ra còn hoạt hóa tế bào B sản xuất ra các yếu tố thấp có bản chất là immunoglobulin, từ đó tạo ra các phức hợp miễn dịch lắng đọng tại khớp và gây tổn thương khớp.

+ Vai trò của Nitric oxide (NO): NO được sản xuất bởi mọi loại tế bào sau khi bị kích thích bằng các cytokines như interleukin 1, yếu tố hoại tử u. Nitric oxide cũng làm tăng sản xuất các gốc oxy tự do và gây các tác động xấu tới chức năng của tế bào sụn trong bệnh Viêm khớp dạng thấp.

– Vai trò của tế bào lym pho B: Tế bào B giữ vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của Viêm khớp dạng thấp: Tế bào B tiết ra các tự kháng thể và tự kích thích tăng sinh. Tế bào B còn tiết cytokin gây viêm và trình diện nhiều loại peptid mang tính kháng nguyên đến tế bào T, làm cho tế bào T hoạt hóa tiết các cytokin gây viêm tạo nên một vòng xoắn bệnh lý. Đây chính là cơ sở cho việc điều trị Viêm khớp dạng thấp nhằm đích tế bào B , .

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CHÍNH VỀ LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ CHẨN ĐOÁN BỆNH VIÊM KHỚP DẠNG THẤP

Triệu chứng lâm sàng Viêm khớp dạng thấp theo YHHĐ

Biểu hiện tại khớp

VKDT là một bệnh toàn thân có biểu hiện viêm mạn tính tại màng hoạt dịch khớp. Triệu chứng chủ yếu của bệnh là viêm mạn ở nhiều khớp ngoại biên với biểu hiện đặc trưng: sưng khớp, đau khớp đối xứng (98%), cứng khớp buổi sáng. Các khớp sưng đau là chủ yếu, ít nóng đỏ , .

Bệnh tiến triển từng đợt, xu hướng nặng dần lên. Sau các đợt viêm tiến triển các đầu xương và sụn khớp bị bào mòn dần, dẫn tới dính và biến dạng khớp, để lại hậu quả nặng nề với 90% tiến triển nặng và mất chức năng vận động trong vòng 20 năm . Các di chứng thường gặp là: bàn tay gió thổi, cổ tay hình lưng lạc đà, ngón tay hình cổ cò, ngón tay của người thợ thùa khuyết, khớp ngón gần hình thoi, đứt gân duỗi ngón tay (thường gặp ngón IV, V), gan bàn chân tròn, biến dạng ngón chân hình vuốt thú ..v..v… .

Biểu hiện toàn thân và ngoài khớp.

Đa số bệnh khởi phát từ từ, tăng dần, chỉ có khoảng 15% bắt đầu đột ngột với các dấu hiệu cấp tính. Ngoài biểu hiện chính tại khớp, người bệnh còn có các biểu hiện toàn thân (mệt mỏi, sốt, gầy sút)…; và tổn thương các cơ quan khác. Hạt dưới da: 10 – 20% (ở Việt Nam thường chỉ thấy khoảng 5%). Viêm mao mạch: hồng ban, rối loạn dinh dưỡng, rối loạn vận mạch, loét vô khuẩn, phù chi dưới, teo cơ quanh khớp, viêm gân…, .

Có thể có tổn thương nội tạng như: Tổn thương tim, phổi, hạch, lách to, viêm mống mắt, rối loạn thần kinh thực vật, thiếu máu nhược sắc, chèn ép thần kinh do viêm xơ dính phần mềm quanh khớp, nhiễm bột thận…

Cận lâm sàng

Các xét nghiệm miễn dịch

– Xét nghiệm tìm yếu tố dạng thấp RF (Rheumatoid factor):

Yếu tố dạng thấp RF là tên một tự kháng thể có tính đặc hiệu ở đoạn Fc của IgC, thường RF có mặt ở khoảng 75 – 80% bệnh nhân Viêm khớp dạng thấp trong quá trình bệnh. Sự xuất hiện của RF không hoàn toàn chỉ ở bệnh Viêm khớp dạng thấp mà có thể xuất hiện ở nhiều bệnh tự miễn khác như: Hội chứng Sjogren, Lupus ban đỏ hệ thống; trong nhiều bệnh nhiễm trùng mạn tính, cấp tính (viêm gan virus C, lao…). Thậm chí RF xuất hiện ở 3 – 5% người khỏe mạnh có hệ miễn dịch bình thường. Sau điều trị Viêm khớp dạng thấp, RF dương tính có thể thành RF âm tính.

Các xét nghiệm khác:

– Các xét nghiệm chứng tỏ có viêm khớp

Tốc độ máu lắng tăng, sợi huyết tăng, điện di protein: albumine giảm, gamma globuline tăng. Protein C phản ứng dương tính .

– Hình ảnh X quang:

Giai đoạn sớm: Viêm khớp dạng thấp có hình ảnh mất chất khoáng đầu xương cạnh khớp, có thể thấy hình hốc trong xương; hình bào mòn xương (hình khuyết nhỏ) ở rìa xương; khe khớp hẹp. Giai đoạn muộn: Hủy đầu xương dưới sụn, dính khớp, bán trật khớp, lệch trục khớp , .

Chẩn đoán Viêm khớp dạng thấp

Chẩn đoán xác định Viêm khớp dạng thấp

Năm 1958 Viện thấp khớp học Mỹ (American College of Rheumatology-ACR) đề ra tiêu chẩn đoán bệnh viêm khớp dạng thấp (ACR 1958) gồm 11 yếu tố dựa vào lâm sàng, X quang, mô bệnh học màng hoạt dịch và huyết thanh. Đến năm 1987, hội này đã thống nhất cải tiến tiêu chuẩn chẩn đoán gồm 7 yếu tố (ACR 1987) mà hiện nay vẫn được ứng dụng rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới. Ở Việt nam hiện nay chẩn đoán  Viêm khớp dạng thấp theo tiêu chuẩn chẩn đoán  áp dụng ở Việt Nam

– Nữ, tuổi trung niên.

– Viêm các khớp nhỏ ở 2 bàn tay, phối hợp với các khớp gối, cổ chân, khuỷu.

– Đối xứng.

– Dấu hiệu cứng khớp vào buổi sáng.

– Diễn biến kéo dài trên 2 tháng.

 Chẩn đoán phân biệt:

– Trong giai đoạn đầu cần phân biệt với: Thấp khớp cấp, viêm khớp phản ứng, hội chứng Reiter, gút cấp…..

– Trong giai đoạn sau cần phân biệt với các bệnh có viêm khớp như: Lupus ban đỏ, xơ cứng bì, thoái hóa khớp, gút mạn tính, hội chứng Piè rrer Marie…., .

Chẩn đoán đợt tiến triển của bệnh:

– Đánh giá đợt tiến triển theo lâm sàng :

Có ít nhất 3 khớp sưng và ít nhất một trong số 3 tiêu chí sau:

* Chỉ số Richie từ 9 điểm trở lên.

* Cứng khớp buổi sáng ít nhất 45 phút.

* Tốc độ máu lắng giờ đầu 28mm.

– Đánh giá đợt tiến triển theo công thức DAS (Disease activity score – DAS) :

+ DAS < 2,9 điểm: Bệnh không hoạt động.

+ 2,9  ≤ DAS  ≤ 3,2 điểm: mức độ hoạt động nhẹ.

+ 3,2 < DAS ≤ 5,1 điểm: mức độ hoạt động trung bình.

+ DAS > 5,1 điểm: mức độ hoạt động mạnh.

(Công thức tính DAS chúng tôi xin được trình bày ở phần phương pháp nghiên cứu).

Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ

1- Không nên coi thường việc nuôi con bằng sữa mẹ

Có những bà mẹ trẻ có rất nhiều sữa, nhưng lại đi học thói quen làm đẹp của người nước ngoài, không chịu cho con bú. Đó thật là một điều đáng tiếc.

Về mặt miễn dịch học, dinh dưỡng học, sinh lý và tâm lý học, sữa mẹ đều có công năng đặc biệt. Sữa mẹ có chất dinh dưỡng cao, có một tỷ lệ prôtêin, chất béo, chất đường rất cân đối, rất dễ hấp thu. Sữa mẹ còn có hàm lượng men giúp cho việc tiêu hoá và một số lớn chất kháng thể đề kháng bệnh tật. Trong sữa mẹ có hàm lượng lớn vitamin như vitamin D, E v.v…có thể thúc đẩy sự phát triển công năng của các cơ quan trong cơ thể hài nhi. Các chất khoáng trong sữa mẹ thì ngoài chất canxi là chính, còn có các chất kali, natri, phôtpho, chất sắt, chất cơlorine v.v… có thể điều tiết công năng sinh lý của trẻ. Sữa mẹ còn có thể kết hợp với chất quá mẫn ở trong ruột, cho nên có tác dụng chống lại sự quá mẫn cảm. Sữa mẹ không có vi khuẩn, nhiệt độ thích hợp, nuôi trẻ rất thuận tiện. Cho trẻ bú có thể thông qua sự phản xạ phân tiết trong thần kinh, giúp cho tử cung co lại, giảm bớt việc ra nhiều máu sau khi đẻ và cơ hội để sinh bệnh, do đó mà giúp cho người mẹ được khoẻ mạnh. Cũng nhờ bú sữa mẹ mà đứa con được sự âu yếm và chăm sóc nhiều hơn của người mẹ. Như vậy sẽ giúp cho việc phát triển trí lực và thể lực của đứa trẻ Về mặt phát triển tâm lý thì nuôi con bằng sữa mẹ cũng có tác dụng rất tốt. Cho nên chúng ta nên nuôi con bằng sữa mẹ.

Bú sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng cho con
Bú sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng cho con

2- Trường hợp nào không nên nuôi con bằng sữa mẹ

Nuôi con bằng sữa mẹ là việc rất nên đề xướng. Song có một số bà mẹ thì lại không nên cho con bú sữa của mình.

Những người mẹ bị bệnh lao phổi, bệnh viêm gan, bệnh kiết lỵ, bệnh thương hàn v.v… thì không nên cho con bú.

Người mẹ mắc những bệnh nặng như bệnh tim, bệnh viêm thận mãn tính, bệnh đái tháo đường và những bệnh mãn tính sút cân liên tục như bệnh ung thư v.v… thì không nên cho con bú.

Những người mẹ bị bệnh phiền muộn, bệnh thần kinh phân liệt nặng thì không nên cho con bú.

Những người mẹ đẻ con ra đã bị bệnh đường huyết bán nhũ hoặc bệnh trong nước tiểu có benzen xêtôn thì phải lập tức ngừng ngay việc cho con bú.

3- Trẻ thơ nào không nên bú sữa mẹ

Sữa mẹ tuy là thức ăn lý tưởng nhất của trẻ thơ, song có những trẻ lại không được bú sữa mẹ.

Những đứa trẻ có bệnh quá mẫn cảm, sau khi bú sữa mẹ thì sinh ra bệnh quá mẫn cảm. Những bệnh thường thấy là bệnh hoàng đàm, táo bón, biếng ăn, gày yếu, mệt mỏi, ăn không tiêu v.v… Những trẻ em bị sứt môi bẩm sinh, vì không ngậm được đầu vú của mẹ nên mất mất khả năng bú sữa mẹ.

4- Không nên bỏ sữa non

Có một số người bị ảnh hưởng của quan niệm cũ, cho rằng sau khi đẻ, những giọt sữa đầu tiên chảy ra là “ bẩn ”, hoặc cho rằng những giọt sữa đầu tiên rất loãng, không có giá trị dinh dưỡng, nên thường bỏ đi, như vậy thật là đáng tiếc.

Sữa non là chỉ những giọt sữa chảy ra trong 5 ngày sau khi đẻ. Sữa non không những không “ bẩn ”, mà còn có chất dinh dưỡng cao nhất, trong đó thành phần miễn dịch cao đến mức những giọt sữa sau này không thể nào sánh được. Qua kiểm nghiệm, người ta phát hiện ra rằng trong sữa non có 52,3% bạch tế bào trung tính, 39,7% phệ tế bào đơn hạt, 5,68% tiểu thể sữa non, 2,14% tế bào lâm ba. Tất cả những loại tế bào này đều có công năng miễn dịch nhất định, thích hợp với nhu cầu phát triển nhanh chóng của trẻ sơ sinh. Đặc biệt là trong sữa non hàm lượng lòng trắng trứng hạt miễn dịch và vi lượng nguyên tố kẽm nhiều nhất (ngày đầu tiên sau khi đẻ, sữa non có hàm lượng cao gấp 13,5 lần hàm lượng trong máu của người lớn). Chất lòng trắng trứng của hạt miễn dịch có tác dụng bảo vệ niêm mạc đường tiêu hoá và đường hô hấp đối với trẻ sơ sinh, có thể ngăn chặn vi trùng bệnh xâm nhập vào cơ thể trẻ, đề phòng trẻ sơ sinh khỏi bị đau bụng tiêu chảy, cảm cúm và viêm phế quản; những hạt nhân phát triển ở trong sữa non có thể thúc đẩy sự trưởng thành của dạ dày và ruột chóng thành thục, và có thể ngăn ngừa sự xâm nhập của những vật quá mẫn cảm từ bên ngoài vào. Sữa non còn có thể thúc đẩy phân su bài tiết ra ngoài, cũng như tiêu trừ hoàng đàm, có thể tránh được đầy bụng và hạch hoàng đàm có thể gây bệnh.

Thuốc Anakinra (Kineret) là gì?

Anakinra là gì?

Anakinra (Kineret) là một loại thuốc tổng hợp (nhân tạo), tiêm dưới da, là chất đối kháng thụ thể interleukin-1 (IL-1) ngăn chặn các tác động của interleukin-1 ở người. Nó được sử dụng trong điều trị viêm khớp dạng thấp.

Anakinra có sẵn dưới dạng thuốc generic không?
Không.

Tại sao anakinra được kê đơn cho bệnh nhân?

Anakinra được sử dụng để điều trị các dấu hiệu và triệu chứng của viêm khớp dạng thấp vừa đến nặng ở những người từ 18 tuổi trở lên. Đây không phải là loại thuốc điều trị đầu tay mà được sử dụng cho những người đã không đáp ứng với ít nhất một trong các thuốc điều trị biến đổi bệnh khác được sử dụng để điều trị viêm khớp dạng thấp. Nó có thể được sử dụng một mình hoặc kết hợp với các tác nhân khác, nhưng không nên sử dụng với các thuốc chặn yếu tố hoại tử khối u alpha như infliximab (Enbrel) và etanercept (Remicade). (Xem tương tác thuốc.)

Anakinra cũng được sử dụng để điều trị bệnh viêm đa hệ thống khởi phát ở trẻ sơ sinh (NOMID) do hội chứng chu kỳ liên quan cryopyrin (CAPS).

Tác dụng phụ của anakinra là gì?

Tác dụng phụ thường gặp nhất là các phản ứng tại vị trí tiêm, ví dụ như đỏ, sưng và đau.

Các tác dụng phụ nhẹ khác bao gồm:

  • Đau đầu
  • Triệu chứng giống như cảm cúm
  • Tiêu chảy
  • Buồn nôn

Tác dụng phụ nghiêm trọng nhất là tăng nguy cơ nhiễm trùng và giảm số lượng bạch cầu (neutropenia) và tiểu cầu.

Anakinra không nên được bắt đầu ở những người có nhiễm trùng hoạt động.

Nhiễm trùng xảy ra thường xuyên hơn khi anakinra được sử dụng kết hợp với các thuốc chặn yếu tố hoại tử khối u.

Liều lượng cho anakinra là gì?

  • Liều lượng anakinra cho viêm khớp dạng thấp là một mũi tiêm dưới da 100 mg hàng ngày.
  • Liều nên được tiêm vào khoảng cùng một thời điểm mỗi ngày.
  • Liều dùng để điều trị bệnh viêm đa hệ thống khởi phát ở trẻ sơ sinh (NOMID) là 1-2 mg/kg mỗi ngày, tối đa lên đến 8 mg/kg.

Những thuốc hoặc thực phẩm bổ sung nào tương tác với anakinra?

Anakinra không nên được kết hợp với các thuốc chặn yếu tố hoại tử khối u (TNF) alpha. Việc kết hợp anakinra với các thuốc chặn yếu tố hoại tử khối u như infliximab (Enbrel) và etanercept (Remicade) hoặc các thuốc khác làm giảm chức năng của hệ miễn dịch sẽ tăng nguy cơ nhiễm trùng nghiêm trọng.

Anakinra có an toàn khi sử dụng trong thời kỳ mang thai hoặc cho con bú không?

Anakinra chưa được nghiên cứu trên phụ nữ mang thai.

Chưa rõ liệu anakinra có được bài tiết qua sữa mẹ của các bà mẹ đang cho con bú hay không.

Những điều khác cần biết về anakinra:

  • Các dạng chuẩn bị của anakinra có sẵn: ống tiêm đã được làm đầy, 100 mg.
  • Anakinra nên được bảo quản trong tủ lạnh ở nhiệt độ từ 2°C đến 8°C (36°F đến 46°F).

Anakinra hoạt động như thế nào?

Anakinra ngăn chặn các tác động của interleukin-1 ở người và được sử dụng trong điều trị viêm khớp dạng thấp. IL-1 là một protein được sản xuất bởi nhiều tế bào trong cơ thể. Nó được tìm thấy với số lượng tăng lên trong các khớp bị viêm do viêm khớp. IL-1 gắn vào các thụ thể trên các mô bên trong và xung quanh các khớp cũng như trên các tế bào chịu trách nhiệm gây viêm, chẳng hạn như bạch cầu. Sự gắn kết của IL-1 kích hoạt các tế bào giải phóng các enzyme thúc đẩy viêm. Các enzyme này phá hủy sụn và xương, góp phần vào cơn đau và sưng tấy ở các khớp. Anakinra gắn vào thụ thể IL-1 và ngăn chặn IL-1 gắn vào thụ thể. Do đó, các tác động gây viêm và giải phóng enzyme của IL-1 được ngăn chặn và cơn đau cũng như sưng tấy ở các khớp được giảm bớt.

Khi nào anakinra được FDA phê duyệt?

Anakinra đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê duyệt vào tháng 11 năm 2001.

Tóm tắt

Anakinra (Kineret) là một loại thuốc được kê đơn để điều trị viêm khớp dạng thấp ở những người từ 18 tuổi trở lên và bệnh viêm đa hệ thống khởi phát ở trẻ sơ sinh (NOMID) do hội chứng chu kỳ liên quan cryopyrin (CAPS). Các tác dụng phụ, tương tác thuốc, liều lượng và thông tin an toàn trong thai kỳ nên được xem xét trước khi sử dụng loại thuốc này.